Ô nhục này dành cho ai?

Ô nhục này dành cho ai?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày 9 Tháng Mười Một mỗi năm, kể từ năm 1989, cả thế giới chào mừng ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Không phải chỉ là những phiên bản, mà bức tường này được cắt từng mảnh, vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới, lắp đặt lại xem như một di tích cần ghi nhớ, bài học của một giai đoạn ô nhục của chế độ Cộng Sản. Một đoạn của bức tường này được để tại Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan ở Simi Valley, California.

Tác giả đứng bên một đoạn Bức Tường Berlin hồi năm 2000.
(Hình: Huy Phương cung cấp)

Sau khi Thế Chiến 2 kết thúc, Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) được thành lập tại vùng quản lý của quân đội Liên Xô tại Đức ngày 7 Tháng Mười, 1949, sau khi Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía Tây trong khu vực Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản lý. Vì lý do còn sự chiếm đóng của quân đội Liên Xô, mặc dù thành lập từ 1949, mãi đến năm 1955, Đông Đức mới tuyên bố đầy đủ quyền tự trị của một quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi một nền kinh tế lạc hậu, với một không khí chính trị nô lệ, áp bức, khi nước Đức thống nhất, tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Đông Đức chỉ góp được 7% của cả nước Đức so với 93% của Tây Đức dù dân Tây Đức chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước. Suốt một thời gian dài sau khi thống nhất, Tây Đức đã hy sinh, chia sẻ để cả hai miền đều no ấm, thịnh vượng bằng nhau.

Tại sao phía Cộng Sản phải dựng lên Bức Tường Berlin? Ông Mikhail Pervukhin, Đại Sứ Liên Xô tại Đông Đức, đã trả lời câu hỏi này, “Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây.” Bức tường Berlin phải được dựng lên, nếu không một ngày kia, không còn một người dân nào ở lại với chế độ Cộng Sản, kể cả binh lính. Chỉ trong vòng sáu năm, từ năm 1945 đến 1961, sau khi rơi vào tay Cộng Sản, 20% dân số Đông Đức (3 triệu rưỡi người) đã vượt thoát sang Tây Đức.

Image result for picture of berlin wallImage result for picture of berlin wall

Bức tường Berlin còn được gọi là “Bức Tường Ô Nhục” do chính phủ Đông Đức dựng nên từ ngày 13 Tháng Tám, 1961 được gọi là “tường thành bảo vệ chống Phát Xít,” nhưng rõ ràng không thấy một người Phát Xít nào leo ngược bức tường đi tìm hạnh phúc trong thế giới Cộng Sản. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Chiến Tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.

Mặc dù với hàng rào bê tông, cốt sắt có hệ thống báo động tự động, chó săn, 12,000 công an lùng sục ngày đêm, tháp canh, roi điện, hố sâu cản xe tăng và cơ giới, cho đến ngày bức tường sụp đổ đã có hơn 5,000 người dân Đông Đức bất chấp hiểm nguy vượt qua bức tường này thành công đến Tây Đức. Ngoài ra, cũng có 200 người dân Đông Đức bị bắn hạ khi tìm cách vượt qua vùng tự do.

Bài học của Bức Tường Berlin chưa đủ để thức tỉnh lương tri của những chế độ Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt Nam. Sau Hiệp Định Geneva 1954, sông Bến Hải được làm ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam, một triệu người miền Bắc không chờ “bộ đội cụ Hồ” vào tiếp thu Hà Nội đã khăn gói di cư vào Nam. Sau đó hơn 20 năm, cũng chưa thấy ai ở miền Nam bơi qua sông để ra Bắc tìm tự do, no ấm mà chỉ thấy những người bến Bắc, dưới mạng lưới công an dày đặc, tìm đường vào Nam.

Sau Tháng Tư, 1975, khi Bắc Việt lấp được sông Bến Hải thì hơn một triệu người không muốn “được giải phóng” đã bồng bế nhau ra đi, và sau đó, hơn nửa triệu người lại tìm đường vượt biên, vượt biển và cứ hai người tìm cách ra đi thì có một người thiệt mạng. Giá như có một cây cầu có thể nối liền Việt Nam với các nước tự do, hay có tàu bè đến cảng Sài Gòn hay Hải Phòng rước người ra đi vô thời hạn, thì Việt Nam không còn lại được một cái cột đèn để soi sáng “lăng Bác âm u.”

Cho đến 39 năm sau ngày “giải phóng,” vì sao còn cảnh người Việt đóng tàu vượt biển sang Úc, và chuyện đi lấy chồng ngoại, chuyện cầm cố nhà đất để được đi lao động nước ngoài, chuyện cho con du học mà mong con đừng nghĩ chuyện về, chuyện chuyển vốn ra ngoại quốc để lập “đầu cầu” cho mai hậu, phải chăng tất cả điều đó đã nói lên sự “ưu việt” của chế độ Cộng Sản, một chế độ bị chán ghét, đã xô đẩy mọi người phải rời bỏ quê hương, đất nước ra đi.

Nếu Cuba, Bắc Hàn mở cổng biên giới, việc gì sẽ xảy ra.

Nếu biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico bỏ ngỏ thì nước Mỹ sẽ tràn ngập di dân Nam Mỹ bất hợp pháp.

Chính phủ Mỹ đã bỏ ra hàng tỷ đô la để xây vài nghìn cây số tường cao tại biên giới hai nước không phải để ngăn người Mỹ chạy sang lập nghiệp bên đất Mexico. Trước đây, Hoa Kỳ đã không tiên liệu được chuyện hằng năm có khoảng 600,000 dân gốc Hispanic vượt biên vào Hoa Kỳ.

Đông Đức xây bức tường để ngăn dân của họ chạy ra, Hoa Kỳ xây hàng rào biên giới để ngăn dân ở ngoài nước chạy vào. Tị nạn chính trị hay kinh tế thì cũng là do sự lỗi lầm, ngu dốt của một chế độ.

Lúc 11 giờ 30 phút đêm 9 Tháng Mười Một, 1989, một trung tá công an biên phòng Đông Đức, ông Harald Jager, đã khóc sau khi ra lệnh mở cửa Tường Berlin, trong đêm hàng nghìn người đã ồ ạt chạy sang phía Tây. Một năm sau, nước Đức thống nhất trong tự do mà không đổ một giọt máu. Việt Nam “thống nhất” trong một hoàn cảnh khốn nạn nhất, tù đày, kỳ thị, chia lìa, đói nghèo, oan khuất, thù hận ngút trời, mà “đống xương vô định đã cao bằng đầu!”

Bây giờ có một bức tường, không phải xây bằng xi măng cốt sắt nhưng 40 năm nay vẫn còn tồn tại giữa những con người Việt Nam, mà phần ô nhục dành cho phía Cộng Sản.

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!

Bài viết của một cô bé quá hay làm xúc động người đọc vì đã diễn tả chính xác và rất thật cho tâm trạng của tuổi thơ nghèo khó…

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!
Nancy Nguyễn

Đất nước tôi, một rẻo đất tẻo teo khốn khó nép mình bên rìa Thái Bình Dương quanh năm giông bão, của cả trời đất lẫn nhân sinh, trong suốt gần một thế kỷ, chưa có một ngày đứng gió.

Mỗi một mười năm, là một cơn dâu bể đầy khinh ngạc của kiếp người, của dân tộc. Không cơn dâu bể nào giống cơn dâu bể nào, ngoài một điểm chung duy nhất: niềm đau.

Những người sinh ra vào khoảng năm 20 phải chứng kiến đất nước bị xâm lăng và đô hộ. Một đất nước không chùn bước trước vó ngựa Nguyên Mông, bỗng một ngày trở thành thuộc địa, đó, chẳng phải là một biến cố lớn?

Nhưng chỉ 10 năm sau đó, những người sinh ra thời 30, phải chứng kiến cảnh đau thương hơn nhiều lần: đất nước chia đôi, nồi da nấu thịt. Súng của ngoại bang chĩa vào da thịt người mình. “Xương chất đầy đồng, máu chảy thành sông”. “Niềm đau” có là một  danhtừ quá nhẹ?

Mười năm sau, hơn hai triệu con người người sinh vào những năm 40 phải gồng gánh nhau, dắt díu nhau bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, bỏ lại phần mộ tổ tiên để chạy loạn. Dân tộc tôi chứng kiến một cuộc di cư lớn chưa từng có trong lịch sử. Và nếu không phải do bị cấm cản, cuộc thiên di ấy có lẽ sẽ còn vĩ đại hơn nhiều. Và như thế, dân tộc tôi đã bắt đầu rách bào, chia đôi, bắt đầu viết những trang sử sau đó bằng nước mắt và bằng máu.

