Tâm lý đố kỵ của con người

Tâm lý đố kỵ của con người

Tại sao con họa mi cứ thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng.

Hoonzuco

Hạnh phúc là một trạng thái tình cảm. Mà cái gì đã liên quan đến trừu tượng đều khó nắm bắt. Với tôi, hạnh phúc chưa bao giờ là lựa chọn dễ dàng. Thế nhưng, con người điều khiển trạng thái hạnh phúc/bất hạnh thật kỳ tài.

Đối với nhiều người, hạnh phúc của bản thân họ không phải đến tự bản thân họ mà đến từ người khác, đến theo cách so sánh với người khác. Một người kiếm được nghìn đô một tháng thấy hạnh phúc không phải vì số tiền đó đem đến niềm vui cho họ, mà vì nhiều người xung quanh không có số tiền như thế. Nhưng họ sẽ cảm thấy kém hạnh phúc hơn khi có những người kiếm được nhiều tiền hơn.

Và người ta so sánh cả những thứ khác, như việc lấy vợ chẳng hạn: Người hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn khi mình lấy được vợ đẹp hơn, giàu hơn, hay sớm hơn người khác, mà không phải hạnh phúc vì tự họ cảm nhận được.

Nhiều người cảm nhận hạnh phúc như thế, và tệ hơn là họ cũng nghĩ người khác cảm nhận theo cách của họ. Rồi từ đó, tự họ nghĩ rằng những người không có những thứ như mình sẽ không hạnh phúc, không vui vẻ bằng mình! Và từ đấy, họ lại tỏ ra thương hại những người mà họ cho là không hạnh phúc bằng họ. Một kiểu khóc mướn thương vay! Chính sự thương hại đó lại làm tăng thêm cảm xúc hạnh phúc và vui vẻ của họ.

Sự thật là con chim sẻ tung tăng giữa trời tự do sẽ có niềm vui riêng của con chim sẻ. Và con họa mi yên vị trong lồng son cũng có niềm vui riêng của nó. Tại sao con họa mi cứ phải thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng?

Bản chất của con người là muốn được ngưỡng mộ, được khen và hơn người khác. Bởi vì thế giới tôn vinh những cái hơn người. Thế nên bạn giỏi hơn người khác, giàu hơn người khác hoặc đẹp trai/xinh gái hơn người khác thì tất nhiên, bạn đều có quyền kiêu ngạo. Nhưng tuyệt nhiên, đừng nhìn người khác bằng ánh mắt thương hại. Bởi chưa chắc họ đã để cái hơn người của bạn vào mắt, chưa chắc họ đã ít hạnh phúc hơn bạn.

Hạnh phúc là trạng thái tâm lý, vậy nên, nếu họ không bằng bạn, nhưng họ hài lòng với cuộc sống của mình, không ghen tỵ, đố kị và luôn chăm chăm săm soi vào những người hơn họ như bạn, thì hẳn nhiên là họ đang rất hạnh phúc đấy. Đồng ý rằng việc so sánh với xung quanh giúp con người ta có nỗ lực hơn, không tự huyễn hoặc bản thân rằng mình rất tốt, rất giỏi rồi mà không cần nỗ lực tiếp. Nhưng cái gì cũng cần có mức độ thôi bạn ạ.

Thử nghĩ thế này nhé. Nếu bạn học dốt hơn đứa hàng xóm, bạn luôn bị bố mẹ, bạn bè đem ra so sánh với nó. Và bạn cực kỳ ghét nó, luôn cô gắng để vượt qua nó. Thế nhưng, bạn có nghĩ đến việc cả đời này bạn không vượt qua được nó thì sao? Chẳng nhẽ bạn cứ sống hết đời trong ghen tỵ và thất vọng vì mình kém nó sao? Bạn cũng không thể biến mình thành thông minh hơn nó, chẳng nhẽ lại than trách bố mẹ sinh ra mình không thông minh bằng?

Bất cứ ai, không giỏi mặt này thì cũng sẽ giỏi mặt khác, và kể cả chẳng giỏi bất cứ mặt nào thì cũng không liên quan gì đến hạnh phúc cả. Biết đâu bạn không giỏi gì cả nhưng có gia đình hòa thuận, bố mẹ, bạn bè, người yêu quan tâm, công việc yêu thích, thế thì tuyệt quá đi chứ. Thế nên dù bạn có không bằng bất cứ ai, bạn vẫn có thể hạnh phúc cơ mà.

Vậy nên, thử vứt quách cái thứ tâm lý nhỏ nhen, đố kỵ ấy đi. Nhìn đời bằng con mắt bao dung hơn, rộng lượng hơn thì mở cửa ra, hạnh phúc đã ùa vào rồi đấy.

Trước kia tôi cũng đố kị đủ thứ với đủ người. Từ con bé hàng xóm được nhiều đứa quý hơn do nó cởi mở, dẻo miệng còn tôi thì lầm lỳ ít nói. Từ con bé cùng lớp xinh xắn được một đám con trai theo sau nịnh bợ, thầy cô yêu quý, luôn được tham gia thi múa hát các kiểu còn tôi thì gầy còm xấu xí nên chẳng ai để tâm đến… Nhưng gần đây tôi mới biết, khi đó chúng nó cũng đố kỵ với tôi vậy thôi. Đố kỵ tôi học giỏi hơn, đố kỵ tôi chẳng bao giờ bị bố mẹ đánh… Đấy, quanh cái vòng luẩn quẩn của so sánh, đố kỵ ấy chẳng có ai thật sự hạnh phúc cả.

Sống biết cuộc sống của mình thôi, nhìn chăm chăm vào cuộc sống của người khác để khó chịu khi người ta hơn mình, vui mừng khấp khởi khi người ta khó khăn làm gì. Mệt mỏi ra.

Hạnh phúc giản dị lắm. Nó luôn  bên cạnh ta, chỉ cần  quay mặt sang sẽ thấy. Nhưng đáng tiếc, chúng ta lại luôn nhìn về phía trước.

From: ngocmaidl9 & Anh chị Thụ Mai gởi

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng.  Khác hẳn với những gì người đời thường nói.  Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.

Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc.  Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt.  Ai cũng mơ ước được hạnh phúc.  Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người.  Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc.  Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi.  Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ.  Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.

Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời.  Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời.  Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời.  Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa.  Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.

Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa.  Qua những lời chúc phúc.  Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta.  Được Chúa là được tất cả.  Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có.  Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ.  Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa.  Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.

Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc.  Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó.  Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng.  Người đã mở đường đi về hạnh phúc.

Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện.  Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết.  Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian.  Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.

Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui.  Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.

Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng.  Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn.  Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.  Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài.  Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp.  Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.

Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu.  Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc.  Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị.  Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình.  Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.

Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Dương Danh Dy Nhà nghiên cứu Trung Quốc

Các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười

…Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.

Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.

Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.

Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.

Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.

Không dám hé một lời

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu ‘lấy làm tiếc’ về hành động phi nghĩa của mình?

Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được ‘vị thế chính nghĩa’ trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.

Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: ‘Việt Nam xua đuổi người Hoa’, ‘Việt Nam xâm lược Campuchia’… là đúng, việc thế giới ‘lên án, bao vây cấm vận Việt Nam’ là cần thiết, việc Trung Quốc ‘cho Việt Nam một bài học’ là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.

Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.

Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi

Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là ‘vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát’…

Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc – tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học – tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.

Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.

Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…

Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.

Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.

Quan hệ Việt – Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm

Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.

Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.

Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.

Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện ‘Nhóm lợi ích thân Trung Quốc’ trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.

Bài học bị dắt mũi nhớ đời

Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.

Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…

Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung – Xô

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.

Trong tình hình như thế mà lại chủ trương ‘bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc’, ‘Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản’.

“Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)

Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.

Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.

Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc ‘dắt mũi’ kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.

Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.

Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?

2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.

Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp ‘vì chủ nghĩa xã hội’, ‘vì đại cục’ của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi ‘láng giềng bốn tốt’, của ‘những đồng chí’ luôn rêu rao ’16 chữ vàng’ đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ. Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Teresa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹpdài, giống như lò lửa, rất tối tămchật chội. Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó. Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu”.

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi. Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình”.

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh. Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ. Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất.

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình”.

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…”.

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy”.

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế, vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại. Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922).

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm”.

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn… nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì, chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam, ích kỷ, giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dụcham vui. Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùngchè chén. Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923).

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúakhông cho nó biết có Hỏa Ngục. Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923).

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923).

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặcngột ngạt khủng khiếp, mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng, căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ bángnguyền rủa hèn hạ. Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan. Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội. Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội.

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó, vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy. Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục. Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất.

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt, mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy, lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hétkêu thanđau khổtuyệt vọng, điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy”.

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6]. Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4].

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

From: bichlanthivu & Anh chị Thụ Mai gởi

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

namnguyen10252014.mp3

000_Hkg7508717-305.jpg

Một sạp báo ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp hôm 26 tháng 6 năm 2012.

AFP

Báo chí tư nhân và tự do báo chí là những vấn đề gây dị ứng với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy rằng Hiến pháp 2013 và các Hiến pháp trước đó đều xác định người dân có quyền tự do báo chí. Trước xu thế hội nhập thế giới, Việt Nam có thể nới lỏng ở chừng mực nào đó đối với vấn đề cho phép tư nhân hoạt động báo chí hay không?

