Rượu ngon … đắt tiền, rẻ tiền và khom lưng.

Rượu ngon …

đắt tiền, rẻ tiền và khom lưng.

Wine Gift Boxes: Penfolds Grange 2007 Private Cellar Gift Set

Kết quả công bố của cuộc thi rượu chát quốc tế ” Sydney International Wine Competition” tuần qua (26/11/2014) đã khiến cho cả giám khảo cũng phải ngạc nhiên :”Ngon dzậy mà sao rẻ dzậy !!!”

Trong danh sách top -100 của 2000 chai rượu dự thi, có đến 6 chai rượu rẻ tiền của Aldi lọt vào mắt xanh của 14 giám khảo uy tín của Úc và quốc tế.

Đó là các chai rượu:

-Cabernet Sauvignon

(của vùng South East Australia- $6.99)

-Semillon   ($9.99),

-El Toro Macho Tempranillo ($4.99),

-Byrne & Co Semillon.   Đặc biệt chai

Tudor Central Victorian Shiraz 2013 mà Aldi bán với giá $12.99 vượt qua 1000 đối thủ, nhận hai giải “Best red table wine” và ” Best lighter-bodied dry red table wine“, cùng hạng với Wynns Coonawarra Estate C.E. Black Label Shiraz và Yalumba Paradox Barossa Shiraz, cả hai chai này có giá $45.

-Trong khi đó chai Musigny Premier Cru Champagne mà Aldi bán với giá $29.99 là loại chát trắng ngon nhất.

Như vậy thì những kẻ thừa tiền, thường khoe đẳng cấp lịch lãm của mình qua việc “chỉ uống rượu đắt tiền”, chưa hẳn là tay sành rượu.

Trong các cuộc thi rượu, các giám khảo nếm rượu theo kiểu “blind testing”, tức là các nhãn hiệu trên chai đều bịt kín, những ly rượu trước mặt họ chỉ được đánh dấu bằng mã số, do đó việc thẩm định phẩm chất từng loại rượu chỉ căn cứ vào con mắt, lỗ mủi và cái lưỡi của họ, từ màu sắc của rượu đến hương, vị ở đầu lưỡi, dư vị đọng lại trong cuống họng và cho điểm theo mỗi thứ hạng này.

Mỗi giám khảo có thể có cách thưởng thức khác nhau và cuối cùng điểm số cho từng loại rượu sẽ tổng kết lại và đó là sự đánh giá công bằng nhất. Thực ra những kết quả chưng hửng trong cuộc thi tại Sydney tuần qua không lạ. Năm 1976, thế giới ngạc nhiên và cả trưởng ban tổ chức cuộc thi cũng đã chưng hửng. Đó là cuộc thi The Paris Wine Testing hay còn gọi là Judgment of Paris do nhà buôn rượu người Anh tên Steven Spurrier tổ chức.

Cuối cùng, khi các kết quả công bố ai cũng bật ngửa vì chai rượu được nhiều điểm nhất, được huy chương vàng, lại không phải là một loại rượu lẫy lừng nào của Pháp, mà là một chai rượu Mỹ-của nhà sản xuất Stags’ Leap Wine Cellars ở Napa Valley, tiểu bang California.

Rượu này được ủ năm 1973, rồi 2 năm sau ngâm trong thùng gỗ sồi và một năm đóng trong chai đặt dưới hầm, nó được đưa sang Pháp và đã qua mặt các chai Chardonnay và Cabernet Sauvignon thượng hạng ở vùng Bordeaux của Pháp. Điều này gây ngạc nhiên cho nhà tổ chức Spurrier, vốn chỉ kinh doanh rượu Pháp và tin rằng vang California chẳng thể nào qua mặt được. Từ khởi điểm này mà kỹ nghệ rượu vang California vươn lên và đến nay có hơn 1200 xưởng chế biến rượu chát tại California, từ các cơ sở nhỏ đến các đại công ty như E & J Gallo Winery có mức phân phối toàn cầu.  Rượu đắt tiền…

Rượu đắt tiền chưa chắc đã ngon và rượu ngon không nhất thiết phải đắt. Tuy nhiên phải thừa nhận là những chai rượu cực kỳ đắt tiền thì phải ngon.

Thí dụ chai Penfolds Grange sản xuất năm 1959 khiến ông Barry O’Farrell mất chức thủ hiến tiểu bang Victoria, chai này trị giá 3000 Úc kim vào tháng 4/2011 và hiện được bán tại tiệm Dan Murphy với giá 4,850 Úc kim.

Chắc chắn chai này phải ngon, nhưng vấn đề đặt ra là tại sao rượu này lại đắt như vậy? Cũng như bao sản phẩm khác, rượu đắt tiền xuất phát từ hai yếu tố chính : chi phí sản xuất và yếu tố tâm lý.

Muốn làm một chai rượu ngon, người ta phải chi phí nhiều hơn cho mỗi giai đoạn, trước cả khi hái nho trên cây.

Đầu tiên là phải đầu tư vào những thửa đất trồng nho, phải có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tốt, có độ cao, độ ẩm, độ dốc và chiều ánh nắng thích hợp.

Chỉ những ruộng nho như vậy mới cho ra những chùm nho chứa đầy đủ các hợp chất, khoáng chất cần thiết để rượu được đậm đà thơm ngon. Dĩ nhiên những ruộng nho loại này thì giá tiền cao.

Thứ hai là phải hạn chế sản lượng nho vì “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Để có rượu ngon thì chủ nhân phải hạn chế số lượng nho hái được trên cánh đồng của mình và phải cắt bỏ rất nhiều chùm nho xanh mới nở, chỉ để lại một số chùm khỏe nhất. Lý do là vì cây nho chỉ có thể hút lên từ lòng đất một số hạn chế các khoáng chất để nuôi dưỡng trái nho. Nếu nó phải nuôi trên 30 chùm nho, các khoáng chất bị phân tán mỏng, phẩm lượng của trái nho sẽ giảm xuống… Nhưng nếu nó chỉ nuôi 10 chùm nho thôi, chất bổ sẽ tập trung lại làm cho nước nho đậm đặc vì có đầy đủ chất khoáng, chất đường, chất chua, chất đạm.   Nhưng làm như vậy số nho thu hoạch được sẽ chỉ còn một nửa và giá thành sẽ cao hơn nữa.

Thứ ba là nhân công : nho tốt thì phải có chuyên viên lành nghề chế biến.

Viên kim cương to thì phải giao cho thợ lành nghề mài, nho ngon mà đưa tay lơ tơ mơ thì chẳng khác nào dùi đục chấm nước cáy. Do đó nhà sản xuất phải chi tiền thật nhiều để thuê mướn những thợ làm rượu (winemakers) giàu kinh nghiệm và sáng tạo.

Ngoài ra nho ngon thì phải hái bằng tay, phải đến từng dây nho để lựa chọn chùm nho nào chín mọng mới hái, chùm nào còn xanh phải để chờ đủ chín rồi mới hái một đợt thứ nhì. Hái bằng máy thì rất nhanh nhưng lẫn lộn nho xanh, nho chín, và rượu làm ra sẽ không có hương vị thuần nhất được.

Thứ tư là chi phí ứng biến với thời tiết. Khi hái nho ở những nông trại trong mùa nắng gắt thì phải tránh lúc mặt trời phả hơi nóng, do đó phải hái từ sáng sớm khi mặt trời chưa mọc hay vào ban đêm, khi mặt trời đã lặn và trái nho đã mát dịu.

Nếu hái ban ngày, trái nho bị ánh sáng thiêu đốt làm nóng chất nước ở bên trong, rượu sẽ có vị gắt, khó uống.

Nhưng thuê nhân công làm việc sáng sớm hay ban đêm thì phải trả công cao hơn, chưa kể phải bố trí đèn điện và nghĩa là phải thêm chi phí.

Tại vùng Bordeaux, khi nho đang nở hoa, kết trái hoặc gần chín mà gặp thời tiết băng giá thì phải đốt lửa suốt đêm trong vườn để sưởi ấm cho nho. Có khi chủ nông trại còn thuê trực thăng bay qua bay lại bên trên các vườn nho để quạt hơi ấm xuống cho tan băng giá.

Thứ năm là tiền tồn kho, tiền lãi ngân hàng. Sau khi lên men thì rượu bình thường chỉ cần trữ vài tháng là đã có thể mang ra tiêu thụ, nhưng còn rượu thượng hạng phải được ủ trong thùng gỗ sồi vài ba năm rồi mới vô chai, sau đó phải trữ trong hầm mát một hai năm nữa để chất tanning dịu đi, lắng xuống, các thành tố trong rượu có đủ thời giờ hòa lẫn và kết chặt lại với nhau tạo nên những hương vị đặt biệt rồi mới có thể đưa ra thịtrường .

Dĩ nhiên giá thành sẽ tính thêm tiền tồn kho và tiền lãi từ số vốn đã đầu tư.

Thứ sáu là quy luật cung cầu. Rượu sản xuất như vậy thì rất hiếm, mà của hiếm là của đắt.

Thứ bảy là yếu tố tâm lý. Khi giới trọc phú ngày càng mọc ra nhiều thì càng đua chen để “hơn nhau tiếng gáy”, như kiểu các “đại gia” mới nổi tại Trung Quốc hay Việt Nam, không tiếc tiền để chứng tỏ bản lĩnh và sự sành điệu của mình. Trước các khách hàng như vậy thì các nhà sản xuất và phân phối dại gì mà không nâng giá : chúng mày thừa tiền, muốn khoe giàu thì ông chém !