Những người sinh khoảng năm 50, ngắn gọn là: một dân tộc, hai định mệnh! Tôi không còn chữ nghĩa nào hơn để diễn tả nỗi bất hạnh cùng cực ấy.

Những người sinh khoảng năm 60, chứng kiến sự sụp đổ của một thể chế, sự tái thống nhất một đất nước, và sự chia đôi vĩnh viễn của lòng người. 40 năm qua đi mà vết cứa vẫn rịn máu tươi. Vết thương lòng chưa thấy ngày se mặt.

Những người sinh khoảng năm 70 có cơ hội chứng kiến cuộc thiên di thứ 2 trong lịch sử. Hàng triệu triệu con người phải mạo hiểm tính mạng bản thân, gia đình, để tháo chạy khỏi quê hương. Đất nước tôi đó, những năm tháng lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng nghe. Dân tộc tôi lạc lõng, bơ vơ như những con thuyền lênh đênh trên biển.

Và những người sinh vào những năm 80, là tôi đây, 10 năm sau “giải phóng”, những-tháng-năm-cấm-vận.

Có lẽ ký ức tuổi ấu thơ là những ký ức hằn dấu nhất, ám ảnh nhất của một đời người. Tôi nhớ hoài mẹ tôi, bà đáng ra còn trẻ lắm, mà dáng đã còm cõi, bà bòn từng đồng, lo chạy bữa cho con. Có những ngày trời mưa, mẹ tôi ngồi co ro bên vệ đường, gánh hàng quạnh hiu. Bà chẳng lo mình sẽ nhiễm phong hàn, chỉ lo làm sao? cho đủ sống! Có đất nước nào khốn nạn như đất nước tôi? Có bà mẹ nào khốn nạn như mẹ tôi, người mẹ Việt Nam? Tôi lớn lên, mang theo trong tiềm thức vóc dáng mẹ tôi, còm cõi như đòn gánh, co ro như một dấu chấm hỏi. Một dấu chấm hỏi xiêu vẹo trong những ngày mưa.

Tuổi thơ tôi gắn với những ngày mưa Sài Gòn, xoong chảo nồi niêu, có gì … hứng nấy bởi cái mái tôn nhà tôi … “đưa ánh nắng vào nhà” (mẹ tôi bảo thế), đêm nằm có thể nhìn thấy trăng sao. Những khi trời trở bão, gió giật từng cơn, tôi sợ sấm sét chui qua lỗ đinh vào nhà.

Tôi nhớ đôi dép cọc cạch, bên trái con trai, bên phải con gái, mẹ tôi bảo dép “uyên ương”. Chiếc bên trái là của anh Hai để lại, chiếc bên phải mới là của tôi. Và cả hai chiếc đều vá chằng vá đụp, bằng chỉ bố, mẹ để dành từ quân phục của ba. Quần áo mới chỉ được bận 3 ngày tết, và cũng là của anh hai tôi để lại. Mẹ luôn mua rộng ra mấy tuổi, anh Hai bận chật rồi đến phiên tôi. Quần áo của con trai đấy, nhưng chỉ cần mới, chỉ cần không … vá đít là đủ hấp dẫn rồi!

Và quả nho, những quả nho … dữ dội nhất của tuổi thơ tôi. Tết năm đó, chỉ duy nhất tết năm đó, mẹ tôi mua nho Mỹ về biếu nội. Những quả nho mẹ chắt chiu từ gió sương của cả năm trời, gom góp lại để biếu mẹ chồng dịp tết đến. Những quả nho mập ú, căng tròn, hệt như trong phim Mỹ, giống y chang mấy chùm nho … giả, loại những quán sinh tố trong xóm hay treo làm cảnh. Trời ơi! Dòn! Mọng! Ngọt! Mẹ đã dặn đi dặn lại không được ăn, mẹ còn cất tuốt lên nóc tủ. Vậy mà mấy trái nho như có ma lực, cái đứa tôi như bị thôi miên! Tôi lén trộm một trái. Trời ơi! Ngon! Rồi 1 trái nữa, rồi trái nữa! Từng trái, từng trái một, như một kẻ đã hoàn toàn mộng muội, không còn có thể cưỡng lại được sự quyến rũ phát ra từ mấy trái nho. Mẹ sẽ đánh nát tay tội ăn vụng, tôi nghĩ, tay … vẫn tiếp tục công cuộc … mưu cầu hạnh phúc. Cảm giác tôi lúc đó vừa hoảng loạn, vừa lo sợ, vừa … sung sướng , vừa sung sướng, vừa hoảng loạn sợ hãi. Tột cùng của sự hoảng loạn sợ hãi là khi chùm nho của mẹ chỉ còn trơ lại cọng. Khốn nạn thân tôi! Rồi tôi sẽ phải sống tiếp phần … ngày còn lại ra sao đây? Vậy mà mẹ không đánh tôi. Bà chỉ ôm tôi vào lòng … và khóc, khóc gào lên, khóc trào ra. Khóc như một đứa trẻ. Mẹ tôi đó. Ôm con vào lòng, gào khóc lên như trút hết hơi sinh vào từng tiếng nấc.

Năm tháng qua đi, cuộc đời mang lại cho tôi thừa mứa. Giờ tôi muốn ăn gì thì ăn, muốn đi đâu thì đi, muốn mua gì thì mua. Tôi ngán đủ thứ, chả muốn ăn gì, chỉ còn ăn được mỗi nho. Bởi với nho, tôi không ăn bằng trực giác, mà thưởng thức bằng mùi vị của ký ức. Và vì với nho, tôi mua được một vé đi tuổi thơ. Hai mươi mấy năm trôi qua, ký ức vẫn chưa ráo mực. Mỗi lần ăn nho, tôi thấy mình bé lại, và được một bàn tay vô hình kéo tuột về thủa ấy, những-năm-tháng-cấm-vận.

Tôi chỉ là một cá nhân, một cá thể, trong một tập thể những con người thế thệ 8x. Và chỉ là 1 thế hệ, trong nhiều thế hệ con người. Nhưng nói như một nhà văn Nga: “Cây đời có hàng triệu chiếc lá, và nói về một chiếc lá, là cũng đang nói về hàng triệu chiếc lá khác”.

Cứ mỗi mươi năm, con Tạo quái ác xoay vần, là dân tộc tôi lại được gán cho một định mệnh mới. Tôi đã nghe rất nhiều người bảo tôi “thời em sướng rồi, thời của anh khổ lắm”, còn tôi, tôi chỉ thấy thời nào cũng khổ. Và chẳng cái khổ nào giống cái khổ nào. Cái nào cũng “đặc thù” và cái nào cũng “nhất”!

Người mình khổ quá, đất nước mình đau thương quá. Phải không mẹ? Phải không anh?

Facebook Nancy Nguyen

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Vài hôm nay, cái vụ bác Hai lúa Trần Quốc Hải sang Campuchia làm khoa học khiến mình bạc mặt vì mất ngủ. Hết chuông điện thoại để bàn đến chuông di động réo từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, từ tối đến đêm. Hóa ra mấy bác “khoa học” cũng đang “tâm tư” như mấy bác bên quân đội tâm tư vì cái vụ không được lên tướng (dù nước mình, “trần phong tướng” nghe đâu là gần 500, trong lúc thằng Tàu bự cũng chỉ có khoảng 190 tướng). Điện thoại hàng trăm cú nhưng nội dung thì chỉ có một: Campuchia muốn Đại tướng quân Hai lúa hạ cố nhận cho 18 ha xoài, 1 ô tô, 1 biệt thự ở Pnông-Pênh… Nhưng Hai lúa vẫn chưa chịu nhận. Chuyện thật mà nghe cứ như là … “gặp nhau cuối tuần”. Mấy bác giáo sư tiến sĩ bạn mình đang tính đến nước sang Campuchia làm “thuyền nhân” rồi tìm cách trổ tài với bác Hunxen, chí ít cũng được hưởng vài mẫu xoài, chiếc ô tô. Nghe xong, mình mới bảo họ rằng các anh không yêu Đảng à, không yêu tổ quốc Việt Nam XHCN à. Tôi thà làm ăn mày nước Nam còn hơn làm vương Campuchia… Nói vậy nhưng nghĩ lại mình thấy cũng hơi bị lo lo: ngộ nhỡ chất xám mà cứ chảy ồ ồ suốt ngày đêm sang Campuchia thì gay quá, còn gì là tầng lớp trí thức XHCN do Đảng đào tạo nữa. Đảng vừa mất cả tiếng vừa mất cả miếng. Thế cho nên mới tính làm một cái kiến nghị gửi Đảng về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với giới khoa học theo như cách làm bóng đá vậy. Nghĩa là nhà trường XHCN cứ đào tạo thật nhiều nhà khoa học sau đó đem bán dần cho Campuchia, như các câu lạc bộ vẫn bán cầu thủ. Nhất cử lưỡng tiện, Nhà nước thì được tiền, nhà khoa học thì được biệt thự, ô tô, vườn xoài. Tiền thu được có thể đủ phong thêm vài ngàn ông tướng, cho anh em đỡ “tâm tư”, như lời bác Phùng Quang Thanh. Rồi lập thêm mấy cái hội, mấy cái mặt trận để vỗ tay cho rôm rả mỗi khi mấy bác Bộ Chính trị đăng đàn giáo hóa cho dân. Nếu vẫn chưa hết tiền thì mở mấy trường đài tạo dư luận viên rồi gửi tuốt hết sang Campuchia luôn để đám dư luận viên này mở mang đầu óc cho đám trí thức làm thuê kia rằng Đảng ta là đạo đức, là văn minh, ta dân chủ gấp vạn lần bọn tư bản cá mập và nhớ liệu thần hồn mà gửi tiền về cho Đảng để Đảng còn đào tạo 90 triệu con dân thành 90 triệu tôi tớ làm thuê cho đám tập đoàn tư bản lũng đoạn Samsung, Ford, Sony… Được như vậy thì đám trí thức chúng mày không cần phải sang Campuchia làm thuê làm chi cho khổ, cứ ở yên trong nước mà làm thuê cũng sướng chán rồi, khỏi lo mất danh dự vì 90 triệu dân ai cũng làm thuê, cũng bình đẳng nhé

