ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 1: Về đặc trưng thứ nhất và đặc trưng thứ hai

Trần Quí Cao

Ông Trần Quí Cao hứa với chúng tôi sẽ tập trung công sức viết một hệ thống gồm 4 bài xoay quanh chủ đề “đánh giá lại một cách tổng thể thành quả đạt được sau 39 năm Việt Nam xây dựng cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội”. Nay cả 4 bài đã hoàn tất, ông gửi đến trang BVN. Xin được lần lượt đăng lên, mỗi ngày một bài, để bạn đọc rộng rãi tham khảo.

Bauxite Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam hạ quyết tâm tiến hành việc xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam dù phải trả bất cứ giá nào và dù chưa một lần trưng cầu dân ý để biết lòng dân có thuận hay không. Ngày 14/1/2011 ông Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, có bài tham luận cho rằng (1):

a. Xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về Chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

b. Xã hội đó có 8 đặc trưng thể hiện tính ưu việt của nó. Tám đặc trưng đó là:

1. Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ.

3. Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

4. Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

6. Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

7. Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

8. Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Từ sau năm 1975, khi toàn thể đất nước thu về một mối và toàn dân tộc Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo của đảng duy nhất của nước Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam (thực ra trước khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam cũng có 2 đảng làm kiểng là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội, tuy nhiên quyền lãnh đạo cũng hoàn toàn trong tay Đảng Cộng sản), cho đến nay đã hơn 39 năm, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại xem Việt Nam đã đạt được những thành quả nào trong tám đặc trưng nói trên. Trong bài này chúng ta sẽ xét đặc trưng thứ nhất, và chỉ đánh giá thành quả chứ chưa thảo luận nguyên nhân của các thành quả đó.

Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Dân giàu:

Năm 2012, tính trong các nước ASEAN, GDP/đầu người của Việt Nam nằm ở vị trí thứ 7 theo thứ tự như sau (2):

Brunei, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonexia, Philippines, Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia.

Trong đó, GDP/đầu người của Việt Nam xấp xỉ bằng 1/7 của Mã Lai, bằng 1/4 của Thái Lan, bằng 1/2,5 Indonesia, bằng 1/15 của Hàn Quốc, và 1/30 của Nhật.

Vậy, Việt Nam có giàu không?

Nước mạnh:

Bàn về nước Mạnh hay Yếu, ta cần xét trên hai mặt:

1. Thứ nhất, mạnh là bảo vệ được chủ quyền, được tính tự chủ của quốc gia đối với kẻ đang muốn xâm chiếm đất nước. Luxembourg không có nguy cơ bị xâm lấn nên Luxembourg không cần mạnh. Với Luxembourg, chỉ cần giàu là mạnh. Với Việt Nam thì khác, mạnh có nghĩa là Trung Hoa không dám lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam dù đó là đất liền hay hải đảo.

2. Thứ hai, mạnh ở đây nên hiểu theo nghĩa tổng hợp, nghĩa là mạnh trên nhiều mặt: quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị, nội trị… Sức mạnh tổng hợp của các mặt đủ khiến kẻ có dã tâm không dám lấn chiếm hay can thiệp vào chủ quyền của ta.

Ngoại giao: Việt Nam giao thiệp rộng, nhưng yếu vì không có bạn sống chết, nghĩa là không có đồng minh chí cốt, không là Đối tác chiến lược, không có Hiệp ước Phòng thủ chung với một đại cường quốc nào. Khi Trung Hoa tiến công lãnh thổ đất liền Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Khi Trung Hoa tiến chiếm biển đảo Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Chỉ khi Trung Hoa lộ rõ ý đồ độc chiếm biển Đông thì thế giới mới phản đối, nhưng để bảo vệ tự do hàng hải, chứ không phải vì Việt Nam là đồng minh chí cốt của họ. Về mặt này, so sánh Việt Nam với Nhật hay với Philippines, Hàn Quốc, ta thấy rõ rằng Việt Nam rất yếu ớt vì cô đơn ngoại giao.

Kinh tế: Việt Nam nằm ở vị trí thấp về thứ bậc kinh tế tính theo tổng hợp (composite) hay tính theo từng tiêu chí khác nhau. Hệ số ICOR là một trong các ví dụ rõ nét. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng và độ lớn của nợ công là những thí dụ khác. Nền kinh tế của VN càng yếu ớt hơn vì tính mất cân bằng và, do đó, tính lệ thuộc của nó. Sự lệ thuộc này, tai hại thay, lại là lệ thuộc Trung Hoa, nước ngàn năm nay luôn muốn chiếm nước ta, và hiện đang bộc lộ rõ ý đồ không chế Việt Nam!

Chính trị: Sự đoàn kết toàn dân làm nên sức mạnh của quốc gia, nhất là một quốc gia bên cạnh Trung Quốc to lớn và luôn mang ý đồ bành trướng. Chính thể độc tài và toàn trị đã phá hỏng nền tảng sức mạnh này của Việt Nam vì nó liên tục khiến lòng dân bất an và bất mãn. Do đó, nội trị tất phải dựa trên công an trị. Dưới bề mặt có vẻ như ổn định, xung đột sâu sắc giữa giới cầm quyền và dân chúng luôn trong trạng thái âm ỉ và có nguy cơ bùng phát. Sinh lực của dân tộc thay vì dành cho phát triển và bảo vệ tự chủ của quốc gia, lại bị dốc vào đàn áp và trấn áp. Sự hao tổn sinh lực này có thể so sánh với một cuộc nội chiến giới hạn cho dù chưa xảy ra chiến tranh giữa các thành phần dân tộc.

Một đất nước có nền ngoại giao cô đơn, kinh tế lệ thuộc, chính trị không phù hợp, nội trị bất an và tiềm ẩn nội loạn, thì vũ khí hiện đại nào có thể giúp chống ngoại xâm và giữ chủ quyền? Huống chi, sức mạnh kho vũ khí ta đang có cũng rất giới hạn so với kho vũ khí của nước đang uy hiếp chúng ta! Vậy thì, đối diện với Trung Hoa, nước duy nhất trên thế giới có ý đồ và khả năng xâm lược Việt Nam, Việt Nam chẳng những không mạnh mà còn rất YẾU so với họ.

Dân chủ: Một nước mà người dân không có quyền tự do ứng cử, bầu cử, không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không có quyền tự do lập hội, lập đảng, một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, không có Tam quyền phân Lập, nước đó có làm gì có Dân Chủ!

Bình đẳng: Một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, và danh sách ứng cử viên vào Quốc hội phải được đưa ra bởi đảng độc tài đó, người dân trong nước có bình đẳng trong việc tiếp cận quyền lực không? Một nước mà, trong thực tế, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể bị đưa ra tòa án (ngoại trừ khi đảng viên đó đã bị khai trừ khỏi đảng), thì dân chúng có bình đẳng trước pháp luật không?

Công bằng: Chính thể độc tài và toàn trị khiến quốc gia suy thoái mọi mặt, tầng lớp cầm quyền tham nhũng “không thứ gì không ăn” tạo thành một “bầy sâu tham nhũng lúc nhúc”, họ nắm hàng tỉ đô la trong một đất nước mà mức thu nhập trung bình trên đầu người khoảng hai ngàn đô la/năm. Đất nước có công bằng không? Một nước mà các cơ quan chính quyền cấp bộ nắm các tổng công ty hay công ty rất lớn, hoạt động kinh doanh trong nhiều lãnh vực kinh tế không liên quan hay liên quan rất ít với các lãnh vực then chốt về an ninh, quốc phòng… dân chúng trong nước có được tiếp cận nguồn lực phát triển của Tổ quốc một cách công bằng không?

Một nước không giàu mạnh, không dân chủ, không bình đẳng, không công bằng, nước đó không thể gọi là văn minh!?

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt một tiêu chí nào trong 5 tiêu chí của đặc trưng thứ nhất là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

T.Q.C.

(còn tiếp)

Tài liệu tham khảo

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, tham luận tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng. (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. List of ASEAN countries by GDP (nominal). http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_ASEAN_countries_by_GDP_(nominal)

3. Wikipedia. Dân chủ. http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2014/11/26/3124-danh-gia-thanh-qua-dat-duoc-sau-39-nam-xay-dung-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-bai-1-va-bai-2/

Thiên nhiên đã nổi giận?

Thiên nhiên đã nổi giận?

RFA

Đất lở, đá chuồi, lũ quét, động đất, mưa đá, bão tố quăng quật… Hàng loạt thiên tai xuất hiện dày đặc và cuồng bạo ở khắp ba miền đất nước trong vài năm trở lại đây đã làm cho đời sống vốn nghèo khổ của đa phần người dân lại càng thêm khó khăn, ngột ngạt.

Thú rừng xuất hiện ngày càng nhiều ở đồng bằng sau mỗi trận lụt, và con người sau cái đói của ngày mưa tháng lũ lại hè nhau đi tìm thú để săn lùng, không có ngóc ngách nào là con người bỏ qua, từ đào đất tìm hang cho đến đặt bẫy, săn bắn, châm điện, ném thuốc nổ… Không có thủ đoạn nào là con người không dùng đến.

Khi con người càng điên cuồng với thiên nhiên, cái giá phải trả là thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ bằng thiên tai, dịch hoạ, hiện tượng lạ bất lợi cho đời sống con người và hàng loạt những tai ương như một ẩn số luôn phục kích loài người.

Một tháng nay, hầu như cả miền Trung náo động vì chuyện rắn lục đuôi đỏ xuất hiện ngày thêm nhiều và số người bị loài rắn này cắn ngày càng gia tăng. Báo chí trong nước đã đồng loạt đưa tin về chuyện này. Có nhiều cách đặt vấn đề khác nhau, trong đó có người nghi ngại “nước lạ“ đã lén lút thả loài rắn này để cắn người Việt Nam, cũng có nhiều người lại nghiêng về giả thuyết thiên nhiên đã nổi giận.

Ở hướng giả thuyết thiên nhiên nổi giận, người ta nói về sự mất cân bằng sinh thái, sự mất đi số lượng quá lớn của cầy, cáo, chuột… Đã làm ảnh hưởng nặng nề đến nguồn thức ăn cũng như loài khắc tinh của rắn lục đôi đỏ, khiến nó trở nên hung dữ và tìm xuống đồng bằng để tìm thức ăn…

Nhưng trong giả thuyết này không đặt câu hỏi: Loài rắn này vốn dĩ không quen với môi trường đồng bằng, chủ yếu sống trên các dãy núi, trong đó phần lớn sống trong dãy Trường Sơn, làm thế nào nó đã thiên di hàng trăm cây số xuống đồng bằng để sinh sống? Và tại sao nó chỉ xuất hiện ở miền Trung? Và đáng sợ hơn cả là loài rắn vốn không sống trong môi trường nước này hiện tại có khả năng di chuyển trong nước rất nhanh, có thể sống trong môi trường nước một cách bình thường.

