Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Khai trương Viện Khổng tử ở Việt Nam

Ông Du Chính Thanh (hai, trái sang) tại lễ khai trương Viện Khổng tử tại Hà Nội hôm 27/12/2014.

Viện Khổng tử của Trung Quốc vừa được khai trương tại Đại học Hà Nội nhân chuyến thăm Việt Nam ba ngày của Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Chính hiệp TQ, ông Du Chính Thanh.

Học viện Khổng tử được thành lập ở nhiều quốc gia trên thế giới và là tổ chức được nhà nước Trung Quốc trực tiếp đầu tư kinh phí hàng năm cho từng viện.

Tờ tin mạng của Tân Hoa Xã, Xinhuanet.com bản tiếng Anh, hôm thứ Bảy cho hay Học viện Khổng tử đã được chính thức khai trương tại Hà Nội với sự tham dự của ông Du, quan chức hàng thứ tư trong Bộ Chính trị Trung Quốc, và ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

“Trong thời gian ở Việt Nam, ông Du đã viếng lăng cố Chủ tịch Việt Nam ông Hồ Chí Minh và chứng kiến khai trương Viện Khổng tử ở Đại học Hà Nội,” Tân Hoa Xã nói.

Hôm Chủ nhật, trang tin Vnexpress.net cũng đưa tin hai ông Du Chính Thanh và Nguyễn Thiện Nhân đã ‘dự lễ gắn biển’ và dẫn lời Hiệu trưởng Đại học Hà Nội, ông Nguyễn Đình Luận nói:

“Việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung,” tờ báo điện tử của Việt Nam cho hay.

’65 năm quan hệ’

Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương laiTờ Xinhuanet của Tân Hoa Xã

Hôm thứ Bảy, tờ báo điện tử của Tân Hoa xã dẫn lời ông Du Chính Thanh nói về quan hệ giữa Trung Quốc với Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh ‘quan hệ hợp tác’ vẫn là xu hướng ‘chính’ trong quan hệ của hai nước láng giềng từ 65 năm qua.

“Hợp tác hữu nghị vẫn là chính yếu trong quan hệ Trung – Việt kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao 65 năm qua…

“Các trao đổi cấp cao giữa hai đảng đã đóng vai trò không thể thay thế trong việc phát triển các mối quan hệ song phương.”

Tân Hoa Xã cho hay ông Du Chính Thanh bày tỏ quyết tâm phối hợp với Việt Nam nhân sự kiện sáu thập niên quan hệ.

“Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương lai.”

Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài ba ngày, từ 25 tới 27/12/2014, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc đã có các cuộc làm việc với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam gồm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, thường trực Bộ Chính trị Lê Hồng Anh và Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Nguyễn Thiện Nhân.

Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì

“Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì”

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu,
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 2: 1-2

Trăng chỉ quì, khi nhà thơ sấp mặt. Sấp mặt, để uốn mình theo dáng liễu dâng lời nguyện. Trăng còn quì, khi Chúa tỏ lộ với người người, ngày Hiển Linh.

Trình thuật Hiển Linh hôm nay, diễn lại tình Chúa khắp đất trời, miền Israel. Hiển Linh, bên tiếng Hy lạp có nghĩa một “bày tỏ”/”biểu hiện”. Và, Hội thánh nay mừng lễ Chúa Tỏ Hiện chính mình Ngài, đã hàm ngụ ý nghĩa một biểu hiện, như tiếng Hy Lạp.

Lần đầu Chúa Hiển hiện là ngày 25 tháng Chạp. Ngày ấy, Chúa hiện hình qua Hài nhi nhỏ bé, chẳng giúp gì. Ngài được mọi người coi như trẻ bé không nhà. Nghèo hèn. Và, kém cỏi. Ngồi quanh bên Ngài, là các trẻ nghèo hèn bị bỏ rơi. Là, mục đồng thấp bé của xã hội nghèo túng. Điều này, rất ăn khớp với chủ đề được nói đến trong Tin Mừng thánh Luca.

Hiển Linh hôm nay, cũng mang dáng dấp một tình huống tương tự. Nhưng ở đây, Hiển Linh là ngày lễ hoàn toàn khác. Khác ở chỗ, lễ hội này lại dành để cho người xa lạ, ở ngoài. Các vị ở ngoài, vẫn đến thần phục một trẻ bé, theo cung cách đối với vị vua quan. Điều này, còn xứng hợp với chủ đề mà thánh Matthêu đưa ra:“Hãy đi, mà tuyển chọn môn đồ mọi dân nước.”

Tỏ mình lần thứ ba, là dịp Đức Chúa chấp nhận để thánh Gio-an thanh tẩy. Khi ấy, Đức Chúa trưởng thành, Ngài cùng đứng bên sông với những người tỏ ra biết sám hối. Và đó là lúc, có tiếng từ trời cao xác định Ngài là Con Thiên Chúa. “Đây! Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài.” (Mt 3: 17)

Tỏ mình lần thứ tư, Đức Chúa tỏ rõ nơi Tin Mừng thánh Gio-an. Tỏ hiện này, là Chúa tỏ mình ở tiệc cưới. Ngài tỏ mình, là để mọi người biết về Vương Quốc của tình yêu. Của, sự công chính và an bình.

Vương Quốc của Ngài, nay tỏ hiện nơi Đức Giê-su Kitô. “Nước” ở đây, một biểu tượng cho Giao Ước cũ, nay biến thành “rượu”. Đấy, chính là Giao Ước Mới đã ký kết, có dấu ấn đóng trên thập tự, ở Calvari. Đức Mẹ, đại diện cho Hội thánh Chúa, nay được công nhận là Đấng Cầu Bàu, đã dùng uy tín của Mẹ Thiên Chúa để khiến Con của Mẹ, làm theo. Đây, “dấu chỉ” đầu trong 7 dấu ấn, qua đó Chúa biểu hiện rõ căn tính của Ngài, nơi Tin Mừng.

Hiển Linh hôm nay, có người hẳn sẽ thắc mắc: về câu truyện các “đạo sĩ” không chắc đã thực sự xảy ra theo đúng sử sách. Hay, chỉ là một truyện như mọi truyện kể, cũng không chừng. Trước nhất, phải công nhận đây chính là một truyện kể. Là trình thuật, gồm các sự kiện thật khó đoán trước. Khó đoán, như việc dự báo thời tiết về đêm, có lúc xuống đến 10 độ. Cũng rất khó, như việc dự đoán mực nước mưa dâng tràn, đến 10 milimét.

Truyện kể ở đây, lại là truyện Kinh Sách. Cốt đặt nặng về ý nghĩa. Như khi nghe đọc Phúc Âm, đôi khi ta cũng thắc mắc, hỏi rằng: “Truyện kể ấy, có nghĩa là gì?” “Truyện kể ấy, đem đến cho ta những gì đây?” Bởi lẽ, sự thật vẫn nằm ở ý nghĩa, chứ không ở sự việc có đích thực xảy ra, hay không.

Thật ra, trong truyện kể như thế, sự kiện tỏ bày hiện hữu cũng chỉ vu vơ, rất lờ mờ. Không đủ dữ kiện cho báo đài/truyền hình, làm bản tin. Bởi, báo đài/truyền thông bình thường chỉ lưu tâm đến những gì, khả dĩ có thể trả lời câu: Ai vậy? Đó là chuyện gì? Tại sao thế? Ở đâu? Khi nào? Ý nghĩa làm sao? Trong truyện kể tương tự, thật khó trả lời các câu hỏi như thế.

Về các đạo sĩ, mà người Hy Lạp có thói quen gọi là “magoi” (tức đạo sĩ/thân hào nhân sĩ) là các bè/nhóm hoặc các học giả kinh điển, chuyên lo giải mã chiêm bao, cùng giấc mộng. Ngày hôm nay, ta vẫn gọi các chiêm tinh gia/nhà ảo thuật thuộc tầm cỡ như phái Zoroastri, thời buổi trước. Truyền thống Giáo Hội gọi là Ba Vua (như: 3 vua ở Phương Đông), cũng là do ảnh hưởng từ Thánh Vịnh 72, câu 10: “Cả các vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đến tiến dâng lễ vật.” hoặc từ sách Isaya đoạn 49, câu 7 có nói: ”Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy”, hoặc câu 10 đoạn 60: “Vua chúa của chúng sẽ góp phần.”

Thật sự, khó mà biết được con số các vị này gồm bao nhiêu người. Nhưng, truyền thống Giáo Hội vẫn định ra, chỉ có 3 vị. Vì tất cả, có những 3 loại quà được dâng tiến. Và, tên các vị này được đặt theo ý nghĩa của từ ngữ, như: Caspar, đại diện cho dân da màu. Tức: thế giới ở bên ngoài Do Thái, nay đến với Chúa.

Như ta vẫn biết, “họ đến “từ cõi trời Đông”. Gia dĩ, có thể từ Ba Tư, miền Đông Xy-ri-a hoặc từ Ả Rập đến. Nghĩa là, những vùng sâu vùng xa. Xa và sâu, nơi chân trời ấy. Thần học gia Aloysius Pieris cho rằng: điều này mang ý nghĩa rất đáng kể với dân Á Châu. Bởi, các “thân hào nhân sĩ” đến từ vùng châu Á, chứ không là chiêm tinh gia địa phương, theo ánh sao lạ, mà tìm đến.

Dõi theo ánh sao, không rõ thời ấy có xảy ra hiện tượng sao chổi nào không? Hoặc, có sự nối kết hành tinh nào, khiến các vị ngạc nhiên, đi tìm kiếm? Dù sao, khó tưởng tượng nổi chuyện “dõi ánh sao” cả trăm dặm, để rồi cuối cùng, thấy sao vẫn lủng lẳng, trên đầu mình. Tìm cho được sự thật, thì cũng là chuyện vô bổ, mất thì giờ. Bởi, sao đây chính là Đức Giê-su. Là, Ánh Sáng soi dẫn muôn dân.

Thành thử, không nên tìm tòi lý lẽ đưa dẫn đến sự kiện. Cho bằng, hãy chú tâm đến bối cảnh và ý nghĩa nói đến trong Tin Mừng. Theo đó thì Thiên Chúa, bằng vào bản thể Đức Giê-su, là Đấng đến với thế giới nhân trần. Không như, các lãnh tụ tôn giáo, những thượng tế với kinh sư, dù biết chắc Đức Mê-sia hạ sinh cách nào, vẫn không hề bỏ công tìm kiếm.

Như Bét-lê-hem, đất miền mộc mạc chỉ cách Giê-ru-sa-lem không bao xa, thế mà Hêrôđê vẫn muốn gặp. Gặp Chúa, cốt để tẩy xoá/trừ khử mối đe doạ thay thế chỗ, của mình. Trong khi đó, khách lạ đường xa, lại cất công ra đi ngàn dặm tìm kiếm “Vua Do Thái”, để triều bái. Dâng phẩm vật.

Ngoài việc triều bái, các vị này còn dâng tiến những là: vàng, nhũ hương, và mộc thảo đầy thuốc quý. Quà tặng các vị dâng cho Chúa, vẫn là điều được gợi hứng từ lời sấm của tiên tri Isaya, ở bài đọc 1:”Họ mang theo vàng với trầm hương” (Is 60: 6). Với truyền thống Giáo hội, sau này thì: vàng tượng trưng cho Vương quyền của Chúa.Nhũ hương, biểu hiện thiên tính của Ngài. Và, mộc dược là sự thống khổ và nỗi chết Ngài gánh chịu, để cứu rỗi.

Nói chung, Lễ Hiển Linh cho ta biết một điều, là: Chúa không coi ai là khách lạ, người ngoài cả. Trái lại, tất cả đều trở thành con cái dấu yêu, của Chúa. Dù ngoại hình của ta có khác nhiều, ta vẫn cùng chung gia đình. Gia đình, có Người Cha Đáng kính, mà ta được phép gọi: “Lạy Cha của chúng con”. Điều này còn có nghĩa: ta là người anh người chị, của nhau. Là gia đình, vẫn không có chỗ cho những kỳ thị về bất cứ thứ gì. Dù, đó có là sắc tộc, chủng loại, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp… Không có chỗ, cho những khác biệt về vị thế, mức độ.

Hiển Linh hôm nay, dù có mang tính mông lung/mơ hồ của một truyện kể, nhưng thông điệp ấy vẫn rõ mồn một. Rõ như ban ngày. Cảm tạ Chúa. Hôm nay, không có ai là “dân riêng được chọn”. Dù, có là người Do Thái. Dù là Kitô-hữu. Công giáo hay dân đứng ở ngoài. Hãy cứ tìm hiểu về đặc tính gần gũi/cận kề, với Đức Chúa. Đó, cũng là lý do để ta tìm cách mà gần gũi/cận kề, bên nhau. Gần gũi/cận kề, là không đứng ở ngoài làm khách lạ người dưng.