Và đây chính là “Hiệu ứng Ernest Gallo: uống rượu thật đắt tiền mới đúng là dân sành điệu “. Hiệu ứng Ernest Gallo Nhà tài phiệt rượu chát Ernest Gallo (1090-2007), sáng lập công ty E &J Gallo Winery, đã phát triển công ty từ nguyên lý nói trên, được giới phê bình gọi là “Hiệu ứng Ernest Gallo”: cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền . C nói trên, hiện đứng thứ nhì nước Mỹ, nổi tiếng với nhãn rượu Thunderfire và riêng ông ta năm 2006 được tạp chí Forbes xếp hạng 297 trong danh sách 400 người giàu nhất nước Mỹ. Ernest Gallo sinh năm 1909 tại nông trại nho của cha mình ở thung lũng San Joaquin, cách San Francisco khoảng 80 dặm về phía Đông. Bố của Ernest Gallo là một di dân gốc Ý, sinh sống bằng nghề lấy rượu từ các lò sản xuất giao bán tại các bar ở Oakland và San Francisco. Trong khi gia đình bên ngoại của ông có nghề sản xuất rượu chát đỏ và đến khi ông ngoại của Ernest Gallo qua đời năm 1916, xưởng rượu của gia đình đã sản xuất và bán được tổng cộng 9,000 gallon(1 gallon tương đương với 3,7 lít) rượu chát đỏ. Năm 1920, bố mẹ Ernest Gallo mua một nông trại để trồng nho cung cấp cho các nhà sản xuất rượu chát. Từ nhỏ, Ernest Gallo đã cùng các em làm quen với công việc trồng nho của gia đình, tới năm 17 tuổi, Ernest Gallo được bố giao cho công việc chở nho của gia đình tới các lò rượu.   Năm 1919 Mỹ áp dụng luật cấm rượu, tuy nhiên vẫn cho phép sản xuất rượu chát với tính cách cá nhân, và luật cấm này có vẻ như giúp đỡ công việc của gia đình họ. Đơn giản vì chính phủ cấm rượu mạnh và bia thì người ta trông cậy vào rượu chát tự cất, do đó càng tiêu thụ nho nhiều hơn. Công việc tại nông trại của gia đình Gallo đang hoạt động bình thường thì xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế. Nông trại của gia đình Ernest Gallo cũng mất dần nguồn tiêu thụ nho nên lâm cảnh thua lỗ và nợ nần chồng chất. Sáng ngày 21/6/1933, Joseph Gallo- bố của Ernest Gallo- đã bắn chết vợ tại nhà và sau đó ông dùng súng tự sát, bỏ lại ba người con. Ernest Gallo đã trở thành cột trụ trong gia đình và hai tháng sau, chính phủ liên bang hủy lệnh cấm rượu. Ernest Gallo đã quyết định đưa gia đình đi theo con đường sản xuất và kinh doanh rượu chát với quy mô lớn. Ông và em trai mình thành lập hãng rượu E & J Gallo Winery bằng nguồn vốn vay ban đầu là 5,900 Mỹ kim và một công thức nấu rượu từ thư viện công cộng Modesto. Hai anh em đã dựng nghiệp bằng cách phân công : Julio chuyên tâm vào việc nấu rượu, còn Ernest chuyên tâm vào việc giới thiệu sản phẩm. Ngay từ khi bước vào hoạt động, các sản phẩm của họ chưa có được một nhãn hiệu riêng và chưa được nhiều người biết đến, trong khi gặp sức cạnh tranh của các nhãn rượu đã thành danh như Petri, Cribari hay các nhãn hiệu rượu chát nổi tiếng của Ý và Thụy Sĩ tại thị trường địa phượng.Vì vậy  Ernest Gallo đã tập trung vào chương trình quảng cáo các sản phẩm của mình, chủ yếu là loại rượu không đóng chai. Ernest Gallo đã phát triển công ty với mánh lới đã chứng minh qua các thí nghiệm nói trên : cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền. Giai thoại kể rằng một lần khi đến New York,  Ernest Gallo rót cùng một bình rượu ra hai ly, một ly hô giá 5 xu, một ly hô giá 10 xu và người khách đã chọn ngay ly 10 xu. Rượu rẻ tiền và rượu khom lưng… Năm 2001, nhà nghiên cứu Frederic Brochet của Đại học Bordeaux thực hiện hai cuộc khảo sát về rượu và có kết quả thu được khá buồn cười. Đầu tiên Brochet lấy cùng một thứ rượu Bordeaux đỏ đổ nó vào hai chai khác nhau, một chai trang trí màu mè như bất cứ loại rượu “sang” nào khác, trong khi chai kia chỉ là một chai trần trụi, thứ rượu bình dân rẻ tiền. Kết quả từ các vị khách thưởng lãm khác nhau một trời một vực. Chai “sang” được khen tấm tắc với “vị rượu dễ chịu, đậm mùi gỗ, vị phức tạp, cân bằng và êm dịu”, còn chai “bình dân” thì bị cho là “nhạt, êm dịu nhưng không thơm, không đủ chua, không hoàn hảo”. Tổng cộng có 40 khách thưởng lãm cho rằng chai rượu có nhãn “sang” đáng uống, đáng thưởng thức, trong khi chỉ có 12 vị khách cho rằng chai “bình dân” ngon.   Sau đó Brochet đề nghị 54 thiện nguyện viên đánh giá 2 cốc rượu đỏ. Thực chất đây là rượu trắng đã được “nhuộm” đỏ bởi màu của thức ăn. Nhưng các thiện nguyện viên tham gia cuộc khảo sát này đã diễn tả sắc “đỏ” đấy theo thứ ngôn ngữ đặc trưng dành cho rượu chát đỏ. Một người ca ngợi vị “ngọt hoa quả” của thứ rượu đỏ , trong khi một “chuyên gia” khác lại thưởng thức nó và trầm trồ ” choáng ngợp bởi vị của một thứ quả đỏ”. Không một ai để ý rằng nó thực ra là một chai rượu trắng. Brochet kết luận :”Đó là một hiện tượng tâm lý khá phổ biến-quí vị nếm thứ quí vị muốn được nếm. Họ mong được thử rượu đỏ và họ đã làm đúng như thế. Những gì họ ghi nhận, thực ra chỉ là một dạng kết quả hỗn hợp của các ý nghĩ, ảo tưởng và vị giác “. Có thể nói rằng ai cũng muốn làm dân phong lưu lịch lãm, do đó muốn nếm rượu phong lưu lịch lãm, mà đã nói đến phong cách này thì phải nói đến tiền : càng lắm tiền, càng dễ phong lưu. Do đó khi nếm rượu chúng ta dễ bị “mù” vì giá tiền : hễ thấy giá tiền cao là cảm thấy ngon ! Davis Wilson dẫn trang blog The Wine Economist, nói về một mánh lới nhỏ của ngành bán lẻ rượu chát. Khi mua rượu, không ai thích mua thứ rượu dỏm, rượu đáng vứt đi. Khai thác tâm lý này các tiệm rượu dồn những thứ rượu có nhãn hiệu kém nhất xuống các kệ dưới, gần sàn nhà, lên cao dần là các nhãn hiệu bậc trung, bậc cao. Mà thiên hạ càng tiêu thụ sản phẩm rẻ tiền , chủ tiệm càng ít lời. Và khi làm như vậy, họ bắt những kẻ mua rượu rẻ tiền phải khom lưng xuống : loại ít tiền thì phải chịu khom lưng, phải chịu hạ mình xuống. Rõ ràng trên đời này không ai muốn tự hạ thấp mình. Khi mua một ly rượu để uống, không ai muốn thiên hạ đánh giá mình là “hạng người uống rượu 5 xu”. Khi đến tiệm mua một vài chai rượu, không ai muốn bị đánh giá là ” đi mua rượu mà phải khom lưng xuống “. Và đó là cái cách mà những tiệm rươu sắp xếp kệ hàng. Theo họ thì hoạt động thể chất trong việc lấy chai rượu, thể hiện chọn lựa tâm lý mà chúng ta đưa ra : với lên cao để lấy các chai rượu đắt tiền hay hạ mình xuống như một kẻ bần tiện để nếm rượu vứt đi. Nguyên tắc này được áp dụng tại cả những siêu thị lớn lẫn những tiệm tạp hóa rẻ tiền với những biến thể khác nhau. Các nhà bán lẻ đã áp dụng nguyên tắc “khu vực tiện thể về già cả” (wine price comfort zone) tương ứng với từng kệ hàng . Họ không xếp các chai rươu theo vị (ngọt hay chát), theo xuất xứ(Pháp, Ý hay Bồ Đào Nha..) mà trộn lẫn với nhau theo giá tiền. Giống như khẩu hiệu : ” vô sản thế giới liên hiệp lại”, rượu rẻ tiền thì bị tống hết xuống dưới, càng rẻ tiền thì càng bị vùi xuống tận đáy của cửa tiệm, bất kể xuất xứ và phân loại. Kệ này giá rượu từ 3 dô đến 5 đô, kệ trên từ 6 đô đến 8 đô… “Tiền nào của đó” nhưng có khi đó là “của nào, người đó”. The Wine Economist nhận định :”Rõ ràng, khách hàng muốn mua một thứ thể diện, mua hình ảnh của một người không hạ mình uống ly rượu 5 xu mà có khi anh ta không thể nói lên sự khác biệt”.

Life’s too short to drink cheap wine …

Tiền Việt kiều gửi về ‘là phao cứu sinh’

Tiền Việt kiều gửi về ‘là phao cứu sinh’

Một kinh tế gia ở Việt Nam nói kiều hối có tác động rất tích cực đến vĩ mô ở Việt Nam.

Bình luận được tiến sĩ Võ Trí Thành từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đưa ra nhân sự kiện hãng dịch vụ chuyển tiền Western Union kỷ niệm 20 năm hoạt động tại Việt Nam vào tuần này.

Western Union hiện có hơn 9000 điểm giao dịch và đại lý ở 63 tỉnh thành tại Việt Nam.

“Trong giai đoạn 1991-2013, lượng kiều hối chính thức vào Việt Nam hàng năm đã tăng trưởng trung bình 38,6%/năm, với tổng giá trị kiều hối là 80,4 tỉ đô la Mỹ, chưa tính lượng kiều hối năm nay 2014, dự kiến vào khoảng 11-12 tỉ đô la Mỹ.

“Trong giai đoạn 2007-2013, tổng kiều hối là nguồn vốn lớn thứ 2 tại Việt Nam (sau vốn FDI), và lớn hơn cả vốn ODA đã giải ngân”, ông Thành được Thời báo Kinh tế Sài Gòn dẫn lời.

‘Rất quan trọng’

Kiều hối 2010-2012

Hoa Kỳ 57%

Úc 9%

Canada 8,4%

Đức 6%

Campuchia 4%

Pháp 4%

Một khảo sát của CIEM tiến hành với hàng trăm người ở bảy tỉnh, thành phố ở Việt Nam cho thấy “khoảng 16% người tham gia khảo sát cho biết dòng tiền kiều hối chảy vào lĩnh vực kinh doanh và sản xuất;

“Khoảng 17% số người tham gia cho biết tiền kiều hối chiếm đến 80% tổng thu nhập gia đình họ. Có đến 40% số người tham gia khảo sát cho biết, tiền kiều hối đóng vai trò “quan trọng” và “rất quan trọng” đối với đời sống gia đình họ.

“Kiều hối đóng vai trò phao cứu sinh cho các nhà đầu tư không thể vay vốn ngân hàng do các quy định nghiêm ngặt về vay vốn,” ông Thành được báo này dẫn lời.

Vào năm ngoái Việt Nam nằm trong 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới với tổng giá trị kiều hối là 11 tỉ đô la Mỹ năm 2013, chiếm đến hơn 8% GDP.

Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao cho biết có khoảng 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống, làm việc, và học tập tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Ngày 25/11 vừa qua, Quốc hội Việt Nam biểu quyết thông qua Luật Nhà ở với đa số phiếu cho phép các tổ chức và công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng như cá nhân “được phép nhập cảnh vào Việt Nam” được mua nhà và căn hộ.

Tuy nhiên luật này phải tới tháng 7 năm 2015 mới có hiệu lực và giới quan sát tỏ ra lạc quan ở mức dè dặt đối với cái gọi là “các văn bản hướng dẫn” hiện chưa có.

Trong cuộc phỏng vấn với BBC vào cuối tháng trước, ông Nguyễn Ngọc Thịnh, Việt kiều Mỹ định cư và làm việc ở Việt Nam lâu năm, nhận định “khối người nước ngoài mở công ty, kinh doanh ở Việt Nam có xu hướng thuê nhà nhiều hơn mua” và “nhu cầu có một căn nhà để về ở khoảng sáu tháng cho tới một năm của một số Việt kiều là có”.

“Những Việt Kiều chúng tôi nói chuyện và khá nhiều nhà đầu tư nước ngoài khác vẫn chờ đợi một văn bản cởi mở hơn, rõ ràng hơn được đi vào thực tiễn”, ông Thịnh nói thêm.

Ngay cả khi mua nhà cho người nước ngoài trong đó có Việt Kiều được đơn giản, ông Thịnh nói cần có một thủ tục rõ ràng để bán lại bất động sản đã mua nhằm “tránh rủi ro”.

Tiếp tục suy nghĩ về những vụ bắt bớ gần đây

Tiếp tục suy nghĩ về những vụ bắt bớ gần đây

RFA

Những gì diễn ra trong những năm gần đây và nhất là trong những ngày gần đây khiến tôi tự đặt cho mình câu hỏi này : phải chăng đang diễn ra một quá trình tái toàn trị hóa (trở lại với thời kỳ toàn trị) tại Việt Nam ?

Những nghiên cứu của Hannah Arendt cho phép bà xác định rằng khái niệm chủ nghĩa toàn trị (totalitarisme) được áp dụng cho hai hệ thống duy nhất : hệ thống cộng sản Liên Xô dưới thời Staline và hệ thống quốc xã Đức thời Hitler. Sau cái chết của hai lãnh tụ toàn trị này, hệ thống toàn trị sụp đổ, cái còn tiếp tục tồn tại được gọi là hệ thống độc tài cộng sản.

Václav Havel không đồng ý với cách nhìn này. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, ông dùng chữ chủ nghĩa hậu toàn trị (post-totalitarisme) để chỉ mô hình chính trị của các nước cộng sản Đông Âu. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là đến cuối những năm 80, ông sử dụng lại khái niệm « chủ nghĩa toàn trị » của Arendt một cách hệ thống để chỉ hình thái cộng sản Đông Âu, trong một bài viết có tựa đề là « Histoire et totalitarisme ». Có lẽ đối với Havel, những yếu tố toàn trị luôn là một đặc điểm cố hữu của chủ nghĩa cộng sản.

Nếu ta đồng ý với Arendt rằng chữ « chủ nghĩa toàn trị » chỉ phù hợp với một chế độ trong đó diễn ra việc thanh trừng hàng loạt, giết người với số lượng lớn, và giết những người vô tội, thì quả thật điều đó chỉ phù hợp với Liên Xô của Staline, và nước Đức của Hitler.

Ở các nước cộng sản khác, dù số lượng người bị giết không nhiều như ở hai quốc gia nêu trên, nhưng vẫn diễn ra những vụ giết người hàng loạt. Ở Việt Nam, điều đó đã xảy ra trong cải cách ruộng đất. Bao nhiêu người vô tội đã bị giết chỉ vì thuộc thành phần địa chủ, và kể cả khi họ không phải là địa chủ, kể cả khi họ là ân nhân của những lãnh tụ cộng sản, họ bị giết chỉ vì cần phải có một số lượng người bị giết cho đủ chỉ tiêu. Nếu đặt trong guồng máy và logic của chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa cộng sản để xem xét vụ cải cách ruộng đất, ta sẽ hiểu vì sao một việc như thế có thể xảy ra, và đã xảy ra.