Bauxitte Việt Nam

Sửa chữa và chế tạo xe bọc thép thành công tại Campuchia, cha con Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải được biệt đãi như chế độ của đại tướng quân thật sự. Chính phủ Campuchia đã cấp cho gia đình ông một biệt thự, một xe hơi trong những ngày lưu lại nước bạn.

Không chỉ vậy, ông sẽ được sở hữu tất cả cộng với vườn xoài rộng 18 ha nếu chấp nhận sang Campuchia làm khoa học

“Nước bạn kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ bảo đảm kinh tế, mình chỉ cần chuyên tâm sáng tạo” – ông Trần Quốc Hải nói.

Chuyện làm tướng của ông hai lúa

Lúc được trao Huân chương Đại tướng quân, ông cũng không ngờ mình và gia đình được đối đãi tử tế như thế. Huân chương do Quốc vương Norodom Sihamoni ký lệnh và Thủ tướng Hun Sen trao tặng.

clip_image001

Thủ tướng Hun Sen trao tặng Huân chương Đại tướng quân cho ông Trần Quốc Hải.

“Lúc nhận huân chương tôi cũng run lắm. Cả đời mình chưa bao giờ dự một nghi lễ long trọng như vậy”. Ông kể, buổi lễ có rất đông người, rất nhiều lãnh đạo cao cấp và tướng lĩnh. Sau này ông mới biết, đó là nghi thức cấp quốc gia.

Ông Hải thật thà cho biết, số tiền đi kèm huân chương chỉ có vài ngàn USD. Tuy nhiên, sau khi phong tướng, cả gia đình ông được biệt đãi rất trịnh trọng. Cuộc sống, sinh hoạt của gia đình ông hưởng đúng tiêu chuẩn cấp tướng.

Gia đình ông được cấp một ngôi biệt thự ở ngay Phnom Penh, cách nơi ông làm việc 3 km. Ông cho biết đó là một ngôi biệt thự rất rộng và bề thế.

Riêng ông Đại tướng quân hai lúa được cấp riêng một chiếc xe hơi 4 chỗ hiệu Hyunhdai Sonatta mới cứng để tùy nghi sử dụng.

“Mọi việc ăn uống, sinh hoạt của gia đình tôi đều có người phục vụ, đúng theo tiêu chuẩn cấp tướng” – ông Hải hồ hởi kể.

Ngoài ông và con trai, nước bạn còn mời vợ và con gái ông sang biệt thự ở chung một thời gian ngắn. Khi hoàn tất công việc, một quan chức dẫn gia đình ông thăm quan vườn xoài 18 ha cùng với thông điệp: Gia đình ông sẽ sở hữu tất cả, biệt thự, xe hơi và vườn xoài nếu sang Campuchia định cư làm khoa học. Họ để dành sẵn chờ ông trả lời.

“Ở bên đó cấp tướng vinh dự lắm, được người ta nể trọng” – ông nói. Quan niệm của nước bạn, đại tướng là thần, chỉ xếp sau vua nên có nhiều đặc ân. Chính phủ bạn còn cho biết, Huân chương Đại tướng quân cho phép ông nhập quốc tịch Campuchia bất cứ lúc nào.

clip_image002

Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia trao Huân chương cho anh Trần Quốc Thanh (con trai ông Hải)

“Sướng nhất là làm khoa học”!

“Họ làm tất cả vì muốn gia đình tôi sang hẳn. Nhưng tôi chưa nghĩ đến việc sang đó. Nói thật tôi đi nhiều nước rồi. Mong muốn lớn nhất là phục vụ dân mình, nước mình” – ông Hải trải lòng.

Ông còn mẹ già ngoài 90 tuổi ở quê nhà Tây Ninh, còn nhiều công trình dang dở phải theo đuổi. Trở về sau chuyến đi Campuchia, ông Đại tướng lại cởi bỏ quân phục, làm anh nông dân chuyên sáng chế.

Nhìn vẻ ngoài rất bình dị và khiêm tốn, ít ai ngờ ông là người quả quyết, dám nghĩ dám làm và thành công. Ông nói thật với chúng tôi, tiền bạc quyền lợi không quan trọng. Cái “sướng” nhất của người làm khoa học là được thỏa mãn đam mê.

“Không định cư nhưng tôi sẽ thường xuyên sang nước bạn. Ở đó làm khoa học sướng lắm” – ông Hải nói tiếp. Tất cả những sáng kiến của ông đưa ra đều được tiếp thu và ủng hộ tức thì. Kinh phí vừa yêu cầu xong, lập tức đến tay.

Mỗi chiếc xe bọc thép sửa chữa, ông được khoán trắng 25.000 USD cả phụ tùng lẫn công cán. Chế tạo xe bọc thép mới, ông được cấp ngay kinh phí trọn gói 200.000 USD/chiếc.

Sắp tới, Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải sẽ tiếp tục sang Campuchia thực hiện các đề án khoa học. Tuy nhiên, ông lần nữa khẳng định với chúng tôi, ông vẫn chưa gật đầu với chiếc xe hơi, tòa biệt thự, 18 ha xoài và chế độ biệt đãi dành cho một vị tướng.

“Tiền bạc lời lãi mình không đặt nặng nhưng được tin tưởng, khuyến khích thì mình phấn khích lắm” – ông phân tích. Cộng với việc được phục vụ như một ông tướng, ông chuyên tâm làm, hào hứng làm và đã thành công.

Theo Một thế giới

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/207105/dai-tuong-quan-hai-lua-viet-duoc-campuchia-cap-xe-hoi–biet-thu-hoanh-trang.html

Lời Vàng Ý Ngọc

Lời Vàng Ý Ngọc

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Con người mất cả liêm sỉ là con người bỏ; huống chi cả một đám người mất cả liêm sỉ, mà còn mong gì được ư?

Phan Khôi

Mấy lúc gần đây, ngó bộ, GS Nguyễn Văn Tuấn mỗi lúc một thêm … khó chịu. Ổng xét nét (thấy rõ) và bắt bẻ liền liền:

Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có thể trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó…

Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc.

Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:

Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể…

Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ…

Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo VN quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu …

Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau…

Những câu văn thượng dẫn chỉ là ý chính trong một bài viết (“Và i Đặc Điểm Trong Các Phát Biểu Của Lãnh Đạo Việt Nam”) của G.S Nguyễn Văn Tuấn. Ghi lại nguyên bài (hổng dài, chưa tới 2.000 chữ) tôi không ngại chuyện mất thì giờ mà chỉ sợ lỡ có vị lãnh đạo đọc rồi  … nhẩy cầu Bình Lợi, hay cầu Hàm Rồng thì tội chết.

G.S. Tuấn nhận xét tuy không sai nhưng (nói nào ngay) cũng chưa hoàn toàn đúng. Quả là những lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam (thường) rất chung chung, toàn sáo ngữ, và cứ y như hô khẩu hiệu chớ không có thông tin gì ráo trọi nhưng không phải lúc nào cũng vậy đâu nha.