Nhưng, tất cả đều được mời. Dù, người được mời có là Mẹ của Đức Chúa. Dù, ta giàu có hay vẫn nghèo hèn. Dù, ta được trọng đãi hoặc vẫn bị bỏ rơi, đơn lẻ. Dù, người được mời có mạnh khoẻ. Hay, vẫn ốm yếu, tật nguyền. Là, thánh nhân hay vẫn chỉ là tội phạm, ta vẫn là con của Đức Chúa.

Chỉ là dân ngoại/khách lạ người dưng, khi đã lầm lỡ. Và làm cho ai đó trở thành người sống ngoài rìa, ngoài cộng đoàn. Ngoài tình thân. Nghĩa là, ta vẫn chối từ tặng ban đặc sủng thương yêu tôn kính. Tặng ban cách đồng đều cho hết mọi người. Cho cả dân ngoại. Nếu ta vẫn cứ làm cho người ngoài cứ thế ở ngoài rià, tức là: ta đã tiếp tay với nhóm Pharisêu ngạo nghễ, với đám thượng tế rất kiêu sa. Mù quáng. Cố chấp.

Về lại với chính mình, ta hãy tự hỏi: mình thuộc về sao nào? Chúa gọi mình ra sao? Cách nào? Ngài muốn ta tìm đến gặp Ngài nơi ai, để có thể phục vụ và theo chân Ngài? Nơi người vẫn có cỗ cao mâm đầy, ư? Hay nơi kẻ nghèo hèn? Có phải ta vẫn cản ngăn người khác tìm kiếm “ánh sao”, cho chính họ?

Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay, dĩ nhiên có những điều ta khó mà đổi thay. Khó mà, quyết định ai sai – ai đúng. Nhưng vẫn không trễ, để ta có thể dõi mắt tìm kiếm “ánh sao”, cho đời mình. Tìm kiếm, để dõi bước chân mềm mà đi theo. Ngay ở đây. Bây giờ.

Khi xưa, đạo sĩ đã cất bước ra đi. Ra đi, các vị đi mãi tận đất miền Bét-lê-hem, mới gặp Chúa. Chẳng vị nào tiếc công hoặc tiếc của. Ra đi, các vị đã làm gương để ta cũng ra đi với lòng quả cảm và tin yêu, mà dõi bước. Dõi bước, nhưng không luyến tiếc, hối hận. Dõi bước ra đi, để sẽ không ân hận là mình đã khởi sự, từ hôm nay.

Trong tinh thần cương quyết ấy, ta cứ hát lên lời ca phấn chấn thúc đẩy:

“Người đi trên dương gian

Thở hơi gió từ ngàn năm

Gió lung lay Hoành Sơn

Gió dâng cao Biển Đông

Người đi trong thanh xuân

Sưởi hương nắng như lửa sống

Máu sôi như sắc trời

Bước nhanh vượt chân đời.”

(Phạm Duy – Lữ Hành)

Đi, trên dương gian. Đi, trong thanh xuân. Đi, để thấy “trước cửa bóng trăng quỳ”. Trăng quỳ, như người quỳ. Quỳ và lạy Đấng Hài Nhi, nay đến cứu độ nhân gian chốn phàm trần. Còn lỗi phạm.

Lm Frank Doyle sj –

Mai Tá Lược dịch

“Một người ngồi bên kia sông”,

“Một người ngồi bên kia sông”,
“im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào.”

(Phạm Duy – Hẹn Hò)

(Titô 2: 1-8)

Hát chữ “Hẹn hò” theo kiểu nhạc sĩ Phạm Duy, lại là và vẫn là hát những lời ca và ý nhạc rất nổi cộm. Hát thế rồi, mà lại cộng thêm tiếng “mưa rơi” ướt át, như để kể lể đôi điều ở bên dưới:

“Trời thì mưa rơi,

mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau.

Người thì hẹn nhau sang song,

mong cho chóng tạnh mùa Ngâu.

Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau

cách một biển sâu.

Hẹn hò tàn thu sang xuân bên nhau

biết thuở ban đầu.

Dù tình không nguôi,

đôi ta xin cho hứa vui về sau.

Trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi

cách biệt dài lâu…(Phạm Duy – bđd)

Hát chữ “cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau” theo kiểu “mưa Ngâu” còn là hát và nói lời yêu đương, giận hờn, như truyện kể khác có ngay bên dưới:

“Giật mình thức giấc. Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn bốn giờ sáng. Tôi đến bên máy vi-tính bật máy lên. Mở chương-trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy-nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương-trình lại bật lên thông-báo nhấp nháy màu đỏ chói: “Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen Lan”. Tôi chỉnh chương-trình để xem lại cái ngày đầu-tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức. Tôi quyết-định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc-chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn-nguyện với một cái thiệp nhiều ý-nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của Lan tôi hồi-hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem.

“Anh thân mến !

Thế là chúng mình quen nhau đã ba năm rồi. Trong ba năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh. Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan-hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến-yêu, kính-nể. Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã chín giờ tối mà anh vẫn chưa về. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh. Em xin phép được tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn : “Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được” và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: “Đôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản, là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!. Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc Anh luôn vui vẻ và thành đạt”.

Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây: Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng bia, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ-quan, chuyện nhà xếp, chuyện quan-trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn không hết. Em thấy mẹ anh cặm cụi dọn dẹp lại thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say. Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu-nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan-liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện Iran, chuyện Sadam, chuyện SEA Games… Em thấy mẹ cẩn-thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập-ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con? Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù là tăng bốn hay tăng ba… Em thấy mẹ cứ trằn-trọc ra vô mãi, đã gần hai giờ rồi mà phòng nó vắng tanh. Không biết có chuyện gì không hay? Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền. Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định-mức chưa. Em thấy anh ghiền chơi máy điện-toán, đồ điện-tử, cứ hì hục nâng-cấp CPU lên năm lên sáu lần… Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chậm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh còn tắm mưa ngoài đường.  Em thấy anh là chuyên-viên vi-tính, viết phần mềm để quản-lý công-ty, làm network viễn-liên để đấu mạng cho các hãng thầu khét tiếng, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình-thương của người mẹ. Em thấy mẹ chẳng cần vi-tính, vẫn âm thầm lập-trình cá, cơm, rau, nước. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh! Em thấy anh làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh. Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao…

Có bao giờ các bạn nghĩ rằng mình đã thật sự quan-tâm đến ai đó chưa?

Có bao giờ các bạn đã quan-tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?

Có bao giờ các bạn tự đặt mình vào hoàn-cảnh của người khác?

Hy-vọng qua câu chuyện này tôi và các bạn có thể tìm lại được những bài học về sự quan-tâm mà các bạn đã lỡ đánh mất. Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người mẹ, người cha, những người luôn ở bên các bạn, luôn hướng sự quan-tâm về phía các bạn mà không cần đòi hỏi điều đó từ các bạn!

Mẹ – là dòng suối ngọt ngào, là nải chuối buồng cau, là tiếng hát đêm thâu…

Một tình-yêu không biên-giới và không đòi-hỏi người trả ơn.

Thọ (Trích truyện do bạn bè gửi vào ngày 28/11/2014)

Có thể là, cuộc đời người gồm những điều được nói và hát suốt nhiều thế-kỷ. Hát và nói, còn để tỏ tình cho nhau, bằng những lời như sau:

“Nước vẫn trôi mau,
mắt vẫn hoen sầu.
Đành để hồn theo nước trôi không màu.
Số kiếp hay sao
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần nhau?
Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát hò, thì như thế. Chuyện trò, lại không vậy. Không như vậy, cả đến những lời chuyện trò ở nhà Đạo, có đấng bậc ở trên cao tít lại đã từng phán những ý-tứ và ý-từ mạnh bạo, khác thường, như bao giờ. Và, ý-từ cùng ý-tứ của lời phán bảo ở dưới đây cũng nên coi như lời phán bảo vào ngày hôm nay tuy có mạnh và có bạo như thời trước hay không, vẫn là điều để bạn và tôi nhận xét. Nhưng trước hết, ta cứ nghe ý-kiến của ngài xem sao đã. Những ý-tưởng vẫn bào rằng:

“Rõ ràng là, khi đáp-trả những lời bình-phẩm về việc tuyển-dụng và ban giáo-huấn cho một số phong-trào giáo-dân người Công-giáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói rằng: các phong-trào như thế là để tôn-trọng sự tự-do của các thành-viên trẻ tuổi và để ta không còn khai-thác điểm yếu của họ về kinh-nghiệm trong trưởng-thành.

Đức Giáo-hoàng cũng kêu gọi các phong-trào này hãy tránh rơi vào tình-trạng ganh-đua, đối-đầu và đâm lưng nhau, nhưng ngược lại hãy hợp-tác cho lợi-ích chung cũng như tôn-trọng thẩm-quyền của các giám-mục cai-quản giáo-phận.

Đức Phanixô đã đưa ra lời kêu gọi này vào ngày 22/11/2014 nhân có buổi gặp gỡ giữa các thành viên Quốc hội của các nước thuộc Thế giới Thứ Ba có các Phong trào và Đoàn-thể mới trong Giáo-hội như thế.

Đức Giáo Hoàng nói: “Là người chịu trách-nhiệm về các khó-khăn trong gia-đình cũng như về thể-chế giáo-dục trên thế-giới, ta đều biết: giới trẻ hôm nay đang “trải-nghiệm khó khăn về căn-tính, nên thấy khó lòng khi buộc phải chọn lựa điều gì. Kết cuộc là, họ cứ để cho mọi sự định đoạt đời họ và để mất đi sự tự-chủ khi buộc phải có quyết-định quan-trọng cho đời mình. Vì thế nên, ta cần phải chống lại mọi chước cám-dỗ cứ làm muốn ta tước-đoạt sự tự-do của người khác, và buộc họ theo ý mình mà không cho phép họ có cơ-hội được trưởng-thành, hoặc lớn mạnh. Mọi tiến-triển về luân-lý cũng như linh-đạo vẫn kiểm-soát và khuynh-loát tính thiếu trưởng-thành của người trẻ và mọi thành công nơi họ chỉ có tính bề ngoài dễ đưa đến thất-bại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh sự kiện là: các phong-trảo này khác cũng nên hợp-tác với nhau và với các đấng chủ-quản Giáo-hội ở địa-phương mình. Ngài tiếp lời căn dặn: “Giả như thế giới này đầy tràn những rẽ chia, kình chống và đâu nhau sau lưng, không cần biết nguyên do tại đâu, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng cho họ được?”Các phong-trào và ban/ngành cộng-đoàn được kêu mời hợp tác nỗ-lực để lo cho những người tật nguyền tâm thần trên thế-giới chỉ muốn đặt nặng chuyện tiêu-pha hưởng-thụ quên cả Chúa Mẹ cùng các giá-trị thiết-yếu cho cuộc sống.”

Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Sự hiệp-thông đích-thật không thể tồn tại trong phong-trào này khác hoặc trong cộng-đoàn được, trừ phi họ biết hội-nhập vào với cộng-đồng rộng lớn là mẹ thánh Giáo hội có hệ-cấp trên dưới, rõ ràng.“ (xem Francis Rocca, trong bài viết có tựa đề là  Francis cautions new movements, trên báo The Catholic Weekly, 30/11/2014 tr. 5)

Xem thế thì, chân-lý mọi thời vẫn là: ta hãy hiệp-thông tương-quan với nhau trong cộng-đồng rộng lớn tức Giáo hội. Có tương-quan hiệp-thông như thế, mới thấy rằng: mình và mọi người vẫn là Thân Mình của Đức Kitô, thôi.

Về hiệp-thông tương-quan, bần đạo đây cũng đã trải-nghiệm một tình-huống khá mới mẻ, là: vừa qua bần đạo có anh bạn mới quen ở Sydney, tên anh là Nguyễn Văn Tạ từng là cựu tu-sinh Dòng thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô và là cựu học-viên Giáo-Hoàng Học-viện ở Đà-Lạt trước 75. Anh đọc bài phiếm nọ có trích-dẫn câu nói của Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng tuyên bố: Đức Giêsu không phải là người Công giáo…

Để hỗ-trợ cho lời vàng-ngọc của vị chủ chăn toàn-thể Giáo-hội Công-giáo, anh đẽ chìa cho bần đạo thấy cuống “The Catholic Church của Lm Hans Kũng, trong đó có chương/đoạn bắt đầu bằng câu hỏi: “Đức Giêsu khi xưa có là người Công-giáo?” Và, tác-giả đã từng viết:

“Nhiều người Công-giáo lại vẫn có lập-trường phù-hợp với truyền-thống chuyên giữ “ lề phải”, lại cứ hiểu ngầm Ngài là như thế! Giáo-hội Công-giáo lâu nay vẫn luôn đặt nền tảng trên những gì mà ngay nay, nhiều người vẫn suy như thế; và Giáo-hội Công-giáo lâu này vẫn cứ bảo và có khuynh-hướng cho rằng: trên nguyên-tắc, Đức Giêsu thật ra cũng phải như thế mới được.