Có lẽ hiện đang có một quá trình tái toàn trị hóa tiệm tiến tại Việt Nam. Để xác định được nó bắt đầu từ lúc nào, cần phải có nghiên cứu, nhưng rất có thể (đây chỉ là một phỏng đoán chưa kiểm chứng) nó có nguồn gốc từ hội nghị Thành Đô, bởi trước đó Việt Nam đã biết đến một thời kỳ mở cửa với thành tựu trên nhiều mặt.

Tôi dẫn ra đây những sự kiện mà tôi dựa vào đó để suy luận về một quá trình tái toàn trị hóa có thể đang diễn ra trên lãnh thổ chúng ta.

Vụ Nhã Thuyên cho thấy sự trở về với những cuộc thanh trừng thời kỳ Nhân văn Giai phẩm. Dù rằng, về quy mô và tính chất không có sự tương đương, nhưng có một ý chí quyết tâm đưa sinh hoạt văn học nghệ thuật và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn trở lại thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, và được thực hiện tinh vi hơn, kín đáo hơn. Thậm chí ý chí này được luật hóa bằng luật giáo dục.

Việc xuất hiện « sự tố giác của quần chúng » chính là ngôn ngữ của thời cải cách ruộng đất. Và những người bị bắt mới đây, Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập, là những người bình thường như bao nhiêu người khác. Việc bắt bớ họ gây ngạc nhiên, gây sửng sốt bởi họ không giống Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, không giống Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào ở những điểm : họ không có một tuyên ngôn rõ ràng về quan điểm chính trị, không có quan điểm chống đối, không trực tiếp viết bài. Blog của họ chỉ làm nhiệm vụ đưa tin, như bao nhiêu blog khác. Thậm chí, dưới mỗi bài đăng lại trên Quê Choa đều có ghi : « Nội dung bài viết không phản ánh quan điểm của Quê Choa ». Tôi ghi theo trí nhớ, vì khi vào tìm lại blog Quê Choa để kiểm tra thì không còn tìm thấy địa chỉ của Quê Choa trên google nữa. Ngoài số lượng người truy cập và số lượng bài giới thiệu, thì Quê Choa và Người Lót Gạch cũng giống như rất nhiều những blog khác. Và mọi người ngơ ngác, không hiểu tại sao hai người này bị bắt, và do đó đã có nhiều suy luận khác nhau về nguyên nhân, một điều bình thường trong bối cảnh chẳng có nguyên nhân nào được đưa ra một cách chính thức.

Trước đây chính quyền chỉ bắt một người, bây giờ đã có dấu hiệu bắt hàng loạt, và bắt những người bình thường, theo « tố giác của quần chúng ». Đó là một dấu hiệu rõ rệt của sự quay trở lại với thời cải cách ruộng đất. Hẳn chúng ta chưa quên rằng cách đây ít lâu, có một triển lãm chính thức về cải cách ruộng đất tại thủ đô, và điều này cũng đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người. Khó có thể tìm thấy một lý do thích hợp cho việc tổ chức một triển lãm như vậy. Nhưng chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhìn nó như dấu hiệu của một quyết tâm quay trở lại với thời kỳ dã man nhất của chủ nghĩa toàn trị cộng sản. Thực ra chính quyền cũng không dấu sự dã man của mình khi chọn bắt giam hai người có tuổi và đều đang bị bệnh nặng. Thông điệp của chính quyền là : dân chúng cần biết rằng họ đang được lãnh đạo bởi một chính quyền đủ khả năng đi tới tận ranh giới cuối cùng của sự vô nhân đạo.

Khi đã đi tới chỗ bắt quả tang một nhà văn đang viết văn (có nhà văn nào mà không viết văn, không viết văn sao gọi nhà văn), có nghĩa là đi tới chỗ bắt một người đang làm công việc thường nhật của mình, thì có nghĩa mọi việc chẳng còn nằm trong bất kỳ một logic nào nữa. Ai cũng có thể bị bắt quả tang khi đang làm công việc thường nhật của mình : một nhà giáo sẽ bị bắt quả tang khi đang đứng trên bục giảng, một bác sĩ sẽ bị bắt quả tang khi đang khám cho bệnh nhân, một bà nội trợ sẽ bị bắt khi đang làm bếp, và có thể tới chỗ một ông chồng sẽ bị bắt quả tang khi đang ngủ với vợ mình… Thật ra chẳng còn gì đáng ngạc nhiên nữa kể từ khi hai cái bao cao su đã qua sử dụng bị bắt quả tang đang ở trong sọt rác của khách sạn, rồi hai xe máy bị bắt quả tang đi hàng ba… Một nhà văn bị bắt quả tang khi đang viết văn, có lẽ sự phi lý này có nhiều thi tính nhất trong số các sự vụ phi lý đã diễn ra!!!

Chúng ta thực sự không biết được chính quyền này có quyết định quay trở về tới tận cái khởi điểm chết chóc của chủ nghĩa toàn trị, lúc mà hàng loạt người vô tội bị giết không cần lý do, không cần nguyên nhân, bị giết bởi chính sự vô tội của họ. Chúng ta không biết được, không ai suy đoán được.

Chúng ta đã có bằng chứng trong lịch sử để thấy sự tàn bạo, bạo lực, bản năng giết người nằm sẵn trong con người như thế nào, và trong những điều kiện nào đó thì sự tàn bạo dâng lên và lây lan trên diện rộng. Bao nhiêu triệu người Do Thái đã bị giết chỉ vì họ là người Do Thái. Đã có bao nhiêu nghiên cứu về bạo lực, nhưng dĩ nhiên chưa ai có câu trả lời cuối cùng.

Trên cái đà gia tăng bạo lực trong xã hội hiện nay, và với sự gia tăng đàn áp, gia tăng bạo lực từ phía chính phủ mà càng ngày dân chúng càng bị buộc phải chứng kiến như trong thời gian những năm gần đây, chúng ta khó mà biết được quá trình tái toàn trị hóa này sẽ dẫn Việt Nam tới đâu.

Chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ nếu chúng ta còn có bộ não ở trong đầu. Chúng ta cần cảm thấy đau đớn trước việc những người vô tội càng ngày càng bị bắt nhiều hơn, nếu chúng ta còn có một trái tim trong lồng ngực. Và chúng ta cần hành động nếu cuộc sống của chính chúng ta bị đe dọa. Quyền bảo vệ mạng sống là quyền tự nhiên mà tất cả mọi người sinh ra đều có, đó là quyền mà không ai ban bố được cho ai, cũng không ai tước đoạt được của ai.

Paris, 17/12/2014

Nguyễn Thị Từ Huy

Các nhà báo, blogger bị «bắt khẩn cấp»

Các nhà báo, blogger bị «bắt khẩn cấp»

Hoà Vân

Hai vụ bắt blogger trong tuần qua nhắc lại : ở Việt Nam, dù là một nước hoà bình từ nhiều thập kỉ nay, nghề viết lách (nhà văn, nhà báo, blogger) vẫn là một nghề nhiều nguy hiểm. Công cụ đàn áp người viết thì nhiều, nhưng nổi bật phải kể đến Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 (dưới đây sẽ gọi tắt là “điều 258”).

Điều này đề ra «tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân». Khung hình phạt của nó là «phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm».

Với cách viết mơ hồ, chung chung, đi ngược hẳn các nguyên tắc luật pháp thông thường đòi hỏi sự rõ ràng, phân minh, điều 258 hiển nhiên chỉ giao quyền cho Nhà nước «xử» những người công khai phản kháng những chính sách, hành xử, của Nhà nước và đảng cầm quyền (từ «tổ chức» trong tội danh). Ngay cả từ «công dân» ở đây cũng chỉ có thể – và đã xảy ra một lần – là một công dân «bình đẳng hơn những (công dân) khác», theo cách nói của George Orwell trong Trại Súc vật, nói cách khác, là những công dân có chức có quyền ở một cấp «không nhỏ». Các trường hợp «xâm phạm lợi ích» của phó thường dân (xin lỗi, «công dân») khác dĩ nhiên thuộc phạm vi của Luật dân sự, Nhà nước chẳng hơi đâu mà hình sự hoá chuyện ông X «xâm phạm lợi ích» của bà Y nếu bà này không thuộc bộ máy. Mục tiêu ở đây «cao» hơn: bóp nghẹt mọi đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Một khía cạnh nữa, tuy kỹ thuật nhưng cho thấy rõ hơn mục tiêu bóp nghẹt đó. Lần giở lại những thông tin được đưa ra trong các vụ bắt bớ vì điều 258, người ta thấy toàn là các vụ « bắt khẩn cấp », như thể những người bị bắt chuẩn bị bỏ trốn hoặc mới có hành động gì nguy hiểm, phải ngăn chặn ngay, nhưng cơ quan điều tra lại chẳng hề đưa ra được chứng cớ nào để chứng minh hai khả năng ấy – kể cả những «chứng cớ » nguỵ tạo như kiểu «hai bao cao su đã qua sử dụng » trong vụ Cù Huy Hà Vũ ! Mới đây, trong hai vụ bắt các blogger Hồng Lê Thọ và Quê Choa Nguyễn Quang Lập, công an còn sáng tạo ra khái niệm «bắt quả tang (đang không làm gì !)». Nói theo ngôn ngữ của công an: không có thủ đoạn hèn hạ nào mà «chúng tao» không dám làm, bắt là bắt thôi, đừng ai hỏi vì sao, vô ích.

Ai là đối tượng mà điều 258 nhắm tới ?

Trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Người Việt (California) tháng 8 năm 2013, nhà báo – blogger Phạm Đoan Trang cũng nhấn mạnh mục tiêu nói trên: «Điều 258 đặc biệt được chính quyền sử dụng để bắt nhà báo». «Nhà báo» ở đây dĩ nhiên không chỉ là những người viết cho các báo chí chính thống, mà cả những blogger (những người viết blog), nhất là từ những năm cuối thập kỷ 2000 – 2010, khi việc sử dụng Internet lan rộng ở Việt Nam.

Chị nói thêm: «Trong điều kiện Việt Nam thì việc làm thống kê là bất khả thi, vì rất có thể là đã có nhiều người bị bắt vì Điều 258 mà dư luận không biết». Tuy nhiên, trong một bài viết chung với luật sư Trịnh Hữu Long trên Mạng lưới blogger Việt Nam, tác giả nêu lên con số «ít nhất 32 người từ 2006 tới nay» đã bị bắt theo điều này, kể cả một số người mà công an «cứ bắt cái đã», nếu cần thì đổi tội danh sau!

Trong điều kiện đó, những vụ việc mà chúng tôi nêu ra dưới đây dĩ nhiên chỉ có giá trị như những ví dụ điển hình, và không thể được coi như toàn bộ hồ sơ các vụ bắt bớ vì điều 258 này. Lại càng không phải toàn bộ hồ sơ những vụ bắt bớ các nhà báo và blogger, dưới những tội danh khác cũng mơ hồ như tội «lợi dụng tự do, dân chủ»: tội «tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam» (điều 88 Luật Hình sự) hay «phá hoại chính sách đoàn kết» (điều 87), hoặc nặng hơn, tội «hoạt động nhằm lật đổ chính quyền» (điều 79) v.v.

Những người đã được trả tự do, sau thời gian tạm giam hoặc đã hết hạn tù

Tháng 5 năm 2008, hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (Thanh Niên) và Nguyễn Văn Hải (Tuổi Trẻ) bị bắt về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” liên quan tới vụ PMU18, nhưng rút cục đã bị truy tố ra toà về tội «lợi dụng tự do, dân chủ…» (điều 258). Trong phiên toà ngày 15.10.2008, Nguyễn Việt Chiến bị kết án 2 năm tù giam (ông được trả tự do trước thời hạn, vào ngày 15.1.2009), còn Nguyễn Văn Hải bị kết án 24 tháng tù treo và được trả tự do ngay tại toà.

Ngày 13 tháng 6.2013, nhà báo – blogger Phạm Viết Đào bị « bắt khẩn cấp » vì điều 258, các blog của ông bị xoá hết, và ngày 19.3.2014 ông bị toà án Hà Nội kết án 15 tháng tù (địa chỉ chúng tôi đưa đây là blog mới, sau khi ông được trả tự do ngày 13.9.2014).

Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là một trường hợp đặc biệt. Ông bị bắt ngày ngày 20.4.2008 và bị đưa ra toà về tội « trốn thuế », nhưng ai cũng biết tội danh chính của ông là tham gia thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do (vào tháng 9.2007). Bị kết án 30 tháng tù (tính từ ngày bị bắt), ông chờ đợi được trả tự do sau khi mãn hạn vào ngày 20.10.2010, nhưng lại bị giữ trong tù để «điều tra thêm» về các hành vi tuyên truyền chống nhà nước (điều 88), và bị đem ra xử vào tháng 9.2012 về tội danh này (sau gần 2 năm giam giữ không có cơ sở pháp lý nào, và không cho gia đình bất kỳ thông tin nào), cùng với hai người bạn trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do là các blogger Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải. Trong phiên toà xử tội phạm rất nghiêm trọng đó (nhưng lại diễn ra lúi xùi chỉ trong một ngày, gia đình người thân đều không được tham dự), ông bị kết án 12 năm tù, bà Tạ Thị Phong Tần 10 năm và ông Phan Thanh Hải 4 năm tù. Ngày 21.10 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội bất ngờ «trả tự do» cho ông, nhưng lại dẫn ông ra thẳng sân bay đưa sang Los Angeles (không phải với lý do «đoàn tụ gia đình» vì ông không có thân thích ở đây).

Cuối tháng 8 năm 2009, các blogger Bùi Thanh Hiếu (blog Người Buôn Gió, tác giả những bài viết mang tên «Đại vệ Chí dị»), Phạm Đoan Trang (lúc đó là nhà báo VietnamNet, blog Trang The Ridiculous, nay là Đoan Trang), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blog «Mẹ Nấm») cùng bị bắt trong vụ in áo thun «Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam». Cả ba được trả tự do sau khi hết hạn tạm giam (9 ngày), nhưng tiếp tục bị quấy nhiễu nhiều lần sau đó. Người Buôn Gió hiện đã được sang Đức khi có lời mời của thị trưởng Weimar. Phạm Đoan Trang đang học tiến sĩ ở Mỹ.

Nhà báo Lê Nguyễn Hương Trà, nổi tiếng hơn với blog Cô gái Đồ Long bị bắt khẩn cấp ngày 26.10.2010 cũng về tội «lợi dụng tự do, dân chủ» nhưng người ta mau chóng được biết là trong trường hợp này điều 258 đã được viện ra do một bài blog «liên quan tới diễn viên múa Linh Nga và người chồng tương lai là Nguyễn Khánh Trọng, con trai của Nguyễn Khánh Toàn, thượng tướng công an, thứ trưởng Bộ Công an». Có lẽ đây là trường hợp là duy nhất mà người bị buộc tội vi phạm điều 258 vì đã «xâm phạm lợi ích» của một cá nhân (chữ «công dân» trong tội danh, như đã nói trên). Xem bài của Phong Quang trên mặt báo này. Cô gái Đồ Long được tại ngoại ngày 20.1.2011, sau gần ba tháng bị giam cầm, rồi được «miễn truy cứu hình sự» ngày 8.4.2011.

Gần đây hơn, vụ nhà báo Phạm Chí Dũng bị bắt ngày 17.7.2012 vì bị tình nghi có «hoạt động lật đổ» (ông bị nghi ngờ là đứng sau trang mạng «Quan làm báo» rất nổi đình đám lúc đó), tội rất nghiêm trọng có khung hình phạt lên đến án tử hình, nhưng chỉ bị tạm giam tới đúng khi hết thời hạn (4 tháng) thì được tha. Hiện nay, ông đã cũng với một vài người cùng chính kiến thành lập Hội nhà báo độc lập và trang mạng Việt Nam thời báo.

Những người hiện còn bị giam cầm

Trước hết, cần nhắc lại, trong vụ Câu lạc bộ các Nhà báo tự do, tuy Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã được ra khỏi tù và bị đưa thẳng sang Mỹ, hai người bạn của ông là bà Tạ Thị Phong Tần và ông Phan Thanh Hải vẫn còn bị tù đày dài hạn vì một bản án vô nhân, có mục đích trấn áp những người quyết tâm đòi tự do báo chí.

Gần như cùng thời gian với vụ Phạm Viết Đào, ngày 26.5.2013 công an Đà Nẵng đã phối hợp với Cơ quan An ninh điều tra thuộc bộ Công an tiến hành bắt blogger Trương Duy Nhất, chủ blog Một góc nhìn khác (hiện đã bị khoá). Diễn Đàn đã đưa tin này trong mục Thấy trên mạng, với đường dẫn về nhiều bài viết, bình luận của giới nhà báo «lề trái» trong và ngoài nước. Ngày 4.3.2014, sau gần 10 tháng «tạm giam», ông mới được đưa ra xử tại toà án Đà Nẵng, và bị kết án 2 năm tù. Do không nhận tội, và kháng án, ông được đưa ra một phiên toà phúc thẩm ngày 26.6.2014, và bị toà này xử y án hai năm.

Tù nhân 258 nổi tiếng nhất dĩ nhiên là Nguyễn Hữu Vinh, biệt danh Anh Ba Sàm, từ tên của trang mạng thông tin hàng đầu ở Việt Nam, mà anh là người sáng lập và điều hành cho tới gần đây. Nổi tiếng không phải vì anh là con một vị lão thành cách mạng (ông Nguyễn Hữu Khiếu, nguyên bộ trưởng Bộ Lao động – 1965-1974, nguyên đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên Xô), mà chính vì trang mạng Ba Sàm (thành lập vào tháng 9.2007, đã nhiều lần bị đánh sập !), đi đầu trong các hoạt động mở rộng thông tin chính trị – xã hội đến đông đảo người dân, vượt qua các kiểm duyệt, cấm kỵ của đảng (với châm ngôn “Phá vòng nô lệ”), được cộng đồng công nhận «gần như là một biểu tượng của cuộc đấu tranh của các blogger vì quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt» (lời nhà báo Phạm Đoan Trang, trả lời đài RFI ngày 19.7.2014). Anh bị bắt ngày 5.5.2014 cùng với một cộng tác viên, bà Nguyễn Thị Minh Thuý. Sau khi anh bị bắt, đã có 51 người đồng ký tên vào Yêu cầu trả tự do cho Nguyễn Hữu Vinh, trong đó có giáo sư Chu Hảo, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tiến sĩ Nguyễn Quang A, tiến sĩ Hà Sĩ Phu… Yêu cầu này được gửi đích danh cho ông bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ngày 30/10/2014, tức là gần 6 tháng sau khi bắt giam đối tượng, Cơ quan An ninh điều tra mới đưa ra Bản kết luận điều tra vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Nhân dịp này, giáo sư Hoàng Xuân Phú đã viết một bài dài vạch ra rất nhiều sai phạm về tố tụng trong vụ án. Kinh nghiệm cho thấy «Toà án nhân dân» chưa bao giờ biết nhận sai trong các cáo trạng của mình, cụ thể Anh Ba Sàm và chị Nguyễn Thị Minh Thuý sẽ bị kết án như thế nào, người ta vẫn phải đợi…

Cũng như, còn phải đợi không biết tới bao giờ các blogger bị bắt đầu tháng này, các blogger Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập mới được/bị đem ra xử, và bị kết án như thế nào. «9 ngày, nếu không thấy về thì chắc khoảng 3 năm» như lời Bọ Lập trấn an vợ khi bị bắt, hay hơn nữa?

Một câu hỏi khác không thể không đặt ra: sau Bọ Lập rồi tới ai?

Trong bài trả lời phỏng vấn của BBC ngày 6.12, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng sau các vụ bắt bớ blogger này, có thể có thêm nhiều người khác ‘bị bắt’ dù ông không đoán được ai có thể là ‘mục tiêu’ tiếp theo. Nhưng, ông cũng cho rằng mặc dù có các vụ bắt bớ gần đây, sẽ không có chuyện giới blogger, phản biện và các nhà hoạt động bị ‘trùng xuống’ hoặc ‘chùn tay’.

Tôi nghĩ cũng chẳng ai chùn vì vụ này“, ông nói.

Và đó là điều chính quyền sẽ thấy, rất nhanh. Đừng nghĩ bắt «vài tên đầu sỏ» là xong chuyện. Thời Internet, hơn bao giờ hết, Dân mới là chính. Mà dân thì ở khắp nơi, không dễ «tổ chức», nhưng cũng không dễ đè bẹp đâu, các vị ạ.

H.V.

Nguồn: http://www.diendan.org/viet-nam/cac-nha-bao-blogger-bi-bat-khan-cap

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Vào sáng Chủ  Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:

-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!

Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:

-Ông nói gì?

-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!

Mặt chàng thanh niên đỏ gay:

-Bộ đường phố này của ông hả?

Người đàn ông trả lời ngay:

-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi.  Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!

Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:

-Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.

***

Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.

***

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:

-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?

Sư hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ.. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.

***

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.

Cám ơn Sơn Đỗ gởi

Chín ngày hoặc ba năm!

Chín ngày hoặc ba năm!

RFA

Lê Diễn Đức

Thế là đã qua ngày thứ chín!

“Em yên tâm, nếu chín ngày anh không về thì khoảng ba năm”!

Lời của nhà văn Nguyễn Quang Lập nói với vợ, khi ông bị công an dẫn ra khỏi nhà, phải chăng trở thành sự thật?

Với cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ Luật Hình Sự, tức là “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, nếu mang ra toà xét xử anh có thể phải chịu án tù ba năm, thật!

Tại sao ông Lập đã ý thức được điều này? Phải chăng khi đặt bút viết và đưa những bài từ các nguồn khác, thậm chú từ các tờ báo do đảng kiểm soát, ông Lập biết rằng sớm hay muộn ông cũng sẽ bị quy kết vào điều 258 Bộ Luật Hình Sự?

Nhiều năm qua ông vẫn tiếp tục cuộc chơi, ngày một mạnh tay hơn và dứt khoát hơn, đặc biệc về các vấn đề chủ quyền của đất nước bị Trung Quốc xâm lấn. Cho đến ngày 6 tháng 12 năm 2014. Khi ông bị bắt.

Vì thế tôi đã nhận định nhà văn Nguyễn Quang lập thể hiện “một khí phách lớn“. Điều này hoàn toàn đúng với ý nghĩa của từ này, chứ không hề “đao to búa lớn” như có bạn nhận xét trên trang Facebook của tôi.

Bỗng dưng vài ngày sau khi bắt giữ ông, báo công an đưa một tin siêu ngắn: “Ông Lập khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại”. “Ông Lập cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.

Mặc dù đã nghĩ rằng, ông Nguyễn Quang Lập là nhà văn, không phải là nhà bất đồng chính kiến, càng không phải là một nhà cách mạng “dấn thân vô là phải chịu tù đày, là gươm kề tận cổ súng kề tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa”. Rất có khả năng ông có thể yếu đuối trước những điều kiện khắc nghiệt của nhà tù với một thân thể bị bệnh tật, nên đã nhận đại để thoát khỏi tù ngục, như là một lựa chọn chiến thuật khôn ngoan.

Nhưng sau 9 ngày ông vẫn còn ở trong tù khiến tôi bình tâm suy nghĩ lại.

Những bài đăng trên Blog Quê Choa, đa phần được chọn lọc thận trọng, cả về tác giả cũng như nội dung, mang tính phê phán, phản biện xã hội ôn hoà và xây dựng, chẳng có thể là tội phạm, trừ khi nhà cầm quyền áp đặt. Cho nên tôi thấy ông Nguyễn Quang Lập đâu cần phải “nhận tội” và xin khoan hồng.

Trò dàn dựng “nhận tội, xin khoan hồng” cũ rích hoàn toàn bị phá sản” – Tôi đã viết như thế trong phân tích vụ án sinh viên Nguyễn Phương Uyên trên RFA Blog.

Cho nên nếu công an lại sử dụng kỷ thuật dao kéo, chỉnh sửa để đưa ra công luận một videoclip với hình ảnh ông Nguyễn Quang Lập cúi đầu nhận tội, e rằng quá lỗi thời và bất tiện. Thiên hạ sẽ bóc mẽ, và mọi sự dối trá sẽ bị đưa ra ánh sáng. Đưa ra một thông tin để gieo rắc nghi ngờ, rồi vô tư gỡ xuống là việc các tờ báo của nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn làm bình thường, bất tuân theo một nguyên tắc lương thiện nào của báo chí. An toàn hơn nhiều.

Adam Michnik, một nhà tranh đấu dân chủ nổi tiếng của Ba Lan trong chế độ Cộng sản, hiện là Tổng biên tập nhật báo tri thức lớn nhất Ba Lan “Gazeta Wyborcza” viết:

“Trí thức phải là tiếng nói của xã hội bị bịt miệng. Đối với người trí thức thì chính trị là lựa chọn mang tính đạo đức. Người trí thức bước vào chính trị là để lấy sự thật chống lại dối trá của bộ máy, lấy sức mạnh của niềm tin chống lại thói vô nguyên tắc của bộ máy“.

Ông Nguyễn Quang Lập cũng thế, khi dùng con thuyền Quê Choa để “chuyển tải sự thật tới nhân dân” thì cũng chính là lúc ông lựa chọn chính trị – đạo đức. Nhưng ông không làm chính trị vì danh lợi, ông chỉ thực hiện sứ mệnh của một người trí thức trong xã hội.

