Bùi Văn Phú: Tín nhiệm hay không?

Bùi Văn Phú: Tín nhiệm hay không?

Bùi Văn Phú

18-11-2014

Quốc hội Việt Nam tuần qua đã bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo. Sau nhiều ngày bàn luận và chất vấn, 484 đại biểu đã đánh giá việc làm của 50 lãnh đạo từ Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội đến các bộ trưởng, thủ trưởng ban ngành.

Phiếu đánh giá có 3 chọn lựa: “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp”. Các đại biểu không có lựa chọn “không tín nhiệm” dành cho bất cứ lãnh đạo nào.

Kết quả, tất cả các lãnh đạo cao cấp đều nhận được đại đa số phiếu “tín nhiệm cao” hay “tín nhiệm” của các đại biểu.

Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đạt 380 phiếu tín nhiệm cao (78.51%) và 84 tín nhiệm (17.36%) trên tổng số 484 phiếu, tức 95.87% tín nhiệm cao và tín nhiệm cộng lại. Năm ngoái ông được tổng cộng 94.3%.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đạt 340 (70.25%) và 93 (19.21%), tổng cộng 89.46%. Năm ngoái ông được 94.92%.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đạt 320 (66.12%) và 96 (19.83%), tổng cộng 85.95%. Năm ngoái ông được 67.48%.

Ông Dũng có tiến bộ nhiều nhất so với năm ngoái và cả ba người đứng đầu nước năm nay đều đạt trên 85% tín nhiệm từ đại biểu quốc hội.

Trong kỳ bỏ phiếu này, một số quan chức bị nhiều phiếu “tín nhiệm thấp” là bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến với 192 phiếu tức 40%, bộ trưởng giáo dục Phạm Vũ Luận với 149 phiếu tức 31%.

Bà Tiến trong năm qua bị chỉ trích vì vụ việc thuốc tiêm chủng gây tử vong cho nhiều thiếu nhi. Ông Luận bị điểm xấu liên quan đến xuất bản sách giáo khoa, bằng cấp và tiến sĩ giấy trong ngành giáo dục. Tuy nhiên hai vị vẫn không từ chức.

Nhìn vào số phiếu, với mức tín nhiệm thấp là 40% và 31% thì bà Tiến và ông Luận vẫn còn được tín nhiệm cao và tín nhiệm ở mức 60% và 69%.

Như thế dù có dư luận bức xúc muốn họ từ chức thì không lãnh đạo nào làm thế vì quốc hội toàn là người của đảng. Đảng bố trí nhân sự lãnh đạo, cả quốc hội là người của đảng vẫn đồng ý tín nhiệm thì tại sao họ lại phải từ chức.

Nhìn chung, trừ một vài quan chức như bà Tiến hay ông Luận, còn lại 50 lãnh đạo các bộ, ban ngành đều được quốc hội tín nhiệm trên 70%. Một con số mơ ước cho lãnh đạo các quốc gia tự do dân chủ trên thế giới.

Vấn đề đặt ra là mức tín nhiệm các đại biểu dành cho lãnh đạo Việt Nam có phản ánh được lòng dân hay không?

Tổ chức chính trị và lãnh đạo nhà nước tại Việt Nam là cơ chế độc đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền cai trị đất nước, như ghi trong Điều 4 Hiến pháp.

Các ứng viên đại biểu quốc hội phải được cơ sở ngoại vi của Đảng Cộng sản là Mặt trận Tổ quốc đề cử. Rất ít người dám tự ứng cử vì làm thế sẽ bị sách nhiễu, trấn áp. Có hai ứng viên độc lập là luật sư Lê Quốc Quân và tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã rơi vào trường hợp như thế. Vì tự ra ứng cử và tham gia những hoạt động dân chủ, ông Vũ đã bị kết án nhiều năm tù và nay phải sống lưu vong ở Mỹ. Luật sư Quân hiện bị tù vì trốn thuế.

Lần bầu quốc hội mới nhất là năm 2011 có gần 900 ứng viên được Mặt trận Tổ quốc chấp thuận để tranh 500 ghế đại biểu.

Như thế, đại biểu quốc hội chỉ phản ánh ý của đảng viên Đảng Cộng sản. Việc bỏ phiếu tín nhiệm cao thấp cũng là vì quyền lợi của đảng và các phe nhóm trong đảng.

Trong các chế độ tự do dân chủ, như ở Thái Lan, Nhật, Ấn Độ hay ở Anh quốc, nếu thủ tướng, cũng là người đứng đầu một đảng, thấy không còn được sự ủng hộ trong quốc hội thì sẽ tuyên bố giải tán quốc hội để dân bầu chọn lại.

Khi đó, các đảng sẽ vận động cử tri để họ chọn người của đảng mình vào quốc hội. Đảng nào chiếm được đa số đại biểu sẽ chọn người làm thủ tướng để lãnh đạo đất nước.

Tại Hoa Kỳ, một nước theo chế độ tổng thống, đầu tháng này đã có bầu giữa nhiệm kỳ tổng thống. Hôm 4/11 cử tri Mỹ đã bầu chọn 36 trong tổng số 100 thượng nghị sĩ và toàn thể 435 hạ nghị sĩ ở cấp liên bang và hàng nghìn dân cử các cấp khác.

Thăm dò dư luận của Viện Gallup vào cuối tháng 10 cho thấy số người ủng hộ Tổng thống Barack Obama là 42%, số không ủng hộ là 53%.

Sự bất đồng của dân Mỹ đối với các chính sách của Tổng thống Obama phản ánh qua kết quả bầu cử vừa rồi.

Tại hạ viện, cộng hòa vẫn chiếm đa số và tăng lên đến 243/435. Tại thượng viện, cộng hòa đạt 52/100 giành luôn đa số đang do đảng dân chủ nắm giữ.

Trong hai năm tới, tổng thống và quốc hội sẽ phải làm việc sao cho được lòng dân. Nếu không những lá phiếu của cử tri lại làm thay đổi chính trường Mỹ trong kỳ bầu chọn năm 2016.

Sinh hoạt chính trị ở Nam Triều Tiên, Indonesia, Mexico, Philippines cũng thế, tổng thống và quốc hội được dân bầu lên qua các kỳ bầu cử với ứng viên của nhiều đảng.

Tại những quốc gia tự do dân chủ, tiếng nói của dân được phản ánh trong các cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.

Ở Việt Nam chưa có bầu cử đa đảng và quyền tự do phát biểu quan điểm chính trị còn bị đe dọa bởi những bản án tù.

Đơn giản nếu có ai thực hiện thăm dò ý kiến mức tín nhiệm của dân với lãnh đạo thì sẽ vào tù ngay. Năm ngoái, dịp quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên, nhà báo tự do Trương Duy Nhất đưa ra thăm dó ý kiến đánh giá lãnh đạo, trong đó có cả lựa chọn “không tín nhiệm”. Sau đó ông bị bắt giam và đầu năm nay bị kết án 2 năm tù vì “lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước” theo điều 258 luật hình sự.

Năm 2000, báo Tuổi Trẻ Xuân công bố một thăm dò dư luận xem ai là người được ái mộ. Kết quả Chủ tịch Hồ Chí Minh được điểm cao nhất, kế đến là Tướng Võ Nguyên Giáp, rồi đến Tổng thống Bill Clinton, Thủ tướng đương nhiệm Phan Văn Khải. Hệ lụy của việc thăm dò này là số báo xuân bị thu hồi và tổng biên tập bị kỷ luật.

Vì thế kết quả bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo của quốc hội Việt Nam tuần qua chỉ là hình thức để cho có vẻ dân chủ, chứng tỏ lãnh đạo có ít nhiều trách nhiệm với dân.

Trên thực tế, hiện nay người dân Việt vẫn chưa có quyền định đoạt tương lai chính trị của đất nước và thay đổi lãnh đạo quốc gia qua các cuộc bầu cử tự do, đa đảng.

Lãnh đạo có được tín nhiệm hay không, tất cả đều là sự sắp xếp trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bộ Chính trị và hai triệu đảng viên. Hơn 80 triệu người dân vẫn đứng bên ngoài.

© 2014 Buivanphu

Đừng Tìm Hạnh Phúc

Đừng Tìm Hạnh Phúc

Nếu hạnh phúc là thứ tìm có thể thấy thì có lẽ con người chẳng phải nếm mùi khổ đau nhiều như vậy . Nếu hạnh phúc là thứ ẩn nấp để cùng con người tham gia trò trốn tìm thì cuộc sống này liệu có còn thời gian cho yêu thương?
Vì thế, hãy dừng cuộc tìm kiếm hạnh phúc ấy lại bởi nó không phải là đích đến mà nó là thứ luôn hiện hữu song hành bên ta, chỉ vì ta quá bận rộn với cuộc sống bộn bề mà ta quên mất nó đấy thôi.

Hạnh phúc ở đâu ?

Hạnh phúc nằm ở đôi môi của bạn đấy.
Một đôi môi biết mỉm cười và biết nói lời yêu thương chính là cửa ngõ dẫn đến hạnh phúc an nhiên của con người.
Nếu bạn chỉ biết than vãn, chỉ biết oán trách những trớ trêu của cuộc đời, chỉ biết dùng lời nói để chê bai, mỉa mai, công kích người khác thì đừng hỏi “Vì sao tôi không thấy hạnh phúc”. Hãy nói về những yêu thương tốt đẹp, hãy mỉm cười với cuộc sống xung quanh, hãy dành những lời ngọt ngào cho những người bạn yêu quý và bạn sẽ thấy hạnh phúc nảy nở từ đôi môi.

Hạnh phúc nằm ở sự tha thứ.

Chẳng có ai ôm trong lòng mối hận thù mà cảm thấy vui vẻ và thoải mái cả. Có thể, họ đã làm tổn thương bạn, họ đã phản bội lòng tin và hằn trong lòng bạn một vết thương sâu hoắm và nhức nhối nhưng hãy đặt tay lên ngực mình và dặn với chính mình “Cuộc đời này vốn không đủ dài để yêu thương chỉ sao lại phí hoài nó cho hận thù”
Vì thế, bằng cách này hay cách khác, hãy quên đi những vết thương và quên đi người để lại vết thương ấy, bạn cho đi sự tha thứ cũng chính là cách bạn tự cho chính mình một món quà chứ đầy hạnh phúc và an nhiên.
Tôi không chắc chúng ta có thể lại tin, lại yêu người ấy như chưa có chuyện gì nhưng chỉ cần bản thân tha thứ được thì ta sẽ lại có thể mỉm cười khi giáp mặt nhau.
Như vậy, không phải sẽ tốt hơn sao.

Con đường hạnh phúc

Hạnh phúc nằm ở chữ Cho chứ không phải chữ Đòi.

Hãy cho đi những thứ bạn muốn nhận rồi cuộc đời sẽ trả lại cho bạn những điều mà bạn muốn, có thể nó không đến từ người bạn cần nhưng chắc chắn rằng trong dòng đời sau này, sẽ có người cho bạn lại những điều như thế.
Đừng đòi hỏi điều gì khi bản thân không làm được. Sự hụt hẫng khi điều mình muốn không được đáp lại rất dễ đẩy bạn vào hố sâu của thất vọng.
Vì thế, đừng tự giết cảm xúc của mình chỉ vì những đòi hỏi cho thỏa mãn cảm xúc của bản thân, hãy học cách cho đi thật nhiều, cuộc sống này, không để bạn chịu thiệt thòi đâu.

alt

Hạnh phúc là khi bạn biết Đủ.

Nói theo kiểu dân gian là “cái gì quá cũng không tốt”.
Yêu thương quá sinh ra gò bó, quan tâm quá sẽ khiến mất tự do, ghen tuông quá cũng mất vị tình yêu và cái gì cũng thế, chạm đến chữ Đủ sẽ chạm được hạnh phúc tròn vị.

Đừng chạy theo cái gì quá hoàn chỉnh và cũng đừng ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo, yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hơn.
Và hạnh phúc chẳng nằm ở đâu xa, nó nằm ngay trong trái tim của chính ta, khi bản thân chông chênh mệt mỏi, hãy đặt tay lên tim và tự nỏi “Rồi mọi thứ sẽ ổn”.
Khi nối buồn xâm chiếm tâm trí và cô đơn thống trị lấn át hạnh phúc, hãy tìm một khoảng không gian riêng với những bản nhạc ta yêu, những món ăn ta thích và tự nói với lòng “Hết hôm nay thôi nhé, ngày mai ta sẽ lại mỉm cười”.
Đừng gắng gượng, hãy đối diện và tìm cách giải tỏa nỗi buồn và mang hạnh phúc quay về.

Hạnh phúc của ta nên tự ta xây lấy, đừng chạy theo người khác để thỏa mãn lòng họ và mang về thứ hạnh phúc ảo sẽ chết theo thời gian.

Xin Được Tha Thứ!

Xin Được Tha Thứ!

Trong những năm 1944-1945 dân Roma khiếp sợ mỗi khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Ðức quốc xã đã từng giết hại không biết bao nhiêu mạng người.

Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử hình.

Anh viết thư cho Ðức Giáo Hoàng Piô 12 để xưng thú các tội ác mình đã phạm và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.

Ðức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù để gặp anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một tràng hạt mân côi.

Ðến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Ðức Giáo Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau: “Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Tòa án đã kết án con, điều này cũng rất công bình. Ðức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho con một bài học cao quý.  Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này”. Nói rồi anh bật khóc: “Con không dám động đến tràng hạt của Ðức Giáo Hoàng bằng đôi tay vấy máu của con.  Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con”.

Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ Maria…

Xin được tha thứ, đó là một trong những hành động vĩ đại nhất của con người…

Quỷ Satan đã có lần trách móc Thiên Chúa như sau: “Ngài không công bình.  Có biết bao nhiêu tội nhân đã làm điều ác.  Họ chỉ trở lại một đôi lần, nhưng lần nào Ngài cũng niềm nở tiếp đón họ.  Tôi chỉ có làm một điều bậy, tôi chỉ có phạm tội một lần, thế mà Ngài đã tuyên phạt tôi đời đời”.

Nghe thế, Thiên Chúa mới hỏi vặn lại Satan: “Thế ngươi có bao giờ mở miệng xin tha thứ và ăn năn sám hối chưa?”.

Mở miệng kêu xin tha thứ là bước lần đến ngưỡng cửa Thiên Ðàng.  Nhưng xin tha thứ cho chính mình thôi, chưa đủ, con người cần phải tha thứ cho người khác.  Cánh cửa Thiên Ðàng sẽ mở ra mỗi khi con người thành thực thứ lỗi cho người khác.

Nhận ra lầm lỗi của mình, kêu cầu sự tha thứ và tha thứ cho người khác: đó là đôi cánh Thiên Thần giúp con người bay lên tới Chúa.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

DI CHÚC

DI CHÚC

Rồi cũng có một ngày, bác sĩ sẽ nói với tôi rằng bộ não của tôi không còn khả năng hoạt động nữa, hay nói cách khác là cuộc đời tôi hầu như đã chấm dứt.

Khi điều đó xảy ra, xin đừng cố gán ghép một cuộc sống nhân tạo vào trong cơ thể tôi bằng tất cả những thứ máy móc đó.  Xin đừng gọi đó là “giây phút lâm chung” của cuộc đời tôi, mà hãy gọi đó là một khởi đầu của sự sống mới vì tôi sẽ góp tấm thân này để giúp những người khác có được một cuộc sống lành lặn hơn.

Hãy đem ánh sáng của tôi dâng tặng cho một người đàn ông chưa từng một lần nhìn thấy ánh nắng mặt trời, chưa bao giờ được thấy gương mặt dễ thương của trẻ thơ, và chưa từng nhìn thấy tình yêu trong đôi mắt của một người phụ nữ.

Hãy tặng trái tim của tôi cho một người luôn bị trái tim mình hành hạ bằng những cơn đau đớn triền miên.

Hãy truyền những giọt máu của tôi cho cậu bé đang thương tích đầy mình sau tai nạn giao thông kia để nó có thể sống cho tới ngày được nhìn thấy cháu chắt của mình.

Tôi sẽ hiến hai quả thận của mình cho những ai phải sống lần hồi qua ngày bằng chiếc máy chạy thận nhân tạo.

Hãy lấy xương của tôi, từng thớ thịt của tôi, và tất cả những sợi dây thần kinh này nữa nếu điều đó giúp cho những đứa trẻ tật nguyền có thể đi lại được.

Hãy nghiên cứu từng ngóc ngách trong bộ não của tôi.  Nếu cần thiết, hãy lấy cả các tế bào, đem phát triển chúng, thí nghiệm chúng để một ngày nào đó chúng có thể giúp cho một cậu bé câm có thể bật lên tiếng nói hay để một cô bé bị điếc có thể nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.

Nếu tôi có còn lại gì thì hãy đem thiêu tất cả rồi thả tro vào trong gió, biết đâu nhờ gió mang đi, chúng cũng giúp ích được gì cho những bông hoa xinh đẹp kia.

Nếu buộc phải đem chôn thứ gì đó của tôi, xin hãy chôn đi tất cả những tội lỗi, yếu kém, hay những định kiến mà tôi đã dành cho những người chung quanh.

Hãy đem tội lỗi của tôi đến cho quỷ dữ.  Đem linh hồn tôi đến cho Thượng đế.  Nếu như, dù chỉ tình cờ thôi, bạn muốn nhớ đến tôi, thì hãy thay tôi làm những điều tốt hay nói những lời yêu thương với những ai đang cần đến bạn.  Nếu bạn làm đúng tất cả những điều tôi đã dặn, thì tôi sẽ không bao giờ chết!

 

***********************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai

Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.

Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,

Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy

Thì con lại chưa làm gì cả.

Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,

Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.

Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình

Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?

Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa

Không biết Chúa có nhận ra con hay không,

Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

 

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,

Con xin Chúa sự khôn ngoan

Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại

Trong ân nghĩa của Chúa

Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,

Sẽ không như hai người xa lạ

Nhưng là hai người rất thân quen.

Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến

Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ.

QUỐC VỤ

Thiên này, đi sâu vào giảng giải: Cốt lõi của phép trị nước – Đó là, phải thương dân.

Người đứng đầu Đất Nước, phải lo toan cho Dân: Phải bảo vệ, quyền lợi hợp pháp của họ – Phải giúp họ, biến ước mơ, thành hiện thực – Không bao giờ, dồn họ, vào bước đường cùng – Không được bóc lột họ, 1 cách nặng nề – Làm cho Dân, có cuộc sống hạnh phúc – Không được chọc giận, để họ, nổi khùng lên.

Ở Việt nam, người thấu hiểu đạo lý này nhất, có lẽ, là Đức Thánh Trần. Trước lúc lâm chung, Cụ còn thiết tha, dặn lại vua Trần: “Khoan thư sức dân. Đó là kế, sâu rễ – bền gốc. Là thượng sách, để giữ nước”.

国务

文王问太公曰:愿闻为国之大务,欲使主尊民安,为之奈何? Văn vương vấn Thái công viết: “Nguyện văn vi quốc chi đại vụ. Dục sử chúa tôn, dân an, vi chi nại hà?”

Văn vương hỏi Thái công: “Xin Tiên sinh, giảng giải, những nét đại cương, về phép trị nước. Muốn Vua – Chúa, được dân chúng tôn trọng. Còn dân chúng, được an cư – lạc nghiệp. Ta phải làm thế nào?”

太公曰:爱民而已! Thái công viết: “Ái dân nhi dĩ”.

Thái công trả lời : “Đại vương, hãy yêu thương dân chúng của mình. Thế là đủ”.

Sông, có nguồn – Cây, có cội. Rừng, bị tàn phá. Sông, thiếu đi nguồn cung – tất kiệt. Đất, bị khô hạn và không được bón phân. Cây, không hút được dinh dưỡng – tất khô. Để có được, dòng sông nước đầy ăm ắp – Người ta, phải chăm sóc rừng đầu nguồn. Để có được, thân cây cường tráng – Người ta, phải chăm tưới nước và bón phân cho nó.

Tự cổ – chí kim, thể chế nào cũng phải, “Lấy Dân làm gốc”. Nhà nước nào sống được, cũng phải dựa vào Dân. Dân cung cấp sức người – sức của cho Nhà nước. Dân cung cấp nhiều, Nhà nước tất mạnh. Sức Dân kiệt, Nhà nước tất nguy. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, đó là cách, để bậc Đế vương, thể hiện Đức – Hạnh của mình. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, cũng là cách, để nuôi dưỡng nguồn thu. Nó giống như, chăm sóc rừng đầu nguồn – giống như, tưới nước và bón phân cho cây vậy.

Trong đám dân chúng: Người giàu, ví như, con suối lớn. Người tài, khác gì, thứ dinh dưỡng thượng hạng. Khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất mạnh. Không khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất suy.

Tưởng Giới Thạch, sau khi thăm Liên xô, ông nhận thấy: Những người CS, họ rất ghét người giàu và đố kị với người tài (2 động lực chủ yếu, để thúc đẩy sự phát triển của xã hội). Do đó, ông kiên quyết chống lại chủ trương: “liên Nga – liên cộng – phù trợ công nông” của Tôn Trung Sơn. Ông, lãnh đạo Trung hoa Dân quốc, theo cách riêng của mình. Sự phát triển vượt bậc của Đài loan và sự ì ạch của Trung hoa đại lục ngày nay, minh chứng, cho viễn kiến của ông.

Những người CS Việt nam, họ chủ trương: “Trí – Phú – Địa – Hào, đào tận gốc – trốc tận rễ”. Chẳng cần nói, ta cũng biết, tương lai “tươi sáng” của một chủ trương sai lầm.

文王曰:爱民奈何?Văn vương viết : “Ái dân nại hà?”

Văn vương hỏi: “Yêu dân, được đánh giá, theo những tiêu chí nào?”

太公曰:利而勿害, Thái công viết: “Lợi nhi vật hại”

Thái công trả lời: Hãy làm lợi cho dân và tiêu diệt sạch sẽ, những gì, có thể hại họ.

Vì quyền lợi của dân chúng, phải thanh lọc bộ máy lãnh đạo. Không để ở đó, những loại vô tài – thất đức. Chúng, chỉ giỏi hại Dân – hại Nước. Hãy chăm sóc môi trường, để người dân, không phải sống, trong cảnh ô nhiễm. Hãy kiểm soát gắt gao, để người dân, không phải dùng, thực phẩm độc hại. Hãy tạo ra quỹ nhà ở dồi dào, để ai cũng có thể, có nơi ăn – chốn ở tử tế. Hãy cải cách, để người dân, không bị, 1 rừng hủ tục hành chính hành hạ. Hãy thông thoáng luật – lệ, để người dân, có thể tự do làm ăn và thỏa sức sáng tạo. Hãy triệt bạo – ngược, để người dân, được sống, trong 1 xã hội thanh bình.

成而勿败. Thành nhi vật bại.

Tạo điều kiện, để người ta thành công. Đừng để người ta thất bại.

Giáo sư Ngô Bảo Châu, đã thành danh. Nhưng, đâu phải, trên quê hương của mình. Nếu, ở lại Việt nam: Ông, chắc gì, đã hơn Lê Bá Khánh Trình. Cũng lại, mòn đũng quần ở giảng đường. Tối – ngày, đi dạy thêm và tướt bơ, với ngày 2 bữa ăn. Sao, có thể, nên cơm – thành cháo được.

Trần Quốc Hải, đam mê, chế tạo trực thăng. Ông không được, nhà nước CS, động viên và khuyến khích. Họ ngăn cấm, thậm chí, giam cầm máy bay của ông. Thật chua xót, con dân Đất Việt, chỉ biết đến ông, nhờ người…Campuchia. “Nước bạn, kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ, bảo đảm kinh tế. Mình, chỉ cần, chuyên tâm sáng tạo”. So sánh, 2 Nhà nước, 2 cách đãi ngộ, ta sẽ hiểu: Tại sao, Campuchia, từng bước đuổi kịp và sẽ vượt Việt nam , trong 1 tương lai không xa. Campuchia, còn chưa chắc, đã ăn đứt được họ. Mơ làm gì, đến những chuyện cao sang. Tỉ như: “Dân tộc Việt nam, sẽ bước tới đài vinh quang,để sánh vai với các cường quốc 5 châu”.

生而勿杀. Sinh nhi vật sát.

Tạo điều kiện, cho người ta sinh tồn. Đừng triệt đường sống của họ.

Đừng cướp, ruộng đất của nông dân. Khiến họ, mất sạch tư liệu sản xuất. Mất tư liệu sản xuất, nông dân sẽ bị, dồn đến bước đường cùng. Bị, dồn đến bước đường cùng, dẫu chỉ có, cuốc – thuổng – gậy gộc – súng hoa cải, người ta, cũng không ngần ngại, mà nã thẳng vào đầu của nhà cầm quyền.

Thế gian, có 3 điều, không nên cưỡng ép:

Khẩu vị. Sư ông ăn chay. Nhưng, chẳng thấy sư nào, bắt đệ tử, không được ăn mặn.

Tình cảm. Con trẻ, nó thương yêu ai, hãy tôn trọng, sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu – ép mỡ. Ai nỡ ép duyên”.

Đức tin. Thế gian, có nhiều Tôn giáo. Tôn giáo nào, cũng tốt. Bởi, nó dạy con người ta, sống thiện. Hãy để, các Tôn giáo, sống hài hòa với nhau. Mình không thể, vì thích Phật giáo, mà bắt, tất cả mọi người, ai cũng phải thờ Phật và triệt, tất cả các tôn giáo còn lại. Mình không thể, vì thích lí tưởng CS, mà cưỡng ép toàn dân. Bắt họ, phải đi theo, cái lí tưởng ấy. Ai không theo, vu cho là phản động và tìm mọi cách để tiêu diệt.

与而勿夺. Dữ nhi vật đoạt.

Trong điều kiện có thể, hãy phổ thi ân huệ. Đừng tùy tiện, cưỡng đoạt.

Trên đời, bọn lục lâm – thảo khấu, chúng thường trương biển: “Đi cướp của nhà giàu, để chia cho người nghèo”. Vì, chúng còn biết ngượng, để che bớt đi, bản chất “đầu trộm – đuôi cướp”. Dẫu, thật sự, có chia của ăn cướp, cho người nghèo. Chúng, cũng khó mà được, sự ủng hộ của quần chúng. Trên cả bọn lục lâm – thảo khấu, là những băng đảng Mafia. Cướp được ruộng đất của Địa chủ. Chúng, chẳng hề, đem chia cho những người, cùng đi ăn cướp với chúng. Đã thế, đất đai – ruộng vườn – nhà cửa của họ, chúng lại trấn lột tiếp, để vơ hết cả vào lòng. Như thế, là táng tận lương tâm – là tận cùng của sự khốn nạn.

乐而勿苦. Lạc nhi vật khổ.

Làm cho người ta, an cư – lạc nghiệp. Đừng làm họ khổ.

Hạnh phúc, chỉ có ở những người: “Sáng, họ khát khao tới nơi làm việc.Vì, họ say mê, công việc của mình – Tối, họ khát khao trở về nhà. Vì, họ yêu quý, gia đình của mình”. Hãy giúp Dân: Để họ, có được 1 tổ ấm, đầy ắp tình thương. Con trẻ, được đến trường. Người già, ốm đau, được bệnh viện chăm sóc. Xã hội, an ninh và trật tự. Mọi người, ai cũng có, 1 công việc yêu thích và hợp với khả năng của mình. Nhà nhà Hạnh phúc, Đất nước, tự khắc bình yên.

Ai, đem Hạnh phúc, đến cho mọi người. Quần chúng, sẽ tôn trọng, biết ơn và ủng hộ người đó.

喜而勿怒. Hỉ nhi vật nộ.

Làm cho người ta vui vẻ. Thay vì, khích nộ họ.

Tôn Tử, có viết 1 câu, trong Binh pháp của mình: 故杀敌者,怒也. Cố sát địch giả, nộ dã (thiên Tác chiến). Nghĩa là: Muốn binh lính hết sợ và hăng say giết địch – Bằng mọi cách, phải làm cho họ tức giận.

Ai cũng biết: “No thì mất ngon – Giận thì mất khôn”. Quần chúng, ai chẳng sợ cường quyền. Bởi, ai cũng biết, thịt da nào, rắn bằng sắt – thép. Muốn làm Cách mạng, phải làm cho họ, hết sợ địch. Muốn, làm cho họ, hết sợ địch, không gì hiệu quả hơn, đó là khích nộ họ.

Còn gì, có thể ngu hơn, khi chính ta, khích nộ quần chúng. Để, họ coi thường và chẳng còn sợ ta nữa.

Mùa Xuân Ả Rập”, là 1 ví dụ. Nó được bắt đầu, bởi: Quan lại thì tham nhũng. Còn Cảnh sát, hống hách và ngược đãi dân lành. Mohamed Bouazizi, chỉ là 1 chàng trai, đi bán hàng rong, thật thà và chất phác. Ngọn lửa tự thiêu của Anh, thổi bùng lên, ngọn lửa căm giận của quần chúng, đối với chế độ độc tài. Quần chúng, vùng lên. Và ngọn lửa của “Mùa Xuân Ả Rập”, ít nhất, đã thiêu rụi 3 chế độ độc tài, tại Tunisia, tại Ai Cập và tại Libya.

Những người CS, nên nhìn vào những tấm gương ấy, mà chùn tay lại. Và nên, dõi mắt sang Miến điện, để học và làm theo cách của họ.

文王曰:敢请释其故! Văn vương viết: “Cảm thỉnh thích kì cố”.

Văn vương nói : “Xin Tiên sinh, giải thích từng mục”.

太公曰:民不失务则利之;农不失时则成之;省刑罚则生之;薄赋敛则与之. 俭宫室台榭则乐之,吏清不苛扰则喜之。Thái công viết: “Dân bất thất vụ, tắc lợi chi. Nông bất thất thời, tắc thành chi. Tỉnh hình phạt, tắc sinh chi. Bạc phú liễm, tắc dữ chi. Kiệm cung thất đài tạ, tắc lạc chi. Lại thanh, bất hà nhiễu, tắc hỉ chi”

Thái công trả lời: “Người dân, không lỡ vụ, họ sẽ được lợi. Nhà nông, không lỡ thời, thì bội thu. Giảm đi số tội danh, bớt đi phần hình phạt, đó là, mở cho dân, con đường sống. Nhẹ thuế – ít phí, là đã cho dân rồi. Bớt xây lâu đài – ít xây trụ sở, người dân, ắt mừng rỡ. Quan lại thanh liêm – không hà khắc – không nhũng nhiễu, dân chúng, mới được yên vui”

民失其务则害之;Dân thất kì vụ tắc hại chi

Doanh nghiệp, nhập nguyên – phụ liệu, để may quần áo mùa hè. Nếu, hành người ta, mà giữ lại. Hết hè, mới trả. Tuy hàng hóa, không bị hỏng hóc gì. Nhưng lỡ vụ, cũng có thể, khiến người ta sạt nghiệp.

农失其时则败之;Nông thất kì thời tắc bại chi.

Nhà nông, không được mưa thuận – gió hòa, mùa màng chắc thất thu.

无罪而罚则杀之. Vô tội nhi phạt tắc sát chi

Vô tội, mà vẫn bắt người ta vào tù. Sau đó, vì không có chứng cớ xác đáng. Nên, không dám, đưa ra xét xử công khai. Dấm dấm – dúi dúi, như lũ trộm đêm – như loài gián đất, sợ ánh sáng mặt trời. Trước tòa, lí luận, không lại được với người ta. Nên, phải dùng bài cùn: Che miệng bị cáo – Bịt mồm luật sư. Định án tùy tiện – Bất cần Luật pháp. Khiến người dân, hàm oan. Việc đó, quá bằng giết người ta.

重赋敛则夺之;Trọng phú liễm tắc đoạt chi.

Thuế và phí, chủng loại thì nhiều. Đã thế: Thuế – chồng lên thuế. Phí – chồng lên phí. Bóc lột dân chúng, 1 cách thậm tệ. Thế gian này, chỉ có lũ cướp ngày, chúng mới hung hăng và táo tợn, để làm như thế.

Hết tiền và có thể vỡ nợ, vào bất cứ lúc nào. Những người CS, chỉ có mỗi cách: tăng thuế. Trước mắt, họ sẽ tăng thuế, đánh vào rượu – bia – thuốc lá. Họ nại ra rằng: Các nước khác, thuế đánh vào những mặt hàng này, rất nặng. Theo logic ấy, tới đây, CS cũng sẽ phải giảm thuế xăng – dầu và ô tô, cho bằng với thông lệ của Quốc tế. Không làm được việc ấy, chứng tỏ: Tất cả lí do, mà họ đưa ra, đều chỉ là ngụy biện. Thực chất, họ đang cố tình, móc túi dân lành. Đâu phải, chỉ dừng lại, ở rượu – bia – thuốc lá. Tương lai, còn nhiều thứ, sẽ bị tăng thuế. Dân lành, sẽ có dịp, “thể hiện lòng yêu nước”, cho đến đồng xu cuối cùng. Chúng ta, hãy chờ xem.

多营宫室台榭以疲民力则苦之;Đa doanh cung thất, đài tạ dĩ bì dân lực tắc khổ chi

Thể chế, mà từ Vua – đến Quan, rặt 1 lũ “Mũi nhòm mồm”. Chúng, không chịu, lo làm – lo ăn. Chúng chỉ thích và đua nhau, xây thật nhiều Cung điện – xây thật nhiều Trụ sở – xây thật nhiều Nhà hát – bày ra thật nhiều, những cuộc vui chơi – tổ chức lia lịa, những “lễ kỉ niệm”. Để, ăn phần trăm và tiêu cho bằng sạch, những đồng tiền của Nhân dân. Chúng, ăn nhiều như thế – chơi nhiều như thế, còn đâu tiền, để xây bệnh viện cho Nhân dân – xây trường học cho con trẻ. Bà con, làm chi mà không khổ.

吏浊 苛扰则怒之. Lại trọc, hà nhiễu, tắc nộ chi

Quan lại hủ bại – hà khắc – nhũng nhiễu, thì dễ khích nộ dân chúng.

Thanh liêm, ai bằng ông Nông Đức Mạnh. Chính ông, phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương Đạo đức của Hồ Chí Minh”. Thanh liêm như thế, cho nên, ông chỉ đủ tiền, mua 1 mảnh đất hết sức lớn và xây được mỗi căn nhà, đẹp như mơ. Bên bờ Hồ Tây, thơ mộng. Đạo đức, ai bằng ông Nguyễn Trường Tô. Chính ông, lên án nghiêm khắc, ông thầy hủ bại Sầm Đức Xương. Bởi, Sầm Đức Xương tổ chức đường dây và cung cấp học sinh của mình: Cho chúng, đi ngủ với quan trên. Đạo đức như thế, cho nên, ông chỉ chơi có vài cô, trong đường dây này. Thế thôi.

Luật nào, hà khắc bằng luật CS. Chỉ vì trò đùa, giật mũ của các bạn gái, 4 thiếu niên, ở Tiên lãng – Hải phòng, phải chịu, tổng cộng 94 tháng tù giam. Trong khi, cũng tại huyện ấy,những kẻ, khiến Đoàn Văn Vươn, “nhà tan – cửa nát”, vẫn nhởn nhơ, ngoài vòng pháp luật.

Doanh nhân nước ngoài, họ ghét và sợ phải đưa hối lộ lắm. Ở nước họ, đấy là trọng tội. Sang Việt nam, “tùy gia – nhập tục”. Họ, cũng phải đưa hối lộ, cho yên thân. Nhưng, họ làm khéo đến mức, cơ quan Thanh tra của chúng ta, dẫu “Giỏi nhất Thế giới”, cũng chẳng thể, tìm cho ra, dấu vết của bất kì 1 vụ, đưa hối lộ nào. Những vụ, bị phát hiện, tất thảy, đều do nước ngoài, họ làm hộ. Người nước ngoài, được chúng ta “trải thảm đỏ – mời đến, để đầu tư”. Vậy mà, còn bị sách nhiễu, đến mức phải “nôn tiền”. Người trong nước, nói đến làm chi, cho thêm sầu lòng.

故善为国者,驭民如父母之爱子,如兄之爱弟. Cố thiện vi quốc giả, ngự dân như phụ mẫu chi ái tử, như huynh chi ái đệ

Giỏi trị nước, phải biết thương Dân. Phải chăm sóc họ : “Như cha mẹ, chăm lo cho đửa con cầu tự – Như người anh, chăm lo cho đứa em bé bỏng, thân thương của minh”.

Giỏi trị quân, phải biết thương lính. Ngô Khởi, là 1 danh tướng, thời Chiến Quốc. Ông, thương yêu lính lắm. Cùng ăn – cùng ở – cùng chia xẻ, những khó khăn – nhọc nhằn với họ. Chuyện kể, có lần, ông đưa miệng, hút mủ ở vết thương của 1 người lính. Mẹ người lính, được tin, khóc ngất. Bởi, bà biết: Ông, thương lính một– Lính, sẽ kính trọng ông mười. Với 1 đội quân cha – con như thế, con bà, sau này, ắt sẽ vì chủ tướng, mà chết. Nó chết, bà biết nương tựa vào ai. Thương con – thương mình, bà không khóc, sao được.

Giỏi kinh doanh, phải khắc sâu trong lòng “Khách hàng là Thượng đế”. Bởi khách hàng và chỉ có họ, mới quyết định, sự sống – chết của doanh nghiệp. Do đó, phải thương yêu và tận tụy chăm sóc họ.

见其饥寒则为之忧, Kiến kì cơ hàn tắc vi chi ưu,

Dân chúng đói rét, minh Quân, thấy ưu tư. Còn lũ hôn Quân, vẫn vô tư. Đi cứu trợ, cho bà con bị thiên tai: Vẫn thấy chúng, quần là – áo lượt và cười toe toét, trước ống kính truyền hình.

见其劳苦则为之悲. Kiến kì lao khổ tắc vi chi bi.

Thấy công nhân, làm nhiều – ăn ít, đến nỗi teo cả cơ. Phải thấy xót thương – phải thấy day dứt. Phải xuống tận nơi, bắt bọn chủ Tư bản, đảm bảo quyền lợi cho công nhân. Không làm được việc ấy, hãy cúi gầm mặt xuống. Đỗ Thị Minh Hạnh, thay mình làm việc ấy. Không cảm ơn và ủng hộ, thì thôi. Mặt mũi nào, mà tống cô ta, vào tù.

赏罚如加于身. Thưởng phạt như gia vu thân .

Khi đặt ra mức thưởng, phải nghĩ rằng, những người đến nhận, chính là con cháu của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không thưởng 320.000 VND (tương đương 15 USD), chia đều, cho 3 nhân viên Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức. Vì, họ đã dũng cảm, tố cáo vụ “Nhân bản phiếu xét nghiệm”.

Khi đặt ra mức phạt, phải nghĩ rằng, người chịu phạt, chính là bố mẹ của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không phạt 3 ông nông dân, tổng cộng 13 năm tù. Chỉ vì, họ ăn cắp, có 02 (hai) con vịt.

赋敛如取已物. Phú liễm như thủ kỉ vật

Muốn thu thuế và phí của dân , phải đặt mình, vào vị trí của họ. Người dân đóng thế nào, chính mình, cũng phải đóng như vậy. Người dân, bị hạch hỏi, từng đồng tiền mà họ kiếm được. Chính mình, cũng phải công khai, trả lời: Tiền đâu, mà cán bộ CS, ai cũng có nhà cao – cửa rộng. Con cháu họ, đứa nào, cũng được đi du học, ở phương trời Tây, xa vời.

Nghĩ được như thế, khi phạt Điếu cày – Lê Quốc Quân, mỗi người mấy năm tù, vì tội trốn thuế. Tất, phải sờ đến, ông Nông Đức Mạnh – ông Lê Khả Phiêu – ông Trần Văn Truyền … Với, khối tài sản nổi khổng lồ như thế, họ đã đóng, được bao nhiêu tiền thuế. Và, mức án nào, sẽ được dành cho họ?

此爱民之道也. Thử ái dân chi đạo dã

Thưa đại vương, đó là đạo ái dân. Là cốt lõi của phép trị Nước – an Dân.

Lời bàn

Chỉ có bậc minh Quân, mới có thể, hiểu được đạo Ái dân và vận dụng nó, 1 cách thành thạo. Chưa biết đến nó, nên ở lại nhà mình, để chăn gà, nấu cám heo và giặt giũ cho vợ. Chớ bén mảng, tới chốn quan trường. Ra đấy mà làm chi, cho Dân khổ – Nước suy. Ra đấy mà làm chi, cho mình thân bại – danh liệt. Đồng tiền kiếm được, chắc gì đã được tiêu. Nắm xương tàn, chắc gì, sẽ không bị quần chúng quật lên, để hạch tội.

Ở những thể chế Dân chủ: chính quyền, là của người Dândo ngườiDân bầu ra – Nhân Dân mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy Dân làm gốc”. Bởi thế, người Dân, luôn được thương yêu và quý trọng.

Những thể chế độc tài: chính quyền, là của 1 cái đảng nào đó – do dùng vũ lực mà cướp được – đương nhiên, nó phải vì cái đảng đó, mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy vũ lực làm gốc”. Bởi thế, lực lượng vũ trang, được cưng chiều. Quần chúng, chỉ được xếp ngang hàng, với nô lệ. Tâm tư – nguyện vọng của họ, không bao giờ, được nhà cầm quyền, đoái hoài. Rất dễ đoán biết, quần chúng, tin tưởng đến mức nào, đối với những thể chế này.

Viết đến đây, chợt nhớ lời, đại tướng CS Nguyễn Chí Thanh. Ông nói, thật chí lí: “Mất đất, chưa phải là mất nước. Chúng ta, chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lòng tin của dân, là có tất cả”. Hậu thế của ông, không làm được như vậy. Tình hình, rất tồi tệ, cho những người CS. Bằng chứng, chính ông cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đã phải thảng thốt kêu lên: “Bỏ điều 4, là tự sát”. Câu nói của ông Triết, buộc phải hiểu là: Nếu chấp nhận đa nguyên – đa đảng – bầu cử tự do và bình đẳng, vào ngay lúc này. Đảng CS Việt nam, sẽ bị Nhân dân Việt nam, phế bỏ ngay tức khắc.

Thông qua 1 ví dụ cụ thể, chúng ta hãy nhận chân, 2 cách ái Dân của 2 chế độ:

Cùng là lính, nhưng sinh mệnh của người lính Hoa kì, quý lắm. Họ, được đãi ngộ tốt, được bảo vệ và yểm trợ, đến mức tối đa. Họ chết, bằng mọi giá, chính phủ, cũng phải mang hài cốt của họ, về cho gia đình. Người chết, còn được đối xử như vậy. Người sống, nói đến làm gì.

Đối nghịch, là 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt nam, ở đảo Gạc ma. Các Anh được lệnh, đứng yên, làm bia sống, cho lũ Trung cộng điên cuồng, xả súng giết hại. Đảng CS và nhà nước Việt nam, biết rất rõ, địa điểm hi sinh của các Anh, trên đất nước mình. Nhưng, hài cốt của các Anh, đâu đã được, đưa về cho người thân, cho gia đình và yên nghỉ nơi Đất Mẹ.

Không biết, do Việt cộng chủ trương: Xong việc rồi, không cần đến các Anh nữa, nên không tính chuyện, đưa các Anh về. Hay, do Trung cộng, chúng vô nhân đạo, nên không chịu trả lại, hài cốt các Anh. Những người CS, nên nhớ câu này:

Thương dân, dân lập đền thờ

Hại dân, dân đái ngập mồ, thối xương

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

Xin xem lại các bài trước:

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó (Bài mở đầu)

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Chấn hưng dân trí: Những nết xấu nổi tiếng của người Việt Nam trong con mắt bạn bè nước ngoài

Chấn hưng dân trí: Những nết xấu nổi tiếng của người Việt Nam trong con mắt bạn bè nước ngoài

Vũ Cao Đàm

Tôi có nhiều cơ hội cộng tác với các bạn làm công tác nghiên cứu người nước ngoài. Đến đâu tôi cũng tận dụng mọi cơ hội để hỏi bạn bè các nước, họ nghĩ gì về người Việt Nam chúng ta, cả nết xấu và nết tốt, bất kể đó là câu chuyện quanh bàn cà-phê, những cuộc tán gẫu và những câu chuyện nhàn đàm sau các buổi làm việc căng thẳng.

Qua các câu chuyện góp nhặt tản mạn, những ý nghĩ đọng lại trong đầu tôi khá ấn tượng, và thường tập trung vào một số nết xấu và nết tốt mà chúng ta vẫn thường nghe và đọc được trên công luận.

Trong tất cả các cuộc trao đổi phi chính thức đó, ấn tượng nhất là ba tháng tôi làm việc ở Úc hồi năm 2011. Tôi muốn ghi nhận vắn tắt vài dòng, gọi là để góp phần cho các nhà nghiên cứu xã hội bàn về chấn hưng dân trí.

Tôi có được một vài dịp ngồi với các chuyên viên nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp. Sau một vài lần làm việc đã có quan hệ khá thân tình, tôi hỏi họ, “Các chủ doanh nghiệp Úc có thuê nhân công người nước ngoài không”? Họ trả lời là “Có”. Tôi hỏi “Các ông đã thuê những lao động người nước nào”, thì họ cho biết là “Đã thuê người từ một số quốc gia, trong đó, nhiều nhất là người da đen và người Việt Nam”. Tôi hỏi họ “Người da đen thuộc những nước nào”, thì họ không phân chia tách bạch, mà chỉ nói chung chung, gộp thành một nhóm, là “người da đen”.

Khi tôi hỏi họ nhìn nhận về những nết xấu và nết tốt của những người lao động các nước, thì tôi được nghe họ nói rất nhiều thứ, nhưng chỉ xin ghi lại vài nết xấu khá ấn tượng để chúng ta cùng suy nghĩ về con đường nâng cao dân trí.

Tôi hỏi các bạn Úc những đặc điểm của lao động Việt Nam so với các dân lao động khác mà những người sử dụng lao động Úc đã tiếp xúc. Chẳng hạn, tôi hỏi họ “Các ông thích nhất loại người nào”. Họ trả lời “Thích nhất những người lao động da đen”. Tôi hỏi “Vì sao thích người lao động da đen”. Tôi được nghe trả lời không một phút đắn đo, có hai lý do để họ thích: (1) Làm việc rất có năng suất; và (2) Lao động rất có kỷ luật. Tôi hỏi tiếp “Các ông trả công thế nào?”. Được trả lời “10 Đôla Úc một giờ”

Tôi hỏi họ “Các ông ghét nhất là lao động người nước nào”. Tôi đắn đo, định sử dụng động từ “Không thích” (To dislike), nhưng sau tôi quyết định dùng hẳn động từ từ “Ghét” (To hate) Trả lời cũng không đắn đo: “Việt Nam”. Tôi hỏi “Vì sao”. Cũng được nghe trả lời không chút đắn đo, là có bốn lý do để họ ghét, xếp theo thứ tự về mức độ nghiêm trọng tăng dần như sau:

1) Hay đi làm trễ giờ

2) Hay nói dối

3) Hay vi phạm các cam kết, và

4) Hay ăn cắp vặt.

Tôi hỏi tiếp, với người lao động Việt Nam, ông trả công bao nhiêu. Được nghe trả lời “Tối đa tôi cũng chỉ trả đến 7 Đôla Úc một giờ”

Tôi hỏi thêm: “Người lao động Việt Nam có hay gây gổ không?”. Họ trả lời khá thú vị: Những người lao động thuộc diện thuyền nhân vượt biên từ Miền Bắc sau 1975 thì hay gây gổ. Và nói thêm: “Và tối ngày la cà các sòng đánh bạc tự động, cá cược bóng đá và các quán bia… Kiếm được bao nhiêu tiền, hình như họ ném vào đây hết”. Số người này đã luống tuổi, nhưng vẫn còn giữ máu gây gổ. Những người lao động Việt Nam hiện nay khá trẻ, chủ yếu thuộc diện sinh viên, học sinh du học, kết hợp đi làm thêm, hoặc bỏ học đi làm.

Những nét xấu nói trên, tôi đã được nghe khá nhiều từ các nhà nghiên cứu ở những quốc gia có nhiều người lao động Việt Nam làm việc, đặc biệt là ở Nga, ở Đức, ở Nhật, nhưng chưa ở đâu tôi được nghe tổng kết có hệ thống như trong câu chuyện với một bạn nghiên cứu người Úc vừa nêu trên đây.

*

Hiện nay tôi vẫn có một số giờ lên lớp cho nhiều loại đối tượng người học rất khác nhau: sinh viên chính quy, sinh viên tại chức, cao học, nghiên cứu sinh, học viên các lớp tập huấn theo một số chuyên đề nào đó, tôi nhận ra các nết xấu của người lao động Việt Nam mà tôi nghe được từ các bạn bè nước ngoài là quá chuẩn xác.

Nhiều bài viết còn nói đến tâm lý “tự hào” về những nết xấu đó. Chẳng hạn, một lần tôi đọc trên mạng câu chuyện khoe thành tích ăn cắp đầy hãnh diện trong một vụ việc gì đó[1].

Các nhà chức trách nghĩ gì về việc nâng cao cái dân trí cho người lao động Việt Nam, và làm sao cải thiện được chất cái ta vẫn gọi là “Nguồn nhân lực” cho phát triển đất nước?

V.C.Đ.

Thánh nhân và quá khứ tội lỗi

Thánh nhân và quá khứ tội lỗi

Chuacuuthe.com

Monica-8-27

VRNs (18.11.2014) – Sài Gòn – Trước mặt Thiên Chúa chí thánh, chẳng có ai nhân lành, “chỉ một mình Thiên Chúa nhân lành” (Mc 10:18). Ngoài ra, ai cũng lần mò tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Các thánh là những “anh hùng đức tin”. Mỗi nhà mỗi hoa, mỗi người mỗi cảnh, và về con đường nên thánh cũng vậy, mỗi người mỗi cách. Có các vị thánh sống đạo đức từ nhỏ, nhưng cũng có các thánh đã từng sống tội lỗi một thời, nhưng rồi họ đã hoán cải và họ đã nên thánh. Đừng nản chí, thất vọng, hãy tin tưởng và cố gắng để nên thánh bằng cách vươn lên từ đống xà bần tội lỗi!

Thánh Augustinô: Ăn chơi phóng đãng

Chẳng ai “xa lạ” với vị thánh đã từng “ngang ngược” này. Có thể nói rằng Thánh Augustinô (354-430) là người “nổi tiếng” nhất về quá khứ tội lỗi, nhưng “phúc đức tại mẫu”, ngài có được người mẹ đạo đức là Thánh Monica. Thánh Augustinô giỏi giang, thông minh, nhưng từ bỏ sự giáo dục Kitô giáo để sống buông tuồng, ăn chơi trụy lạc, có con ngoại hôn với một phụ nữ trẻ, nhưng lại kết hôn với một phụ nữ giàu sang, vì phụ nữ này có của hồi môn. Nhờ người mẹ kiên trì cầu nguyện, theo con tới mọi nơi, và người mẹ đã được Thiên Chúa cho mãn nguyện. Augustinô đã hoán cải, trở thành linh mục, rồi làm giám mục GP Hippo. Ngài viết cuốn “Confessions” (Tự Thuật hoặc Tự Thú) nổi tiếng cho tới ngày nay. Ngài đã từng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho con đức khiết tịnh, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Và ngài hối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Với kinh nghiệm bản thân, Thánh Augustinô nhận định: “Không thành nhân nào không có quá khứ, không tội nhân nào không có tương lai”. Thánh Augustinô được Giáo hội tôn phong là tiến sĩ Giáo hội và là bổn mạng của “dân ăn chơi” (vì ngài đã từng ăn chơi xả láng), lễ ngày 28 tháng Tám.

Thánh Maria Ai Cập: Gái điếm nổi tiếng

Thánh nữ Maria (344-421) làm gái mại dâm từ lúc mới 12 tuổi, và “hành nghề” này 17 năm. Một lần hành hương tới Giêrusalem dịp lễ Suy Tôn Thánh Giá. Thật ra bà không có ý tốt, mà chỉ muốn đi với đoàn hành hương để kiếm khách thôi. Nhưng rồi bà đã hoán cải khi thấy Thánh tích Thánh Giá mà đoàn hành hương kính viếng. Khi đó, bà muốn vào nhà thờ nhưng người quá đông, và có sức mạnh bí ẩn giữ chân bà ở ngoài nhà thờ. Nhìn thấy tượng Đức Mẹ, bà xin ơn tha thứ và hứa từ bỏ cuộc sống tội lỗi nếu bà vào được trong nhà thờ. Và bà đã vào được, từ đó bà quyết tâm trở về với Chúa. Bà sống ẩn dật, ăn chay, hãm mình và cầu nguyện suốt 47 năm. Thánh Maria Ai Cập là bổn mạng của những người chống lại cám dỗ về tình dục, lễ ngày 1 tháng Tư.

Thánh Angela Foligno: Kiêu ngạo và ngoại tình

Thánh Angela (1248-1309) được ghi tên vào sổ bộ các thánh năm 2013, không cần qua các thủ tục thông thường. Bà sinh tại Foligno, miền Trung Ý, không xa Assisi. Cuộc đời bà luôn đi tìm sự giàu sang, vật chất và niềm vui. Bà sinh trưởng trong một gia đình giàu có, kết hôn với người thượng lưu, có vài đứa con. Lúc 40 tuổi, dù giàu có nhưng bà cảm thấy cuộc sống trống rỗng, nên bà quyết tâm tu thân tích đức. Ba năm sau, chồng và các con đều chết hết, bà bán hết gia sản và gia nhập Dòng Ba Phanxicô. Bà thành lập một nhóm phụ nữ làm từ thiện và phục vụ người nghèo. Thánh Angela là bổn mạng các bà góa, lễ ngày 8 tháng Một.

Chân phước Bartolo Longo: Linh mục của quỷ

Sinh trưởng trong một gia đình Công giáo đạo đức, Bartolo Longo (1841-1926) vẫn lần Chuỗi Mân Côi với gia đình mỗi buổi tối. Nhưng tuổi trẻ ham vui, ngài xa rời đức tin trong những năm học đại học. Ngài quan tâm những điều huyền bí nên đã trở thành linh mục của giáo phái Satanist (tôn thờ ma quỷ). Gia đình và bạn bè luôn cầu nguyện cho Bartolo trở lại, và Thiên Chúa đã nhậm lời họ. Để chấn chỉnh đời sống tội lỗi, Bartolo xin gia nhập Dòng Ba Đa-minh và giúp các sinh viên nhận biết cái xấu của giáo phái này mà tránh, đồng thời mở các trại mồ côi, trường học và viện tế bần.

Hồi trẻ, Bartolo theo ngành Luật, bỏ đức tin và theo giáo phái Satanist. Bartolo nhiệt thành đến mức tự phong mình là linh mục của Satan. Ông hầu như đánh mất chính mình, chỉ còn như chiếc bóng của mình. Một người bạn Công giáo thấy ông đáng thương về tâm linh, tâm lý và thể lý, đã xin ông đến gặp Lm Radente, một tu sĩ khôn ngoan của Dòng Đa-minh. Sau một thời gian, Bartolo đã xưng thú tội lỗi và được linh mục này linh hướng. Bartolo hoán cải, gia nhập Dòng Ba Đa-minh, lấy tên là Brother Rosario.

CP Bartolo viết: “Ơn gọi của tôi là gì? Viết về Đức Mẹ, ca tụng Đức Mẹ, yêu mến Đức Mẹ”. CP Bartolo đến với người nghèo, người bị bỏ rơi, và người khốn khổ nhất trong thành phố Pompei. Ngài dạy họ cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi. Nhờ sự giúp đỡ của nữ bá tước Countess Mariana de Fusco, Bartolo đảm nhận việc xây Đền thờ Đức Mẹ Mân Côi tại Pompei. Và rồi thành phố này đã trở nên Thành Phố Kinh Mân Côi.

Thấy các nữ tu Dòng Đa-minh chăm sóc người nghèo, CP Bartolo đã mở trường cho các em trai. CP Bartolo viết rất nhiều để ca tụng Đức Mẹ Mân Côi. Lời cầu nguyện của CP Bartolo với Đức Mẹ Mân Côi đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Ngày 7-10-2003, khi đến Pompei để bế mạc Năm Mân Côi, ĐGH Gioan Phaolô đã dùng lời cầu nguyện của CP Bartolo. Tại Ý, hằng năm vào Chúa Nhật đầu tiên của tháng Mười, mọi hoạt động như tạm ngưng vào buổi trưa, mọi người già hoặc trẻ, giàu hoặc nghèo, khỏe mạnh hoặc đau yếu, đều dùng lời cầu nguyện của CP Bartolo để dâng lên Đức Mẹ Mân Côi. CP Bartolo qua đời ngày 5-10-1926, trong Tháng Mân Côi.

Trong lễ tuyên chân phước cho Tông Đồ Kinh Mân Côi Bartolo tại Longo năm 1980, ĐGH Gioan Phaolô II đã gọi ngài là “l’uomo della Madonna” (Người của Đức Mẹ) và nói: “Tay cầm Chuỗi Mân Côi, CP Bartolo muốn nói với chúng ta rằng: Hãy đánh thức niềm tin của chúng ta vào Đức Mẹ”. Lễ CP Bartolo Longo ngày 5 tháng Mười.

TRẦM THIÊN THU

ĐTC: Con người phải đặt ở vị trí trung tâm chứ không phải tiền bạc

ĐTC: Con người phải đặt ở vị trí trung tâm chứ không phải tiền bạc

Chuacuuthe.com 1

VRNs (17.11.2014) Sài Gòn- theo zenit- Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng để công việc, nghề nghiệp trên thế giới được thăng tiến người ta phải dựa trên Lời Chúa và phải biết thường xuyên cầu nguyện.

Đó là lời phát biểu của ĐTC hôm 14.11 nhân dịp Đại hội các nhà kinh tế thế giới hàng năm tại Rome. ĐTC nhắn nhủ họ rằng có một “cám dỗ lớn” là hay đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích chung.

ĐTC nhắc họ nghĩ đến một thực tế của những người thất nghiệp: “Theo điều tra mang tính chuyên môn, các bạn đã thấy rõ một thực tế là hiện nay có rất nhiều người công việc bấp bênh, và số khác thất nghiệp; nhiều người trẻ vất vả tìm việc”.

Đức Thánh Cha mời gọi các chuyên gia kinh tế rằng hãy đặt lợi ích chung của mọi người trên lợi ích riêng của mình.

Điều này “Đòi buộc nơi tất cả mọi người”, đặc biệt là những người làm việc trong các lĩnh vực kinh tế tài chính”, nhằm đóng góp một cách tích cực trong vai trò xây dựng cuộc sống hằng ngày, dẫu biết rằng có những điều lệ, lịch sử và khuôn mặt riêng.”

Để làm điều này, cần phải có đời sống cầu nguyện và sống Lời Chúa đồng thời phải biết “đi ra” gặp gỡ và giúp đỡ những người nghèo, người bị bỏ rơi.

Chống lại cách sống thực dụng

ĐTC nói rằng nền kinh tế và tài chính là những chiều kích hoạt động của con người, và là những cơ hội để “gặp gỡ, đối thoại, hợp tác, nhận ra những giá trị chân thật, phục vụ không đòi đền đáp và thăng tiến phẩm giá công việc.” ĐTC nhấn mạnh rằng nhân phẩm con người phải được ở trung tâm chứ không phải là tiền bạc.

Tiền không thể trở thành cứu cánh và nguyên do cho mọi hoạt động.

Nếu để tiền bạc làm cứu cánh thì người ta sẽ sống “thực dụng”, và không còn “tôn trọng con người”, hậu quả dẫn đến “sự sụp đổ sâu rộng các giá trị như sự đoàn kết và tôn trọng người khác.”

ĐTC khuyến khích các chuyên gia kinh tế hãy có “sự lựa chọn để thúc đẩy kinh tế và phúc lợi xã hội cho toàn thể nhân loại, giúp tất cả mọi người có cơ hội phát triển khả năng riêng của mình.”

ĐTC kêu gọi họ luôn có trách nhiệm trong hành động, thúc đẩy các mối quan hệ tốt đẹp, nuôi dưỡng lòng trung thành, công lý và tình huynh đệ, để giúp “giải quyết các vấn đề nơi người nghèo với lòng can đảm đặc biệt.”

ĐTC nói thêm: “vấn đề chính không phải là giải quyết hết được các thách đố về kinh tế nhưng làm sao khơi lên và nuôi dưỡng một nền đạo đức trong kinh tế, tài chính và công việc. Cần thiết để gìn giữ các giá trị của tình đoàn kết qua việc thể hiện lưu tâm đến các nhu cầu của người khác.”

ĐTC nói: “Nếu chúng ta muốn trao tặng cho thế hệ tương lai một môi trường cải thiện, một di sản kinh tế, văn hóa và xã hội tốt đẹp thì chúng ta phải đồng trách nhiệm làm việc có tính toàn cầu hóa trong tinh thần đoàn kết.”

Hoàng Minh

Chẳng làm được gì?

Chẳng làm được gì?

Nguyễn Hưng Quốc

Tôi gặp một số trí thức, thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, từ Việt Nam sang Úc công tác hoặc thăm gia đình. Nói chuyện với họ, tôi phát hiện ra một điểm chung: Một mặt, họ biết tất cả những những gì chúng ta biết; mặt khác, họ lại từ chối bất cứ hình thức dấn thân nào. Họ biết, chẳng hạn, về kinh tế, Việt Nam đang ngập ngụa trong nợ nần; về xã hội, mọi giá trị đều đảo lộn; về giáo dục, đầy dẫy những sai lầm; về giới lãnh đạo, vừa tham nhũng vừa bất lực; bất lực trên nhiều phương diện, nhưng nguy hiểm nhất là bất lực trong việc đối đầu với âm mưu bành trường của Trung Quốc. Họ biết hết. Nhưng tất cả đều chọn thái độ thụ động và bất động, thậm chí, mặc kệ. Lý do? Thứ nhất, họ cho đó là chuyện chính trị, mà chính trị thì thuộc về chính phủ, chứ không phải bổn phận của họ. Thứ hai, nếu họ lên tiếng phản đối thì cũng chẳng thay đổi được gì. Và thứ ba, nếu họ có thể gây áp lực lên chính phủ Việt Nam thì chính phủ cũng không thay đổi được gì, vì, một là, tình hình Việt Nam rất bế tắc; và hai, không ai có thể chống lại được Trung Quốc.

Nghe những ý kiến như vậy, từ nhiều người, tôi vừa ngạc nhiên vừa buồn rầu. Ngạc nhiên vì không hiểu tại sao nhận thức của họ lại hời hợt và thái độ của họ lại vô cảm đến như vậy. Buồn rầu vì tôi cho đó là một sự sa đoạ về trí thức, một sự từ khước tư cách trí thức, bởi bản chất của trí thức là luôn luôn nghi vấn và phản biện, nếu không muốn nói là phản kháng.

Trước hết, quan niệm cho rằng người dân không nên dính líu đến chính trị vì đó là chuyện của nhà nước hẳn nhiên là sai. Xưa, ở Việt Nam đã phổ biến câu nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Thời hiện đại, Tổng thống Charles de Gaulle của Pháp có lần nói: “Tôi nhận thấy chính trị là một vấn đề quá phức tạp không thể giao khoán cho đám chính khách”. Chính khách giỏi và có nhiệt tâm không đáng tin cậy hoàn toàn, huống gì chính khách kém cỏi như giới lãnh đạo Việt Nam: Hầu như làm cái gì cũng sai. Nếu những cái sai ấy không bị phản đối, chúng sẽ kéo dài và lặp đi lặp lại mãi, và nạn nhân của những chính sách sai lầm ấy không ai khác hơn là dân chúng. Chấp nhận những cái sai ấy là chấp nhận sự bế tắc, hơn nữa, chấp nhận số phận nạn nhân vĩnh viễn. Điều đó không những phản ánh một thái độ thụ động mà còn là một sự dại dột.

Trong chính trị, đã đành ý kiến của một người, nhất là khi người đó chỉ là dân thường, không làm thay đổi được gì. Nhưng với ý kiến của một ngàn, hoặc vài chục ngàn người thì khác. Khi ý kiến thuộc về đám đông, nó sẽ trở thành một sức mạnh. Điều này càng đúng trong xu hướng dân chủ hoá. Gần đây, nhiều người hay nói đến dân chủ, nhưng người ta lại quên một trong những đặc điểm nổi bật nhất của dân chủ là: nó là một cuộc vận động từ dưới lên trên. Những người cầm quyền không bao giờ tự động hạn chế quyền lực của mình để công nhận quyền của người khác. Họ chỉ làm thế khi bị bắt buộc. Sự bắt buộc ấy, thỉnh thoảng xuất phát từ bên ngoài, từ áp lực của một cường quốc hay siêu cường quốc nào đó (như trường hợp của Nhật Bản sau đệ nhị thế chiến), nhưng nhiều hơn, là xuất phát từ những sự tranh đấu của dân chúng, những người thấp cổ bé miệng. Nói cách khác, dân chủ chỉ khởi sự từ sự đòi hỏi của dân chúng. Nói cách khác nữa, dân chủ là kết quả của cuộc tranh chấp giữa tham vọng quyền lực của giới lãnh đạo và quyết tâm giành lại những cái quyền căn bản của người dân. Vấn đề quan trọng nhất ở đây là tương quan quyền lực.