Thế nhưng, phải chăng Giáo hội đây lại đã thành-công rực rỡ và vững-mạnh hơn các Giáo-hội khác cũng có lý để dựa dẫm vào Đức Giêsu Kitô, chứ? Hoặc giả, chính Giáo hội đầy phẩm-trật này cũng tự-hào dựa vào ai đó là người có thể quay ngược trở lại sự việc này? Theo kinh nghiệm, ta có thể nào tưởng-tượng ra rằng Đức GIêsu thành Nazarét có mặt ở thánh lễ do Đức Giáo Hoàng chủ-trì tại Quảng Trường thánh Phêrô, ở Rôma chứ? Và, hoặc giả, những người có mặt ở nơi đó dám sử-dụng ngôn-từ của nhà văn người Nga là Dostoevsky khi viết cuốn Quan-toà Dị-giáo, có nói: “Sao ngài lại đến quấy rầy bọn tôi thế?”

Ở trường-hợp nào đi nữa, mọi người cũng đừng quên rằng: mọi nguồn cung-cấp thông-tin và tường-trình đều phải thuần-nhất. Bởi, ngang qua Lời và Hành-xử của Ngài, Đức Giêsu là người Nazarét đã dính-dự vào cuộc xung-đột nguy-hiểm với quyền-bính nắm giữ trật-tự vào thời Ngài. Xung-đột không phải với dân-chúng mà là với giới-chức có thẩm-quyền về Đạo, với hệ-cấp quản-trị đã trao-nộp Ngài cho nhà cầm-quyền thực-dân người La Mã và như thế dẫn đưa Ngài vào chỗ chết…

Chính Đức GIêsu là Đấng từng “toả sáng” tinh-thần và đường-lối sống của Ngài theo nghĩa tốt-đẹp nhất của ngôn-từ. Điều nay ăn khớp với “chúng-dân” (tiếng Hy-Lạp gọi là “demos)” của những người từng được tư-do (chứ không là thể-chế gò bó, chế-ngự, dù ta có gọi đó là Toà Dị-giáo hay gì đi nữa; và trên nguyên-tắc vẫn phải đồng đều về quyền-hành (chứ không là Giáo-hội mang đặc-trưng/đặc-thù của giai-cấp , chủng-tộc hoặc vai-vế) của những người anh và người chị (chứ không phải đoàn-lũ nam-nhân chỉ muốn tôn-sùng có một người. Đây là Kitô-hữu tiên-khởi có tự-do, công bằng/đồng đều và bằng-hữu, chứ không phải là cộng-đoàn tiên-khởi ngay lúc đó đã có cơ cấu phẩm-trật gồm các tông-đồ làm trụ-cột và có thánh Phêrô là đá tảng của ai đó, chứ?” (xem Hans Kũng, The Beginning of the Catholic Church, Phoenix Press London 2002, tr. 15-16)

Có tự-hào để bảo: Đức Giêsu là Công Giáo chứ Ngài không thuộc Do-thái-giáo hoặc Tin Lành/Thệ Phản chăng, cũng chỉ để đưa dẫn Ngài vào với phe/phái của mình ở đâu đó, mà thôi. Nào có gì chắc chắn để chứng-minh rằng: khi xưa Ngài cũng thực-thi các điều-luật của Đạo mình.

Nói thế, là để hỏi rằng: Chúa và tôi có cùng một lối sống, cùng một đường-hướng tư-duy, sinh-hoạt phụng-vụ hoặc lễ-lạy giống như người nhà Đạo, rất hôm nay?

Nói như thế, là để bảo: người thời nay có chăng lập-trường sống những bon chen, nổ dòn lộp độp nhiều diễn-xuất?

Nói đến thế, là cốt để tôi và bạn ta cùng nhau kiểm-điểm xem lâu nay mình quan-niệm thế nào về niềm tin, thương yêu và hy vọng, là cốt cán của mọi ràng buộc trong Đạo, mà thôi.

Nói những thế, còn muốn nói nhiều về tư-thế cũng như quyết-tâm của mỗi người và mọi người trong tin-yêu.

Nói thế nào đi nữa, cũng cứ thử nghe người đời không nói nhiều, nhưng lại cứ hát, nhưng ca-từ cũng đầy ý-tứ và ý-từ như sau: 

“Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát như thế, là người đời những muốn kể về tâm-trạng của chính mình, khi đã có những “hẹn hò” có tâm-tư và tâm-tình của người ở đời rất chóng chán. Chán rất nhiều, khi đã hẹn hò là thế, mà sao người cùng hẹn lại cứ thờ ơ, ơ hờ nhiều năm tháng!

Hát đến như vậy, còn để bảo cho nhau và với nhau rằng: đời người vẫn có những tháng ngày khiến con người quên cả lời hẹn hò, nhiều khúc mắc. Khúc mắc như nhiều chuyện từng xảy đến với muôn người, ở đới.

Nói cho cùng, có là Công Giáo, Chính Thống hoặc Tin Lành/Thệ Phản đi nữa, cũng nên nghe đấng thánh hiền lành từng nhắc nhở rằng:

“Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.2

Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực,

vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại.3

Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh,

không nói xấu,

không rượu chè say sưa,

nhưng biết dạy bảo điều lành.

Như vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con,5

biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng,

để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.

(Titô 2: 1-8)

Nói cho cùng, dù bạn/dù tôi, ta có theo giáo-phái nào đi nữa, thì cuối cùng cũng đều qui về một mối, một lònglà: niềm tin vào Đức Kitô là Đấng Cứu-Chuộc mọi người, không chỉ mỗi Công-giáo mà thôi.

Nói cho cùng, có tự-hào là người Đạo nào đi nữa, cũng hãy tự-hào rằng: lâu nay mình vẫn hằng phổ-biến triết-thuyết của Tin Mừng luôn bảo rằng: Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu. Và, một khi ta đã trở nên một với Ngài rồi, thì không có lý gì để ta hay ai đó lại cứ tự cho chỉ một mình mới có chính-nghĩa khi tin tưởng vào Thiên-Chúc và thánh hội của Ngài.

Nói cho cùng, là nói và hỏi rằng: thánh Hội của Chúa có chủ-trương và có quyết-tâm thực-hiện chủ trương ấy trong yêu thương giùm giúp hết mọi người hay không? Hoặc, vẫn cứ như người khi xưa được Ngài gọi là nhóm hội vẫn tự cao, tự đại cho rằng: nhóm của mình/đạo mình mới nắm vững, thực-hiện luật lệ, rất chính-qui?

Nói cho cùng, còn là nói ít, nhưng làm nhiều. Làm như Tin Mừng dạy, nhưng lặng-thinh, im ắng, rất ẩn-dật.

Nói cho cùng, còn nói bằng truyện kể rất nhè nhẹ để minh-hoạ cho những gì mình từng có kinh-nghiệm để đời về cuộc sống ở đời.

“Truyện rằng:

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.

Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa. Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô. Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.

Và người kể truyện, lại cũng tóm kết ý-nghĩa của truyện kể bằng những lời như sau: “Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Có trích-dẫn và/hoặc giải-thích lời trích và dẫn của mình thế nào đi nữa, cuối cùng cũng chỉ để tóm gọn mỗi điều này: Hãy cứ chứng-tỏ tình-thương mình có với người khác đi đã, từ đó người kia/người nọ sẽ biết mình là ai, và Thày mình là Đấng nào.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những nhận-định

Cùng cương-quyết hiếm có

Suốt đời mình,

giống ở trên.

CẢI TẠO NGƯỢC

CẢI TẠO NGƯỢC

Trích EPHATA  634

Dưới đây là một trích đoạn trả lời phỏng vấn ông Nguyễn Hoàng Đức với đài RFA:

“Tôi đã từng làm trong Phòng Tôn Giáo của Bộ Công An. Trong Phòng ấy người ta có “đối sách” về Đức Cha mà sau này là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Ông bị chuyển đổi từ miền Nam ra với cái tội rất to là vì ông là cháu của Ngô Đình Diệm và trở về Sàigòn làm Phó Tổng Giám Mục theo ý là lót ổ để lên Tổng Giám Mục.

Và ông cứ thế bị chuyển ra ngoài Bắc. Trong thời gian ông ấy bị cầm cố ở Hà Nội ( có nghĩa là không ở tù ) tức là được giữ trong mật viện. Có một đội trông ông ta, nhưng tôi là một cán bộ cũng khá lâu năm, một sĩ quan khá lâu năm nên tôi đề nghị để tôi ra học tiếng Pháp với cha, trên tinh thần là luyện tiếng Pháp chứ không phải để trông cha. Cụ thể là như thế…

Sau khi học tiếng Pháp với ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa, vì tôi làm ở Cục Chống Phản Động nên biết dễ phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.

Sau khi vào Sàigòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các Nhà Thờ, Nhà Thờ trung tâm Đức Bà, Nhà Thờ Kỳ Đồng… Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một giấc mơ là tôi đi Nhà Thờ và tôi có rửa tội.

Đúng đêm tôi rửa tội ở Nhà Thờ lớn thì cha Ngân, bây giờ trở thành Giám Mục, bảo với cha Hùng, hiện nay đang học bên Ý hay bên Pháp gì đấy, mời tôi viết diễn giải về Đức Tin, và tôi có viết bài “Con đường Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận”. Bài này đã gởi qua Tòa Thánh và nằm trong hồ sơ và đã được cha Sỹ đang ở Việt Nam xin đưa chữ ký vào những bản dịch khoảng 4, 5 thứ tiếng. Tôi hiểu là việc phong Thánh cần phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức Tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh. Phép lạ thứ ba là mồ mả phát. Tôi là một trong những phép lạ về Đức Tin.”

NGUYỄN HOÀNG ĐỨC – RFA link

Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức nguyên là công an, từng học tiếng Pháp với Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Anh đã viết một chuyên luận về: “Hành trình Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận” để mô tả lại quá trình biến đổi tình cảm, tâm lý và đến với Chúa của anh. Tài liệu đó hiện đang được Bộ Phong Thánh ở Roma lưu giữ xem như một phép lạ Đức Tin.

Được Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình Tòa Thánh Vatican mời qua Rôma làm chứng về Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận nhân dịp lễ kết thúc điều tra phong Chân Phúc cấp Giáo Phận. Ngày 2.7.2013 anh lên đường sang Rôma, nhưng đã bị công an ngăn chặn và thu hộ chiếu tại sân bay Nội Bài mà không có lý do rõ ràng.

Đức cố Hồng Y sống 13 năm trong ngục tù Cộng Sản, một số sự việc trong đời sống tù đày đã được ngài kể lại trong “Năm chiếc bánh và hai con cá”, tác phẩm được dịch ra 8 thứ tiếng, để phục vụ các tham dự viên ‘Những Ngày Giới Trẻ’ tại Paris năm 1997. Mời bạn đọc xem lại vài trích đoạn sau:

Có lúc Chúa dùng Giáo Dân để dạy tôi cầu nguyện

Thời gian bị quản thúc ở Giang Xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ Giáo Xứ Ðại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi: “Thưa cha, cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội Thánh; ở trong tù cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do !”

Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện

Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi: “Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi ! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật ! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau: “Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ Nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập Nhà Thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.

Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây !” ( Ảnh chụp Đức Hồng Y Thuận và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 tại Roma )

Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc !” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm“.

Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.

Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết !”

Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá ! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.

Tôi phải làm thế nào ?

Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế ? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.

Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời…

Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi ! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.

Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”. Khi nào có hai hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.

Hát kinh “Veni Creator”

Một hôm một ông xếp hỏi tôi:

– Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công Giáo” ?

– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công Giáo và cho cả nhà nước.

– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy ?

– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.

– Ông có thể giúp được không ?

– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon ( từ điển bỏ túi ) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo Hội…

Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo Hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành.

Ai cũng muốn biết Viện Phụ là gì, Thượng Phụ là gì, Công Giáo khác Anh Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo chỗ nào ? Tài chánh của Tòa Thánh từ đâu mà có ? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện Tu Sĩ, Giáo Sĩ thế nào ? Giáo Hội phục vụ nhân loại thế nào ? Tại sao Giáo Hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại ? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.

Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu Tu Sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo Hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:

– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không ?

– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào ?

– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.

Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không ? Anh ta chọn bài Veni Creator ( Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm… ). Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe !

Nguồn: Diễn Đàn Người Giáo Dân

Sự Khó Khăn Nơi Nhà Trọ

Sự Khó Khăn Nơi Nhà Trọ

Thời gian đó, tôi đang dậy lớp HAI tại thành phố London, tỉnh bang Ontario, Canada, và được yêu cầu dựng một họat cảnh Giáng Sinh cho mùa Giáng Sinh năm đó.  Một số người đã cho rằng những gì xảy ra trong họat cảnh đã làm hỏng buổi trình diễn, nhưng có một số đông người khác lại cho rằng, đây lại là một câu chuyện về Giáng Sinh chân thật nhất, cảm động nhất mà họ được xem.

Bây giờ, mời bạn làm quan tòa, phân xử xem sao nhé!

Sau  một thời gian suy nghĩ và tính toán, tôi cũng thực hiện xong bảng phân vai cho họat cảnh.  Nhưng cũng gặp phải một điều phiền phức, đó là cậu học sinh, tên là Ralph.  Em là một chú bé rất mập, đã được 9 tuổi, mà lẽ ra phải đang học ở lớp 4 cơ đấy.  Ngoài sự mập mạp quá đáng, em còn là một chú bé rất vụng về, làm cái gì, hay nghĩ điều gì cũng rất chậm, chậm quá thể.  Tuy nhiên, đám trẻ lại rất thương qúy em, đặc biệt là những đứa còn bé – Lúc nào em cũng tỏ ra như là người anh lớn tự nhiên phải bênh vực, bảo vệ các em nhỏ.

Ralph muốn là một chú bé chăn chiên với ống sáo trên tay.  Tôi bảo em là tôi có được một vai rất quan trọng và rất hợp với em.  Em sẽ là ông quản lý nhà trọ.  Lý do của tôi là : vì bản chất chậm chạp, em sẽ không phải nhớ nhiều lời đối thọai.  Thêm nữa, cái khổ người dềnh dàng của em, sẽ làm cho sự từ chối gia đình ông Giuse về chổ ở trọ, gây nhiều ấn tượng hơn.  Chúng tôi tập đi tập lại họat cảnh nhiều lần, mỗi em đều cố gắng và cảm thấy sự quan trọng đóng góp cho sự thành công của buổi trình diễn.

Hội trường tràn ngập những người thân và bạn bè cho buổi văn nghệ rực rỡ mỗi năm và trên sân khấu đầy những đứa bé mặt mày hớn hở, vui tươi chờ đợi đến phiên mình diễn, em nào cũng tỏ vẻ hưng phấn.

Buổi diễn tiến hành rất suông sẻ, không xẩy ra điều rủi ro nào đáng kể – cho tới khi ông Giuse xuất hiện, với những bước đi chậm chậm, nhẹ nhàng dìu bà Maria đến cửa quán trọ.  Ông gõ thật mạnh lên cánh cửa gỗ của quán trọ.

Từ nãy giờ, Ralph chỉ chờ có thế.  Em mở tung cánh cửa với một thái độ rất thô lỗ, và la toáng lên:

–  Mấy người muốn gì, hả?

Ông Giuse nhỏ nhẹ:

–  Dạ, chúng tôi đang cần một chỗ trọ ạ.

–  Đi kiếm chỗ khác đi.

Ralph nhìn thẳng về phía trước, nói thêm với giọng cứng rắn:

–  Quán trọ đầy người rồi.

–  Xin ông thương dùm cho, chúng tôi đã hỏi khắp nơi mà cũng chẳng được gì.  Chúng tôi đã đi từ xa đến và đã rất mệt mỏi, thưa ông.

–  Không còn phòng nào cho các người đâu.

–  Thưa ông quản lý nhân lành, xin làm ơn, đây là Maria, vợ tôi.  Cô ấy đang có thai gần đến ngày sinh và cần một chỗ để nghỉ qua đêm.  Cô ấy đã mệt mỏi quá rồi.  Chắc là ngài có một góc nhỏ nào đó, ch nào cũng được, cho cô ây nghỉ đỡ.

Ralph nhíu mày, cúi nhìn Maria, im lặng một lúc lâu.  Bên dưới, khán giả trở nên căng thẳng.  Tôi vội nhắc khẽ từ phía cánh gà: “Không năn nỉ ỉ ôi gì cả, xéo ngay, xéo.”

Ralph cứ đứng đờ người ra, cau trán như đang cố suy nghĩ điều gì!

Từ sau cánh gà sân khấu, tôi đã nhắc ba lần, lần sau nhắc to hơn lần trước.  Ralph cứ đứng như trời trồng không tỏ một dấu hiệu nào cả.  Đám thiên thần đứng sau hậu trường với tôi, cũng bắt đầu bối rối, bồn chồn.

Sau cùng, chắc Ralph cũng nhớ ra, tự động lập lại nhưng chữ mà em đã học thuộc lòng trong những tuần lễ dài diễn tập :

– Không năn nỉ ỉ ôi gì cả, xéo ngay, XÉO.

Ông Giuse buồn rầu, quàng tay dìu bà Maria và chuẩn bị rời đi. “ÔNG” quản lý nhà trọ Ralph lại không chịu đóng cửa trở vào trong nhà trọ như đã được hướng dẫn tập dư.  Cậu học trò lớp Hai đóng vai ông quản lý đứng bất động, nhìn theo cặp vợ chồng Giuse Maria cô đơn, bất hạnh…  Trông Ralph có vẻ lúng túng khó xử, miệng em há to, trán cau lại có vẻ đăm chiêu suy nghĩ, và mắt em long lanh đầy nước… Đột nhiên, toàn bộ họat cảnh Giáng sinh, phần còn lại thay đổi hoàn toàn…. Ralph gào lên:

–  Ông Giuse ơi, đừng đi vội.  Làm ơn đừng bỏ đi.  Đưa cô Maria trở lại đây.

Mặt em đột nhiên hân hoan với nụ cười rộng mở.  Em giang rộng vòng tay :

– Các bạn có thể ở trong phòng của tôi mà.

Quả thật, không ai trong đám đông khán giả hay ở trên sân khấu ngày hôm ấy, lại gặp được những phút giây kỳ diệu trong đêm trình diễn họat cảnh Giáng sinh hơn là Ralph.

Và, lạy Chúa tôi, mắt tôi đầy lệ…. Tôi bật khóc lúc nào không biết!

Hồng ân Chúa đổ xuống trên mọi người, và trong giây phút linh thiêng ấy, ca đoàn thiên sứ bé nhỏ trong hậu trường bước ra sân khấu hòa vang ca khúc:

“Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời. Bình An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương.”

Phạm Vinh Sơn.

Dịch từ trưyện ngắn của: Dina Donohue

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

HRW nói VN dùng côn đồ trấn áp nhân quyền

HRW nói VN dùng côn đồ trấn áp nhân quyền

Cảnh sát Việt Nam đối mặt với những người ủng hộ ông Lê Quốc Quân tại phiên xử ông hồi tháng Hai năm 2014

Công an Việt Nam bị cáo buộc làm ngơ trước những vụ hành hung các nhà hoạt động

Giám đốc Á châu của tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch vừa lên tiếng cáo buộc Việt Nam dùng côn đồ để trấn áp nhân quyền.

Trong bài viết đăng trên trang The Diplomat hôm 27/10, ông Brad Adams mở đầu với những câu:

“Điều gì tệ hại hơn, bị bỏ tù hay bị đánh đập? Đây là câu hỏi mà các nhà hoạt động ở Việt Nam cân nhắc vào Ngày Nhân quyền Quốc tế trong tháng này.

“Chính quyền Việt Nam đã bỏ tù người dân vì khác chính kiến trong hơn nửa thế kỷ qua. Gần đây chính quyền cố thuyết phục các chính phủ và các nhà ngoại giao rằng họ đã độ lượng hơn và chỉ ra rằng các vụ bắt những người chỉ trích đã giảm đi.”

Mặc dù vậy ông Adams nói ít nhất 29 nhà hoạt động và blogger trong đó có hai blogger có tiếng, Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Quang Lập đã bị bắt trong năm 2014.

Nhưng cáo buộc chính của bài viết là chính quyền ở Hà Nội đã dùng côn đồ để trấn áp những người mà họ không bỏ tù.

“Côn đồ, có vẻ như là nhân viên chính quyền mặc thường phục, đã bắt đầu tấn công những người bất đồng chính kiến, thường là [tấn công] công khai, mà hoàn toàn không chịu hậu quả gì.

“Gần đây nhất, hôm 9/12, blogger Nguyễn Hoàng Vi ở thành phố Hồ Chí Minh đang đi về nhà thì bị một nhóm nam và nữ giới chặn được, túm tóc và đấm túi bụi.

“Hàng chục người trong đó có cả các nhân viên an ninh của chính quyền đóng bên ngoài nhà Vi đã đứng nhìn và không can thiệp.

“Khi một lái xe taxi định chở Vi tới bệnh viện thì lực lượng an ninh can thiệp và đòi đưa cô về nhà.”

Việt Nam luôn bác bỏ các cáo buộc về chuyện họ trấn áp những người bất đồng chính kiến.

‘Xô đẩy Tổng lãnh sự’

Ngoài vụ việc đối với blogger Nguyễn Hoàng Vi, ông Brad Adams cũng nêu những vụ trấn áp với hình thức tương tự đối với blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Ngọc Tuấn và Huỳnh Trọng Hiếu.

Bênh cạnh đó là những cuộc tấn công khác nhắm vào các nhà hoạt động Trần Thị Thúy Nga và Trương Minh Đức.

Ông Adams cũng nói ngay cả Tổng Lãnh sự Pháp ở thành phố Hồ Chí Minh cũng bị xô đẩy khi ông tới nơi diễn ra một vụ chạm trán giữa các nhà hoạt động và côn đồ.

” Không ai bị buộc tội trong những vụ này. Hầu hết các vụ tấn công xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật và trước mặt những người khác. Cảnh sát mặc sắc phục không can thiệp, nhiều khả năng vì họ tin rằng những kẻ tấn công là nhân viên chính quyền.

Brad Adams, Giám đốc Á châu của Human Rights Watch”

Vị Giám đốc Á châu của Human Rights Watch viết:

“Không ai bị buộc tội trong những vụ này. Hầu hết các vụ tấn công xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật và trước mặt những người khác.

“Cảnh sát mặc sắc phục không can thiệp, nhiều khả năng vì họ tin rằng những kẻ tấn công là nhân viên chính quyền.

“Toan ngăn chặn các cuộc tấn công, đúng ra là một quyết định duy nhất đúng về mặt nghề nghiệp và đạo đức đối với một cảnh sát, lại quá mạo hiểm và có thể làm họ mất việc hoặc tệ hơn.”

Cuối bài ông Adams nói cho dù châu Âu và Nhật Bản muốn tăng cường buôn bán và Hoa Kỳ muốn có quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam để đối trọng với Trung Quốc, họ cũng “cần nhớ rằng các chính phủ tốt nhất và ổn định nhất là các chính phủ tạo không gian an toàn cho tự do ngôn luận chứ không phải các chính phủ đánh đập hay bỏ tù những người bày tỏ chính kiến.”

Human Rights Watch và một số tổ chức theo dõi nhân quyền khác từng bị Việt Nam liệt vào các tổ chức “có dụng ý xấu” đối với chính quyền Hà Nội.

Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Chuacuuthe.com

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (26.12.2014) – Đồng Nai – Con người ai cũng tự hào về gia đình của mình. Con cái tự hào về cha mẹ. Cha mẹ tự hào về con cái. Có người còn tự hào về gia tộc và dòng họ của mình. Thế nhưng, niềm tự hào ấy hôm nay đang mất dần khi mà nhiều thành viên trong gia đình đang sống thiếu trách nhiệm với bổn phận, đôi khi còn gây đau khổ cho gia đình bởi tội lỗi và đam mê của mình. Đó cũng là nguyên nhân đưa đến sự đổ vỡ nơi các gia đình hôm nay.

Nhìn vào những vụ bạo lực trong gia đình, mẹ sát hại con, cháu “xuống tay” với bà, chồng cạn tình với vợ liên tục xảy ra gần đây khiến cho chúng ta có cái nhìn thật bi quan về cái nôi gia đình mà trước đây bảo là nơi bình yên, hạnh phúc nhất.

Chỉ trong 2 ngày 22 và 23-6, Vĩnh Phúc chấn động với hai vụ án giết người mà kẻ xuống tay lại chính là những người thân thích cùng chung dòng máu. Người mẹ N.T.L chỉ vì giận chồng cũ tái hôn mà dùng dao chém chết đứa con trai 8 tuổi để trả thù. Đứa trẻ chết trong giấc ngủ, không kịp biết   khi kẻ hại mình lại chính là người mẹ dứt ruột đẻ ra. Tiếp sau đó 1 ngày, tại xã Đình Chu anh N.Đ.T đã dùng gậy hạ sát bà. Nguyên nhân cũng chỉ vì người bà đã khuyên nhủ cô gái mà T đang theo đuổi không nên yêu T, rằng T vốn hung hăng, đã từng đánh đập 2 người vợ trước, khiến họ phải bỏ đi.