Nhà báo Huy Đức cũng viết:

Nguyễn Quang Lập không phải là một nhà bất đồng chính kiến. Anh không có ý định làm chính trị hay làm cách mạng. Không phải vì anh sợ hãi, anh không làm, đơn giản vì anh chỉ là một nhà văn.

Nguyễn Quang Lập chưa bao giờ có ý định làm một anh hùng. Dù những gì ông cống hiến ở Quê Choa là một sự hy sinh quả cảm“.

Tôi không cho rằng việc bắt Bọ Lập có liên quan gì đó đến đấu đá nội bộ hay Hội nghị Trung ương Đảng cuối năm nay, mà vì sau khi Blogger Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và Blogger Người Lót Gạch Hồng Lê Thọ bị bắt, Blog Quê Choa là điểm hẹn hiếm hoi cuối cùng của đông đảo bạn đọc và có tầm ảnh hưởng lớn lên tâm lý của xã hội. Nếu không ngăn chặn sớm, Blog này sẽ có chiều hướng đi xa hơn, trở thành một trang mang tính phản kháng rất bất lợi cho chế độ.

Rất đáng tiếc, lời kêu gọi ký tên gửi lãnh đạo nhà nước Việt Nam yêu cầu trả tự do cho nhà văn Nguyễn Quang Lập do một số trí thức của Văn đoàn Độc lập khởi xướng, cho đến nay mới chỉ được dưới 600 người trong và ngoài nước tham gia.

Con số quá ít ỏi so với hàng triệu người hâm mộ và theo dõi Blog Quê Choa từ nhiều năm qua và hàng chục triệu người sử dụng Internet tại Việt Nam.

Người Việt cái gì cũng thích miễn phí. Đọc miễn phí, cảm nhận và chia sẻ lập trường tư tưởng miễn phí, khoái cảm miễn phí, nhưng khi cần đến một chút hy sinh, một tý can đảm thì đều tránh né.

Dù biết rằng, ký tên vào thư kiến nghị chẳng hy vọng giải quyết được gì, nhưng nó thể hiện tấm lòng, tình người của bạn đọc, là sự tổng động viên dư luận xã hội. Ngay ở Mỹ để Tổng thống quan tâm đến một kiến nghị đăng trên trang web “We The Peoples” của Nhà Trắng, ít nhất cũng phải đạt con số 25 ngàn người ký tên.

Thật cay đắng khi nhà văn Phạm Thị Hoài viết trong bài “Một con thuyền“:

“Điều duy nhất chúng ta không làm là những hành động cụ thể, ở quy mô đủ rộng để có một tác động thực. Hàng trăm nghìn độc giả của anh sẽ quen rất nhanh khoảng trống anh để lại trên không gian ảo, như hàng trăm nghìn độc giả của Anh Ba Sàm.

Con thuyền của anh Lập, dập dìu sóng vỗ khi nào, là một con thuyền lẻ loi. Lật bởi sự tồi tệ của thể chế chính trị. Chìm bởi sự đơn độc của chính nó giữa vài ba con thuyền đơn độc khác. Đắm bởi sự bạc bẽo của phần lớn chúng ta”.

Lẽ nào chúng ta có thể dửng dưng quay lưng với một tác giả đang lâm nạn, một người đã chuyển đến cho chúng ta đầy ắp sự thật các sự kiện thời sự nóng bỏng của đất nước – một món ăn tinh thần vô giá?

© Lê Diễn Đức

Obamacare: Đe Dọa Mới!

Obamacare: Đe Dọa Mới!

Vietbao.com

…khiến nước Mỹ sẽ thiếu nhà thương, thiếu bác sĩ, thiếu thuốc men…

Tin thời sự đáng kể tuần này là chuyện ông Jonathan Gruber ra điều trần trước quốc hội về Obamacare. Các nghị sĩ Dân Chủ mạt sát, bôi bác thậm tệ, tìm để cách hạ uy tín ông, trong khi các nghị sĩ Cộng Hòa ngồi cười ruồi.

Chuyện gì vậy? Ông Gruber này là ai? Một đoạn phim video được tung ra cách đây mấy năm trên truyền hình cho thấy bà Nancy Pelosi, Chủ Tịch Hạ Viện khi Dân Chủ còn nắm đa số, quảng cáo “Obamacare đã được giáo sư đầy uy tín Jonathan Gruber giúp phác họa”. Ủa, phe ta mà? Sao bây giờ lại bị mạt sát?

Ông Jonathan Gruber là giáo sư kinh tế đại học trứ danh Massachusetts Institute of Technology (MIT). Ông là một trong những chuyên gia, luật gia, bác sĩ tham gia “vẽ” ra Obamacare. Nhưng vai trò ông trội hơn cả (lãnh nửa triệu đô một năm) vì ông là tác giả Romneycare, là luật áp đặt bảo hiểm y tế toàn dân Massachusetts của ông Mitt Romney khi ông này còn làm Thống Đốc tiểu bang này. Đây là tiểu bang duy nhất có luật này, và TT Obama đã lấy đó làm mô hình cho Obamacare mặc dù đã sửa đổi rất nhiều.

Với tư cách giáo sư chuyên gia, dĩ nhiên ông đã đi nói chuyện, thuyết trình rất nhiều nơi. Nói rất nhiều, như tất cả các giáo sư. Ông nói gì ít người biết. Cho đến bây giờ. Cách đây ít lâu, một loạt phim video quay các cuộc nói chuyện của ông bị tiết lộ ra trên mạng. Những điều GS Gruber nói nổ tung ra như bom nguyên tử trên chính trường Mỹ, khiến Nhà Nước Obama luống cuống, không biết nói gì, giải thích làm sao nữa.

Dưới đây là vài phát biểu của GS Gruber.

GS Gruber khẳng định nhóm chuyên gia và chính quyền Obama biết rõ nếu luật Obamacare được viết một cách trung thực, sáng tỏ để tất cả mọi người hiểu rõ, thì sẽ không có cách nào được quần chúng chấp nhận và được quốc hội thông qua. Do đó, những người viết luật, trong đó ông đóng vai trò quan trọng, đã phải che dấu, lươn lẹo, nói láo, viết úp mở,… để hy vọng luật được chấp nhận và thông qua. Ông nói huỵch tẹt “có thể gọi đó là lợi dụng sự ngu xuẩn của cử tri (“the stupidity of the voters”, danh từ của GS Gruber!), hay gì gì cũng được, nhưng trên căn bản, đó là cách thiết yếu để có thể thông qua luật này”.

Nói về thuế gọi là “Cadillac tax” trong Obamacare là một phụ phí trên loại bảo hiểm tốt nhất, đắt nhất, GS Gruber nói thẳng: nó được thông qua vì dân Mỹ “quá ngu để có thể hiểu được nó là cái gì” (“too stupid to understand what it is”).

Những buổi nói chuyện của GS Gruber được thu lại trên 7 cuộn băng video, trong đó còn rất nhiều nhận định và tiết lộ động trời, vượt xa khuôn khổ bài báo này.

Những lời thú nhận xanh rờn của GS Gruber chỉ phản ánh thái độ trịch thượng, mục hạ vô nhân tiêu biểu của giới trí thức cấp tiến, coi cả thiên hạ đều “ngu xuẩn”. Những lời thú nhận đó đã gây chấn động dư luận. Phe đối lập Cộng Hoà mau mắn nhẩy lên tố cáo Obamacare được xây dựng trên một núi hứa cuội và nói láo. Phe ta bối rối chống đỡ. Bà Nancy Pelosi tuyên bố không biết ông Gruber này là ai, chỉ là tên vô danh tiểu tốt nói bá láp, bỏ qua đi. Cho đến khi đoạn phim cũ bị đưa lên TV lại thì mới đành im. Càng bối rối thêm. Nhất là khi GS Gruber bị lôi ra trước quốc hội điều trần.

Và phe ta quyết định đánh trống lảng: tung phúc trình “tội ác của Xịa” ra để khỏa lấp (ta sẽ bàn chuyện này tuần sau). Truyền thông tràn ngập “tội ác của Xịa”, không ai nhắc đến GS Gruber và sự “ngu xuẩn” của cử tri Mỹ nữa. Chiến dịch khỏa lấp đại thành công nhờ hô sơ tra tấn của CIA.

Qua những tiết lộ của GS Gruber, những ai cho đến bây giờ vẫn tung hô Obamacare, chết đứng ngây người, chưng hững khi khám phá mình đã gân cổ lên cổ võ cho Obamacare trong khi chính quyền Obama coi họ là “ngu xuẩn”.

Cái điều có lẽ đáng bực mình hơn cả là ông Gruber này nói… đúng sự thật! Obamacare đã cố tình được xào nấu, hay tô son vẽ phấn một cách thật phức tạp, thật cầu kỳ, thật khó hiểu, để lợi dụng sự “ngu xuẩn” của thiên hạ. Cả hơn 20.000 trang, ai đọc được, ai hiểu được?

Giờ này đây, sau khi Obamacare đã được áp dụng cả năm trời, có bao nhiêu người mua Obamacare hiểu rõ mình đã mua cái gì? Được hưởng cái gì? Cuối cùng, nếu có chuyện gì xẩy ra thì sẽ tốn bao nhiêu tiền?

Mới đây, Việt Báo đăng tin một người tỵ nạn mua Obamacare loại “đồng” –bronze- rẻ nhất, có 30 đô một tháng, để rồi khi bị bệnh thì mới ngã ngửa ra là mình phải è cổ đóng cả 500 đô mỗi lần đi khám bác sĩ. Quý vị không đọc nhầm đâu: năm trăm đô một lần khám. Khi TT Obama quảng bá cho Obamacare có nói rõ chuyện này không?

Ở đây, ta nhớ lại một vài chuyện che dấu, lươn lẹo, nói láo về Obamacare được GS Gruber bật mí.

1. Theo Obamacare, không mua bảo hiểm sẽ bị đóng phạt. Ra trước Tối Cao Pháp Viện, bị phán đây đúng là một sắc thuế mới. GS Gruber tiết lộ những người viết luật cũng hiểu rõ ngay từ đầu đây là thuế, nhưng nếu gọi là thuế thì sẽ không có hy vọng được chấp nhận và thông qua quốc hội, nên bắt buộc phải che dấu, gọi là tiền phạt. Họ chỉ không ngờ là TCPV đã lật tẩy họ quá rõ ràng.

2. TT Obama nhắc đi nhắc lại “những ai muốn giữ bảo hiểm cũ, bác sĩ cũ, đều có thể giữ, không có gì thay đổi”. Năm ngoái, hàng triệu người bất ngờ khám phá ra họ sẽ bị mất bảo hiểm cũ, bác sĩ cũ. Sóng thần phẫn nộ nổi lên ào ào khiến TT Obama phải dùng quyền Hành Pháp ra lệnh rời ngày áp dụng Obamacare lại. Theo tiết lộ của GS Gruber, những người viết luật biết rõ từ đầu sẽ có xáo trộn lớn, thay đổi hãng bảo hiểm, nhà thương bác sĩ, trái với khẳng định của TT Obama, nhưng dĩ nhiên không thể nói ra được.

3. TT Obama hứa hẹn với Obamacare, chi phí y tế sẽ giảm trung bình 2.500 đô một năm cho mỗi gia đình. Dĩ nhiên chỉ có những đệ tử trung kiên nhất của Đấng Tiên Tri mới tin chuyện phản toán học này. Hàng chục triệu người tham gia vào “thị trường” y tế, trong đó có cả trăm ngàn người bị bệnh nặng như AIDS, ung thư,… chữa trị cực kỳ tốn kém, và hàng triệu người mới có bảo hiểm lần đầu, khiến nước Mỹ sẽ thiếu nhà thương, thiếu bác sĩ, thiếu thuốc men, với áp lực của luật cung cầu về nhu cầu y tế, làm sao chi phí y tế có thể giảm như TT Obama khẳng định được. GS Gruber tiết lộ trong một phúc trình cho cựu Thống Đốc Wisconsin Jim Doyle năm 2010 là 90% những người mua bảo hiểm riêng không qua bảo hiểm của sở làm, sẽ thấy chi phí bảo hiểm tăng trung bình 41%. Thực tế, chi phí y tế đã gia tăng đồng loạt từ hai năm qua và sẽ còn tiếp tục gia tăng đều đặn. Như báo NYT đã đăng, sẽ tăng thêm 20% vào năm 2015. Một thăm dò mới nhất của Gallup cho thấy trong khối “trung lưu” với lợi tức từ 30.000 tới 75.000 đô, trong 10 người có bệnh, đã có tới 4 người trì hoãn đi bác sĩ hay nhà thương vì chi phí quá cao.

Những tiết lộ trên của GS Gruber khiến chính quyền Obama bối rối và nhiều người bực mình, nhưng thật sự không đe dọa sự tồn vong của Obamacare. Nhưng có một tiết lộ thật nguy hiểm trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Obamacare.

Trên căn bản, Obamacare trợ cấp tiền mua bảo hiểm cho những người dưới mức lợi tức nào đó. Trợ cấp này có thể nói là nền tảng của Obamacare, ngưng trợ cấp này là Obamacare xụp đổ toàn diện. Đóng cửa tiệm mà không cần quốc hội biểu quyết thu hồi.

Cho đến nay, hàng triệu người đã lãnh trợ cấp này. Nhưng mây đen đang kéo tới. Trợ cấp đang bị thưa và nằm trong hồ sơ của Tối Cao Pháp Viện sẽ xét xử mùa hè năm tới.

Theo luật được thông qua bởi quốc hội và ký bởi TT Obama, chỉ có những người mua bảo hiểm y tế qua hệ thống phối hợp của tiểu bang (State exchange) mới có quyền xin và hưởng trợ cấp. Trong khi đó, chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập hệ thống phối hợp tiểu bang. Tại 37 tiểu bang không có trung tâm này, thiên hạ phải mua bảo hiểm qua hệ thống phối hợp của liên bang (Federal exchange), tức là không được trợ cấp. Dù vậy chính quyền Obama vẫn trợ cấp cho họ, trái với luật.

Chính quyền Obama giải thích luật có ý trợ cấp cho giới lợi tức thấp, bất kể mua bảo hiểm qua hệ thống tiểu bang hay liên bang, chẳng qua chỉ là “sơ xuất” khi viết luật.

TCPV sẽ cứu xét, nếu phe khởi kiện thắng, tức là Nhà Nước đã vi phạm luật. Khi đó thì Nhà Nước có hai lựa chọn. Một là sửa luật. Nhưng việc sửa luật coi như sẽ khó thành khi khối Cộng Hoà chống Obamacare đã nắm Hạ Viện, qua năm tới, nắm cả Thượng Viện luôn. Hai là ngưng trợ cấp những người mua Obamacare qua liên bang. Mà bỏ trợ cấp thì Obamacare sẽ xụp đổ.

Vấn đề ở đây có vẻ như là một sơ xuất khi viết luật, đúng như chính quyền Obama bào chữa, do khả năng yếu kém của cái rừng công chức, luật sư, chuyên gia tham gia vào việc này.

Nhưng GS Gruber cho biết sự thật trong hậu trường Obamacare: không phải các chuyên gia yếu kém về kỹ thuật viết luật, mà họ cố tình mập mờ đánh lận.

Trong một đoạn phim mới được tiết lộ, GS Gruber giải thích: “nếu một tiểu bang không chịu thiết lập trung tâm phối hợp thì dân của tiểu bang đó sẽ phải mua bảo hiểm qua trung tâm của liên bang và như vậy sẽ không được trợ cấp”. Không thể nào rõ ràng hơn và hoàn toàn không phải là sơ xuất viết nhầm luật. Trong tất cả các tiết lộ của ông Gruber, đây mới thực sự là điểm quan trọng vì nó có thể giết Obamacare.

Với sự khẳng định của GS Gruber, người “vẽ” ra Obamacare, TCPV khó có thể chấp nhận lời biện giải của chính quyền Obama để coi như đó là một sơ xuất nhỏ, trái lại GS Gruber đã xác nhận đây quả là một điều luật được cố tình viết ra để ép các tiểu bang phải thiết lập trung tâm phối hợp để dân lợi tức thấp có thể được trợ cấp, bớt một phần gánh nặng cho liên bang. Đúng là nếu mua bảo hiểm qua hệ thống liên bang thì sẽ không được trợ cấp. Nếu TCPV bắt Nhà Nước Obama phải tôn trọng luật và ngưng trợ cấp, hay bắt sửa luật, thì coi như Obamacare đã bị lên án tử hình.

Thực tế chính trị Mỹ, Cộng Hoà không đủ phiếu để thu hồi Obamacare. Chỉ có thể hy vọng sửa đổi một vài điều luật với sự đồng ý của một số TNS Dân Chủ.

Nhưng với vấn đề trợ cấp được GS Gruber nói trắng ra, rất có thể TCPV sẽ làm một chuyện mà CH không làm được: giết Obamacare. Tất cả sẽ tùy thuộc vào cách TCPV nhìn vấn đề: sơ xuất khi viết luật hay luật được cố ý viết như vậy.

Thật ra, những trái bom GS Gruber tung ra không có gì mới lạ. Báo phe ta New York Times nhìn nhận GS Gruber nói không sai sự thật, chỉ là vụng về tiết lộ sự thật về cách làm việc của những người làm luật Obamacare.

Điều mới lạ là những thú nhận của GS Gruber, một tác giả chính đã “vẽ” ra Obamacare, xác nhận rõ hơn bao giờ hết Obamacare là một chuỗi nói láo để lừa thiên hạ, từ những người thiếu hiểu biết mê bánh vẽ, đến cả các dân biểu nghị sĩ quốc hội Mỹ chỉ lo đếm phiếu.

Những lời thú nhận của GS Gruber sẽ gia tăng bất mãn và chống đối Obamacare. Dù sao, nghe ông Gruber chửi thiên hạ “ngu xuẩn”, chắc TT Obama đang nghĩ chính cái ông đại giáo sư nói nhiều này mới là “ngu xuẩn”, bật mí bí mật quốc gia! Giải thích tại sao các đồng chí Dân Chủ nhẩy nhổm lên sỉ vả ông Gruber tuần qua tại Thượng Viện.

* * *

Obamacare chỉ là một bước đầu trong tiến trình “xã hội chủ nghiã hoá” hệ thống y tế mà Mỹ gọi là “socialization of the healthcare system”, thiết lập một hệ thống y tế theo mô hình xã hội chủ nghiã Âu Châu.

Vẫn có nhiều người chất vấn “hệ thống Âu Châu với tất cả mọi dịch vụ y tế như vào nhà thương mổ xẻ chữa trị, đi bác sĩ, mua thuốc đều miễn phí hay đều có giá rất thấp, như vậy tốt chứ sao?” Những người này quên một vài điều kiện để có được hệ thống này:

– Dân Âu Châu đóng thuế trung bình là một nửa tiền lương mới có được bảo hiểm y tế bắt buộc và chữa trị miễn phí, điều mà dân Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận khi mà giới trung lưu chỉ đóng thuế trung bình vào khoảng 10%-15% lương, và 40% giới lợi tức thấp không đóng một xu thuế nào. Câu hỏi cho những người hoan nghênh mô hình Âu Châu: họ có chịu đóng thuế một nửa lương của họ không để giúp cả nước đi nhà thương miễn phí không?

– Ở Mỹ, các cụ muốn đi soi ruột chỉ cần lấy hẹn vài ba ngày là có. Dân Âu Châu muốn đi nhà thương thử nghiệm hay mổ xẻ gì cũng phải chờ dài người, có khi hàng tháng, có khi cả năm, nếu không phải là dịch vụ ưu tiên, khẩn cấp, tính mạng bị đe dọa. Những người hoan nghênh Obamacare có chấp nhận kiên nhẫn chờ cả tháng, cả năm khi ốm đau không?

Một số người lợi tức thấp lãnh Medicaid, hay các cụ lãnh Medicare sẽ nhún vai, cho rằng chuyện Obamacare chẳng liên hệ gì đến họ, nên họ hoan nghênh hết mình, vì đó là luật có tính nhân đạo, giúp cho cả chục triệu người có được bảo hiểm y tế và được chữa trị, lại trợ cấp cho người nghèo có tiền mua bảo hiểm nữa.

Họ quên mất với sự tham gia vào thị trường bảo hiểm của cả chục triệu người, đại đa số sẽ nằm trong hạng nhận Medicaid và Medicare, hai cái bánh này trong tương lai sẽ có thêm rất nhiều người ăn, mỗi miếng tất nhiên sẽ nhỏ đi không ít (chưa kể cả triệu di dân Nam Mỹ mới được hoãn trục xuất cũng sẽ được chia sẻ Medicaid và Medicare).

Một cách cụ thể, tiền Nhà Nước bồi hoàn cho các bác sĩ qua một giá biểu do Nhà Nước độc quyền ấn định sẽ bị cắt giảm, từ đó, sẽ có nhiều bác sĩ từ chối bệnh nhân với Medicaid và Medicare. Chưa kể Nhà Nước sẽ giới hạn những thử nghiệm mà bác sĩ cho là cần thiết vì nhu cầu chẩn mạch cũng như vì nhu cầu đề phòng bị thưa kiện nếu xẩy ra tai nạn. Quý độc giả có thể hỏi các bác sĩ của mình xem những điều này có đúng không.

Mà bớt bác sĩ thì hậu quả dĩ nhiên ai cũng thấy là bệnh nhân sẽ chờ mệt nghỉ để lấy hẹn, rồi khi có hẹn thì chờ dài người tại phòng mạch.

Hiện tượng từ chối Medicaid và Medicare này có lẽ không thấy rõ lắm trong cộng đồng người Việt tỵ nạn vì hầu hết các bác sĩ Việt vẫn nhận cả hai loại bảo hiểm, vì đại đa số bệnh nhân tỵ nạn rơi vào hai khối này, nếu từ chối nhận Medicaid và Medicare sẽ chẳng còn bao nhiêu khách hàng. Phần lớn bác sĩ Việt có phòng mạch đều là bác sĩ tổng quát, việc cắt giảm tiền bồi hoàn không bao nhiêu, đồng thời cũng không có nhu cầu thử nghiệm rắc rối tốn tiền như các bác sĩ chuyên môn.

Trong tình trạng này, nhiều người Việt hoan nghênh Obamacare cũng là chuyện đương nhiên vì chưa thấy có vấn đề gì, cho dù các bác sĩ Việt hơi buồn. Nhưng đối với đa số dân Mỹ, họ đã gặp vấn đề. Tình trạng bác sĩ từ chối nhận Medicaid và Medicare ngày một lan rộng, đưa đến thiếu bác sĩ, phải chờ lấy hẹn lâu đang lan rộng. Đó là lý do tại sao tỷ lệ chống Obamacare theo thăm dò mới nhất đã leo lên mức kỷ lục là 58%, phần lớn là trung lưu.

Obamacare là một bộ luật cực lớn và cực phức tạp, nhưng lại được thảo và đưa qua quốc hội thật gấp rút, bằng mọi giá, kể cả lừa dối, để kịp thông qua khi đảng Dân Chủ còn nắm quyền tại Tòa Bạch Ốc và cả lưỡng viện. Trong tương lai sẽ còn nẩy sinh ra nhiều vấn đề.

Chẳng hạn như mới đây, thượng nghị sĩ Chuck Schumer của Nữu Ước, nhân vật thứ ba trong khối Dân Chủ tại Thượng Viện, đã nhìn nhận TT Obama và đảng DC đã sai lầm lớn khi chú tâm vào Obamacare trong hai năm đầu quá nhiều, lơ là tình trạng kinh tế khó khăn của giới trung lưu, đưa đến bất mãn và kết quả bầu cử thảm hại vừa qua. Ưu tiên của TT Obama đáng ra là phải kinh tế và nạn thất nghiệp, là những vấn đề cấp bách trong khi Obamacare không có gì khẩn cấp mà cũng chỉ giúp được chưa tới một chục triệu người trong khi gia hại đến cả trăm triệu người.

Khối bảo thủ không thể thu hồi Obamacare được, nhưng có nguy cơ chính những luộm thuộm, sai sót vì hấp tấp, lừa dối, sẽ làm Obamacare xụp đổ mà không cần quốc hội phải biểu quyết. (14-12-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

NGƯỜI MẪU – TÀI TỬ ĐANG NỔI TIẾNG NHẤT BỖNG TRỞ THÀNH NỮ TU.

NGƯỜI MẪU – TÀI TỬ ĐANG NỔI TIẾNG NHẤT BỖNG TRỞ THÀNH NỮ TU.

Trầm Hương Thơ

Người Mẫu đẹp nổi tiếng, đang trong thời kỳ sự nghiệp hưng thịnh nhất bỗng nhiên theo tiếng gọi trong tâm hồn để trở thành một nữ tu bình dị.

Đang đứng ở phía trên cùng của sự nghiệp hưng thịnh của cô, một người mẫu Tây Ban Nha xinh đẹp đã cho đi tất cả để trở thành một nữ tu.

Cô Olalla Oliveros, một photo Model đang làm người mẫu trên đài truyền hình thể thao Tây Ban Nha, và đồng thời cô cũng là một nữ diễn viên điện ảnh đã từ bỏ sự nghiệp của mình và theo tiếng gọi quyết định trở thành một nữ tu.

Từ tháng trước, cô Olalla Oliveros đã gia nhập Dòng thánh Michael.

Cô Olalla Oliveros không muốn nói về bản thân mình, nhưng cô miễn cưỡng cho biết: Cô đã trải qua một biến động rất lớn trong tâm hồn “như một trận đông đất” từ kinh nghiệm của một chuyến viếng thăm viếng Đức Mẹ Fatima. Từ tiếng gọi này mà cô quyết định rũ bỏ hình ảnh của mình để trở thành một nữ tu. Đây là một điều mà trước đây cô tưởng là hoàn toàn vô lý nhưng nay đã trở nên hiện thực.

Cuối cùng, cô nhận ra rằng hình ảnh trong tâm trí cô là một ƠN GỌI. “Chúa đã chọn không bao giờ sai.

“Ngài gọi trong hồn tôi, hãy theo Ngài! và tôi không thể từ chối,”

-Oliveros nói.

-Bây giờ tôi chỉ muốn trở thành một nữ tu bình thường.

Trầm Hương Thơ

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Chuacuuthe.com

VRNs (16.12.2014) – anhbasam-  Nước ta vốn là nước nhân nghĩa, đừng biến nước ta thành Nhà nước cảnh sát!

Tin tức gần đây cho biết nhiều trang mạng bị cấm, bị phá, dồn dập nhiều chủ trang mạng bị bắt, bị cầm tù: Phạm viết Đào, Nguyễn hữu Vinh, Nguyễn thị Minh Thúy, Hồng lê Thọ, Nguyễn quang Lập dù đương bị tật nguyền. Người ta bắt họ không phải để bảo vệ độc lập chủ quyền, vì chính họ đăng những bài chống TQ xâm lấn nước ta, làm hại nước ta. Họ phản đối TQ lũng đoạn nước ta về kinh tế, chi phối nước ta về chính trị, uy hiếp nước ta về quân sự và chuẩn bị chiếm trọn biển Đông trong đó có các quần đảo của chúng ta, có lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta.

P1110805

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh (1916) là thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam và là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987.

Các bài đăng trên các trang mạng nêu lên những yêu cầu gì, phản đối gì, phê phán gì?

Nêu yêu cầu Đảng CS độc tài toàn trị tự chuyển biến thành Đảng CS dân chủ để dân tin thì có tội gì? Vì dân thì dân theo, chống dân thì dân chống là lẽ thường. Yêu cầu đa đảng thì có tội gì? Nước ta trước đây đã gừng có đa đảng mà Đảng Lao động Việt Nam vẫn giữ được vị trí lãnh đạo. Yêu cầu tam quyền phân lập mà các nước văn minh tiến bộ trên thế giới đều thực hiện ghì có tội gì? Yêu cầu được hưởng các quyền công dân ghi trong Hiến pháp và hợp với Công ước Nhân quyền quốc tế thì có tội gì?

Các trang mạng phản đối đàn áp biểu tình yêu nước, phản đối cho TQ vào Tây Nguyên khai thác boxit, thuê dài hạn nhiều điểm xung yếu về an ninh quốc phòng: Vũng Áng, Cửa Việt, Kỳ Anh, đèo Hải Vân… Phản đối việc cho TQ trúng thầu nhiều công trình với thiết bị lạc hậu, để ngưuuời TQ nhập cảnh và cư trú trái phép, phản đối cưỡng chế lấy đất của nông dân vì lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm là chính đáng, đâu phải là chống lại chủ trương của Đảng. Chính tình trạng tham nhũng tràn lan từ dưới lên trên, “không ít cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất” làm cho Đảng suy thoái, cùng với đường lối sai lầm bảo thủ làm cho đất nước tụt hậu, kiệt quệ, nước yếu dân nghèo là tự đánh mất lòng tin của dân đối với Đảng chứ đâu phải các trang mạng bịa đặt bôi xấu làm mất uy tín của lãnh đạo.

Sẵn quyền lực trong tay, bất chấp Hiến pháp, bất chấp luật pháp, muốn bắt ai thì bắt, rồi gán cho họ tội “chống Nhà nước” theo Điều 258 rất mơ hồ, tội “chống chế độ XHCN”. Chế độ XHCN ở LX, Đông Âu đã lỗi thời, phá sản rồi, chế độ XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở nào, có nội dung gì mà buộc người ta “chống chế độ”?!

Đám tang ông Trần Lâm nguyên cán bộ cao cấp Viện Kiểm sát, người ta đem vòng hoa đến viếng, công an cũng giật băng và ngăn cản không cho nhiều người đến viếng; những người thân quen nhau, rủ nhau đi liên hoan, công an cũng theo dõi, cũng phá; ngày X, ngày Y, công an cũng đến gác cửa các “đối tượng nguy hiểm” không cho ra khỏi nhà. Cứ thế này thì hình ảnh Việt Nam ta không lấy gì làm đẹp đẽ dưới con mắt thế giới. Con mắt công an nhìn đâu cũng thấy “phần tử nguy hiểm”, nhìn đâu cũng thấy “phản động”. Lực lượng Công an ăn lương của dân luôn ở tư thế sẵn sàng trấn áp. Có người nói Nhà nước này đương trở thành “Nhà nước cảnh sát”.

Người ta thường rêu rao rằng các lực lượng chống đối tiếp tay cho “Đảng Việt Tân”, cho diễn biến hòa bình của Mỹ (tưởng tượng!) Mà không thấy sự thật là chính nhà cầm quyền TQ dương diễn biến vừa hòa bình vừa không hòa bình nước ta thành thuộc quốc của họ.

Đảng CS độc tài toàn trị chuyển biến thành Đảng CS dân chủ, đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ đề ra đường lối chính sách hợp lòng dân và hợp với sự phát triển của đất nước, về đối ngoại, giữ mối quan hệ hữu nghị với TQ cũng được nhưng không ngả hẳn vào vòng tay của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đồng thời phát triển đối tác chiến lược với cả Mỹ, tạo sự gắn kết hơn nữa trong khối Asean.

Đó là con đường ích nước lợi dân, hòa bình, êm thấm, không có xung đột đổ vỡ.

Nguyễn Trọng Vĩnh

14-12-2014

https://anhbasam.wordpress.com

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

Tôi ngồi phành chân trên ghế trước trong xe Pontiac cũ của chúng tôi, bởi vì đó là cách ngồi hay nhất dành cho một đứa trẻ lớp bốn.  Ba tôi lái xe vào thành phố để mua sắm, còn tôi chỉ đi theo chơi.  Đó là lý do tôi nói với ông.  Thật ra, tôi có một vấn đề quan trọng cần hỏi ông, mà vấn đề đó cứ lởn vởn trong đầu tôi mấy tuần nay.  Tôi bắt đầu lên tiếng:
– Ba à…
Tôi ngập ngừng. Ông không quay sang nói:
– Gì vậy?
– Dạo này, mấy đứa bạn trong trường con thường bàn tán về một điều mà con biết là không đúng…
Tôi cảm thấy môi dưới mình run rẩy vì phải cố kìm lại những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.
– Chuyện gì vậy, Punkin?
Tôi biết tâm trạng ông đang vui khi ông dùng cách gọi thân mật như vậy để gọi tôi.
– Tụi nó nói là không có ông già Noel.
Một giọt nước mắt bên phải trào ra.  Tôi ấm ức nói tiếp:
– Tụi nó nói con ngốc lắm mới tin là có ông già Noel…  Chuyện đó chỉ dành cho con nít.
Một giọt nước mắt bên trái lăn nhanh xuống má. Tôi sụt sùi:
– Nhưng con tin những gì ba đã nói với con.  Ông già Noel là có thật.  Phải không ba?
Ba tôi dịu dàng nói:
– Patty, bọn trẻ ở trường con sai rồi.  Ông già Noel có thật.
Tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm:
– Con biết ngay mà!
– Nhưng ba cần nói thêm về ông già Noel với con. Ba nghĩ giờ đây con đã đủ lớn để có thể hiểu những gì ba sắp chia sẻ với con. Con sẵn sàng chưa?

Nét mặt ba tôi dịu dàng hẳn, và ánh mắt của ông thật ấm áp.  Tôi biết sắp có một chuyện quan trọng, và tôi sẵn sàng vì tôi hoàn toàn tin tưởng nơi ông.  Ba tôi sẽ không bao giờ nói dối tôi.

– Ngày xưa có một người đàn ông thường chu du khắp nơi trên thế giới.  Đi tới đâu, ông ấy cũng tặng quà cho những đứa trẻ mà ông thấy là xứng đáng.  Con sẽ tìm thấy ông ấy ở nhiều vùng đất khác nhau với nhiều tên khác nhau.  Ông ấy là tinh thần của yêu thương vô điều kiện, và ông ấy mong muốn chia sẻ yêu thương bằng cách tặng những món quà từ trái tim.  Khi con đến một độ tuổi nào đó, con sẽ biết ông già Noel thật sự không phải là người chui qua ống khói nhà con đêm trước Giáng Sinh.  Cuộc đời thật và linh hồn thật của vị thần tiên này sống mãi trong lòng con, trong lòng ba, trong lòng mẹ, trong lòng – cũng như trong tâm trí – của tất cả những ai tin vào niềm vui mà chúng ta tặng cho người khác.  Tinh thần thật sự của ông già Noel nằm trong điều con cho đi, chứ không phải điều con nhận được.  Một khi con hiểu và chấp nhận khái niệm này, Giáng Sinh càng thêm lý thú và kỳ diệu, vì con biết phép lạ xuất phát từ tâm hồn con, khi ông già Noel sống trong trái tim của con.  Con có hiểu những lời ba muốn nói với con không?

Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài khung cửa, tập trung vào một thân cây phía trước mặt.  Tôi sợ phải nhìn ba tôi – người mà lúc nào cũng đoan chắc với tôi rằng ông già Noel là có thật.  Tôi chỉ muốn tin như hồi năm ngoái tôi đã tin – ông già Noel là một vị thần tiên to lớn, mập mạp, mặc bộ đồ đỏ.  Tôi không muốn nuốt vào viên thuốc làm người lớn và nhìn thấy mọi việc khác đi.

– Patty, con hãy nhìn ba.

Ba tôi yên lặng chờ đợi.  Tôi quay đầu lại nhìn ông.

Ba tôi cũng đang khóc – nước mắt của vui sướng.  Nét mặt ông rạng rỡ bởi ánh sáng của hàng ngàn thiên hà, và trong đôi mắt ông, tôi thấy đôi mắt của ông già Noel.  Ông già Noel thật sự.  Là người bỏ nhiều công sức lựa những món quà đặc biệt mà tôi muốn trong tất cả những dịp Giáng Sinh. Là người sẵn sàng ăn phần cà rốt mà tôi bỏ lại cho con chó Rudolph.  Là người – dù không có kỹ năng – vẫn ráp xe đạp, ráp cỗ xe ngựa, và những thứ linh tinh khác cho tôi trong suốt buổi sáng của những ngày Giáng Sinh.

Tôi đã nhận được điều đó.  Tôi đã nhận được niềm vui, sự chia sẻ và yêu thương.  Ba tôi kéo tôi vào vòng tay ấm áp của ông, âu yếm ôm tôi thật lâu.  Hai cha con tôi cùng khóc với nhau.

Ba tôi nói tiếp:

– Bây giờ thì con thuộc về một nhóm người đặc biệt.  Kể từ giây phút này, mỗi ngày trong năm, con sẽ chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với mọi người.  Vì giờ đây, ông già Noel đang sống trong tâm hồn con như ông ấy đang sống trong tâm hồn ba.  Trách nhiệm của con là thực hiện trọn vẹn tinh thần trao tặng.  Đây là một trong những điều quan trọng nhất có thể xảy ra trong suốt cuộc đời con, vì bây giờ con biết ông già Noel không thể tồn tại nếu như không có những người như con và ba – luôn giữ cho ông ấy sống mãi.  Con có thể thực hiện được điều này không?

Tâm hồn tôi tràn ngập niềm tự hào, và tôi chắc chắn ánh mắt tôi sáng rực lên vì xúc động.  Tôi nói:
– Được, thưa ba. Con muốn ông ấy luôn ở trong tim con, như ông ấy luôn ở trong tim ba.  Ba ơi, con yêu ba lắm.  Ba là ông già Noel tuyệt vời nhất trong đời con.

Khi đến lúc tôi phải giải thích sự hiện hữu của ông già Noel cho các con tôi biết, tôi cầu xin tôi có tài ăn nói và tình yêu thương như ba tôi vào ngày đã giúp tôi hiểu được ông già Noel không mặc bộ đồ màu đỏ.  Tôi hy vọng các con tôi cũng dễ dàng chấp nhận như tôi ngày đó.  Và tôi hoàn toàn tin tưởng nơi chúng.