Ngày 15 tháng 11 vừa qua, độc giả của trang Dân Luận có vị đã  “đề xuất”  hết sức hào hứng như sau:

“Ta nên có cuộc thi xem ai nói bậy bạ hơn . Sẽ rất căng thẳng đấy!”

Có lẽ vì rất thích “không khí căng thẳng” nên (khi chưa bị túm) có lúc nhà báo Trương Duy Nhất đã bỏ công sưu tập những câu nói ấn tượng hàng năm: (“Top ten phát ngôn ấn tượng 2011,” Top ten phát ngôn ấn tượng 2012”). Sau này, vì qúi vị lãnh đạo phát biểu “liên tục” và gây ấn tượng “liên miên” nên ông ghi nhận theo ngày (“Sáu Mươi Ngày Những Phát Ngôn Ấn Tượng”).

Ngày nào mà không có đôi câu … bất hủ: “Ta và Trung Quốc cần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.”

Ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng nói về quan hệ Việt Trung như rứa đó (vào năm 2011) và chắc nghe chưa được tình nghĩa lắm nên mới đây ông Nguyễn Bắc Việt, Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận – Ủy Viên Ban Thường Vụ Tỉnh Ủy, Phó Trưởng Đoàn Đại Biểu Quốc Hội –  bèn thêm đôi câu cho thêm phần thắm thiết:

– Thứ nhất, phải làm sao gặp gỡ tiếp xúc với Trung Quốc để làm dịu tình hình biển Đông, sớm đưa lại tình hình như trước khi xảy ra sự kiện. Thứ hai, xử lý nghiêm minh theo pháp luật các đối tượng kích động, thông báo công khai…

– Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi…

Nghĩ sao nói vậy, một cách hết sức hồn nhiên và hình tượng  – xem ra – đã trở nên một nét đặc trưng của giới lãnh đạo Việt Nam:

– Đừng để cán bộ viên chức giống như con gì trong rạp xiếc, có cho nó ăn cái hột gì đó nó mới làm. (Ông Nguyễn Bá Thanh – BTTU Đà Nẵng).

– Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng. (Chánh án Tòa tối cao Trương Hoà Bình).

Blogger Lê Anh Hùng đã có nhận xét như sau:

“… trong giới quan chức ở Việt Nam hiện nay hầu như ai cũng giữ được nét ‘hồn nhiên’ đáng yêu của mình cả. Này nhé, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng công chúng với lời chia sẻ:

Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai’ (!!!), hay lời giãi bày: ‘Trong sự nghiệp của mình, tôi không có chạy, không có xin, không thoái thác, từ chối nhiệm vụ nào Đảng phân công. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện công việc mà Đảng và nhà nước giao phó’ (!!!)

Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng thì khiến bao người ngẩn ngơ với lời bộc bạch: ‘Tôi bổ nhiệm ông [Dương Chí] Dũng làm Cục trưởng để cứu Vinalines’ (!!!), hay tuyên bố: ‘Việc đóng phí [giao thông] thể hiện sự yêu nước nên người dân phải thấy hạnh phúc và tự hào’ (!!!)

Thống đốc NHNH Nguyễn Văn Bình thật xứng đáng với danh hiệu ‘Nhân vật của năm 2011”: “Dân có vàng thì dân giàu, mà nhà nước giữ vàng (của dân) thì nước sẽ mạnh’ (!!!)

Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng thì thật thà: ‘Câu trả lời [chất vấn] đã có nhưng lại để ở nhà’ (!!!); Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Nguyễn Duy Chiến thì ‘đi guốc trong bụng’ người anh em ‘4 tốt 16 chữ vàng’: ‘Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam là thể hiện tình cảm ‘yêu cho đòn cho vọt’ (!!!)

Phó Chủ tịch UBND Tp Hải Phòng thì lúc nào cũng nghĩ đến dân: ‘Dân bất bình nên phá nhà anh [Đoàn Văn] Vươn’ (!!!); ông Cục trưởng Cục CSGT thì phàn nàn: ‘CSGT nhận hối lộ là hành vi tiêu cực chứ không phải là tham nhũng’ (!!!); còn Trưởng Công an huyện Văn Giang thì thổ lộ: Vụ 2 nhà báo bị 2 công an và 3 người khác hành hung tại dự án Ecopark là do họ ‘tưởng nhà báo là … người dân’ (!!!); v.v. và v.v.

Tôi còn tìm ra được một FB chuyên trị về “Những Phát Ngôn Ấn Tượng,” xin trích dẫn vài câu (cùng hình ảnh) xem chơi:

– Chính phủ họp đảm bảo không có phong bì. ( BộTtrưởng, Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ Nguyễn Văn Nên).

– Hiện rất ít nước quản lý không bài bản như Việt Nam. (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường).

Tai nạn xảy ra là điều không ai mong muốn, song đừng đề cập đến trách nhiệm thuộc về ai, ngành nào, mà trách nhiệm thuộc về toàn dân. (Nguyễn Đạt Tường, TGĐ Tổng công ty đường sắt VN).

-EVN tăng giá điện 5% là có trách nhiệm với nhân dân. (Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng)

  • – Đường Trường Chinh không cong hẳn mà cong mềm mại. (Ông Dương Đức Tuấn, Phó giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc TP.Hà Nội.
  • Tất cả những câu phát biểu hồn nhiên hay hình tượng (dẫn thượng) có điểm chung vô cùng qúi hoá là nghe cái hiểu liền, chỉ có câu sau đây  của ông chí T.B.T Nguyễn Phú Trọng là hơi bị khó:
  • “Nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …
  • Hiểu chết liền!

Bởi vậy khi nghe các đồng chí lãnh đạo loanh quanh những khẩu hiệu quen thuộc, đầy sáo ngữ, chả có thông tin gì ráo trọi, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau … toàn dân nên lấy đó làm mừng. Mừng là ít ra chúng ta còn biết là họ đang hô khẩu hiệu về một vụ gì đó, chớ “nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …” thì (đ… mẹ) nói thiệt là chắc Trời – may ra – mới hiểu.

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống thọ và ra đi trong bình an.  Đặc biệt khó hơn khi người chết còn trẻ, còn cần được chăm sóc nuôi dưỡng, khi họ chết trong hoàn cảnh không được lý tưởng cho lắm.

Là một linh mục, tôi đã nhiều lần chủ lễ các tang lễ của những người chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, hay tự vẫn.  Những đám tang như thế luôn luôn buồn thảm và mang tính hoài  nghi.  Tôi còn nhớ một đám tang như vậy: Một học sinh trung học chết vì tai nạn xe hơi.  Gia đình, bạn bè, và bạn học của em lòng đầy thương tiếc đến dự chật kín cả nhà thờ.  Mẹ cậu, vẫn còn trẻ, ngồi ở hàng ghế đầu, lòng bà nặng trĩu với nỗi tang thương mất mát của mình, nhưng rõ ràng bà quặn thắt khi nghĩ về đứa con.  Và hơn hết, em chỉ là một đứa trẻ, phần nào vẫn còn cần người chăm sóc, vẫn cần mẹ.  Và bà mẹ cảm nhận em chết trẻ như thế, theo cách nào đó, cũng đã làm em trở thành em bé mồ côi.

Chẳng có mấy lời có tác dụng trong trường hợp như thế này, nhưng có vài lời mà chúng ta buộc phải nói, ngay cả trong một ngày như thế, khi cái chết vẫn còn trước mặt, khi người ta không cảm được bao nhiêu sự an ủi về mặt tình cảm được.  Phải nói gì trước một cái chết như thế?   Đơn giản là cậu bé bây giờ đang ở trong bàn tay yêu thương hơn, âu yếm hơn, dịu hiền hơn, và đáng tin cậy hơn đôi tay của chúng ta, rằng ở bên kia có một người mẹ đón nhận em, săn sóc nuôi dưỡng mà em vẫn còn cần, giống như ở đời này vậy.  Không một ai sinh ra mà lại không nằm trên bàn tay ẵm của mẹ cả.  Đó chính là hình ảnh mà chúng ta cần phải giữ trước mắt để có thể hình dung cái chết một cách lành mạnh hơn.