Trước đó, ngày 20-6, tại Hà Nội cũng xảy ra vụ án chồng sát hại vợ. Kẻ thủ ác Đ.M.Q trú tại phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm. Do mâu thuẫn vợ chồng, vợ Q đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Do ép vợ quay về không được nên Q đã tước đoạt mạng sống của vợ, bỏ lại hai đứa con thơ, đứa 4 tuổi, đứa mới lên 3.

Sở dĩ người ta có thể đoạn tình, đoạn nghĩa với người thân của mình thường chỉ vì ai đó đã lao vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền. Vì danh lợi thú mà họ sẵn sàng hành động trái với cả luân thường và đạo lý làm người.

Một nguyên nhân khách quan mà chúng ta không thể không nói đến chính là sự hội nhập với trào lưu văn hóa thế giới khi Việt Nam hội nhập kinh tế, nhưng người dân Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị tâm lý, trình độ để tiếp thu. Điển hình là sự tự do cá nhân đối với phương tây là tốt, nhưng với Việt Nam lại là một tai họa khi đa số không hề có khả năng sống tự lập và tự chủ dẫn đến rất nhiều thành phần buông lỏng trách nhiệm với gia đình.Cha mẹ thiếu trách nhiệm với con vì mải mê kiếm tiền. Con cái sống buông thả tự do đến nỗi thiếu trách nhiệm với bản thân và xã hội.

Đó là nguyên nhân dẫn đến những bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục bừa bãi và hôn nhân đồng giới, buôn bán phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục, bất bình đẳng giới tính trong gia đình Việt Nam.

Có lẽ chúng ta cần phải xác định lại giá trị hạnh phúc trong gia đình. Gia đình hạnh phúc không hẳn là có tiền để rồi mải mê kiếm tiền mà bỏ rơi nhau. Gia đình không hệ tại ở việc người  có chức này, người kia có chức nọ. Gia đình hệ tại ở sự đùm bọc yêu thương nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Nếu có tiền, có địa vị mà xa cách gia đình thì cũng không mang lại hạnh phúc cho gia đình. Gia đình chỉ tồn tại khi mỗi thành viên biết sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình của mình.

Hôm nay lễ kính thánh Gia Thất là một gia đình gương mẫu. Các ngài đã sống đùm bọc với nhau. Các ngài luôn sống có trách nhiệm với nhau. Các ngài luôn sử dụng tự do theo thánh ý Chúa. Không tìm kiếm nhu cầu của bản thân. Không chiều theo xu hướng cá nhân nhưng luôn sống cho nhau và vì nhau. Nhất là các ngài đã biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Các ngài luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc đời.

141225005

Thánh Giuse vì an nguy của Mẹ Maria và hài nhi Giê-su đã sẵn lòng đón Mẹ về làm bạn mình. Đức Maria đã không sợ hiểm nguy khi nói lời xin vâng để ý Chúa được nên trọn. Chúa Giê-su dầu là Thiên Chúa nhưng vẫn sống khiêm tốn vâng lời thánh Giuse và Mẹ Maria.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi mà mỗi thành viên trong gia đình biết từ bỏ ý riêng để sống có trách nhiệm với gia đình. Gia đình sẽ không có khổ đau nếu mỗi người biết sống hy sinh cho gia đình, biết làm việc để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình. Và cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi các gia đình Công Giáo biết đặt ý Chúa trên mọi ý hướng cá nhân để vì Chúa họ sống yêu thương và có trách nhiệm với nhau.

Xin Chúa cho các gia đình luôn được hợp nhất bình an khi họ có Chúa đồng hành và để ý Chúa được thực hiện trên cuộc đời của họ. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Bất an của nhân dân và sợ hãi của nhà cầm quyền

Bất an của nhân dân và sợ hãi của nhà cầm quyền

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-12-25

kinhhoa12252014.mp3

000_Hkg10129402.jpg

Ảnh minh họa chụp tại Sài Gòn hôm 13/12/2014.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Bất an

Vinh danh thiên chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
.

Hai câu cầu chúc trong ngày lễ giáng sinh được Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn trích dẫn, để sau đó dẫn tới sự tán thán về một nỗi buồn của ông trên trang FB:

Viết ra câu thứ hai làm tôi chợt phân vân… Trên trời thì không biết sao, chứ ở dưới đất (dưới trần) thì tôi thấy sao những người thiện tâm, đặc biệt là ở VN, có khi chẳng được bình an.

Mặc dù sự bình an là điều mong muốn của tất cả mọi người, như cây bút Trịnh Khả Nguyên viết trên trang blog Bauxite Việt Nam:

“Bình an dưới thế” là mong ước chung của mọi người. Ai cũng muốn có một cuộc sống an lành, một gia đình hòa thuận, một xã hội công bình, một môi trường trong sạch. Không ai muốn bị bệnh hiểm nghèo, bị hoạn nạn, bị đối xử bất công, bị vu oan giá họa. Ngay những người ít thiện tâm, hay làm điều ác cũng muốn mình, gia đình mình, người thân của mình được an khang thịnh vượng.”

” Bình an dưới thế” là mong ước chung của mọi người. Ai cũng muốn có một cuộc sống an lành, một gia đình hòa thuận, một xã hội công bình, một môi trường trong sạch.
-Trịnh Khả Nguyên”

Những người lo lắng cho sự bất an đang đổ dồn ánh mắt về người tử tù Nguyễn Văn Chưởng mà bản án vốn gây nhiều tranh cãi. Theo bản án này thì ông Chưởng sẽ bị tử hình vào cuối năm nay. Cha mẹ và gia đình ông thì cứ nhất mực kêu oan rằng ông vô tội. Các lời buộc tội, các tang chứng tại tòa đều không mang tính thuyết phục là ông Chưởng đã phạm tội giết người.

Một vụ án tử hình khác cách đây không lâu được dừng lại. Người tử tù Hồ Duy Hải may mắn được công luận chú ý và vụ án bị ngưng để tái điều tra, cũng vì lý do những chứng cứ rất mù mờ, không thuyết phục được rằng ông Hải đã gây án.

Hai nghi án được các blogger bàn đến trong thời gian chưa đầy một tháng làm tăng nỗi bất an trong một xã hội mà nhiều người cho rằng có sự song hành giữa sự mất hiệu quả của nền công lý, và sự gia tăng bạo lực trong xã hội. Người ta vẫn còn nhớ câu chuyện hồi năm ngoái người dân tại một ngôi làng nhỏ bắt giữ năm viên công an vì không hài lòng cái cách mà cơ quan công quyền quản lý địa phương họ. Nhiều người dân bị chết do sự bạo hành của công an, và ngay cả lực lượng công an cũng không khỏi bị đe dọa bởi bạo lực.

Nhà văn Phạm Đình Trọng có nói với chúng tôi trong một lần trao đổi rằng xã hội Việt Nam đang bị đe doạ bởi bạo lực khi người ta đối xử với nhau bằng bạo lực vì người ta không còn tin ở công lý, và một phần quan trọng hơn là cơ quan công quyền hay dùng bạo lực để hành xử. Người ta nói nguyên nhân của điều đó không ở đâu xa lạ mà xuất phát từ nguyên tắc sử dụng bạo lực cách mạng.

Tính bạo lực đó được blogger Cánh Cò nhớ lại trường hợp của nhà văn Nguyễn Quang Lập vừa bị bắt, cũng như trường hợp viên tướng công an tên là Thanh bị đưa ra trước tòa dù đang bị trọng bệnh:

nguyen-quang-lap-b-622.jpg

Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê Choa nổi tiếng.

Người cộng sản rất giỏi nói tiếng nhân đạo nhưng việc làm thì ngược lại hoàn toàn. Khập khiễng như Bọ nhưng vẫn còn đi được thì còn vào tù. Nằm liệt trên cáng như tướng Thanh vẫn bị khiêng ra tòa nghe xử án. Đây là cách chứng tỏ quyền lực tuyệt đối, tuyệt đối đến vô nhân đạo của chế độ vốn đi lên từ bạo loạn.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn thuật lại những điều buồn lòng của ông khi ông là nạn nhân của những bạo lực ngôn từ của những người dân bình thường, đến nổi ông phải trích một câu nói của người xưa rằng Bạc như dân, bất nhân như lính!

Ông Vương Trí Nhàn có lẽ là một trong những cây bút hiếm hoi nói ngược lại cái mỹ từ nhân dân vốn được ngôn ngữ chính thống nâng niu bấy lâu nay. Ông nêu nguyên nhân của việc đó là từ sự suy thoái của chính cơ quan công quyền:

Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư vô. Chúa đã chết rồi! Ai muốn làm gì thì làm! Bởi cảm thấy trên đời này không còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hãn. Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn. Tự cho phép mình hư! Nhìn nhau để yên tâm mà hư! Khuyến khích nhau hư thêm, càng đông người hư càng thích! Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì có thể giữ con người lại nữa.

Quyền lực

Bàn về những người cầm quyền hiện nay, Blogger Cánh Cò viết rằng các vị chức sắc chính quyền hiện nay phát biểu như thánh, nhưng lại rỗng như một chiếc giếng khô. Còn giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thì nhận định về những lời phát biểu gần đây của các quan chức hàng đầu Việt Nam:

Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…’ những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.

Đằng sau những lời nói đó lại đang diễn ra một cuộc đấu đá quyền lực khốc liệt bên trong đảng cầm quyền được mô tả trong bài nhận định tình chính trị mới nhất của blogger Kami. Theo blogger này thì hội nghị trung ương của đảng cộng sản Việt Nam năm nay diễn ra rất muộn màng. Lẽ ra nó đã được tổ chức trước kỳ họp quốc hội để có thể ra những chỉ đạo theo nguyên tắc đảng lãnh đạo. Nhưng nay Quốc hội đã bế mạc phiên họp thường kỳ mà dường như việc họp hội nghị trung ương vẫn chưa ngã ngũ. Trong một lần trao đổi với chúng tôi mới đây, Giáo sư Vũ Tường có nhận định rằng quyền lực trong đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam hiện nay rất chia rẽ với những phe nhóm lợi ích khuynh đảo chính trường và lợi ích của quốc gia.

Sợ hãi

Nhạc sĩ, blogger Tuấn Khanh khi viết về người tử tù Nguyễn Văn Chưởng có đề cập đến một chuyện trớ trêu là ông Chưởng bị giam trong một trại giam mang tên Trần Phú, người Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam. Ông Trần Phú bị thực dân Pháp dùng nhục hình giết chết. Nay Tuấn Khanh thấy rằng giờ đây người Việt lại đang thừa kế những gì mà họ lên án, và những điều đó đã từng được dùng như duyên cớ để lật đổ một chế độ là chế độ thực dân Pháp.

” Không dám đối diện với người dân của mình, chính quyền ngày càng tỏ ra khinh thường người dân của mình, cùng với nỗi sợ hãi hoang tưởng đặc trưng của một kẻ có lỗi với người dân của chính mình.
-Mai Tú Ân”

Giải thích điều trớ trêu đó Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho rằng vì những người cầm quyền sợ sự thật như kẻ gian sợ ánh sáng. Đó cũng là điều mà nhiều blogger cho là nguyên nhân mà ông Nguyễn Quang Lập bị bắt vì ông mong làm người chuyên chở sự thật đến cho người đọc.

Facebooker Mai Tú Ân viết rằng chính nỗi sợ ấy làm cho hố ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị trị ở Việt Nam ngày càng xa cách:

Không dám đối diện với người dân của mình, chính quyền ngày càng tỏ ra khinh thường người dân của mình, cùng với nỗi sợ hãi hoang tưởng đặc trưng của một kẻ có lỗi với người dân của chính mình.

Chính quyền đang tự mở ra cái hố sâu ngăn cách, hay một mặt trận đối nghịch, đối đầu vô lý giữa lòng một quốc gia đang cần sự đoàn kết và hòa giải hơn là sự đối đầu.

Vì đâu nên nỗi

Đi tìm kiếm nguyên nhân của sự bất an của người dân, và sự sợ hãi của nhà cầm quyền, nhà khoa học Tô Văn Trường viết:

Quản trị một quốc gia, thực ra có yếu kém, bê bết thì mới “sợ dân chủ” – người cha trong gia đình khi không còn có thể tương thích với con cái bằng lời thì sẽ dùng roi vọt – khác nào là đã “tự thú” về sự bất lực của mình!