Phải chăng chỉ có miền Trung thường xuyên xãy ra lũ lụt, đặc biệt trong vài năm trở lại đây, sau những trận lụt lớn, ở đồng bằng xuất hiện nhiều thú rừng, rắn lục đuôi đỏ cũng là một trong những loài bò sát đã thiên di theo dòng nước nhưng con người chưa phát hiện, chưa săn bắt vì loài này có trọng lượng không lớn, sống kín đáo trong các lùm cây?!

Và những công trình thuỷ điện, hồ chứa mọc lên khắp miền Trung nhấn chìm hàng triệu mét vuông rừng tự nhiên vào lòng hồ cũng đã nhấn chìm hàng ngàn loài thú rừng xuống nước. Để thich nghi và tồn tại, loài rắn này tập làm quen với môi trường nước. Chính dòng nước lũ đã đưa chúng về đồng bằng?

Ở đồng bằng hiếm hoi chồn,cầy rừng, chỉ có chó nhà nhưng chó nhà không dám ra đường vì sợ bọn người đập trộm, chính vì thế, điều kiện sinh tồn của nó rấn đuôi đỏ rất cao. Đặc biệt năm nay tuy có mưa, độ ẩm cao nhưng thuỷ điện không xả đập, không có lụt, loài rắn này tha hồ sinh sôi nay nở vì gặp thời tiết thuận lợi… Thật là đáng sợ khi nghĩ đến chuyện môt ngày nào đó thuỷ điện xả lũ, nước tràn về bất ngờ, mọi thứ giao thông tê liệt, loài rắn này bò lỏm ngỏm trong dòng nước… Lúc đó, tai hoạ khó mà lường được!

Nhưng có phải vì thế mà tìm cách giết sạch loài rắn này? Câu hỏi này rất quan trọng đối với người Việt Nam. Với thói quen chỉ nhìn thấy trước mắt, đa phần nông nổi, thiếu tầm nhìn chiến lược, đã có hàng ngàn bài học trả giá bằng máu và nước mắt kể từ khi “thống nhất đất nước” đến nay nhưng người ta vẫn cứ để tái diễn bởi lòng tham và sự nông cạn.

Ngay ở trung tâm thành phố Sài Gòn và Hà Nội, nơi được xem là trung tâm kinh tế, văn hoá của hai đầu đất nước, người ta có thể ngang nhiên chặt bỏ hàng trăm cây gỗ lớn thuộc vào hàng cổ thụ trăm năm. Trong khi đó, để có một cổ thụ, phải tốn rất nhiều năm, thậm chí vài trăm năm, vài mươi thế hệ để trồng, chăm sóc và giữ gìn.

Nhưng để xây dựng bất kì công trình nào cho dù vĩ đại, tầm cỡ quốc tế, lịch sử gi gì đó, người ta cũng không tốn quá mười năm.  Điều đó cho thấy người ta đã mang cái hàng trăm, hàng ngàn năm ra đổi lấy cái vài năm. Cách làm này, con người tiến bộ và biết suy nghĩ không bao giờ chọn, bởi nó không chỉ mang tính lich sử, nhân văn mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh của con người.

Một cây gỗ rừng phải tốn đến cả vài trăm năm, thậm chí những cây gỗ lớn, thuộc hàng danh mộc có thể sống cả ngàn năm nơi rừng thiêng, nhưng, với con người, đó là món hời để ốp trần nhà, ốp tường, thậm chí lót sàn để thể hiện “đẳng cấp”. Không ai dám trả lời ngôi nhà tồn tại được bao lâu, khi nào người ta sẽ đập phá để xây dựng cái mới nhưng cái cây thì chắc chắn mất đi vĩnh viễn!

Cũng như để ngồi nhậu với nhau vài giờ đồng hồ, người ta sẵn sang bỏ ra hàng đống tiền để giết chết một con vật đã tồn tại và giúp con người cân bằng sinh thái mấy mươi năm. Không ai trả lời được là bữa nhậu giúp ích được gì và sự ích lợi này kéo dài được mấy năm.

Chung qui, để thoả mãn sự ham thích, lòng tham ngắn ngủi, con người đã bất chấp đánh đổi những gì vốn dĩ tồn tại lâu năm, có quan hệ mật thiết với đời sống của đồng loại cũng như đời sống của hành tinh này. Nhưng, ai đã đánh đổi?

Một người nghèo có đủ khả năng ốp trần nhà, ốp tường nhà, lót sàn nhà bằng gỗ quí, gỗ lâu năm? Một phó thường dân có đủ khả năng chi trả một bữa nhậu thịt rừng quí hiếm trong nhà hàng sang trọng? Không, chỉ có những quan chức, những triệu phú, tư bản đỏ mới đủ khả năng làm chuyện này!

Đến đây, không cần nói gì thêm, ngay cả bài học thời niên thiếu dưới mái trường Cộng sản xã hội chủ nghĩa về một đất nước “rừng vàng biển bạc…” cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất nước khô kiệt tài nguyên, thú hoang tan loạn chạy và đụng chạm với con người như hiện tại.

Thiên nhiên đã nổi giận. Nhưng nổi giận với ai? Và ai đang hưởng thụ, ai đang trả giá cho việc hưởng thụ ngu xuẩn đó. Đã đến lúc cần phải trả lời rốt ráo và giải quyết triệt để câu hỏi này!

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng  

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Nhà  thám hiÃm Martin Frobisher

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước.

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh…

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng  ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Le premier repas de Thanksgiving (novembre 1621)

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) L ễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.

 

 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ)

8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

Anh chị Thụ Mai gởi

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

Tác giả: Lm. PX. Ng Hùng Oánh

Công đồng Vatican II dạy : (Quod ultra individualisticam ethicam progediendum sit)  Profunda  et velox rerum immutatio urgentius postulat ut nemo sit qui , ad rerum cursum non attendens vel inertia torpens , ethicae  mere individualisticae indulgeat. Iustitiae ac caritatis  officium  magis ac magis adimpletur per hoc quod unusquisque , ad bonum commune iuxta  proprias capacitates et aliorum necessitates conferens , etiam institutiones sive publicas sive privatas promovet et adiuvat quae hominum vitae conditionibus in melius mutandis inserviunt . Sunt autem qui , largas generosioresque opiniones profitentes , ita tamen semper reapse vivunt ac si nullam societatis necessitatum curam habeant. Immo plures , in variis regionibus , leges et praescriptiones sociales minimi faciunt . Non paucis , variis fraudibus ac dolis , iusta vectigalia vel lia quae societati debentur effugere non verentur . Alii normas quasdam vitae socialis ,e , gr, ad valetudinem tuendam , aut ad vehiculorum ductum moderantum statutas , parvi aestimant , non animadvertentes se tali incuria vitae suae et aliorum periculum in ferre. (Gaudium et Spes. 30)

(Cần vượt xa ra khỏi thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa ) Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi  tới diễn tiến thời cuộc .Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết , tùy theo những khả năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng cách cổ võ và trợ giúp những tổ chức công hay tư nhẳm cải thiện những điều kiện sống của con người . Lại có những  người ngoài miệng thì chủ trương rộng rãi và đại lượng , mà thực tế họ luôn luôn sống như là chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu của xã hội . Hơn nữa tại nhiều nơi có nhiều người cỏn coi thường các luật lệ và những quy định của xã hội. Một số người không ngần ngại dùng những hình thức gian lận và lừa đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc trốn tránh những gì xã hội đòi buộc . Có người lại coi nhẹ một số luật lệ trong cuộc sóng xã hội , chẳng hạn những luật lệ liên đới tới bảo vể sức khỏe , hoặc việc xe cộ lưu thông , bởi vì họ không nhận thức rằng do bất cẩn như thế sẻ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác (Bản dịch của Giáo hoàng học viện Pio X )

Những điều có thể thành tội do Công đồng nêu ra :

Người ta coi thường luật lệ liên quan tới sức khỏe như :

  1. Không giữ vệ sinh chung ( vứt vác ra đường, phóng uế ngoài đường..).
  2. Làm cho môi trường sống bị nhiễm độc ( xả rác độc ra sông,  vào không khí … )
  3. Ngay cả khi không chích thuốc ngừa bệnh để cho mình mắc bệnh làm cho người khác lây bệnh .

2. Người ta coi thường luật lệ giao thông công cộng như ;

a. Lái xe trái đường.

b. Lái xe vượt qua đèn đỏ .

c. Lái xe khi mình đang ngà ngà rượu .

Tất cả những điều nầy buộc đòi phải tránh, không phải chỉ tránh khi biết rõ sẽ gây ra tai nạn cho mình hoặc cho kẻ khác trong trường hợp cụ thể, dự đoán chắc chắn xảy ra, mà còn phải tránh trong trường hợp phỏng đoán nữa giống như phải tránh dịp tội gần mà còn phải tránh dịp tội xa, nhất là vì sự hữu ích  của luật lệ (vì sự hữu ích của luật lệ nên tôi phải giữ kể cả khi không có nguy cơ gần hoặc xa ).

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

Nguyễn Văn Thông

Đối với người lành và nhạy-cảm thì chuyện tạ-ơn là chuyện mỗi ngày vì họ lúc nào cũng đầy lòng khiêm-tốn nhận ra mọi khía-cạnh trong đời sống đều có sự liên-quan rộng-lớn, đều là sự cống-hiến của nhiều người. Cơm ăn, áo mặc, phương-tiện đi lại, truyền-thông, mạng nối toàn cầu, bài ca, điệu nhạc, những bức tranh đẹp, những sự-kiện lịch-sử, gia-đình, bạn-hữu, tình thân-ái…. tất cả đều đóng một vai-trò làm cho cuộc đời thêm phong-phú, tươi-đẹp. Cho nên ngày lễ Tạ Ơn mỗi năm đối với họ chỉ là một dịp đặc-biệt để bày-tỏ và tôn-vinh tấm lòng biết cảm-nhận mỗi người cần phải có đối với người và thế-giới quanh mình.

Thế nhưng ta không thể phủ-nhận rằng có những người và hoàn-cảnh đáng thương đến độ khó làm cho người ta nghĩ đến sự tạ-ơn cho được. Họ là những người bị bệnh nan-y, bị bỏ quên, cô-độc, hay tàn-phế… Tôi thường nghe người ta an-ủi nhau bằng lời nói rằng, “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình” mà đôi khi thấy lòng bất nhẫn. Thế những người không bằng ai, ở đáy của sự cùng-cực thì làm sao? Họ so-sánh với ai được để thấy mình đỡ khổ? Thế hóa ra ta an-ủi mình bằng sự ganh-tị, nghĩa là ta cần có người kém mình để thấy mình đỡ khổ hay sao? Tại sao ta đánh lừa mình như thế? Thực ra câu tục-ngữ trên cũng đúng ở khía-cạnh bảo cho ta rằng, ta chưa khổ lắm đâu, ta đang hưởng nhiều điều hay mà ta không chịu nhìn-nhận. Có thể ta đứng núi này trông núi kia cao.

Dầu sao, cả hai mặt, ta khó có thể phủ-nhận. Trong khi ta đang được hưởng bao ơn lành, có thể còn lẫn-lộn những khổ-đau thì có những người đau-khổ cùng-cực mà không ai có thể thông-cảm được, sự đau-khổ của họ vượt ra ngoài kinh-nghiệm và tầm hiểu-biết của ta.

Năm vừa qua mẹ tôi qua đời sau 21 năm bị tai-biến mạch máu não, trong đó có 10 năm nằm liệt giường. Bố tôi là người chăm-sóc hầu-hết thời-gian ấy một cách tuyệt-vời thì bỗng khám-phá ra bị ung-thư gan. Từ lúc khám-phá ra đến lúc ra đi chỉ có sáu tháng. Mẹ tôi mất sau bố tôi ba năm. Tôi là con trai cả nhưng chưa gặp mặt bố mẹ suốt 32 năm. Khi bố tôi nằm bệnh, tôi gọi về bằng Skype, bố con nhìn thấy nhau. Bố cười bảo vợ chồng tôi nom còn đẹp đôi lắm. Tôi quan-sát bố nằm trên võng từ đầu tới chân. Hai gót chân của bố tôi nhẵn-nhụi và trắng hồng. Tôi bảo, “Gót chân thầy đẹp quá, con chưa bao giờ thấy. Hồi xưa chỉ thấy gót chân thầy nứt-nẻ vì cả đời lội ruộng rau muống và gánh nước tưới rau. Gót chân thầy bây giờ đẹp hơn gót chân con, hơn 30 năm ở Mỹ mà vẫn sần-sùi nứt-nẻ.” Tôi cảm thấy vui, coi như được đánh đổi chút gì với bố. Tôi ngập-ngừng nói, “Con không về được…” Bố tôi bảo, “Khỏi về. Bố con mình hẹn nhau trên Thiên Đàng.” Tôi gạt ngấn nước mắt tràn mi trong nỗi buồn vui lẫn-lộn.

Bố tôi mất được vài năm thì tôi theo được thằng con trong quân-đội đi công-tác ghé vào Việt Nam. Cháu báo cho tòa đại-sứ Mỹ dòm chừng cho tôi về thăm mẹ. 32 năm vật đổi sao dời, cái ngõ cũ nhà tôi không còn như xưa, người quen lối xóm nhìn kỹ mới nhận ra được vài người, nhiều thế-hệ lớn lên ngơ-ngác. Tôi gạt đi trăm thứ chuyện để chỉ chú ý đến mẹ, chị và các em. Mẹ  bây giờ nặng tai, nói chuyện thật khó. Tôi xắp-xếp gường cho mẹ; vợ tôi đi giặt màn, chăn, gối, rồi chúng tôi lau chùi quanh phòng, quanh nhà. Tới ngày về, chúng tôi không biết Sàigòn có món ăn nào ngon nhưng cảm thấy ấm lòng.

Về Mỹ, trong cộng-đoàn nhà thờ của tôi, Cô Lan có bố ruột và bố chồng vừa vào nhà thương vì bệnh ung-thư gan hay phổi. Các bác đều đã lớn tuổi nên việc khám-phá ra bệnh cũng là lúc đáng lo. Thế là trong gia-đình có tới ba người bệnh nặng. Cô Lan mới bốn mấy mà đã chiến-đấu với bệnh ung-thư của cô đã năm năm, từ khi mang bầu đứa con út, bác-sĩ khám thai tìm ra. Thằng nhỏ lớn mấy tuổi là từng đó năm Cô Lan mang bệnh. Mái tóc dài mượt rụng dần cho tới khi cô phải đội khăn như một bà già trầu. Cả cộng-đoàn Mỹ cũng như Việt coi cô như người thân. Thấy vắng cô một ngày lễ là hỏi-han. Thấy cô đến được nhà thờ là túm lại thăm-hỏi. Tôi nhìn chồng cô và ba đứa con mà xót-xa.

Ngày tháng trôi đi lúc nhanh lúc chậm. Tôi quen nhiều với bố Cô Lan hơn bố chồng cô. Bác hay đến với ca-đoàn chúng tôi xin cầu-nguyện, khi thì ý này, lúc thì ý nọ. Bác nhìn gầy và da mặt xám hơn nhưng vẫn còn nhanh-nhẹn, vẫn giữ nụ cười tươi khi nói chuyện. Hè vừa rồi bác quyết-định về Việt Nam thăm gia-đình đứa con còn lại và các cháu, bảo là lần cuối. Khi trở lại, nhìn thấy bác vẫn bình-thường. Hỏi thăm, câu trước câu sau, bác bảo, “Xin anh chị cầu-nguyện cho em Lan.” Bây giờ Bác không còn lái xe được nữa nên rủ tôi đi thăm một người bệnh trong hospice (nơi an-dưỡng chờ chết) sau thánh lễ buổi sáng ngày thường.

Người bệnh trong hospice qua đời sau đó vài tuần, là một cựu quân-nhân VNCH, chẳng có thân-nhân, bộ xương bọc da nằm dưới lớp chăn nhìn như không, không có bề dầy nào nổi lên. Vài tuần sau, bác và bác thông-gia vắng bóng ở nhà thờ. Những buổi đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót không còn bác quay xuống nói ý-chỉ cầu-nguyện. Ít tuần sau, bác thông-gia qua đời.  Bãi đậu xe của nhà quàn đầy xe vào buổi chiều viếng xác. Hình như bà con ra về vì cần nhường chỗ cho người đến sau.

Sau một tuần, bố Cô Lan qua đời. Mấy ngày trước đó, tôi tới thăm và đọc kinh. Niềm tin của bác vững-vàng, bác sẵn-sàng ra đi, nhưng đôi mắt bác ướt long-lanh. Tôi đoán bác đang nghĩ tới con gái và ba đứa cháu. Tôi không biết cuộc đối-thoại của bác với Chúa có những gì. Bác gởi-gấm hay năn-nỉ Chúa điều gì? Bác gái lúc nào cũng như một chiếc bóng can-trường, và dính chặt với bác trai khi bác trai ra đi. Tôi thấy Cô Lan ngồi trên xe lăn do chồng cô đẩy trước cửa nhà quàn ngày viếng xác bố, đầu cúi xuống. Đôi vai cô chỉ còn xương lồi-lõm trong bàn tay tôi. Bạn-bè và người thân cố mỉm một nụ cười với cô. Vài người Mỹ già lẩm-bẩm, “God has to do something!” (Chúa phải làm gì chứ!)

Đấy là lần cuối cùng tôi thấy cô còn sức sống. Hơn một tuần sau, buổi sáng sớm ở sân trước nhà nguyện đông người nhưng im-lặng khác thường. Có tiếng thì-thào, “Lan vừa qua đời sáng nay.” Rồi chỉ còn những ánh mắt, mọi âm-thanh khác mất hút vào chân-không. Chuyển-động còn đó chậm-chập trong không-gian nhưng câm-lặng. Tôi không thể cảm được sự đổ-vỡ nào trong lòng người ở lại – chồng Cô Lan và các con, và tấm lòng của người bà đối với các cháu.

Lễ an-táng Cô Lan đầy người, Việt và Mỹ. Ca-đoàn trang-trọng hát bài Cô Lan đã chọn cho mình từ mấy tháng trước cho lễ an-táng của mình: “All I Ask Of You”. Con chỉ xin Chúa một điều là nhớ đến con là người yêu Chúa. Dù ở chân trời góc biển nào trong đời, trong niềm vui hay nỗi đau, nơi tim con có Chúa hiện-diện. Chúa là ơn-huệ cho con cho tới ngày thân con rã-tan trong tro bụi…

Cô Lan ơi, cảm ơn cô cho tôi một ánh-sáng tạ-ơn. Trong những năm tháng đau thương, cô có bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống để thấy mình “chưa đến nỗi nào” để nói lên được lời tạ-ơn không nhỉ? Tôi nghĩ cô đã khám-phá ra nguồn tạ-ơn trong đau-khổ sâu-xa hơn sự so-sánh đánh lừa mình khi khám-phá ra tình-yêu Chúa, Đấng cứu-chuộc nhân-loại qua đau-khổ, Đấng thánh-hóa đau-khổ, Đấng mời gọi những con người quảng-đại mang trong cuộc đời mình những đau-khổ, biến chúng thành phương-tiện cảm-thông, tương-thân tương-trợ, biết xót thương, biết tìm-tòi để xoa-dịu nỗi đau của tha-nhân.

Cảm-tạ Chúa đã chịu đau-khổ. Tạ-ơn Chúa cho con cảm-nhận được giá-trị của khổ-đau.

Nguyễn Văn Thông

Thanksgiving 2014

Anh chị Thụ Mai gởi

Hãy luôn tỉnh thức!

Hãy luôn tỉnh thức!

Chuacuuthe.com

VRNs (29.11.2014) – Tin Mừng CN I Mùa Vọng – Năm B (Mc 13, 33-37)

Ở Việt Nam, thỉnh thoảng nơi công cộng, nơi nhà ở chúng ta thấy những bảng cảnh báo “coi chừng móc túi”, “coi chừng mất xe”, “coi chừng chó dữ”, … xem ra đáng xấu hổ cho người Việt mình quá! Nhưng đó lại là những lời nhắc nhớ chúng ta đề phòng, cảnh giác để khỏi phải “tiền mất tật mang”, “hao tài tản mạng” rất đáng để lưu ý.

Mở đầu Năm Phụng vụ, chuẩn bị đón mừng Đại lễ Giáng Sinh, cũng tương tự thế, Giáo hội cho chúng ta nghe lại những lời cảnh báo của Chúa Giêsu. Nhưng không phải nghe chỉ để khỏi bị hao tài tản mạng, mà hơn thế nhiều, quan trọng hơn nhiều, lời cảnh báo của Chúa liên quan đến “phần rỗi” của mỗi người chúng ta!

“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến!”(Mc 13, 33).

Phải coi chừng! Phải tỉnh thức!

Chúa không bảo “hãy” coi chừng, “hãy” tỉnh thức! Đó chỉ là một lời kêu gọi, nhắc nhớ. Nhưng Ngài bảo “phải” coi chừng, “phải” tỉnh thức. Như một đòi buộc gắt gao cho tất cả mọi người chúng ta, bất kể là ai.

Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã nói rõ ràng: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!(Mc 13, 37).

Mừng Chúa Giáng sinh trong những ngày sắp đến đây, chúng ta nhớ lại một kỷ niệm trọng đại ngày Con Chúa Giáng Trần, không chỉ vậy thôi! Nhưng “phải coi chừng, phải tỉnh thức” “vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến”(Mc 13, 35b), mới thật là quan trọng!

Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta sẽ đến cách vinh quang sáng láng, trong ngày tận cùng của vũ trụ để phán xét kẻ lành người gian. Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta cũng sẽ đến với riêng từng người, trong ngày cuối cùng của một kiếp làm người.

Cả hai cách đến của Chủ Nhà thì không ai biết được:

Khi các môn đệ hỏi về ngày giờ của cách đến thứ nhất, Chúa Giêsu đã trả lời rõ ràng: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”(Mt 24, 36).

Rõ rồi nhé!

Còn cách đến thứ hai cho riêng mỗi người chúng ta, thì ôi thôi “thiên hình vạn trạng”! Ngày giờ thì chẳng biết đâu mà lần, như chúng ta đã quá biết về những cái chết bất ngờ cho tất cả mọi người thuộc mọi lứa tuổi, mọi kiểu mọi cách, mọi nơi mọi chốn, …!

Nói tóm lại là tất tần tật, đủ cách đủ kiểu … chết!

Chắc chúng ta không thể nào quên được sự kiện thảm khốc 11/9/2001 tại Mỹ, trong chốc lát đã làm chết 2.974 người, 24 người mất tích! Và trận động đất sóng thần Tohoku kinh hoàng ngày 11/3/2011 tại Nhật, con số còn khủng khiếp hơn: 15.854 người chết, 3.155 người mất tích, 9.677 người phải thương tật!

Theo thống kê hiện nay, trên thế giới trong vòng một phút thì có khoảng 200 người được “thần chết” đến thăm! Tại Việt Nam hiện nay, chỉ tính riêng vì tai nạn giao thông không thôi, một ngày đã có khoảng 26 người phải “chầu diêm vương”!

Thế đó, chẳng biết lúc nào đến lượt Bạn và tôi – chúng ta được “chủ nhà đến”? Do vậy Chúa đã bảo chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức. Đó là điều đương nhiên với tấm lòng một Người Cha, luôn lo lắng để nhắc nhớ con cái mình.

Vậy thì, Bạn và tôi – chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức như thế nào đây?

Không có gì to tát, phải lo lắng lắm đâu! Không cần phải thức suốt đêm với súng ống để canh giữ, đừng cho “thần chết” vào nhà mình đâu! Không cần phải mua thật nhiều nến, đến nhờ ông cha làm phép, để đề phòng “tối 3 ngày 3 đêm” đâu! …

Đơn giản thôi!

Bạn và tôi hãy cố gắng, luôn sống trong Ơn Thánh Chúa với tâm hồn đơn sơ tốt lành, tốt lành với Chúa và với mọi anh em. Trong mọi chức vụ, công việc, bổn phận của hôm nay, của hiện tại, hãy lo chu toàn cách tốt lành với hết trách nhiệm và lòng yêu mến. Để bất cứ lúc nào “chủ nhà đến”, chúng ta cũng đều “vô tư” thoải mái trả lời như Thánh Đôminicô Saviô sau đây:

Một hôm đang trong giờ chơi thể thao với các bạn, bất ngờ Thánh Gioan Boscô gọi cậu Saviô ra và hỏi:

  • Nếu ít phút nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì con sẽ làm gì?
  • Thưa cha, thì con vẫn tiếp tục chơi – Saviô đơn sơ mau mắn đáp.
  • Thế con không vào Nhà nguyện cầu nguyện hay đi xưng tội sao? – Thánh

Boscô tiếp tục.

Vẫn thái độ bình thản, Saviô vui vẻ trả lời Cha Boscô:

  • Thưa cha, bây giờ là giờ thể thao, mọi người phải chơi cho thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ làm như vậy là đẹp ý Chúa nhất. Vả lại, tâm hồn con lúc nào cũng trong tình trạng sẵn sàng để về với Chúa mà!

Thật tuyệt vời phải không Bạn?

Cũng thái độ tích cực, luôn sẵn sàng như thế trong mọi bổn phận Chúa đã trao, Đức Hồng y Fx Nguyễn Văn Thuận cũng đã viết: “Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này(ĐHV 26).

Với sự hèn kém của mình, chắc chắn chúng ta khó có thể sống được như các Thánh. Nhưng trông cậy vào Ơn Chúa, chúng ta cố gắng tập tành ngay từ hôm nay, luôn biết chuẩn bị, tỉnh thức, sẵn sàng để “khi nào chủ nhà đến, lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”(Mc 13, 35b) đều không “bắt gặp anh em đang ngủ”(36 b).

Nếu cố gắng được như thế, thì không lẽ gì mà Ông Chủ không ban thưởng cho chúng ta lúc Ông về nhà, đúng không?

Còn nếu không cố gắng, không chuẩn bị sẵn sàng, mà Ông Chủ về bất ngờ, lúc tâm hồn chúng ta đang mãi mê trong tội, thì sao đây? Cánh cửa nào sẽ mở cho chúng ta đây?

Chắc chỉ có 2 cửa thôi: hoặc là Hỏa ngục, nơi phải xa cách Chúa đời đời; hoặc là may mắn hơn, nơi Luyện hình để chờ đợi ngày về với Chúa!

Ước mong Bạn và tôi – chúng ta bước vào Mùa Vọng với một tâm hồn chuẩn bị chu đáo. Luôn luôn tỉnh thức, sẵn sàng để chào đón ngày Con Chúa ra đời và một Mùa Giáng Sinh sắp tới trong hoan lạc, an bình!

Micae Hữu Liên

THÊM BẠN – BỚT THÙ

THÊM BẠN – BỚT THÙ

Tác giả: Luật sư Đoàn Thanh Liêm

Tôi thật tâm đắc với câu khuyên nhủ chỉ gồm có 4 chữ rất là thông dụng trong dân gian. Đó là câu : “Thêm Bạn – Bớt Thù”. Và tôi luôn cố gắng noi theo lời khuyên bảo chí tình đó. Tôi xin chia sẻ với bạn đọc cái kinh nghiệm bản thân mình đã trải qua, đại khái như sau.

Chữ Bạn luôn đi kèm với một chữ hay vài chữ nữa như là : Bạn bè, Bạn hữu, Bạn quý, Bạn hiền; Bạn thân thiết, Bạn tâm giao, Bạn vong niên, Bạn đồng môn, Bạn đồng nghiệp, Bạn đồng cảnh v.v…

Cũng tương tự như vậy, chữ Thù thường đi kèm với một hay vài chữ nữa, như : Thù nghịch, Thù óan, Thù hằn, Thù ghét; Thù truyền kiếp, Thù dai dẳng, Thù ân óan, Thù hận chồng chất; “Lòng hận thù ngất trời” như trong bài hát “Giải Phóng Miền Nam” của tác giả Hùynh Minh Siêng (tên thật là Lưu Hữu Phước) v.v…

Nói chung, thì bạn hữu là những người có mối tình cảm thuận thảo tốt đẹp với ta, luôn gắn bó chia sẻ với ta trong lúc vui cũng như trong lúc buồn  – chia vui với ta lúc ta gặp may mắn thành công thắng lợi – cũng như thăm viếng an ủi ta khi ta gặp chuyện xui xẻo đau buồn họan nạn.

Ngược lại, kẻ thù thường gây cho ta cái cảm giác bất an, không thỏai mái vì ta luôn phải đề phòng trước những sự việc, tình huống mà họ sẵn sàng gây ra cho ta – như gây tranh cãi, gây hấn, nói xấu, phao tin thất thiệt về cuộc sống riêng tư của ta. Họ thường tìm cách gây thiệt hại, gây khó chịu cho ta cách này cách khác – do sự óan thù, tỵ hiềm, ghét bỏ vốn tích lũy từ lâu ngày …

1 – Như tôi đã có dịp viết là mình có hai niềm say mê vui thích, đó là vui thú với sách vở, báo chí và vui thích gắn bó thân thiết với bạn bè. Bạn thân thiết từ hồi còn học chung với nhau trong lớp bậc Tiểu học trước năm 1945 và sau này ở bậc Trung học trước năm 1954. Bạn đồng nghiệp trong công sở, trong Luật sư đòan. Bạn đồng đội trong quân ngũ. Bạn chung với nhau trong họat động xã hội trước năm 1975. Và nhất là bạn cùng bị giam giữ trong nhà tù cộng sản sau năm 1975 v.v…

Tôi đã có được niềm vui thật trong sáng, tươi đẹp với cả ngàn các bạn mình có duyên được quen biết, sát cánh bên nhau trong nhiều năm tháng của cuộc đời mình. Và các bạn đó luôn quí mến bao bọc nâng đỡ cho tôi mỗi khi tôi gặp tai nạn hay đau bệnh gì – trong đó phải kể đến khá đông các bạn là người ngọai quốc nữa. Hơn thế nữa, tôi còn học hỏi được từ nơi các bạn ấy nhiều điều quý báu, ích lợi cho bản thân mình – thật đúng như câu nói trong ca dao tục ngữ từ xưa là : “Học Thầy chẳng tầy học Bạn” vậy.

2 – Còn về mặt Thù nghịch, Ân óan với ai trong xã hội, thì quả thật là tôi không có bất kỳ sự kình địch, oán hận, thù hằn đối với riêng một ai cả. Có người nói xấu về tôi, nhưng tôi cố gắng không bao giờ đối đáp, hay ra tay đôi co hạch hỏi đối với họ. Tôi coi là mình đã gặp được nhiều cái may lành ở trên đời rồi, do đó mà sẵn sàng chịu thua thiệt chút đỉnh, chịu tỏ ra hèn kém đối với họ. Nhờ vậy mà bản thân mình tránh được chuyện cãi lộn, lời qua tiếng lại khiến cho mối liên hệ giao tiếp giữa hai bên trở thành trầm trọng căng thẳng, tệ hại hơn nữa. Đàng khác, sự chê bai, chỉ trích đó tuy có làm cho ta khó chịu, bực bội đấy – nhưng nó cũng giúp cho ta tránh bớt được thái độ ngông nghênh tự phụ, mà người trí thức thường hay mắc phải.

Cụ thể như chuyện này đây : Cha tôi bị cộng sản Việt minh bắt đi mất tích từ năm 1948 lúc tôi mới có 14 tuổi. Và chính bản thân tôi cũng bị cộng sản bắt giam từ năm 1990 và xử phạt tôi 12 năm tù giam. Nhưng tôi không hề thù oán đối với cá nhân một người cộng sản nào cả. Xưa nay, tôi vẫn kiên quyết chống đối cái chế độ cực kỳ bất nhân, ác đức, vô nhân đạo do đảng cộng sản áp đặt trên đất nước ta từ 70 năm nay – mà không lúc nào giữ lòng hận thù óan ghét đối với riêng một người nào cả.

Tôi làm như vậy, đó là áp dụng theo lời khuyên bảo của cha ông ta từ xưa là “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.

Có người chê bai tôi là “ngây thơ gàn dở”, “quân tử tàu”, là “cù lần, hèn nhát”, mơ mộng, lãng mạn, hão huyền thế này, thế khác v.v… Tôi nghe biết vậy, nhưng mà tôi vẫn một mực sống theo tôn chỉ như thế này là : “ Nhất quyết không để cho mình vướng mắc chuyện hận thù, không để tâm mà oán ghét đối với bất kỳ người nào trên cõi đời này”.

Tóm lại là tôi chỉ có tình cảm thân thương quí mến nhiều hay ít với mức độ khác nhau đối với người này, người khác. Chứ tuyệt nhiên tôi không coi mình là kẻ thù nghịch của một người nào cả.

Nhờ vậy, mà tôi luôn sống thanh thản, an nhiên tự tại trong tuổi xế chiều hiện nay trên đất Mỹ. Và có thể nói : Dù đã phải trải qua bao nhiêu thử thách nghịch cảnh éo le bi đát vì chiến tranh, vì tù đày – tôi vẫn tìm cách tạo cho cuộc sống mình có ý nghĩa lương hảo, có phẩm chất tốt đẹp, cao quý vậy./

Westminster California Tháng 11 Năm 2014.

Đoàn Thanh Liêm

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

2014-11-27

fiery-cross-reef

Không ảnh chụp hoạt động tân tạo của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập

Courtesy of IHS

Phía nam, chỉ xâm lấn Việt Nam, vì sao?

Hôm thứ ba Philippines bất chấp  lời kêu gọi của Trung Quốc, đã đưa ra toà xét xử 9 ngư dân Trung Quốc đánh bắt rùa biển trong hải phận tranh chấp, tuyên phạt mỗi người 102 ngàn đô la hoặc phải chịu 6 tháng tù.  Hình như Việt Nam chưa làm như vậy bao giờ, trong khi Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc. Lý do vì sao?

Có thể là vì giữa Việt Nam với Trung Quốc còn có mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản cầm quyền. Hai nước đã nỗ lực giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải dựa trên mối quan hệ đó hơn là trên căn bản mối quan hệ ngoại giao thông thường. Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.

Nhưng giả sử có sự cam kết như vậy thì vì sao phía Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà không cần một phán quyết tư pháp nào, và Việt Nam phải đóng tiền mới chuộc được dân của mình về?

Thực ra, không thể đoan chắc hai bên có cam kết điều gì và cam kết ra sao; nhưng hành động độc đoán như vậy của Trung Quốc mới cho thấy rõ bản chất hiếp bức nước nhỏ của một xứ chuyên hành xử theo kiểu bá quyền nước lớn. Và qua đó người ta cũng thấy cái thế khó xử của Việt Nam, ở vị thế một nước nhỏ yếu hơn nhiều mà lại nằm vào vị trí “môi hở răng lạnh”, luôn luôn hứng chịu mọi sự áp chế từ hằng ngàn năm nay.

Tuy nhiên, nhìn lại, Miến Điện cũng ở vào vị trí sát cạnh nước lớn Trung Quốc không khác gì Việt Nam, nhưng tại sao Bắc Kinh không hiếp bức được như đối với Việt Nam?

Vị trí địa lý và mối quan hệ giữa Miến Điện với Trung Quốc, so ra có những điểm khác biệt rất căn bản. Trước hết về yếu tố địa chính trị,
Miến Điện không nằm ở vị trí chắn đường thuỷ lộ và vùng biển phía nam của Trung Quốc.  Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.

Trong khi đó giữa Việt Nam với Trung Quốc, ngày nay thì mang nặng mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản, và từ xưa đã có những đặc tính văn hoá, xã hội, văn minh, chủng tộc gần gũi. Dân tộc Lạc Việt vốn thuộc giòng Bách Việt, là chủng tộc phát xuất từ chủng Nam Á từng chiếm hữu từ Indonesia đến  bờ nam sông Dương tử. Chủng Nam Á hình thành từ sự hoà nhập cách nay 5 ngàn năm giữa chủng Cổ Mã Lai và Đại chủng Á từ phía bắc sông Dương Tử tràn xuống. Vì thế dân tộc Việt và dân tộc Nam Trung Hoa có nguồn gốc chủng tộc rất gần gũi, cho nên  người Trung Hoa luôn luôn muốn thu phục chủng tộc Việt mà họ coi là cùng nguồn gốc với họ. Ngược lại, người Việt, vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuât truyền thuyết Lạc Long Quân.

Như vậy ta mới thấy mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất tế nhị và cũng rất phức tạp, vừa thân thiết như cùng huyết thống vừa hận thù nhau truyền kiếp, khiến Việt Nam luôn luôn phải chịu cái ách và phải giải cái ách bành trướng xâm lấn của Trung Quốc từ ngày lập nước Văn Lang cách nay mấy ngàn năm.

Không thể chung đường

Dù sao chăng nữa, đó cũng không phải lý do Trung Quốc đòi cưỡng chiếm cả biển Đông, và không phải chỉ biển Đông mà còn cả thị trường châu Á và xa hơn nữa, theo con đường tơ lụa thế kỷ 21 mà Bắc Kinh đang quảng bá.

Muốn thế, Trung Quốc phải tìm mọi cách không chế Nhật Bản và đẩy bật ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ ra khỏi châu Á. Có phải nhân lúc Hoa Kỳ vướng bận ở Trung Đông và Ukraine, mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa khai mào cuộc phản công ở hai hội nghị thượng đỉnh APEC và G-20?  Trong khi Hoa Kỳ còn “mắc cạn” với Hiệp định TPP cho thị trường tự do châu Á Thái Bình Dương thì ông Tập Cận Bình tung ra đề nghị về FTAAP tạo thị trường tự do cho cả 21 quốc gia APEC. Sau đó ở Brisbane, Australia, hai nhà lãnh đạo Úc-Hoa hân hoan công bố hiệp ước thị trường tự do song phương, trong ý đồ rõ ràng của Bắc Kinh nhằm lôi kéo châu Đại dương ra khỏi mối quan hệ với Hoa Kỳ cùng liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Úc-Ấn được cho là đang manh nha hình thành.

Tử những hành động của Trung Quốc, khung cảnh thế giới ngày nay tựa như tình hình thế giới hồi gần giữa thế kỷ 20  khi các thế lực quân sự kinh tế hùng mạnh đi đến chỗ đối đầu nhau, tranh giành thuộc địa, giành thị trường, nguồn nguyên liệu, khởi phát chiến tranh…

Nhưng vẫn còn mối hy vọng rằng ngày nay thế giới đã học được nhiều bài học lớn về chiến tranh trong thế kỷ 20, con người cũng lãnh hội được bài học về tinh thần thực tế, không đặt nặng lý tưởng về chủ nghĩa, hay quốc gia, chủng tộc, tôn giáo. Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.

Tuy vậy, trở lại vấn đề biển Đông, người ta thấy có nhiều điều kém lạc quan vì chính sách bành trướng ngang nhiên của Trung Quốc.

Tuần qua Philippines đã hành động rất tế nhị và khôn khéo. Khi đưa ngư dân Trung Quốc ra tòa xử, Philippines đã giữ được thể diện quốc gia và cho Trung Quốc thấy rõ lập trường bảo vệ chủ quyền, đồng thời khi tuyên phán một bản án để có thể thả ngay các bị cáo, Manila vẫn tỏ ra chấp thuận và thi hành yêu cầu của Bắc Kinh đòi trả tự do vô điều kiện cho ngư dân của họ.

Tuy nhiên, nói đến cạnh tranh hoà bình, người ta thấy những hành động nhằm giải quyết hoà bình của Philippines và Việt Nam không hề ngăn được Trung Quốc trong sách lược vươn cánh tay dài ra tới Trường Sa, nằm trong chiến lược bành trướng xa hơn nữa để thực hiện con đường tơ lụa thế kỷ 21. Trung Quốc đang bồi đắp đá Chữ Thập mà họ chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành căn cứ có sân bay và hải cảng, cùng lúc cũng tân tạo nhiều cồn đá thành đảo lớn và những căn cứ kiên cố ở giữa Trường Sa, sau khi Đài Loan tái tạo đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự có đường băng cho máy bay lên xuống.
Cùng lúc, tại Diễn đàn Hương Sơn ở Bắc Kinh, Trung Quốc cao giọng quảng bá cho cái gọi là cấu trúc an ninh mới dựa trên quan niệm “người châu Á lo việc an ninh cho châu Á”.

Mùi khói súng?

Song song với màn khai pháo kinh tế thương mại ở thượng đỉnh APEC và G-20, có phải Bắc Kinh đang mở màn trận phản công chiến lược và quyết đẩy Hoa Kỳ ra khỏi châu Á?

Hoa Kỳ dường như đã dự phòng tình huống nay từ khi thực thi chiến lược chuyển trục sang châu Á. Nhưng Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel lại vừa từ chức sau những trì trệ về an ninh quốc phòng ở Iraq, Afghanistan, giữa lúc Liên Bang Nga quyết tâm giành chiếm Crimea và đông Ukraine. Bộ trưởng Hagel là người thay mặt cho Hoa Kỳ khẳng định chính sách chuyển trục sang châu Á trong những lúc hành pháp Mỹ không rảnh tay để khẳng định lập trường ở những hội nghị liên quan đến an ninh quốc phòng châu Á. Sự ra đi của ông khiến dậy lên mối lo ngại Hoa Kỳ lơ là vói châu Á vì tình hình Trung Đông và Ukraine.

Tuy nhiên, xét lại, chính sách chuyển trục ấy đã được hình thành từ trước nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, nhưng chỉ được chính thức công bố cách nay ba năm. Bộ trưởng Hagel từng thay mặt hành pháp Mỹ khẳng định chính sách chuyển trục, chính điều đó đã nói lên rằng Hoa Kỳ không lúc nào lơ là với châu Á.

Vậy phải chăng nay là lúc Hoa Kỳ điều chỉnh, củng cố chiến lược an ninh quốc phòng để hỗ trợ chính sách kinh tế thương mại nhằm giành thị trường ở châu Á, đối đầu với Trung Quốc, đồng thời củng cố phòng thủ châu Âu?

Mùi khói súng dường như phảng phất đâu đây. Trung Quốc phát triển hùng mạnh và nhanh chóng không khác Đức, Nhật thời xưa, gợi lại ký ức rất mới của loài người về những cuộc chiến tranh giành chiếm thuộc địa và thị trường từ cuối thập niên 1930.  Đức vươn nhanh như Phù Đổng chỉ trong hơn hai thập niên sau thể chiến thứ nhất, rồi khai chiến ở châu Âu, sau đó Nhật tung quân chiếm các thuộc địa của Anh-Pháp-Mỹ ở Đông Nam Á, các hạm đội hàng không mẫu hạm dưới bóng cờ Mặt Trời tung hoành khắp Thái Bình Dương… Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.

ĐTC: Chán nản và hy vọng

ĐTC: Chán nản và hy vọng

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) -Sài Gòn-  theo news.va- Sẽ có những điều tồi tệ, nhưng bất chấp đau khổ, sự thối nát và dửng dưng trong thế giới ngày nay là Kitô hữu chúng ta phải ngẫng cao niềm hy vọng. Đó là ý chính trong bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô vào thánh lễ sáng thứ Năm, 27,11 tại nguyện đường Santa Marta.

0

Dựa trên các bài đọc trong ngày (x.Kh 18, 21-23; Lc 21, 20-28), Đức Thánh Cha Phanxicô nói về số phận của hai thành phố Babylon và Jerusalem. ĐTC nói rằng cả hai bài đọc từ sách ​​Khải Huyền và bài Tin Mừng của Thánh Luca đều đề cập đến thời kỳ cuối của thế giới này.

ĐTC lưu ý rằng các  bài đọc nói về sự sụp đổ của hai thành phố vì đã từ chối đón nhận Chúa và dạt xa Ngài. Sự sụp đổ của hai thành phố vì những lý do khác nhau. Babylon là “biểu tượng của sự dữ, của tội lỗi” và Jerusalem “rơi vào sự thối nát”. Cả hai thành phố tự hào mình là “kinh thành của thế giới”. Khi “tội lỗi chất chứa thì người ta sẽ mất khả năng chống trả và đưa đến sụp đổ”. Điều này đã xảy ra với Jerusalem nơi “những kẻ thối nát, những người không còn sức mạnh để chống trả”.

Bởi vì sự thối nát cho người ta hoan lạc. Nó quyến rũ con người làm cho họ cảm thấy hài lòng với chính mình. Nhưng nó không còn chỗ cho Chúa, cho sự ăn năn hoán cải. Thành phố này đã trở nên thối nát … Từ “thối nát’ nói với chúng ta rất nhiều điều. Không chỉ thối nát trong tham nhũng về kinh tế, nhưng còn thối nát với nhiều tội khác nhau, thối nát của tinh thần vô đạo, tinh thần thế gian!

Nền “văn hóa thối nát” làm cho người ta cảm thấy như thể đang ở trên thiên đường tại thế” nhưng “bên trong đã ra hôi thối”. Babylon là biểu tượng cho “một xã hội, một nền văn hóa mà người ta tách mình ta khỏi Thiên Chúa. Họ tách ra khỏi tình yêu của tha nhân và hậu quả đưa đến thối nát đổ vỡ”.

Còn sự sụp đổ của Jerusalem lại “vì lý do khác”. Jerusalem là hôn thê của Thiên Chúa, nhưng lại không đón nhận Đấng Phu Quân của mình”.

Babylon sụp đổ vì ra thối nát.. Jerusalem vì mất đi căn tính của mình, đã không tiếp rước Chúa, Đấng đến để giải thoát mình. Nàng dâu này không thấy cần đến ơn cứu độ. Jerusalem chỉ dựa vào luật của Mosê và lấy thế làm đủ. Nhưng chính thái độ nệ luật ấy đã đưa Jerusalem đến chỗ tự mãn, không cần đến ơn cứu độ. Họ đã đóng cửa lòng không để Chúa đến. Ngài đã đến gõ cửa nhà nhưng người nhà đã không tiếp nhận Ngài. Họ đã  không lắng nghe tiếng Ngài hầu được cứu sống. Và vì vậy Jerusalem bị sụp đổ.

Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng sự sụp đổ của hai thành này giúp chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chính chúng ta. Chúng ta có “thối nát như Babylon và tự mãn như Jerusalem” không?

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “các sự điệp Lời Chúa trong những ngày này không kết thúc với sự hủy diệt. Trong cả hai bài đọc, có lời hứa của  niềm hy vọng”. Chúa Giêsu giúp sức cho ta để không phải “sợ hãi trước những kẻ vô đạo.” Đồng thời ban cho ta sức mạnh để chịu đựng trong sự kiên nhẫn, như Chúa đã phải chịu đựng cuộc khổ nạn của Ngài.

Khi chúng ta nghĩ về điểm kết thúc của thời gian, với tất cả những tội lỗi của chúng ta, lịch sử của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ đến bàn tiệc đang chuẩn bị cho chúng ta và chúng ta hãy ngẫng đầu lên vì sắp được cứu độ. Đừng để cho sự lo âu xâm chiếm tâm hồn! Đừng đánh mất niềm hy vọng! Thực tế sẽ có những tai họa: có rất nhiều, xảy đến cho nhiều người, nơi các thành phố và dân chúng, rất nhiều người sẽ phải chịu cảnh đau khổ, có nhiều cuộc chiến tranh xảy ra, rất nhiều thù hận, rất nhiều ghen tị, rất nhiều tinh thần thế gian và rất nhiều sự thối nát. Vâng, đó là sự thật! Tất cả những điều này sẽ xảy ra! Chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để biết sẵn sàng chuẩn bị bàn tiệc đang đón đợi chúng ta. Và luôn luôn biết ngẫng cao đầu và đứng thẳng lên vì chúng ta sắp được cứu chuộc.

Hoàng Minh

“Vào buổi xế chiều của cuộc sống, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu”

“Vào buổi xế chiều của cuộc sống, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu

WHĐ (24.11.2014) – Sáng Chúa nhật 23-11 vừa qua tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ trọng thể mừng Chúa Kitô Vua Vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ,. Trong phần đầu Thánh lễ, trước khoảng 50.000 giáo dân, Đức Thánh Cha đã tuyên thánh cho sáu Chân phước người Ấn Độ và người Ý.

Nguyên tắc sống: gần gũi và dịu dàng

Trong bài giảng lễ, Đức Thánh Cha nêu ra nguyên tắc sống của người Kitô hữu: “Cũng như Chúa Giêsu thiết lập Triều đại của Người bằng ‘sự gần gũi và sự dịu dàng’, thì đó cũng phải là ‘nguyên tắc sống’ của các Kitô hữu. Ơn cứu độ không bắt đầu bằng việc tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, mà bằng hành động noi theo lòng thương xót của Người”.

“Vào cuối đời, chúng ta sẽ chịu xét xử về tình yêu thương, sự gần gũi và dịu dàng đối với người anh em của chúng ta. Chúng ta được vào Nước Trời hay không tùy thuộc vào những điểm này”. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên nhủ: “Đừng để những quyến rũ trần thế và chóng qua làm phân tâm chúng ta”.

Trên con đường này, người Kitô hữu đã may mắn có sẵn chiếc la bàn hướng dẫn trong dụ ngôn ở chương 25 của Thánh Mathêu mời gọi chúng ta “trở nên gần gũi với người anh em một cách cụ thể, khi họ cần bánh ăn, cần áo mặc, cần được tiếp đón, cần tình liên đới”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Chúa Giêsu đã mở ra Vương quốc của Người, nhưng để được vào Vương quốc ấy, chúng ta phải bắt đầu ngay từ cuộc sống này, bằng cách thực thi những công việc trên. Và tình yêu thương dành cho người anh em thúc đẩy chúng ta chia sẻ với họ những gì quý giá nhất, nghĩa là chính Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người”.

Tình yêu có sức sáng tạo vô song

Đức Thánh Cha cũng nhắc đến 6 vị thánh mới được tôn phong vào đầu Thánh lễ:

2 vị người Ấn Độ: Cha Kuriakose Elias Chavara Thánh gia (1805-1871), linh mục Dòng Cát Minh, sáng lập Dòng Cát Minh Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và Chân phước Euphrasie Eluvathingal Thánh Tâm Chúa Giêsu (1877-1952), Dòng Chị em Đức Bà Cát Minh; và 4 vị người Ý: Đức giám mục Giovanni Antonio Farina (1803-1888), giám mục giáo phận Vicenza (Italia), sáng lập Dòng Chị em “Thánh Đôrôthêa Hai Thánh Tâm”; cha Ludovico de Casoria (1814-1885), Dòng Phanxicô, sáng lập Dòng Nữ tu Phanxicô Êlisabeth; thầy Nicola de Longobardi (1650-1709), Dòng Anh em hèn mọn thánh Phanxicô  Paola; Amato Ronconi (1226-1292), Dòng ba Phanxicô, thành lập Dưỡng đường dành cho Người hành hương nghèo ở Saludecio (Rimini).

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng 6 vị thánh mới của chúng ta “đã thực thi điều răn mến Chúa yêu người một cách hết sức sáng tạo. Các ngài đã hiến dâng cả đời mình chẳng so đo tính toán cho những người rốt hết, khi giúp đỡ người nghèo khổ, người đau ốm, người già cả, người lữ hành. Các ngài đã chọn lựa sống phục vụ người bé mọn và người nghèo túng, và đó chính là phản ánh và là thước đo tình yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa”.

An Phú Sĩ

Nhận biết Ý Chúa

Nhận biết Ý Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) – Sài Gòn – Nhận biết Ý Chúa là điều không dễ. Mà nhận biết rồi có vui vẻ chấp nhận hay không là việc khó, vì chúng ta thường không bằng lòng với những gì không hợp ý mình. Lời “xin vâng” của Đức Maria xem chừng dễ dàng quá, nhưng thực ra không phải vậy. Đức Mẹ mau mắn “xin vâng” vì Đức Mẹ yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vậy Thiên Chúa có cách chọn lựa đúng trong điều tôi quyết định?

141126005

Khi chúng ta xin ơn khôn ngoan để nhận biết Ý Chúa để chọn người bạn đời, nghề nghiệp, công việc, trường học, bạn bè,… hoặc bất kỳ điều gì, dù lớn hay nhỏ, khi đó có hai con đường khác nhau trước mắt chúng ta và chúng ta phải chọn lựa, Thiên Chúa có luôn là một con đường cho chúng ta? Nếu vậy, làm sao nhận biết?

Nhiều Kitô hữu “vật lộn” với vấn đề này vì không biết rằng các Kitô hữu ngày xưa có thể giúp chúng ta bằng kinh nghiệm của họ. Sự khôn ngoan Kitô giáo thể hiện qua đời sống và giáo huấn của các thánh cho chúng ta biết hai điều thích hợp với vấn đề này.

Thứ nhất, họ cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không chỉ biết và yêu thương chúng ta mà còn quan tâm từng chi tiết trong cuộc đời chúng ta, và chúng ta tìm theo Ý Chúa trong mọi sự, dù lớn hay nhỏ. Thứ hai, họ cho chúng ta biết rằng Ngài ban cho chúng ta sự tự do và lý luận vì Ngài muốn chúng ta dùng để quyết định. Truyền thống này được minh họa qua câu châm ngôn nổi tiếng của Thánh Augustinô: “Hãy yêu mến Chúa, rồi cứ làm những gì bạn muốn”. Nói cách khác, nếu bạn thực sự yêu mến Ngài và theo ý Ngài, bạn có thể làm bất cứ điều gì, vì đó là làm theo Ý Chúa.

Làm theo hai lời khuyên này sẽ đưa mình vào hai hướng trái chiều hoặc chỉ có vẻ như thế? Có sự thật trong cả hai, điều mà chúng ta nhấn mạnh để giải quyết vấn đề xem Chúa có muốn cho chúng ta hay không?

Tôi nghĩ về cách thứ nhất và câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này là còn tùy vào người yêu cầu. Chúng ta có xu hướng nhấn mạnh một nửa sự thật, và chúng ta có thể làm điều đó trong hai cách. Mọi tà thuyết trong lịch sử thần học đều hợp với kiểu này. Chẳng hạn, nhấn mạnh thần tính của Đức Kitô hơn nhân tính hoặc ngược lại; hoặc nhấn mạnh quyền tối cao của Chúa hơn ý muốn tự do hoặc ngược lại.

Đây là 5 nguyên tắc chung để nhận biết Ý Chúa về mọi vấn đề:

1. Luôn bắt đầu với các dữ liệu, những gì chúng ta biết chắc. Nhờ cái đã biết mà đoán cái chưa biết, nhờ cái chắc chắn mà đoán cái không chắc. Ađam và Eva đã coi thường nguyên tắc này ở Vườn Địa Đàng, làm ngơ lệnh truyền của Thiên Chúa và lời cảnh báo về lời hứa hảo huyền của ma quỷ.

2. Hãy để con tim điều khiển cái đầu. Hãy để lòng yêu mến Thiên Chúa hướng dẫn lý lẽ trong việc tìm Ý Ngài. Chúa Giêsu đã dạy người Pharisêu về nguyên tắc này: Họ hỏi Chúa Giêsu về cách hiểu lời Ngài, và Ngài đưa ra nguyên tắc đầu tiên về khoa chú giải (hermeneutics): “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. Ai muốn làm theo ý của Người thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. Ai tự mình giảng dạy thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính” (Ga 7:16-18). Các thánh hiểu Kinh Thánh hơn các thần học gia, vì họ biết tác giả Kinh Thánh là chính Thiên Chúa, bằng cách yêu mến Ngài bằng cả linh hồn và trí khôn.

3. Hãy mềm lòng chứ đừng cứng lòng. Chúng ta nên “khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu”, tinh thông như con cáo về tư tưởng trung thành như con chó trong ý muốn và hành động. Mềm lòng không có nghĩa là nhẹ dạ, và cứng đầu không có nghĩa là cứng lòng. Lòng chúng ta nên sẵn sàng “rỉ máu” và đầu chúng ta nên “giữ vững lập trường”.

4. Các dấu chỉ của Chúa theo dạng lượng giác học (trigonometry). Có ít là bảy dấu chỉ: (1) Kinh Thánh, (2) Giáo huấn của Giáo hội, (3) Lý lẽ của con người (do Thiên Chúa tạo nên), (4) Tình huống thích hợp (mà Ngài kiểm soát bằng sự quan phòng), (5) Lương tâm, biết đúng hay sai, (6) Ước muốn, bản năng hoặc xu hướng cá nhân, và (7) cầu nguyện.

Hãy trắc nghiệm sự chọn lựa bằng cách đặt mình trước mặt Chúa. Nếu một trong bảy điều nói KHÔNG thì đừng làm, nếu không điều nào nói KHÔNG thì cứ làm theo.

5. Hãy tìm kiếm hoa trái của Thánh Thần, nhất là ba điều này: Yêu thích, vui mừng, và bình an. Nếu chúng ta bực tức và lo lắng, không thích, không vui và không bình an, chúng ta không có quyền nói rằng chúng ta chắc chắn an toàn theo Ý Chúa. Sự nhận thức không nên cứng ngắc (nhắc), nông nổi, nóng vội, nhưng phải cảm thấy yêu thích, vui mừng và bình an – vì đó là một phần Ý Chúa đối với chúng ta, giống như trò chơi hơn là cuộc chiến, giống như viết thư tình hơn là thi tốt nghiệp.

Bây giờ đối với vấn đề của chúng ta. Thiên Chúa có chọn lựa đúng cho tôi? Nếu đúng, tôi phải tìm kiếm. Nếu không, tôi nên thoải mái hơn và chịu thiệt một chút.

Đây là 5 gợi ý trả lời: Câu trả lời tùy theo bạn là loại người nào. Tôi cho rằng nhiều dạng: (1) Công giáo, (2) những người chính thống và trung tín với các giáo huấn của Giáo hội, (3) những người bảo thủ, và (4) những người bị lôi cuốn. Tôi có nhiều người bạn – bạn tình cờ, bạn thân, và bạn rất thân – về dạng này trong nhiều năm. Thật vậy, tôi hợp với cách của tôi. Vì thế tôi nói theo kinh nghiệm khi tôi cho rằng những người thuộc dạng này có xu hướng mạnh về dạng tính cách nào đó – không tốt cũng không xấu – cần được nuôi dưỡng bằng một cách nhấn mạnh hơn cách khác. Dạng tính cách đối lập cần sự nhấn mạnh đối lập.

Dựa vào việc quan sát riêng về loại người này, gợi ý đầu tiên của tôi là chúng ta thường có xu hướng định hình theo ước muốn tốt để tìm Ý Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta đưa ra chứng cớ khủng khiếp đối với người không là Kitô hữu; chúng ta có vẻ không thoải mái để dừng lại ngửi những bông hồng của Chúa, để tận hưởng cuộc sống theo như Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta thường sợ hãi, bực bội, quan trọng hóa, thiếu khôi hài, và dễ tức giận. Tóm lại, đó là dạng “tiếp thị” không tốt cho Đức Tin của chúng ta.

Tôi không đề nghị chúng ta thỏa hiệp một chút đức tin để hấp dẫn những người không có đức tin. Tôi chỉ đề nghị chúng ta làm người. Cứ đi xem bóng đá. Cứ nhậu một chút, nếu biết uống. Đôi khi cũng cứ ngớ ngẩn một chút. Cứ thọc lét con cái và cùng vui vẻ. Hãy kể chuyện cười. Nói chung là cứ sống bình thường.

Đây là gợi ý thứ hai. Đa số các Kitô hữu, kể cả những người đạo đức, không biết những gì cần biết, đó là biết Ý Chúa qua từng cách chọn lựa của chúng ta. Hiếm lắm. Có thể điều gì đó quan trọng hơn là hiếm chăng? Có thể Thiên Chúa đã bỏ mặc chúng ta mà không gợi ý chăng?

Gợi ý thứ ba là Kinh Thánh. Trong đó có mọi tấm gương – đa số kỳ diệu, nhiều gương ngoạn mục – về việc Thiên Chúa mặc khải Thánh Ý Ngài. Nhưng các điều này được kể là mầu nhiệm: điều gì đó phi thường, chứ không chung chung.

Bóng tối và sự không chắc chắn thường xảy ra trong cuộc đời các thánh, kể cả đau khổ và nghèo nàn. Điều duy nhất phổ biến đối với nhân loại là Phúc Âm bảo đảm giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi (hậu quả của tội lỗi là chết chóc, sai lầm, sợ hãi), khỏi đau khổ và khỏi sự bất trắc. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rõ ràng và không sai lầm, chắc chắn Ngài sẽ nói với chúng ta một cách rõ ràng và dứt khoát.

Gợi ý thứ tư là điều Thiên Chúa ban cho chúng ta: Sự tự do. Tại sao? Có một số lý do chính đáng. Chẳng hạn, để tình yêu của chúng ta có thể có giá trị hơn so với tình yêu theo bản năng, cảm xúc động vật không tự do. Nhưng tôi nghĩ có lý do khác. Là một giáo viên, tôi biết thi thoảng tôi cũng nên từ chối trả lời học sinh để chúng cố gắng tự tìm đáp án, như vậy chúng mới có thể ghi nhớ và tự đánh giá tốt hơn, đồng thời chúng cũng biết cách tập phán đoán khi tìm câu trả lời. Cho ai con cá thì rồi bạn phải nuôi họ suốt đời, cho ai cần câu và dạy họ câu cá là bạn nuôi họ cả đời rồi. Thiên Chúa ban cho chúng ta một số cá lớn, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta quyền tự do bắt cá nhiều hoặc ít.

Lý lẽ và tự do luôn đi đôi với nhau. Thiên Chúa tạo dựng cả hai giống như Ngài. Ngài mặc khải cho cả hai: dự đoán đối với lý lẽ và mệnh lệnh đối với ý chí. Nhưng khi Ngài không cho chúng ta câu trả lời, dù chỉ là lý thuyết, khi áp dụng cách dự đoán hoặc suy luận, như vậy Ngài cũng không cho chúng ta câu trả lời về luân lý hoặc hướng dẫn cụ thể, khi áp dụng mệnh lệnh hoặc kết luận. Ngài ban cho chúng ta lý trí và luân lý để thực hiện, và chắc chắn Ngài không vui khi chúng ta chôn giấu “nén tài năng” mà không “đầu tư” để Ngài thấy chúng ta sinh lời khi Ngài trở lại.

Về giáo dục, tôi biết luôn có hai thái cực. Bạn có thể quá tân thời, quá thực nghiệm, quá triết lý, quá nguyên tắc hoặc quá dễ dãi. Nhưng bạn cũng có thể quá cổ hoặc quá cứng rắn. Học sinh cũng cần sáng kiến, sáng tạo và nền bản. Luật Chúa rất ngắn gọn. Ngài ban cho chúng ta Mười Điều Răn, chứ không trăm hoặc ngàn điều răn. Tại sao? Vì Ngài muốn sự tự do và sự biến đổi. Tại sao bạn nghĩ Ngài tạo dựng quá nhiều người? Tại sao không dựng một vài người? Vì Ngài thích các tính cách khác nhau. Ngài muốn ca đoàn của Ngài đồng ca chứ không hợp xướng (but not in unison).

Tôi biết các Kitô hữu muốn tự biết mình nhiều để có thể quyết định xem cái nào chính xác là Ý Chúa muốn đối với họ. Tôi nghĩ như vậy tốt hơn là nghĩ về Thiên Chúa và người lân cận nhiều, còn chỉ ít nghĩ hoặc không nghĩ về mình, theo bản năng mà không muốn biết gì thêm. Nếu bạn yêu mến Chúa và hành động theo Luật Chúa, tôi nghĩ Ngài muốn chúng ta thư giãn một chút đấy.

Tôi rất ấn tượng với hình ảnh hàng rào quanh sân chơi của Chesterton ở trên núi, trẻ em trong đó có thể chơi đùa mà không sợ rơi xuống vực thẳm. Đó là lý do Thiên Chúa ban Lề Luật cho chúng ta: Không làm chúng ta âu lo nhưng giữ an toàn cho chúng ta để chúng ta có thể thoải mái với những trò-chơi-cuộc-đời, vui vẻ và yêu thương.