Vậy cụ thể hơn, hình ảnh này là gì.  Một vài hình ảnh nền tảng và dịu hiền như hình ảnh người mẹ ôm và ru đứa con mới sinh của mình.   Lời bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night, bài thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đã lấy cảm hứng từ hình ảnh này.  Joseph Mohr, một linh mục trẻ người Đức, chiều trước lễ Giáng Sinh, đã đi đến một căn nhà tranh trong rừng để rửa tội cho một em bé mới sinh.  Khi ông ra về, đứa trẻ ngủ ngon trong lòng mẹ.  Ông được đánh động quá đỗi trước hình ảnh đó, trước sự sâu thẳm và bình an của hình ảnh đó, rồi khi trở về nhà xứ, ngay lập tức ông viết nên những dòng lừng danh của bản Đêm Thánh Vô Cùng.  Người hướng dẫn dàn nhạc của ông, đã thêm một vài hợp âm guitar cho những dòng này, biến chúng thành những dòng bất hủ.  Hình ảnh khuôn mẫu tuyệt đối cho yên bình, an toàn, và bảo đảm chính là hình ảnh em bé sơ sinh ngủ trong lòng mẹ. Hơn nữa, khi một đứa trẻ chào đời, không chỉ có một mình người mẹ háo hức muốn ẵm bồng mà tất cả gia đình mọi người đều muốn.

Có lẽ chẳng có hình ảnh nào phù hợp, mạnh mẽ, có sức an ủi, và chính xác hơn nữa để minh họa những gì xảy đến với chúng ta khi chết đi và tỉnh dậy trong sự sống bất diệt cho bằng hình ảnh bà mẹ ẵm đứa con mới sinh của mình.  Khi qua đời, chúng ta chết trong bàn tay Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta đã được đón nhận với quá đỗi yêu thương, trìu mến, dịu hiền như khi chúng ta được mẹ ẵm trên tay lúc mới sinh.  Hơn nữa, chắc chắn ở đó, chúng ta được an toàn hơn khi sinh ra trên thế gian này.  Tôi cũng nghĩ, ở đó sẽ có những vị thánh quây quần xung quanh, chờ đến lượt mình để được ẵm em bé mới sinh.  Và như thế thật an tâm nếu chúng ta chết trước khi sẵn sàng để chết, khi vẫn còn cần được chăm sóc nuôi nấng, khi vẫn còn cần một người mẹ.  Chúng ta đang ở trong đôi bàn tay an toàn, ân cần, và đầy tình chăm sóc.

Đó có thể là niềm an ủi thâm sâu bởi cái chết đẩy tất cả mỗi người chúng ta vào tình trạng mồ côi, và mỗi ngày, đều có những người chết trẻ, bất ngờ, thiếu chuẩn bị, những người vẫn còn cần được chăm sóc.  Tất cả chúng ta khi qua đời, vẫn còn đang cần một người mẹ, nhưng đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta sẽ được sinh ra trong đôi bàn tay đáng tin cậy hơn và được nuôi dưỡng hơn đôi bàn tay của nhân loại.

Tuy nhiên, dù có lẽ sẽ đem lại an ủi, nhưng nó vẫn không thể chấm hết nỗi đau buốt vì mất đi người thân yêu.  Chẳng gì cất đi được nỗi đau buồn đó cả, vì chẳng có gì được định để làm việc đó.  Cái chết là vết sẹo không phai trong tâm hồn chúng ta vì đó chính là những đau đớn do tình yêu mà ra.  Dietrich Bonhoeffer đã nói về điều này như sau: “Không có gì có thể khỏa lấp việc mất đi người chúng ta yêu thương. … Thật vô lý khi nói rằng Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống, Thiên Chúa không lấp đầy nó, nhưng ngược lại, ngài vẫn để nó trống rỗng và như thế giúp chúng ta giữ mối giao tình với người đã mất cho dù cái giá của nó là nỗi đau.  … Ký ức của chúng ta, nếu càng nhiều và càng thiết tha, thì sự chia lìa càng nên khó khăn hơn.  Nhưng lòng biết ơn biến đổi những nhói buốt trong ký ức thành niềm vui thanh bình.  Vẻ đẹp của quá khứ không phải là chiếc gai đâm xé da thịt nhưng chính là tặng vật quý báu.”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

*************************************

Tôi đã được phép giã từ.

Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em!

Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.

Này đây chìa khóa tôi gài lên cửa,

Và cả căn nhà cũng trao trọn anh em.

Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối,

Thắm đượm tình thân.

Từ lâu rồi, sống bên nhau,

Chúng mình là láng giềng lối xóm;

Nhưng anh em đã cho tôi

Nhiều hơn tôi cho lại anh em.

Bây giờ ngày đã rạng,

Đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.

Lệnh triệu ban rồi,

Tôi đi đây.

Rabindranath Tagore

Anh chị Thụ Mai gởi

Tử đạo hôm nay

Tử đạo hôm nay

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuacuuthe.com


VRNs (14.11.2014) – Đồng Nai – Con người đều có quyền được đối xử bình đẳng như nhau. Không phân biệt chủng tộc, không được kỳ thị tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào. Nếu thể chế chính trị hay tổ chức nào cố tình kỳ thị tôn giáo hay chủng tộc đều là nhà độc tài đáng sợ của nhân loại. Nhất là tôn giáo cần phải được tôn trọng. Đây là đời sống tâm linh hoàn toàn là sự tự nguyện chứ không phải ép buộc hay đe dọa dưới bất kỳ phương tiện nào. Thế nhưng, dầu đang sống ở thế kỷ 21 vẫn còn đó sự bách hại và cưỡng bức từ nhóm ISIS Hồi giáo quá khích. Họ đã và đang ép buộc, cưỡng bức, giết hại những người Công Giáo, cũng như các tôn giáo khác tại Iraq. Họ buộc các tín hữu ky-tô giáo phải bỏ đạo mà quy phục đạo Hồi nếu không phải rời quê hương ra đi hoặc phải chết dã man …

Trong mấy tháng qua những hình ảnh đau xót vô cùng của sự “ác độc dã man” đã cho chúng ta thấy rằng: Một cháu bé gái Công Giáo mới 2 tuổi mà chúng cũng không tha. Chúng lôi em ra chặt đầu trước mặt mẹ và những người thân của cháu, gần bên cạnh một thánh đường và bắt mọi người Kitô giáo phải đổi sang Hồi giáo, nếu không số phận cũng sẽ là như em bé gái này tất cả!

Phiến quân ISIS Hồi giáo còn công bố một clip đã đập nát tượng Đức Mẹ trong một Thánh đường bị phá hủy tan hoang. Tượng chúa Giêsu thì bị chúng chặt đầu nằm trên nền nhà thờ.

Ước tính cho rằng, có khoảng 200.000 Kitô hữu sống trong khu vực Ninive. Những người Kitô Giáo đã bị sát hại chưa thể kiểm chứng chính xác được. Người ta chỉ có thể phỏng đoán căn cứ theo sự mất tích là 10.000 – 50.000 (từ mười ngàn đến năm mươi ngàn người)

Nhân quyền ở đâu? Sự liên đới của Liên Hiệp Quốc ở đâu? Tại sao lại để sự dữ tung hoành ngay trong thời đại tưởng chừng như nhờ văn minh con người đang xích lại gần nhau hơn? Hiểu hết, thấy hết những khốn khổ của người Công giáo ở Irak, ở Syria, . . . sao không thấy các nước can thiệp mạnh mẽ hơn để đẩy lùi sự dữ cho anh em của mình.

Ngượi dòng lịch sử Việt Nam, cha ông của chúng ta cũng từng là nạn nhân của sự kỳ thị tôn giáo và chủng tộc. Chỉ vì là người Công Giáo mà bị kết tội chết, có khi nhẹ hơn là khắc lên trên trán hai chữ “tà đạo” . . .

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, người Công Giáo bị coi là Tà đạo còn lại là “Lương dân”. Thật đắng lòng khi gọi người khác tôn giáo là lương dân còn mình thì bị tước khỏi danh hiệu ấy! Quyền được tôn trọng bị khước từ. Quyền tự do bị chối từ. Các tín hữu Việt Nam cũng từng trải qua những ngày tháng khắc nghiệt để giữ vững lòng tin. Một là bước qua Thập Giá để về nhà, hai là chịu án phạt của cái chết vô cùng dã man với các hình phạt: Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Thật hạnh phúc cho Giáo hội Việt Nam vì trong số 300 ngàn vị tử đạo đã có đến 117 vị đã được Giáo hội tôn phong Hiển Thánh. Một con số cho thấy đời sống đức tin tuyệt vời của cha ông chúng ta. Các ngài đã nên thánh trong chính đời sống thường ngày của mình. Các ngài giữ đạo mến thương để mọi người ngoại đạo đều yêu mến kính trọng đời sống đức tin của các ngài. Và cái chết tử đạo chỉ là một đỉnh cao cho đời sống trung thành với đức tin của mình mà thôi! Tử đạo là nét son trổi vượt cho một đời sống son sắt trung kiên với Tin mừng. Tử đạo chỉ có giá trị từ đời sống hằng ngày biết mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình.