Những nhà lãnh đạo Việt Nam không phải không nói đến những yếu kém của hệ thống điều hành đất nước hiện tại, nhưng họ lại cho rằng chẳng qua là do cán bộ đã không thực hiện được một cách đúng đắn, chủ nghĩa cộng sản, hay những nguyên tắc của Lenin. Giáo sư Tô Văn Trường phản bác điều đó:

Vấn đề không phải là hiểu sai hay không thực hiện đúng chủ nghĩa Lênin mà ở chỗ chọn chủ nghĩa Lênin là sai lầm. Đi theo chủ nghĩa Lênin là từ bỏ Đệ nhị quốc tế, để theo Đệ tam quốc tế, và thực tế là theo chủ nghĩa Lênin-Stalin với những hệ luỵ độc tài, toàn trị tai hại. Mấy thập kỷ qua cho thấy các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo xu hướng Đệ nhị quốc tế tức là trên nền tảng dân chủ như Thụy Điển thì trái lại đều thành công.

Trong bất kỳ một cuộc lột xác thay đổi nào đều không tránh khỏi nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần. Mục tiêu tối thượng phải tránh được đổ máu làm hao tổn hiền tài và nguyên khí quốc gia. Muốn tránh được điều này, phải thay đổi thể chế, đoàn kết dân tộc và thực hiện dân chủ.

Yêu cầu của ông Tô Văn Trường cũng được nhiều trí thức Việt Nam lên tiếng trong thời gian gần đây. Nhưng cũng có những lời đồn đoán rằng chính những đề nghị thay đổi tận gốc đó đã làm đảng cộng sản không hài lòng và kết quả là nhiều nhà những vụ bắt bớ đã xảy ra.

Khi không chấp nhận sự thay đổi thể chế, dường như nhà cầm quyền lại đang loay quay, bế tắc. Một ông Thứ trưởng đương chức lên tiếng với báo giới rằng Chúng ta đi mà không biết đi về đâu!

Trong không khí bất an và dường như bế tắc đó, blogger, nhạc sĩ Tuấn Khanh khuyên mọi người nên hy vọng:

Nhưng tôi và bạn không thể không nói, không thể không hy vọng. Phần nhân tính ít nhất mà bạn có, dù bất lực, là phải ghi nhớ. Ít ra, mai sau chúng ta vẫn có thể đứng dậy và trở thành nhân chứng đáng giá của thời cuộc. Nhân chứng của sự thật dù trãi qua rêu phong. Dù chỉ làm một tiếng chuông cô độc, vẫn hơn là hoà tan mình, thoả hiệp trong đêm tối vô tận không thức tỉnh.

Hy vọng những oan án được cởi bỏ, hy vọng xã hội thoát khỏi sự bất an, hy vọng nhà cầm quyền đừng sợ hãi người dân, hy vọng họ biết con đường phải đi là đâu.

Hy vọng là lời chúc tốt lành đến với mọi thính giả trong mùa Giáng sinh và năm mới.

Kỹ niệm mười năm

Kỹ niệm mười năm

Thư tâm tình của anh Thụ (Mai)

Mười năm về trước, vào ngày 24/12/2004 tại Northern Virginia, tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital.  Hôm đó, tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh.  Lúc tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot.  Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ -36 độ âm nhưng tôi không có áo lạnh.  Kết quả, tôi bị stroke, sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm.  Bố Mẹ và một số người thân đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi.  Một ngày rưỡi sau, là biến cố Tsunami làm đến 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống và từ dạo đó, tôi chiêm niệm sống gần gũi Chúa và Đức Mẹ nhiều hơn.

Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong một buổi sáng Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa,  xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa.  Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng, và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến….bây giờ gần 10 năm rồi.

Xin Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 10 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi…một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.

Xin chúc các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và các Anh Chị một Mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân  Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

Bảo Trọng,

Thụ & Mai

We Wish You a Merry Christmas Song.wmv

w42h.gif

Chỉ có một  thứ hạnh phúc trên đời này, đó là yêu thương và được yêu thương ~ George Sand
Thu & Mai,

Giang Sinh 2014.

THƯ GỞI CHÚA HÀI ĐỒNG

THƯ GỞI CHÚA HÀI ĐỒNG

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

Chúa Hài Đồng yêu quý của con,

Sắp đến Lễ Giáng Sinh rồi đáng lẽ mọi người rộn rã lắm, vui vẻ lắm, háo hức lắm. Thế nhưng năm nay mùa Bình An gần kề mà sao trần gian còn lắm thương đau quá, còn nhiều bất an quá. Khi nào con người mới có bình an đích thật đây hả Chúa?

Chúng con sống bên bờ đại dương được ví von “bao la như biển Thái Bình” nhưng dường như chưa bao giờ bình yên trong giông bão. Tên là Thái Bình mà có được bình yên đâu! Cơn siêu bão Haiyan ngày 9-11 quét qua Philippines như một cơn sóng thần. Hơn 10.000 người có thể đã chết và khoảng 500.000 người trở thành vô gia cư. Nước triều dâng 5-6 m khi bão càn quét  đã biến thành phố Tacloban thành nghĩa địa. Người ta trở nên hung hãn hơn, đi hôi của, cướp phá để tìm thực phẩm. Họ bước đi như những thây ma di động trên những con đường đầy những xác người, tìm kiếm đồ ăn nước uống : “Những người đói khát đang rất giận dữ trong tuyệt vọng”!

Thế nhưng không phải ai cũng hung hãn ích kỷ lo cho bản thân mình trong cơn bão dữ. Vẫn còn hình ảnh rất đẹp của Chúa Hài Đồng nơi cô bé 6 tuổi hy sinh bản thân mình để cho mẹ được sống.

Cô giáo Bernadet Tenegra, 44 tuổi, vẫn còn nhớ mãi những lời cuối cùng của cô con gái 6 tuổi nói với mình: “Mẹ, mẹ hãy buông con ra. Mẹ hãy tự cứu lấy mình.” Lúc ấy cả gia đình cô giáo Tenegra đang túm tụm trong túp lều tại làng Barangay. Khi bão Haiyan đến, nước bất ngờ dâng lên cuốn trôi cả nhà trong đó có người chồng và một đứa con gái khác của cô. Người mẹ kể lại trong nước mắt: “Tôi đã cố gắng giữ lấy con và luôn miệng nói với con rằng hãy bám chặt vào để mẹ kéo con lên. Nhưng con bé đã buông tay và bị những thanh gỗ đâm vào người. Con bé còn nói: “Mẹ, mẹ hãy buông con ra. Mẹ hãy tự cứu lấy mình”.

Giữa những tang thương đổ nát, vẫn có hình ảnh thật đẹp như ánh sao soi chiếu đêm đông giá lạnh tình người phải không Chúa? Niềm tin của con vào con người ngày nay được hâm nóng bởi những con người nghèo khổ hoạn nạn, bởi những em bé biết quên thân mình nghĩ đến người khác chứ không bởi những người lớn, những người giầu có quyền cao chức trọng nhưng dửng dưng vô cảm trước đau khổ của tha nhân.

Con chỉ cho Chúa thấy một hình đẹp nữa của Chúa nè.

Trong khi Việt Nam chào mừng công dân thứ 90 triệu ra đời, thì Bea Joy con gái của cô Sagalis 21 tuổi, chào đời ngày 8-11-13 tại một sân bay đã bị tàn phá và đang được trưng dụng làm trung tâm y tế tạm thời ở Tacloban. Bé được đặt nằm trên một miếng gỗ bẩn thỉu, xung quanh là kính vỡ, mảnh kim loại, rác rưởi chất chồng như xưa Chúa sinh ra trong máng cỏ bò lừa hôi tanh. Thật lạ lùng, trong tình cảnh bi đát như vậy, Bé Bea Joy vẫn chào đời. Một người con được sinh ra.

Người mẹ trẻ nghẹn ngào : “Con bé là phép nhiệm màu Chúa dành cho tôi. Tôi nghĩ mình sẽ chết cùng với đứa con còn ở trong bụng này khi cơn đại hồng thủy ập đến cuốn tất cả chúng tôi đi.”

Người cha là Jobert, ôm chặt đứa con gái bé bỏng mới sinh, mắt đỏ hoe chia sẻ nỗi niềm buồn vui: “Chúng tôi mừng con gái chào đời hôm nay, nhưng chúng tôi cũng tưởng niệm những người đã ra đi. Chính Chúa đã giúp tôi tìm thấy vợ đang trôi giữa biển rác mênh mông, xác người và động vật nằm lẫn lộn!”

Một mầm sống được nẩy sinh giữa hàng chục ngàn xác chết. Sự sống vẫn không bị dập tắt trong đổ vỡ hoang tàn. Quyền năng và lòng thương xót của Chúa vẫn thể hiện trong tình cảnh thất vọng nhất. Chúa vẫn có đó. Chúa vẫn giáng sinh trong những hang Belem tăm tối nhất của cuộc đời chúng con để thắp lên niềm tin cho chúng con.

Chúa ơi,

Con thấy người dân Philippines thật dễ thương. Ngay khi Philippines đón nhận hậu quả thảm khốc của cơn bão mạnh nhất, và dự báo sẽ đánh thẳng vào miền Trung Việt Nam với mức độ tàn phá vô cùng khủng khiếp, con đọc thấy trên trang mạng xã hội những lời cầu nguyện bình an đầy lòng nhân ái của các bạn Philippines : “Cầu nguyện cho các bạn Việt Nam… Chúng tôi là nạn nhân của cơn siêu cuồng phong vừa quét qua Philippines, hãy bảo trọng nhé các bạn Việt Nam”…

Thật đúng như dân ca xứ Nghệ có câu hát : “qua cơn lận đận, mới hiểu tận lòng nhau”. Thánh Faustina cũng cảm nghiệm : “Chính qua đau khổ mới biết ai là bạn thật” Giữa những hoang tàn đổ nát, ngổn ngang xác chết và đói khát rình chờ mà các bạn Philippines còn biết nghĩ đến đất nước sắp hứng chịu đau khổ như mình và dâng lời cầu nguyện. Chính điều ấy làm con thêm niềm tin yêu vào cuộc đời vào con người. Vì thói đời chỉ tìm phò những người đang “thịnh” đang lên, có mấy ai phò người đang “suy” đang xuống. Nhưng chính những con người đang suy sụp ấy mới cần ta vực dậy chứ người đang “thịnh” thì cần ta phò làm gì nữa ? Nếu có chỉ là vụ lợi và cầu danh mà thôi.

Có lẽ chính nhờ những lời nguyện cầu chân thành ấy và Chúa thấy miền Trung vừa gánh chịu mấy cơn bão liên tiếp nên cho bão Haiyan chuyển hướng đi và giảm dần. Tuy nhiên những tỉnh miền Bắc cũng vẫn phải oằn mình gánh cơn bão Haiyan này. Nhiều người chết, mất tích và nhà cửa, tài sản, mùa màng thiệt hại nặng nề. Oái oăm nhất là có 14 người chết và 81 người bị thương không phải do bão mà từ trước khi bão đến vì tai nạn khi leo lên chằng nhà cửa chống bão!

Trong tình hiệp thông “vui với người vui, khóc với người khóc”, ngày 10-11-13, hơn 60.000 người Công Giáo tập trung trước quảng trường thánh Phêrô cùng với ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho những người dân Philippines bị nạn sau siêu bão Haiyan. ĐTC nói : “Thật đáng buồn khi có rất nhiều người dân gặp nạn và thiệt hại rất lớn. Hãy cố giúp họ bằng những hành động thực tiễn”. ĐTC tỏ ra rất đau buồn trước sự tàn phá và những mất mát do siêu bão gây ra và khẳng định ngài luôn ở bên cạnh tất cả người dân bị nạn.

Cầu nguyện và hành động, ĐTC không hô hào xuông, nhưng kêu gọi người tín hữu hãy cố giúp nạn nhân bão lụt bằng những hành động thực tiễn. Chúa không ở tít trên trời cao nhỏ lệ xót thương con người đang trầm luân trong bể khổ, nhưng đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…” (Pl 2,7). Thử hỏi sự đóng góp cho những nạn nhân thiên tai bão lụt của chúng con được bao nhiêu? Có sánh bằng với việc quyên góp xây cất các cơ sở tôn giáo không? Phải chăng vì không có bằng ân nhân hay không được rao tên trong công việc từ thiện này nên sự đóng góp còn rất khiêm tốn?

