Đám Tang Tử Tế

Đám Tang Tử Tế

Nguyễn Trung Tây

□ Vào ngày cuối cùng của nhân gian, Chúa sẽ hỏi mọi người nhiều câu nhưng đều có chung một mẫu số: “Con có sống tử tế hay không?” (Matt 25:31-46). Tử tế thật sự ra mang tính trường sinh bất tử. Tôi sống tử tế, tôi sống muôn đời.

Sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6. Phố Melbourne tấp nập thường lệ một ngày đô thị. Trên lề đường Flinder, tiếng chân nhanh nhanh bước tới công sở rộn ràng khua vang. Góc đường William, đèn xanh bật sáng, hàng xe hơi bám sát nối đuôi nóng nẩy gầm gừ phóng tới. Tháng 6, Úc Châu mùa Đông, mây xám dầy cộm che kín bầu trời. Vài khuôn mặt ngái ngủ, tay giơ cao, che miệng ngáp, mắt lơ đãng nhìn hai ba người ồn ào tại một góc phố. Tiếng người to tiếng chưa dứt, bất ngờ tiếng súng chát chúa nổ vang! Ngay tại góc đường William Street và Flinder Lanes, hai người đàn ông và một cô gái bật ngửa, té ngã. Vài người che miệng, có kẻ rú to! Mấy phút sau, xe cảnh sát nóng nảy chớp đèn phóng tới. Xe cứu thương bám sát theo sau hú còi khua vang. Một buổi sáng thứ Hai bận rộn dừng lại. Chưa ai hiểu chuyện chi đã xẩy ra.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, qua tin tức truyền hình và truyền thanh, cư dân Melbourne mới biết nguyên nhân dẫn đến tiếng súng. Nhận ra cô Kara Douglas bị hung thủ Christopher Hudson hành hung ngay giữa phố thị, Luật sư Brendan Keilar và anh Paul de Waard, hai người khách qua đường cùng nhảy vào can thiệp. Hung thủ Christopher lạnh lùng rút súng bắn trọng thương ông Brendan và anh Paul, đả thương trầm trọng cô Kara. Một tiếng đồng hồ sau, bệnh viện đưa tin anh Paul và cô Kara đang trong tình trạng hôn mê, nhưng riêng ông luật sư Brendan 43 tuổi đã trút hơi thở cuối cùng, để lại vợ và ba người con nhỏ.
Tiếng đạn nổ vang vào lúc 8:20 buổi sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6 ngay giữa khu phố sầm uất Melbourne lấy đi một mạng người, gây thương tích trầm trọng hai người; nhưng tệ hại nhất, viên đạn sắt cũng đã đả thương trí mạng triết lý tử tế của nhân loại. Luật sư Brendan Keilar giờ đã ngủ yên trong nghĩa trang. Nhưng triết lý tử tế vẫn còn đang nằm hấp hối không biết sống chết lúc nào… Giờ này, có lẽ cư dân Melbourne còn đang thắc mắc tự hỏi không biết mình còn nên tiếp tục hành xử tử tế nữa hay không, bởi coi chừng có ngày mình dám mất mạng như ông luật sư Brendan! Bây giờ, nếu người vợ biết chồng mình có tính hào hiệp, giữa đường ưa nhào vào can thiệp chuyện thiên hạ, liệu người vợ có nên tiếp tục yên lặng? Bởi biết đâu, có ngày rồi chính mình và những đứa con cũng sẽ phải mặc áo tang đi theo sau quan tài của chồng và của bố …
Cẩn tắc vô ưu là thế!

I. Người Tử Tế: Coi Chừng!
Ngày hôm nay, bởi những luật lệ chằng chịt và ý thức hệ mới trong xã hội, người Tử Tế của những năm 2000 trước khi quyết định giúp ai cũng phải hết sức cẩn thận, kẻo không phước đâu chưa thấy mà lại thấy họa rước vào thân.
Khi gặp một em bé té ngã lăn quay nơi công cộng, người cẩn thận sẽ không vội vàng chạy lại bồng em đứng dậy. Chớ, chớ! Chớ có mà dại, bởi ai biết đâu đấy, bố mẹ em bé hoặc chính em sẽ đâm đơn kiện ngược lại người Tử Tế đã “cố tình” động chạm đến thân thể của em…
Tôi nhớ, trong một lần chạy bộ ngoài đường, vừa chạy được mấy bước, tự dưng tôi nhận ra thấp thoáng hai bóng người. Người phụ nữ khuôn mặt Á Châu đang hốt hoảng khua tay miệng kêu lớn,
Help! Help!
Trong khi đó bên cạnh bà ta, người phụ nữ Tây Phương khoảng bẩy mươi tuổi, khuôn mặt trầy trụa vết bầm, đang cầm khăn tay cố gắng bôi xóa dòng máu đỏ phun ra từ hai lỗ mũi. Tôi hốt hoảng dừng lại, miệng hỏi người đàn bà Á Đông, “What is happening?”, mắt nhìn theo những dòng máu đỏ tươi, trong đầu nghĩ ngay tới số điện thoại cấp cứu. Nhưng người đàn bà Úc khoác tay điệu bộ dứt khoát xua đuổi, chân bước tới, miệng nói,
I’m OK. I’m fine.
Trong khi đó, người phụ nữ Á Châu mặt mày hốt hoảng tiếng đực tiếng cái kể chuyện bà vừa mới thấy người đàn bà Úc xiêu vẹo té ngã sấp mặt xuống mặt đường xi măng… Nghe thủng lỗ tai câu chuyện, tôi chạy đuổi theo người đàn bà đang dần dần khuất dạng cuối đường. Nhận ra tôi, người đàn bà lập lại điệp khúc cũ, “I’m fine. I’m OK”, trong khi đó, một tay tiếp tục cầm khăn tay lau những dòng máu đang tuôn chảy, tay kia ra hiệu dáng vẻ dứt khoát xua đuổi!
Tôi dừng lại những bước chân, quay lại phân bua với người Tử Tế khuôn mặt Á Châu,
Sorry! What can we do?
Phải, chúng ta có thể làm được chi, nếu bạn đang sống trong một xã hội mà ý thức hệ về tự do cá nhân được tôn trọng, con người có quyền từ chối không chấp nhận sự giúp đỡ từ những người lạ mặt, và ngay cả những người thân trong gia đình.

II. Làm Được Chi?
Đúng là như thế, chúng ta có thể làm được chi, nếu người hàng xóm đã từng được chúng ta giúp đỡ trong cơn túng thiếu, giờ này tự dưng lạ mặt, không còn nhớ tới tình hàng xóm tối lửa tắt đèn và luôn cả số tiền mà họ đã nhăn mặt nói khó, chìa tay ra mượn năm xưa.
Mà nói có Ông Trời chứng giám, một lần gặp phải đốm đen trần thế như thế này, nhân gian có thể nhắm mắt nhịn nhục bỏ qua. Nhưng hai lần, rồi ba lần, lòng kiên nhẫn và lòng tử tế rồi cũng sẽ nổ tung như bọt bong bong căng phồng. Chẳng trách chi tâm hồn trần thế tiếp tục trở nên giá băng như tâm hồn cô gái đang tâm bỏ lại người con sơ sinh mới chào đời trước cửa bệnh viện Dandenong vào sáng sớm ngày 13 tháng 5 vừa qua. Mà mỉa mai thay, ngày 13 tháng 5 cũng chính là ngày Hiền Mẫu.
Bởi trái tim trần gian đã đóng băng, chẳng trách chi đàn ông Úc gốc Tây nhắm mắt làm ngơ, tỉnh bơ tiếp tục câu cá trước thân thể trương phềnh của thiếu nữ thổ dân Úc, nổi lềnh bềnh trên mặt hồ nước, như bộ phim Jindabyne trình chiếu tại Úc năm 2006 đã đặt vấn đề, đã từng chất vấn lương tâm của tất cả những người dân Úc trước thảm nạn của thổ dân Úc Châu.

III. Người Tử Tế: Đám Tang Tử Tế
Nói có thể phách hiển linh của ông luật sư Brendan chứng tha lỗi, lâu lâu mới có một người vớ vẩn như ông! Chẳng trách chi ông ngã gục. Chưa hết, ông luật sư lại còn tạo thêm môt cơ hội cho phe tà cầm kiếm sắc lụi thẳng vào ngực khiến mạng triết lý tử tế giờ này chỉ mành treo chuông. Có lẽ chẳng còn bao lâu nữa, thiên hạ sẽ lại sụt sùi, ngậm ngùi nước mắt mang xác triết lý tử tế đi chôn. Mà coi chừng đó, một khi nắp hòm triết lý tử tế đóng lại, đám tang tử tế đã cử hành, sự tử tế mồ yên mả đẹp, thiên hạ cũng sẽ thôi không còn đối xử tử tế với nhau nữa cho coi.

A. Thiên Hạ Đại Loạn
Mà nếu triết lý tử tế chết đi, thì thiệt tình là kẹt, bởi không biết lúc đó thiên hạ sẽ đại loạn tới cỡ thế nào?
Chồng không còn tử tế với vợ, con dâu không còn tử tế với mẹ chồng, hàng xóm không còn tử tế với láng giềng, nhà thờ không còn tử tế với giáo dân, chính phủ không còn tử tế với dân chúng!
Đại loạn! Thiên hạ đại loạn!
Thiệt tình là thế, trong một xã hội mà triết lý tử tế đã chết đi, mái ấm thân thương không còn ngọt ngào thân thương nữa; vợ chớ có cả tin mà thả lỏng dây cương, nhưng lo mà giữ chồng kè kè sát ngay bên, bởi ông bà mình đã từng dạy, “Đàn ông năm bẩy lá gan, lá ở cùng vợ lá toan cùng người”. Mẹ chồng lo mà cẩn thận giữ thân trước khi đưa vào miệng chén cơm trắng cá kho do cô con dâu vừa từ dưới bếp bưng lên, bởi câu chuyện dài mẹ chồng nàng dâu thì vẫn chưa tới hồi chung cuộc!
Đáng ngại là thế!
Trong một xã hội mà triết lý tử tế đã chết đi, hàng xóm láng giềng lo mà khóa cửa nhà cho chặt, bởi có ai mà tin được ai! Cẩn tắc vô ưu, đi ra ngoài đường là phải thủ sẵn trong người, nhẹ thì dao găm, nặng hơn súng lục. Vô tới nhà thờ rồi, giầy dép để ngoài sân, nhưng dao găm và súng lục nhét sâu trong người. Cha cụ cử hành thánh lễ trên cung thánh, ở dưới giáo dân miệng lẩm bẩm câu kinh, nhưng mắt lấm lét ngó trước nhìn sau, một tay chắp trước ngực, tay kia đặt trong túi quần nắm chặt chuôi dao găm, báng súng lục. Thánh lễ vừa tan, vừa bước ra khỏi nhà thờ, giáo dân tay dao tay súng kéo nhau tới nhà Thôn trưởng, nhẹ thì xin tí huyết, nặng thì bặp luôn, bởi tội ăn trên ngồi chốc áp bức dân làng từ bao năm nay. Thế là huyết lưu mãn địa! Cứ thế, Thôn này nối tiếp Huyện kia. Huyện kia cộng lại với Tỉnh khác, cả hai nhân lên hóa ra cả nước. Nước Úc nối tiếp nước Mỹ biến thành toàn cầu.
Đại loạn toàn cầu bởi triết lý tử tế đã chết đi, đám tang tử tế đã được cử hành, quan tài tử tế đã bị chôn sâu dưới ba thước đất là như thế!

B. Hiệp Định Copenhagen
Như vậy thì cần gì phải ồn ào kéo nhau về Copenhagen họp hành, đề nghị các quốc gia kỹ nghệ trên thế giới phải giảm thiểu tối đa lượng thán khí thải vào trong bầu khí quyển. Đằng nào thì cũng chết hết. Chết bởi global warming hay chết bởi đám tang tử tế thì cũng chỉ là một cái chết.
Mà coi chừng đó nghe! E rằng hiểm họa gây ra bởi đám tang tử tế tới nhanh hơn là hiểm họa gây ra bởi hiện tượng trái đất nóng dần. Thì cứ nhìn đi rồi sẽ thấy, cũng phải kéo dài trên dưới 200 năm từ những thời điểm khi kỹ nghệ cơ khí phát triển thải ra bao nhiêu thán khí vào bầu khí quyển cho tới những ngày gần đây, trái đất mới bắt đầu ho khan, ắt xì, chuyển mình nóng sốt. Nhưng hồi thế chiến thứ Hai, chỉ trong vòng trên dưới một năm, sát thủ Ninja Nhật Hoàng Hirohito đã gửi về âm phủ 2 triệu người Việt Nam chết đói xanh xao; Hitler chỉ trong có mấy năm cầm quyền mà đã giết đã đốt ra tro hơn 6 triệu người Do Thái trong những trại tập trung. Nhưng nếu đem con số của 2,000,000 nạn nhân bởi Ninja Hirohito hoặc 6,000,000 bởi phát xít Hitler ra so sánh với con số 61,911,000 nạn nhân bỏ mạng trong trại tù Gulag của Liên Sô từ những ngày Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, và 35,236,000 bị giết chết tại Trung Hoa lục địa từ năm 1949, [1] thì sát thủ Hirohito và đồ tể Hitler còn phải nghiêng mình cúi đầu khiêm nhường vô lớp ngồi học dưới sự hướng dẫn của sư tổ Lenin, giảng sư Stalin, và đại sư phụ Mao Trạch Đông.
Thiên hạ đại loạn toàn cầu sau khi triết lý tử tế đã chết đi đã mồ yên mả đẹp là thế đó!

IV. Sự Tử Tế Đã Chết?
Nhưng có đúng là bởi những ràng buộc chằng chịt về luật pháp trong ngày hôm nay, bởi những đồ tể Lenin, Hitler, Hirohito, Stalin, Mao Trạch Đông, và gần đây nhất Christopher, triết lý tử tế đã chết đi, đã bị chôn sâu dưới lòng đất hay không?
Tôi dừng lại những hàng chữ, nhìn chung quanh. Văn phòng nơi tôi đang ngồi làm việc vào một buổi chiều, tất cả đang yên lặng. Người Thư ký văn phòng đang chăm chú ngồi đánh máy công văn. Qua khung cửa văn phòng, tôi nhận ra tia nắng vàng chiếu xiên xiên hàng cây phượng tím. Bây giờ đang là một buổi chiều tháng 6 Úc Châu. Bầu trời sa mạc xanh ngăn ngắt mặc dầu tháng 6 Úc Châu mùa đông. Tôi nhận ra tiếng hò hét của học sinh Tiểu học nơi sân trường, tiếng cười tiếng hát… Trong văn phòng, tôi ngồi cặm cụi ngồi viết những hàng chữ cuối cùng một bài ngăn ngắn gửi báo địa phương, một bài văn nửa tường trình nửa trình bày kinh nghiệm sau một lần công tác với thổ dân… Đời sống Úc Châu vẫn trôi qua trong êm ả và thanh bình. Đời sống riêng tôi tại sa mạc cháy đỏ bình an và hạnh phúc!

A. Khăn Rằn Ri và Lơ Xe
Không bù lại cho một khoảng thời gian cuối thập niên 70, khi đó tôi vào tù ra khám như cơm bữa bởi tội vượt biên. Tệ hại nhất là lần bị bắt giam tại trại tù Tiền Giang năm 1978. Khi tôi được thả, trên người thiếu niên mới lớn chỉ còn trơ trọi bộ quần áo tù và một tờ giấy Lệnh Tạm Tha. Không có một đồng lận trong người để mua vé xe về lại Sài Gòn, tôi không còn chọn lựa nào khác, đành phải chìa tay…ăn mày. Thấy tôi thiếu niên, mặt mày xanh xao đói khát chìa tay xin tiền, những bà bán hàng ở chợ Mỹ Tho nhanh nhanh quyên góp, bố thí cho tôi những đồng tiền tử tế để tôi mua vé xe đò quay về lại Sài Gòn. Câu chuyện tử tế chưa chấm dứt ở đó, bởi khi bước lên xe đò, người thanh niên lơ xe mặt còn trẻ măng, trong khi soát giấy chứng minh nhân dân và thâu tiền xe đò, thấy tôi ngần ngại chìa ra tờ giấy Lệnh Tạm Tha, lắc đầu cười nho nhỏ, không lấy tiền vé, nhưng chỉ cho tôi chiếc ghế gỗ của anh ta ngay phía sau lưng ghế bác tài.
Dòng thời gian trôi, bao nhiêu thăng trầm trôi nổi tôi đã nếm khá nhiều trong gần ba chục năm vừa qua; bao nhiêu mặn nhạt chua cay do trần gian mang lại, tôi “hưởng” đủ; và tôi cũng đã quên đi tất cả; nhưng vẫn không hiểu tại sao tôi vẫn còn nhớ rõ những khuôn mặt quấn khăn rằn ri của những bà hàng chợ Mỹ Tho và nụ cười anh chàng lơ xe đò Tiền Giang vào một buổi trưa tháng 5 năm 1979 tại phố chợ Mỹ Tho???

B. Công Nương Diana
Vào dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Công nương Diana do hoàng tử William và Henry tổ chức, hơn 70 ngàn người đã kéo về vận động trường Wembley thủ đô London để tưởng nhớ công nương Diana. Công chúa Diana có thể nổi tiếng bởi vì cô đẹp, lại còn là vợ hoàng tử nước Anh, và mẹ đương kim thái tử William; nhưng sau khi cô trút hơi thở cuối cùng, tưởng rằng có lẽ theo dòng thời gian người người rồi cũng sẽ quên đi người con gái xinh đẹp nhưng lại mệnh bạc. Nhưng không! Người ta vẫn nhắc nhở tới công nương Diana và những công tác bác ái xã hội của riêng cô. Nếu công nương Diana khi còn sống quyết định đóng khung trong tháp ngà vương giả như bao nhiêu công nương khác, có lẽ thiên hạ rồi cũng sẽ quên cô đi như thế gian đã từng quên đi bao nhiêu công nương. Nhưng Diana vẫn còn sống trong lòng, ít ra là 70 ngàn người, chính bởi vì tấm lòng tử tế của cô đối với người nghèo trên thế giới. Công nương đã lưu lại trong tâm khảm của nhiều người không phải bởi cô đẹp, hay bởi cô là công nương của hoàng gia Anh, nhưng chính bởi cô giàu lòng tử tế với những nạn nhân của bệnh Aids và những người nghèo khổ của lục địa Phi Châu.

C. Chuyện Bất Tử
Thật vậy, những đời người sống với và dạy dỗ nhân loại về sự tử tế đều đã trở thành vĩ nhân bất tử của thế giới, Đức Phật, Đức Khổng Tử, Đức Giêsu, Thánh Gandi, Mẹ Theresa…
Riêng về Đức Giêsu, chuyện kể rằng vào một buổi sáng thứ Hai, những người đàn bà đi tới ngôi mộ đá, và họ khám phá ra tảng đá đã lăn sang một bên, riêng xác Đức Giêsu đã biến mất. Để giải thích hiện tượng lạ kỳ này, có người nói nếu Đức Giêsu có khả năng hồi sinh cô con gái mười hai tuổi của ông Jairus (Mark 5: 41-42), con trai bà góa thành Nain (Luka 7:11-17), và ông Lazarô đã chôn trong mộ bốn ngày (John 11), thì làm sao Ngài lại không có khả năng để phục sinh chính thân xác của Ngài.
Suy luận trên đây có tính thuyết phục. Nhưng cũng vẫn có một lý do khác để giải thích tại sao Đức Giêsu đã sống lại; lý do này liên quan đến khái niệm bao gồm ba chữ: Sự Tử Tế. Nói một cách khác, Đức Giêsu đã sống dậy bởi vì Ngài là một người tử tế, Ngài là hiện thân của Sự Tử Tế. Và sự tử tế thì không bao giờ có thể chết thối trong mồ, hoặc bị lãng quên theo dòng thời gian. Nói một cách ngắn gọn, tử tế có tính bất tử

V. Ông Luật Sư Brendan: Sự Tử Tế
Bởi sự tử tế có tính bất tử, tôi bỗng dưng ngộ, hiểu ra tại sao đã gần ba chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ tới những khuôn mặt tử tế của những bà hàng quấn khăn rằn ri và anh chàng lơ xe đò của một buổi trưa tháng 5 năm 1979 tại phố chợ Mỹ Tho.
Bởi công nương Diana có tấm lòng tử tế, cho nên cô sẽ còn tiếp tục sống trong lòng nhiều người.
Bởi Đức Phật, Đức Khổng Tử, Đức Giêsu, Thánh Gandi, Mẹ Theresa là những người tử tế, các Ngài là hiện thân của Sự Tử Tế, các ngài sẽ còn tiếp tục sống mãi và sống muôn đời.
Sau hết, bởi tấm lòng tử tế, ông luật sư Brendan Keilar đã không chết, nhưng tiếp tục trở thành một nhân vật bất tử. Cái chết của ông không phải là một cái chết vớ vẩn, nhưng là một tấm gương soi cho thị dân Melbourne và người dân Úc, dù là Úc gốc Tây, hay Úc gốc Việt. Giờ này thể xác ông đã yên nghỉ, nhưng hồn phách tinh anh của ông vẫn sống với người dân thị trấn Melbourne, bởi nói theo hơi nhạc của Trần Thiện Thanh,

Anh không chết đâu anh,
Người anh hùng “Nhân Hậu” tên “Brendan”.
Anh vẫn sống thêng thanh
trong lòng muôn người
biết yêu “sự tử tế”.

Đúng như vậy, cuộc đời trăm năm ngắn ngủi sẽ trôi qua. Ngàn vạn thành quách cũng đã sụp đổ. Vĩ đại như Alexander hay Quang Trung đại đế cũng đã nằm xuống. Xinh đẹp sắc sảo như Nữ Hoàng Cleopatra hay Nam Phương Hoàng Hậu cũng đã ngủ yên. Cuộc đời tiếp tục trôi qua. Thiên hạ tiếp tục rủ nhau bốc hơi biến mất. Ngày mai nếu hiểm họa global warning xầm xập kéo tới bôi xóa phố phường Úc Châu và cả thế giới, lúc đó, sẽ chỉ còn sót lại trong tâm thức vũ trụ những nhân vật mang chân dung Tử Tế. Tất cả còn lại đều chỉ là một con số không to tướng mà thôi.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www,nguyentrungtay.webs.com

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 4: Minh truyền

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 4: Minh truyền

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 4: Minh truyền

Nguyễn Tiến Dân

26-11-2014

MINH TRUYỀN

Thiên này, lấy giác độ sống – còn của 1 quốc gia, mà thảo luận phép trị Nước.

Nhà Chu, nghiên cứu rất kĩ, về vấn đề này. Cha truyền – con nối, đều dạy nhau, Nước mất – Nhà tan, bởi:

Khinh thường quần chúng. Nên, chẳng được họ, ủng hộ

Dốt nát và nhu nhược. Nên, dễ bị kẻ khác, đè đầu

Bản thân xấu xa và hủ bại. Nên, nói chẳng ai nghe.

Họ, không đổ lỗi cho người khác. Họ, dạy nhau, phải tu dưỡng Đạo đức. Họ, dặn nhau, không bao giờ, được sống buông thả. Chính vì vậy, họ giữ vững được chính quyền. Trong suốt 800 năm ròng, không một “thế lực thù địch và phản động” nào, có thể lật đổ được họ. Không biết, trên Trái đất. có triều đại nào, tồn tại được lâu như vậy không?

明传:

文王寝疾,召太公望,太子发在侧. Văn vương tẩm tật, chiêu Thái công Vọng, Thái tử Phát tại trắc.

Văn vương, bệnh nặng. Ngài cho vời, Khương Thái công và Thái tử Cơ Phát, tới bên giường bệnh.

曰:“呜呼!天将弃予,周之社稷,将以属汝. 今予欲师至道之言,以明传之子孙”.

Viết: Ô hô! Thiên tương khí dư, Chu chi xã tắc, tương dĩ thuộc nhữ. Kim dư dục sư chí đạo chi ngôn, dĩ minh truyền chi tử tôn .

Vương, nắm tay 2 người, mà dặn dò: “Ô hô! Trời sắp bỏ ta. Xã tắc nhà Chu, nay mai, sẽ giao cho con quản lí. Nay, mời Quốc sư đến. Xin Người, hãy vì Ta, mà cởi lòng, nói ra những điều, nung nấu nhất trong tâm can, về phép trị Nước – an Dân. Cơ Phát con, đó cũng chính là di chúc, mà Cha sẽ để lại, cho con và cho cháu chắt, muôn đời sau”.

Ôi, nhân tình – thế thái. Cùng là cách, ký thác con côi. Thế gian, mỗi người mỗi kiểu. Lưu Bị, vụng về đóng kịch, vờ muốn trao lại quyền hành, cho Khổng Minh. Sau khi bị từ chối, mới dặn con, coi Khổng Minh như cha. Chu Văn vương, giỏi – khéo và thâm thúy hơn nhiều. Ông chân tình, dặn con: Thiêng liêng, như Di chúc, Ta cũng để Khương Thái công, nói thay. Bởi, Khương Thái công, thấu hiểu ruột gan Ta. Ta với Khương Thái công, tuy 2 mà là 1. Lời của Thái công, chính là lời của Ta. Sau này, phải nghe lời chỉ bảo của Thái công. Hai Thày – Trò, phải kết hợp với nhau, để giữ vững đại nghiệp.

太公曰:王何所问?Thái công viết:Vương hà sở vấn?

Thái công nói: “Đại vương, muốn hỏi điều gì?”

文王曰:先圣之道,其所止,其所起,可得闻乎?Văn vương viết: Tiên Thánh chi đạo, kì sở chỉ, kì sở khởi, khả đắc văn hồ?

Văn vương nói: “Thánh – Hiền thủa trước, khi luận về đạo trị Nước – an Dân, họ đã đúc kết: Nguyên nhân nào, khiến Nước mất – Nhà tan. Nguyên nhân nào, khiến Nước mạnh – Dân giàu. Quốc sư, có thể nói, cho Cơ Phát nghe, được không?”

Cùng là cách, chăm lo cho con. Đại bàng, khác hẳn chim sẻ.

Đại bàng, để lại Đất nước cho con. Nhưng, không dạy con, cách ăn cướp – cách bóp nặn Thiên hạ, để ăn trên – ngồi trốc họ. Đại bàng, dạy con cách giữ chế độ lâu dài và chọn cho con, một ông thày tuyệt vời. Để, chỉ bảo cho con, cách làm việc đó.

Chim sẻ, dạy con cách liều lĩnh, lao vút vào thinh không, để thể hiện mình. Trong khi, con nó, đâu có bộ lông dày – đâu có “6 đốt xương trụ vững chắc”. Không kiệt sức, cũng phải chết rét. Đó là tương lai, của chú sẻ non.

Khi con còn trẻ – dốt nát và không có bản lĩnh. Cố tình, đẩy nó ra chính trường. Đó là, cách nhanh nhất, để giết chết nó.

太公曰:见善而怠. Thái công viết: Kiến thiện nhi đãi”.

Thái công trả lời: “Coi khinh quần chúng bần hàn – lương thiện”. Đó là nguyên nhân số 1, để mất chế độ.

Một chế độ, ra rả kêu rằng, họ “lấy Dân làm gốc”. Nhưng, thực chất, chúng coi Nhân dân, chỉ như 1 bầy nô lệ. Chúng, không chăm lo cho Dân, đã đành. Ngược lại, thông qua, sưu cao – thuế nặng, chúng bóc lột họ, đến tận xương – tận tủy Chúng, lăng nhục – mạt sát họ thậm tệ. Ai cũng có thể, là thằng – là con – là “các thế lực thù địch và phản động”. Chúng, thẳng tay đàn áp, khi người Dân, không nói và làm theo chúng. Thích bắt – là bắt. Thích thả – là thả. Luật – lệ, do chính chúng ban ra, có cũng như không. Bởi, chúng chỉ thích, dùng luật rừng. Có tai như điếc – Bởi, chúng đâu có thèm nghe, tiếng ai oán, vang động khắp trời của dân chúng. Có mắt như mù – Bởi, chúng đâu có thèm nhìn, cuộc sống cơ hàn của quần chúng. Dối trá và bịp bợm. Bởi, chúng luôn cho rằng, quần chúng bần hàn, chỉ là 1 lũ ngốc.

时至而疑,Thời chí nhi nghi.

Vua – Chúa ngu dốt, cho nên nhu nhược – đớn hèn. Thời cơ đến, không bao giờ dám quyết. Đó, đâu phải, là phẩm Đức của bậc Đế vương. Không có phẩm Đức của bậc Đế vương, nhưng vẫn an nhiên, ngồi trên ngai báu. Ắt sẽ bị, Dân chúng coi thường – Thuộc hạ khinh bỉ. Không có nhiều người, tự nguyện “làm đầy tớ cho thằng dại”. Họ, sẽ hành động. Đó là, nguyên nhân thứ 2, để mất ngôi báu.

Lãnh thổ – lãnh hải, bị ngoại bang công khai mò đến. Chúng ngang nhiên khoanh vùng – đóng cọc, để đào bới. Trong nhà – ngoài ngõ, đều sôi lên sùng sục. Ai cũng muốn, làm cho “ra ngô – ra khoai”, với lũ kẻ cướp. Có mấy cách, để lựa chọn:

-Ngồi lại với nhau, để nói chuyện “phải – trái”.

-Không được, thì lôi nhau ra Tòa.

-Cuối cùng, là dùng nắm đấm, để nói chuyện với nhau.

Nhưng, cả cung Vua – phủ Chúa, đều im thin thít. Nghị viện, cũng câm như hến. So vai – rụt cổ, thể hiện sự hèn hạ vô cùng. Nhân dân xuống đường, thì đàn áp người ta. Trong khi, lại muốn Quốc tế biểu tình, để ủng hộ mình. Rõ là lũ khôn vặt. Tài – trí, chỉ sánh ngang, với tầng lớp tiểu nông. Đâu có, khí phách của bậc Đế vương. Uy tín và ngôi báu, không mất mới là sự lạ.

知非而处,Tri phi nhi xử.

Biết điều sai trái – xấu xa, vẫn thản nhiên làm. Lúc đó, hủ bại, đã trở thành bản chất của giới cầm quyền. Khi mình hủ bại, “há miệng – mắc quai”. Nói – chẳng ai nghe. Đe – chẳng ai sợ. Không điều hành được Đất nước, tất phải mất nước. Đó là, nguyên nhân thứ 3, để mất chính quyền.

Biết kẻ bất nhân – vẫn dùng. Cổ nhân dạy, khi “sâu bọ lên làm người”, lúc ấy, thế nước đã mạt. Nay, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đã công khai thú nhận : Cán bộ của ông, đầy 1 lũ sâu bọ. Dĩ nhiên, là vô tài và thất đức. Nhưng, chúng vẫn được giao cho quyền hành. Thậm chí, chúng phá hoại, cũng không bị phế bỏ. Vì sợ: “bầu không kịp”. Thế gian, chỉ có CS, mới dám làm việc này. Còn các nước Dân chủ, họ kinh hãi loài sâu bọ. Sợ chúng, làm “hỏng nồi canh”. Nên không bao giờ, để chúng mon men, tới chốn quan trường.

Biết của bất nghĩa – vẫn nhận. “Ăn uống ở nhà hàng này, nhà hàng nọ, tiền ấy chẳng phải từ tham nhũng, thì từ đâu mà ra? Không tham nhũng, lấy đâu tiền mà chạy chức vụ này – chức vụ kia…”. (Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam). Có lẽ, ông Chủ tịch Quốc hội, nên bố xung thêm: “Không bóp nặn của Dân lành – không bóp nặn của thuộc cấp, lấy đâu tiền, để xây biệt thự. Lấy đâu tiền, để gửi Ngân hàng nước ngoài. Lấy đâu tiền, để ăn chơi văng mạng…” . Và, ông hãy thử, sờ tay lên gáy của mình. Ông, hãy công khai tài sản và giải trình, nguồn gốc của chúng, cho Thiên hạ biết. Có dám làm không, mà nói hăng thế.

Biết việc thất đức – vẫn làm. Như Hitler đó: Sẵn sàng, tuyệt diệt dân Do Thái. Sẵn sàng, đặt ách nô dịch lên toàn châu Âu và thế giới. Đốt nhà Quốc hội Đức, để vu oan – giáng họa, cho những người Cộng sản. Giết lính biên phòng Đức, rồi vu cáo cho Ba lan, mà phát động Đệ nhị thế chiến. Chung cuộc của Hitler, chắc chẳng cần phải nhắc lại.

Suy cho cùng, vẫn không bằng, có nhà nước, cho xe tăng – xe bọc thép, chà nát học sinh – sinh viên của mình. Khi, các cháu, chỉ có khát vọng Dân chủ – Tự do. Và, trong tay, không có nổi, một mẩu thép.

Biết việc trái đạo – vẫn đem ra thi hành.

Xưa, An Dương vương, tự dẫn sói vào nhà, khiến Nước mất – Nhà tan.

Nay, nhà nước CS, phớt lờ lời cảnh báo của tướng Giáp, để dẫn Trung cộng vào Tây nguyên – Tử huyệt của Đất nước. Nào có phải, họ đến, là để làm giàu cho Đất Việt. Họ đến, để khai thác Bô xít. Về kinh tế, thì lỗ. Về môi trường, thì độc hại và tiềm ẩn, thảm họa cho Đất nước. Về văn hóa, làm nhạt nhòa, bản sắc văn hóa của các dân tộcTây nguyên. Tai hại như thế, nhưng đã là “chủ trương lớn của đảng”, nên cứ phải, nhắm mắt – nhắm mũi mà thi hành.

此三者道之所止也。Thử tam giả, đạo chi sở chỉ dã

Chế độ nào, hội đủ 3 yếu tố này, chế độ đó, chắc chắn sẽ bị diệt vong .

柔而静. Nhu nhi tĩnh

Ôn hòa và mềm dẻo – Bình tĩnh và công bằng, để giải quyết công việc.

Là nước lớn, nhưng ai cũng nhận thấy, Hoa kì, hành xử rất thân thiện và có trách nhiệm. Họ không hung hăng, bắt nạt các nước nhỏ. Không sợ xun vòi, trong quan hệ với các nước lớn. Họ nguyện bảo vệ, các giá trị của Tự do – Dân chủ. Bởi vậy, đi đến đâu, Tổng thống Hoa kì, cũng được dân chúng yêu mến và chào đón nồng nhiệt. Một trời – một vực, khác với thái độ của họ, dành cho lãnh đạo CS.

恭而敬,Cung nhi kính.

Tôn trọng dân chúng và cẩn thận từng li – từng tí, trong công viêc hàng ngày. Người như thế, đâu dễ mắc, những sai lầm ngớ ngẩn.

Hãy thử 1 lần, ngắm nhìn bức ảnh, ông Obama, cho 1 cháu bé 5 tuổi, sờ lên đầu của mình. Ta biết, ông tôn trọng dân chúng, đến mức nào. Hãy nhìn, những bức ảnh, cán bộ CS, đứng ưỡn bụng và dạng háng, trước công chúng. Hãy nhìn, những cái vỗ tay hững hờ của họ. Ta sẽ biết, trình độ văn hóa của họ, cao đến mức nào.

强而弱. Cường nhi nhược.

Cành cây già, tất cứng. Cứng, thì dễ gãy. Những nhành cây to, mới nhú, nó còn mềm. Nó, có thể phát triển được. Đó là, lí tự nhiên.

Con người ta, dù mạnh đến đâu, cũng cần phải khiêm tốn. Khiêm tốn, giúp người ta, vươn lên mãi. Ương ngạnh cho rằng, chỉ có mình mới đúng và phủ nhận, tất cả những quan điểm khác mình. Như thế: khác gì. cành cây già – khác gì, cỗ xe đã lên đến đỉnh dốc và chuẩn bị đổ đèo. Chỉ có xuống và chẳng còn lên được nữa.

忍而刚. Nhẫn nhi cương.

Thời cơ chưa đến – nhẫn nhịn đợi thời . Thời cơ chin muồi – kiên quyết nắm chắc, để đoạt thủ thiên hạ. Nhịn những cái nhỏ. Nhưng, không bao giờ được nhượng bộ, những vấn đề, có tính nguyên tắc.

Khi đàm phán, để hoạch định Biên giới trên bộ: Nguyên tắc chung, là phải tôn trọng Hiệp ước Pháp – Thanh. Tôn trọng những cột mốc, đã được cắm, theo qui định của Hiệp ước này. Khi, bổ xung cột mốc mới, có thể nhượng bộ, xê xích tí chút. Không hiểu sao, Việt cộng, dễ chấp nhận nguyên tắc, do Trung cộng đưa ra: “Trên các dòng sông chung, Biên giới Quốc gia, được tính theo trung tuyến của dòng nước chảy”. Kết quả, Việt nam, mất đứt đi, ít nhất là nửa bãi Tục Lâm – nửa thác Bản Giốc.

Tại sao họ bị lừa? Chỉ có Trời, mới biết.

此四者,道之所起也. Thử tứ giả, đạo chi sở khởi dã.

Quân chủ, có 4 đức tính này, mà lãnh đạo xã hội. Xã hội ấy, nhất định: Dân thì giàu – Nước thì mạnh.

故义胜欲则昌,欲胜义则亡. Cố, nghĩa thắng dục tắc xương, dục thắng nghĩa tắc vong.

Ở 1 Quốc gia, khi quyền lợi của Đất nước, được đặt trên quyền lợi của đảng phái – được đặt trên quyền lợi của gia đình. Đất nước, sẽ hưng thịnh. Bởi, nó thuận Đạo: Quân – Sư – Phụ. Ngược lại, khi “Hiến pháp của Đất nước, đứng đằng sau Cương lĩnh của đảng”. Khi đó, dục vọng của đảng CS, đã chiến thẳng công lí. Kết quả: “đất nước Việt Nam, mãi mãi là đất nước vô pháp luật” (Đại tá Phạm Đình Trọng). Và, không thể phát triển được.

Trong con người của bậc Vua – Chúa , khi chính nghĩa, chiến thắng dục vọng thấp hèn của bản thân, Quốc gia sẽ hưng thịnh và ngược lại. Đổng Trác và Lã Bố, cùng tranh nhau nàng Điêu Thuyền. Đó là, khởi đầu cho quá trình: Đổng Trác chết – Lã Bố vong. Dân Việt, khinh cái sự ấy lắm. Họ, gọi cái sự ấy, là: “cha – con, ăn chung 1 máng”. Không biết, ở Việt nam, có lãnh đạo nào, mà cha – con, đã từng ăn chung 1 máng chưa?

敬胜怠则吉, 怠胜敬则灭。Kính thắng đãi tắc cát, đãi thắng kính tắc diệt.

Từ việc lớn, cho đến việc nhỏ – Từ viêc quan trọng, cho đến chuyện bình thường. Khi đã bắt tay vào làm, người Nhật, đều làm với niềm đam mê. Họ, làm cho bằng tốt, mới thôi. Chính vì vậy, sản phẩm, mang nhãn hiệu Made in Japan, được người tiêu dùng, rất ưa chuộng. Ngược lại, người Trung quốc, coi thường khách hàng. Sản phẩm của họ làm ra, có chất lượng tồi và thường được khuyến mại thêm, sự độc hại. Chính vì vậy, khách hàng, chỉ tìm đến họ, khi không còn sự lựa chọn nào khác.

Chăm chỉ làm việc, để tạo ra nhiều của cải cho xã hội, thì tốt. Chăm ăn – chăm chơi, mà không chăm làm, mấy chốc mà bị diệt vong. “Rừng vàng – Biển bạc”, đâu có tác dụng gì, với lũ lười biếng.

Lời bàn

Vi trùng, hiện diện, ở khắp mọi nơi. Mầm bệnh, trong người, ai mà không có. Người ta ốm, bởi vì người ta yếu. Họ, khỏe mạnh, bởi có cơ thể tráng cường. Đó là, lí tự nhiên.

Các thế lực thù địch và phản động” với chính quyền, nơi nào mà không có. Đảng CS Mĩ, chẳng hạn. Họ, công khai hoạt động và hoạt động có tổ chức. Họ ra rả, nói vào tai dân Mĩ: Chủ nghĩa Tư bản, là xấu xa và tồi tệ. Hãy ủng hộ, để họ lên nắm quyền. Họ, sẽ lo cho dân Mĩ, một Thiên đường, vạn lần tốt hơn hiện nay. Nhưng, dân Mĩ thông minh. Qua lá phiếu của mình, họ phủ nhận nó. Chính quyền hiện nay của họ, thực sự đã là của Dân – do Dân và vì Dân. Nên, nó cực kì vững mạnh. “Các thế lực thù địch và phản động”, nói thế, chứ nói nữa, nó cũng chẳng thể đổ được.

Ngược lại, “Các thế lực thù địch và phản động” của chính quyền CS: Qui mô – nhỏ lẻ. Hoạt động – phân tán. Hành động – không thống nhất. Tài chính – chẳng có gì. Nhưng, sao chính quyền CS, luôn sợ nó, đến mức phát cuồng lên? Đơn giản, vì chính quyền CS, không dựa vào Dân. Nên, nó rất yếu. Chỉ hắt hơi – xổ mũi sơ sơ, cũng có thể lăn đùng ra, mà đi đến, Đài hóa thân Hoàn vũ. Nga xô và khối CS Đông Âu, là những ví dụ.

Yếu, thì phải chết. Đó là Chân lý. “Tháo dạ, đừng đổ vạ cho cơm”. Đừng đổ lỗi, cho “Các thế lực thù địch và phản động”. Đó chỉ là, ngụy biện. Là cái cớ, để đốt tiền, cho các lực lượng vũ trang – cho bộ máy tuyên truyền. Mà thực chất, chúng chỉ là, lũ ăn hại.

Luận, về sự sụp đổ của 1 thể chế, nhà Chu cho rằng, có 2 nguyên nhân cơ bản và họ đưa ra, 2 đối sách tương ứng, để đối phó:

Thứ nhất, do người trong nước, vùng lên lật đổ. Có thể, do khởi nghĩa vũ trang. Tỉ như, cách mà Nga xô, đã làm với chính quyền Nga hoàng. Có thể, thông qua hình thức ôn hòa. Tỉ như, nhà Trần, giành chính quyền từ tay nhà Lý. Tỉ như, Nhân dân Ba lan, giành chính quyền, từ tay thể chế CS.

Thứ 2, do ngoại bang, mang quân đến phế bỏ. Tỉ như, người Việt nam, đã làm ở Campuchia.

Lịch sử, đã chỉ rõ: Vô luận, trong bất cứ trường hợp nào. Chính quyền bị lật đổ, cũng đang, ở trong trạng thái mục ruỗng – thối nát , đến tận xương – tận tủy. Vì vậy, nhà Chu, đề ra biện pháp đối phó, hết sức chủ động. Họ không mong, đối lập yếu đi. Họ chỉ mong, xây dựng chính quyền của họ, vững mạnh. Tất nhiên: Không phải, bằng bạo lực – Không phải, bằng tuyên truyền dối trá. Xây dựng chính quyền vững mạnh, phải dựa trên cơ sở: Tự sửa mình và Chăm lo cho “gốc – rễ”. Đó là, Nhân dân.

Riêng, trong trường hợp “mang quân, đến phế bỏ người”. Nhà Chu, không dạy con cháu, cách “ăn sống – nuốt tươi”, cách “lấy thịt – đè người”. Như người Mĩ, đã từng làm ở Iraq. Họ dạy con cháu, cách khôn khéo hơn nhiều. Cách đó, mới là, “Âm mưu diễn biến hòa bình” chính hiệu. Đề tài này, xin được trình bày ở bài sau: Văn phạt.

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

 

Chấn hưng dân trí: Làm cách nào để sự giả dối không truyền đến đời con cháu?

Chấn hưng dân trí: Làm cách nào để sự giả dối không truyền đến đời con cháu?

Vũ Cao Đàm

Trên trang Bauxite Việt Nam ngày 24/11/2014 có một bài viết với cái tít rất thú vị của Duy Chiến trong câu chuyện với ông Nguyễn Minh Nhị, Cựu chủ tịch UBND Tỉnh An Giang, và Duy Chiến đã trích lời ông Nhị: “Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu”.

Đọc xong bài viết của Duy Chiến, tôi giật mình sững sờ, và thốt lên một lời than: “Bác Nhị ơi, nó, cái sự giả dối ấy, đang truyền qua đời con cháu rồi đó. Nó đã đi trước sự cảnh báo của bác Nhị rồi”.

Chí sỹ Phan Châu Trinh dạy ta phải “Khai dân trí”. Vậy thì trên con đường Chấn hưng dân trí, thế hệ chúng ta phải làm sao “Khai dân trí” cho lớp con cháu chúng ta?

Tôi xin góp với Duy Chiến một câu chuyện mà tôi thấy rất “tâm tư”, “tâm tư” mỗi khi lên giảng đường thảo luận bài vở với lớp trẻ – lớp sinh viên đáng tuổi cháu nội cháu ngoại của các thầy cô còn đứng trên giảng đường cùng với lứa tuổi tôi. Đây có lẽ chính là cái “đời con cháu” của bác Nhị, mà thế hệ chúng ta đang được may mắn chia sẻ với họ những tư tưởng và tình cảm qua các mảnh đời trải nghiệm.

Trong một lần hướng dẫn sinh viên (lứa sinh năm 1994-1995) thuộc nhiều ngành học khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, về phương pháp nghiên cứu khoa học, tôi được nghe một sinh viên trình bày một nghiên cứu về phân tích “Nguyên nhân chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch”.

Khi nghe bạn sinh viên trẻ măng, còn kém tuổi cháu nội cháu ngoại của mình, trình bầy một Research Question và một Research Hypothesis về âm mưu của các thế lực thù địch muốn xóa bỏ cái thiên đường viễn tưởng này, như một ước vọng cao cả của nhân loại (giống như tôi đã từng nghe báo cáo của các vị tuyên huấn từ những năm tháng của thập niên 1960), tôi chợt giật mình, sững sờ vì cái “Dân trí” của lớp trẻ, mà tôi vốn nghĩ một cách rất chân thành, rằng đáng ra họ phải chỉ mặt thế hệ chúng ta mà mắng nhiếc, để mà sỉ vả, rằng: “Chính các ông bà đã từng làm những vệ sĩ trung thành của cái hệ thống đầy khuyết tật này, và chúng tôi, lớp con cháu, phải hàn gắn lại những đống phế thải ấy, không biết đến bao giờ mới khắc phục được”.

“Chính các công bà đã từng tiếp tay cho những kẻ ký cho quân xâm lược vào trấn đóng Tây Nguyên, cho chiến hạm của quân xâm lược ra vào cửa ngõ vô cùng hiểm yếu về chiến lược của cảng sâu Vũng Áng”

“Chính các ông bà đã thờ ơ trước những kẻ đã cho quân xâm lược trấn đóng trên cả một vùng đất rộng lớn hàng nhiều chục ngàn héc ta rừng đầu nguồn, cho kính viễn vọng của bọn cướp biển được đặt chính giữa đèo Hải Vân, một địa thế yếu hầu trấn giữ đường biển để khống chế đất nước chúng ta”.

“Chính các ông bà đã tạo dựng nền móng cho những kẻ đang tâm để quân xâm lược gặm dần gặm mòn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, để rồi không biết đến thế kỷ bao nhiêu các thế hệ con cháu mới đòi lại được”.

Tôi thành tâm mong đợi lớp con cháu chỉ mặt thế hệ chúng ta để mắng nhiếc, để sỉ vả những lời như thế.

V.C.Đ.

Tác giả gửi BVN

 

Xã hội “loạn”, đi về đâu bây giờ?

Xã hội “loạn”, đi về đâu bây giờ?

Hà Văn Thịnh

Chỉ trong mấy ngày, báo chí cùng lúc đưa những tin thật buồn: Hà Nội nằm trong ‘top ten’ điểm đen thế giới về nạn móc túi và TP. HCM thì lâu nay đã trở thành miền ‘đất dữ’ bởi hàng ngàn con nghiện tiêm, chích ma túy như thể uống cà phê, ăn sáng… Chưa hết, báo Thanh Niên trong mục Chào buổi sáng (05:30, 6.11.2014) còn có cảnh báo khá nghiêm trọng về tình trạng bất an của nông thôn từ Kon Tum tới Đà Lạt, Miền Đông Nam Bộ.vv..

Con nghiện tiêm, chích ma túy như thể uống cà phê, ăn sáng

12_ZFCY

Xã hội “loạn”, đi về đâu bây giờ?

Nếu đọc qua thì đó chỉ là những tin tức cũng… bình thường như bao tin khác về các tệ nạn xã hội đang phát triển, có lẽ với cấp số nhân, trên khắp cả nước ta. Thế nhưng, nếu ngẫm kỹ một tý thì chắc chắn phải giật mình vì một thực trạng đáng sợ: Từ thành phố tới nông thôn, từ thủ đô đến ‘Hòn ngọc Viễn Đông’, từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng thấy sự lộng hành của cái ác; sự coi thường pháp luật của kẻ xấu; sự lo lắng của người dân; sự thờ ơ – nếu không muốn nói là sự gần giống với bất lực của bộ máy công quyền…

Điều đáng phải ngạc nhiên đến mức… hốt hoảng là, tình trạng gia tăng các loại tội phạm lại… tỷ lệ thuận với sự phình to của bộ máy hành chính các cấp mà báo chí đang bàn tới bàn lui nhiều đến mức đọc không xuể.

Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Nghệ An tâm sự với người viết bài này rằng năm ngoái (2013), tổng thu ngân sách của toàn tỉnh là 6.500 tỷ đồng, trong khi phải chi đến 14.000 tỷ đồng! Trong số 14.000 tỷ đồng phải chi ấy, có phần không nhỏ chi cho bộ máy cảnh sát, an ninh. Ai cũng biết lương thượng tá ngang với lương thứ trưởng; trung tá, thiếu tá thì ngang ngửa với vụ trưởng, vụ phó…

Câu hỏi đặt ra là: Tại sao đi đâu cũng gặp các sĩ quan cảnh sát mà ‘hòn ngọc’ thì thành ‘đất dữ’, thủ đô bị biến thành một trong 10 thành phố nhiều trộm cắp nhất thế giới? Nếu biện minh rằng thôi thì các thành phố lớn trên thế giới đều thế cả thì trả lời sao đây với chuyện mà Thanh Niên đã đưa: Nông dân phải để lại một phần mủ cao su trong các bát cho thế lực đen nếu không vườn cao su bị phá; vườn cà phê không chung chi thì bị ‘làm cỏ’ còn cánh đồng trồng hoa thì bị xe bán tải đến cướp hoa đem đi… bán, giữa ban ngày?

manh-khoe_cvot

Chưa bao giờ đất nước lâm vào tỉnh cảnh rối bời như hiện nay, dẫu có dùng núi mỹ từ hay uyển ngữ để bao che, giảm tải. Nợ công đến 1.000 USD cho mỗi người dân, chẳng có dân nào nuôi nổi bộ máy hành chính cồng kềnh cứ cắp ô đi về mặc dân bất an, khổ sở, rồi nạn tham nhũng tràn lan, rồi sách giáo khoa soạn cẩu thả, dốt nát đến tệ hại…

Sự xuống cấp với tốc độ chóng mặt và diễn ra với mức độ toàn thể ấy không thể dùng cách nào khác hơn để diễn đạt: Đất nước đang đứng ở cái ngưỡng báo động màu da cam (mức độ nguy hiểm cao nhất theo chuẩn quốc tế) trên mọi lĩnh vực – đổng nghĩa với sự bất ổn nhiều hệ lụy (nếu không muốn nói là nguy hiểm) mà sự chần chừ, thờ ơ, lảng tránh, xoa dịu… đều đồng nghĩa với tội ác.

Tại sao không nghĩ rằng một khi con nghiện nhiều như nấm độc sau mưa – theo số liệu rất đáng lo ngại nếu chúng ta tạm bằng lòng với cách tin của lứa tuổi mười ba, mười bốn, mỗi năm nước ta tăng thêm 7.000 con nghiện (SGGP, 27.10.2014) thì ít nhất mỗi năm phát sinh thêm 7.000 kẻ sẵn sàng trộm cắp, cướp bóc, đe dọa, tống tiền. Như vậy, chỉ mươi năm nữa, ‘đội quân’ nghiện sẽ đông đến hàng trăm ngàn. Có ai nghĩ với hình ảnh ‘đất dữ’, ‘điểm đen’ ghê gớm như thế mà tính trung bình, mỗi năm Hà Nội hay TP. HCM chỉ tăng thêm 111 con nghiện (7.000 chia cho 63 tỉnh, thành )?

Không thể chấp nhận một đất nước mà lòng dân thường xuyên bị tổn thương, bất an, bất lực trước cái ác, cái xấu; trong khi hàng ngày phải è cổ ra nuôi cả một bộ máy cồng kềnh. Làm sao có thể an nhiên tự tại khi các số liệu, tự chúng, chứng minh rõ ràng về sự bi hài: Quản lý 90 triệu dân, tài sản GDP mỗi năm hơn 200 tỷ USD mà cần đến 2,8 triệu công chức, nhân viên. Trong khi đó, nước Mỹ với 310 triệu dân, GDP 17.500 tỷ USD, có mặt ở mọi điểm nóng trên toàn thế giới, chỉ cần 2,1 triệu người làm quản lý.

Huế, 7.11.2014

Hà Văn Thịnh

GIÁO DỤC NHÂN BẢN VÀ GIÁO DỤC CỘNG SẢN

GIÁO DỤC NHÂN BẢN VÀ GIÁO DỤC CỘNG SẢN

Hà Minh Thảo

Nhân ngày nhà giáo Việt Nam (hay lễ Hiến chương nhà giáo Việt Nam) được tổ chức hằng năm vào ngày 20 tháng 11, chúng ta cùng nhìn lại triết lý của hai nền giáo dục đã được thực thi tại Việt Nam Cộng hòa và cộng sản được áp dụng tại đây sau ngày Đất Nước thống nhất. Lý do thành lập ngày này là để ‘các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn với những người thầy’ và ‘ngành giáo dục đánh giá lại hoạt động của mình hầu nâng cao chất lượng giáo dục’.

I.- GIÁO DỤC NHÂN BẢN.

Năm 1958, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tổ chức Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I tại Sài gòn với sự tham dự của mọi thành phần xã hội: giáo sư các cấp từ tiểu đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật…, phụ huynh học sinh, học giả, đại diện quân đội và các tổ chức tư nhân để xây dựng một nền Giáo dục Quốc gia theo ba nguyên tắc ‘nhân bản’, ‘dân tộc’, và ‘khai phóng’ được ghi cụ thể trong tài liệu ‘Những nguyên tắc căn bản’ do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và, sau đó, trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967. Đó là :

1./ Nhân bản là triết lý chủ trương con người giữ một địa vị quan trọng trong quốc gia (lấy con người làm gốc và cuộc sống của họ là căn bản; xem con người là cứu cánh chứ không phải là phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào. Triết lý này chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

2./ Giáo dục dân tộc tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa cùng những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

3./ Giáo dục khai phóng không nhất thiết phải bảo thủ tinh thần dân tộc, nhưng phải biết mở rộng cửa hầu tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ, tiếp cận với văn minh thế giới.

Từ ba nguyên tắc căn bản đó, Tổng thống Ngô Đình Diệm đề ra những phương hướng chính cho nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa nhằm đạt mục tiêu: Sau khi được giáo dục, những bạn trẻ nước Việt sẽ nên Công Dân như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại? Đó là :

a./ Phát triển toàn diện cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị từng học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện từng cá nhân theo bản tính tự nhiên mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.

b/. Phát triển tinh thần quốc gia nơi học sinh, được thực hiện bằng giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và lối sống của người dân; giúp hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu nước mình, phát huy tinh thần đoàn kết, tranh đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học tiếng Việt và sử dụng tiếng này một cách có hiệu quả; giúp nhận biết nét đẹp của quê hương, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp người trẻ có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

c./ Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học bằng giúp học sinh tổ chức các nhóm làm việc độc lập, qua đó, phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp họ có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.

Những kỷ niệm bản thân.

a.) Cá nhân chúng tôi được theo học tiểu học tại trường công lập, dù vào thời Pháp thuộc, nhưng chắc chắn được đãi ngộ hơn thời cộng sản chỉ biết ‘thủ tục đầu tiên’. Các Thủ tướng đều là những trí thức biết cung cấp cho đồng bào một chương trình giáo dục gần như tại mẫu quốc vì họ cần đào tạo các công chức và những nhà chuyên môn. Thầy và cô giáo là những nhà mô phạm đáng kính vì có khả năng, chứ không do ô dù đảng. Sinh hoạt kinh tế không quá đắc đỏ, nên lương bổng bảo đảm đời sống đầy đủ. Trước Tết Nguyên đán, mẹ chúng tôi làm ít mứt bí và gừng để mừng tuổi các Thầy và Cô giáo.

b.) Khi chúng tôi bước vào trung học, đúng lúc Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa dành lại Độc lập (chủ quyền, tài chính…) cho Việt Nam và Quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhưng vì trường công cấp này chưa nhiều nên phải thi tuyển. Biết khả năng của con, song thân đã tín nhiệm tư thục Lasan Taberd cho chúng tôi vào học. Trường này được phụ trách bởi các Tu sĩ Dòng Lasan, do Thánh Linh mục Gioan Tiền hô de la Salle thành lập, hiện diện trên Quê hương từ năm 1866. Sứ vụ Giáo Hội Công Giáo trao cho các Sư huynh, vừa là Thầy và là Anh đối với giới trẻ đàn em. Để ‘Phát triển tinh thần quốc gia nơi học sinh’ việc chào Quốc kỳ màu vàng được lưu truyền từ Trưng Trắc và Trưng Nhị đánh thắng Tô Định chạy về Tàu. Mỗi thứ hai, Quốc Ca cũng được trổi lên cùng lúc Cờ Việt được kéo lên. Sau đó, Sư huynh Hiệu trưởng có đôi lời với các thầy và học sinh và tuyên đọc danh sách các trò đến trể tuần qua : kỹ luật nghiêm nhặt để kết quả ‘tiên học lễ, hậu học văn’ đạt được kết quả mỹ mãn trong các kỳ thi theo chương trình Pháp lẫn Việt. Sau giờ học, thầy trò gặp nhau trong các cuộc tranh tài thể thao. Trường Taberd đã cung cấp cho Bóng bàn Việt Nam những cây vợt đẳng cấp thế giới : Lê Văn Tiết (vô địch quốc tế Pháp 1959) và với Mai Văn Hòa, Trần Cảnh Được và Trần Văn Liễu, Việt Nam Cộng hòa đoạt vô địch toàn đội Á châu năm 1958 và huy chương đồng vô địch quốc tế 1959… Hàng năm, sáng sớm ngày áp lễ Chúa giáng sinh, cựu học sinh Ngô Đình Diệm đến hiệp dâng Thánh Lễ và thăm Thầy cũ cùng trò chuyện với học sinh nội trú.

Đến ngày 30.04.1975, Giáo Hội Công Giáo điều hành 226 trường trung học và 1.030 trường tiểu học, với các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd và các trường Lasan khác tại Thủ đức, Đà lạt, Mỹ tho, Nha trang, v.v.. (dành cho nam sinh); Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới), Saint Paul, Thiên Phước (dành cho nữ sinh) bị nhà nước Cộng sản đóng cửa và ‘mượn’ trường ốc.

II. GIÁO DỤC CỘNG SẢN.

Theo Wikipedia, Giáo dục Việt Nam hiện nay chưa có lời phát biểu rõ ràng và chính thức về triết lý giáo dục của mình. Có người cho rằng Việt Nam cần thiết phải có một triết lý giáo dục phù hợp với nhu cầu đổi mới và hội nhập’. Tháng 9/ 2007, Học viện Quản lý Giáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo ‘Triết lý giáo dục Việt Nam’, nhưng các đại biểu cho rằng nền giáo dục Việt Nam từ trong truyền thống và hiện đại đều có triết lý giáo dục, thể hiện qua những câu như: ‘Không thầy đố mày làm nên’; ‘Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu mến thầy’; ‘Học thầy không tày học bạn’; ‘Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người’; v.v..

Điểm báo liên quan.

Lang thang trên xa lộ thông tin, chúng tôi đọc được mẫu tin sau : Trong đời đi dạy 17 năm, tôi sợ nhất ngày 20-11. Ngày ấy, tôi thường trốn phụ huynh và rất sợ những tấm thiệp mà kèm trong đó là một, hai trăm ngàn đồng. Cách đây 7 năm, lúc ‘văn hóa phong bì’ bắt đầu trong mối quan hệ giữa phụ huynh và thầy cô giáo, học trò nào cũng mang tặng tôi một tấm thiệp được ba mẹ dán cẩn thận, tôi đã phải bất đắc dĩ mở từng tấm thiệp, đọc lời chúc, còn tiền để lại phong bì, nhờ các em mang về đưa bố mẹ, tôi đã gọi điện để giải thích từng phụ huynh. Có những phụ huynh dè bĩu: đã nghèo lại còn bày đặt! Nhưng cũng có em học sinh đã khóc khi thấy tôi làm vậy. Tôi đã ôm em để sau này em sẽ hiểu hơn! Các giáo viên đều mong muốn là sự thành thật, là cách cư xử của các em, chứ không phải những phong bì kia! Nghèo, chúng tôi cũng đã nghèo rồi, có thêm từng đó cũng chẳng giàu! Chỉ mong phụ huynh hãy cùng chúng tôi dạy dỗ các em trong bối cảnh xã hội có rất nhiều điều khiến các em xao nhãng việc học! Đó là món quà lớn nhất đối với chúng tôi!

Để tiếp nối truyền thống sư phạm Công Giáo, các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp phụ trách Trường tư thục mẫu giáo Duy An – Gò Vấp thông báo: « Chân thành cám ơn quý Phụ huynh đã tín nhiệm gởi các cháu đến học… Dịp 20/11 này, nhà trường xin không nhận tất cả các loại quà, dù là bất cứ hình thức nào’. Đây là một hành động can đảm từ chối văn hóa phong bì, được bôi trơn bởi biếu xén và ‘hoa hồng’… ». Giáo Hội Công Giáo cần được góp phần chuyên môn của các nhà sư phạm Công Giáo vào nền Giáo dục Việt Nam các cấp để phù hợp với lời mời thực hiện của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trao cho các Giám mục Việt Nam ngày 22.01.2002 : « Nhà nước và Giáo Hội, tuy độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình, nhưng vì cùng cần phải hoàn tất sứ mạng riêng biệt để phục vụ cùng một tập thể đồng bào Việt Nam, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu hơn nhờ ‘Sự Hợp tác lành mạnh’ hầu tạo sự phát triển từng cá nhân và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng ». Để hoàn thành sứ vụ phục vụ các trẻ em ở cấp mẫu giáo, các nữ tu phải vượt biên giới để khẩn cầu các ân nhân ngoại quốc trợ giúp tài chính để xây dựng trường ốc hay tân trang sau hàng chục năm sử dụng.

Sự thật, Việt Nam không xứng danh một quốc gia xã hội chủ nghĩa mà chỉ là một nước cộng sản, trong đó, cộng đảng hoang phí và tóm thu tài nguyên đất nước. Tại các quốc gia xã hội thật sự, chính phủ, bằng biện pháp thuế khóa, kêu gọi người dân có thu nhập cao đóng góp vào ngân sách để giúp đở người nghèo hơn. Ở các nước xã hội Âu châu, cha mẹ bị cưỡng bách phải để con cái đi học đến 16 tuổi và đó là một quyết định chánh trị, nên ngân sách quốc gia phải đài thọ mọi chi phí trường ốc, lương giáo viên và công chức, … Phụ huynh học sinh không phải đóng học phí. Ngoài ra, vì tôn trọng tự do của các cha mẹ muốn chọn cho con theo học tại trường tư thục và vì họ cũng đã đóng thuế, nên ngân sách quốc gia phải trợ cấp cho các trường tư. Học bổng quốc gia được cấp cùng tiêu chuẩn không phân học sinh trường công hay tư.

Một vấn đề khác, đảng cộng sản đã chỉ thuê những thầy cô giáo ‘hồng hơn chuyên’. Trong đó, có giáo sư chưa hề một phút nếm tự do tại Việt Nam Cộng hòa lại sang Hoa kỳ đòi viết nghiên cứu về người ‘Việt tị nạn’, làm sao để hiểu thấu tâm trạng người đã mất tự do đó và phải ly hương. Đó chỉ việc tư bản Mỹ liệng ra một số đô la cho kẻ muốn gây tranh cải giữa người Việt với nhau vì một sự kiện vô lý.

Hành động hữu lý và cao cả của giới sư phạm ‘đỏ’ là phải lên tiếng về trường hợp sinh viên Nguyễn Phương Uyên và chống lại quyết định vô nhân đạo do Hiệu trưởng Đặng Vũ Ngoạn, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ chí Minh ký ngày 29.11.2013, buộc Phương Uyên thôi học vì cô đã vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể trái luật vì, theo Luật hình sự, sau khi ra tù, việc đình chỉ đảm nhiệm chức vụ chỉ có thể từ 1 đến 5 năm, trong khi quyết định này có tính cách vĩnh viễn. Hơn thế nữa, điều 65, khoản 3 Luật thi hành án hình sự quy định ‘Người được hưởng án treo được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó’ù. Do đó, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nói với chị Thanh Trúc (đài RFA ngày 07.12.2013) : « Té ra Việt Nam ngày nay trong việc tôn trọng quyền học tập của con người, không khá hơn chế độ Apartheid và cũng không bằng chế độ mà người ta vẫn thường cho là ngụy quyền! ». Ngày nay, sau sự kiện ‘giàn khoan dầu HD 981 mà Trung quốc đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam’, hai câu mà Phương Uyên viết bằng máu mà nhà nước cộng sản buộc tội ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’ đã là những lời tiên tri phải được thực thi nếu người Việt muốn ‘Sống trên Quê hương mang tên Việt Nam’.

Tại Pháp, ngày 04.10.1994, Florence Rey, 19 tuổi, sinh viên văn khoa, và người yêu Andry Maupin, 22 tuổi, sinh viên triết, đã cướp súng của cảnh sát để đi ăn cướp. Với súng cướp được, họ chận một tắc xi, có chở một khách, buộc phải chạy theo lệnh họ. Tài xế cố tình đụng xe tuần cảnh và hét ‘chúng giết chúng tôi’. Maupin nổ súng bắn chết ba cảnh sát và người tài xế. Hai người qua đường bị thương. Chúng bắt làm con tin một tài xế xe du lịch để chạy trốn vào khu Bois de Vincennes. Một cảnh sát chạy mô tô đuổi theo, bị chặn bởi rào cản, Maupin nổ súng bắn chết cảnh sát này. Maupin bị thương và chết hôm sau tại bệnh viện. Trong vòng 25 phút chạm súng, 5 người chết và Florence Rey đã nạp mình, sau khi hôn từ biệt tình nhân. Tại Phiên tòa Đại hình Paris từ ngày 17 đến 30.09.1998, thời gian cần thiết để các bên có dịp nói hết ý muốn và các thẩm vấn từ Chánh án và Công tố viên. Các chuyên viên tâm lý và nhân chứng trình bày nhận xét của mình cũng như các luật sư tự do bào chữa, tranh luận. Sau 5 giờ 30 phút nghị án, Tòa tuyên án 20 năm tù cấm cố cho Florence vì là đồng phạm giết người nhưng được giảm khinh do bị áp lực tình yêu mù oán. Trong khi thụ án, Florence đã học và dự thi thành công brevet de technicien supérieur (BTS, văn bằng chuyên môn 2 năm sau Tú tài) Phụ tá quản lý năm 2007. Để hoàn tất học trình, cô được phép rời nhà tù để thực tập tại xí nghiệp. Nhờ có hạnh kiểm tốt, năm 2009, tức 15 năm thi hành án, Florence Rey được trả tự do.

Xin nhắc lại một trong những lý do thành lập ngày này là để ‘các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn với những người thầy’. Trong bài ‘Hồi ức và suy niệm về chuyện thầy trò’ http://www.boxitvn.net/bai/30818 , nhà giáo Tiêu Dao Bảo Cự, đang bị quản chế, cảm thấy cô đơn ghê gớm vì bị cô lập khỏi xã hội, không ai dám quan hệ và, ngay thời kỳ bị thực dân nước ngoài xâm lược, người cộng sản đã làm được việc hô hào nhân dân nổi dậy nhưng nay, dưới sự cai trị của họ, bạo lực bộ máy đàn áp thực kinh khủng, gây nỗi sợ hãi nơi toàn bộ xã hội mà người dân muốn thoát thì xem ra khó khăn gấp bội. Sáng ngày Nhà giáo, Đan Tâm đi đến trường dự lễ : Trường và Hội phụ huynh học sinh cho mỗi giáo viên nữ một bộ quần áo dài nhưng phải may đồng phục với vải màu xanh, khi mặc vào, trông như những cây biết đi… Tối qua, một phụ huynh chở hai con đến thăm Đan Tâm và tuôn ra một tràng những lời sáo rỗng, trao phong bì và xin kiếu đi đến giáo viên khác. Bà từ chối phong bì nhưng thày đã để lại. Trong bao, có 20.000 đồng… Gần đây, ông gặp một học sinh cũ ở chợ huyện. Đã gần 40 tuổi, gầy gò, quần áo bẩn thỉu, ngồi ở bậc thềm chợ, em đã chào ông và cả hai nói chuyện với nhau chừng 10 phút, em đã nói ngay với ông, giọng đầy trách móc: « Ngày xưa thầy đã lầm khi kêu gọi đấu tranh lật đổ chế độ cũ và tụi em cũng làm theo. Bây giờ thầy có nhận ra điều đó và có hối tiếc không? » Ông hơi sững người trước câu hỏi bất ngờ đó và vì đang đứng trước chợ, tôi lại có chuyện vội nên không tiện lý giải vấn đề mà chỉ trả lời qua loa, hẹn sẽ gặp em vào dịp khác để nói chuyện. Cho đến bây giờ thầy vẫn chưa có dịp gặp lại người học trò cũ đó, cũng chưa nhớ ra tên em và hỏi em đang làm gì nhưng, qua bề ngoài, chắc em sống rất khó khăn, nghèo khổ. Thày thật sự xúc động vì biết đã từng có những học sinh tin tưởng mình đến thế và thấy trách nhiệm của mình thật quá nặng nề.

Hà Minh Thảo

‘Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu’

‘Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu’

Duy Chiến thực hiện

“Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu”, nguyên Chủ tịch An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị chia sẻ.

LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Minh Nhị, tên thường gọi là Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang.

clip_image001

Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch An Giang. Ảnh: Duy Chiến

Mở đầu những trăn trở về nông nghiệp và người nông dân VN, ông Bảy Nhị chia sẻ câu chuyện thăng trầm của cá ba sa – loài cá được dựng tượng đài tại Châu Đốc – An Giang vì tầm quan trọng của nó.

Làm ăn kiểu “tình chị duyên em”

Sau khi thịt cá ba sa phi lê tìm được đường xuất khẩu vào thị trường Mỹ đầu những năm 1990, trải qua quá trình nghiên cứu, khảo sát vất vả, ông Nhị và các đồng nghiệp đã thành công trong việc cho loài cá này sinh sản nhân tạo. Một thời cơ vàng dường như mở ra khi chúng ta chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường lúc đó đang rất lớn.

Vậy nhưng…

Ông Nguyễn Minh Nhị: Tôi còn nhớ có lúc cao điểm giá cá ba sa xuất khẩu lên đến 8 USD/kg! Các bè cá mới mọc san sát trên sông Hậu. Các nhà máy, cơ sở chế biến tấp nập ra đời.

Lúc ấy tôi cũng lo là để phát triển tự phát sẽ chèn ép lẫn nhau, cạnh tranh sẽ không đảm bảo chất lượng, có sự gian dối nên đề nghị Nhà nước phải quản lý, nhất là khâu giống. Nhưng không ai nghe cả. Họ nói: “Thị trường là tự do! Nhà nước không nên can thiệp”.

Khi nhu cầu cá ba sa tăng nhanh thì khách hàng ở Mỹ, mấy ông Việt kiều gợi ý đưa cá tra vào nuôi đội lốt cá ba sa kiếm lời khủng. Cá tra dễ nuôi, năng suất cao, trong khi cá ba sa rất ‘trưởng giả”, khó tính. Cũng nên biết rằng, trên thế giới này chỉ có Việt Nam nuôi cá ba sa thương phẩm thành công.

Vậy là bất chấp tất cả, có quy hoạch hay không, bất kể đất lúa màu mỡ, rất nhiều người cứ thế đào ao nuôi cá tra rồi quy hoạch sau. Phong trào rộ lên từ tỉnh đầu nguồn, lan ra khắp ĐBSCL, rồi đến lượt các nhà máy chế biến cũng bị hút vào cuộc, thi nhau vay vốn đầu tư.

Từ sau năm 2000, sản lượng nuôi tăng vọt, số nhà máy chế biến cũng tăng theo. Từ đó cung vượt cầu, sinh ra cạnh tranh kiểu “tự hủy diệt”. Cứ sau mỗi kỳ hội chợ thủy sản ở Boston (Mỹ), Brussels (Bỉ) hay ở Việt Nam là giá cá lại sụt, vì các DN đến hội chợ chủ yếu “đi đêm” chào giá thấp.

Khi dự hội nghị Chính phủ tại Hà Nội, tôi từng phát biểu tình hình này với tâm trạng rất bức xúc. Bức xúc nhất là việc gian lận đánh tráo cá tra vào, mà tôi gọi là “Tình chị duyên em”, khiến cá ba sa không còn mấy người nuôi. Hành vi này làm mất uy tín Việt Nam trên thương trường, vừa làm cạn kiệt một giống loài là nguồn thực phẩm quí hiếm mà thiên nhiên ban tặng.

Bây giờ ngay tại An Giang, quê hương của cá ba sa mà cá ba sa cũng chẳng còn. Tôi đi tiếp khách vào nhà hàng thấy thực đơn có món cá ba sa, bèn gọi. Dù đã hỏi, căn dặn nhà hàng mấy lượt là phải đúng cá ba sa, họ dạ dạ vâng vâng nhưng đưa lên toàn cá tra! Tôi giận quá, truy hỏi tại sao, họ trả lời: “Dạ, bây giờ không còn ai nuôi cá ba sa nữa. Bác thông cảm!”. Chết không?

Con cá ba sa trời ban tặng cho miền sông Hậu đã đi vào truyện cổ tích mất rồi. Tôi đang viết lại câu chuyện này để con cháu mai sau còn nhớ trên quê hương mình có giống cá “độc nhất vô nhị” mà không giữ được!

Thưa ông, thời ông làm Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang xây tượng cá ba sa, bông lúa – hai biểu tượng kinh tế nông nghiệp của An Giang. Nay cá ba sa đã “đi vào cổ tích”, ông có lo cây lúa cũng theo bước?

clip_image002

Tượng đài cá Basa tại Châu Đốc. Ảnh: Bazantravel

Ông Nguyễn Minh Nhị: Có chuyện này tôi mới nghe mà hết hồn hết vía! Nhiều hộ nông dân đang áp dụng kiểu ăn gian, ngày mốt cắt thì bữa nay xả nước vào ruộng, phun thuốc vào. Hôm sau xả nước ra để ngày mai cắt lúa. Kiểu gian dối này cho thêm khoảng 1 tấn/ha.

Tôi điện hỏi mấy anh em DN có biết không? Họ trả lời biết rồi, nhưng không sao vì họ có máy móc thiết bị đo độ ẩm, dễ gì ăn gian được. Chết là mấy ông hàng xáo đi thu mua, nhưng họ cũng chỉ một lần bị mắc lừa nông dân thôi.

Người ta nói “điếm vườn sao bằng điếm chợ”, nông dân mình cứ tưởng làm vậy là khôn, có cái lợi trước mắt. Nhưng chính họ sẽ bị trả giá nhiều nhất, không chỉ bị thương lái biết rồi ép trở lại, mà họ không thấy rằng uy tín của hạt gạo không có thì họ cũng bị thiệt nhất.

Làm ăn không nhìn xa thấy rộng, chỉ thấy lợi trước mắt, bất chấp thiệt hại lớn gấp nhiều lần sau đó. Nuôi cá cũng vậy, trồng lúa cũng vậy, rất chụp giật…

Đừng trách người nông dân

Thưa ông, tại sao tầng lớp nông dân luôn được xem là thật thà, chất phác mà lại có những trò gian dối như vậy? Không chỉ có trong nuôi cá và trồng lúa, họ sẵn sàng phun thuốc trừ sâu vào rau để sáng mai thu hoạch bán, bất chấp sức khỏe của người tiêu dùng?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Nông dân mình có nhiều cái tệ, nhưng không trách họ được, và cũng không nên trách. Họ không có điều kiện để hiểu biết hết nên thấy cái gì có lợi là làm, hứng lên là làm. Có ai chỉ [cho] họ làm cái gì cho có hiệu quả đâu? Họ phải tự mày mò, tự mưu sinh, làm ra sản phẩm may thì bán được, không may thì lãnh đủ nợ nần!

Họ không có tổ chức, không có ai hướng dẫn họ làm cái gì, không nên làm cái gì, làm ra bán ở đâu. Họ phải tự mưu sinh bằng những cách làm hại chính cả họ. Và, cuối cùng họ vẫn là người chịu thiệt thòi nhất. Theo tôi biết, ở các nước, nông dân được quan tâm, được tổ chức rất tốt chứ không bỏ mặc như nông dân ở ta đâu.

Theo ông, nguyên nhân những khiếm khuyết đó của nông dân ta, mà trầm kha nhất là chụp giật, tầm nhìn ngắn, tự đục vào chân mình là gì?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Ngày xưa, nông dân ta luôn được đánh giá là lương thiện, đạo đức, cần cù. Còn ngày nay, họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều thói xấu. Tất cả bắt nguồn từ sự chụp giật, tranh thủ tối đa, bất kể hậu quả. Căn bệnh này đã lây lan rộng chứ không chỉ nông dân. Nhưng với nông dân thì quả thật đau lòng, vì họ lẽ ra phải là thành trì của đạo đức, của sự lương thiện, chất phác phải không?

Theo tôi, chúng ta phải nhìn sâu xa vào những nguyên nhân từ trong chính sách. Bản chất của nông dân là gắn với đất đai, cả ngàn đời nay là vậy. Nông dân là đất, đất là nông dân.

Khi đất không phải của nông dân mà chỉ được sử dụng có thời hạn thì họ chẳng còn gắn bó máu thịt với đất đai như xưa.

Không còn gắn bó thì cũng không còn gìn giữ, bồi đắp vào cho đất, vì ngày mai có còn là của mình nữa đâu! Nhiều cái xấu ra đời từ đây, chính vì không gắn bó với đất, không nặng lòng với đất mà lương tâm, tình làng nghĩa xóm, tình quê hương bị tha hóa, sẵn sàng đánh đổi vì những lợi ích ngắn hạn.

Tôi còn nhớ hồi mới giải phóng, ta thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” giống như ở miền Bắc trước đây. Hồi ấy, những người có nhiều ruộng đất trong Nam là do họ cần cù, siêng năng, chịu khó mà có nên nặng lòng với đất. Tôi nhớ như in nhiều nông dân nghèo được Nhà nước chia lại ruộng của những người này, đã không nhận. Họ nói: “Người ta làm sáng tối, không biết nghỉ mới có nhiều đất. Mình lấy không của người ta coi sao được!”.

Tôi báo cáo việc này lên Tỉnh ủy, ông Bí thư lúc ấy kết luận: “Nếu không nhận đất thì không phải là nông dân, thì không cho nữa!”. Đơn giản thế thôi. Lúc ấy chúng ta không lường được hậu quả tai hại như ngày nay đang chứng kiến.

Người nông dân vốn dĩ là tốt, đã chuyển hóa và tha hóa từ đó. Lúc đầu thấy nhận đất của người khác, tức mồ hôi và nước mắt của người khác là “kỳ lắm”, “coi không được”, quyết không nhận! Nay thì khác rồi. Hai đám ruộng của hai nhà liền ranh còn lấn nhau từng chút huống chi những chuyện khác có nhiều lợi ích hơn. Cái gì lợi cho mình thì dẫu có hại cho người khác cũng làm.

Cái tình của người nông dân với đất phôi phai đi cũng làm cho cái tình với quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn không còn thiêng liêng như xưa. Những giềng mối gìn giữ đạo đức, lương tri, nhân bản chân chất nhất cũng từ đấy mà sút sổ, long ra.

clip_image003

Làng bè cá Châu Đốc

“Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá

Từng giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, về hưu trở lại làm nông dân trồng lúa và nuôi cá, ông nhìn nhận các chủ trương, chính sách và công tác quản lý nhà nước với nông nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Tình trạng chung nhất là “Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá. Có muôn thứ chuyện chứng minh cho điều này.

Chẳng hạn chuyện vận động nông dân làm ra nhiều lúa gạo rồi bán không được, mặc cho họ bị thua lỗ. Xui nông dân nuôi con nọ, trồng thứ cây kia rồi bỏ chạy mất, không biết bán cho ai. Lẽ ra, bảo nông dân trồng lúa thì phải có công ty mua số lúa làm ra chứ. Có bên quăng thì phải có bên hứng, phải tổ chức cho khớp nhau thì nói và làm mới đi đôi chứ?

Gần đây tôi nghe Bộ NN-PTNT triển khai kế hoạch chuyển 200.000 ha đất lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng bắp, đậu nành và màu. Tôi thấy băn khoăn không hiểu trồng những thứ đó rồi nông dân bán cho ai hay lại đẩy họ vào chỗ khó như các chương trình chăn nuôi bò trước kia?

Thưa ông, theo tôi biết hàng năm Chính phủ vẫn cho thu mua tạm trữ, giảm áp lực tiêu thụ lúa cho nông dân mà?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Chuyện này tôi quá hiểu! Khi lúa chín rộ, các công ty lương thực sàng bên này, lách bên kia để chậm triển khai. Bởi giá lúa càng thấp thì họ càng có lợi. Đến khi triển khai cũng đâu có làm đúng như tinh thần chỉ đạo. Nông dân gần như chẳng được gì.

Tôi có ông bạn cùng quê xứ Tịnh Biên làm công tác thu mua lúa. Tôi đến mấy trạm thu mua của ông ấy kiểm tra, thấy có hai giá mua, cao và thấp khác nhau. Giá rẻ để ngoài là giá mua thật cho nông dân, còn giá cao cất bên trong, khi có đoàn kiểm tra đến thì trưng ra! Bữa tôi bất ngờ đến, họ thay không kịp, tôi hỏi sao làm ăn vậy. Họ trả lời: “Giá cao là giá Nhà nước quy định. Còn giá thấp là giá thu mua theo… thị trường!”. Bất nhẫn vậy đấy. Nhà nước cho vay không lãi để thu mua song thực chất họ mua vẫn ép nông dân chứ có nương gì đâu!

Tôi cũng nhiều lần đi ký hợp đồng xuất khẩu gạo với anh em. Ký xong về giá lúa lên là… bẻ chĩa ngay!

Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu sau này thành một xã hội giả dối. Thế hệ chúng tôi dù sao cũng được “chích ngừa”, còn phản kháng lại được.

Còn thế hệ sau thì sao? Lo lắm!

D.C.

(Còn tiếp)

Nguồn:http://m.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/198130/-toi-so-su-gia-doi-truyen-den-doi-con-chau-.html#

Ai đang làm xấu hình ảnh Thủ đô ?

Ai đang làm xấu hình ảnh Thủ đô ?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-11-23

11232014-pettitio-n-hanoi-face.mp3

Bà con dân oan Dương Nội đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.

Bà con dân oan Dương Nội bị ngăn cản khi đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.

Photo:FB Trịnh Bá Phương & Bạch Hồng Quyền

Người khiếu kiện khắp mọi tỉnh thành phải về đến tận các cơ quan trung ương của chính phủ và đảng ở Hà Nội để yêu cầu giải quyết cho trường hợp bị cho là oan ức của họ.

Do không được giải quyết thỏa đáng nên họ phải bám trụ tại thủ đô. Tuy nhiên cứ vào những dịp quan trọng như lễ lạc, quốc hội họp …, họ bị xua đổi, thậm chí đánh đập vì cho làm mất mỹ quan của thủ đô Hà Nội.

Gia Minh trình bày tình trạng của họ trong những ngày diễn ra kỳ họp thứ 8, quốc hội khóa 13 hiện nay.

Xua đuổi, đánh đập

Từ ngày 20 tháng 10 vừa qua, khi quốc hội bắt đầu khai mạc khóa họp thường kỳ thứ hai trong năm, những người dân oan có mặt tại Hà Nội lại phải chịu cảnh dồn ép đưa đi hay bị đánh đập.

Chị Nguyễn thị Thúy, một dân oan từ Đồng Linh Hải Phòng cho biết diễn biến một vụ càn quét dân oan trong những ngày cuối tháng 10 như sau:

Dân oan đi khiếu kiện lên Hà Nội này hầu như ai cũng bị bắt bớ, trong đó có tôi. Chúng tôi chỉ bị bắt đưa về Ngô thì Nhậm thôi chứ có anh Trần Văn Thông, đoàn Tây Ninh bị đánh đến trọng thương luôn. Anh này bị đưa về đồn Công an Quang Trung và bị đánh trọng thương. Hầu như ai trong đợt này cũng bị đánh do côn đồ.

Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập. Lúc đó chúng tôi xác định đi ở cổng Phủ chủ tịch mà họ đối xử với dân oan bằng cách đánh thì mình phải tự vệ.

Hình ảnh trấn áp dân ngay tại Hà Nội

Hình ảnh trấn áp dân ngay tại Hà Nội

” Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập

Chị Nguyễn thị Thúy”

Áo ‘phản cảm’

Do đơn thư không được ngó ngàng đến nên gần đây một số người dân viết lên áo mặc tóm tắt trường hợp khiếu kiện và yêu cầu của họ. Tuy nhiên khi vào các cơ quan công quyền, họ bị yêu cầu phải cởi bỏ những chiếc áo đó ra vì lý do được nói là phản cảm.

Một video clip được truyền tải trên mạng ghi lại cảnh một phụ nữ đến gặp các đại biểu quốc hội và bị yêu cầu cởi chiếc áo có ghi những nội dung khiếu kiện kêu oan với lý do phản cảm.

Nguyên nhân được nêu

Chị Phương Bích, một người dân Hà Nội, tham gia giúp đỡ những người dân oan cơ nhỡ, thiếu thốn, bệnh tật, lập luận cần phải tìm ra nguyên nhân khiến cho những người dân phải ‘dầm sương, giải nắng’, ngày này qua ngày khác đến tại các cơ quan công quyền trung ương để khiếu kiện như thế. Chị nói:

Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì. Hỏi mà đã có câu trả lời rồi. Những phòng tiếp dân hay trụ sở tiếp dân của chính phủ hay quốc hội đi nữa chỉ là những nơi chuyển đơn mà họ không hề là những người giải quyết. Kể cả ông trưởng ban tiếp dân ở số 1 Ngô Thì Nhậm, quyền không ở trong tay ông ta. Khi tôi gặp ông ta tôi cũng nói thế: các ông không hề có quyền giải quyết.

Chị Nguyễn thị Thúy nói về cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện làm xấu bộ mặt thủ đô như sau:

” Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì

Chị Phương Bích”

Chúng tôi đi khiếu kiện là làm đúng chứ không làm xấu, đó là điều mà nhà cầm quyền vu khống cho chúng tôi. Đơn chúng tôi gửi thì đùn đẩy cho nhau không bao giờ nhận. Theo luật thì nếu không nhận, chúng tôi phải xuống đường biểu tình để cho họ nhận đơn. Chúng tôi đi đòi quyền lợi chính đáng của mình, chúng tôi là những người bị mất đất, mất nhà, bị đánh đập, bị đàn áp, mất quyền sống, quyền làm người. Chúng tôi sống không bằng chết nên chúng tôi đi đòi quyền của mình. Họ chuyên vu khống, ‘cỗ máy’ của họ đàn áp, nạt nộ dân chứ không bao giờ thấy được nỗi khổ của dân, họ đối xử với dân không bằng một con súc vật.

Ngày 8/10/2014, bà con dân oan Dương Nội cùng với người dân Văn Giang, Đồng Linh Hải Phòng và nhiều nơi khác trên cả nước đã biểu tình tại Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, số 46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngày 8/10/2014, bà con dân oan Dương Nội cùng với người dân Văn Giang, Đồng Linh Hải Phòng và nhiều nơi khác trên cả nước đã biểu tình tại Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, số 46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngoài cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện, mặc áo dân oan như thế làm nhếch nhác thủ đô, một số quan chức vừa qua khi nói về việc khiếu kiện của người dân còn cho rằng những người khiếu kiện lâu năm ở Hà Nội bị những ‘thế lực xấu’ kích động. Ngoài ra còn do những người dân tại Hà Nội cho gạo, mỳ tôm … hằng tháng cho họ nên việc khiếu kiện tiếp tục được.

Bản thân những người khiếu kiện đều bác bỏ những cáo buộc như thế và họ nói rõ việc nhận sự giúp đỡ từ những người khác vì tình đồng loại mà chia sẽ không có gì sai trái; nhất là khi sự giúp đỡ dành cho những người nông dân mất hết công cụ sản xuất là đất đai, không còn phương kế sinh nhai nào khác.

” Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế: bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!

Chị Phương Bich”

Bế tắc

Một người nông dân ở Thanh Oai, Hà Nội cho biết vụ việc lấy đất bất công ở xã người này đã được trình đến các cơ quan trung ương, nhưng rồi chính cán bộ tiếp dân cho thấy có sự bao che rõ ràng. Ông này cho biết:

Thực tế tôi thấy chính quyền (cấp dưới) có sự bưng bịt là do cấp trên. Tôi từng tham gia đi nộp đơn tại ngoài cơ quan trung ương  chính phủ. Tôi nói với những người nhận đơn nếu không trực tiếp ‘ra tay’ thì đến lúc phía dân đổ máu mới nhận sao; chứ gạt bỏ và cách tiếp dân như thế này là bao che cho cấp dưới. Chính bà Nguyễn thị Nhiên, phó thanh tra chính phủ, khi dân ra kêu gào có gọi về chủ tịch huyện nhưng chủ tịch huyện không ra để đối chất, sau đó gọi thanh tra huyện lên, nhưng từ tháng tư đến nay vẫn chưa đi đến đâu, vẫn chưa trả lời dân.

Chị Phương Bich thì nói đến một giải pháp rốt ráo cho vấn đề khiếu kiện của nhiều dân oan khắp nơi tại Việt Nam như sau:

Tôi cảm thấy bất lực, tôi nói với những người khiếu kiện ở Hà Nội hãy cầm hơi để chờ đến ngày một chế độ mới; chứ như thế này thì không bao giờ giải quyết được. Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế:  bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!

Cách thức mà chị Phương Bích vừa nêu ra chắc hẳn sẽ bị cho là âm mưu lật độ chính quyền như nhiều người từng bị kết tội khi mà cho rằng cần phải thay đổi thể chế hiện nay vì không còn khả năng điều hành đất nước, mang lại cơm no- áo ấm, cuộc sống ổn định cho người dân.

Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió

Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió

Chuacuuthe.com

Trần Ngọc Mười Hai

VRNs (24.11.2014) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ nhất Mùa Vọng năm B 16-11-2014

“Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió,
Thả đam mê và buông những ưu phiền.”

(Nhạc: Anh Bằng/Thơ: Trần Mộng Tú – Gọi Anh Mùa Xuân)

(2 Cor 1: 3-5)

Ưu-phiền thật đấy, chí ít là khi cả anh lẫn em đều nghe truyện kể không lê thê ướt át, nhưng vẫn buồn. Buồn làm sao, khi người kể cứ kết vội câu chuyện ngăn ngắn bằng những tiếng, rất như sau:

“Một ông kể lại chuyện cãi nhau với vợ :

Vợ tôi hỏi: Trên TV có gì không anh?

Tôi trả lời: Có rất nhiều bụi bặm, chắc tại em quên lau.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Cuối tuần, vợ tôi muốn đi đến một nơi thật đắt tiền.

Tôi chở bả tới tiệm bán xăng.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Ngày mai sinh nhật bà xã tôi, tôi hỏi bả muốn gì? Bả nói bả muốn một cái gì láng cóng, đi từ 0 tới 200 trong vòng 3 giây. Tôi mua cho bả cái cân nhỏ để trong phòng tắm.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi khỏa thân đứng trước tấm gương ngắm nghía 5 phút rồi bảo tôi:

– Em thấy hình như em ốm đi và giảm cân một chút phải không anh?

Tôi nói: Chắc em cần phải đi bác sĩ mắt khám lại.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau

Vợ tôi khỏa thân đứng trước gương ngắm nghía 5 phút rồi lại bảo tôi:

– Sau hai mươi năm lấy nhau, em thấy mình già hơn, mập hơn và xấu hơn trước nhiều phải không anh? Em buồn quá, ơ anh nói gì đi chứ.

Tôi nói: Tuy vậy mắt em vẫn còn tốt như hai mươi năm về trước, 20/20.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Kỷ niệm hai mươi năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.

Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.

Tôi nói: Ủa em muốn vào trong bếp hả?

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi hỏi: Anh ơi cái quần xanh này có làm mông em to hơn không anh?

Tôi nói: Ừa, nhưng mà không to bằng cái quần trắng hôm qua.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Khi đi ngang qua tiệm Walmart, tôi mua 4 cái vỏ bánh xe hơi, vợ tôi

cằn nhằn: “Anh mua vỏ bánh xe làm gì, anh đâu có xe đâu”.

Tôi nói: Chứ hồi nãy em mua 4 cái xu – chiêng anh có cằn nhằn gì em đâu?

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Tôi nói: Sau ngày cưới em anh thành triệu phú.

Vợ tôi: Em hãnh diện quá. Có phải nhờ em anh thành công không?

Tôi nói: Trước khi cưới em anh là tỷ phú.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?

Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi.

Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?

Tôi nói: Là cái ngày em về bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau. Giận dỗi.

Trước ngày Tình nhân vợ tôi nói: “Đêm hôm qua, em nằm mơ thấy anh tặng em cái nhẫn hột soàn, thế nghĩa là gì hả anh?”

Ngày lễ Tình nhân tôi tặng nàng cuốn sách “Đoán điềm giải mộng”.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Tôi đăng báo bán: “Một quyển từ điển Bách Khoa Việt Nam, dày 3.000 trang còn mới giá rẻ hơn 200 nghìn đồng, lý do lấy vợ tháng vừa rồi không cần nữa, có vợ cái gì cô ấy cũng biết hết”

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Thói quen hoặc chủ-trương cãi vã/tranh-luận giữa hai vợ chồng hoặc hai bạn tình, là cvhuyện dài ở huyện.Chuyện dài ấy, còn kéo lê cả đến tư-thế sống giữa nhiều người như truyện kể ở bên dưới:

Tôi với vợ tôi vào phòng khám bệnh nha khoa.

– Bác sĩ nhổ răng tốn bao nhiêu tiền vậy?

– 100 USD

– Ồ! Đắt quá bớt được không?

– Nếu không dùng thuốc tê 80 USD.

– 80 USD vẫn đắt.

– Nếu nhổ bắng cái kìm bình thường để nhổ đinh thì 40 USD.

– Vẫn còn đắt.

– Ok 20 USD nhưng học trò tôi sẽ nhổ chứ không phải tôi.

– Được… được. Em, em mau mau ngồi xuống trước khi bác sĩ đổi ý.

Lần này hai vợ chồng uýnh nhau chứ không cãi nhau.

Tôi hỏi: Tối hôm qua em đi đâu, suốt đêm không về?

Vợ nói: Em ở bên nhà con Phượng – bạn thân em, đánh tứ sắc suốt đêm.

Tôi nói: Em học tính nói láo từ hồi nào vậy? Anh ở bên con Phượng suốt đêm có thấy em đâu?.

Lần này suýt chút nữa phải gọi xe cứu thương, con vợ gì đâu dữ dằn quá! (trích truyện kể do sưu-tầm-gia ký tên là St siêu tầm để cho vui)

Siêu-tầm hay sưu-tầm chuyện ngoài đời, giữa vợ chồng như thế nghe cứ như là chuyện thật và vẫn cứ là chuyện thật ở đời.

Siêu-tầm hay truy-tầm chuyện kể xảy ra ở nhà Đạo mình về một số đề-tài thần-học hay triết-lý tuy không có những câu kết ngăn ngắn như thế, nhưng vẫn có ý/lời được nói rõ rất như sau:

“Ngày 7 tháng Năm 2006, tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney, trong mục giải đáp thắc mắc, Lm John Flader có trả lời một số câu hỏi do bạn đọc gửi đến những vấn nạn như: tại sao Đức Giêsu phải chết? Ngài chết có phải để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không? Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần? Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó chứ? Phải chăng Ngài chết chỉ cốt để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không? Chết như thế, là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản? Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha? Và đơn giản hơn, nội việc Ngài chết đi cũng đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó khiến mọi người đều quan-tâm? vv..

… Lm John Flader lại đã không trả lời các câu hỏi do người đọc đưa ra như một tổng-thể để bàn thảo, nhưng ông lại gộp chung các vấn-nạn trên thành thắc-mắc duy-nhất chỉ hỏi rằng: phải chăng Đức Giêsu chết đi là để cứu-chuộc loài người, tức Ngài đã đền bù tội lỗi của con người rồi? Câu trả lời là: Có! Lm John Flader vẫn cho rằng cụm-từ “cứu-chuộc” hoặc “cứu-rỗi”, “cứu độ” ngang bằng cụm từ “đền bù tội lỗi”, thế thôi. Mặt khác, ông cũng chẳng bình-giải hoặc định-nghĩa tự-vựng nào cho riêng rẽ, hết. Ông cho rằng, khi trả lời “có” với luận-điểm tuyệt-đối như thế mới phù-hợp với huấn-thị trước-sau-như-một của Kinh Sách và Thánh-truyền ở Đạo mình.

Nhưng sau đó, ông lại trưng-dẫn một số chương/đoạn rút từ Kinh Sách rồi gọi đó là nền-tảng của Giáo-hội. Có 6 đoạn Kinh Sách được ông trưng-dẫn cũng trong cùng mục-đích đó. Có đoạn tập-trung vào câu chuyện được bàn-thảo nhiều hơn chương/đoạn khác. Tuy nhiên, đoạn nào cũng bao gồm các tự-vựng như: cứu-chuộc, tội lỗi, thứ-tha, hoà-giải, chuộc tội. Làm thế, chỉ cốt trả-lời cho các thắc-mắc thông thường có liên-quan đến vấn-đề đặt ra. Nói cách khác, ông làm như thế cũng đủ để đáp-ứng và thực-hiện mục-tiêu đề ra trong một bài viết khá ngắn cho tuần báo đạo. Bởi, tất cả đều dẫn đến cao điểm là lời trích từ kinh Tin Kính có từ thời Công đồng Nixêa trong đó có câu nói được nhấn mạnh, là: “Vì loài người chúng tôi và để cứu-chuộc chúng tôi”.

Đã đành là, ngôn-từ đặt ra như thế từng thấy có trong văn-bản Kinh Sách và Thánh-truyền đã từ lâu. Tuy nhiên, bản dịch tiếng Anh đâu phải lúc nào cũng giống thế. Thông thường, thì tự-vựng được dùng có mục đích để chuyên chở tính-cách được diễn-tả ở tiếng Hy-Lạp là bản-văn gốc được sử-dụng ngay từ đầu, tức cho thấy rằng: khi tác-giả viết những điều như thế thành lời nói là cốt sử-dụng cho mục-đích viết ra, mà thôi. Tính-cách này được tiếp-tục suốt năm thập-niên qua hoặc còn xa hơn nữa, từ một nền văn-hoá khác với văn-hóa của chúng ta.

Ngôn-ngữ ta sử dụng, là để diễn-tả các tư-tưởng không có ở kinh-kệ và/hoặc Sách thánh được dịch sang tiếng Anh. Những lời như thế, tuyệt nhiên, không mang tính hời-hợt bên ngoài nhưng là hiểu theo cung-cách thần-học, chúng còn phong-phú hơn cụm-từ giản đơn, như: “cứu-chuộc”, “đền bù tội lỗi”. Thời xưa, các tự-vựng này nói lên thứ gì đó khác hẳn lời dịch mà ta thường dùng ở nhiều nơi. Truyền-thống Giáo-hội, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa nào như mấy tự-vựng ở trên muốn chuyển-tải cả. Đúng hơn, làm thế như là để cho giới kinh-điển ta suy nghĩ thêm về niềm tin mình đang có…”

Trong lời giải-đáp thắc-mắc trên tờ The Catholic Weekly, Lm John Flader còn trích dẫn hai đoạn Kinh Sách trọng-yếu khác, đó là Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 20 câu 28 và đoạn 26 câu 28, đại ý nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Còn, đoạn sau ghi: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”.

Nói chung thì: ở hai trích-dẫn này, tác-giả Mát-thêu đều rút từ Tin Mừng do thánh Máccô viết trước, nhưng đã không thay-đổi điều gì, trong đó. Tự-vựng chính được thánh-sử ghi, lại đã biểu-hiện một cách chính-xác việc Chúa “ban-phát Tâm-Thân của Ngài như một đảm-bảo cho lời hứa với quần-chúng nói chung, chứ không riêng gì cho người Do thái, thôi.”

Hôm nay, chúng ta đã đi vào với ý-nghĩa chính của văn-bản trọng-yếu này. Điều này, muốn nói rằng Đức Giêsu đã chọn con đường đi vào với thứ chính-trị hoặc thứ nào đó không mang tính quyền-lực, cốt để ra khỏi cuộc chạy đua phù-phiếm vốn tạo nên mọi khó khăn và vi-phạm nơi con người để rồi tìm được ở nơi đó sự tự-do vượt khỏi mọi hình-thái của mọi quyền-lực, rất bức bách… (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và giòng tuy-tư cùng một chiều, www.thanhlinh.net ngày 1/5/2014)

Để ra một bên điều mà có thể sẽ có người cho rằng đây chỉ là một tranh-luận thần-học giữa hai đấng bậc nhà Đạo. Nhưng thực ra không phải thế, và hơn thế. Hơn thế, ở chỗ: là đấng-bậc dẫn dắt người thường về thần-học, cũng nên có động-thái thận-trọng sau khi đã học rộng hiểu nhiều hơn người khác.

Đó là ý-kiến của bậc thày thần-học kinh thánh hơn 40 năm sống ở Sydney, như sau:

“Ở cuối bài viết, Lm John Flader có đề-cập đến tự-vựng “chén máu” trong Tiệc Tạ Từ khi Chúa nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Lm John Flader trích câu này từ Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 26 câu 28. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, chỉ có mỗi thánh Mát-thêu là tác-giả duy-nhất sử-dụng thành-ngữ “muôn người được tha tội”, là ở đây…

Bài viết trên tuần báo nói ở trên, Lm John Flader lại tiếp tục khẳng-định rằng: nhờ vào giáo-huấn rút ra từ văn-bản như thế, Hội-thánh của ta luôn chủ-trương rằng: Con-Thiên-Chúa-làm-người đã cứu-chuộc ta bằng cái chết khổ nhục trên thập-tự. Và, công-cuộc cứu-chuộc của Ngài tựa hồ như con đường tắt-ngang đưa dẫn người bị mờ-mắt vào với ý-nghĩa của văn-bản. Và, văn-bản đây có thể cũng cùng một ý-nghĩa ra như thế. Nói thế, tức: muốn hiểu sao lại thế, thì có lẽ, ta cũng nên tạo một thế quân-bình bằng động-thái quay về với công-việc của Ủy-Ban Thần-Học Quốc-Tế là cơ-quan từng đăng-tải vấn-đề này.

Đấng bậc phụ-trách dẫn dắt công việc này, khi ấy, là Hồng Y Ratzinger. Và, chính Hồng Y Ratzinger -sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16- đã có thẩm-định riêng của ngài ngang qua tư-cách của nhà thần-học chính-mạch. Có thể là: ngôn-từ diễn-tả nơi câu viết: “Máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội”, nếu không giải-thích cho rõ, có thể sẽ khiến ta có cảm-tưởng rằng: tự nơi thâm-tâm của những người từng nghĩ đến, thì văn-bản đây không cố ý diễn-tả chỉ chuyện ấy theo nghĩa đen, thôi.

Cuối cùng thì, linh mục John Flader lại kết-thúc bài viết của ông bằng hai đoạn trích rút từ sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo để dẫn-chứng cho điều ông biện-minh trước đó. Hai đoạn trích này đều nói về việc Đức Giêsu là Đấng Bậc ở trên cao đã “kiến-tạo” nên tội “tổ-tông” để rồi hậu-quả của tội này lại sẽ đổ lên đầu cộng-đồng nhân-loại. Thật ra thì, sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo cũng để ra hai đoạn viết riêng-rẽ, tách-bạch cùng qui về tội “tổ-tông”, nhưng cả hai lại không ăn-khớp với nhau cách trọn-hảo, như ta tưởng. (Ở đây, xin mở thêm một dấu ngoặc để nhắn với anh em rằng: sau đây, ta sẽ dành ra nguyên một chương để bàn về tội “tổ-tông” cho ngọn ngành, ra nhẽ).

Tuy nhiên, cũng nên nói ngay ở đây rằng, thành-ngữ “kiến-tạo nên sự việc”, là ngôn-từ dù không do Lm John Flader chọn, nhưng cũng đã đề-nghị một quan-điểm thần-học riêng-tư mà Hội-thánh chưa từng dính-dự vào đó theo cung-cách biệt-lập, có một không hai.

Lạ thay, các đoạn trích mà Linh mục John Flader sử-dụng lại không phù-hợp với khuôn-khổ của bài giải-đáp thắc-mắc đăng trên báo, do không đủ chỗ, để người đọc có thể qui-chiếu số lượng khổng-lồ gồm các nghiên-cứu/học-hỏi nghiêm-túc về cuộc đời của Đức Giêsu trong vòng chỉ hơn một phần tư thế-kỷ, thôi. Bởi những điều như thế, đều dựa trên căn-bản chú-ý nhiều vào trọng-tâm của bản-văn đến độ có thể khiến người đọc thêm băn-khoăn/bối rối về văn-bản và về lời bình-giải nội-dung mang tính lịch-sử nơi các sự-kiện xảy đến với đời Ngài. Cũng từ đó, lại thấy xuất-hiện ảnh-hình đặc-trưng cho thấy cung-cách Đức Giêsu từng sống như thế nào và Ngài chết ra làm sao.

Quả là, Đức Giêsu đã sống kết-hợp với người nghèo hèn sống ở thời Ngài, từng bị ức-hiếp đến mức độ ra sao. Và, Ngài đã đứng lên bênh-vực họ để chống lại quyền-lực trần-thế và giới cầm-quyền từng áp-bức những người yếu thế. Ngài cũng đã khổ-sở vì hậu-quả các động-thái ấy khi giới có quyền và nắm trong tay quyền-lực đã loại bỏ Ngài rồi giết chết Ngài cách thảm-hại. Nhưng Ngài lại đã trỗi dậy từ cõi chết do Thiên-Chúa của những người nghèo hèn ấy đã nâng nhấc Ngài. Và, Thiên-Chúa đã thuỷ-chung ở với họ và với Đức Giêsu, cốt duy-trì công-việc của Chúa sống-động mãi, ngang qua động-thái giải-trừ mọi độc-hại của quyền-lực.

Động-thái giải-trừ, không là trò chơi được sử-dụng để thay cho quyền-lực; nhưng là để khước-từ mọi quyền-uy thế-lực đến từ bất cứ nơi đâu, chốn gian-trần. Và, đó lại là ý-nghĩa rất mới được Chúa đưa vào làm thành-phần ngôn-ngữ cũ/xưa của Kinh Sách, tựa hồ như tự-vựng “ơn cứu-chuộc”, ta thường dùng. Chúa đưa vào đó bằng cách-thế mới của sự sống không quyền-uy thế-lực nào hết.

Đến đây, tôi muốn trở về với các câu thắc-mắc ban đầu người đọc gửi đến nhờ linh mục John Flader giải-thích.

Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?

Vâng. Đúng thế. Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.

Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần?

Ở đây, trước tiên, cần làm sáng-tỏ ngôn-từ ta sử-dụng, như câu nói: “Tội lỗi của chúng ta”. Chỉ nên hiều, là: tội và lỗi mà mọi người hằng phạm phải mỗi ngày, cả những hành-xử đầy tội-phạm theo nghĩa nặng, ở chốn riêng-tư và có thể cả cuộc sống hiện tại của ta ở nhà nữa, đều không dính-dự cách “đặc-trưng/đặc-thù”, nào hết. Chúng ta –hoặc các lỗi tội này/khác của ta trong hiện tại- đều không là những “cớ sự” để có thể giết được Chúa.

Mà, chính tính chuyên-quyền lộng-hành ở quyền-lực, trong hệ-thống toàn-trị chuyên hà-hiếp người khác, mới là những gì giết chết Ngài, như sử-sách còn ghi chép. Đó là ý-nghĩa diễn-lộ ra ngoài của lỗi-tội; và, đã tỏ-bày ngang qua cuộc sống và nỗi chết của Đức Giêsu. Lỗi tội của ta, là những tội và những lỗi thuộc loại-hình này, tức: đã dùng đến quyền-lực để hà-hiếp kẻ khác, cho đến nay, chỉ thấy hiển-hiện khi chúng diễn-bày quyền-lực ra bên ngoài, trên người khác.

Nói khác đi, nếu ai đó có phạm tội hay lỗi gì đi nữa, cũng chỉ là vi-phạm những điều chống lại tình thương-yêu, tức thể-loại Tình-yêu Chúa từng tỏ-bày cho người đó, qua Đức Giêsu. Tình-thương-yêu tỏ-lộ cho mọi người, chứng-tỏ Ngài sống và chết đi như thế nào, chỉ vậy thôi.

Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó đấy chứ?

Đương nhiên, ở đây, chuyện chính-trị có dính-phần ở trong đó. Giới cầm-quyền thời đó đã ra quyết-định mang tính-cách chính-trị hoặc chiến-thuật, nhằm tạo điều lợi cho thể-chế cai-trị tạm-bợ, để rồi họ nhất-định loại-bỏ Ngài đi, vì họ vẫn coi Ngài như thế-lực tiềm-ẩn (chứ không thực-thụ) ngấm-ngầm đe-doạ thế-đứng của họ. Nhìn vào giới thẩm-quyền ở đời hoặc trong đạo, có thể cả hai đều có chung một phán-đoán tựa như thế. Và, nhiều giới-chức cầm-quyền ở các nơi, cả ở trong đạo lẫn ngoài đời, nay vẫn còn làm như thế, không ngừng nghỉ.

Thế nhưng, Đức Giêsu lại đã chết cho thứ gì đó còn sâu-sắc hơn cả chính-trị, rất nhiều. Ngài chết đi, vì Ngài quyết chung-thủy với thứ tình-thương-yêu không dựa vào quyền-lực mà Thiên-Chúa dành-để cho người hèn kém/bé nhỏ. Đó là điều mà thánh Phaolô khi xưa vẫn ưa gọi là sự “công chính của Thiên-Chúa” rất khác thường. Đó cũng không là chính-trị, mà là “hồi chuông báo tử” một lần cuối dành cho các tầm-kích quyền-lực của mọi chính-trị nơi loài người.

Phải chăng Ngài chết đi là để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không?

Tôi không nghĩ như thế. Động-thái Ngài hành-xử, không hề mang tính thách-thức nào hết. Đó, là động-thái không chỉ chứng-tỏ cho họ mà thôi, nhưng còn đưa họ vào với tình-thương-yêu và tính-chất “vô quyền/bất-lực” mà họ không am hiểu nổi. Và, điều đó sẽ tẩy rửa họ cũng như toàn-thể thế-giới sạch khỏi các sự việc mang tính quyền-uy/thế-lực họ thực-thi.

Chết như thế, có phải là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản?

Không. Những gì Ngài thực-hiện, có thể gọi đó như bài học đạo-đức cho tất cả chúng ta, nhưng thật ra, còn hơn thế nhiều. Ngài chết, là để lấy đi quyền-uy/thế-lực ngay trong ý-nghĩa đầy tính huỷ-hoại và bức-ép của nó, bằng cách dìm nó vào chính sự “vô-quyền/bất-lực”, là thế. Phục sinh/trỗi dậy, khiến Đức Giêsu có thể truyền-đạt khả-năng sống thực để những ai tin vào Ngài và những người thương-yêu kẻ hèn kém/bé nhỏ của Ngài. Khả-năng này không chỉ để khích-lệ một đạo-đức, mà đích-thực là năng-lực khiến cải-hoá được cuộc sống của mọi người, tự bên trong.

Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha?

Vâng, đúng là thế và có thể cũng không thế. Đúng, là hiểu một cách chắc-chắn theo nghĩa: Ngài đã “cho đi chính mình Ngài”. Cho, tức là đã thứ-tha những người mà Ngài và Cha yêu-thương họ biết chừng nào; và cho như thế Ngài đã trừ khử được mọi tính-chất tiêu-cực cũng như trò chơi quyền-lực của thế-giới, bằng việc Ngài tự biến Mình Ngài thành hư-vô/trống-rỗng, không quyền-thế.

Trả lời là: “không”, tức: theo nghĩa bảo rằng: trước nhất Ngài ưu-tư đi thẳng vào động-thái “thứ tha. Tha thứ, theo nghĩa nghi-thức hoà-giải mà ta đang thực-hiện, mãi đến hôm nay.

Việc Ngài chết đi có đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó không?

Câu trả lời là: Không! Không, ở đây, theo nghĩa của người đặt câu hỏi từng có dụng-đích/ý-đồ nào đó. Nhưng, câu trả lời thực ra là “Có”! Ngài có đưa ra một luận-điểm. Luận-điểm này, trước đây, chưa ai làm thế. Nhưng buồn thay! Luận-điểm này, cho đến nay, vẫn không được nhiều người chú ý nắm bắt.” (xem thêm Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu Chuộc và khúc cuối một giòng sử, www.thanhlinh.net ngày 08/5/2014)

Đấng bậc trong Đạo học về Chúa cũng rất nhiều, nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử ở Kinh thánh, lại không thiếu. Các ngài có học có nghiên-cứu nhiều như thế, cũng tựa-hồ nhưng bậc thánh-hiền từng quyết rằng:

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái,

và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.

Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách,

để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ,

chính chúng ta cũng biết an ủi

những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.

Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô,

thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.”

(2 Cr 1: 3-5)

Có biện-luận về cái chết của Chúa hay về Ơn Cứu-chuộc là cứu và chuộc để đưa mọi người đi thẳng vào tình thương-yêu Chúa tỏ bày cho hết mọi loài, mà thôi. Nghiên-cứu hay biện-luận, để rồi sẽ luôn chúc tụng Thiên Chúa là Đấng luôn ủi-an, yêu thương hết mọi người trong chúng ta.

Để bài phiếm hôm nay được nhẹ nhàng thư-thái, cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi ta cứ hiên ngang ca vang bài ca vừa khởi xướng, cứ hát rằng:

“Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em mảnh vườn cũ quê xưa.

Cành mai chiết tay ai còn in dấu,

Thiều quang ơi hoa nhớ đến xót xa.

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em thành đốm lửa hải đăng.

Lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt,

Bờ bến nào mà cá vẫn bặt tăm.

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em trầm quế đợi xông hương.

Con chim nhỏ đã bay qua biển Bắc,

Ai tìm ai ngậm ngải giữa mù sương.

Đã lâu quá anh không về gõ cửa,

Lồng ngực em trái đỏ vẫn còn nguyên.

Ôi có phải mùa xuân đang nhóm lửa,

Tay lạnh thế này ai sưởi cho em.”

(Anh Bằng/Trần Mộng Tú – bđd)

Hát ca từ tình-tự như thế, chỉ để bạn và tôi ta hiên ngang tiến về phía trước mà chúc tụng Thên-Chúa-Là-Tình-Yêu, luôn sáng tỏ tình Ngài với muôn người. Ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Cầu mong cho mắt mình sẽ sáng mãi

Và cũng tỏ như bao giờ.

Nhà báo Trung Quốc ra tòa vì làm rò rỉ bí mật quốc gia

Nhà báo Trung Quốc ra tòa vì làm rò rỉ bí mật quốc gia

Chuacuuthe.com

VRNs (24.11.2014) – Sài Gòn – Hãng tin BBC cho biết, một nhà báo Trung Quốc, bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia.

Đài truyền hình Trung Hoa đã cho phát sóng một đọan băng về việc nhà báo Gao Yu thú nhận rằng bà đã mắc một “sai lầm nghiêm trọng” khi đã đánh cắp một tài liệu bí mật của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và bán cho một trang báo mạng nước ngòai.

Nhiều người cho rằng nhà báo Gao đang ở tuổi 70 đã bị ép phải nhận tội.

Bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia. Ảnh BBC

Bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia. Ảnh BBC

Tại buổi điều trần trước khi tòa án chính thức xét xử, bà Gao tuyên bố rằng bà đã nhận tội một cách sai lầm vì những đe dọa từ phía cảnh sát rằng con trai bà sẽ bị bắt.

Chính phủ Trung Quốc cáo buộc bà đã làm rò rỉ “Văn Bản số 9″ đến các trang mạng nước ngoài, trong đó có trang tiếng Hoa cùa Đài truyền hình Đức Deutsche Welle.

Các Luật sư của bà yêu cầu tòa án bác bỏ nội dung của lời thú tội trên vì lý lo bà đã bị cưỡng ép. Đồng thời, luật sư cũng yêu cầu tòa xem xét lại vấn đề “bí mật quốc gia” vì những tài liệu trên đã được phát tán rộng rãi.

Các nhóm bảo vệ quyền con người và các quan sát viên lãnh vực truyền thông đã lên tiếng chỉ trích các cáo buộc trên của chính quyền Trung Hoa.

Maya Wang, một nhà nghiên cứu Nhân Quyền tại Hồng Kông cho biết. “Bà bị bắt và bị xét xử vì tiết lộ bí mật quốc gia trong bối cảnh Trung Quốc rất lo lắng về những can thiệp cuả nước ngòai vào các cuộc cách mạng màu tại đất nước này.”

“Văn Bản số 9”

Tháng 5 năm 2013, bà Gao đã viết một bài bình luận về “Văn Bản số 9”, một tài liệu đã mang bà ra tòa. Văn bản này có nội dung kêu gọi các đảng viên nên chống lại các ý tưởng mang tính đe dọa các nguyên tắc của Đảng, bao gồm cả “ý tưởng phương Tây” về lãnh vực truyền thông “có thể dẫn đến sự băng họai của Đảng và của xã hội vì đã khuấy động dư luận”.

Tài liệu cũng cảnh báo về các “giá trị phổ quát” và vấn đề “xã hội dân sự”. Những vấn đề này có thể tạo nên một sức mạnh chính trị bên ngòai hệ thống Đảng Cộng Sản.

Ngòai ra, trong một cuộc phỏng vấn tháng 3 năm 2013 với BBC bà Gao cho biết trong “Văn Bản số 9”, chủ tịch Tập được trích dẫn rẳng “chỉ đề cập đến cải cách, không được đề cập đến dân chủ.”

Theo bà “Kế hoạch chính trị của Chủ Tịch Tập là xây dựng một chính phủ có hiệu quả và không tham nhũng. Cho dù mục tiêu này có thể đạt được hay không khi không có dân chủ và hiến pháp. Việc đa đảng và tự do báo chí là vẫn còn là một dấu hỏi.”

Bách Hợp

Vì sao dối trá ?

Vì sao dối trá ?

RFA

nguyenthituhuy

Trước những vấn nạn của đất nước, của dân tộc ngày hôm nay, những người Việt Nam nào còn một chút lương tri, còn có trách nhiệm và còn suy nghĩ đều tự đặt câu hỏi: « vì sao chúng ta đến nông nỗi này ? ». Và đã có không ít người đi tìm nguyên nhân trong căn tính của dân tộc.

Thế nhưng, nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của Phương Tây mà tôi từng có dịp tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi, nói với tôi, với những cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng ý tưởng đều rất thống nhất : Đừng tìm nguyên nhân trong truyền thống dân tộc của các bạn. Vấn nạn của các bạn hiện nay đến từ một mô hình chính trị mà các bạn đã nhập khẩu hoàn toàn từ Phương Tây.

Dĩ nhiên, mô hình nhập khẩu đó chính là chủ nghĩa cộng sản.

Theo tôi, điều này rất đáng để chúng ta cùng nhau suy nghĩ một cách thấu đáo.

Ở đây, tôi đưa ra một vấn nạn thôi : sự dối trá.

Chúng ta không phủ nhận được một thực tế là dối trá đang trở thành một hiện tượng phổ biến trong toàn xã hội. Ta có thể tìm thấy sự nhận xét đồng thuận về thực tế này trên báo chí cả lề phải và lề trái, hay lề đảng và lề dân, muốn gọi cách nào thì tùy.

Vậy dối trá có phải là truyền thống của người Việt Nam không, có bắt nguồn từ truyền thống của chúng ta không ? Câu trả lời của tôi là : KHÔNG !

Chúng ta hãy đọc câu này :

« … cách mạng cộng sản luôn luôn là một sự tình cờ có tính lịch sử và một sự lừa dối vĩ đại (tôi nhấn mạnh – NTTH). Theo một nghĩa nào đó thì lí do như sau: không có cuộc cách mạng nào lại đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt đến như thế và cũng không có cuộc cách mạng nào hứa nhiều như thế mà lại làm ít đến như thế.

Thói mị dân, những lời nói quanh co, không nhất quán là đặc trưng của các lãnh tụ cộng sản, nhất là khi họ buộc phải hứa hẹn một xã hội siêu lí tưởng và “thủ tiêu tất cả áp bức, bóc lột”.”

Người viết đoạn văn này là một lãnh tụ cộng sản cao cấp, đã phải vào tù vì chống lại chính chủ nghĩa cộng sản, vì đã sớm nhận thức được tính phi nhân và sự sụp đổ tất yếu của mô hình cộng sản chủ nghĩa. Đó là Milovan Djilas, cựu phó tổng thống Nam Tư, mà tôi từng nhắc đến vài lần.

Tôi dùng trích dẫn này để chúng ta thấy rằng chính những người cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản như vậy, chính những người cộng sản đã nhìn ra rằng chủ nghĩa cộng sản và sự dối trá là một ; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội cộng sản trên toàn thế giới. Sự dối trá ấy hoàn toàn không liên quan gì đến truyền thống dân tộc của chúng ta. Trái lại sự dối trá nhập khẩu này đang làm biến dạng tính cách dân tộc của chúng ta. Chúng ta cần cứu lấy dân tộc tính và truyền thống của mình, trước khi quá muộn.

Nếu theo dõi các phân tích mà Djilas tiến hành trong cuốn « Giai cấp mới » ( mà tôi khuyến nghị là chúng ta nên đọc, đặc biệt là Hội đồng Lý luận Trung Ương và những người làm khoa học xã hội ở Việt Nam nên đọc, để hiểu thực chất của xã hội chúng ta) thì ta sẽ không ngạc nhiên trước những biểu hiện « lừa dối vĩ đại » (tôi dùng lại chữ của Djilas) của các lãnh đạo cao cấp.

Dối trá trở thành nguyên lý vận hành của toàn xã hội. Các lãnh đạo, dĩ nhiên, theo phân tích của Djilas, không còn cảm thấy xấu hổ khi nói dối. Lâu dần, không chỉ có các lãnh đạo, mà đến người dân bình thường cũng bị lôi vào và thích ứng với sự dối trá. Các quan hệ xã hội được xây dựng trên sự dối trá. Thậm chí các hiện tượng xã hội cũng được xây dựng trên nguyên lý dối trá này. Các khái niệm không cần phải trùng hợp với nội dung thực tế, nhưng điều đáng nói là tất cả mọi người đều thấy chuyện đó là bình thường. Mỗi người đều thấy việc người khác nói dối là bình thường, việc mình nói dối cũng là bình thường, việc tất cả tham gia vào tấn kịch dối trá của toàn xã hội cũng là bình thường.

Một trong những cách thức để bình thường hóa cái nguyên lý dối trá này là người ta cấp cho mọi sự dối trá cái nhãn hiệu : « kiểu Việt Nam ». Ví dụ nhan nhản, ai cũng có thể cung cấp ngay lập tức. Ở đây tôi chỉ lấy một sự việc : Quốc hội kiểu Việt Nam. Quốc hội có đấy, nhưng không phải do dân chọn (đảng đâu có giấu diếm việc « đảng cử dân bầu »), không làm việc vì lợi ích của dân, cũng không làm việc vì lợi ích của đất nước (hẳn chưa ai quên được rằng trong những ngày dàn khoan Trung Quốc cắm sâu vào lòng mẹ Biển Đông của chúng ta thì Quốc hội Việt Nam không ra nổi một nghị quyết về Biển Đông, họ nhường việc đó cho Quốc hội Mỹ). Rồi bây giờ Quốc hội lại chuyển sang họp kín !!! Vậy thì còn lý do gì cho sự tồn tại của Quốc hội ? Trên thực tế chỉ có cái xác chữ « Quốc hội » tồn tại, cái xác chữ đó không có nội dung. Hàng mấy trăm « đại biểu » ấy không làm nên một Quốc hội thực sự, họ cũng chẳng cần quan tâm xem thế nào là một quốc hội thực sự. Một sự dối trá như vậy được hầu như toàn xã hội chấp nhận một cách bình thường.

Sự dối trá mà chúng ta đang phải chịu đựng hiện nay chính là bản chất của mô hình chính trị mà chúng ta nhập khẩu từ Phương Tây : mô hình chính trị độc đảng cộng sản chủ nghĩa. Mô hình này đã bị chính phương Tây loại bỏ sau khi đã chứng kiến bao nhiêu tội ác, bao nhiêu sự trì trệ, đình đốn và phản tiến bộ do nó gây ra.

Nếu không quyết liệt chống lại sự dối trá đang trở thành phổ biến hiện nay, chúng ta sẽ đánh mất dân tộc tính, đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống, và mất nhiều thứ khác nữa. Và muốn chống lại sự dối trá trên phạm vi toàn xã hội, thì mỗi cá nhân phải có khả năng chống lại sự dối trá đã dần dần định hình trong tính cách của mình.

Chúng ta có làm được điều đó không ?

Paris, 23/11/2014

Nguyễn Thị Từ Huy

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

Ngô Nhân Dụng

Chắc quý vị không ai biết Nguyễn Tuấn. Anh qua đời khi đang ngồi trong quán bánh ngọt tên là Jolly Donuts nằm ở góc Đại lộ Roscoe và Đường De Soto trong thành phố Los Angeles, nước Mỹ. Một chiếc xe hơi SUV lớn đâm thẳng vào tiệm bánh lúc anh đang uống cà phê, khoảng 10 giờ đêm ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Khi chết đi, trong túi Nguyễn Tuấn chỉ có mấy tấm vé sổ số cũ, 350 đô la tiền mặt, và một điện thoại di động. Thi hài anh được đưa vào nhà xác thành phố, tạm ghi tên là John Doe No. 278. John Doe là cái tên chung đặt cho những người không biết rõ họ, tên. Giống như lối người Việt gọi những người không rõ họ tên Nguyễn Văn Mỗ. Anh là tên Nguyễn Văn Mỗ thứ 278, trong số mấy trăm di hài vô thừa nhận trong nhà xác Los Angeles, một thành phố dân số gần 10 triệu.

Sở giảo nghiệm (Coroner) chắc đã nhờ cảnh sát hỏi nhân viên làm trong quán cà phê mà đêm nào anh cũng tới, biết người ta gọi anh là “Tuan,” họ “Nguyen.” Vậy chắc tên anh là Nguyễn Tuân hay Nguyễn Tuấn. Nhưng vì anh không mang giấy tờ nào, cũng không thấy thân nhân nào đến nhận diện, cho nên họ vẫn ghi cái tên John Doe No. 278. Dấu tay anh được đưa cho cảnh sát tìm thêm, nhưng họ tìm không thấy trong các hồ sơ lưu trữ. Cả đời anh chưa bao giờ bị bắt vì phạm tội. Có người cho biết tuổi anh, chắc sinh vào năm 1961. Sở Xe tự động (DMV) cho chạy tên Tuan Nguyen 1961 trong máy vi tính, hy vọng tìm ra các chi tiết khác. Máy cho biết có 623 người họ, tên tương tự. Nếu tìm trong hồ sơ của Sở Di trú chính phủ Mỹ, chắc có thể thấy những dấu tay giống của anh; vì khi một di dân vào nước Mỹ thế nào cũng được lấy dấu tay. Nhưng trước đây gần 40 năm chưa có máy vi tính để chứa được nhiều dữ kiện trong hồ sơ các di dân như vậy. Cuối cùng, trước pháp luật, anh chỉ là John Doe No. 278, vô danh.

Thi hài Nguyễn Tuấn đang được giữ trong phòng lạnh của thành phố, với vài trăm người khác. Người ta sẽ lấy mẫu sinh học DNA từ người anh, lưu giữ để sau này cần sẽ dùng. Trong thời gian từ ha đến sáu tháng, nếu không ai đến nhận, anh sẽ được hỏa thiêu, rồi đưa về cất tại nghĩa trang của Quận Los Angeles. Trong vài năm, nếu vẫn chưa ai tìm, tro của anh sẽ được đem chôn. Mỗi năm, vào tháng Mười Hai, thành phố sẽ làm một lễ cầu nguyện cho tất cả những người được chôn chung như anh.

Tôi viết bài này để xin báo Người Việt đăng ngày 22 tháng 11 năm 2014, nhân dịp 49 ngày Nguyễn Tuấn. Để xin quý vị cùng cầu nguyện hương linh anh bước vào một cõi bình an vĩnh cửu.

Tôi biết đến Tuan Nguyen nhờ đọc ký giả David Montero, tác giả bài “Who was Tuan Nguyen?” Tuan Nguyen là ai? trên tờ Los Angeles Daily News, số ngày 25 tháng Mười. Anh Thiện Giao, chủ bút nhật báo Người Việt, đã gửi bài ký hay cho tòa soạn cùng học hỏi. Montero đã tìm thêm, biết Tuan Nguyen là một người Việt trong số những thuyền nhân, “boat people” chạy khỏi nước Việt Nam trước đây hơn 30 năm.

Những người đầu tiên Montero phỏng vấn chắc là các nhân viên tiệm bánh, ai cũng nhớ Tuan Nguyen. Họ cho biết mỗi buổi tối anh đều tới quán đúng 9 giờ, trả một đô la mua ly cà phê. Anh cho rất nhiều đường và chỉ quấy sữa bột, không bao giờ dùng sữa lỏng. Anh ngồi ở một cái bàn nhất định, nếu chỗ đó có ai ngồi thì anh chờ tới lúc bàn trống mới vào. Lý do vì cái bàn đó gần chỗ cắm điện để anh “chạc” máy điện thoại di động. Vì cái máy đó mà mỗi đêm anh đến quán cà phê “chạc” điện. Buổi tối anh qua đời, cái máy vẫn còn chạc chưa đầy.  Chắc anh chỉ dùng cái cell phone để chơi “games,” các trò chơi điện tử. Trong máy không ghi lại một số điện thoại của người nào. Cũng không thấy số điện thoại nào gọi tới mà không gặp. Anh có rất nhiều bạn trong khu này; nhưng chắc anh không gọi cho ai bao giờ.

Tuan Nguyen sống không nhà, một người “homeless.” Mỗi ngày anh đi lượm lon, bán lấy tiền sống. Tối ngủ quanh quẩn trong công viên Canoga Park hay Winnetka Park. Ký giả Montero đã hỏi chuyện bà Lori Huynh, 77 tuổi. Bà biết Tuấn đã 20 năm nay; thân với nhau vì cùng trải qua cảnh vượt biển. Bà Huỳnh đi năm 1980 khi chồng bà còn nằm tù trong trại “cải tạo.” Chiếc thuyền chở 300 người chạy trốn chế độ cộng sản; tới được một hòn đảo ở Indonesia, bà đã sống ở đó sáu tháng. Bà Huỳnh kể lại nhiều cảnh hãi hùng. Năm 1986 bà mua lại một tiệm làm Nails.  Thấy một anh da vàng hay đi qua lại, bà làm quen, mời anh ly cà phê. Hai năm sau Tuấn mới thổ lộ, kể rằng cha mẹ anh đã chết hết trên biển; anh là người duy nhất còn sống sót.

Không biết gia đình Nguyễn Tuấn vượt biển năm nào. Năm nay anh 53 tuổi thì chắc lúc đến nước Mỹ anh đã hơn 13 rồi. Tuấn kể với bà Huỳnh rằng cha mẹ anh từng làm việc tại “cơ quan điện nước” ở thành phố Sài Gòn. Gia đình sống trong khu chúng cư, một khu nhà đẹp đẽ thuộc lớp trung lưu, của sở. Anh đã học Trung học Petrus Ký lúc trường chưa bị đổi tên; vậy trước 1975 anh đã hơn 10 tuổi. Anh kể khi đi học anh giỏi toán. Nhiều người cũng nhớ lại trong túi đeo vai của anh lúc nào cũng có một cuốn sách, lâu lâu anh lại ngồi xuống vẽ các đồ biểu hay hình học.

Nhà báo Montero cũng gặp Ben Massaband, chủ nhân một tiệm giặt khô trong 32 năm qua, nằm bên cạnh tiệm Nails của bà Huỳnh. Lâu lâu Tuan Nguyen vẫn giúp ông đem thùng rác ra cho xe đổ rác lấy. Ông nói, “Tôi gặp Tuan Nguyen nhiều hơn gặp vợ con.” Cô Kate Leone là chủ nhân một tiệm thẩm mỹ gần đó; cô kể có lần Tuan Nguyen đã giúp cô mà không cho cô biết. Một tối Chủ Nhật cô Kate đóng cửa tiệm mà không vặn khóa. Tiệm nghỉ ngày Thứ Hai, đến sáng Thứ Ba cô tới mới biết mình đã quên. Sau khi kiểm soát khắp chỗ, thấy không mất gì cả, cô vào coi lại trong máy truyền hình tự động. Trong cuộn phim cô nhìn thấy anh Tuan Nguyen đã đứng gác trước cửa tiệm giúp cô cả ngày Thứ Hai; có lúc anh đi khỏi, khi quay về lại kiểm soát xem có ai mở cửa vào tiệm hay không. Cô Maria Avila là thợ hớt tóc, biết Tuan Nguyên rất nhiều, mỗi năm cô cắt tóc cho anh hai lần. Cô kể mỗi lần lại bảo cô cắt cho anh không lấy tiền, nhưng lần nào anh cũng từ chối, nhất định trả đủ 10 đô la. Cô vừa nói vừa khóc: “Tuan Nguyên nghĩ chúng tôi săn sóc anh ấy, nhưng thực ra chính anh đã chăm sóc cho chúng tôi.”

Một người bạn “homeless” của Tuan Nguyên là bà Brooke Carrillo, 42 tuổi. Năm ngoái bà bị mất nhà, vì mất việc rồi không đủ tiền trả nợ ngân hàng. Mỗi Thứ Năm bà đến nấu nướng giúp nhà thờ, cung cấp bữa ăn cho những người vô gia cư khác. Tuan Nguyên tuần nào cũng tới, lần chót là hai ngày trước khi anh mất. Bà còn nhớ anh thích ăn mì spaghetti kiểu Ý và nước trái cây. Bà biết anh thường ngủ ở công viên Winnetka Park hoặc một chỗ kín đáo trên con đường đó. Bà Carrillo đang sống trong cái xe hơi cũ của mình, trên nóc xe chất đầy đồ, phủ mền kín. Hàng ngày bà cũng đi lượm lon. Bà cần tiền đổ xăng, vì phải di chuyển chiếc xe hơi trong những ngày đường cấm đậu xe. Bà nhớ lại có lần hết tiền mua xăng, Tuan Nguyên cho. Bà cũng khóc, “Anh ta là một người nhân từ, hào hiệp, không bao giờ làm phiền ai cả.”

Bà Huỳnh vượt biển đã bán tiệm Violet Nails từ năm 2007, sau khi quen Nguyễn Tuấn 20 năm. Bà đã giặn dò người chủ mới “phải trông nom cho Tuấn” như một điều kiện khi bán tiệm. Và những người chủ mới vẫn giữ lời; nghe tin anh chết, ai cũng khóc. Họ đem hoa tới đặt tại nơi xẩy ra tai nạn. Cách đây ít lâu, Tuan Nguyên trúng vé số, được 800 đô la. Anh đã đi mua hoa đến tặng tiệm Violet Nails và mua nước hoa tặng các cô nhân viên.

Ký giả David Montero, dưới tựa bài “Who was Tuan Nguyen?” đã viết thêm một dòng tự nhỏ: “Bạn bè kể lại niềm bí ẩn của người vô gia cư chết tai nạn xe hơi ở LA” (Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident).

Nhưng nhiều bí ẩn khác trong cuộc đời Nguyễn Tuấn sẽ không bao giờ được kể lại. Tại sao anh phải sống không nhà suốt mấy chục năm qua, trong khi nhiều thiếu niên cùng tuổi với anh đến tị nạn ở Mỹ một mình, các em đó vẫn sống  được, nhiều người đã thành công? Anh đã chứng kiến những thảm cảnh nào trong chuyến vượt biển, lúc 14, 15 tuổi Nguyễn Tuấn chỉ kể chuyện đời mình với bà Huỳnh sau hai năm quen biết, và bà kể lại rất ít chi tiết. Có phải vì anh vẫn còn kinh hoàng khi nhớ lạ quá khứ hay không? Cái chết của cha mẹ anh, và bao nhiêu người khác trong chuyến đi đã ảnh hưởng tới tâm não anh thế nào? Anh đã trông thấy những gì, nghe những âm thanh nào trên mặt chập trùng gào thét? Nguyễn Tuấn mang theo những niềm bí ẩn đó xuống tuyền đài. Chắc hương hồn anh đã bay ngay lập tức về Biển Đông tìm gặp lại cha mẹ anh. Dân tộc Việt đã vác cây thánh giá trong bao nhiêu năm, hết cuộc chiến tranh lại đến chế độ độc tài tàn ác khiến mấy trăm ngàn người phải chết chìm trên biển cả khi chạy tị nạn. Nguyễn Tuấn vẫn một mình vác cây thánh giá đó bao nhiêu năm, cho đến ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Nhưng có một điều rõ ràng, minh bạch, không bí ẩn trong cuộc đời Nguyễn Tuấn: Anh qua đời, tất cả những người quen biết anh đều thương tiếc – như David Montero kể. Không một ai nói một kỷ niệm xấu nào. Một người “không bao giờ làm phiền ai cả” như bà Carrillo nói về anh, đã khó kiếm. Nhưng Nguyễn Tuấn còn đáng ngợi khen hơn thế nữa. Anh nhân từ, hào hiệp, sẵn sàng giúp đỡ người chung quanh. Thấy có thể giúp được ai, là giúp, như một Hướng Đạo sinh tuân theo lời hứa thứ hai. Giúp một người chủ tiệm quên khóa cửa cho tới một người bạn homeless thiếu tiền đổ xăng; và chắc còn bao nhiêu người khác mà ký giả Montero không gặp. Nguyễn Tuấn sống một mình nhưng không cô đơn, vì lúc nào anh cũng nghĩ đến người khác. Anh sống vô gia cư nhưng có cả một gia đình lớn, là những người gặp gỡ hàng ngày, ai cũng quý mến anh. Anh tận tình giúp người mà không muốn nhờ vả ai, không chờ ai đền đáp. Anh giữ tư cách, không nhận người khác bố thí cho mình, dù chỉ là công cắt tóc trị giá 10 đồng. Khi có tiền, 800 đô la là một món tiền lớn đối với anh, anh không hưởng một mình mà đem chia sẻ niềm vui chung với những người tử tế quanh mình.

Nguyễn Tuấn đã theo một quy tắc cư xử mà loài người vẫn dậy nhau mấy ngàn năm nay: Sống đàng hoàng tử tế; người khác sẽ tử tế với mình. Cứ thế, chúng ta sẽ tạo nên một thế giới gồm những người tử tế.

Một thiếu niên bơ vơ nơi đất khách quê người, không thân thích, không nơi nương tựa; chắc anh đã trả qua những thất bại lớn trong đời nên sống vô gia cư mấy chục năm nay. Nhưng khi qua đời anh vẫn được người khác kính trọng. Anh sống ở Mỹ, nhưng nếu sau khi vượt biển anh có lưu lạc đến xứ Zambia hay Equator thì chắc tư cách đàng hoàng của anh vẫn không thay đổi. Cha mẹ anh đã dậy dỗ thế nào để đứa con giữ được tư cách như thế? Họ đã học hỏi từ đâu mà truyền lại cho anh các đức tính kể trên? Cha mẹ anh chỉ dậy anh theo truyền thống dân Việt. Nền luân lý mấy ngàn năm để lại, cùng nền nếp xã hội trước năm 1975 tạo môi trường đào luyện những con người như Nguyễn Tuấn.

Có ai biết Nguyễn Tuấn không? Chúng ta vẫn có hàng triệu, hàng chục triệu những Nguyễn Tuấn đang được cha mẹ người Việt Nam làm gương và dậy bảo. Để các em sẽ trở thành những con người nhân từ, hào hiệp, sống tư cách đường hoàng như Nguyễn Tuấn. Dù còn ở trong nước hay đang sống khắp bốn phương trời, những Nguyễn Tuấn vẫn mang theo truyền thống luân lý của tổ tiên làm hành trang cho cả cuộc đời.

Nguyễn Tuấn mang trong mình một di sản văn hóa anh đã nhận được từ cha mẹ, ông bà, từ những người cùng sống trong xã hội chung quanh từ lúc anh sinh ra đời. Anh đã  sống di sản văn hóa đó suốt cuộc đời một người vô gia cư. Cuộc sống càng gian nan, các đức tính anh thể hiện càng sáng lên rực rỡ.

Đọc xong bài báo của David Montero, nhiều người không cầm được nước mắt. Nhưng không cần ai thương xót Nguyễn Tuấn. Chúng ta có thể còn hãnh diện về Nguyễn Tuấn. Vì mình là một người Việt Nam như anh. Tôi muốn dậy các con tôi tấm gương của anh: Dù gặp cảnh cùng quẫn đến đâu nữa cũng giữ vững vàng tư cách xứng đáng của một người Việt Nam.

~~~~~~~~~~~~~

– Who was Tuan Nguyen? Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident

–  John Doe N.278

– Valley story: Vietnam refugee dies homeless in Canoga Park for decades

From: huong phan & Nguyễn Kim BBằăng gởi

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Vietbao.com

Từ mấy thập niên nay, người dân Việt đã biết rằng giải đất quê hương thân yêu hình chữ S sẽ mất vào tay Tầu Cộng, qua việc đảng Cộng Sản Việt Nam tán tận lương tâm dâng đất cho Tầu Cộng để đổi lấy sự bình ổn chính trị của chúng, nói rõ ra là để cho bọn chúng được yên tâm mà tận hưởng giầu sang, phú quý cướp được từ dân chúng. Nhiều dư luận cho rằng, qua thỏa ước Thành Đô, qua các hiệp ước ký ngầm hoặc công khai với Bắc Kinh, Việt Nam sẽ trở thành một quận huyện của Tầu vào năm 2020. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng việc đó đến sớm hơn dự định. Hiện nay, nhiều vùng trên đất Việt Nam đã hoàn toàn thuộc Tầu. Các phu phố rặt Tầu đã mọc lên khắp nơi, từ Thác Bản Giốc, Móng Cáy, xuống miền Trung, khu Gia La-Tân Rai, tới tận Hà Tiên, đâu đâu cũng có những khu phố Tầu, mà người dân ở đó phải nói tiếng Tầu, dùng căn cước Tầu, xài tiền Tầu. Ngay tại Bình dương sát Saigon, năm 2011, Tầu cộng đã dựng nguyên môt thành phố đặt tên là Đông Đô Đại Phố rộng 26 mẫu tây, với số vốn 300 triệu đô la, để phổ biến sinh hoạt rặt Tầu, nghĩa là áp dụng văn hóa Tầu, chữ Tầu thay cho chữ Việt, xài căn cước Tầu, và đặc biệt nhất là cấm tuyệt đối không cho văn hóa Việt được phát triển ở đây. Tuy không có bảng cấm “Người Việt không được vào”, nhưng những người Việt bước vào khu này, nếu không phải là có quan hệ với người Tầu ở đây, thì sẽ gặp những rắc rối khó khăn, những cặp mắt căm thù, khiến phải nhanh chân trở ra. Điều khác biệt giữa Đông Đô Đại Phố và các khu phố Tầu khác trên thế giới ở chỗ đây là một tỉnh lỵ nhỏ của người Tầu và không một dân tộc nào khác được vào đây mua đât, mua nhà như ở các khu phố Tầu khác. Đường phố chính của Đông Đô Đại Phố là một trung tâm thương mại, có 3 mặt tiền giáp với đường lớn rộng 35 mét, cao 3 tầng với đầy đủ các dịch vụ kinh doanh buôn bán, giải trí, ẩm thực rặt văn hóa Tầu với tên cửa hàng chỉ viết chữ Hán. Trong giao dịch ở đây, chỉ có ngôn ngữ Tầu được sử dụng, nói líu lo. Như vậy, có nghĩa là phần đất này đã được bán cho Tầu môt trăm phần trăm.

Tuy nhiên, nếu Đông Đô Đại Phố là cái gai nhọn trong chân người Việt, thì khu Gia Lai-Tân Rai lại ghê gớm hơn vì nơi đó chính là nguồn gốc sự tiêu hủy môi trường và con người chung quanh vùng này. Từ khi lấy tiếng là khai thác bâu xít để lấy quặng nhôm cho đến nay, số lượng nhôm được khai thác chỉ là những con số huyễn hoặc không ai có thể kiểm tra là đúng hay xạo. Trong khi sự thật lại là việc các công nhân Tầu làm việc ở đây chính là những công an, bộ đội Tầu, được lệnh phải lấy được vợ người Việt chung quanh để biến họ thành dân Tầu với những ưu tiên về mọi mặt. Nhiều thôn nữ nghèo khổ trong vùng, khi nghe những lời đường mật dẫn dụ về các đặc quyền đặc lợi mà họ sẽ được hưởng nếu lấy chồng Tầu, thì sẵn sàng “trao duyên cho tướng cướp”. Sau đó, thì sinh con đẻ cái cho chúng, lập thành một dân tộc riêng biệt chiếm lĩnh vùng cao nguyên mầu mỡ này. Những công nhân gốc công an, bộ đội này dành quyền miễn trừ ngoại giao cho chính chúng nó, nếu chúng có xông ra đánh đập, đâm chém người dân chung quanh thì chính quyền sở tại không dám đụng đến, ngược lại, nếu thanh niên trai làng mà có chuyện xích mích với chúng, thì chúng có quyền bắt trói, gông cổ ngay tại cổng trại! Có lần cả gần 200 công nhân-công an Tầu tràn ra đường với gậy gộc đánh đập thanh niên chung quanh chạy trối chết mà công an Việt chỉ biết đứng trơ mắt ốc ra mà nhìn. Gần đây, điều kinh khủng nhất đã xẩy ra: vì xây cất dỏm, nên bùn đỏ tràn hồ làm hủy hoại toàn thể môi trường chung quanh. Bùn đỏ là bùn độc hại, bởi vì có lượng xút rất cao, khoảng 75kg xút/1 tấn bùn đỏ cộng với độ PH rất cao sẽ làm chết hết cây cỏ, động vật, thực vật, phá hủy kim loại. Khi chẩy xuống nguồn nước thì cá tôm sẽ chết hết, người ta nếu ăn vào thì cũng sẽ chết theo tôm cá. Ngoài ra, bùn đỏ còn có thể kéo theo các kim loại nặng và chất phóng xạ nguy hiểm cho đời sống con người. Đồng thời với việc bùn đỏ tràn hồ, việc các xe tải chở Aluminum (hay chở vật liệu gì đó, thì không ai biết được!) chạy qua các thành phố liên hệ, cũng là môt nỗi ám ảnh không dứt cho người dân sống trong vùng này. Các xe tải của công ty khai thác bâu xít chạy ầm ĩ trên các đường lộ đông dân cư và trẻ em, đã gây ra không biết bao nhiêu tai nạn, hoặc lật xe, đổ chất độc xuống đường, hoặc cán chết người vô tội vạ.

Tháng 6 năm 2014, điều mà dân Việt lo sợ nhất đã chính thức xẩy ra: khu kinh tế Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh của Việt Nam gửi thư lên nhà cầm quyền Hà Nội và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam cho được lập đặc khu với nhiều quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường, nghĩa là đòi trở thành một đặc khu người Tầu dưới sự cai trị của người Tầu, dứt khoát chê bỏ chính quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy đòi hỏi này chưa được chấp thuận, nhưng với sự hèn nhát của Đảng Cộng và dưới áp lực của các bản hiệp ước bán nước cho Tầu, dần dần rồi yêu cầu này cũng được chấp thuận, hoặc cứ tà tà mà thực hiện, không cần phải đánh trống khua chiêng ầm ĩ. Theo thư xin được đặc quyền này gửi cho Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải là một con cờ của Bắc Kinh, Tổng giám đốc công ty Hưng Nghiệp Formosa Dương Hồng Chí, người Tầu, nói lý do là việc thiết lập đặc khu kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện, nước… Thực tế, chúng gửi yêu cầu để tách vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thành như một vùng tự trị trong lòng giang sơn Việt Nam. Với con số trên dưới 10,000 công nhân Tầu không có giấy tờ hợp pháp, khu Vũng Áng đã có một lực lượng quân sự khá lớn, nếu xẩy ra đụng chạm giữa Việt Nam và Trung Cộng. Điều này cũng là sự thực, không phải phỏng đoán, vì những ai sinh sống gần khu Vũng Áng đều thấy rằng có môt lực lượng an ninh với vũ khí đặc biệt trấn đóng trong khu này. Những khuôn mặt lầm lì, những lần tuần tra có vũ khí của lực lượng công nhân Tầu đã cho người ta thấy rõ dã tâm của bọn Tầu khi đã chuẩn bị sẵn để bất cứ lúc nào cũng có thể tấn công các lực lượng phòng thủ của công anh hay quân đội quanh miền này.

Như thế, với 10,000 “quân nhân” Tầu tại Vũng Áng, cộng với hơn 10.000 “quân nhân” Tầu tại Gia Lai-Tân Rai, và vài chục ngàn “quân nhân” Tầu tại Đông Đô Đại Phố, cùng các lực lượng nhỏ của Tầu nằm rải rác khắp nơi trên đắt Việt,từ Móng Cáy, Hòn Gai, đến Cà Mâu, Hà Tiên… nếu có một trận chiến xẩy ra giữa Tầu Cộng và Việt Cộng thì Việt Cộng sẽ thấy kết quả thua trận ngay trước mắt. Trận chiến 1979 do Tầu khởi xướng chỉ tại mỗi môt miền Bắc, mà Việt Cộng đã phải hy sinh 24,000 người chết, (chưa kể người bị thương), thì trong tương lai, nếu có trận chiến thứ hai xẩy ra giữa “hai anh em môi hở, răng lạnh” này, mà thằng anh đã gài sẵn môt hệ thống “da beo” trên khắp miền đất Việt Nam, nhất định thằng em Việt Cộng sẽ chết không dưới 200,000 người, và như thế, thì lá cờ trắng sẽ được treo trên cột cờ thành phố Hà Nội chỉ trong vòng 3 ngày chiến đấu. Máu Việt Nam sẽ đổ tràn lan trên khắp miền Nam, Trung, Bắc. Thế hệ sau của Việt nam sẽ biến thành thế hệ của Tầu…

Thật đau lòng cho các vua đời Đinh, đời Lê, đời Lý, đời Trần và Hoàng Đế Quang Trung đã hiến dâng tính mạng mình cho đất nước, mà giờ đây, con cháu lại bán đứt đất nước cho giặc! Ôi! Nhục thay! Thảm Thương thay cho dân Việt, đã hơn 4000 năm văn hiến, bảo vệ giang sơn, mà giờ đây, bọn Cộng Nô lại nỡ tâm đem bán để cho chúng hưởng đời tỷ phú huy hoàng.

Chu Tất Tiến