Hôm nay mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa đã cho quê hương chúng ta có nhiều mẫu gương tuyệt vời về đời sống đức tin, về lòng mến Chúa yêu người. Chúng ta tạ ơn Chúa vì nhờ những gương sáng tuyệt vời ấy đã giúp Giáo Hội Việt Nam vượt qua những phong ba để trưởng thành và thăng tiến. Tạ ơn Chúa, tạ ơn các tiền nhân cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta phải duy trì tinh thần sống đạo mến Chúa yêu người như cha ông chúng ta. Mừng kính các ngài không chỉ để ca tụng các ngài, mà quan yếu là dịp học hỏi gương sống đạo của cha ông để sống cho thời đại hôm nay. Một thời đại rất khoa học nên việc bách hại cũng rất tinh vi. Một thời đại rất văn minh nhưng lại quá nhiều lo sợ, bất an bởi an ninh, bởi nhiều cám dỗ, bởi đời sống thác loạn của môi trường.

Nguyện xin các thánh TĐVN giúp cho chúng con là con cháu được trung kiên giữ vững đức tin. Dẫu xã hội hội có nhiều cám dỗ, cạm bãy, xin cho chúng con đừng vì danh lợi thú mà xa rời Chúa, xa rời Giáo hội. Xin Chúa giúp chúng con can trường giữ đạo trong mọi thử thách như cha ông chúng con xưa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

Hòa Ái, phóng viên RFA
11-11-2014

Ở nhiều nước, việc một em bé 11 tuổi như em bé Cẩm Hiếu ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước vượt hàng ngàn cây số ra Hà Nội đội đơn kêu oan cho cha mẹ ròng rã mấy tháng trời trước cửa công đường chắc chắn sẽ làm lay động lương tri của toàn xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì có vẻ như đó chỉ là chuyện vặt bởi cho đến nay vẫn chưa thấy cá nhân nào, tờ báo nào, hội phụ nữ nào, mặt trận tổ quốc nào, hội cựu chiến binh nào… lên tiếng bênh vực, xót thương cho em. Hay là vì dân ta đã chịu quá nhiều đau khổ, hay là vì em chỉ là một dân oan bé nhỏ đến mức không ai nhìn thấy giữa hàng triệu triệu dân oan từ bao nhiêu năm nay mỏi cổ ngóng chờ công lý, hay là vì người Việt đã trở nên độc ác, hoàn toàn vô cảm trước nỗi đau của người khác. 

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu kể: … “ra Hà Nội em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em lại về đây… Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm người ta mới tiếp cho…”. Tại phiên phúc thẩm thứ 2 mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng: Chú Tư hàng xóm chứng kiến vụ việc xẩy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng? Thế nhưng một vị thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này…

Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát hoàn toàn không có một cử chỉ nào, dù nhỏ nhất để giúp đỡ em về mặt tinh thần cũng như vật chất. Những kẻ thực thi pháp luật đã vi phạm luật pháp về quyền trẻ em.

Con người Việt Nam nói chung và giới quan trường nói riêng đang ngày càng trở nên vô cảm – một trạng thái tâm lý, nếu theo lẽ tự nhiên, thì chỉ phổ biến ở loài vật, nhưng đau xót thay, hiện nay nó đang trở nên phổ biến ở con người.

Bauxite Việt Nam

clip_image001

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu chụp trước Toà án huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong phiên sơ thẩm ngày 25/2/2014. Photo courtesy of danlambao

Trong số hàng triệu dân oan ở VN hiện nay có không ít nạn nhân là trẻ em. Hòa Ái ghi nhận một trường hợp điển hình về hành trình kêu oan cho cha mẹ của cô bé 11 tuổi, ở Bình Phước, tên Ngô Thị Cẩm Hiếu.

“Hồi lúc ra Hà Nội, em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em về lại đây. Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Sau đó em ở nhà, mẹ đi còn em không đi nữa. Cũng có nhiều người đi kiện nên khoảng 5,6 người ở cùng 1 nhà trọ. Lúc em đi với mẹ thì không làm gì nhưng khi mẹ đi một mình thì mẹ phải đi rửa chén thuê. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, cơ quan Cảnh sát Điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm thì người ta mới tiếp cho. Người ta xem kỹ hồ sơ rồi viết đơn yêu cầu tỉnh Bình Phước điều tra và làm rõ lại vụ việc…Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em”.

Vừa rồi là câu chuyện kể đi kêu oan và ước vọng của bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, 11 tuổi, con của 2 dân oan là ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em.

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu

Biến cố xảy đến với gia đình bé Cẩm Hiếu cách nay 4 năm, bắt đầu từ một giao dịch dân sự. Gia đình bị cảnh xiết nợ gây thiệt hại tài sản, bị mất đất trở thành dân oan. Bé Cẩm Hiếu đã cùng mẹ ngược xuôi Nam- Bắc đi khiếu kiện vì cho rằng cơ quan thẩm quyền địa phương giải quyết vụ cưỡng chế bán đấu giá tài sản của gia đình không thỏa đáng. Ông Ngô Văn Huynh, cha bé Cẩm Hiếu bị bắt ngày 4 tháng 7 năm 2013 và mẹ bé Cẩm Hiếu, bà Nguyễn Thị Tâm bị bắt giữ sau chồng 2 tháng vì bị cáo buộc tội đánh cán bộ xã là người thân của chủ nợ. Bí thư Xã đoàn, đảng viên Trần Thị Bích Toàn được chỉ định là người bảo hộ cho bé Cẩm Hiếu. Tuy nhiên, bé Cẩm Hiếu không nhận được bất kỳ sự liên lạc nào từ người bảo hộ do Tòa án Nhân dân huyện Bù Đăng chỉ định mà em phải nương nhờ vào gia đình của người bác họ.

Phiên tòa sơ thẩm TAND huyện Bù Đăng mở hôm 25 tháng 2 năm 2014, kết án ông Huynh và bà Tâm, mỗi người, 5 năm 6 tháng tù giam với tội danh “cố ý gây thương tích” theo khoản 3, Điều 114 Bộ luật Hình sự và bị buộc bồi thường cho nạn nhân, ông Nguyễn Bá Tuyên, số tiền 71 triệu đồng. Cha mẹ của bé Cẩm Hiếu đã phản đối bản án này và làm đơn kháng cáo phúc thẩm.

Phiên tòa phúc thẩm được mở 2 lần. Lần thứ nhất vào ngày 17 tháng 9 năm 2014 nhưng đã hoãn lại do thiếu nhân chứng và nhiều chứng cứ quan trọng chưa được kiểm tra làm rõ. Phiên phúc thẩm thứ hai được mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng “chú Tư-hàng xóm chứng kiến vụ việc xảy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng”.

Thế nhưng, một vị Thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này. Cũng tại phiên tòa phúc thẩm lần 2, ông Ngô Văn Huynh đã nói ông không còn cách nào khác hơn là phải đánh trả lại ông Nguyễn Bá Tuyên khi ông này cầm gậy xông vào đánh vợ con mình. Ông Huynh cũng xin Tòa ở tù thay cho vợ để bà Tâm được về nuôi con. Kết thúc phiên tòa phúc thẩm lần hai là quyết định của Tòa hủy bảm án sơ thẩm ngay lập tức.

Quyền trẻ em ở đâu?

Cuộc sum họp gia đình ngắn ngủi 45 phút đồng hồ của cô bé 11 tuổi với cha mẹ trong khi chờ tòa nghị án và tuyên bố hủy bán án sơ thẩm là niềm hạnh phúc vô bờ bến đối với bé Cẩm Hiếu. Niềm hân hoan và hy vọng sớm gặp lại được cha mẹ của bé Cẩm Hiếu được bày tỏ khi trò chuyện với đài ACTD sau khi gặp cha mẹ ở tòa. Bà Bùi Thị Qui, người đang nuôi dưỡng bé Cẩm Hiếu chia sẻ:

“Hôm nọ thì bảo là bảo lãnh cho ba mẹ cháu ra thì nó mừng từ hôm nọ tới nay. Nếu ở trên giúp đỡ cho cháu thì cháu nó cũng đỡ. Mà chắc gì…tôi sợ là không được”.

Trao đổi về hoàn cảnh gia đình của bé Cẩm Hiếu, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP. HCM, cho biết bản án sơ thẩm đối với cha mẹ của bé Cẩm Hiếu có vấn đề. Luật sư Hậu phân tích đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và trong quá trình xét xử vụ án, phiên tòa sơ thẩm đã không xem xét kỹ hồ sơ, không điều tra đầy đủ cho nên phiên tòa phúc thẩm có thể hủy hoặc sửa lại bản án. Luật sư Hậu cho biết thêm, trong quá trình hủy hay sửa bản án, tòa có thẩm quyền ra phán quyết thả tự do cho bị cáo do thấy thời gian cách ly không cần thiết. Luật sư Hậu nhấn mạnh, theo Hiến pháp và luật pháp quy định, những người thân trong họ hàng thuộc diện thừa kế thứ nhất của gia đình bé Cẩm Hiếu hoặc Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em có thể làm đơn cho cả ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm tại ngoại trong khi vụ án xét xử lại từ đầu. Luật sư Hậu nói:

Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên.

– Luật sư Nguyễn Văn Hậu

“Họ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tức là Tòa án hoặc Viện Kiểm sát đề nghị với Đoàn Luật sư ở địa phương cử luật sư bào chữa cho trẻ em chỉ định này. Và khi luật sư chỉ định tham gia thì họ phải tận tâm. Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên”.

Năm 1941, trong bài thơ “Kêu gọi Thiếu nhi”, Hồ Chủ tịch viết “Trẻ em như búp trên cành/Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Thế nhưng, bé Cẩm Hiếu là một “bé ngoan” khi phải lặn lội hơn trăm cây số thăm nuôi cha mẹ với chút ít thức ăn trong hoàn cảnh không có tiền và giữ kín không cho ai biết cha mẹ bị đi tù dù là tù oan vì sợ thân sinh bị khinh ghét, dèm pha.

Câu chuyện tuổi thơ của cô bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, học lớp 6 cũng là câu chuyện của nhiều trẻ em không may mắn ở VN khi gia đình bị rơi vào hoàn cảnh dân oan. Và hành trình đi tìm công lý của các gia đình này vẫn đầy chông gai trước mắt.

H.A

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/petition-for-parents-when-11-year-old-11112014104215.html

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chị bạn làm thông dịch viên tình nguyện cho Davis School District, Hạt Salt Lake, tiểu bang Utah. Họ nhờ dịch một bài về “Human Rights” cho học sinh Việt Nam trong Học Khu.

Do chị không có phông chữ Việt nên dịch xong, chị nhờ mình đánh máy lại (bỏ dấu).

Đọc bài học dành cho học sinh tiểu học, mình hết hồn, ngửa cổ lên trời mà than rằng, hèn chi tụi nó dẫy hoài mà chẳng chết.

clip_image002

QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA CHÚNG TA

Tôi có quyền được sung sướng và được đối xử tử tế ở đây,
Có nghĩa là không ai nhạo báng tôi và làm tổn thương tự ái của tôi.

Tôi có quyền là tôi ở đây,
Có nghĩa là không ai được kỳ thị vì màu da của tôi,
Gầy hay mập,
Cao hay thấp,
Trai hay gái,
Hoặc vì cái bề ngoài của tôi.

Tôi có quyền được an toàn ở đây,
Có nghĩa là không ai được đánh tôi,
Đá tôi, đẩy tôi,
nhéo tôi,
làm đau tôi.

Tôi có quyền được nghe và được lắng nghe ở đây,
Có nghĩa là không ai được
La hét,
Quát lên
Hoặc làm ầm ĩ.

Tôi có quyền tìm hiểu về bản thân của tôi ở đây,
Có nghĩa là tôi sẽ được tự do
Phát biểu tình cảm
Và ý kiến của tôi mà không bị gián đoạn hoặc bị trừng phạt.

Tôi có quyền học hỏi theo khả năng của tôi,
Có nghĩa là không ai được gọi tên nhạo báng
Vì cách học hỏi của tôi,
Và với những quyền lợi này,
tôi cũng sẽ áp dụng với những người khác cùng trong phòng học.

___________

Bản tiếng Anh:

Our Human Rights

I have a right to be happy and to be
treated with compassion in this room:
This means that no one
will laugh at me or
hurt my feelings.

I have a right to be myself in this room:
This means that no one will treat me
unfairly because of my skin color,
fat or thin,
tall or short,
boy or girl,
or by the way I look.

I have a right to be safe in this room:
This means that no one will
hit me,
kick me, push me,
pinch me,
or hurt me.

I have a right to hear and be heard in this room:
This means that no one will
yell,
scream,
shout
or make loud noises.

I have a right to learn about myself in this room:
This means that I will be
free to express my feelings
and opinions without being
interrupted or punished.

I have a right to learn according to my own ability:
This means that no one will call
me names because of the way I learn.

With all these rights I have, I give the
same rights to all people in this classroom.

Source: Cummings M (1974), Individual Differences: An Experience in Human Relations for Children
Madison, WI: Madison Public Schools
Adaptation by Julie Cox, Davis School District, Utah

Nguồn: April Nguyen https://www.facebook.com/aprilho.ho.7

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

LM Giuse Hoàng Kim Ton

Bên cạnh cuộc sống ồn ào, vội vã, có người về nơi tĩnh lặng, những vành khăn tang, những tiếng kèn đồng đưa tiễn, những lời kinh chen lẫn tiếng ồn ào của xe cộ, những chiếc máy phát âm thanh, những tiếng rao, cười nói.  Người yên lặng ra đi như gợi lại một lời Chúa bảo các Tông đồ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).

Tĩnh tâm: Để tâm hồn thanh thản yên tĩnh không trĩu nặng buồn hay vui, không mê ảo, không xáo động.  Tâm tĩnh là một trạng thái tựa mặt hồ tĩnh lặng soi bóng hàng cây, bầu trời, rõ nét, không lẫn lộn.  Hiệu quả tâm tình luôn là sáng suốt sáng tạo, trong sáng trong suy nghĩ.  Như lời thầm thì, kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong bài ca mặt trời, nói về tĩnh lặng của tâm hồn để kể về anh mặt trời, chị mặt trăng, anh gió và chị nước, trong đó lời của thiên nhiên tỏ bày những tâm tư sâu kín của cõi lòng con người.  Tĩnh lặng để nói với đóa hoa chưa nở về buổi khai nguyên, về những gì sắp hoàn tất và ngay cả những gì chưa thể hoàn tất.  Trong nội tâm sâu kín của con người cũng mang đầy ước vọng, khi dồi dào, phong phú; khi khô hạn, héo hon; khi vui tươi hoặc cả khi buồn chán.  Yên tĩnh để tiếng nói của Tình Yêu vô tận ngỏ lời, vì trong tiếng nói Tình Yêu ấy sẽ như làn gió mát đuổi cơn nồng, có thể như ngày mới của bình minh chiếu toả.  Sức mạnh không vận dụng từ bên ngoài mà vận dụng tự nội tâm thanh vắng.  Chúa Giêsu nói với các Tông đồ sau khi vui mừng gặt hái kết quả của chuyến loan báo Tin Mừng: “tìm nơi thanh vắng”.

Nơi an nghỉ: Trong tiếng nói yên tĩnh nhất của “chị chết”, mọi người đều không thoát nổi, nhưng “chị chết” cũng cần tập chết đi cho mỗi ngày.  “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6, 11).  Chết, một sự an nghỉ hoàn toàn, không tội lỗi trọng nào, ấy là cái chết đối với tội lỗi.  Vậy “chị chết”, như hạt lúa gieo vào lòng đất, trong mình nó ươm mầm một sự sống, như bình minh sẽ mọc sau đêm tối.  Tĩnh lặng của sự chết không phải là kết thúc mà là một thời gian cần thiết nghỉ ngơi, lấy lại sức lực, đổ rỗng những nặng nề mang lấy gánh nhẹ nhàng.  Kinh nghiệm của tĩnh lặng từ nơi “chị chết” giống như thời gian lặng yên nhìn lại mình trong sám hối, chuẩn bị cho việc đối diện với chính mình bằng việc xưng tội.  Bình minh sẽ lên, chính vì thế, trong bài ca mặt trời của Thánh Phanxicô vẫn liên kết chị chết với anh mặt trời, để không chết trong lần thứ hai là chết trong tội trọng đáng thương, thiếu mất một bình minh.

An tĩnh để kể về tình yêu

Tình yêu như Thánh Phanxicô tường thuật, đó là lời kể của Thiên Chúa thì thầm trong các thụ tạo.  Kể cho đất nghe, chính bàn tay Thiên Chúa đã làm nên, kể cho nắng nghe, Chúa đã làm ra mặt trời, kể cho người nghe, tất cả thụ tạo được trao cho họ…  Ân nghĩa dồi dào từ mẹ thiên nhiên, nếu con người biết yên tĩnh để lắng nghe, sẽ nhận ra vì yêu thương “con người được tạo dựng giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27).  Con người được yêu thương để sống yêu thương, con người sẽ không tàn phá thiên nhiên, con người sẽ sống hài hoà với nhau, tôn trọng sự sống của nhau.  Con người an tĩnh sẽ tường thuật tình yêu trong cuộc đời mình, “không thù hận, không oán ghét, không mừng vui vì những bất công, không ích kỷ tìm tư lợi” (x. 1 Cr 13, 4).  Tĩnh lặng để nhận ra lẽ sống của “Kinh Hoà bình”, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”  Rất nhiều sứ điệp để kể về về tình yêu để con người sống trong thế giới hoà bình.  Tắt đi những chiến tranh, những vũ khí hạng nặng, những thứ giết người hàng loạt, những sự kiện khủng bố, những lời dao búa, những tính chất côn đồ…

Yên tĩnh để suy nghĩ về những điều tuyệt diệu của cuộc sống bằng lời mời gọi “vào nơi tĩnh lặng”, sống tâm tư của tháng mười một, nơi các linh hồn đang an nghỉ và kể về bình an của sự chết trong ánh sáng bình minh.

LM Giuse Hoàng Kim Ton

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Người chứng thứ nhất

Người chứng thứ nhất

Ga 12,24-26

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.

Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.

Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).

Anh chị em thân mến,

Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.

Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).

Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.

Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.

Thưa anh chị em,

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Con đường hạt lúa

Con đường hạt lúa

ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Ga 12, 20-32

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

  1. Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
  2. Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
  3. Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Giao trứng cho ác

Giao trứng cho ác

Nam Nguyên, phóng viên RFA

namnguyen11122014.mp3

MG_0496-622.jpg

Đường lên Đèo Hải Vân, ảnh chụp hôm 6/7/2011.

RFA PHOTO

Dư luận bất bình

Dư luận phản ứng gay gắt về việc chính quyền Thừa Thiên-Huế cấp giấy chứng nhận đầu tư khu nghỉ dưỡng rộng 200 ha cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu ở đèo Hải Vân. Đây là một vị trí chiến lược khống chế cả vùng trời vùng núi và vùng biển Đà Nẵng và có thể chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 16.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một công dân Đà Nẵng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội dân sự đã nhanh chóng phản ứng:

“Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này. Chúng ta biết là Việt Nam trong quá trình mở rộng về phương Nam thì đèo Hải Vân là một trong những chướng ngại thuở xưa. Trong chiến tranh gần đây cũng thế đèo Hải Vân chia cách đất nước Việt Nam, ở đỉnh cao hiểm trở như thế mà cho người nước ngoài thuê để làm cái này cái kia thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Nói thật là chúng tôi vô cùng sửng sốt về chuyện này.”

” Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này.
-TS Nguyễn Thế Hùng”

Đây là dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế do doanh nghiệp Trung Quốc làm chủ đầu tư với tổng vốn 250 triệu USD. Người Trung Quốc được phép sử dụng diện tích 200 ha tại khu vực mũi Cửa khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển. Tại đây nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023 trên thực tế đã bắt đầu xây dựng một số hạng mục và cơ sở hạ tầng.

Tuy vậy Ủy ban Nhân dân TP. Đà Nẵng vừa kiến nghị Chính phủ rút giấy phép đầu tư mà Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc. Lý do Chính quyền Đà Nẵng đưa ra là dự án nằm ở vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. Hơn nữa về nguyên tắc dự án này có một vùng chồng lấn trong khu vực chưa thống nhất về địa giới hành chính giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng.

Đối với sự kiện một dự án trải rộng 200 ha nằm ở khu vực có vị trí chiến lược lại nằm trong tay nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ Hà Nội phát biểu với Đài Á Châu Tự Do:

“Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, Như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”

Vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước

Đại tá Thái Thanh Hùng, nguyên chỉ huy phó Bộ chỉ huy quân sự TP. Đà Nẵng, đương kim Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Đà Nẵng được báo điện tử Infonet trích lời nói rằng: “Dự án Trung Quốc trên đèo Hải Vân nằm ở vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước. Nắm vị trí đó là nắm cả vùng trời, vùng núi, vùng biển khu vực phòng thủ Đà Nẵng.”

MG_0498-400.jpg

Cửa Hầm Hải Vân phía nam, ảnh chụp 6/7/2011. RFA PHOTO.

Là một nhà quân sự Đại tá Thái Thanh Hùng nhấn mạnh rằng, đây là vị trí chiến lược, là địa bàn trọng điểm. Ở miền Trung thì khu vực đèo Hải Vân ai cũng biết cả…Nếu xảy ra chiến tranh, nơi này bị chiếm thì đất nước bị chia cắt liền. Do nó đặc biệt quan trọng như vậy nên Đại tá Thái Thanh Hùng cho là không nên cho nước ngoài đầu tư vào khu vực đó.

Vẫn theo Infonet và Đại tá Thái Thanh Hùng, vị trí Thừa Thiên-Huế cấp phép cho phía Trung Quốc xây dựng khu du lịch lại nằm ngay mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển và coi như bao trùm cả hòn Sơn Trà con cách đó không xa. Khu vực này chính là “yết hầu” của vịnh Đà Nẵng với núi Hải Vân và bán đảo Sơn Trà tọa thành hình cánh cung trấn giữ phía Bắc và phía Đông Bắc. Trong khi vịnh Đà Nẵng là một trong những khu vực vô cùng trọng yếu trên dọc tuyến biển Việt Nam.

Dự án khu nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân với chủ đầu tư là là doanh nghiệp Trung Quốc gây ra mối lo ngại về an ninh quốc phòng, là sự kiện mới nhất về việc các tỉnh trao nhiều đặc quyền cho nhà đầu tư Trung Quốc trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh nối kết các sự kiện liên quan đến nhiều dự án ở những vị trí trọng yếu được trao cho nhà đầu tư Trung Quốc. Ông nói:

” Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước.
-Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh”

“Hà Tĩnh là cái yết hầu của miền Trung và hơn nữa nó xây dựng thành một thứ căn cứ, ở trong đó phức tạp lắm chứ không phải chỉ đơn giản là chỗ luyện thép đâu. Hay Cảng Đông Hà cũng vậy thôi cũng là một chỗ quan trọng cũng là bán cho nó, cho nó thuê nó có thể làm thành căn cứ quân sự, rồi từ Kỳ Anh vào tới chân đèo Ngang cũng thế thôi cũng lại cho nó thuê, phía biển nó làm gì ngoài ấy cũng không biết. Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước, dù là không có ý thức đi nữa thì cũng là tạo điều kiện để cho Trung Quốc nó chiếm nước mình.”

Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành hiện làm việc ở Hà Nội từng báo động về việc các nhà đầu tư Trung Quốc, lợi dụng chính sách của Việt Nam đã thuê dài hạn nhiều khu vực dọc theo biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc để trồng và khai thác lâm sản, đặc biệt là các dự án ở Vũng Áng Hà Tĩnh mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Ông Bùi Kiến Thành nhận định:

“Vùng Vũng Áng Hà Tĩnh đối diện gần với Hải Nam, nếu ngày nào Trung Quốc xây dựng Cảng Vũng Áng mà Hải Nam chĩa ngay qua  Vũng Áng thì có thể nói Vịnh Bắc Bộ biến thành một cái ao hồ của Trung Quốc và nó ngăn cản sự vận chuyển giao thông hàng hải của Việt Nam từ Bắc vào Nam thì sẽ ra sao. Ngoài ra nó có những nguy cơ về quốc phòng từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ 50 km thôi. Như vậy nếu có chuyện thì làm sao phòng thủ, Trung Quốc từ bên Lào đi xe ô tô qua Vũng Áng chạy ô tô vài tiếng đồng hồ là cắt đôi Việt Nam ra làm hai khúc.”

Không hiểu Chính phủ Việt Nam từ Trung ương xuống địa phương nhận thức thế nào về hiểm họa quốc phòng, khi bất chấp ý kiến của giới nhân sĩ trí thức cựu sĩ quan cao cấp, kể cả chiến lược gia quân sự Võ Nguyên Giáp khi còn sống, cũng gởi thư cho Trung ương Đảng và lãnh đạo nhà nước để cảnh báo về việc không thể cho thuê đất ở các vị trí chiến lược.

Dự án Khu nghỉ dưỡng quốc tế World Shine ở mũi Khẻm núi Hải Vân, nơi chia cách Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng, chỉ là một mắt xích mới nhất trong chuỗi vị trí chiến lược trọng yếu về an ninh quốc phòng đã và đang được trao vào tay nhà đầu tư Trung Quốc.