Chính vì thế mà trong hội nghị thường niên các Bề Trên Thượng Cấp (từ ngày 05 đến 07-11-2013), Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Phó Tổng Giám Mục GP Sài Gòn, nhấn mạnh : “Giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thiết lập, xuất thân từ những nguời nghèo, bao gồm phần lớn là những người nghèo, thì trong Giáo hội, người nghèo phải có chỗ đứng, có tiếng nói. Người nghèo không thể mãi là những người thấp cổ bé miệng. Nghèo vật chất, nghèo văn hóa, nghèo tâm linh, nghèo giá trị, những người bị khinh thường, bị ức hiếp, những người tật bệnh đói khổ, người già yếu cô đơn. Giáo hội phải lưu tâm nhiều hơn đến những hạng người này, chăm sóc đặc biệt hơn, đồng hành với họ, chia sẻ nếp sống của họ, chia sẻ của cải cho họ, trợ giúp thực tế khi họ cần. Những hệ luận thực tế là: nếp sống khó nghèo của các thành viên có ơn gọi đặc biệt như giáo sĩ và tu sĩ, các giáo phận và giáo xứ, các Dòng Tu, “bớt xây dựng các cơ sở có quy mô quá lớn và tốn kém quá nhiều”.

Chúa Hài Đồng ơi,

Chúa còn kiên nhẫn để nghe con nói chuyện thế gian nữa không?

Hết chuyện “thiên tai” đến chuyện “nhân tai”. Những tai hại về vật chất lẫn tinh thần do con người gây ra cũng nặng nề chẳng kém gì động đất sóng thần. Dư chấn của những “nhân tai” đó là sự sói mòn lòng tin nơi con người. Nhìn đâu cũng thấy giả hình, giả tạo, giả nhân, giả nghĩa, nên rốt cuộc chúng con chẳng còn biết tin vào ai nữa.

Mỗi ngày Chúa có theo dõi báo chí và thời sự trên tivi không? Con nghĩ là Chúa phải đọc phải coi để biết tình hình trong và ngoài nước. Không những thế, Chúa còn bỏ trời cao nhập thể làm người để chia sẻ thân phận con người của chúng con. Chúa hiểu con người hơn cả chúng con hiểu mình nữa. Chúa thấy rõ tấm lòng con người chúng con “sớm nắng chiều mưa”, thay đổi như chong chóng, ấy vậy mà Chúa vẫn tin tưởng con người, yêu thương con người. Thế nhưng chính con người lại không tin tưởng nhau, không chấp nhận nhau, nghi ngờ nhau và loại trừ nhau.

“Chúng ta thấy rằng ở đâu đó đã có khủng hoảng niềm tin trong thế hệ trẻ” Phó chủ nhiệm Ủy Ban Tư Pháp Nguyễn Đình Quyền phát biểu trước Quốc hội ngày 7-11-13, và cho rằng đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và bất ổn xã hội.

Đại biểu Nguyễn Bắc Việt còn nhấn mạnh hơn : “Khủng hoảng kinh tế sẽ vượt qua được nếu niềm tin vẫn còn, nhưng nếu để mất niềm tin là mất hết”

Phó chủ tịch quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn thêm vào mảng tối đó : “Tin sao được và làm sao tránh khỏi khủng hoảng lòng tin, khi cử tri nói rằng đi khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế thì bị chích đau hơn nếu không có tiền!”

Chúa ơi, thật là đau lòng “Khi y đức không còn thì nói gì đến chữa bệnh” phó chủ tịch UB Văn Hóa Giáo Dục Lê Như Tiến bình luận về vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, giám đốc thẩm mỹ viện Cát Tường ở Hà Nội, mang thi thể nạn nhân là chị Lê Thị Thanh Huyền chết tại thẩm mỹ viện của mình đến cầu Thanh Trì ném xác xuống sông Hồng để phi tang.

Về mặt giáo dục cũng chẳng hơn gì : “Một nền giáo dục với chất lượng thấp đã khiến bao nhiêu bậc phụ huynh phải ráng kiếm tiền cho con em đi nước ngòai học – tình trạng mà không ít người đã chua xót gọi là “tỵ nạn giáo dục”.

Đại biểu Trần Du Lịch khi thấy một nền kinh tế trồi sụt với những chính sách luôn bị thay đổi nên đã đề nghị quốc hội phải làm sao đó “để doanh nghiệp có niềm tin vào thị trường”.

Bước qua lãnh vực tôn giáo, niềm tin của người dân cũng bị lung lay khi  thấy nhiều người đến khu phố 2, phường Bình Đa, TP Biên Hòa thuê nhà trọ, rồi giả dạng nhà sư đi bán nhang. Khoác lên người chiếc áo thầy tu mầu nâu, cộng với tài khua môi múa mép, họ đã thuyết phục nhiều người mua nhang giá chừng 5000 ngàn đồng thành 30000 ngàn đồng. Các cơ quan chức năng biết mà chẳng làm gì được (Tuổi Trẻ 21-10-13).

Những người lừa đảo còn trục lợi cả trên những người đã khuất nữa. Ngày 28-10-13, công an tỉnh Quảng Trị đã bắt “Cậu Thủy” tự xưng là “nhà ngoại cảm” vì tội làm giả hài cốt, di vật, nơi chôn cất liệt sĩ để lừa đảo tiền của thân nhân liệt sĩ.

Cán cân công lý cũng bị sai lệch. Bao nhiêu người bị kết án oan ức. Biết tìm lẽ công bằng ở đâu? Ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, người bị án oan chung thân, phải thụ án đến 10 năm mới được trả tự do ngày 4-11-2013 nhờ nghi can vụ giết người là Lý Nguyên Chung ra đầu thú. Ông đã kể câu chuyện oan trái tù tội của mình bắt nguồn từ những lời khai bị ép cung, bức cung nhục hình trong thời gian ông bị giam giữ : “Họ làm mọi cách để tôi phải nhận tội”.

Trong lãnh vực ngoại giao giữa các nước cũng chỉ “bằng mặt mà chưa bằng lòng”. Các cường quốc trên thế giới vẫn đâu có tin tưởng nhau hòan toàn, vẫn đặt máy nghe lén tin tức của nhau. Trong cuộc tiếp kiến hơn hai giờ với ông John Kerry ngoại trưởng Mỹ vào tháng 11-2013, vua Abdullah người đứng đầu hoàng gia Saudi Arabia thẳng thắn nói : “Mối quan hệ thật sự giữa bạn bè là dựa trên sự chân thành, thành thật và thẳng thắn, hơn là chỉ bằng những hành động xã giao…”

Thánh Faustina viết : “Tôi rất ngạc nhiên vì sao người ta có thể ganh tỵ đến thế. Khi thấy điều lành của ai, tôi vui mừng như điều lành của chính mình. Niềm vui của người khác là niềm vui của tôi, và đau khổ của tha nhân cũng là khổ đau của tôi, nếu không làm sao tôi dám kết nghĩa thân tình với Chúa Giêsu. Tinh thần của Chúa Giêsu luôn luôn là đơn sơ, hiền lành, chân thành; mọi xấu xa ghen tỵ, và gian tà đội lốt nụ cười thân thiện chỉ là những con quỷ nhỏ ranh mãnh mà thôi…” (NK, 633)

Chúa Hài Đồng quý mến,

Chúng con vừa cử hành nghi lễ bế mạc Năm Đức Tin rất hoành tráng. Năm Đức Tin khép lại không có nghĩa là đức tin của chúng con đã “ngon rồi”, không cần phải quan tâm đến nữa, để đó đi làm chuyện khác. Đức tin không phải là phong trào nổi lên rầm rộ với đầy đủ nghi lễ, diễn văn, báo cáo thành tích, quay phim chụp ảnh đưa lên trang web, rồi sau đó “Amen, tắt đèn đi ngủ”, chuẩn bị cho chủ đề của năm kế tiếp. Nếu làm như thế thì rõ ràng trong việc đạo, chúng con cũng chỉ chạy theo phong trào như ở ngoài đời.

Trong bài thời sự và suy gẫm “Phong Trào Đừng Nên Làm Ào” đăng trên báo Tuổi Trẻ (30-7-13), Phạm Xuân Nguyên nhận xét : “Có những phong trào chỉ nặng tính hình thức, khoa trương, phát động mà không thực hiện, thực hiện mà không hiệu quả, hiệu quả mà không tương xứng tầm vóc, ý nghĩa phong trào. Bây giờ ở ta dễ có bệnh phong trào. Làm một việc gì cũng gọi là phát động phong trào, cũng ra quân, cũng trống gióng cờ mở, báo đài quay hình đưa tin, làm ào ạt. Nhưng rồi sau một thời gian phong trào xẹp xuống, việc đâu vẫn hoàn đấy, như các phong trào “đường thông hè thoáng”, an toàn giao thông, thực là như dân gian nói “bắt cóc bỏ dĩa”, đường vẫn tắc, lề đường vẫn bị chiếm dụng, xe cộ đi lại vẫn mất an toàn, luật giao thông vẫn bị vi phạm. Lại có những phong trào hô hào đông người chỉ để làm những việc hình thức, không đáng phải tốn sức như vậy, như đem 1000 thanh niên ra thi công 700m đường giao thông nông thôn ở xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội…người đứng chen chúc, cựa quậy đã khó nói chi đến việc vận chuyển vật liệu. Nhìn cảnh đó thì thấy thật là phô trương, hình thức, không cần thiết…Vậy xin có câu vè thế này : phong trào đừng nên làm ào. Cốt là hiệu quả chớ hao sức người.”

Chúa thấy nhà báo đó nhận xét sâu sắc đó chứ : “phong trào đừng nên làm ào”. Mỗi năm Giáo hội đưa ra một chủ đề để những người tín hữu sống và làm việc chứ không phải là xướng lên dấy lên một phong trào cho có tụ! Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Mà một trong những điểm rất quan trọng của việc thực hành đức tin chính là cầu nguyện.

Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ ngày 17-10-2013 tại nhà nguyện Thánh Mácta đã giải thích : “Khi không cầu nguyện là bạn luôn luôn đóng cửa. Chìa khóa mở cửa đức tin chính là việc cầu nguyện. Một Kitô hữu không cầu nguyện biểu hiệu cho một chứng nhân “kiêu ngạo, cao kỳ, tự tin nơi mình. Người này không khiêm tốn và chỉ tìm cách tự đề cao mình mà thôi.”

ĐTC lưu ý những ai “không cầu nguyện, thì bỏ rơi đức tin và biến đổi đức tin thành một ý thức hệ có tính cách luân lý và không có Chúa Giêsu…Sự hiểu biết Chúa Giêsu đã biến thành một kiến thức về một ý thức hệ có tính cách luân lý, và khép kín tất cả các cánh cửa…”

Đức tin được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện phải thúc đẩy người tín hữa mở toang các cánh cửa. Cửa lòng và cửa nhà thờ. Mặc dù chúng con viện lý do an ninh hay bất tiện để chỉ mở cửa có giờ giấc, nhưng ĐTC nhắc nhở “Một nhà thờ đóng cửa không thể chấp nhận được”, vì “mọi người đi ngang không thể bước vào” và “Chúa Kitô đang ngự bên trong, không thể bước ra ngoài.”

Nếu đức tin của con không thể hiện bằng hành động thì con cũng nhốt Chúa ở bên trong rồi. Không ai tin tưởng con. Không ai có thể bước qua cánh cửa lòng con để tương giao cảm thông chia sẻ. Con cũng chẳng muốn mở lòng để đến với ai vì con chẳng tin ai. Con khép kín tất cả các cánh cửa. Con là một hang đá Belem lạnh lùng quanh năm mùa đông tuyết phủ băng giá.

Hơn hai ngàn năm trước Chúa giáng sinh trong hang đá Bêlem đâu có cánh cửa hay hàng rào bảo vệ nào đâu. Ai muốn đến với Chúa cũng được. Chính vì thế mà những chú mục đồng khố rách áo ôm mới có cơ hội được đến kính viếng Chúa trong Đêm Cực Thánh đó. Nếu như bây giờ thì làm gì có cửa, phải không Chúa?

Để Năm Đức Tin không là một phong trào “chợt đến chợt đi”, trong ngày Thánh Mẫu 13/10/2013, ĐTC mời gọi con tự vấn : “Tôi là một Kitô hữu cầm chừng (a Christian by fits and starts), hay là một Kitô hữu toàn thời (a Christain full time) ?”

Quả thật như ĐTC nhận xét thứ văn hóa phù du đang chi phối đến cách thức sống đức tin của chúng con. Chúa đòi chúng con phải trung thành với Chúa. Cho dù đôi khi chúng con có bất trung bất tín thì Chúa vẫn trung thành với chúng con. Ngay cả những lúc yếu đuối, sa ngã phạm tội, Chúa luôn nâng đỡ, khuyến khích chúng con trở lại mà nói về nỗi yếu hèn của chúng con để Chúa ban sức mạnh cho chúng con đi hết cuộc hành trình. Chỉ cần chúng con tín thác vào Chúa.