Patty Hansen

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

ĐTC: Đức Giêsu là niềm vui của chúng ta

ĐTC: Đức Giêsu là niềm vui của chúng ta

Chuacuuthe.com

VRNs (15.12.2014) –Sài Gòn- theo news.va- Chúa nhật hôm qua 14.12, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô làm phép tượng Chúa Hài Đồng cho các du khách để thờ kính trong dịp Giáng sinh. Truyền thống làm phép tượng Chúa Hài Đồng luôn được cử hành vào ngày Chúa Nhật III Mùa Vọng, còn được gọi là “Chúa Nhật Niềm Vui”.

1

Chúa Nhật “niềm vui” bắt nguồn từ lời kinh Truyền Tin của Đức Trinh Nữ Maria. “Trong Chúa Nhật niềm vui này, phụng vụ diễn tả một thái độ nội tâm để đón chờ ngày gần kề của Con Chúa Giáng sinh: Nghĩa là “niềm vui”, niềm vui của Chúa Giêsu”. Hướng về đám đông tụ tập bên dưới quảng trường, Đức Thánh Cha nói rằng, “Với Đức Giêsu, niềm vui là một phần của gia đình” (Gesù, la gioia è di casa). Thành ngữ ấy, ĐTC lặp lại nhiều lần trong bài huấn dụ của mình.

“Tâm hồn của mỗi người luôn ước ao có được niềm vui … Tất cả chúng ta đều mong muốn niềm vui, mỗi gia đình, mỗi người đều mong muốn hạnh phúc”. Người Kitô hữu, được mời gọi để sống và làm chứng cho niềm vui đến từ việc gần gũi với Thiên Chúa, từ sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta. Niềm vui Kitô hữu không đơn giản chỉ là sự viên mãn niềm vui mà chúng ta sẽ có được mai sau ở trên trời nhưng nó đã bắt đầu ngay trong cuộc sống này, được trải nghiệm ngay từ bây giờ. “Vì Chúa Giêsu là niềm vui của chúng ta. Gia đình của chúng ta có Chúa Giêsu chính là có niềm vui.” ĐTC lặp đi lặp lại rằng: “Với Đức Giêsu, niềm vui là một phần của gia đình.”

Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và để giúp người khác khám phá sự hiện diện đó, hoặc để tái khám phá nó nếu họ đã lãng quên. Ngài gọi đây là “một sứ mạng cao cả, như sứ mạng của ông Gioan Tẩy Giả: chỉ cho mọi người về Chúa Kitô … bởi vì ông có sứ mạng hướng dẫn tâm hồn mỗi người khi họ mong muốn đi tìm niềm vui và hạnh phúc.”

Nhắc đến bài đọc II, Đức Thánh Cha nói rằng, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy những điều kiện để được “niềm vui tông đồ” là: hãy kiên trì cầu nguyện, luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa, tìm kiếm những gì là tốt và tránh điều ác.” Nếu đây là cách sống của chúng ta thì Tin Mừng sẽ thấm nhập đến tận nhà chúng ta và giúp mọi người trong gia đình tái khám phá Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ.” Trong Đức Giêsu, chúng ta tìm thấy bình an nội tâm và sức mạnh để đối mặt với những thách đố mỗi ngày, ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. “Kitô hữu là người có tâm hồn tràn đầy bình an vì họ biết đặt niềm vui của mình trong Chúa, ngay cả trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng có đức tin không có nghĩa là thôi những khó khăn trong cuộc sống đúng hơn có nghĩa là “có sức mạnh để đối đầu với chúng vì chúng ta  biết rằng mình không đơn độc.” “Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, và điều này là sự bình an mà Thiên Chúa ban cho con cái của Ngài.”

ĐTC kết luận bài huấn dụ như sau: “Giáo Hội mời gọi chúng ta làm chứng rằng Chúa Giêsu không phải là một người của quá khứ; Ngài là Lời của Thiên Chúa, Đấng mà hôm nay vẫn đang thắp sáng cuộc hành trình của nhân loại; Hành động của Ngài qua các bí tích là những dấu chỉ về sự dịu dàng, niềm an ủi, và tình yêu của Chúa Cha đối với mỗi con người chúng ta”.

Hoàng Minh

Sống trên đời để làm gì?

Sống trên đời để làm gì?

Dongten.net

trong cay duc chua troi

Sống trên đời để làm gì? Đây là một câu hỏi chẳng dễ trả lời chút nào. Cứ sự thường, ta chẳng mảy may để ý đến nó, vì càng nghĩ đến nó, ta chỉ càng cảm thấy bế tắt bởi một mớ những tư tưởng tối tăm lẫn lộn. Khi người ta vui, thành công, hạnh phúc, người ta chẳng cần biết lý do nào đưa đến sự hiện hữu của mình. Khi người ta còn trẻ, người ta thường không bận tâm mấy đến chuyện vì sao mình lại hiện hữu ở nơi đây. Khi người ta tràn trề sức sống, người ta chỉ chăm chú đến việc làm cho mình được triển nở, được khẳng định đến mức hoàn hảo nhất, chứ chẳng có giờ mà lo nghĩ đến câu hỏi rắc rối này. Chỉ khi nào ta đau khổ, thấy mất đi ý nghĩa cuộc đời, thấy mình sắp phải bước vào ngưỡng cửa của một thế giới khác, thấy hơi thở của mình dường như đã đến hồi cạn kiệt, ta mới cảm thấy có cái gì đó bồi hồi trong tận cõi linh hồn, chất vấn ta về nguồn cội thiêng liêng, về cái mà ta ít bao giờ muốn nghĩ tới.

Thực ra thì, giả như không có ta hiện diện trên đời, có gì mất mát xảy ra không? Câu trả lời đến ngay với ta có lẽ là “không” – một con số “0” thật to tướng. Thế giới này mênh mông là thế, ta còn nhỏ hơn là một chấm nhỏ li ti giữa biết bao con người và muôn loài thọ tạo. Chắc là vũ trụ này cũng chẳng tan biến đi khi ta chết! Chắc là xã hội này vẫn cứ tồn tại, thậm chí là thịnh vượng hơn, dù ta có sống chết ra sao! Trước khi ta ra đời, chẳng phải mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường đấy thôi, cả nhiều tỷ năm rồi. Quãng thời gian từ lúc ta sinh ra đến lúc chết đi, so với dòng chảy của lịch sử, chẳng khác nào một khoảng khắc bé xíu. Trong lúc sinh thời ấy, đến với ta dường như chỉ toàn là chua chát với đắng cay. Sống mà luôn có niềm vui, bình an, hạnh phúc thì có trở về với cát bụi cũng thấy được mãn nguyện vì thấy dẫu sao mình cũng được hưởng chút ý nghĩa khi hiện diện trên đời. Đã sống không được bao lâu mà đau buồn này đến khổ sở khác kéo đến, cầu không được, ước không thành, phải xa người mình yêu, gần người mình ghét… Một cuộc sống như vậy thì sống để làm gì? Ta ước gì mình đừng tồn tại để không phải gánh chịu số phận hẩm hiu ấy. Nhưng có vẻ như tồn tại hay không tồn tại không phải là do ý ta muốn và chọn. Nó không nằm trong quyền quyết định của ta.

Nếu như có ta hay không có ta, thế giới này cũng chẳng khác nhau mấy, thì tại sao Tạo Hóa lại muốn cho ta được “hiện hữu” chứ không phải nằm trong cõi “hư vô”? Khi đưa ta từ chỗ “không” ra chỗ “có”, Tạo Hóa ban cho ta một hình hài để được nhìn thấy, ban cho ta một cái tên để được gọi, một khuôn mặt để được nhận diện, và một chỗ đứng trong thế giới hữu hình này. Đối với nhiều người, ta chỉ là một trong thế giới. Nhưng đối với một số người khác, ta là cả thế giới đầy yêu thương. Ta có một vị thế độc tôn mà không ai trên đời này, dù giỏi giang và thánh thiện mấy, có thể thay thế được. Bố mẹ ta chỉ có thể sinh ra ta một lần thôi. Những người khác do bố mẹ ta sinh ra trước và sau đó, được gọi là anh chị em của ta, chứ không phải là ta. “Tính duy nhất” của sự hiện hữu làm cho ta cảm thấy mình thật giá trị vô cùng. Giữa hai thái cực của cái “không” và “có”, Tạo Hóa đã chọn cái “có” cho mình. Ta chẳng hiểu vì sao, nhưng ta đoan chắc rằng hẳn là Ngài có lý do để làm điều ấy và nhiệm vụ của ta là vâng phục Ngài, đón nhận món quà hiện hữu Ngài ban cho với một lòng biết ơn và thành kính.

Thực ra, hiện diện trong thế giới này, ta không vô dụng như mình vẫn tưởng. Dù ta có cuộc sống riêng của mình nhưng sự sống của ta được gắn kết với nhiều người bằng những mối tương quan. Ngay khi biết ta được thành hình trong dạ mẹ, đã có biết bao người mong ngóng ta chào đời. Khi ta cất tiếng khóc đầu tiên, niềm rạng rỡ của những người thân cũng long lanh nơi khóe mắt. Khi lớn lên, ta tạo lập giao kết với nhiều người khác nữa. Thế giới của ta ngày càng được mở ra với chằng chịt những mối quan hệ ấy. Lối sống của ta, vì nằm trong các mối liên hệ khác, nên cũng có một sức ảnh hưởng không hề nhỏ, cho chính ta và cho những ai nằm trong thế giới ấy của ta. Biết đâu một sự hy sinh của ta giúp tăng thêm nghị lực cho người khác. Biết đâu một chút chia sẻ của ta cũng giúp sưởi ấm nhiều tâm hồn. Biết đâu một lời nói ngọt ngào của ta giúp ai đó thêm tin yêu vào cuộc sống. Giọt mồ hôi nước mắt của ta nơi ruộng đồng đã giúp nhiều người có được miếng cơm ngon. Những vất vả của ta nơi bục giảng giúp đào tạo bao lớp trẻ nhiệt thành cho đất nước… Dù tầm ảnh hưởng của nó không như các bậc vĩ nhân, và có khi chẳng mấy ai để ý đến, nhưng sự thật là nếu không có những việc làm ấy của ta, thế giới này cũng thiếu đi một cái gì đó, dù là nhỏ nhoi, và chắc là nó cũng khác đi chút gì đó.

Cho ta hiện hữu trên đời, Tạo Hóa cũng ban cho ta một sứ mạng cao cả, mà chỉ mình ta mới có thể chu toàn được. Sứ mạng ấy trước hết là dành cho ta, sau đó là hướng đến tất cả những người khác. Ngài mời gọi chúng ta hãy hướng về Ngài, đứng về phía của Ngài, cùng cộng tác với Ngài để tiếp tục bồi đắp thêm cho công trình tạo dựng. Đây quả thực là một niềm vinh hạnh dành cho chúng ta vì vốn dĩ Ngài không cần chút sức mọn của chúng ta. Chúng ta thụ hưởng sự sống từ Ngài nên chắc chắn chúng ta phải bám vào Ngài để tiếp tục tồn tại. Nhưng Ngài không đối xử với chúng ta như một nô lệ. Trái lại, Ngài xem chúng ta như một cộng sự viên bằng cách ban cho chúng ta có tự do, ý chí và lý trí. Chúng ta có quyền đưa ra những chọn lựa cho mình và chọn lựa ấy của chúng ta sẽ có những tác động đến những loài khác. Ta có thể trở thành người mang niềm vui đến cho người khác, nhưng cũng có thể trở nên kẻ hủy diệt thế gian. Ta có thể là một ngọn lửa sưởi ấm lòng người nhưng cũng có thể là một tảng băng lạnh lùng gieo chết chóc. Ta trở thành con người như thế nào là tùy ở những chọn lựa của ta hằng ngày nơi cuộc sống.

Cứ mỗi khi ta sống yêu thương, trao ban, gắn kết, ta dường như thấy cuộc sống của mình thật ý nghĩa. Đó chính là dấu chỉ của Tạo Hóa cho ta biết là ta đang đi đúng đường để hướng về Chân Thiện Mỹ, là chính Ngài. Ngài cần mỗi người chúng ta làm điều đó, Ngài muốn chúng ta sống như vậy, vì đó là con đường dẫn ta đến bình an, đến sự hoàn thiện đích thực của mình. Cuộc sống của ta là một cuộc hành hương tìm về Đấng Tạo Hóa. Những gì được ban cho ta là phương tiện giúp ta thực hiện lộ trình này. Bởi thế, ta được sinh ta là để chia sẻ với Tạo Hóa niềm hạnh phúc viên mãn của Ngài. Đó là một lời mời gọi cao quý dành cho hết thảy chúng ta.

Bấy lâu nay, chúng ta có đủ ý thức về điều này không?

Pr. Lê Hoàng Nam, S