Một hướng đi mới?

Ít người tin là Việt Nam sẽ có thể sớm có báo chí tư nhân, chưa nói đến tự do báo chí. Nhưng báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về báo chí của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho thấy đang hé mở một hướng đi mới.

Thời báo Kinh tế Việt Nam bản tin trên mạng ngày 10/10/2014 trích nội dung báo cáo theo đó, Điều 25 Hiến pháp 2013 qui định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Tuy vậy, cho đến nay báo chí tự nhân không được thừa nhận ở Việt Nam và một Chỉ thị của Thủ tướng ban hành vào năm 2006 khẳng định: “Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.”

Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được.
-Nhà báo Thanh Thảo

Sự tréo cẳng ngỗng này giữa qui định của Hiến pháp và thực tế đời sống pháp luật ở Việt Nam được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội giải thích:

“Bây giờ Việt Nam có một qui trình không bình thường, Hiến pháp thì bị luật treo, luật thì bị nghị định thông tư treo, cứ treo, kéo dài. Vấn đề đặt ra ở đây, những Luật gọi là nhân quyền ở Chương II của Hiến pháp phải triển khai mà bây giờ triển khai rất chậm, kể cả Luật Biểu tình cũng nói đi nói lại mãi cũng không có; Luật Lập hội cũng treo ở đó, rồi quyền được cung cấp thông tin rồi tự do báo chí… Tất cả những thứ đó nếu được triển khai trong một thể chế như thế này mà người dân có được những quyền đó thì dĩ nhiên cũng có được những phương tiện rất tốt để góp phần bóc tách những người tham nhũng, tham ô, thiếu năng lực ra khỏi bộ máy công quyền…”

Việt Nam hiện có 900 cơ quan truyền thông, báo chí với 40.000 nhân viên và 30% các nhà báo ở Việt Nam là đảng viên. Về nguyên tắc tất cả báo, đài đều thuộc quyền quản lý nhà nước. Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội: “Hiện nay mới có 277 trong số 838 cơ quan báo in tự cân đối thu chi tài chính. Còn lại đại bộ phận cơ quan báo chí được Nhà nước bao cấp toàn bộ hoặc một phần về nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, in ấn và được phát hành tới các đơn vị hành chính, các tổ chức chính trị, xã hội cũng bằng ngân sách nhà nước.”

baochi-305.jpg

Một sạp báo ở Sài Gòn

Đối với vấn đề mở rộng làng báo nhà nước để có thêm thành phần tư nhân, Nhà báo Thanh Thảo báo Thanh Niên từ miền Trung Việt Nam phát biểu:

“Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được. Việt Nam muốn hội nhập sâu hơn với thế giới thì bắt buộc cũng phải thế thôi, có điều nó thay đổi chậm hay nhanh. Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải. Nhất là báo trên mạng thì nhà nước ít thôi còn là tư nhân núp bóng, nhà nước cũng biết thừa nhưng vẫn để cho hoạt động bình thường. Thế thì tại sao lại không có qui chế để cho chính danh, nếu họ làm sai thì phạt xử nó chuẩn hơn, có luật đàng hoàng chứ không phải ra ngoài.”

Tạp chí của tổ chức tư nhân?

Bên cạnh tình trạng núp bóng để hoạt động báo chí như nhà báo Thanh Thảo vừa nêu, ở Việt Nam đang có một thực tế là đã có một dạng báo chí in ấn và trang mạng điện tử không mang tính núp bóng nhưng lại sai về hình thức chủ quản và cũng có những tạp chí được xem là của tổ chức tư nhân.

Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải.
-Nhà báo Thanh Thảo

Báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho biết, do sự thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước một số cơ quan cấp tổng cục đã chuyển thành tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, nhưng những đơn vị này vẫn tiếp tục xuất bản những ấn phẩm báo chí chuyên ngành của các tổng cục nhà nước trước đây. Thí du như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam.

Thời báo Kinh tế Việt Nam trích nội dung báo cáo giám sát còn ghi nhận một thực tế là đã có khoảng 10 trường đại học dân lập đã xuất bản tạp chí. Việt Nam hiện có hơn 80 trường đại học tư thục, trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài và hàng chục viện, trung tâm nghiên cứu do tư nhân thành lập. Các tổ chức như thế có nhu cầu xuất bản tạp chí để thông tin, công bố và trao đổi về kết quả nghiên cứu.

Trong tương lai Luật Báo chí sẽ phải sửa đổi để thực thi Hiến pháp 2013, Ủy ban Giáo dục Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội khuyến nghị mở rộng đối tượng được thành lập cơ quan báo chí, bên ngoài các đối tượng theo qui định của luật hiện hành. Vẫn theo thông tin này, quan điểm của Ủy ban là khá thoáng, theo đó ngay cả những tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam hoạt động hợp pháp tại Việt Nam cũng được thành lập cơ quan báo chí hoạt động rộng rãi trong mọi lĩnh vực thông tin, kể cả thông tin chính trị-xã hội.

Theo một số nhà phân tích, có báo chí tư nhân chưa chắc sẽ có tự do báo chí, đặc biệt dưới các chính thể độc tài. Nhưng báo chí tư nhân lại là điều kiện cần để thực hiện tự do báo chí và trong trường hợp Việt Nam cởi một gút thắt nhỏ mở rộng số đối tượng được phép ra báo cũng sẽ là một tín hiệu vui.

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Hoài Vũ, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

hoaivu10252014.mp3

Hayton_305.jpg

Nhà báo Anh Bill Hayton tại Washington DC, Mỹ. Ảnh minh họa chụp năm 2010.

Screen capture

Nhà báo Anh Bill Hayton, một trong những chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, khẳng định bằng chứng lịch sử về đường chín đoạn của Trung Quốc về chủ quyền tại vùng biển này là vô căn cứ. Ông đưa ra phát biểu trên trong buổi giới thiệu cuốn sách mới về Biển Đông có tên: The South China Sea: The struggle for power in Asia tại đại học Georgetown ở Washington DC, Mỹ, hôm 23/10.

Đơn phương tuyên bố chủ quyền

Trung Quốc lâu nay đơn phương tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Một trong những bằng chứng lịch sử mà họ đưa ra là bản đồ gồm đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò, ôm gần như trọn Biển Đông, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Đường lưỡi bò này còn chồng lấn lên vùng biển chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế tính theo luật pháp quốc tế của một số nước Đông Nam Á.

Tuy nhiên, độ chính xác của đường 9 đoạn này ra sao? Theo nhà báo Bill Hayton vào thập niên 30 khi tàu chiến Pháp cập cảng ở Trường Sa và bắn 21 phát súng tuyên bố chủ quyền ở đây, Trung Quốc do không thể điều quân ra khu vực này nên đã tìm đến các nhà làm bản đồ để khẳng định chủ quyền.

Bill Hayton cho biết đến tận năm 1933, Trung Quốc còn không biết có những đảo gì, tên gì ở Biển Đông. Vào năm 1935, Trung Quốc mới bắt đầu đặt tên cho 132 đảo lớn nhỏ ở khu vực này và phần lớn là dịch ra từ tên tiếng Anh trên bản đồ quốc tế.

Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.
-Nhà báo Bill Hayton

Người đưa đoạn lưỡi bò hình chữ U đến với Trung Quốc là một người có tên là Bạch Mi Sơ. Bill Hayton cho hay ông Bạch là một nhân sĩ yêu nước và ham mê địa lý. Năm 1930, Bạch Mi Sơ từng vẽ bản đồ miêu tả lại điều được gọi là “sự sỉ nhục quốc gia” của Trung Quốc, trong đó chỉ ra những phần lãnh thổ của nước này đã bị đánh cắp. Vào năm 1936, ông Bạch vẽ bản đồ với đường lưỡi bò ôm trọn gần như toàn bộ Biển Đông. Ông Bạch từng nói rằng khu vực nằm trong đường lưỡi bò là “những nơi mà ngư dân của Trung Quốc kiếm sống và hiển nhiên là nó thuộc về chủ quyền của chúng ta”.

Nhà báo Bill Hayton phát biểu: “Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.”

Bill Hayton cho rằng sở dĩ có bản đồ như trên cũng như các bản đồ về sự sỉ nhục quốc gia mà Trung Quốc đưa ra là do sự hiểu lầm về quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á trước đó. Ông nói các học giả Trung Quốc thời đó đánh đồng việc các nước thiết lập quan hệ thương mại với việc cống nạp với tư cách là nước chư hầu cho Trung Quốc.

001_GR368325.jpg

Bản đồ Biển Đông với đường lưỡi bò do TQ đơn phương công bố nhằm chiếm trọn Biển Đông, vị trí dàn khoan HD 981 và dàn khoan thứ hai do TQ thiết lập hồi tháng 6 năm 2014.

Nhà báo Hayton lấy ví dụ về ghi chép liên quan tới quan hệ giữa Trung Quốc và Hà Lan. Theo ghi chép của Trung Quốc thì Hà Lan khi đó là một vương quốc và phải cống nạp cho vương triều Trung Quốc và nhún nhường trước nhà vua ở đây. Tuy nhiên, thực tế là Hà Lan là một nước cộng hoà và việc cống nạp thực chất là trao đổi để được quyền giao thương ở quốc gia đông dân và rộng lớn là Trung Quốc.

Hayton từ đó đặt câu hỏi, có lẽ các nhà học giả Trung Quốc hiểu lầm rằng các nước Đông Nam Á là chư hầu của họ khi cũng phải “cống nạp” cho vương triều.

Đường lưỡi bò được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đưa lên bản đồ vào năm 1947. Lúc này, nó có 11 đoạn. Qua thời gian, hai đoạn được bỏ đi. Nó chứng tỏ Trung Quốc không hề có một cơ sở pháp lý cụ thể nào cho đường lưỡi bò này. Về pháp lý mà nói, đường 9 đoạn không định nghĩa biên giới trên biển của Trung Quốc.

Vậy đường 9 đoạn có ý nghĩa gì? Bill Hayton giải thích:

“Một học thuyết đường chín đoạn chỉ ra những hòn đảo nào thuộc về Trung Quốc và cũng có một lý giải khác là đường chín đoạn là biên giới vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, có nghĩa là bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông.”

Biển Đông thuộc về bên nào?

Để hoàn thành cuốn sách về Biển Đông, Bill Hayton đã mất hơn hai năm rưỡi đào sâu các tài liệu lịch sử. Theo ông, người đầu tiên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là một người Anh, khi đó là để khai thác phân chim. Ngoài Trung Quốc, các nước như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Philippines cũng tuyên bố một phần chủ quyền ở Biển Đông, tuy nhiên không nước nào đi xa như Trung Quốc trong việc khẳng định quyền sở hữu khu vực thậm chí chồng lấn lên hải phận của nước khác theo luật quốc tế.

Câu hỏi đặt ra cuối cùng là, vậy Biển Đông thuộc về bên nào. Câu trả lời là không ai biết cả.

Liệu có cách nào giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hay không? Bill Hayton cho rằng khó có thể có một giải pháp hợp lý cho tất cả các bên, vì rằng không một bên nào chịu nhượng bộ hoặc đưa ra những khẳng định có bằng chứng rõ ràng. Cũng không bên nào sẵn lòng thống nhất về một quy chuẩn về pháp lý. Trung Quốc, một bên lớn trong xung đột này chỉ muốn đối thoại song phương trong khi các nước khác muốn đối thoại đa phương.

Bill Hayton cho rằng xung đột ở Biển Đông thỉnh thoảng sẽ lại căng thẳng song ông bác bỏ ý kiến về một cuộc chạy đua vũ trang lớn trong khu vực này. Theo nhà báo, Trung Quốc đã bỏ xa các đối thủ về lĩnh vực vũ khí.

Bill Hayton cũng có một cuốn sách khác về Việt Nam có tên Vietnam – the rising dragon. Cuốn sách mới về Biển Đông của ông vừa được xuất bản. Bill Hayton gia nhập BBC News từ năm 1998. Ông có một năm làm báo ở Việt Nam và gần đây nhất, ông ở Myanmar trong một năm vào năm 2013.

Cuốn sách “The South China Sea: The struggle for power in Asia” tuy còn nhiều điều cần bàn luận thêm nhưng ít ra cũng cho thấy ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông. Theo nhà báo Bill Hayton thì ông rất vất vả khi tìm nguồn tư liệu từ Việt Nam do đó khó khăn này đã cản trở ông rất nhiều khi viết cuốn sách.

Có lẽ nhà nước Việt Nam nên xem xét việc cung cấp thông tin cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về chủ quyền Biển Đông nhằm tránh sự đáng tiếc vì không nắm bắt cơ hội chứng minh chủ quyền của mình trước quốc tế.

Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong

Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong
October 24, 2014

Nguoi-viet.com

HẢI PHÒNG (NV)Chỉ vì xích mích nhỏ trong lúc ăn tiệc có tổ chức đánh bài, hai nhóm thợ hồ đã truy sát nhau dẫn đến nhiều thương vong, khiến người dân một phen khiếp vía.

Theo Người Lao Ðộng, sự việc xảy ra vào tối ngày 23 tháng 10, 2014, trước cửa nhà ông Nguyễn Quang Thịnh, chủ thầu xây dựng, ở đường Thiên Lôi, phường Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, khi hai nhóm thợ xây xảy ra xô xát lúc ăn tiệc hoàn thành công trình, thì bất ngờ xảy ra vụ truy sát kinh hoàng với nhau, khiến 2 thợ xây tử vong, 3 người khác trọng thương.


Vụ truy sát khiến người dân khiếp vía. (Hình: Người Lao Ðộng)

Nguyên nhân ban đầu được xác định, trong lúc ăn uống và chơi đánh bài đã xảy ra mâu thuẫn giữa 2 thợ hồ. Bị đánh, hung thủ cùng em vợ quay lại tấn công khiến 5 người thương vong.

Tin tức tường thuật lại thì khoảng 19 giờ cùng ngày, Hà Văn Mười, Nguyễn Hữu Nhật, và Bùi Công Danh, (là bạn Mười) đến nhà ông Thịnh để lấy tiền công làm thuê. Khi đến nhà thì gặp ông Thịnh đang ngồi ăn tối cùng với 5 người khác gồm: Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Xuân Chi, Phạm Hồng Phúc, Trần Thanh Cương và Tạ Hữu Lộc và một số người nữa.

Sau khi lấy 1.8 triệu đồng tiền công thì Mười và Doanh ra về, còn ông Nhật ở lại nhà ông Thịnh ăn cơm cùng mọi người. Còn Mười và Doanh đi nhậu đến 20 giờ 30 cùng ngày thì quay trở lại nhà ông Thịnh.

Khi quay lại, mọi người đã ăn xong và có một số người đang ngồi đánh bài ăn tiền. Ông Mười vào tham gia đánh bài thì xảy ra mâu thuẫn và bị nhóm người ở đây đánh lại. Mười chạy bộ ra khỏi nhà ông Thịnh và hẹn lát nữa sẽ quay lại.

Bị đánh, Mười đã điện thoại cho em vợ là Trần Văn Ðức (24 tuổi) ở Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, bảo bị mấy thằng thợ xây đánh và nhờ Ðức đến giải quyết hộ.
Ngay sau đó Ðức chở Mười quay lại nhà ông Thịnh tạo ra cuộc truy sát kinh hoàng.

Hai nạn nhân tử vong là Ngọc Tuấn (26 tuổi), và Tuấn Anh (26 tuổi), do bị nhiều vết thương nặng nên đã gục chết ngay tại chỗ.

Ngoài ra, nhiều thợ hồ khác bị thương, trong đó có ông Trần Thanh Cương (23 tuổi), bị một vết thương khá nặng tại vùng cổ sau gáy, Nguyễn Xuân Chi (21 tuổi), Tạ Hữu Lộc ( 29 tuổi) cùng trên địa bàn Hải Phòng và một số người chưa rõ lai lịch đang được cấp cứu tại bệnh viện Hữu Nghị Việt- Tiệp, Hải Phòng.

Tại nơi xảy ra vụ đâm chém, công an thu giữ một dao bầu dài khoảng 30cm, một giáo tre đầu bịt sắt nhọn được cho là của nhóm hung thủ vứt lại.

Một công an điều tra quận Lê Chân cho biết, qua quá trình khám nghiệm tử thi, ghi nhận thông tin từ các nạn nhân cho thấy, các nạn nhân đều bị đâm một nhát duy nhất vào các vùng nguy hiểm đến tính mạng.

Trong một diễn biến khác, tại buổi làm việc với công an quận Lê Chân, hai nhà báo trong khi thu thập thông tin về vụ việc trên, đã bị một cán bộ công an quận Lê Chân có hành vi cản trở, hành hung.

Trao đổi với báo chí, ông Trần Tiến Quang, phó trưởng công an quận Lê Chân lập lờ “ghi nhận ý kiến phản ánh của nhà báo và sẽ cho xác minh lại vụ việc và trả lời các cơ quan báo chí sau (?!).” (Tr.N)

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Nguyễn Hưng Quốc

21.10.2014

Mới đây, trong chuyến thăm Đức, khi được hỏi về vấn đề dân chủ ở Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: nhân quyền, tự do và dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược được và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế ấy.

Lời phát biểu ấy, thật ra, có hai cái sai.

Thứ nhất, dân chủ không hẳn đã là một xu hướng không thể đảo ngược. Trước đây, giới nghiên cứu Tây phương hay nói đến xu hướng dân chủ hoá trên thế giới như những làn sóng. Làn sóng dân chủ thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 với 29 quốc gia được dân chủ hoá; làn sóng thứ hai diễn ra từ cuối đệ nhị thế chiến đến đầu thập niên 1960 với 36 quốc gia được dân chủ hoá; và làn sóng dân chủ thứ ba từ đầu thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990 với trên 100 quốc gia được dân chủ hoá trong đó có nhiều quốc gia thuộc khối cộng sản cũ. Từ đầu thập niên 2010, với sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở một số quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi, một số học giả vội vã cho rằng làn sóng dân chủ lần thứ tư đã xuất hiện, tuy nhiên, sau đó, hầu như mọi người đều lẳng lặng rút lại cái tên gọi đầy hoan hỉ ấy.

Có điều cần chú ý là sau mỗi làn sóng dân chủ ấy lại có những cuộc thoái trào. Trong làn sóng dân chủ lần thứ nhất, có lúc các quốc gia dân chủ chỉ còn 12; trong làn sóng thứ hai có lúc chỉ còn 30. Làn sóng dân chủ thứ ba cũng vậy; sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Nga và Đông Âu, không phải quốc gia nào cũng thẳng tiến trên con đường dân chủ hoá. Phần lớn các quốc gia tuyên bố độc lập sau khi Liên bang Xô Viết bị giải thể đều trở thành độc tài.

Ở vào thời điểm hiện nay, các học giả cũng ghi nhận nhân loại đang ở giữa cuộc thoái trào của dân chủ. Theo tổ chức Freedom House vào năm 2013, sự phát triển của dân chủ cơ hồ dừng lại, hơn nữa, xu hướng phản dân chủ cơ hồ tăng nhanh. Trong hầu hết các quốc gia Trung Đông đã trải qua cuộc cách mạng mùa xuân, hầu như chỉ có Tunisia là tương đối ổn định, còn Ai Cập và các nước khác thì hoặc rơi vào cảnh hỗn loạn hoặc quay ngược lại chế độ độc tài. Nước Nga được dân chủ hoá dưới thời Boris Yeltsin, đến thời Vladimir Putin, lại biến thành độc tài. Ở Nigeria, Pakistan, Kenya, Venezuela, Bangladesh và Thái Lan cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, dân chủ rất yếu ớt và thường xuyên bị đe doạ.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc thoái trào của dân chủ:

Một, nền dân chủ ở các quốc gia ấy còn non yếu. Nói chung, một hệ thống chính trị dân chủ phải tôn trọng cả quyền tự do chính trị lẫn các quyền tự do dân sự. Phần lớn các quốc gia mới dân chủ đều chỉ thực hiện được yếu tố thứ nhất: quyền tự do chính trị, ở đó, dân chúng được tự do bầu cử để chọn một người hoặc một đảng nào đó lên cai trị. Tuy nhiên, họ lại chưa có tự do dân sự, trong đó, quan trọng nhất là tự do ngôn luận và tự do tham gia vào chính trị dưới các hình thức lập hội, thậm chí, lập đảng để đối lập lại chính quyền.

Hai, trong các quốc gia thoái trào dân chủ ấy, một mặt, giới cầm quyền tham lam muốn thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình; mặt khác, dân chúng chưa quen với dân chủ, chưa có văn hoá dân chủ nên dễ dàng bị khiếp phục. Có thể nói, cả hai, giới lãnh đạo lẫn dân chúng, đều chưa quen với các trò chơi dân chủ. Ở các quốc gia Trung Đông, sau cách mạng mùa Xuân, bất cứ người nào lên nắm quyền cũng đều có tham vọng loại trừ đối lập; ở Thái Lan, ngược lại, các phe đối lập lại chỉ khăng khăng muốn xoá ván bài bầu cử trước đó để làm lại từ đầu theo hướng có lợi cho mình.

Nhưng dù với nguyên nhân gì thì, trên phạm vi thế giới, xu hướng dân chủ không phải là không thể đảo ngược được. Nếu không có văn hoá dân chủ và không có quyết tâm của mọi người, những chế độ dân chủ mới manh nha rất dễ quay ngược lại thời kỳ độc tài.

Nhấn mạnh đến nguy cơ thoái trào của dân chủ chủ yếu là để mọi người cảnh giác: dân chủ không những tự nhiên mà có. Nó là kết quả của những cuộc đấu tranh lâu dài và quyết liệt. Hơn nữa, khi đã xuất hiện, dân chủ không tồn tại mãi. Nó cần được nuôi dưỡng. Có thể nói quá trình dân chủ hoá là một con đường hết sức nhọc nhằn và luôn luôn đối diện với nguy cơ bị bóp chết tức tưởi.

Nhưng cái sai thứ hai trong lời phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng là, trên thực tế, chính quyền Việt Nam lâu nay vẫn hành xử như một ngoại lệ trên thế giới. Trên ngôn ngữ tuyên truyền, họ vẫn nói đi nói lại những khẩu hiệu dân chủ, tự do và nhân quyền, nhưng trên thực tế, họ vẫn hành xử như những tên độc tài. Họ vẫn tổ chức đều đặn các cuộc bầu cử Quốc hội nhưng dân chúng lại không được tự do ứng cử, bầu cử và cũng không có quyền kiểm soát quá trình kiểm phiếu: Tất cả đều nằm trong tay của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản. Hơn nữa, chính bản thân Quốc hội, gồm tuyệt đại đa số là các đảng viên, chỉ là những con rối của đảng mà thôi.  Ở Việt Nam cũng không có các quyền tự do dân sự: tất cả các quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do lập hội đều bị cấm cản.

Việt Nam không hề có dân chủ. Hầu như ai cũng biết điều đó. Điều đáng nói hơn là chính quyền Việt Nam, ngoài những lời hứa hẹn suông, đều không hề có thiện chí xây dựng các tiền đề cho dân chủ để khi dân chủ được thiết lập, nó có thể vững mạnh. Tiền đề ấy nằm trong hai yếu tố: Một, xã hội dân sự, và hai, văn hoá dân chủ. Hai, nhưng thật ra, chỉ là một: văn hoá dân chủ chỉ thực sự nảy nở trong các hoạt động thuộc xã hội dân sự. Khi cấm các hoạt động của xã hội dân sự, chính quyền cũng bóp chết cả triển vọng xây dựng văn hoá dân chủ.

Nói tóm lại, khi tuyên bố Việt Nam không phải là ngoại lệ của xu thế dân chủ hoá, Nguyễn Tấn Dũng chỉ lặp lại những điều ông và đảng ông từng làm: nói dối.

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Chuacuuthe.com

VRNs (24.10.2014) – Hà Nội – Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh vừa dẫn đầu một đoàn 13 tướng lĩnh sang phụng bái Bắc Triều từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10 năm 2014. Đoàn gồm các ông: Trung tướng Bế Xuân Trường – Phó tổng Tham mưu trưởng; Trung tướng Lương Cường – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Dương Đức Hòa – Tư lệnh Quân khu 2; Trung tướng Phương Minh Hòa – Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tướng Võ Trọng Việt – Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tướng Phạm Hồng Hương – Tư lệnh Quân khu 3; Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam – Phó tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Thiếu tướng Phan Văn Tường – Phó tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Vũ Văn Hiển – Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng;Thiếu tướng Vũ Anh Văn – Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Ngô Quang Liên – Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.

Thực tế không biết họ đã bàn thảo với nhau những gì nhưng qua lời khai báo của Phùng Quang Thanh trong bài trả lời phỏng vấn các nhà báo bên lề cuộc họp Quốc hội hôm 20 tháng 10 năm 2014 thì không người Việt Nam nào không khỏi buồn lo, căm tức.

Nhà báo Vũ Đông Hà nhận xét:

Phùng Quang Thanh đã chính thức hùa theo Bắc Kinh để xem những vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông không còn là của Việt Nam nữa mà là khu vực chung của các quốc gia cùng khai thác. Ông ta “mượn” Đài Loan, Philippines, Malaysia để biện hộ cho những hành vi xâm lược của Bắc Kinh trên biển Đông. Phùng Quang Thanh đã trở thành người phát ngôn Việt Nam tích cực nhất cho chủ trương tằm ăn dâu của Bắc Kinh: “biến vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Trung Quốc, và sau cùng biến vùng khai thác chính thức thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc””.

Mở đầu buổi phỏng vấn, Phùng Quang Thanh tí tởn khoe: “Chúng tôi sang thăm và làm việc thì bạn đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị”.

Cái hoạt cảnh “nhử kẹo” này Thanh chẳng cần khoe thì tướng Nguyễn Trọng Vình, đại sứ lâu năm ở Trung Quốc cũng đã phác họa tử trước: “Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường mật giả dối”.

Trả lời câu hỏi: “Thưa ông, trong các cuộc làm việc, hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước không?” Thanh nói:

Chúng tôi có trao đổi là bây giờ phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và phải thực hiện cho đầy đủ DOC. Tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm”.

Chết rồi! Ai đã cử Thanh sang Trung Quốc để lạy lục, cầu xin bọn chúng “giữ nguyên hiện trạng” chiếm biển, chiếm đảo của mình?

Chẳng nhẽ Thanh đành cúi đầu dâng bái trước cái hiện trạng biển đảo của ta đã bị xâm lăng, chiếm đoạt rất đau lòng ư?

Chẳng nhẽ Thanh không biết rằng chúng đã chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục lấn chiếm Trường Sa của ta ư?

Từ cuối năm ngoái, Quân đội Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng và cải tạo đất trên nhiều rạn san hô và đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa. Hình ảnh mà vệ tinh Mỹ thu được gần đây cho thấy các hoạt động của Trung Quốc đã làm tăng diện tích Đá Chữ Thập hơn 11 lần, từ 0,08 km vuông thành 0,96 km vuông. Đá Chữ Thập của ta bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp từ năm 1988 giờ đã trở thành đảo lớn thứ 5 ở Biển Đông sau đảo Phú Lâm, đảo Đông Sa, đảo Linh Côn và đảo Tri Tôn. Trên Đá Chữ Thập Trung Quốc đã xây dựng bãi đậu trực thăng, bến cảng, một tòa nhà hai tầng và một nhà kính 500 mét vuông. Hai trăm binh sĩ Trung Quốc đang đồn trú tại đó. Sau sân bay trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc sẽ xây sân bay Đá Chữ Thập.

Đá Chữ Thập được coi có vị trí chiến lược quan trọng ở Biển Đông, cách đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam khoảng 110 km.

Nhẽ ra khi đàm phán Thanh phải nói: tạm thời giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, Thế cũng đã là nhún lắm rồi. Nhún tạm thời nhưng nhất định sẽ chờ thời cơ đòi lại chủ quyền toàn vẹn.

Trả lời câu hỏi: “Vậy Trung Quốc có đưa ra cam kết hay lời hứa nào về việc giữ nguyên hiện trạng không, thưa ông?” Thanh cho biết:

Hứa thì bạn không hứa nhưng nói chung hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng và Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng. Đều là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo”.

Sao lại lập lờ đánh lận con đen như vậy được? Sao lại hùm bà làng địch ta như vậy được! Tất cả như nhau ư? Tất cả đều được quyền tôn tạo để “tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo” ư? Nhân dân nào? Nhân dân hay thực dân? Lực lượng đóng quân nào? Đóng quân để giữ chủ quyền hay để xâm lăng?

Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, đại biểu Quốc hội tỏ ra tỉnh táo khi ông nói:

Theo tôi, việc Trung Quốc cơi nới các đảo, xây dựng các công trình ở Trường Sa vừa rồi không phải vì mục đích kinh tế, cũng không phải vì mục đích nhân đạo, mà họ phục vụ mục đích và ý đồ độc chiếm biển Đông”.

Khi phóng viên bầy tỏ mối quan ngại sâu sắc qua câu hỏi: “Nhiều chuyên gia nêu ý lo ngại hướng xây dựng của Trung Quốc là để hình hành một căn cứ quân sự tấn công. Điều đó đe dọa mối an ninh hàng hải trong khu vực. Cảnh báo đó có đáng suy nghĩ, lo ngại?” thì Thanh lại cố tình bình thường hóa vấn đề: “Đó là các nhà nghiên cứu dự báo. Đương nhiên bên nào mà tiến hành xây dựng thì đó cũng là một căn cứ quân sự cả”.

Đó là dự báo của các nhà nghiên cứu, còn Thanh thì sao? Có đáng suy nghĩ, lo ngại? hay Thanh cho rằng địch xây căn cứ quân sự trên lảnh thổ mình là chuyện đương nhiên?

Nhảm nhí đến thế là cùng! Mù mờ đến thế là cùng!

Các hãng tin Trung Quốc thì tiết lộ:

Ngày 17/10, tại Bắc Kinh, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã cho biết: Hai bên đã đạt được ba nhân thức chung nguyên tắc về tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai quân đội. Một là, thể theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng bước khôi phục và thúc đẩy quan hệ giữa hai quân đội phát triển lành mạnh. Hai là, tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước, bảo vệ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ba là, tuân thủ các nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước Trung-Việt, phát huy vai trò tích cực vì xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, giữ gìn cục diện hoà bình và ổn định”.

Thì ra, họ đến vời nhau chủ yếu là để: “tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước”,

Đến nước này thì không thể còn nén chịu mà phải chửi thẳng vào mặt họ: “Chúng mày là lũ gian tặc, là tội đồ dân tộc, nếu chưa treo cổ ngay chúng mày lên được thì nhân dân cũng sẽ đời đời nguyền rủa chúng mày”.

Nếu Thường Vạn Toàn nói sai sự thật thỉ Phùng Quang Thanh phải nghiêm túc cải chính ngay để không bị dư luận khẳng định là thằng phản bội tổ quốc.

Cách đây mấy năm Nguyễn Phú Trọng đã chính thức ngỏ lời mời công an Trung Quốc sang đàn áp nhân dân ta, khi cần (Tìm đọc “Mấy nghi vấn đối với tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng ký kết” trong thư viện online “www.nguyenthanhgiang.com”). Có phải nay anh ta, với cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương, lại cử Phó Bí thư Quân ủy TW Phùng Quang Thanh mời Trung Quốc chuẩn bị sang chiến đấu với nhân dân Việt Nam để bảo vệ Đảng Cộng Sản Việt Nam!

Rõ ràng họ đang dụ voi về giầy mả tổ, chuẩn bị dâng giang sơn gấm vóc ta cho Tầu. Họ sẵn sàng lấy máu xương nhân dân ta chêm vững ngai vàng thống trị của họ (mà họ nhân danh Đảng).

Báo Quân đội Nhân dân thì đưa tin:

Chuyến thăm này (của Phùng Quang Thanh) nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước”.

Sao Phùng Quang Thanh lại ngồi với Thường Vạn Toàn để bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương? Có phải Quân đội Trung Quốc sẽ sung sướng được “quốc phòng” Việt Nam và quân đội Việt Nam sẽ phải đổ máu ra mà quốc phòng cho Trung Quốc?

Cầu hòa, cầu thân thì phải cử lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ, Ngoại giao … đi đàm phán chứ sao lại cử quân đội đi tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên. Ôm chặt lấy nhau thì còn tay nào cầm súng khi cần thiết.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh dạy rằng: “Sinh ra bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu nhất theo tinh thần “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” như dân tộc ta đã thực hiện”.

Không biết do phản bội tổ quốc hay vì quá non kém, ngu xuẩn mà Nguyễn Phú Trọng lại xuất tướng trong trường hợp này.

Nói về thao lược thì một người đàn bà Việt Nam làm thơ cũng biết khi bí phải ghểnh sỹ, còn tốt đầu phải để dành mà dú dí vô cung.

(Thơ Hồ Xuân Hương: “Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sỹ/ Chàng lừa thiếp đang khi thất ý/ Đem tốt đầu dú dí vô cung”).

Đằng nay, họ thấp cơ thua trí đàn bà thế này thì đúng như tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lo ngại: “Có một ông Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh khỏi”.

Từ nay đến Đại hội ĐCSVN thứ XII còn những hơn một năm nữa. Trong khoảng thời gian này không biết cái cặp đôi Nguyễn Phú Trọng – Phùng Quang Thanh sẽ còn gây biết bao nguy hại cho đất nước.

Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị: “Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh” .

Hà Nội 24 tháng 10 năm 2014 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6, ngõ 235, đường Trung Văn                                                                                                      Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội

Nhìn lại lịch sử nhân kỷ niệm ngày bức tường Berlin sụp đổ

Nhìn lại lịch sử nhân kỷ niệm ngày bức tường Berlin sụp đổ

Những người lính canh phía Đông Đức kéo đổ một phần của bức tường Berlin, 11/11/1989

Những người lính canh phía Đông Đức kéo đổ một phần của bức tường Berlin, 11/11/1989

23.10.2014

Ngày 9 tháng 11 đánh dấu 25 năm bức tường Berlin sụp đổ.

Chúng tôi đã nói chuyện với sử gia người Anh Frederick Taylor, một chuyên gia về Bức tường Berlin và tác giả của cuốn sách có tựa là “Bức tường Berlin – một thế giới chia rẽ 1961-1989” về những gì đã khơi ngòi cho nhà chức trách Đông Đức thoạt đầu xây bức tường này.

Theo các điều khoản của Hiệp định Yalta năm 1945, các đồng minh chiến thắng trong Thế chiến thứ hai đã chia nước Đức làm 4 khu vực chiếm đóng, khu Mỹ, khu Anh, khu Pháp và khu các nước Sô Viết.

Thủ đô Berlin nằm ở vị trí khoảng 160 kilomet bên trong khu vực Sô viết. Thành phố này cũng bị chia làm 4 khu vực giống như toàn nước Đức.

Căng thẳng giữa các cường quốc Tây phương và Sô viết

Trong khi thời kỳ hậu chiến kéo dài từ nhiều tháng đến nhiều năm, căng thẳng nổi lên giữa các nước Sô viết và 3 nước đồng minh Tây phương. Năm 1949, các khu vực Tây phương của Đức đã tách ra khỏi chính phủ cộng sản có liên hệ với Sô viết ở Đông Đức, khu vực bao quanh Berlin.

Sử gia Frederick Taylor nói, “Berlin nằm bên trong khu vực Sô viết – có thể nói như một thứ ngựa thành Troy, của chủ nghĩa tư bản dưới con mắt của phe Sô viết và các đồng minh Cộng sản Đức – trở thành một biểu tượng của lối sống Tây phương tiếp tục hiện hữu bên trong cái ngày càng trở thành một khối Sô viết thời Chiến tranh lạnh băng giá và áp chế.

Ông Taylor nói một biên giới được dựng lên giữa Đông và Tây Đức.

“Thực vậy, đến năm 1952, có một biên giới kiên cố nơi bạn có thể bị bắn vì tìm cách vượt từ Đông qua Tây Đức. Nhưng ở Berlin, vì tình trạng cá biệt của thành phố như một khu vực nằm dưới sự kiểm soát của quân đội, và tiếp tục bị đặt dưới sự kiểm soát của quân luật, ngay cả sau khi hai quốc gia Đức được thành lập.”

Ông Taylor nói tiếp: “Có những trạm kiểm soát vân vân, nhưng dân chúng thục ra có thể đi lại khá dễ dàng giữa Đông và Tây Berlin. Điều đó có nghĩa là người Đông Đức, chán ngán mức sống nghèo nàn và thiếu tự do ở Đông Đức cộng sản, mà tính đến năm 1951, thực ra nghèo hơn so với 3, 4 năm trước đó.”

Luồng di dân từ Đông Đức

Ông Taylor nói từ năm 1949 đến năm 1961, Đông Đức với khối dân 17 triệu, đã mất đi khoảng 2 triệu rưởi người bỏ qua Tây Đức.

Ông nói: “Thật vậy, điều rõ ràng đối với chính phủ Đông Đức và cuối cùng, đối với quan thầy Xô viết của họ, tính đến cuối thập niên 1950, khi chúng ta bước vào năm 1960-61, là đất nước của họ đang chảy máu đến chết – mất đi những người xuất sắc nhất cho phương Tây. Vì thế cần phải có biện pháp nào đó. Và vấn đề là biện pháp nào.”

Vị sử gia này nói các nhà lãnh đạo Đông Đức có những chọn lựa:

“Họ có thể đề xuất các cải cách, họ có thể đề nghị một nền kinh tế hữu hiệu và tốt đẹp hơn. Họ có thể đề xuất các hình thức tự do chính trị và tự do đi lại mà hầu hết những người có học thức và văn minh nhất đòi hỏi. Nhưng dĩ nhiên là họ đã không làm như thế. Họ gắn chặt với mô hình của một nền kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa Stalin, nay chỉ thấy ở một số rất ít nơi trên thế giới, có lẽ chỉ ở Bắc Triều Tiên và Cuba.”

Ông Taylor nói giới lãnh đạo Đông Đức cảm thấy cách duy nhất để ngăn chặn luồng di dân Đông Đức qua Tây Đức là xây lên một hàng rào thực sự. Và họ đã quyết định làm điều đó giữa Đông và Tây Berlin.

Bức tường Berlin được dựng lên

Sử gia này nói vào đêm ngày 12 rạng ngày 13 tháng 8 năm 1961, hàng tấn gỗ, những khối than và dây thép gai đã được tuồn vào Đông Berlin.

Ông Taylor kể: “Cơ bản điều họ làm đầu tiên là chạy đường dây thép gai quanh mọi thứ, chận nhiều con đường đi từ Đông qua Tây Berlin bằng chất liệu xây bẫy bằng bê-tông và những khối than. Có lính bảo vệ cách nhau vài thước canh chừng công nhân dựng các hàng rào và cơ bản là họ đã xây toàn bộ bức tường lên trong vòng chưa đầy 12 tiếng đồng hồ. Đến sáng chủ nhật, sáng ngày chủ nhật 13 tháng 8 năm 1961, mọi người thức dậy, cả người dân Đông lẫn Tây Berlin đều nhận thấy là một hàng rào đã được dựng lên. Đó chưa phải là một bức tường, chỉ là một hàng rào. Một hàng rào dây kẽm gai với những khối than để chận các đường phố và ngăn xe cộ đi xuyên qua.”

Ông Taylor nói lớp dây kẽm gai bắt đầu cho bức tường Berlin đã ngăn cách chỉ qua một đêm, một cách quyết tâm dã man, các khu phố, các gia đình và bạn bè.

Các gia đình và Khu phố bị chia cách

Dù các bạn ở đâu vào đêm đó, bạn phải quyết định làm gì. Nếu bạn là một người Tây Đức sống ở Đông Đức, thì họ để cho bạn trở về, đó là điều chắc chắn. Nếu bạn là một người Đông Đức đang ở phía Tây cùng với thân nhân chẳng hạn, mà dĩ nhiên chỉ là trong thời gian cuối tuần, thật ra, nhiều người, cả mấy ngàn người, đang ở lại miền Tây và phải quyết định làm gì: trở lại với gia đình hay ở lại Tây Đức. Nhiều người, rất nhiều người quyết định ở lại với sự hy sinh đáng kể. Nhưng cũng có những khu phố – hàng rào mới gần như nằm giữa những con đường.

Nhà sử học này nói khoảng một tuần sau, thì một công trình giống như bức tường đã được xây dựng ở phía nam Cổng Brandenburg. Khi được xây xong hoàn toàn, bức tường dài khoảng 43 kilomet nơi nó cắt ngang trung tâm Berlin và 110 kilomet nơi nó chia cách Tây Berlin ra khỏi Đông Đức. Ngoài ra, còn có thêm 300 chòi canh, cũng như những bãi mìn, đen pha và súng ống tự động bắn đi.

Ông Taylor mô tả cảm tưởng của nhiều người Đông Đức:

“Đó là thảm kịch vĩ đại của thời đại này. Đó là những hy vọng bị dập tắt, sự thất vọng, cảm tưởng bị vây hãm, cảm giác ghê rợn của tình trạng thiếu tự do đi lại, tự do hít thở, tự do cảm nhận. Tôi nghĩ khi tôi nói chuyện với những người đã sống qua tất cả những kinh nghiệm ấy, thì đó luôn là điểm nổi bật nhất. Tôi nghĩ chúng ta khó mà hiểu được.”

Trong nhiều thập niên tiếp theo đó, người dân Đông Đức đã tìm cách đi tìm tự do bằng nhiều phương pháp khác nhau, từ việc leo qua bức tường cho đến việc đào hầm đi bên dưới. Các cơ may thoát được rất nhỏ nhoi. Nhưng ông Taylor nói mọi người sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro để đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn ngay bên kia bức tường Berlin.

Nếu Quốc hội cũng thù địch với minh bạch?

Nếu Quốc hội cũng thù địch với minh bạch?

Blog RFA

Võ Thị Hảo

23-10-2014

  • Phóng viên ngồi bệt chầu …chân ghế QH

Hình ảnh những phóng viên phải ngồi bệt dưới đất ngửa cổ “chầu” lên chân ghế các vị đại biểu quốc hội(ĐBQH) đang họp đã khiến nhiều người phẫn nộ.

ĐBQH ngự trên những chiếc ghế da choáng lộn được sắm bằng tiền dân. Những vầng trán và con mắt phóng viên dù có cố vươn lên thì cũng chỉ cao ngang …chỗ đặt mông của các vị ĐBQH. (ảnh đăng trên Tuổi trẻ.vn trong bài “Phóng viên phải ngồi dưới sàn tường thuật họp QH- 22/10/2014).

Hình ảnh này rất điển hình cho hiện trạng và bản chất mối tương quan, vị trí giữa tầng lớp cầm quyền với báo chí và người dân trong một hệ thống độc tài, trong đó người dân là nô lệ và nhà cầm quyền muốn làm gì cũng được.

QH với lý do tồn tại là phải giám sát các cơ quan công quyền, luôn lắng nghe và bảo vệ quyền lợi công dân mà còn đối xử với báo chí như vậy thì dân còn bị khinh miệt đến mức nào?!

– Trong hơn 60.000m2 diện tích của tòa nhà QH mới xây nguy nga đồ sộ, cao tới 39m, trong hơn 80 phòng họp, trong đó phòng họp chính với sức chứa 600 người, trang bị hết sức đắt tiền (theo Vietnamnet , “Cận cảnh tòa nhà QH cực hiện đại – 21/10/2014), báo chí và người dân VN có mét vuông nào không? Qua theo dõi cho thấy, cứ đà này, họ sẽ ngày càng bị ghẻ lạnh và xua đuổi. Nếu như thế, Tòa nhà QH liệu rồi có giống những tòa công sở “chết”, trong đó “cao cao tại thượng” là những quan chức do dân mà lên ngôi to lộc lớn để rồi ngày càng xa dân, ngày càng vô cảm với nguyện vọng và nỗi đau của nhân dân?!

– Hình ảnh ấy đã ghi lại như một biểu tượng khắc họa sinh động về thực trạng tự do báo chí, nhân quyền ở VN cùng với mối tương quan giữa nhà cầm quyền và quyền được biết của công dân.

Đến đại biểu Trần Du Lịch cũng phải thốt lên bất bình: Ðại biểu Quốc hội ngồi họp trên ghế, còn phóng viên ngồi tác nghiệp dưới đất nhìn lên thì tôi thấy không ổn chút nào.

Thông qua báo chí phản ánh những ngày đầu tiên của kỳ họp này, tôi cũng được biết có gần 400 phóng viên đưa tin ở Quốc hội nhưng chỉ có 40 thẻ sự kiện để phát cho phóng viên vào hành lang hội trường giờ giải lao để tiếp cận đại biểu mỗi ngày…(theo Tuổi trẻ .vn, bài đã dẫn)

  • Cử tri bị đàn áp khi đến QH?

Trước những sự kiện mắt thấy tai nghe, người ta không thể không nghi ngờ dụng ý hạn chế, ngăn chặn báo chí và người dân theo dõi, kiến nghị và cung cấp thông tin cho QH.

Gần đây nhất,, chỉ trước phiên khai mạc QH 5 ngày, vào 15/10/2014, dư luận trong và ngoài nước quá sốc bởi theo nhiều nhân chứng thì QH – cụ thể là một số người có chức trách ở UB dân nguyện đã đóng cửa không tiếp công dân, thậm chí còn bị nghi là cho người đàn áp để xua đuổi họ.

Những người bị đàn áp, xua đuổi ấy chỉ là một đoàn công dân rất ôn hòa, lịch sự, trên tay chỉ có bản kiến nghị yêu cầu bạch hóa thông tin về Hội nghị Thành Đô và một vuông giấy nhỏ ghi dòng chữ “Được biết là quyền của công dân”.

Nhưng những người có trách nhiệm tại Ban Dân nguyện của QH tại Hà Nội và Sài Gòn hôm ấy đều đóng cửa không tiếp.

Yêu cầu QH bạch hóa thông tin về Hội nghị Thành Đô – một văn bản ký kết giữa nhà cầm quyền VN và TQ từ tháng 9/1990 là một nguyện vọng hoàn toàn chính đáng, không ai có quyền bưng bít hoặc ngăn cản. Yêu cầu của những công dân này không những chính đáng, mà còn tạo cơ hội cho QH kiểm tra thông tin, tạo cơ hội cho nhà cầm quyền thanh minh, giải thích, dập tắt những lời đồn đoán về việc các vị lãnh đạo thời đó và bây giờ đang theo lộ trình “bán nước” VN cho TQ nếu họ thực sự “bị oan”. Văn bản đó không thuộc diện tài liệu mật, lại cách đây đã .15 năm. Thế mà, theo nhiều nhân chứng trong cuộc cho biết, trong đó có người viết bài này, nhà cầm quyền đã cử những công an mặc thường phục canh giữ trước cửa nhà nhiều trí thức có chính kiến, ngăn cản việc họ đi đến UB Dân nguyện của QH. Còn các công dân đã đến được cửa VP QH thì tố cáo rằng họ đã bị rất nhiều công an đến ngăn cản, đàn áp, còn cả côn đồ mặc áo đỏ đến gây sự, mạt sát.

Việc đàn áp ấy diễn ra hàng giờ, ngay trước cổng QH, mà QH không can thiệp. Sự im lặng của những người có trách nhiệm đã khiến cho công luận phẫn nộ trước sự làm ngơ – tức cũng là tiếp tay – cho sự bưng bít thông tin, và đàn áp quyền tự do ngôn luận của người dân

  • Những tòa nguy nga và người đàn bà thắt cổ

Quan chức nơi nơi ngự trong trong những tòa nhà nguy nga công sở hoặc biệt thự riêng, dẫu đã đồ sộ rồi vẫn bỏ đi xây mới để có cớ tham nhũng. Họ dùng những tiện nghi choáng lộn, được xây dựng và mua sắm bằng vô số món tiền khổng lồ tha hồ lấy từ mồ hôi nước mắt của dân trong khi dân ngày càng nghèo khốn và tuyệt vọng. Quốc nạn tham nhũng vô độ không bị ngăn chặn nên ngày càng lớn và bất công, tệ nạn xã hội đẩy số người chết, người tự sát vì đói nghèo và tuyệt vọng ở VN tăng vọt chưa từng có. Và mạng người dân nhiều khi dường như chằng quý giá gì hơn mạng gia súc. Chẳng ai thèm nghiên cứu thống kê xem bao nhiêu người đã chết vì đói, vì không có tiền chữa bệnh hoặc bị từ chối chữa bệnh do không biết đút lót ; những người tự sát vì vỡ doanh nghiệp do cạnh tranh bất bình đẳng, donợ nần, mất việc làm, vô phương kiếm sống trước vô vàn áp lực từ bạo lực và bất công trong xã hội…

Có ai còn thèm nghe thèm biết không, tiền mua sự xa hoa của quan chức là do họ đã giật đoạt miếng cơm từ miệng người dân VN khốn khổ, thu nhập và mức sống đứng vào hàng đội sổ trên thế giới, thậm chí cả Lào và Campuchia cũng sắp vượt qua ?!

Dưới bóng ám của những tòa nguy nga, hãy dừng một phút xem thư tuyệt mệnh của người mẹ ba con tên là Mỹ Nhân, vừa thắt cổ chết ở tuổi 38 ở ấp 5, An Xuyên, Cà Mau:

“…Các con Bằng, Tâm, Ngân, các con đừng trách mẹ, mẹ khổ nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết đi để giảm gánh nặng cho cha con…để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.

Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi được sống những ngày tháng còn lại trên đời…” (Theo “Thắt lòng mẹ tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con ăn học”. Baomoi, 7/8/2014.

Đau lòng thay, đã có và còn có vô số người mẹ như Mỹ Nhân ở VN. Họ phải chết không vì lười biếng, mà họ đã bị đám quan chức tham lam vô cảm cướp đoạt miếng ăn của họ bằng cách này hay cách khác, trong đó có tình trạng nếu họ không hối lộ hoặc không phải cánh hẩu thì dẫu sắp chết đói cũng không được vào diện hộ nghèo để được cứu trợ hoặc vay tiền sống cầm hơi, trong khi họ đã ở đáy của cái nghèo….

Thông tin báo chí đã nhiều lần vạch rõ tiền tái định cư, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ lũ lụt… ở rất nhiều nơi lại được cấp cho những hộ khá giả mà cán bộ địa phương không bị hề hấn gì vì được bao che.

Vâng, người dân VN chỉ là hạng gia súc đối với suy nghĩ và hành xử của rất nhiều quan chức VN. Dân là đối tượng để hành hạ, để bóp cổ lè ra tiền cung phụng cho đám tham nhũng không còn biết gì đến liêm sỉ.

Đám quan chức ấy còn coi dân như kẻ thù, nhất là khi người dân muốn làm người và khẳng định quyền minh bạch hóa thông tin.

Quốc hội với chức trách của mình đã cam kết với toàn dân, cần phải là lực lượng đầu tiên và cuối cùng trên mặt trận bảo vệ quyền công dân của người VN.

Nếu QH cũng làm ngơ, cũng kiếm cớ tiêu phí tiền dân, cũng sợ hãi, cũng xua đuổi, cũng bao che và ngầm đàn áp người dân, để mặc đám quan trộm cướp tha hồ tung tác, thì hóa ra QH cũng coi dân như kẻ thù?!

Trong kỳ họp này QH thảo luận về Luật tổ chức QH(sửa đổi). Nếu không có những thay đổi cơ bản, nhằm tách hệ thống lập pháp ra khỏi hệ thống hành pháp và tư pháp, cải cách thể chế xóa độc tài, thì không những ngày càng nhiều quan chức coi dân như kẻ thù, mà chính nhiều ĐBQH cũng sẽ coi dân như kẻ thù, chỉ vì dân đòi quyền được biết , yêu cầu sự minh bạch và công bằng như Hiến pháp đã quy định.

(Võ Thị Hảo, Hà Nội 23/10/2014)

Tôi Lậy Mấy Ông

Tôi Lậy Mấy Ông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ nầy không biết đã có CNXH hoàn thiện ở VN hay chưa.”

T.B.T Nguyễn Phú Trọng

Ngày 6 tháng 10 năm 2014, báo Tuổi Trẻ đi tin:

Ông Phạm Hồng Thái (50 tuổi, trú thôn Tân Phong, xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, Quảng Nam) uống thuốc diệt cỏ tự tử vì bị nghi oan  lấy trộm 9,2 triệu đồng của người cùng xóm.

Trong bức thư viết trên giấy học trò gửi công an huyện Nông Sơn, ông Thái viết: “Tôi mong mấy ông điều tra lại cho kỹ giùm tôi, tôi bị oan, tôi chỉ biết lấy cái chết làm trong sạch mà thôi. Khi mấy ông nhận lá đơn này là tôi đã đi rồi.”

Còn thư gửi người bị mất tiền, ông Thái viết: “Tao chết rồi không phải vì tao lấy tiền của mi đâu. Tao buồn là bạn bè mấy chục năm tan như mây khói. Mấy ổng đánh tao quá, tao phải nhận bừa.”

Nguồn ảnh: phunuonline

Công an Việt Nam dùng nhục hình bức cung hay đánh chết dân là chuyện thường ngày nhưng ngôn ngữ khoan hoà của nạn nhân (qua cả hai bức thư tuyệt mạng) khiến tôi cứ băn khoăn mãi:

“Tôi mong mấy ông điều tra lại cho kỹ giùm tôi, tôi bị oan, tôi chỉ biết lấy cái chết làm trong sạch mà thôi. Khi mấy ông nhận lá đơn này là tôi đã đi rồi” và “Tao chết rồi không phải vì tao lấy tiền của mi đâu. Tao buồn là bạn bè mấy chục năm tan như mây khói. Mấy ổng đánh tao quá, tao phải nhận bừa.”