Nếu là phong trào thì con chỉ cho Chúa “giáng thế” trong đêm Noel thôi, còn những ngày khác con cho Chúa “xuất thế”. Con mời Chúa đi chỗ khác chơi hay cứ nằm yên trong hang đá Bêlem để con muốn làm gì thì làm theo ý con cho thoải mái. Rồi mỗi năm con sẽ cho Chúa “xuống thế” một lần với hang đá ngôi sao lấp lánh bên tiệc tùng linh đình. Mỗi năm con đến bái thờ Chúa một lần như vậy là “phải đạo” rồi!

Cách hiểu và sống thứ văn hóa phù du ấy đã được ĐTC chấn chỉnh trong bài giáo lý 12/10/2013 tại quảng trường Thánh Phêrô. Việc nhập thể của Chúa Giêsu không phải là một biến cố của quá khứ để kỷ niệm không có liên hệ gì tới bản thân của chúng con. Việc tin tưởng vào Chúa Giêsu chính là việc con cống hiến cho Chúa xác thịt của con để nhờ đó Chúa có thể tiếp tục ngự giữa chúng con. Sống mầu nhiệm nhập thể là cống hiến cho Chúa đôi tay để chăm sóc những người nghèo hèn đói  khổ; đôi chân để bước đến gặp gỡ tha nhân; đôi tay để ôm ấp thành phần hèn yếu và làm việc trong vườn nho của Chúa; trí óc để suy tư và sống theo ánh sáng Tin Mừng; và nhất là cống hiến trái tim của con để yêu thương và chọn lựa theo ý muốn của Thiên Chúa.

Chúa ơi,

Con mong có ngày được như chị Thánh Faustina cảm nghiệm mầu nhiệm nhập thể là như thế nào. “Trong giờ thánh, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Vẻ oai nghi của Người xuyên thấu đến độ tôi phải thưa lên : ‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa còn quá bé nhỏ, nhưng con biết Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Thiên Chúa của con!’ Chúa Giêsu đáp lại : ‘Cha đúng là như vậy, và Cha vẫn đồng hành bên con như một con trẻ, cốt để dạy con bài học khiêm nhường và đơn sơ’.” (NK, 184)

Khép lại năm Đức Tin, thư Chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa ngày 10 tháng 10 năm 2013 đề cập đến nỗ lực “Tân Phúc-Âm-hóa” trong ba năm kế tiếp :

Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa đòi hỏi duyệt lại toàn bộ các sinh hoạt mục vụ ở tất cả mọi bình diện, nghĩa là phải thực hiện cuộc hoán cải từ trong tâm thức đến định hướng và phương pháp khi làm mục vụ” (số 4)

Con rất tâm đắc khi Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc triển khai việc “Tân Phúc-Âm-hóa” một cách rất cụ thể, thẳng thắn, với các Bề Trên Thượng Cấp trong hội nghị thường niên tháng 11-2013:

“Giáo hội tại Việt Nam trong thời hiện đại, chưa chu toàn đầy đủ sứ vụ loan báo Tin mừng. Có những cố gắng còn rời rạc, chưa được nối kết và hướng dẫn. Cần phải có một sự “chuyển mình thật mạnh dạn”, thật can đảm. Chuyển từ một loại “mục vụ bảo trì” (pastorale de maintien), gìn giữ và bảo vệ cơ chế, cơ sở, sang một “mục vụ truyền giáo” đích thực (pastorale missionnaire).

“Giáo hội là Giáo hội cho tất cả những ai cần “ơn cứu rỗi”, mà mọi người đều cần, dù ý thức hay không: những người chưa là Kitô hữu cũng như những người đang là. Chính vì thế mà có việc Phúc-Âm-hóa và việc Tân Phúc-Âm-hóa. Cần có một nhiệt tình mới, một phương pháp hay đường hướng mới, một cách diễn đạt mới trong việc loan báo Tin mừng. Cần phải Phúc-Âm-hóa mọi lãnh vực; những nơi nào chưa có đầy đủ ánh sáng, phải có ánh sáng (Ánh sáng Chúa Kitô), như những “vùng ven”, hiểu theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng; mọi “ngóc ngách của hữu thể”, mọi bình diện của cuộc sống.

“Mục vụ của Giáo hội phải là mục vụ của tình thương dịu dàng (pastorale de la tendresse), làm chứng cho sự dịu dàng của Thiên Chúa, một cách đặc biệt đối với các tội nhân. Cần đề cao và thi thành “mục vụ của lòng thương xót của Thiên Chúa (pastorale de la miséricorde). Mọi thành phần Dân Chúa, nhất là các mục tử, cần phải là những “Đấng an ủi khác” (alter Paraclitus): Hãy ủi an Dân Chúa và mọi người. Hãy mang niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người.

“Cần mạnh dạn triệt để canh tân nếp sống và cách làm việc của mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là của các thừa tác viên trong Hội thánh; cần chú trọng tới chất lượng của việc đào tạo nhiều hơn là số lượng. Phải củng cố và tăng cường “đời sống cầu nguyện” nơi mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là nơi các giáo sĩ và tu sĩ, vì ngày nay ảnh hưởng xấu của khuynh hướng “duy thế tục” quá nặng nề, ngay cả trong tu viện, chủng viện, trong đời sống gia đình cũng như giáo xứ.

“Quan trọng hơn cả vẫn là sự cần thiết phải có gương sáng trong lòng Hội thánh, nhất là gương sáng của các mục tử, các nhà đào tạo, các bề trên trong cộng đoàn, các phụ huynh trong gia đình.”

Gương sáng ấy chính là muối cho đời.

Trong bài giảng sáng ngày 23-5-13 tại nguyện đường Thánh Marta, ĐTC Phanxicô mời gọi các Kitô hữu hãy là “muối cho đời“. Đời người Kitô hữu phải là một cuộc sống sinh động với ‘hương vị‘ phản ánh đức tin, đức cậy, đức mến. Kitô hữu đừng trở thành những vật trưng bày trong bảo tàng viện :

“Căn tính Kitô không thuần nhất, nhưng thể hiện trên mỗi người chúng ta tùy theo cá tính, đặc điểm và văn hóa riêng của mỗi người. Ta cần bảo vệ căn tính Kitô vì đó là một kho tàng quý báu. Tuy nhiên, căn tính này còn mang đến thêm cho mỗi người một điều nữa: đó chính là hương vị!

“Đặc tính Kitô giáo mà chúng ta có được thật tuyệt đẹp. Nếu anh chị em tìm kiếm sự thuần nhất, và mọi người trở thành ‘muối’ trong cùng một cách thức, thì mọi thứ sẽ giống như người nội trợ nấu nướng nêm quá nhiều muối, người ta chỉ nếm được vị mặn của muối thay vì thưởng thức bữa ăn.

“Đặc tính Kitô giáo chính là: mỗi người là chính mình, với những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban tặng.

“’Muối cho đời này phải được chia sẻ với tha nhân. Nếu chúng ta cất giữ, nó sẽ trở nên nhạt nhẽo và ẩm ướt.”

Vâng, cảm ơn Chúa Hài Đồng,

Con phải là chính con, với hương vị riêng của con, với đặc sủng Chúa ban cho con, và con sẽ đem những ân huệ ấy chia sẻ với mọi người cho cuộc đời thêm đậm đà, cho tình người thêm nồng ấm và cho lòng tin còn mãi trên trái đất này.

Trong đêm Giáng Sinh, các Thiên Thần hát vang lời chúc;

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người Chúa thương”

Chúa yêu thương tất cả mọi người, không loại trừ ai. Chúa muốn ban bình an cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.

Tuy nhiên chỉ khi nào con có từ tâm, thiện tâm, thành tâm thì con mới lãnh nhận được bình an từ trời cao.

Khi lòng con đầy ác tâm, tà tâm, tà ý thì chính con khép tất cả các cánh cửa lại, làm sao nhận được bình an.

“Bình an dưới thế cho người thiện tâm…”

15 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

15 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

Lm. Trần Đức Anh OP

12/23/2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giáo Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.

7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh ‘ngồi lê đôi mách’, lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

13. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

14. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

15. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ – một điều mà LM này bịa đặt – về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

Ước mơ đêm Giáng Sinh

Ước mơ đêm Giáng Sinh

Chuacuuthe.com

VRNs (24.12.2014) – Đồng Nai – Con người luôn có những hoài bão và ước mơ. Hoài bão về quá khứ huy hoàng. Ước mơ về tương lai tương sáng. Chính những hoài bão, ước mơ ấy đã thúc đẩy con người dấn thân để xây dựng một thế giới an bình, thịnh vượng hơn. Cho dù phải đương đầu với thách đố và hiểm nguy.

Ngày 28/8/1963, mục sư Martin Luther King đã phát biểu bài diễn văn hay nhất thế kỷ với tựa đề: “Tôi có một giấc mơ”. Ông đã nói với hơn 200.000 người, trước đài tưởng niệm Lincohn. Ông kêu gọi thực hiện sự bình đẳng giữa những người khác màu da và chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc. Nhân đó, ông đã nói về những ước mơ của mình, cũng là ước mơ của nhiều người Mỹ:

141223004

Ông nói:

Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày, trên những ngọn đồi vùng Georgia, con cái của nô lệ và chủ nô cũ có thể ngồi với nhau như anh em.

Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày bốn người con của tôi sẽ  được sống trong một đất nước, nơi chúng sẽ không bị đối xử bằng màu da mà bằng chính thực chất con người chúng.

Diễn văn đầy nhiệt huyết của ông đã gióng lên hồi chuông, hiệu triệu và cổ vũ nhân loại đứng lên chống lại việc đối xử bất công, tàn nhẫn đối với một lớp người, vốn đã ăn sâu, bám rễ trong lòng xã hội Mỹ.

Ước mơ của ông dường như đã thành hiện thực khi mà Nước Mỹ đã bỏ phân biệt màu da. Người da đen có thể làm chính trị và thậm chí đã giữ chức vụ to lớn nhất Nước Mỹ là đương kim tổng thống Obama.

Vâng, ước mơ hòa bình, ước mơ được đối xử bình đẳng vẫn là ước mơ của con người qua mọi thời đại. Ước mơ không chỉ là một tương lai chưa đến mà là một hoài bão của con người mong được hưởng những quyền lợi mà tạo hóa ngay từ lúc tạo dựng đã ban tặng. Thiên Chúa tạo dựng ban đầu mọi sự đều tốt đẹp. Vạn vật và con người là khúc nhạc  hài hòa. Con người tràn ngập hạnh phúc trong vườn địa đàng. Thế nhưng, mọi sự đã trở thành hoài bão khi mà con người quay lưng lại với Đấng tạo hóa. Con người theo ma quỷ để từ chối quyền tối thượng của tạo hóa. Hậu quả là con người sinh ra phải đau khổ và phải chết. Tệ hại hơn nữa là vạn vật đứng lên chống lại con người.

Ước mơ được sống lại giây phút ban đầu nơi vườn địa đàng đã đi vào trong lòng người qua muôn thế hệ. Con người vẫn khao khát. Con người vẫn chờ mong được sống những giây phút bình yên hoan lạc của vườn địa đàng. Lời cầu nguyện trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời dường như là một khắc khoải khôn nguôi của con người mong đến ngày trời đất giao hòa, vạn vật và con người cùng chung niềm vui vì có Thiên Chúa hiện diện giữa con người.

Hôm nay chúng ta tưng bừng mừng kỷ niệm việc Con Thiên Chúa xuống trần. Thiên Chúa đã đến trần gian để thực hiện ước mơ hoài bão cho con người, để giao hòa trời với đất,  để trao lại cho con người  quyền làm con Thiên Chúa. Từ nay Thiên Chúa không xa cách biệt con người. Từ nay Thiên Chúa chọn chốn dương gian làm ngôi nhà của mình. Thiên Chúa ở giữa nhân loại để những ai đón nhận Người thì Ngài sẽ ban cho họ ngập tràn ánh sáng của niềm vui và hạnh phúc. Bình an và hoan lạc sẽ ngự trị nơi tâm hồn những ai thành tâm thiện chí đi tìm Ngài.

Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Đây là niềm vui, niềm hạnh phúc vì nhờ cuộc viếng thăm này mà thân phận con người được đổi thay. Từ nay Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Đồng thời, khi con người chấp nhận mở lòng cho Thiên Chúa viếng thăm cũng là lúc mời gọi con người dũ bỏ bỏ thói đời tội lỗi để mặc lấy con người mới trong ân sủng của Chúa. Đó là cách chúng ta có bình an tâm hồn. Bình an là điều ai cũng khao khát chờ mong. Nhưng bình an không ở xa mà ở tại lòng người thiện chí, biết thành tâm thiện chí theo đường thiện, biết tìm kiếm Chúa là cứu cánh đời mình.

Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.

Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.

Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền