‘Bán danh…ba đồng!’

‘Bán danh…ba đồng!’

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Tháng rồi, gia đình tôi gửi về cho cô em ở Sài Gòn một thùng quà 24 lbs từ một dịch vụ gửi hàng về Việt Nam tại Little Saigon. Sau một tuần, qua điện thoại trao đổi hai bên, chúng tôi biết thùng quà bị lấy mất 2 chai thuốc Glucosamine, một loại thuốc nghe nói rất đắt khách tại Sài Gòn hiện nay, và hai hộp cheese đầu bò, là loại “bơ thừa sữa cặn” nhân viên quan thuế trong nước hiện nay vẫn còn thèm thuồng.

Kiều Trinh, con gái một quan chức cao cấp của đảng,
từng ăn cắp trong các chuyến công tác nước ngoài.

Tôi biết thùng quà không bị moi từ đại lý ở Mỹ, vì người Việt ở Mỹ không có thói ăn cắp vặt, và cũng đã chán bơ, sữa. Thùng quà về Tân Sơn Nhất bị những tay kẻ cắp chuyên môn rạch một đường dài rất khéo và dán băng keo lại sau khi dùng bàn tay mò mẫm để định giá món hàng cần phải lấy, và cũng có thể chúng mở thùng ra đàng hoàng và dán lại. Ai có thể khiếu mại đôi co với chúng khi nhận được thùng quà đã bị ăn cắp này?

Câu chuyện ăn cắp ở phi trường Tân Sơn Nhất đã được một em bé lớp ba trong nước, làm luận văn mô tả câu chuyện ba em, làm việc tại phi trường, mỗi chiều về nhà, đều mang theo một bịch đồ lấy cắp của khách hàng, từ chai thuốc bổ, mỹ phẩm cho đến chiếc cell phone, chiếc quần jean và mẹ em có nhiệm vụ đem hàng đi bán lấy tiền. Vì chuyện này, ba em thường bị ông nội em phàn nàn, khiển trách (trong xã hội này mà còn được một ông nội như vậy sao!)

Ông Cao Huy Huân, một người ở trong nước, đã mô tả chuyện ăn cắp ở hàng không Việt Nam: “Chả là bạn học chung với tôi ở Mỹ lần đó bay về Việt Nam thăm gia đình vào dịp HÈ. Trong vali hành lý có mang theo một chiếc máy ảnh cổ nghe nói là trị giá cả 9 nghìn đô la Mỹ, mang về hộ cho một người bạn. Khi đến sân bay Nội Bài, cậu phát hiện hành lý mình có dấu hiệu bị xâm phạm nên mở vali ra xem thì mới biết chiếc máy ảnh đó cùng một vài chai nước hoa hàng hiệu đã không cánh mà bay. Cậu liên hệ các bộ phận ở sân bay thì đều bảo là không nhìn thấy, không biết gì cả. Vốn biết nét đặc sản tai tiếng này ở các cảng hàng không Việt Nam nên cậu lập tức gọi điện thoại cho người thân vì cậu có người thân làm quan chức cao cấp trong một bộ ở Hà Nội. Chỉ chưa đầy 10 phút sau, một nhân viên kiểm tra hành lý đã tay xách nách mang đem ra trả cho anh chàng đầy đủ máy ảnh và số nước hoa trên, còn xin lỗi rối rít. Cũng chẳng mất mát gì nên cậu cũng im lặng cho qua. Thế nhưng câu hỏi đặc ra là nếu như cậu bạn đó không có người thân là quan chức cấp cao thì số hành lý đó sẽ ra sao?”

Một chuyện ăn cắp “quốc tế” là mất mặt đảng nhất là chuyện Kiều Trinh, một đảng viên, trưởng phòng Văn Hóa Dân Tộc (!) của một đài truyền hình mà cha cô là Vũ Văn Hiến, ủy viên Trung Ương Đảng, làm tổng giám đốc! Năm 2001, Kiều Trinh nhám tay ăn cắp một số mỹ phẩm khi cô được bố cử đi công tác ở Thụy Điển. Năm 2009, khi sang Anh, Kiều Trinh lại giở trò cầm nhầm mấy cái máy ảnh digital. Cả hai lần, vì là con của ủy viên Trung Ương Đảng, cô được các tòa đại sứ CSVN tại địa phương “cứu hộ,” tận tình, thậm chí có cả giấy chứng nhận Kiều Trinh đang mắc bệnh tâm thần từ trong nước gửi ra. Về nước, chưa chừa thói ăn cắp, tại thành phố Vinh, Nghệ An, Kiều Trinh lại tuồn áo quần vào váy, lần này camera cửa hiệu thu hình đầy đủ và đưa lên Internet.

Vậy mà ông bố có đứa con gái làm nhục quốc thể vẫn là khuôn mặt của Trung Ương Đảng CSVN, kẻ cắp quốc tế mỗi đêm vẫn lên đài truyền hình dạy dỗ người ta cái gọi là “văn hóa dân tộc.” Cả nước khinh bỉ chúng nhưng chúng không hề có chút liêm sỉ để hổ thẹn.

Một nhân viên đài truyền hình có hồ sơ trọng tội, xấu xa như vậy phải được đưa ra khỏi ngành, một đảng viên có thành tích ăn cắp bỉ mặt như vậy phải bị khai trừ khỏi đảng. Một tổng giám đốc đài truyền hình có nhân viên làm xấu ngành nghề, một người cha có đứa con làm nhục cha ông như Kiều Trinh, nên biết tự xử như một người có nhân cách.

Tội nghiệp thay, cha con nhà này cũng như cả đảng nhà nọ, vẫn coi đây là chuyện thường tình. Không ai còn biết liêm sỉ, chẳng ai còn biết đến chuyện xấu hổ nữa chăng? Cả ai nửa, đã bổ nhiệm Vũ Văn Hiến vào chức vụ tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam, kẻ đã đem con vào giữ một chức vụ trưởng phòng trong đài, đã dùng tiền dân đóng thuế để cử con đi công cán ở ngoại quốc, làm xấu mặt cho người Việt Nam. (*)

Thằng nhỏ làm công nhân, buổi sáng đem một lon nhôm đựng cơm trưa, buổi chiều về nhét đầy một lon xi măng, đinh sắt. Thằng lớn tổng giám đốc ăn theo chức tổng, thằng thủ kho kiếm chác theo thủ kho, thằng bảo vệ sống nhờ mánh mung bảo vệ. Ăn cắp để bảo vệ chức vụ và nghề nghiệp của mình và trong xã hội ấy nhân phẩm được cân đo bằng tiền. Cán bộ làm giàu nhờ ăn cắp của công, toa rập với bọn tài phiệt nước ngoài cướp đất của dân, từ trên xuống dưới, phủ bênh huyện, huyện bênh phủ, tạo nên một mạng lưới ăn cắp từ trên xuống dưới. Mấy năm gần đây, cán bộ, viên chức nhà nước dính líu đến các vụ buôn lậu, bán visa, ăn cắp hàng trong các siêu thị, có đường dây tổ chức trong nước càng ngày càng nhiều, đến nỗi khuôn mặt Việt Nam trở nên lem luốc. Tình trạng người Việt ăn cắp không một nơi nào mà không có: trong công ty, ở công sở, nơi công cộng, siêu thị, chợ búa, địa điểm du lịch… không những trong nước mà còn ra nước ngoài để bêu riếu thanh danh Việt Nam đến đỗi ở nơi đông người, các quốc gia Nhật, Thái lan, Hàn phải trưng bảng thông báo đề phòng và cảnh cáo dân Việt…ăn cắp.

Có lúc nào mà dưới mắt thế giới, người Việt bị sỉ nhục đến như thế! Vậy có ai trên quả đất này còn giấc mơ, “một buổi sáng thức dậy, bỗng dưng…thành người Việt Nam” nữa không? Và cũng không ai trách, một người Việt khi ra ngoài, phải tự thanh minh: “Phải, tôi là người Việt Nam, nhưng là người Việt Nam đang ở nước ngoài, hay tôi là một người Việt Nam nhưng không phải là Việt Nam Cộng Sản hiện nay.”

Người Việt hầu hết đều thấy hổ thẹn, có người kêu gọi “đi tìm một nhân cách của con người Việt Nam đã mất!” Đã mất có nghĩa là ngày xưa, nhân cách ấy đã có, từ cái thời mà người Việt không có, không biết đến Cộng Sản là gì. Xây dựng thì khó, có khi hàng thế hệ, nhưng phá bỏ thì dễ, chỉ cần vài năm.

Người xưa ra đường làm việc bậy, trong xóm làng, thì người ta hỏi là con cái nhà ai, để chửi là con…mất dạy! Thời nay, không còn ai cần đến danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia tộc, vì chúng không biết xấu hổ, thì ra đường, người ta hỏi đây là dân nước nào vậy!

Tổ tiên chúng ta đã bỏ ra ba vạn để có danh dự cho Việt Nam, nhưng bây giờ chế độ Cộng Sản trong nước đã bán danh ấy có…ba đồng!

(*) “Chẳng tin thì ông đi đôi

Cha con nhà nó còn ngồi đằng kia.”

(Ca dao mới)

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ . Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Têrêsa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹp và dài , giống như lò lửa , rất tối tăm và chật chội . Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó . Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu” .

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi . Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình” .

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh . Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ . Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất ” .

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình” .

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…” .

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy” .

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế , vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại . Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922) .

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối … Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm” .

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn … nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì , chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam , ích kỷ , giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dục và ham vui . Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống ! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùng và chè chén . Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923) .

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúa và không cho nó biết có Hỏa Ngục . Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923) .

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923) .

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa ; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời ; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến ; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp , mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan ; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng , căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ . Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan . Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội . Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội ” .

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó , vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục ”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy . Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục . Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất ” .

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt , mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy , lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hét và kêu than vì đau khổ và tuyệt vọng , điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy” .

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn ” .

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18:8-9) .

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6].

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4] .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Nếu không còn một ngày để sống

Nếu không còn một ngày để sống

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (01.11.2014) – Sống cho mọi người nhớ đến đã khó, chết đi rồi mà không một ai quên đó mới là điều khó khăn hơn gấp bội. Ngày nay, có rất nhiều cách giúp cho người ta khiến người khác nhớ đến mình khi còn đang sống. Có những cách gây ấn tượng một cách tự nhiên, chính trực. Ví như những nhà bác học, những thiên tài, những bậc vĩ nhân… Ngược lại, là cách gây chú ý bằng việc gây sốc, làm ra một loạt những vụ scandal. Tất nhiên, cách gây chú ý nào thiên về sự công chính chắc chắn sẽ khiến người ta nhớ mãi với lòng ngưỡng mộ, thương mến. Nếu như thế giới ai cũng cố gắng dù chỉ một lần khắc ghi tên tuổi của mình vào lòng nhân loại thì chắc chắn cuộc sống này sẽ bớt bất hạnh hơn. Khổ nỗi người tốt thì ít mà kẻ ác lại nhiều. Cho nên số lượng kẻ gây sốc cho người khác nhớ thì nhiều mà người gieo ấn tượng lại ít.

Quả thật, sống cho người ta thương đã khó, chết cho người ta nhớ lại càng khó hơn. Thế nhưng, đó chỉ là những cái nhớ cái thương của nhân loại. Còn cái nhớ với những kẻ đã qua đời đối với tín hữu Kytô giáo lại hoàn toàn khác biệt. Người tín hữu có bổn phận nhớ đến tất cả mọi anh chị em đã qua đời không phải vì những ấn tượng tốt họ đã làm hoặc các lỗi lầm họ đã phạm, nhưng chính là tình thương mến thương, sự hiệp thông của lời cầu nguyện giữa người đã qua đời và kẻ còn đang sống.

Giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho mọi tín hữu đã mất, nhằm nhắc nhớ cho những ai còn đang sống biết rằng đến lượt mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ bỏ lại tất cả mà ra đi. Vậy hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng để sống, thay vì sẽ làm ra những điều gây sốc thì hãy tạo ấn tượng bằng cách khắc ghi những hành động đẹp giữa lòng thế giới, để khi mất đi, mọi người sẽ nhớ đến mình trong niềm tiếc thương và nhung nhớ.

Nói thì nói thế, nhưng thực tế lại không thể chút nào. Ai chẳng thích sống khiến người ta thích, người ta thương, người ta nhớ, nhưng đâu phải muốn là được. Chỉ khi nào bạn chọn Thiên Chúa làm cùng đích đời mình và bước đi trong đường lối của Ngài mới hòng mong có được những ấn tượng tốt trong lòng thế giới. Riêng ai sống chỉ biết đến bản thân mình, sống buông thả theo những đam mê, dục vọng cá nhân thì làm sao có thể?

Ai biết sống chu toàn lề luật Chúa, người ấy sẽ được diện kiến nhan thánh Ngài. Trái lại, ai từ chối Thiên Chúa, sống phản nghịch đường lối Ngài, chắc chắn sẽ phải chịu diệt vong. Giáo hội dành riêng tháng này để cầu nguyện cho họ, nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà Thiên Chúa đoái thương tha thứ những lỗi lầm họ đã trót phạm.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, ai cũng biết nói rằng tôi sẽ sống yêu thương hơn. Nhưng thực tế, chẳng ai chịu tin rằng tôi chỉ còn có một ngày để sống. Ai cũng nghĩ còn lâu tôi mới chết, tôi sẽ còn sống lâu lắm, rất lâu, rất lâu. Ai đang ở trong Giáo hội đau khổ đều có một lỗi lầm lớn nhất là như vậy. Vì cho rằng tôi sẽ còn sống lâu lắm kìa, không cần phải thay đổi. Đâu ngờ rằng, một ngày để sống xảy đến thật. Khi đã không còn cơ hội, họ mới bắt đầu đau khổ hối tiếc. Nhưng cái giá trị một ngày để sống không còn nữa, họ đã đánh mất cơ hội của mình và giờ đây chỉ còn đau khổ và hối tiếc. Bổn phận của chúng ta những người còn đang sống là cầu nguyện cho họ.

Tất nhiên, những ai khi còn sống biết khắc ghi tên tuổi mình bằng hành động đẹp, thì giờ đây khi họ no đầy ơn phúc trên Thiên quốc, chắc chắn họ sẽ cầu nguyện cho những kẻ khi còn sống hoặc đang sống chỉ biết gây rối, gây sốc bằng những hành động điên loạn của mình.

Mầu nhiệm Giáo hội cùng thông công là như vậy. Chúng ta những người đang sống trong Giáo hội lữ hành, hãy biết ý thức dù tôi đang sống đây nhưng luôn nhớ rằng sẽ có ngày mình chỉ còn một ngày để sống Và nếu ngày ấy là hôm nay, thì hãy biết sống tốt hơn, hầu không phải hối tiếc khi thời gian không còn nữa.

Lạy Chúa, nếu chỉ còn một ngày để sống, chắc chắn con sẽ thưa với Ngài rằng con sẽ sống tốt hơn. Nếu như con không thể khắc vào lòng người những ấn tượng tốt để khi chết đi có thể khiến người khác nhớ đến mình, thì con cũng biết khắc vào lòng Chúa tình yêu, sự hy sinh và lòng mến, để khi không còn một ngày để sống, con sẽ không phải hối tiếc vì chưa biết yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-30

10302014-25y-velv-memories.mp3

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

AFP

Ngày 9/11 năm nay kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ. Sự kiện đó trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng Đông Âu thành công, xóa đi hệ thống cộng sản tại lục địa này. Nhân dịp này chúng tôi tìm gặp những nhân chứng của của diễn biến lớn lao bậc nhất trong xã hội loài người, để nghe câu chuyện ký ức 25 năm trước của họ. Hôm nay chúng tôi bắt đầu bằng quốc gia cộng sản đầu tiên chuyển biến trong năm 1989: nước Hungary.

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản

Đó là giai điệu dòng Danube xanh, con sông chảy ngang vùng Trung Âu thơ mộng, chảy ngang nước Hungary êm đềm, nơi cách đây đúng một phần tư thế kỷ đã bắt đầu những sự kiện khơi mào cho cuộc cách mạng nhung làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản.

Mùa hè năm 1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức sang Hungary tìm đường sang Áo và Tây Đức. Trong một hành động mang tính biểu tượng, ngày 27/6/1989 hai Ngoại trưởng Hungary và Áo dùng kềm cắt bỏ hàng rào ngăn cách hai quốc gia.

Ngày 19/8/1989 những tổ chức dân sự Hungary tổ chức một sự kiện tên là Picnic toàn Âu để nói lên nguyện vọng về một châu Âu thống nhất, hàng ngàn người Đức đang tị nạn ở Hungary đã vượt biên giới sang nước Áo.

” Những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới

Anh Nguyễn Hoàng Linh”

Anh Nguyễn Hoàng Linh hồi tưởng những ngày tháng lịch sử ấy, khi anh là sinh viên tại thủ đô Budapest:

Khi cách biên giới khoảng vài cây số thì những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới. Phải nói rằng đó là một hình ảnh đối với anh em chúng tôi hết sức là cảm động, phải nói  là chấn động.

Cảm xúc rất là đặc biệt, tôi nghĩ là ai ở Hungary thời kỳ đó mà bỏ qua những cái đó thì bỏ qua những ấn tượng rất là lớn trong đời người.

Những cảm xúc chấn động của các sinh viên người Việt lúc ấy còn kèm theo cả sự ngạc nhiên. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, hiện là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đông nam Á ở Hawaii, là sinh viên năm thứ ba tại đại học Bách khoa Budapest vào năm 1989 nhớ lại rằng vừa bước ra khỏi khủng cảnh bao cấp khốn khó của Việt nam, thì Hungary đối với anh đã là một loại thiên đường.

Thế mà đọc báo thấy giới gọi là trí thức họ nói là tình hình rất khó khăn, chúng ta phải thay đổi rất ghê gớm. Đối với tôi đó là một cái gì rất là khó hiểu, và tôi tò mò để tìm hiểu. Thì mới hiểu rằng họ có những so sánh riêng còn người Việt nam mình nghèo quá thì như vậy đã là tốt rồi. Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do, được làm những việc lớn, mình cảm thấy thích thú lắm.”

” Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Hiệu ứng dây chuyền

Chuyển biến chính trị ở Hungary giống như một mồi thuốc châm ngòi cho một phản ứng dây chuyền lan khắp Đông Âu, làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản xây dựng dưới bóng quân đội Liên xô từ sau năm 1945. Hơn hai tháng sau khi hàng rào biên giới Áo Hung bị gỡ bỏ, một hàng rào khác mang tính biểu trưng của bức màn sắt và xung đột chiến tranh lạnh bị xóa bỏ, đó là bức tường Berlin ngăn đôi thủ đô nước Đức bị đập tan vào ngày 9/11/1989.

Nhưng tất cả những sự kiện được lịch sử ghi lại chỉ là những dấu mốc, còn quá trình thay đổi ở Hungary đã diễn ra từ lâu, từ năm 1956 khi cuộc nổi dậy của người dân Hungary bị xe tăng Liên xô đàn áp, dẫn đến cái chết của người lãnh đạo cộng sản Hung lúc đó ủng hộ cuộc nổi dậy là ông Imre Nagy.

” 25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, hiện là một nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà nội, nói rằng chính ở Hungary, nơi mà ông học tập trước khi cuộc cách mạng 1989 nổ ra, ông đã nhận ra những lỗi không thể sửa chữa được của hệ thống cộng sản:

Vâng chính xác như vậy. Tức là ở đó, mình có nhiều thông tin hơn do cái sự cởi mở của người ta. Và mình tiếp cận được với những người có ý kiến khác nhau, mình nghe được những chính kiến khác nhau, thì mình phát hiện ra cái hệ thống này không thể phát triển được, không thể tồn tại một cách lâu dài.”

25 năm sau ngày những người cộng sản Hungary thay đổi ý thức, cùng với những người đối lập với họ tháo bỏ bức tường ngăn cách Đông Tây, cộng đồng người Việt tại Hungary vẫn hãy còn là một cộng đồng nhỏ so với các cộng đồng người Việt hải ngoại khác. Nhưng theo anh Nguyễn Hoàng Linh hiện sống và tham gia hoạt động truyền thông của người Việt tại Budapest thì người Việt ở đây đã bắt đầu quan tâm đến đời sống chính trị của quốc gia Hungary.

25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa.

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Chợt thấy vui như trẻ thơ. Đời ta có khi là đóm lửa,
Một hôm nhóm trong vườn khuya.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời ta có ai vừa qua.”

(Trịnh Công Sơn – Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)

(2Cor 1: 12 )

Trần Ngọc Mười Hai

Kìa, này bạn gần/xa. Bạn hát, sao nhiều thế? Nhiều thế, tức: cứ về đêm, là thấy thác đổ sao? Cứ về phố chợ, là thấy vui đời trẻ thơ sao? Lời bạn hát, có lẽ chưa thuyết phục mọi người, nhiều cho lắm. Nay đề nghị, bạn hãy hát thêm câu tiếp để xem sự việc ra sao, dẫu có thế nào! Câu ấy như sau:

“Một đêm bước chân về gác nhỏ,

chợt nhớ đóa hoa Tường Vi.

Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ,

giờ đây đã quên vườn xưa.

Một hôm bước qua thành phố lạ,

thành phố đã đi ngủ trưa.

Đời ta có khi tựa lá cỏ,

Ngồi hát ca rất tự do.

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà,

Từ những phố xưa tôi về.

Ngày xuân bước chân người rất nhẹ,

Mùa xuân đã qua bao giờ”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thơ/nhạc bạn hát, cũng thơ mộng thật không ít. Tuy nhiên, dù bạn hát nhiều như thế nhưng nói năng lại rất ít. Thôi thì, chi bằng ta cứ ngồi đó nghe bầy tôi đây kể chuyện nhà Đạo, sẽ vui hơn. Vui, vì biết chuyện vừa xảy ra ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma, cũng từa tựa như chuyện trong làng/ngoài xã, ta đoán kết-cuộc ngay trước đó, rồi. Bởi, nhà Đạo của có tên tục gọi là “Vũ như Cẩn” (tức Vẫn Như Cũ) hoặc Nguyễn Y Vân (tức Vẫn Y Nguyên) mà.

Nhưng, trước khi xem sự thể ra sao ở nhà Đạo, bầy tôi chợt có ý-định đề-nghị bạn là: ta cứ nghe thử bọn trẻ kể chuyện tiếu lâm nhạt/chay, cũng hay hay:

“Truyện rằng:

Có hai bé em, xem chương-trình hỏi/đáp trên truyền-hình, lại cứ bảo:

-Khó quá mày nhỉ! Năm ngoái, chị tao biết trước đề thi cả 30 phút, thế mà vẫn rớt đấy!

-Vậy sao? Như thế, vẫn chưa bằng bà cô tao từng biết trước đề thi cả hai tháng, mà vẫn ra rìa, ngoài hạng!

-Ủa! Cô mày thi gì mà khó đậu thế?

-Thi Hoa Hậu ấy mà.

-Thi Hoa hậu mà khó thế sao?

-Đúng. Thường thì không, nhưng đằng này lại thi Hoa Hậu Phu Nhân, mới chết chứ!”

(Trích tiếu-lâm trên mạng, đọc cho qua).

Vâng. Truyện tiếu-lâm mà đọc trên mạng, thì đương nhiên chỉ cho qua dăm ba phút phù-du, chứ nào có là sự thật đâu mà để ý! Đằng này, chuyện nhà Đạo tuy nghiêm-trang/nghiêm-túc thấy vui. Vui, là bởi: nhà Đạo thường hay kể lể về các buổi họp-hành/bàn-luận rất cao-siêu nhiệm mầu nhà thờ, nhà thánh cũng nghiêm-trang như sau:

Tại Thượng Hội Đồng  vừa qua, cặp vợ chồng người Úc là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng: “gia đình phải đối mặt với sự căng-thẳng trong việc bảo-tồn chân-lý đức tin trong khi vẫn phải thể-hiện lòng từ-bi và thương xót”. Họ kể lại việc bạn bè họ phải làm thế nào khi người con đồng tính của mình muốn đem bạn tình về nhà, dịp Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”…

Vợ chồng này giải thích: “Dần dần chúng con nghiệm thấy có mối liên-hệ đặc-biệt giữa bí-tích hôn-nhân của chúng con là do Đức Kitô thiết-lập có liên-hệ trong đời sống tính-dục. Hôn-nhân là bí-tích diễn-tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào vợ chồng kính-trọng việc hợp-nhất trong tính-dục như phần quan-yếu của đời sống tâm-linh, thì họ mới hiểu rõ được giá-trị cao đẹp của giáo-lý hôn-nhân vốn được trình-bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần các phương-pháp mới và ngôn-ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người…”

…Về điều này, ông Ron và bà Marvis đã giải thích thêm: “Mô-hình truyền-giáo cho các giáo xứ phải có khả-năng trả-lời các tình-huống tương-tự!” “Nhiệm-vụ và mục-đích chính của Giáo-huấn có từ Giáo-Hội là cho thế giới biết về tình-yêu của Thiên-Chúa.”

Cặp vợ chồng người Úc này còn kể lại kinh-nghiệm thực-tế khác: “Một người bạn của chúng con đã ly-dị, có nói rằng: đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn-toàn được đón-nhận trong giáo xứ mình ở. Tuy vậy, cô vẫn tham-dự thánh-lễ thường-xuyên và vẫn giáo-dục con cái rất tốt. Đối lại, giáo-xứ lại không có thiện cảm gì với cô và việc cô ly dị là một chướng tai/gai mắt đối với họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng: tất cả chúng con vẫn còn nhiều khiếm-khuyết trong cuộc sống. Nhận ra được khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt đi việc phán-xét người khác. Bởi, phán xét làm cản-trở việc loan-báo Tin Mừng.” (Hoàng Minh tường trình về Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma tháng 10/2014 trên www.chuacuuthe.com 07/10/2014)

Kể ra, thì cũng tội. Đường đường là vợ chồng, thì ông bà Ron và Marvis Piola vẫn là cặp phối-ngẫu lý-tưởng sống đạo-hạnh, đại-diện cho Giáo-hội ở Úc “đem chuông đi đánh xứ người”. Kết cuộc, cũng  không có quyền “bỏ” phiếu, tức: chỉ gióng tiếng chuông lạ, nghe đã khó.

Kể ra, lại cũng vui. Đường đường, là nhà Đạo Công giáo, lâu lâu tổ-chức một “Thượng Hội Đồng” tốn kém khá nhiều để bàn “chuyện” của các gia-đình Công-giáo khắp nơi, có cả chuyện nghe được và được nghe, giống như chuyện của ông Vũ Như Cẫn, cũng công phu nhưng khó thành.

Kể ra, thì những chuyện xảy đến trước/sau ngày “Thượng Hội Đồng” kết thúc, có nhà báo/nhà văn và cũng là nhà đạo kia/nọ lại nhấn-mạnh đôi điều qua giòng trích-dẫn rất như sau:

Kết thúc Thượng Hội Đồng ngoại-thường về những thách đố mục-vụ gia-đình, mà không che giấu gì những khó khăn được trải qua trong suốt hai tuần tranh-luận vừa qua, Đức Phanxicô đã rút ra một bản tổng-kết tích-cực về kinh-nghiệm Thượng Hội Đồng này, được sống trong tự do phát-biểu thực-sự.

“Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và hội-đồng-tính, ta đã thực sự sống kinh nghiệm Thượng Hội Đồng, thực-sự hành-trình liên-đới cùng một con đường với nhau. Cũng như: trên mỗi con đường, đã có những thời-điểm chạy nhanh, hầu như muốn chinh-phục thời-gian và đạt tới đích một cách nhanh hết sức có thể, và những thời-điểm mỏi-mệt (…), những thời điểm nhiệt thành và hăng say khác…” (xem Tý Linh, Đức Phanxicô Kết Thúc Thượng Hội Đồng Bằng Một Bài Phát Biểu Đanh Thép, www.xuanbichvietnam.net 19/10/2014)

Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và Hội-đồng-tính”, có lẽ là “ý chính” trải rộng trong ngày các đấng bậc lu-bù họp hành để xem xét mọi sự, cho “rõ chuyện”. Bằng “hành-trình liên-đới và cùng một con đường với nhau”, có thể là “bài bản” hoặc “đường-đi-nước-bước” mà Giáo hội thời hiện-tại đang bước dần vào đời thường, của người thường.

Bằng bài bản của “tinh-thần tập-thể” hiểu theo đường-lối chính-mạch trong Đạo, thì: có thể là như thế. Thế nhưng, hiểu theo tầm-kích của báo đạo và/hoặc báo đời, ở ngoài đời thì có lẽ sẽ như sau:

“Thật ra, cũng không là chuyện thường tình xảy đến, khi người Công-giáo khắp nơi tụ-tập tại Rôma để xem Giáo hội mình đưa quyết định này khác, có theo cách-thế trong sáng/minh-bạch hay không? Các báo-cáo/tường-trình từ Thượng Hội Đồng về “chuyện” gia-đình, khiến ai có thói quen coi việc bàn-luận và cãi vã trong phòng kín, đều là “Sự đã rồi”, hết. Các đề-tài được Giáo hội gần như đồng-loạt biểu-quyết, ít ra cũng cho thấy: nay nhen-nhúm trong lòng Giáo-hội mức độ nào đó về tính đa-dạng, khác kiểu ít thấy kể từ ngày Công Đồng Vaticăng II kết thúc…” (X. Neil Ormerod, Catholic Church returns to Pluriformity of Vatican II, www.eurekastreet.com.au/article.aspx?aeid=42160 19/10/2014)

Thế đó, lại có thêm đôi nhận-định của đấng bậc khác ở đâu đó Úc-Châu, Âu-Châu hay Mỹ-Châu, mà người người nên để mắt hoặc tai xem thế nào. Trước nhất, là ý-kiến của một vị thày dạy ở Melbourne, Úc như sau:

“Phần đông dân chúng trông mong nhiều vào Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi tháng 10/2014 khi phác-thảo được chuẩn-bị, rất kỹ…

Cuối cùng thì, với nhiều người, Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này, là một thất-bại không nhỏ với vị Giáo-hoàng năng-nổ là Đức Phanxicô đương-đại. Thất-bại, để rồi mọi chuyện lại rơi vào bàn tay sắt đá của nhóm Giám-mục bảo-thủ. Là người đau khổ nhiều vì thất-bại, Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem ra thấy cũng hiện rõ trên nét mặt.

Độc-giả ở đây, hẳn biết rõ Đức Phanxicô lâu nay thường tỏ-bày rằng: ngài chẳng bao giờ muốn hoặc có ý-định thay-đổi giáo-huấn của Hội-thánh, thế nên động-thái thư-thả, trầm-tĩnh của ngài cũng không có gì lạ. Đức đương kim Giáo-hoàng đây đơn-giản chỉ muốn tìm khả-năng mới để Giáo-hội Công-giáo có thể đến với người sống ngoài lề, hoặc xa cách. Điều, mà ngài quả-quyết cũng không có trọng-lượng là bao, đối với người vẫn cứ trông mong Giáo-hội có được đổi thay, cả những người chống đối mọi thay-đổi, cũng đều thế. Cả hai phía đều tin rằng: cung-cách thừa-tác mục-vụ, tự căn-bản, không thể thay-đổi nếu ta không đổi-thay về học-thuyết, lẫn tín-điều.

Thế nhưng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn cho điều ngài nói mang ý-nghĩa rất nhiều. Ý-nghĩa, có thể là ngài vẫn từng coi Thượng Hội Đồng kỳ này là một chiến-thắng đối với tầm-nhìn của ngài về sự quản-cai Giáo-hội, tức: cho phép người tham-gia cầm quyền được dự phần vào cuộc bàn cãi có mở rộng, mà trong đó không có rào cản nào, ở xung quanh.

Tính cởi mở trong trao-đổi được nhấn mạnh bằng thái-độ thẳng-thắn, bộc trực và sự khác-biệt trong say mê phát-biểu giữa các giám-mục khác nhau về trường-phái hoặc ngoài Thượng Hội Đồng. Tính trong-sáng cũng được tỏ-lộ qua thương-lượng để phác-thảo một văn-kiện “nháp” hầu đề-bạt và lấy phiếu bầu cho văn-kiện chung-cuộc.

Có thể nói, thách-thức lớn mà Thượng Hội Đồng đặt ra cho các Giám-mục tham-dự họp khi các ngài quay trở về địa-phận mình, là: làm sao tháp-nhập được tính cởi mở, trong-sáng trong quản-trị, lại là những điều lộ rõ nơi động-thái của quan-chức có mặt ở Thượng Hội Đồng. Đức Phanxicô đã chứng-tỏ rằng: cung-cách quản-cai giáo-hội xưa nay được xây dựng trên việc kềm-chế/kiểm-soát và bảo mật, có lẽ cũng nên thay thế cách nào đó cho tốt đẹp hơn; thay thế, nhưng trong đó vẫn có sự tham-gia của người dân bên dưới bằng các khuyến-khích đối-thoại cùng cởi mở và bằng sự trong-sáng/minh-bạch. Có giám mục coi đó là chuyện nên cổ võ; có vị, lại cứ coi như mình đang bị áp-lực từ gương lành của Đức Giáo hoàng hầu khai-phá thêm khả-năng khác có lợi cho giáo-hội địa phương mình…” (xem Lm Andrew Hamilton, Synod Affirms Francis’ vision of Church Governance, www.eurekastreet.net 21/10/14)

Với người ngoài, như nghệ-sĩ ở trên vẫn hát có câu ca khá lạc-điệu như:

“Nhiều đêm thấy ta là thác đổ,
Tỉnh ra có khi còn nghe.
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ,
Tôi nghĩ quanh đây hồ như.
Đời ta hết mang điều mới lạ,
Tôi đã sống rất ơ hờ.
Lòng tôi có đôi lần khép cửa,
Rồi bên vết thương tôi quì.
Vì em đã mang lời khấn nhỏ,
Bỏ tôi đứng bên đời kia”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Với đấng bậc nhân-hiền lành thánh, lại có ý/lời vẫn từng dẫn dụ như sau:

“Điều khiến chúng tôi tự hào là

lương tâm chúng tôi làm chứng rằng:

chúng tôi lấy sự thánh thiện

và chân thành Thiên Chúa ban

mà cư xử với người ta ở đời,

đặc biệt là với anh em.

Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời,

nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa.

(2Cor 1: 12)

Không cư xử theo lẽ khôn-ngoan người đời”, là lối cư-xử theo tính tập-thể rất hiệp-nhất, đúng như nhận-định của đấng bậc thày dạy từng đứng bục ở trường lớp rất Công-giáo, như sau:

“Nơi Giáo hội, ta nói nhiều về Tập-đoàn Giám mục, Hồng Y và đôi khi cả đến đoàn-ngũ linh-mục nữa, theo cung-cách mà các ngài vẫn thực-thi công-việc theo đội-ngũ. “Tôi rất lấy làm cảm-kích khi thấy ngài thực-thi hoạt-động theo tập-thể-tính biết dường nào” (Hồng Y Sean O’Malley nói về Giáo hoàng Phanxicô).

Loại hình tập-thể-tính như thế, vẫn còn thấy bên ngoài Giáo-hội đôi lúc nhiều hơn ở bên trong, hoặc giữa các đấng với nhau.

Lý do để ta có thể gọi được như thế, là vì: Giáo hội mình đích-thực là sự hiệp-thông hoặc như ai đó vẫn cứ gọi là: Tính tập-thể. Tính tập-thể vừa là ‘tiến-trình’ vốn dĩ cho phép Giáo-hội trổi bật lên trên và còn là sự diễn-tả về những gì khiến Giáo-hội phải trở-thành. Đáng tiếc thay, điều này thường không mấy hiện rõ, cho đủ. Giáo-hội mà lại không ‘hiệp-thông’ thì không phải là Giáo-hội. Và Hiệp-thông không thể xảy đến nếu không có tập-thể-tính.

Nay, ta sẽ cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi vào hiểu-biết ngọn-ngành về Giáo-hội như một hiệp-thông (mà tiếng Hy-Lạp gọi đó là: koinonia). Với Giáo-hội hôm nay, thì vấn-đề “tập-thể-tính” đơn-giản lại chỉ được coi như một từ-vựng khác nữa về ‘hiệp-thông’ mà thôi, chứ chưa mang đúng ý-nghĩa, của từ-vựng.

Tập-thể-tính, hoặc hiệp-thông hoặc tính-cách được thấy ở Thượng Hội Đồng, vv.. còn mang ý-nghĩa của cung-cách mới được nhấn mạnh lần nữa về đường-lối suy-tư và sống-thực của Giáo hội. Điều này, làm nổi bật sự việc ta đến với nhau đi vào động-thái kết-hợp thành-viên Giáo-hội qua tư-cách là nhóm/hội vốn dĩ tự mình và do mình chọn theo cách tự-nhiên và theo đúng luật-lệ vẫn tản mác, khác nhau. Tập-thể-tính hoặc gọi đó là tính gì đi nữa, vẫn yêu-cầu để cho quyền cá-nhân riêng-lẻ cứ thế ra đi. Yêu-cầu ấy, do bởi các cá-thể và bè/cánh trong nhóm/hội ra như thế để dễ được sự đồng-tâm nhất-trí trong nhóm/hội đoàn-thể đang trào dậy. Điều này không làm cho nhóm/hội này khác trở thành bất-lực. Thật ra, thì sự đồng-tâm nhất-trí vượt khỏi lựa-chọn thông-phần sẻ-san để rồi sẽ không sử-dụng bất cứ quyền-bính nào mà cá-nhân hoặc phân-bộ nào đó có thể có, hầu để cho nhóm/hội được tốt-lành. Có thể nói, đây là khí-cụ tạo lợi-ích chung.

Ngoài ra, nói về tính tập-thể tức: không có ý nói phải làm sao tạo được đa số phiếu tuyệt-đối với thành-viên tham-dự; hoặc ít ra cũng phải 2/3 phiếu hoặc đa số tuyệt đối các phiếu bầu. Đây là vấn-đề thuộc về não-trạng. Nhưng, không là não-trạng của việc thắng/thua.

Điều này, không có nghĩa là mình cảm thấy vui lòng/thoải mái trước khi, trong lúc hoặc sau khi xảy đến sự việc. Điều này, cũng không là câu trả lời cho vấn-nạn nào ta không đồng-thuận với nó.

Tính tập-thể không là đòi hỏi phải hoàn-toàn đồng-thuận, nhưng đòi tất cả mọi người ở đó, phải tôn-trọng lẫn nhau. Và điều đó, còn quan-trọng hơn cả trách-nhiệm trở thành dân-con vào mọi lúc. Điều đó, đòi hỏi phải hủy bỏ/tách rời bất cứ và toàn-bộ quan-điểm nào mang tính cứng-ngắc hoặc cố-định.

Tính tập-thể, không có nghĩa là: lắng tai nghe những vị cứ cho rằng điều mình kể là những điều mà Đức Giáo Hoàng vẫn thích nghe.

Hiệp-thông lại cũng không mang ý-nghĩa của sự việc hoàn-toàn thống-nhất ý-kiến. Mà là cung-cách để ta khai-thác sự khác-biệt trong khi ta sống với những thứ ấy. Đó còn là cung-cách cứ để họ sống với ta. Đó là bối-cảnh để làm sáng tỏ bất cứ bất-đồng nào có thể.

Đây cũng không là đấu-trường trong đó ta có thể chống-đối sự bất khoan-nhượng với bất nhượng-bộ. Đó cũng không là cung-cách để ta củng cố những gì được đưa ra như quan-điểm triệt-để, hoặc đường-lối để người người đào sâu rẽ chia.

Tập-thể-tính bao gồm việc xem người khác bất-đồng với mình về chuyện gì, là địch-thủ chứ không là địch-thù của mình. Tính-chất này đòi phải có sự đồng-hàng với mọi người, không vì điều họ nói hoặc do họ bỏ phiếu bầu thuận hoặc nghịch, mà vì họ đang có mặt ở đó.

Đang có mặt ở đó”, đấy mới là vấn-đề, chứ vấn-đề tuyệt-nhiên không do mức-độ thông-minh hoặc trọng-lực của luận-cứ khi tranh-cãi. Tiến bước thêm về phía trước, là cốt để dời chỗ đi từ sự bất-đồng chính-kiến về giải-pháp đưa ra cho đến bất-đồng về những điều được coi như vấn-nạn muôn thuở. Và cứ thế, ta tiến dần về với vấn-nạn nào thực-sự là vấn-đề hoặc cả việc tự xem mình có thế không hoặc có còn như thế không. Đó, mới thành chuyện!

Nói tóm lại, đây là cách-thức ta thể-hiện sự khác-biệt trong hiệp-nhất; và cứ tạo hiệp-nhất mới-mẻ hơn…” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Spelling Out The Issues of Collegiality, Strathfield ACU Workshop 23/8/2014, tr. 1 & 2 …)

Đi vào đời, đã thấy ngay đám trẻ bé đối-xử với nhau theo tính tập-thể, không uẩn-khúc. Nhưng, đã quan-niệm thoải mái qua các đoạn tả cảnh/tả tình về tình đời, như sau:

Để tả cảnh hoặc tả tình ông nội mình, có em nhỏ từng mô-tả như sau:

“Nhà em có nuôi một ông nội. Ông nội suốt ngày chẳng làm gì cả, chỉ trùm chăn ngủ. Đến bữa ăn, ông tỏ dấu vẫn cứ hỏi: Cơm chín chưa bay?

Để tả dụng cụ lao-động, em lại thích viết những điều như:

“Chiếc xẻng nhà em có rất nhiều công-dụng, và dùng nó để xúc phân của con chó nữa!”

Mô-tả về ông bố, có đoạn văn bất hủ của một học-trò khác như sau:

“Bố em có một hàm răng vàng, hàm răng vàng luôn chỉ bảo em những điều hay lẽ phải.”

Và, để miêu-tả mùa Xuân, có em lại viết rằng:

“Mùa xuân ở quê em mở rất nhiều hội. Vào những ngày ấy, trên đường có rất nhiều các ông các bà tay cầm ô đen ô đỏ, có vị còn mặc áo dài áo ngắn đứng ngồi lố nhố. Các cụ nói chuyện râm ran, như bầy chim líu lo gọi mẹ, mà em chẳng hiểu gì hết…”

Tả cây chuối, có em nọ lại viết những câu như:

“Nhà em có cây chuối rất to, chiều nào em cũng leo lên cây chuối, để thấy rõ hết mọi người ở bên dưới. Ngồi trên cành chuối rung rinh, em rất thích.”

Trả lời câu “Hãy tả con vật mà em yêu thích nhất”, có em nọ lại đã viết:

“Nhà em có nuôi một con gà trống rất đẹp. Em rất yêu nó. Vì hằng ngày nó tỏ ra hiên-ngang với các con gà mái yếu ớt. Hàng ngày, em cho nó ăn nên chiều chiều nó gáy những tiếng như con gà trống lớn coi thường mọi gà con dưới nó.”

Tả cái cặp đi học, có em khác lại cũng viết:

“Bố em mua cho em cái cặp rất to và đẹp, hàng ngày em đeo nó đến trường, cái cặp đựng được nhiều sách vở, nó to như cái bình thuốc sâu của mẹ.”

Tả cô giáo mà em yêu quí, em kia tả rất lẹ:

“Cô giáo em rất đẹp. Cô có vầng trán cao thể-hiện sự thông minh. Mái tóc cô dài thướt tha như giòng nước. Nhưng cái mà em thích nhất, vẫn là cái răng nanh của cô. Nó làm cho nụ cười của cô thêm phần quyến rũ. Cô hay đọc tập làm văn cho tụi em chép, nên em viết văn cũng giống cô…”

Tả người thày em yêu quí nhất, có em tả thế này:

“Thấm thoát đã 3 mùa hoa ban nở, thầy giáo phải tạm biệt chúng em để về xuôi. Cả làng cả bản đứng tiễn thầy vô cùng ngậm ngùi. Riêng em đứng nhìn theo thầy đến khi thầy xa dần, xa dần, đến khi nhỏ bằng con chó em mới quay lại bản.”

Tả anh lính chiến, có em tả như sau:

“Lính chiến làng em cao một thước hai, cây súng anh mang dài thước rưỡi. Thế mới oai…”

(Trích: “Các bài văn bất hủ của học trò” ở lên mạng, đọc cho biết).

Ở quê nhà, các em cũng đã học cách viết văn để miêu-tả những điều mình nhận-xét, như mọi người. Nhưng, người nhà Đạo lại suy-nghĩ hoặc viết-lách vẫn “cao siêu” hơn thế, rất nhiều. Cao và siêu, đến độ nhiều vị có chức-tước hoặc ngạch-trật cứ cãi nhau suốt, tưởng chừng không bao giờ chấm dứt.

Chấm và dứt sao được, khi người trong cuộc lại cứ nói và cứ cãi, những điều mình chẳng khi nào trải-nghiệm. Chấm và dứt làm sao, khi nhiều người những muốn nói điều mình trải-nghiệm, nhưng vì không ở cùng mạch chính, nên không có quyền quyết-định bằng lá phiếu.

Tóm lại, vấn-đề gì cũng thế, dù diễn ra ở trong hay ngoài cuộc, càng thấy khó bàn-cãi, nói chi đến “cuộc chơi”, ở đời. Thế đó, một vài ý mọn ở đâu đó, có bạn đạo nọ gom góp, nhặt nhạnh để lưu-giữ hầu biến nó thành kinh-nghiệm đời, cho mai sau. Kinh và nghiệm, là những gì bạn và tôi, ta cần cảm và nghiệm nhưng lại không hề “kinh nhi viễn chi”.

Trần Ngọc Mười Hai

Tuy chưa có kinh nghiệm

Quản cai ai cả

Nhưng vẫn muốn nghiệm và kinh

Hết mọi người mọi vị

ở trong đời.

Anh với tôi mộng canh trường

“Anh với tôi mộng canh trường,”

“Giăng kề song cửa, hoa kề gối

“Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-22

Mai Tá lược dịch

Truyện sầu hay truyện mến thương của tôi và anh, đâu chỉ là chuyện của thi ca, và âm nhạc. Truyện như thế, vẫn trải dài ở nhiều nơi, cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.

Rất nhiều người ở đời thường, vẫn hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng: ngay như nhà Đạo, vẫn có chuyện phân biệt giữa đền thánh với nguyện đường, ở địa phương. Điều mà nhiều người thường nghĩ, đó là: đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Đức Giám Mục thành Rôma, nhưng không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao, là ngai-triều chính-hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại cứ nghĩ: chiếc ghế di-động mà Đức Giáo Hoàng thường ngồi, là ngai triều của ngài, cũng  không đúng.

Thánh đường Latêranô đích-thực là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đó, có ngai-triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đúng thực. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung-hiến thành chốn thánh dâng lên Chúa.

Nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng vẫn thân-hành đến chủ-trì các nghi lễ phụng-tự, rất long trọng. Và chính tại thánh-đường này, ngài uy-nghi ngồi trên ngai-toà mình ngõ hầu ban huấn-từ, giãi-bày nhiều điều cho dân Chúa biết.

Trong cuộc sống Giáo hội, nhiều giáo hội địa phương cũng dùng việc kỷ-niệm cung-hiến thánh đường trong giáo-phận mình, coi như lễ trọng. Cung-hiến thánh-đường Latêranô, là lễ-hội toàn-cầu, nhằm nhắc ta nhớ mà hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương-vị ngài là Giám Mục thành La Mã.

Bằng vào cử-chỉ này, ta chứng-tỏ rằng: Giáo-hội mình là Giáo-hội của chung, rất Công giáo. Nhưng, điều đáng buồn, là: đôi khi ta cũng thấy nhiều người nghĩ rằng họ được phép chọn-lựa giữa Giám-mục địa-phận mình với cả Giám-mục thành La Mã nữa. Điều này, thật cũng có ý nghĩa, nhưng đó không phải là tính-cách chung, của Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng đặc-biệt thế nào đi nữa, thì tình-cảm riêng-tư của ta vẫn không dẫn đến kết-quả như một hiệp-thông với ngài. Bởi, ta chỉ có thể hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông-hiệp ngang qua Giám-mục sở tại của mình, mà thôi.

Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một Tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường-nhật, nhiều nguời cũng mắc phải sai lầm tựa như thế, cũng là điều dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội-thánh ta vẫn tập-trung vào vai-trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ ta sẽ được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều Vaticăng.

Và Đức Giám Mục sở tại lại là Giám-đốc hay Thủ-trưởng, một chi-nhánh của giới cầm-quyền.

Nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “hãy nhảy lên”, thì ta hỏi: “Dạ thưa, cao đến cỡ nào ạ?” Thành thử, vấn-đề này xem ra hơi giống thái-độ của những người “bảo hoàng hơn vua”, luôn có nguồn sử của Hội thánh, cũng tương tự như thế.

Chính vì thế, nên Công Đồng Vatican II đã làm sáng-tỏ vai-trò của Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai, giáo-huấn và thực-thi hiến-pháp, trong Giáo hội. Công Đồng Vatican minh định rất thận trọng, là nhằm hồi-phục chức-năng đúng-đắn khi xưa, về cương-vị lãnh-đạo của Đức Giáo Hoàng.

Công Đồng đây cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo-luật luôn chứa-đựng một bối-cảnh, vẫn có từ khi trước. Công Đông vẫn dạy rằng: Đức Giáo Hoàng thực thi cương-vị lãnh-đạo như vị thủ-lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là mục-tử mang tính toàn-cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp-nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng-trách giáo-huấn, duy-trì và bảo-vệ niềm tin của toàn-thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài.

Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” lại có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, Tiệc thánh hôm nay là để ta cử-hành sự hiệp-nhất trong đa-dạng, khi ta tập-trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo-hội đối với các giáo-hội Công giáo La Mã, ở địa phương.

Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh-hội được điều tốt đẹp để có quyết-tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế-vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp-ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương-cách khả dĩ thực-hiện công việc phục-vụ Hội thánh. Đó, là “dấu chỉ” lớn lao hơn cho sự hiệp-nhất Đạo của Chúa với thế-giới nhân-trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong sao, để mỗi người chúng ta nhớ được rằng: tinh-thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ-bày, chính là sự việc Giáo-hội cũng được dựng-xây bằng gạch hồ thật đấy. Thế nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô lại vẫn được đúc-kết bằng những người con biết sống-thực tình yêu thương cứu-độ Ngài ban cho thế-giới, rất hôm nay.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu hát của nhà thơ ở trên, vẫn hát rằng:

“Anh với tôi mộng canh trường,

Giăng kề song cửa, hoa kề gối

Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương.

Anh buồn từ thuở giăng lên núi

Ấy độ tôi về ước lại mong.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Nỗi buồn, thuở nào cũng vẫn là buồn một nỗi thời muôn thuở. Miễn anh và tôi, ta cũng chớ buồn vì sự chênh-lệch quyền-bính ở nhà thờ và nhà Đạo, rất hôm nay. Bởi lẽ, quyền-bính với quyền-hành ngày hôm nay, dù ở nơi nào đi nữa, vẫn là vấn-đề muôn thuở của tôi và của anh, rất sáng ngời, đầy bực bõ.

Thế nên, giải quyết được tranh-chấp quyền-hành ở mọi chốn, cũng là giải quyết tận gốc mọi nỗi buồn của người con trong nhà Đạo, suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

Tác giả: Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

1. Lịch sử của ngày lễ.

Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustinô viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.

Nhưng Thuở ban đầu này, do ảnh hưởng thời tiền Kitô giáo, các nghi thức cầu cho người chết còn chứa nhiều màu sắc dị đoan. Kinh nghiệm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh loại trừ dần những cổ hũ ấy. Mãi đến thời trung cổ, nhờ các ẩn sĩ, là những người có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh: Mọi tu viện của dòng phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2.11, ngay sau lễ các Thánh hàng năm. Truyền thống này càng ngày càng lan rộng trong Hội Thánh. Sau cùng Hội Thánh chấp nhận và đưa vào niên lịch Công giáo Rôma.

Ý nghĩa thần học nền tảng của việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã qua đời, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít ai đạt được đời sống trọn hảo, nhưng hầu hết đều mang vết tích tội lỗi trong khi qua đời. Đã là con người yếu đuối, nên cần thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận lời cầu nguyện, những hy sinh của người sống, khi có ý dành cho người đang ở tình trạng luyện tội, có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người ấy.

Việc cử hành lễ cầu cho các tín hữu qua đời, ngày nay đã trở thành việc đạo đức quen thuộc, thường xuyên của mọi Kitô hữu. Ngay nay, người ta tổ còn tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng nến và hoa.

2. Sứ điệp của ngày lễ.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ, niềm hy vọng cho con người.

Trên đó cũng thường có tấm bia khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia người ta khắc ba chữ: R. I. P. (Viết tắt của câu Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu).

Có những tấm bia trên phần mộ ghi câu Kinh Thánh hay những lời từ biệt, lời cám ơn. Phải chăng chết đi về thế giới bên kia là hết, là chấm dứt mọi liên đới ?

Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, đã nói lời từ giã trước khi tự nguyện hy sinh chịu chết: “Thày đi về cùng Cha Thày!” (Ga 14, 1-14). Lời từ biệt này nói lên mối dây ràng buộc niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.

Người thân yêu đã ra đi, theo niềm tin của người Công giáo dựa trên chính lời Chúa Giêsu, đó cũng chính là lúc họ về cùng Thiên Chúa Cha. Và cũng như Chúa Giêsu, họ cũng để lại di chúc cho chúng ta và cho mọi người đi sau họ:

– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.

– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này, nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha tôi. Tôi biết Ngài luôn yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người thân còn sống: Tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến mọi người quá cố. Xin đón rước và thứ tha cho ông bà, anh chị em, bạn hữu, và mọi người thân yêu, mọi người đã đi qua trong đời này mà nay đã an giấc.

Xin Chúa cũng thương tha thứ và đón nhận chúng con, những người còn lữ hành trên dương thế, được vào nước Chúa, vào một ngày mà Chúa gọi chúng con về trình diện trước Thánh Nhan Chúa. Amen.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

(Trích trong tập sách “Giờ Kinh Gia Đình với Lời Chúa” của giáo phận Phú Cường)

LỄ CÁC LINH HỒN

LỄ CÁC LINH HỒN

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

Theo truyền thống của người dân Hoa Kỳ, hằng năm, vào tối ngày 31 tháng 10 dương lịch, trẻ nhỏ rủ nhau chơi “Đêm Halloween” cũng gọi là trò “Trick or Treat”.  Các em từng tốp mang mặt nạ, đến gõ cửa  mỗi nhà và nói “Trick or Treat” (cho chúng tôi quà bằng không chúng tôi sẽ phá phách)…  Trò chơi này làm cho chúng ta có cảm tưởng như là các linh hồn của những người ở thế giới bên kia hiện về xin bố thí hoặc nhắn nhủ điều gì đó cho những người còn sống trên trần gian.

Tục lệ tối Halloween nầy là dấu vết thời xa xưa còn sót lại của người La-mã dùng để tưởng nhớ người quá cố.  Thuở ấy người La-mã có thói quen đúc mặt nạ của người thân mới qua đời để cất làm kỷ niệm.  Mỗi khi trong gia đình có người chết thì người nhà phải mang tất cả các mặt nạ hiện có trong gia đình, sắp hàng dài đi trước quan tài, để dẫn đưa người vừa quá cố tới nơi an nghỉ cuối cùng.

Nguyên tiếng Halloween, theo truyền thống Công giáo, bởi 3 tiếng  ALL HALOWS’ EVE  hoặc EVE OF ALL HALLOWS ghép lại, có nghĩa là “buổi tối áp lễ các thánh”…  tuồng như các Thánh trên trời đi diễn hành trước mặt chúng ta để nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến các ngài, nhớ đến công ơn các ngài và thúc giục chúng ta noi gương các ngài trong việc làm con cái Chúa, và một mặt khác nữa là kêu xin chúng ta dâng lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.


Thật vậy, hằng năm Hội thánh Công giáo Hoàn vũ dâng ngày 01 tháng 11 dương lịch để kính mừng Các Thánh Nam Nữ trên trời và dành riêng trọn tháng 11 dương lịch, bắt đầu từ ngày mồng 02, để cầu nguyện cho Các Linh Hồn trong Luyện ngục.

Công Đồng Trentô dạy rằng các linh hồn ở Luyện ngục là thành phần của Hội Thánh cần nhờ đến lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta, những người còn sống.  Giáo lý của Hội Thánh về Luyện ngục là điều có sức yên ủi lòng ta và tỏ bày lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta.  Việc cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục là một việc làm do tình thương thúc đẩy để bù đắp phần nào mối tình và bổn phận phải có đối với các kẻ đã qua đời mà có lẽ khi các ngài còn sống chúng ta đã không chu toàn.

Chứng Tích Về Luyện Ngục:

Những chứng tích về việc các Linh hồn ở Luyện ngục hiện về được Tòa Thánh công nhận thì nhiều lắm.  Ở đây, chúng tôi chỉ xin đơn cử một ít chứng tích, trong nhiều chứng tích, đang được trưng bày tại Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Luyện Hình tại Rôma.  Khi có dịp hành hương về Rôma, kính mời quí vị đến kính viếng Vương cung Thánh đường này và ghé thăm phòng triển lãm.

Chứng tích 1: Bạn bè hiện về với nhau

Chúa nhật ngày 05 tháng 3 năm 1871, bà Palmira Rastelli, chị ruột của linh mục Santelli, chánh xứ Thánh Anrê tại Rimini, qua đời ngày 20-11-1870 đã hiện về với bà bạn là Maria Zelanti cũng thuộc giáo xứ Thánh Anrê để xin cầu nguyện và xin nhắn với ông anh linh mục dâng lễ cho mình.  Để cho người còn sống vững tin thì linh hồn hiện về đã in dấu 3 ngón tay của mình trên cuốn sách nguyện của bà Zelanti. Dấu lửa in 3 ngón tay trên trang sách đã không thiêu hủy tờ giấy và cũng không làm mất các hàng chữ trên trang giấy.

Chứng tích 2: Vợ hiện về với chồng

Bà Louise Sénéchal, qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1878, đã hiện về với chồng là Louis Sénéchal xin cầu nguyện và xin dâng cho bà 5 thánh lễ.  Bà đã in 5 ngón tay lửa của mình lên chiếc mũ trùm đầu của chồng bà như là một dấu hữu hình để chồng và các con tin.

Chứng tích 3: Nữ tu hiện về với chị em trong tu viện

Nữ tu Clara Schoelers, Dòng Bênêđitô ở Vinnemberg, Westphalie, qua dời năm 1637 đã hiện về với nữ tu Maria Herendorps ngày 30 tháng 10 năm 1696 (59 năm sau).  Để làm bằng chứng, linh hồn hiện về đã in dấu cháy hai bàn tay của mình trên áo khoác làm việc của  nữ tu Maria Herendorps và trên một tấm vải trắng.

Chứng tích 4: Mẹ hiện về với con trai

Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai là Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ).  Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh.  Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết quả là anh đã trở lại sống thánh thiện, lập một hội đạo đức dành cho giáo dân; các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh.  Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.

Chứng tích 5:  Mẹ chồng hiện về với con dâu

Nhạc mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu.  Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì.  Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được mẹ chồng cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện cho, bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental.  Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin.  Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng.  Bà Magarita xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn.  Và từ đó bà không còn hiện về nữa.

Hôm nay là dịp để chúng ta nhớ đến linh hồn những người thân yêu mà Chúa đã gởi đến trong cuộc đời như: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt, bằng hữu…  Ta cũng nhớ đến những linh hồn bị quên lãng không có ai nhớ đến để cầu nguyện cho.

Bà Thánh Monica khi còn sống đã căn dặn con mình là Thánh giám mục Augustinô rằng: “Con ơi, khi mẹ chết rồi, con có thể chôn cất mẹ ở đâu cũng đươc.  Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mà cầu nguyện cho mẹ mỗi ngày khi con bước lên bàn thờ tế lễ Chúa”.  Bà Monica khi còn sống đã đạt tới sự thánh thiện trọn hảo mà còn lo lắng cho thân phận mình sau khi chết như vậy.

Nơi một nghĩa trang ở Rôma, bên nước Ý-đại-lợi, ta đọc thấy hàng chữ này bằng tiếng La-tinh: “Hodie Tibi, Cras Mihi” có nghĩa là HÔM NAY BẠN (Hodie Tibi), NGÀY MAI TÔI (Cras Mihi)… nhắc chúng ta nhớ đến Sự Chết.  Sự Chết không tha cho một ai cả.  Có nhớ đến sự chết, có suy gẫm về sự chết mới biết phải sống thế nào cho đẹp để được chết lành.

Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho người, ngày mai người khác sẽ lại cầu nguyện cho ta: Một sự vay trả, trả vay rất hữu lý.  Hôm nay ta cầu nguyện cho các Linh hồn trong Luyện ngục, ngày mai khi được về hưởng nhan thánh Chúa trên trời, các Linh hồn người lành sẽ đền đáp lại cho chúng ta bằng lời chuyển cầu thần thế của các ngài trước mặt Chúa.

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính các thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quan tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.

Hỏi : Thiên đàng là gì ?

Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21). Thiên đàng là nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.

Hỏi : Các thánh là ai vậy ?

Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như mối phúc trong Tin Mừng tuyên bố :  “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).

Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm các thánh là ai. Các thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là  “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tác khỏi sự phàm tục. Các thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.

Hỏi : Các thánh làm gì trên thiên đàng?

Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà các thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui của, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.

Hỏi : Các thánh mặc áo gì?

Các thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.

Hỏi : Các thánh là bao nhiêu?

Sách Khải Huyền nói : “số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bìh nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, Đồng trinh, Hiển tu, Ẩn tu.

Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi, thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào sổ những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.

Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lí do tại sao hôm nay Giáo hội thiết lập ngày lễ các thánh, để mừng kính chung các thánh gồm cả các thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.

Hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các thánh, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cảo sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.

Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.

Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.

Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).

Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Việt nam giữa phương Tây và Trung quốc

Việt nam giữa phương Tây và Trung quốc

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-29

RFA

10292014-dancin-betwen-giant.mp3

Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.

Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.

AFP

Một học giả người Nhật bản là ông Yoshiharu Tsuboi có viết một tác phẩm mang tựa đề Nước Đại Nam giữa Pháp và Trung Hoa để mô tả tình thế Việt nam kẹt giữa đế quốc kiểu cổ là Trung hoa với thế giới phương Tây hồi giữa thế kỷ 19. Trong những năm đầu thế kỷ 21 này, Việt nam lại một lần nữa kẹt giữa phương Tây và nước Trung quốc đang lên. Trong bối cảnh đó trong những năm gần đây chính phủ Việt nam đề ra một chính sách gọi là làm bạn với tất cả các nước, mà được gọi nôm na là chính sách đu dây.

Chính trị ngoại giao

Chính sách ngoại giao đu dây của Việt nam thể hiện rõ ràng nhất trong những tháng gần đây. Giữa tháng tám chủ tịch hội đồng liên quân Hoa Kỳ, ông Martin Dempsey đến thăm Việt nam, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng giữa quân đội hai quốc gia. Sau đó phía Mỹ có tuyên bố là sẽ nới lõng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt nam trong dịp Bộ trưởng ngoại giao Việt nam thăm Hoa kỳ vào đầu tháng 10.

Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng quốc phòng Việt nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh sang thăm Trung quốc. Trong dịp này những lời lẽ ngoại giao nhẹ nhàng được hai bên đưa ra trong các tuyên bố với báo chí. Hầu như cùng thời điểm đó, Thủ tướng Việt nam Nguyễn Tấn Dũng, trong chuyến thăm châu Âu đã ra tuyên bố rằng dân chủ và nhân quyền là xu thế của thời đại và Việt nam không đi ngoài cái xu thế đó. Lời tuyên bố có vẻ như hợp với những áp lực thường xuyên của Hoa kỳ và phương Tây về những vấn đề dân chủ và nhân quyền.

Hầu như các nhà quan sát chính trị Việt nam đều đồng ý với nhau rằng Việt nam đang đứng giữa một bên là mô hình xã hội tự do mà nhiều người Việt mong muốn để có một cuộc sống tốt hơn, còn bên kia là mô hình độc đảng quen thuộc của đảng cầm quyền, tương đồng với Trung quốc, một cường quốc đang lên và đang mong muốn lan tỏa ảnh hưởng toàn cầu của mình.

” Vấn đề là Việt nam đi tìm sự kết hợp trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung quốc sao cho có lợi nhất cho mục đích của họ. Mà mục đich lớn nhất của họ là bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, cho nên họ vẫn nghiêng về Trung quốc nhiều hơn

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Đánh giá về mối quan hệ tay ba Việt nam Mỹ Trung quốc, Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm từ Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á ở Hawaii cho rằng:

Tổng thể những ràng buộc về kinh tế, chính trị, quân sự, về ý thức hệ giữa Trung quốc, Việt nam và Mỹ thì từ xưa tới nay, Việt nam bao giờ cũng nghiêng về phía Trung quốc chứ chưa bao giờ đứng ở giữa. Người ta thường nói là Việt nam đi giây giữa Mỹ và Trung quốc nhưng theo tôi thì cách nói đó không nêu lên thực chất của vấn đề. Vấn đề là Việt nam đi tìm sự kết hợp trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung quốc sao cho có lợi nhất cho mục đích của họ. Mà mục đich lớn nhất của họ là bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, cho nên họ vẫn nghiêng về Trung quốc nhiều hơn.”

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc (nguồn mạng Bộ Quốc phòng TQ)

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc (nguồn mạng Bộ Quốc phòng TQ)

Về chuyến thăm Trung quốc của Đại tướng Phùng Quang Thanh, ông Vũ Hồng Lâm nói là chuyện đó nằm trong mối quan hệ truyền thống giữa quân đội hai nước kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc.

Ông Vũ Hồng Lâm nói thêm là quan điểm đó của những nhà lãnh đạo Việt nam là phần cơ bản, nhưng ngoài ra quan hệ tay ba Việt Mỹ Trung cũng đang chuyển động, và sự kiện giàn khoan Trung quốc xâm nhập vào thềm lục địa Việt nam làm cho Việt nam nhích gần với Mỹ hơn.

Vào những ngày cuối tháng 11, người có quyền lực cao nhất của ngành ngoại giao Trung quốc là ông Dương Khiết Trì thăm Việt nam. Đây là chuyến thăm Việt nam thứ hai trong vòng năm tháng của ông Dương. Truyền thông thế giới quan tâm tới việc này như là một cố gắng từ phía Trung quốc để làm giảm căng thẳng giữa hai quốc gia. Điều này có thể thấy ở lời lẽ nhẹ nhàng hơn của ông Dương, cũng như vẻ mặt vui vẻ hơn của người tương nhiệm Việt nam Phạm Bình Minh so với lần viếng thăm trước của ông Dương Khiết Trì.

Ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến trong nước, nhận xét về chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì, khi được hỏi rằng những biểu hiện trên liệu có phải cho thấy rằng quan hệ Việt Trung đã trở nên nồng ấm hơn hay không:

Tôi không thích dùng chữ nồng ấm, mà tôi nghĩ rằng họ biết điều hơn nên họ xuống thang một cách bất đắc dĩ. Họ thấy được tin thần phản kháng của người Việt nam đối với Trung quốc. Lý do thứ hai là họ thấy sự xích lại của Việt nam với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và phương Tây cũng thấy vai trò cần thiết của Việt nam ở Đông nam Á. Trung quốc thấy cái nguy cơ một liên minh với Hoa Kỳ đang được hình thành. Họ phải giả vờ nhún xuống để làm giảm đi cái tình cảm thoát Trung của người Việt nam đối với chủ nghĩa đại Hán.”

” Tôi không thích dùng chữ nồng ấm, mà tôi nghĩ rằng họ biết điều hơn nên họ xuống thang một cách bất đắc dĩ. Họ thấy được tin thần phản kháng của người Việt nam đối với Trung quốc. Lý do thứ hai là họ thấy sự xích lại của Việt nam với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ.

Ông Nguyễn Thanh Giang”

Kinh tế tài chánh

Trong những nổ lực mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của mình trên thế giới, Trung quốc cũng dùng khối dự trữ tài chính khổng lồ của mình. Vào ngày 24/10/2014,  21 quốc gia châu Á, trong đó có Việt nam cùng nhau ký một thỏa thuận thành lập Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á tại Bắc Kinh, trong đó Trung quốc là quốc gia sẽ cung cấp tín dụng nhiều nhất.

Sự ảnh hưởng của kinh tế Trung quốc lên Việt nam đã được nhiều người nói đến, từ sự nhập siêu của Việt nam, cho đến sự có mặt của hàng ngàn công nhân người Trung quốc ở Việt nam. Khi được hỏi liệu việc Việt nam vay mượn tiền từ ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng này sẽ làm cho Việt nam phụ thuộc hơn nữa vào Trung quốc không, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự thường có những phản biện đối với chính phủ Việt nam nói rằng ông không bi quan như vậy:

Đối với một nước lớn như Trung quốc thì ảnh hưởng quốc tế và khu vực của họ là một điều khó có thể tránh khỏi. Tôi nghĩ là nếu chúng ta gắn nhiều quá vấn đề chính trị vào kinh tế thì khó có thể hài hòa được trong vấn đề phát triển. Với Việt nam cũng cần khôn khéo để tận dụng tất cả những lợi thế của mối quan hệ của Trung quốc với khu vực.”

Có một sự kiện là các quốc gia phát triển ở vùng châu Á Thái Bình Dương như Nhật bản, Hàn quốc và Úc không tham gia vào sự thành lập ngân hàng này. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế từ Hà nội cũng có nhận xét rằng sự kiện này đáng chú ý vì sự cạnh tranh địa chính trị của nó, một bên là ngân hàng do Trung quốc chủ xướng thành lập, còn bên kia là các định chế tài chính phương Tây như ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu Á. Ông Lê Đăng Doanh nói là Việt nam và các quốc gia Asean khác đang cần vốn để phá triển cơ sở hạ tầng nên tham gia ngân hàng do Trung quốc thành lập.

Trả lời câu hỏi về sự ảnh hưởng mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai của Trung quốc lên kinh tế Việt nam Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói:

Việt nam cũng đã ý thức được rất rõ tình hình này nên đã có một quyết định chiến lược là sẽ tham gia hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP. Bằng cách đó thì Việt nam có thể đa dạng hóa được các đối tác về thương mại, bằng cách đó mở cửa ra để thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho Việt nam thực hiện được sự đa dạng hóa về quan hệ kinh tế, và bớt phụ thuộc vào một nước cụ thể nào, và đặc biệt là Trung quốc.”

Nhận định chung về quan hệ tay ba Việt Mỹ Trung, nhiều nhà quan sát tình hình Việt nam, trong đó có Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, cho rằng mối quan hệ đó đang vận động, nó phụ thuộc vào sức ép từ Trung quốc trong mối quan hệ của hai đảng cộng sản, sức ép từ phương Tây về những điều kiện dân chủ nhân quyền, và sức ép từ chính nhân dân Việt nam trong cách nhìn Trung quốc như một đế quốc kiểu đại Hán thời trung cổ.

Vì sao một ký giả am tường “chứng cứ lịch sử về Biển Đông của Việt Nam” như Bill Hayton xin visa vào Việt Nam hai lần đều bị Nhà nước từ chối?

Vì sao một ký giả am tường “chứng cứ lịch sử về Biển Đông của Việt Nam” như Bill Hayton xin visa vào Việt Nam hai lần đều bị Nhà nước từ chối?

GS Nguyễn Văn Tuấn đọc cuốn sách Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở Á Châu (The South China Sea: The Struggle for Power in Asia) công bố ở Hoa Kỳ mới đây cảm thấy ngạc nhiên trước một cây bút người Mỹ mà nắm vững lịch sử chủ quyền biển Đông rành rẽ như Bill Hayton, đồng thời cũng lấy làm lạ về một người có quan điểm gần gũi Việt Nam như ông ký giả này mà hai lần xin visa vào nước ta dự Hội nghị về Biển Đông và tìm kiếm thêm tư liệu cho cuốn sách của mình lại không được nhà nước CSVN chấp nhận.

Chúng tôi thì chẳng lạ gì chuyện đó.

Thưa GS, khi người ta đang sống trong tâm trạng lo lắng thường trực về nguy cơ bị truống khỏi chiếc ghế quyền lực không biết lúc nào (nói là “hệ tư tưởng XHCN lung lay” cho có vẻ to tát, kỳ thực là “độc quyền phe đảng” lung lay, mà “độc quyền phe đảng” thì bảo lưu cho cái ghế mình đã ngồi chễm chệ trong gần suốt 70 năm) thì còn nghĩ được gì về những chữ thiêng liêng như TỔ QUỐC, QUỐC GIA, DÂN TỘC… vốn nằm ngoài hiểu biết và trí tuệ của họ – những kẻ xuất thân từ “khoai sắn: “Ngày xưa khoai sắn sống lang thang / Bãi cát cồn khô mé núi hoang / Không hỏi đòi chi hồn giản dị / Quanh năm bè bạn chị em làng / Một buổi cờ son lên nối ngôi / Sao thiêng nghiêng xuống luống cày tồi / Sắn khoai hăm hở về dinh chiếm / Quyền sống trên miền rối cỏ hôi…” (Tố Hữu) (Nên nhớ các sách ABC chủ nghĩa cộng sản vẫn giải thích cộng sản là vô tổ quốc). Bởi thế, họ làm sao có được cái nhân cách ngời ngời của một Mạc Ngọc Liễn, Thái phó nhà Mạc, vào năm 1594, khi quân lính của Mạc đang thua lụn bại trước sức tấn công vũ bão của phe Trịnh Tùng, biết mình bệnh nặng sắp chết ông vẫn viết thư căn dặn khẩn thiết vua Mạc Kính Cung, dù vương triều Mạc có mệnh hệ gì cũng “nhất thiết chớ mời người Minh vào nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than. Đó cũng là tội không gì nặng bằng” (Đại Việt sử ký Bản kỷ tục biên, Q.XVII, tờ 48b – 49a).

Không! Họ không có được lấy một phần trăm phẩm chất cao quý con nhà ấy đâu. Nghĩ thế cũng đã là sang trọng cho họ quá! Xuất thân “khoai sắn” thì đi đến đâu chỉ phá phách tanh bành đến đấy theo cung cách “ăn xổi” là đủ – Rồi từ hôm ấy bọc Hoàng cung / Lớp lớp khoai xanh mướt vạn vồng… (Tố Hữu, bài đã dẫn). Đào xới cả vườn ngự lên mà trồng khoai trồng sắn thì làm sao quản lý nổi một đất nước có lịch sử bề thế hàng nghìn năm về cả vật chất lẫn tinh thần, để đến nỗi dẫn đến tình trạng cả một nước tuột dốc không phanh, “nát như tương” về mọi mặt, như cơ sự ngày hôm nay thì đủ rõ (xin xem Chùm bài lên tiếng về công an “bôi lem” đất nước và bài Ngập sâu trong lòng dân… tiếp sau bài này).

Thì ý niệm về “bảo vệ Tổ quốc” cũng trong một chiều hướng như thế đó. “Khoai sắn” cho nên tầm nghĩ chỉ có một mẩu, mới bị dỗ ngọt mà hớt hải kéo nhau đến hội nghị Thành Đô năm 1990. Ngẫu nhiên được thượng lên chiếc ngai vàng, cứ ngỡ là của “trời cho”, phải quyết giữ lấy và cướp thêm cho “toàn vẹn núi sông”, nên kiên trì dốc người dốc của đánh chiếm suốt 20 năm trong nội bộ “người trong một nước”, với cái “cao vọng” “đốt cháy cả rặng Trường Sơn” để giành cho được “một nửa kia” bằng bất kỳ giá nào. Còn khi lâm thế bí với giặc ngoài thì lại vội nghĩ trước sau gì mình cũng là “chư hầu”, bèn lệnh ngay cho quân lính hứng đạn chịu chết chứ không mảy may tự vệ, như ở Gạc Ma năm 1988. Mâu thuẫn mà thống nhất, khôn g có gì là lạ.

Hãy cứ xem dưới đây hình ảnh những kẻ đang toa rập với nhau quyết tiếp tục khấu đầu “4 tốt, 16 chữ vàng” trước bọn bành trướng Đại Hán, ngay giữa tình thế cả nước đang sục sôi vì giàn khoan HD 981của chúng ngang ngược cắm vòi sâu vào hải phận nước ta và làm cả thế giới kinh ngạc – đấy cũng là một kiểu chạy mánh “ăn xổi” chứ còn gì nữa:

Bên hành lang QH ngày 21-5-2014, với đôi mắt lim dim, khuôn mặt thật gợi cảm và cái miệng dẻo, ông Vũ Mão đang cúi đầu trước ngài TBT mà rằng: “Chúng ta nên nói với nhân dân thế nào về phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt trong quan hệ đối ngoại hai nước? Tôi cho rằng, 16 chữ ấy có thể có lúc không đạt được nhưng nó vẫn là cái mong muốn muôn thuở”.

clip_image002

Còn vô số những hình ảnh khác nữa, cứ tự do chường ra khắp đó đây, vừa bẽ bàng với quốc tế mà ngay trong nước, hang cùng ngõ hẻm nào cũng phải bàn tán, xì xào. Nhưng thôi, chỉ một hình ảnh ấy cũng đã đủ để giải thích lý do ký giả Bill Hayton hai lần không được cấp phép vào Việt Nam. Có ai dại gì đi cấp phép cho cái anh nhà báo tuy có con mắt nhìn tinh tường về Biển Đông làm lợi cho đất nước mình đấy, nhưng lại cũng không kém sắc sảo để xoi mói đến tận… những chiếc ghế trong thâm cung mà người ta đang cố bám chặt, lâu bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nước mất ư? Thì đã có vàng ký gửi trong các ngân hàng Thụy Sĩ và có nhà mua sẵn ở Mỹ đâu đấy cả rồi, lo quái gì.

Bauxite Việt Nam

Từ chối bạn, chào đón kẻ thù

Nguyễn Tuấn

Có lẽ các bạn đã biết kí giả Bill Hayton vừa mới xuất bản một cuốn sách có tựa đề là “The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở Á Châu). Tôi chưa đọc cuốn sách (và chắc cũng không có thì giờ đọc trong tương lai gần) nhưng có nhận bài điểm sách của David Brown đăng trên Asia Sentinel(1). Đọc bài điểm sách này, tôi thấy sách có lẽ là nguồn thông tin tốt cho những ai còn quan tâm đến chủ quyền biển đảo và sự đe dọa của Tàu cộng đối với Việt Nam.

clip_image003

Trong sách, Bill Hayton chứng minh rằng những yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông của Tàu cộng dựa trên chứng cứ lịch sử là rác rưởi. Ông chỉ ra rằng những chứng cứ đó không thể nào đứng vững khi xem xét đến các văn chứng của triều Nguyễn của Việt Nam. Từ 1750, triều Nguyễn đã điều các đội hải quân ra trấn giữ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội quân triều Nguyễn còn có chức năng cứu vớt thuyền bị nạn, và mỗi chuyến hải hành, họ ghi lại trong sử sách rất cẩn thận.

Ấy thế mà Việt Nam ngày nay ngưng “lải nhải” (chữ của bài điểm sách) về chủ quyền mang tính lịch sử của mình! Thay vào đó, Việt Nam cầu khẩn thế giới tuân thủ theo luật biển UNCLOS (1994). Thái độ đó gián tiếp nói rằng Việt Nam công nhận chủ quyền của Tàu Cộng trên những quần đảo họ đã đánh chiếm bằng vũ lực từ Việt Nam. Còn Tàu Cộng thì họ biết các yêu sách và chứng cứ của họ yếu, nên họ dùng vũ lực và tẩy não. Họ tẩy não người Tàu rằng chủ quyền của Tàu Cộng ở Biển Đông là không thể chối cãi, rằng các nước nhỏ như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai đang chiếm biển đảo của Tàu!

Nhưng đoạn tái bút của bài điểm sách mới là thú vị vì liên quan đến cá nhân tác giả. Bill Hayton là phóng viên của đài BBC và từng công tác ở Việt Nam trong thời gian 2007-2008. Dù Bill Hayton có quan điểm và phát biểu có lợi cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh duy trì chủ quyền biển đảo, nhưng ông không được Việt Nam chào đón. Thật ra, Chính phủ Việt Nam cấm không cho ông vào Việt Nam! Năm 2012, Hayton xin visa để vào Việt Nam dự hội nghị về biển đảo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức, nhưng đơn của ông bị bác. Vài tháng sau, ông lại đệ đơn xin visa vào Việt Nam để phỏng vấn các quan chức cho cuốn sách này, và một lần nữa, Chính phủ Việt Nam không cho ông vào. Hệ quả là ông không có nhiều chất liệu để viết về Việt Nam trong cuộc đấu tranh chủ quyền về biển đảo. Do đó, phần liên quan đến Việt Nam trong cuốn sách này tương đối “mỏng” so với các phần khác.

Phải nói thái độ của Chính phủ Việt Nam thật khó hiểu. Theo suy nghĩ bình thường, trong khi các học giả Việt Nam chưa viết được hay chưa đủ khả năng viết được một cuốn sách như Bill Hayton, thì đáng lẽ phải chào đón một người có quan điểm “gần” Việt Nam như Bill Hayton đến Việt Nam, hay ít ra là cung cấp dữ liệu cho ông ấy. Nhưng suy nghĩ bình thường đó có lẽ không ăn khớp với suy nghĩ của Nhà nước. Nghe nói trong thời gian làm ký giả ở Việt Nam, Hayton đã có những bài làm cho Chính phủ Việt Nam không hài lòng. Nhưng tôi nghĩ việc nào ra việc đó, có thể những bài đó không hợp gu với Chính phủ, nhưng về Biển Đông thì nên sử dụng mọi quan điểm và dữ liệu từ mọi nguồn để đem lại lợi ích cho chủ quyền quốc gia.

Nếu Chính phủ Việt Nam chào đón các học giả Tàu vào Việt Nam tham dự hội nghị (và đó là quyết định hoàn toàn đúng) thì Việt Nam chẳng có lý do gì để từ chối không cho người bạn như như Bill Hayton vào Việt Nam.

N.T.

(1) http://www.asiasentinel.com/book-review/south-china-sea-struggle-power-asia/

Sách “The South China Sea: The Struggle for Power in Asia”, xuất bản bởi Yale University Press, dày 320 trang, giá bán 28 USD.

Nguồn: https://www.facebook.com/drtuannguyen

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

(Kn 3, 1-9; Rm 5, 4-11; Ga 17, 24-26).

Đời sống con người giống như lữ hành trên một chuyến xe lửa với những
trạm dừng và thay đổi tuyến đường. Khi sinh ra, cùng với cha mẹ chúng ta bước
lên xe lửa. Mong rằng cha mẹ chúng ta sẽ cùng đồng hành bên cạnh. Tuy nhiên,
tới một trạm nào đó, cha mẹ phải xuống khỏi xe lửa và rời chúng ta đi trong đơn
côi. Các trạm kế tiếp, có nhiều người bước lên xe lửa. Họ là bạn bè, anh chị
em, thân hữu và cả người yêu trong đời. Xe tiếp tục chạy, sẽ có nhiều người ra
khỏi xe và để lại chỗ trống. Có những người ra đi không ai chú ý và chúng ta
cũng chẳng mấy quan tâm là họ vắng mặt lúc nào. Trên tuyến xe lửa cuộc đời có
nhiều niềm vui, hy vọng, mong chờ, tiếng chào hỏi, tiếng cười, nỗi buồn và rồi
chia tay. Sống ý nghĩa là có được tình liên đới hài hòa với tất cả mọi
người…đòi hỏi chúng ta cống hiến điều tốt nhất của chính chúng ta. Nhiệm mầu
của đời sống là chúng ta không biết trạm nào mình sẽ xuống. Bởi thế, chúng ta
hãy sống tốt lành, yêu thương và biết tha thứ. Thật là quan trọng, chúng ta nên
thực hiện những gì tốt nhất trong đời sống. Khi thời điểm phải ra đi, chúng ta
nên để lại những kỷ niệm và ấn tượng thật đẹp cho những ai sẽ tiếp tục cuộc
hành trình.

Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội để kính nhớ tổ tiên và cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn. Uống nước nhớ nguồn. Xin lễ, cầu nguyện, kính viếng và thương nhớ đến những linh hồn
đã ra đi trước chúng ta là một nghĩa cử thảo kính, báo hiếu và biết ơn. Ai ai
trong chúng ta cũng có những người thân, thành viên trong gia đình, họ hàng, thân
hữu và các ân nhân đã qua đời. Có biết bao nhiêu thành viên trong cùng một niềm
tin mà chúng ta không biết. Chúng ta cũng chẳng thể nào kể hết ông bà tổ tiên
của chúng ta bao đời đã qua. Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh
của Chúa, nên mọi người xưa nay còn sống cũng như đã qua đời, đều có sự liên hệ
tông giống nhân loại. Chúng ta biết rằng mọi người, không phân biệt, đều là loài
thụ tạo cao quý có hồn và xác.

Khi lìa đời, thân xác của con người là vật chất, nên sẽ bị tan rữa và trở về cát bụi. Còn linh hồn
thiêng liêng không thể tan biến. Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa (Kn 3, 1). Thân xác con người
đều tan rữa hư nát giống nhau. Chỉ có linh hồn còn hiện hữu trong thế giới vô
hình. Đích cùng, linh hồn người công chính và linh hồn kẻ bất lương sẽ không giống
nhau. Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa. Đây là chìa khóa của đời sống
tâm linh con người trên trần thế. Có sự khác biệt vô cùng lớn lao trong cuộc
sống ngày sau, giữa người thánh và ác nhân. Chúng ta nhớ dụ ngôn ông nhà giầu
và Ladarô nghèo khó, sau khi cả hai cùng chết, số phận mỗi người một khác. Ông
Abraham đáp lời ông nhà giầu đang bị khổ đau: Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được (Lc 16, 26). Mọi người được sinh ra cùng lữ hành, nhưng khác nhau nơi
điểm đến sau cùng. Có người sẽ đến được bến bờ hạnh phúc và có kẻ sẽ chịu hình
khổ đời đời.

Người khôn ngoan là người biết dự liệu cho mình hành trang đi về cuộc sống mai hậu. Nếu cứ mải mê tìm kiếm những thú vui trần đời, chúng ta sẽ dễ bị lạc vào mê hồn trận và tương
lai không biết đi về đâu. Không phải chúng ta chờ đến giây phút cuối đời, rồi cầu
nguyện: “Lạy Chúa, lạy Chúa…mà được vào nước trời”. Chúng ta phải thực hành thánh
ý Chúa Cha. Có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu trong gian khổ, tu luyện, trau
dồi đức hạnh, tuân giữ các giới răn và cần được thanh luyện. Tác giả sách Khôn
Ngoan dạy rằng: Thiên Chúa đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu (Kn 3, 6). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã nhận lãnh hạt giống đức tin.
Chúng ta đã cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.

Truyện kể: Có một bé trai cứ khóc ròng trong lớp học. Cô giáo hỏi: Điều gì làm em buồn khổ thế. Cậu bé trả lời rằng em gái của cậu đã chết, bởi vì người ta đã chôn em dưới nấm mồ và đã lấp đất lại rồi. Cô giáo dẫn  bé trai tới chỗ cửa sổ, nơi đó có một số bình đựng đất xốp. Vài tuần trước, các em đã gieo những hạt giống trong đất. Cô giáo giải thích rằng các hạt gieo
xuống sẽ không giữ nguyên vẹn. Các hạt giống được trồng trong đất và sau một ít
ngày, các hạt này sẽ nẩy mầm, lớn lên thành cây và trổ hoa. Đó là ý nghĩa mà
các hạt giống sẽ biến đổi. Cô giáo lấy ngón tay moi một hạt giống dưới đất xốp,
hạt đã bắt đầu nẩy mầm non và mọc thêm rễ. Cô giáo giải thích: Hạt giống không
chết. Nó đang thay đổi và bây giờ đang trong tiến trình biến đổi rất ý nghĩa.

Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã hứa với các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14, 2). Lời của Chúa Giêsu là lời quyền năng chân  thật và là bảo chứng cho niềm tin của chúng ta. Đây không phải là lời hứa xuông, mà là một sự xác tín cho những ai đang mong đợi ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã  cầu nguyện cùng với Cha của Ngài: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với  con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24). Đây là chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Mọi loài thụ tạo đều có cùng đích để
hướng tới. Đặc biệt đối với con người, Thiên Chúa đã muốn chia sẻ tình yêu và
hạnh phúc viên mãn. Khởi đầu thơ gởi Do-thái, tác giả viết: Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này,
Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng
nên vũ trụ, đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1, 1-2).

Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về ý nghĩa và sứ mệnh làm người. Trong cuộc lữ hành hướng tới cùng đích là Nước Trời. Chúa Giêsu đã mở cửa Nước Trời ngay tại thế để mời gọi chúng ta gia nhập bước vào. Con đường vào Nước Trời là con đường hẹp. Con đường Chúa
đã đi qua. Chúng ta hãy bước theo gót chân và đi theo lối bước của Chúa. Chúa
là ánh sáng đã đến trong thế gian, ánh sáng soi dọi vào đêm tối để dẫn dắt
chúng ta tới nguồn sáng thật. Chính Chúa Kitô đã ban cho chúng ta lời hằng
sống, bánh trường sinh và sự sống thật. Ngài đã chiến thắng tử thần và sống lại
vinh quang. Chúa đã chết vì tội lỗi của chúng ta để ban lại cho chúng ta sự
sống muôn đời. Thánh Phaolô viết: Thế mà
Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta (Rm 5, 8).
Tất cả chỉ vì tình
yêu, cả công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa. Chúa đã chết cho tình yêu để
chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa: Chúng
ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng
nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5, 11).

Lạy Chúa, cuộc sống này thay đổi chứ không mất đi. Chết không phải là hết, mà là bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống đời này và
chuẩn bị hành trang cho đời sống mai hậu. Chúng con cầu xin cho tất cả các linh
hồn đã qua đời được chung hưởng hạnh phúc qua lòng từ bi nhân hậu của Chúa.
Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi,
hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Anh chị Thụ Mai gởi