Nói đến tương quan quyền lực, không thể không ghi nhận điều này: chính phủ Việt Nam hiện nay không quá mạnh như nhiều người tưởng nhầm. Trên bình diện quốc tế, họ không mạnh, nếu không nói là quá yếu; không những yếu trước Trung Quốc mà còn yếu trước mọi quốc gia khác, kể cả các quốc gia trong khối Đông Nam Á. Trong phạm vi đối nội, họ cũng yếu. Yếu, trước hết, vì nội bộ của họ chia rẽ và càng ngày càng chia rẽ ; sau đó, vì họ không còn nhận được sự ủng hộ của quần chúng cũng như của lịch sử: Họ chỉ là một lực lượng cản trở của tiến trình phát triển và dân chủ hoá, hay nói theo ngôn ngữ của chính họ, họ là lực cản của một xu thế tất yếu.

Chính sự yếu kém của chính quyền Việt Nam hiện nay là một cơ hội tốt để dân chủ có thể nảy nở. Dĩ nhiên sự nảy nở ấy chỉ có thể xảy ra với một điều kiện: người dân dám đứng lên tranh đấu.

Về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, ai cũng biết là một vấn đề vô cùng phức tạp, nhưng không thể hoá giải tính chất phức tạp ấy bằng sự đầu hàng hoặc nhượng bộ liên tục như những điều giới lãnh đạo Việt Nam vẫn làm lâu nay. Một trong những bài học quan trọng nhất là Miến Điện, một nước, cũng giống Việt Nam, giáp giới với Trung Quốc và trong nhiều thập niên, lệ thuộc khá nhiều vào Trung Quốc. Thế nhưng mấy năm gần đây, họ đã quyết định thoát ly ra khỏi ánh hưởng của Trung Quốc và ngả hẳn về phía Tây phương bằng quyết định dân chủ hoá nước họ. Có thể nói sống ngay sát nách một nước lớn và tham lam như Trung Quốc là một số phận không thể thay đổi được nhưng quyết định lệ thuộc hoặc độc lập với Trung Quốc lại là một lựa chọn; và trong lựa chọn ấy, trong quá khứ, Việt Nam đã từng chiến thắng nhiều lần.

Ý nghĩ cho rằng không thể chống lại Trung Quốc là một dấu hiệu của chủ nghĩa đầu hàng. Chủ nghĩa vô cảm và chủ nghĩa đầu hàng, thật ra, là một. Đó là những thứ tư tưởng mà bộ máy cầm quyền hiện nay muốn gieo rắc. Để đấu tranh cho dân chủ và độc lập cũng như toàn vẹn lãnh thổ, đấu tranh chống độc tài cần đi liền với việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa vô cảm và chủ nghĩa đầu hàng của dân chúng, trước hết, của thành phần trí thức.

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị

Martin Petty

Vũ Thị Phương Anh (dịch)

clip_image002

(Reuters) – Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của quốc hội đối với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam dường như là một việc làm vô nghĩa, vì các đại biểu tham gia bỏ phiếu hầu hết đều là đảng viên Cộng sản, và trong các lựa chọn để bỏ phiếu không có lựa chọn nào là “không tín nhiệm”.

Mặc dù sẽ chẳng có ai bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cuộc bỏ phiếu hôm thứ Bảy nhằm đánh giá hoạt động của của khoảng 50 quan chức hàng đầu cũng bắt đầu cho thấy trách nhiệm giải trình, đồng thời hé lộ chút thông tin hiếm hoi về những động thái bên trong của một đảng đang tự tìm lại chính mình sau gần bốn thập niên kiểm soát chặt chẽ.

Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng, và người ta đang đồn rằng có sự chia rẽ nội bộ trong quan điểm phải làm gì trong tình hình hiện nay để vẫn giữ nguyên thể chế. Theo các nhà phân tích, sự chia rẽ này tồn tại giữa một bên là phe giáo điều bảo thủ và bên kia là những cán bộ nghiêng về tư bản và tự do hơn, trong nội bộ của một đảng vốn có truyền thống đồng thuận.

“Cuộc bỏ phiếu này tạo ra một sự cởi mở nhằm giảm bớt căng thẳng, nhưng rốt cuộc nó chỉ làm cho ta thấy có sự đấu đá nội bộ giữa các phe phái khác nhau”, nhà phân tích chính trị nổi tiếng Nguyễn Quang A nhận định.

Dân chúng lâu nay đã âm ỉ bất bình về nạn tham nhũng, chiếm đoạt đất đai và một nền kinh tế nhà nước là chủ đạo nhưng kém hiệu quả. Những vấn đề này đã trở thành cố hữu trong nền kinh tế của Việt Nam sau một thời kỳ tăng trưởng bùng nổ, và giờ đây đang mưng mủ như muốn vỡ ra trên diện rộng, đòi hỏi phải có các biện pháp cấp thiết nhằm khắc phục chúng.

Các chuyên gia cho rằng không có thách thức nào đối với quyền lực của đảng Cộng sản trong tương lai gần. Quỹ đạo của nền kinh tế có quy mô 178 tỷ đô la này, cùng khả năng nó hiện thực hóa được tiềm năng trở thành một ngôi sao thị trường mới nổi, hoàn toàn phụ thuộc vào phe nào sẽ nắm thế thượng phong.

Cuộc bỏ phiếu diễn ra chỉ hơn một năm trước một đại hội được tổ chức năm năm một lần, khi đảng Cộng sản lựa chọn người sẽ lãnh đạo bộ máy trong giai đoạn Việt Nam đang theo đuổi việc tham gia sâu hơn với thế giới phương Tây thông qua một loạt các hiệp định thương mại có tiềm năng làm thay đổi luật chơi, và đòi hỏi những nhượng bộ có thể sẽ không làm hài lòng các nhóm lợi ích khác nhau.

“Tôi không nghĩ có bất kỳ sự bất đồng nào trong việc theo đuổi các thỏa thuận thương mại lớn”, ông Nguyễn Quang A nói. “Sự bất đồng chủ yếu liên quan đến việc các thỏa thuận này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của các cá nhân và các nhóm đang nắm quyền mà thôi”.

Sự chia rẽ trong Quốc hội

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên diễn ra vào năm trước có thể đã phản tác dụng, vì kết quả của cuộc bỏ phiếu này càng củng cố những đồn đoán về sự cạnh tranh ngấm ngầm giữa Chủ tịch nước và Thủ tướng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ giành được sự ủng hộ của 42% tổng số các đại biểu quốc hội và bị gần 1/3 tổng số đại biểu chọn mức “tín nhiệm thấp”. Kết quả này trái ngược với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người giành được 330 phiếu tín nhiệm cao trên tổng số 498 đại biểu và chỉ nhận có 28 phiếu tín nhiệm thấp.

Các nhà phân tích tin rằng ông Dũng sẽ tìm cách đưa ra một người kế nhiệm trước khi nghỉ hưu trước đại hội năm 2016, và có lẽ tăng cường ảnh hưởng của mình trong năm nay bằng việc thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng đang gặp khó khăn vì nợ xấu, đồng thời tư nhân hóa một phần hàng trăm doanh nghiệp nhà nước đang thua lỗ trầm trọng.

“Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm nay diễn ra trong bối cảnh đang có tranh cãi nặng nề trong giới lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam trước Đại hội Đảng sắp đến … như vậy, kết quả sẽ làm sáng tỏ ít nhiều về tình hình hiện nay của nền chính trị phe phái này”, Phương Nguyễn, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Washington cho biết.

“Người ta tin rằng Thủ tướng đã hồi phục từ cú đánh của năm ngoái, nếu không phải là đã củng cố được quyền lực của mình. Chúng tôi sẽ chờ xem kết quả bỏ phiếu tín nhiệm có phản ánh điều đó hay không”.

Ông Dũng vừa gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm thứ Năm, và có thể đã đạt được một số đòn bẩy quan trọng trong kế hoạch theo đuổi một mối quan hệ mạnh mẽ hơn với Mỹ và thách thức Trung Quốc trong cuộc tranh chấp về chủ quyền hàng hải gần đây.

Bế tắc với Trung Quốc có vẻ đã làm sâu sắc thêm cuộc tranh luận trong nội bộ đảng về sự phụ thuộc vào nước láng giềng Trung Quốc. Điều này đã bộc lộ ra trong tháng Sáu vừa qua, khi 61 đảng viên và cựu đảng viên đã gửi một bức thư ngỏ đến Trung ương đảng Cộng sản và cho rằng sự thất bại trong việc thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc sẽ là “một tội ác đối với đất nước “.

(Editing by Robert Birsel)

Nguồn:http://www.ijavn.org/2014/11/cuoc-bo-phieu-tin-nhiem-tai-viet-nam.html

Bên Kia Sự Chết

Bên Kia Sự Chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời… Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Ðức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Ðể giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”.

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha…”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Ðó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Ðức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

Trích sách Lẽ Sống