Đây không phải là lần đầu tiên công luận biết địa danh Nông Sơn.  Trước đây, huyện lỵ này cũng đã được   vnexpress nhắc đến với một mẩu tin (“Ông Lái 82 Tuổi Hầu Toà”) buồn khác:

Hôm nay, TAND tỉnh Quảng Nam mở phiên xét xử Võ Nghĩnh – bị cáo cao tuổi nhất trong lịch sử tố tụng Quảng Nam – về hành vi làm lật đò, gây ra cái chết của 18 học sinh ở bến Nông Sơn … Cùng đứng trước vành móng ngựa với ông Nghĩnh là người em trai Võ Quang Trang (76 tuổi) – chủ sở hữu con đò…

VKS tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Nghĩnh – Trang về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy và giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thủy.

Riêng tờ Việt Báo còn có một phóng sự khá dài, và rất xúc động của phóng viên Trung Việt về cuộc sống một phụ nữ ở (xã Quế Minh) huyện Nông Sơn. Xin trích dẫn vài đoạn ngắn:

Tôi trở lại thăm xã được báo chí phong cho danh hiệu “nghèo nhất nước” sau chuyến thăm của Tổng Bí thư Đỗ Mười vào năm 1994. Hơn một thập niên đã trôi qua, cái xã ấy vẫn không khác nhiều so với lần tôi đến thăm trước đây.

Tôi ngồi chờ chị Võ Thị Quyến, nhân vật nổi tiếng  xuất hiện  trên các báo thập niên gần cuối năm  90 thế kỷ trước vì … nghèo nhất xã ! Hồi đó nhà chị là mấy tấm tranh, tệ hơn cái chòi canh rẫy, dựng trên vài ba cái cọc. ..

Chị Quyến có ba sào ruộng, làm không đủ ăn. Ngoài việc làm ruộng chị chằm (khâu) nón. Mỗi ngày chị chằm được một cái nón bán được 1.900 đồng, trừ 500 đồng mua lá, 300 đồng mua tre, 300 đồng mua cước, mỗi ngày chị kiếm được khoảng 800 đồng.

Con  gái lớn học đến lớp 3 thì nghỉ. Thằng nhỏ học lớp 1, đứng trước nguy cơ phải nghỉ học vì không đủ tiền nộp học phí 16.000 đồng tổng giá trị của 20 ngày làm nón không chi tiêu nhịn ăn uống …

Chị Quyến đã về. Nón lá, áo quần te tua, ốm đen đúa. Chị đi chăn bò trên rẫy.  Con bò xã  giao mới được 2 tháng,  chị được nuôi trong 3 năm, nếu đẻ bò con thì giao con cho xã, chị được bò mẹ. “Có khá hơn lần đó không? “Khá, nhưng… cũng rứa”.

Con gái lớn đã đi lấy chồng. Thằng con trai học đến lớp 7, không đủ tiền nộp học, đã nghỉ, năm nay nó 17 tuổi rồi nhưng cũng chỉ một nghề là… chăn bò. Còn chị, vẫn “tha thiết yêu nghề” làm nón. “Không có nón, lấy chi ăn em”.

Món tiền từ nón, qua ngần ấy năm, đã nhích lên chút đỉnh. Không ngủ trưa, thức khuya, một ngày chị làm được 2 chiếc. Trừ tiền cước, lá, kim chỉ, tre hết 3.000 đồng, chị  lãi được 5.000, đủ mua mắm, rau, ngày nào đi chăn bò cực quá, về phải ngủ, hôm đó coi như treo niêu.

“Có ngày nào đem về được 20.000 đồng chưa?”. “Làm chi có em”. Chị cố nở nụ cười thật tươi, nhưng hình như tôi nghe thấy trong tiếng cười ấy là nỗi khắc khổ đến nhói lòng.

Ngoài những chuyện “khắc khổ” và “nhói lòng” vừa kể, Nông Sơn còn được thiên hạ nhắc đến vì nhiều vụ lùm xùm khác:

–         Khởi Tố Phá Rừng Có Qui Mô Lớn Tại Nông Sơn

–         Trù Dập Người Tố Cáo “Ăn Bớt” Công Trình Đường Bê Tông Nông Thôn

–         Bắt Giữ Một Vụ Chuyển Vận Ma Túy Tại Nông Sơn

Tôi không rành địa lý và phong thủy nên không thể lý gỉải tại sao dân Nông Sơn làm ăn không khá, và địa phương này lại mang nhiều tai tiếng như vậy. Google thử một phát thì mới biết ra đây là một huyện lỵ thuộc loại tân kỳ, có “cổng thông tin điện tử” đàng hoàng với đầy đủ hình ảnh của cả Ban Lãnh Đạo:

Họ đều là đảng viên ráo trọi. Thì toàn “mấy ông” không chớ ai. Và điểm chung của tất cả “mấy ổng” (từ trên xuống dưới) là sự lạc quan vô tận, bất kể tình trạng người dân sống lầm than và khốn khổ ra sao.

Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”

Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:

“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Người dân ở Nông Sơn như chị Võ Thị Quyến, ông Phạm Hồng Thái, Võ Nghĩnh, Võ Quang Trung … – có lẽ – đều không biết được rằng đất nước quê hương của mình đang “sánh vai cùng cường quốc” và được “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” quá trời, quá đất. Họ chắc cũng không nghe được lời hứa hẹn (cách đây chưa lâu) của một nhân vật lãnh đạo cao cấp khác – ông Nguyễn Sinh Hùng: “Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.”

Trong khi chờ đợi “cái mới” này thì nhà báo Ngô Nhân Dụng lại vừa khám phá ra một  “cái chưa cũ” lắm:

“Hết cái lỗ hổng Vinashin lại đến cái lỗ ALC II! (Ban kiểm toán công ty ALC cuối tháng 10, 2010 cho biết, năm 2009 ALC II lỗ tới 3,004 tỷ đồng bạc Việt Nam (gấp 8.5 lần vốn điều lệ chỉ có 350 tỷ). Công ty ALC II làm thất thoát số tiền của Nhà nước tới 4,617 tỷ đồng. Trong số các món nợ có đến 60% là nợ xấu, tức là người vay không trả được đúng hạn! Trong ba tháng cuối năm 2009, ALC II thiếu 1,763 tỷ đồng không có tiền để trả ai hết; và đến cuối năm 2010 đã thất thoát 4,000 tỷ.)”

Tuy nhiên, theo Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình : “Nợ xấu ngân hàng không đáng ngại.”

Ảnh: facebook.com/VTV.vn

Câu nói hơi khó hiểu (thượng dẫn) được lý giải dễ dàng và gọn gàng bởi một giới chức “dân cử” (Phó Giáo Sư, Tiến Sĩ Luật) Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp luật QH –  Phan Trung Lý: “Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu.”

Miệng người sang, có gang có thép. Phen này đám dân đen Việt Nam không đóng, ngó bộ, không xong. Câu hỏi đặt ra là đóng bao nhiêu, và đóng làm răng đây hè?

Theo báo Đất Việt :“Đến 9h30 sáng 1/10/2014, nợ công Việt Nam tăng ở mức 84,32 tỷ USD, mỗi người dân Việt Nam đang phải gánh 930,43 USD nợ công.” Với lợi tức chằm nón là ¼ U.S.D (25 xu) mỗi ngày, nếu bắt đầu nhịn ăn nhịn mặc kể từ hôm nay, chị Võ Thị Quyến sẽ hoàn tất nghĩa vụ đóng góp để thanh toán nợ xấu của toàn xã hội vào năm 2025 – nếu vẫn có thể sống sót đến thời điểm đó.

Lý thuyết mà nói là như vậy nhưng thực tế thì thời gian hoàn tất nghĩa vụ nợ công của chị Võ Thị Quyến rất có thể được rút ngắn hơn nhiều, theo như đánh giá và chỉ đạo (“quyết liệt”) của ông Thủ Tướng – trong phiên họp thường kỳ vào tháng 9 năm 2014 vừa qua, về việc tái cấu trúc nền kinh tế, với nhiều … khâu đột phá:

“Phát biểu khai mạc tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá tình hình kinh tế – xã hội từ đầu năm tới nay tiếp tục chuyển biến tích cực; đà tăng trưởng rõ nét và đồng đều hơn; các chỉ tiêu kế hoạch đều đạt kết quả tích cực, theo đó, trong 15 chỉ tiêu được Quốc hội giao có 13 chỉ tiêu có khả năng đạt và vượt, 1 chỉ tiêu xấp xỉ đạt là chỉ tiêu giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lao động và 1 chỉ tiêu chưa đạt là tỷ lệ lao động qua đào tạo, ước đạt 49% trong khi kế hoạch là 51%.

Trên tinh thần phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các thành viên Chính phủ tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng trên tất cả các lĩnh vực. Thủ tướng cũng yêu cầu Chính phủ tiếp tục phân tích và làm rõ nguyên nhân tất cả những hạn chế, yếu kém, cản trở, chậm trễ để có các biện pháp khắc phục, xử lý.”

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị Chính phủ tập trung thảo luận, phân tích và đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ thể, quyết liệt để tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao năng suất lao động; tái cơ cấu nền kinh tế và triển khai 3 khâu đột phá chiến lược.”

Tới đây thì cho tôi xin được qùi lậy mấy ông thôi. Chớ biết nói năng làm răng nữa bây chừ?