Mỗi chúng ta đều có những năng khiếu và ước muốn khác nhau, nhưng đã bị nhiễm tội – nhiễm cả vào lý luận và cơ thể của chúng ta. Chúng ta thường theo bản năng thể lý (như sự đói khát và phản xạ tự vệ) và bản năng trí tuệ (như tính tò mò và lý luận). Tôi nghĩ Ngài muốn chúng ta theo con tim. Chắc chắn là vậy, nếu Thành yêu Tâm hơn yêu Mai, anh ta có lý để nghĩ rằng Thiên Chúa đang muốn anh ta kết hôn với Tâm hơn là với Mai. Tại sao chúng ta không xử lý các chọn lựa khác theo quy luật tương tự?

Dĩ nhiên tôi không nói rằng chúng ta hoàn toàn không sai lầm. Tôi cũng không nói rằng chúng ta chỉ có thể theo lý lẽ của con tim. Trên đây tôi đã đưa ra 7 hướng dẫn. Nhưng chắc rằng chính Thiên Chúa đã “thiết kế” trái tim chúng ta – trái tim tinh thần với ước muốn và ý hướng nhiều hơn trái tim thể lý với động mạch chủ và các van bơm. Cha mẹ chúng ta phạm tội và hướng dẫn sai lầm, nhưng Thiên Chúa ban họ cho chúng ta để chúng ta theo. Như vậy, trái tim cũng đáng theo mặc dù nó cũng đầy tội lỗi và sai lầm. Nếu trái tim chúng ta yêu mến Chúa thì đáng theo lắm. Nếu nó không yêu mến Chúa thì bạn đừng quan tâm vấn đề nhận biết Ý Chúa.

Đây là gợi ý thứ năm. Khi chúng ta theo lời khuyên của Thánh tiến sĩ Augustinô là “cứ yêu mến Chúa đi, rồi cứ làm những gì bạn muốn”, chúng ta thường có kinh nghiệm về nỗi buồn và sự bình an. Bình an là dấu ấn của Chúa Thánh Thần.

Tôi biết có vài người rời bỏ Kitô giáo vì họ thiếu sự bình an. Họ cố gắng trở thành “siêu Kitô hữu” về mọi thứ, và họ phải chịu áp lực. Họ nên đọc thư của Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Ga-lát.

Đây là gợi ý thứ sáu. Nếu Thiên Chúa có cách chọn đúng trong mọi điều bạn làm, bạn có thể rút kinh nghiệm. Nghĩa là Thiên Chúa muốn bạn biết căn phòng nào sạch nhất, phòng bếp hay phòng ngủ, và nên lấy cái dĩa nào trước, dĩa thịt hay dĩa nước chấm. Bạn thấy đó, nếu bạn thực hiện ẩn ý hợp lý của nguyên tắc này, điều đó sẽ buồn cười, không ổn, và không biết Chúa muốn chúng ta sống cách nào – cách được diễn tả trong Kinh Thánh và cuộc đời của các thánh.

Gợi ý thứ sáu là nguyên tắc có nhiều điều tốt. Nhưng đối với người nào đó, vẫn thường có vài cách chọn lựa đều tốt. Cái tốt là kính vạn hoa (kaleidoscopic), đa sắc biến đổi. Có nhiều con đường đúng. Con đường dẫn tới biển là đúng và con đường dẫn tới núi cũng đúng, vì Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi chúng ta ở cả hai nơi. Sự thiện có nhiều màu sắc. Chỉ có điều ác mới thiếu màu sắc và biến ảo. Trong Hỏa ngục không có màu sắc, không có tính cách cá nhân. Các linh hồn tan chảy như chì, hoặc bị nhai nghiến trong miệng của Quỷ vương. Hai nơi giống nhau trên thế gian là nhà tù và nơi thù hận, không như nhà thờ.

Có những cách chọn lựa đều tốt như nhau. Ví dụ, tình dục trong hôn nhân. Khi bạn sống trong Luật Chúa – không ngoại tình, không độc ác, không ích kỷ, không hành động bất thường (kế hoạch, dùng biện pháp ngừa thai) – thì mọi thứ đều “suôn sẻ”. Bạn thử tưởng tượng đi. Có phải Chúa muốn bạn ân ái với người bạn đời không? Đúng là một câu hỏi ngớ ngẩn! Thế nhưng ân ái với người bạn đời là điều tuyệt vời, là Ý Chúa đấy. Ngài muốn bạn làm những gì bạn muốn để người bạn đời biết đó là bạn chứ không phải ai khác.

Gợi ý thứ bảy là chính kinh nghiệm của tôi. Lần đầu tiên tôi viết tiểu thuyết, tôi biết cách viết. Đầu tiên, tôi trao phó cho Chúa, tôi nói với Ngài rằng tôi muốn viết về Nước Trời, và tôi tin Ngài hướng dẫn tôi. Sau đó, tôi theo sự hứng thú của tôi, cả bản năng và tiềm thức. Tôi cứ để mạch truyện chảy đi và các nhân vật cứ là chính họ. Thiên Chúa không khởi đầu hoặc kết thúc cho tôi. Ngài không làm gì cho tôi. Nhưng Ngài vẫn ở đó, giống như người cha hoặc người mẹ tốt.

Tôi nghĩ rằng cuộc đời chúng ta như một cuốn truyện. Chúng ta viết truyện về chính cuộc đời mình và chính mình (vì chúng ta tự định hình bằng cách chọn lựa, giống như bức tượng là chủ của điêu khắc gia vậy). Dĩ nhiên, Thiên Chúa là tác giả thứ nhất, là điêu khắc gia thứ nhất. Nhưng Ngài dùng những con người khác nhau để có những tác phẩm khác nhau. Ngài là tác giả từng cuốn trong bộ Kinh Thánh, nhưng tính cách của mỗi tác giả phàm nhân diễn tả theo văn chương phàm tục.

Thiên Chúa là người kể chuyện hoàn vũ. Ngài muốn các câu chuyện khác nhau. Ngài muốn bạn biết ơn Ngài về câu chuyện duy nhất từ ý muốn tự do và sự quyết định của bạn. Vì ý muốn tự do của bạn và kế hoạch đời đời của Ngài không là hai điều cạnh tranh, mà là hai phương diện của một vấn đề. Chúng ta không thể hiểu hết mầu nhiệm này trong cuộc đời mình, vì chúng ta chỉ thấy mặt dưới của tấm thảm. Nhưng tôi nghĩ rằng, một trong những điều ở trên trời là chúng ta sẽ chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài đã không để chúng ta nắm vô-lăng cuộc đời của mình – giống như cha mẹ dạy con cái lái xe vậy. Nếu không thì…! Thì sao? Bạn thấy Ý Chúa tuyệt vời không nào?

Khi cho chúng ta tự do, Thiên Chúa nói: “Mong ý con được trọn vẹn”. Một số người trong chúng ta quay lại và nói với Ngài: “Con muốn ý con sẽ được trọn vẹn”. Đó là vâng lời lệnh truyền thứ nhất và là lệnh truyền quan trọng. Rồi khi chúng ta làm vậy, Ngài nói với chúng ta: “Bây giờ, ý con được trọn vẹn”. Rồi Ngài viết câu chuyện về cuộc đời chúng ta bằng những nét tự do của chúng ta.

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo IntegratedCatholicLife.org)

Mùa Vọng: Tỉnh thức và Cầu nguyện

Mùa Vọng: Tỉnh thức và Cầu nguyện

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) – Sài Gòn – Cộng đoàn Taizé (Pháp) nổi tiếng về cách cầu nguyện, khuyến khích suy niệm Kinh Thánh, với các bài thánh ca diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Dầu trước khi chịu khổ nạn. Ca từ lặp đi lặp lại: “Hãy ở lại với Thầy, hãy ở lại đây với Thầy, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tỉnh thức và cầu nguyện…”.

Lời động viên này của Chúa Giêsu cũng giống như Mùa Vọng bắt đầu bằng lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào Chúa của anh em đến” (Mt 24:42; Mc 13:33).

141126004

Mùa Vọng là thời gian mong đợi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần – và ngày Ngài tái lâm. Chúng ta hát nguyện: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội. Maranatha! Lạy Chúa, xin hãy đến! Lạy Đấng Emmanuel, xin mau đến!”. Đấng mà chúng ta mong đợi là Thiên Chúa, là Đấng Mêsia. Ngài đến để bảo vệ chân lý, bảo vệ công lý, chứ Ngài không làm chính trị hoặc quân sự. Ngài khiêm nhường, tự hạ đến nỗi sinh làm một Hài Nhi nơi hang chiên lừa ngoài đồng hoang. Ngài vô gia cư! Còn chúng ta? Bạn làm gì trong Mùa Vọng này để chuẩn bị đón mừng Chúa giáng sinh? Đây là vài gợi ý:

TUẦN CẦU NGUYỆN GIÁNG SINH

Chúa Nhật I Mùa Vọng năm nay nhằm ngày 30 tháng Mười Một, lễ Thánh Anrê Tông Đồ. Nhiều người làm Tuần Cầu Nguyện từ ngày lễ Thánh Anrê, và cứ tiếp tục làm Tuần Cầu Nguyện vài lần cho tới lễ Giáng Sinh.

Việc cầu nguyện này giúp chúng ta chuẩn bị và hiểu biết về lễ Giáng Sinh. Mùa Vọng có lời cầu nguyện này: “Thật là hồng phúc trong giây phút Đức Trinh Nữ Maria sinh Con Thiên Chúa tại Belem vào nửa đêm, trong tiết trời giá lạnh. Lạy Thiên Chúa, xin chiếu cố chúng con, xin lắng nghe lời chúng con cầu nguyện, và ban cho chúng con trọn niềm mơ ước. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ, Con Thánh Mẫu Đồng Trinh Maria. Amen”.

KINH TRUYỀN TIN

Mỗi lần đọc Kinh Truyền Tin là chúng ta sống trong Mùa Vọng, giúp chúng ta tỉnh thức và mong chờ Con Chúa giáng sinh. Khi đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời Sứ thần Gáp-ri-en chào mừng Đức Maria, và đắm chìm vào Mầu nhiệp Nhập thể.

“Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta…”. Trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, chúng ta quỳ gối khi đọc đến câu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…”. Việc quỳ gối để thể hiện lòng tôn thờ Ngôi Hai trong Mầu nhiệm Nhập thể. Đức Mẹ đã chịu cực khổ khi mong đợi Con Thiên Chúa ra đời suốt hơn 9 tháng. Cùng với Đức Mẹ, chúng ta đọc Kinh Truyền Tin để tỉnh thức với Đức Mẹ để hạnh phúc thấy Bình Minh Cứu Độ.

KINH MÂN CÔI

Đọc Kinh Mân Côi để mong đợi Chúa giáng sinh, đặc biệt là Mùa Vui: “Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Xin cho con biết sống khó nghèo”. Kinh Mân Côi là kinh truyền thống lâu đời, mỗi khi suy niệm mầu nhiệm thứ Nhất và thứ Hai của Mùa Vui, chúng ta sống trong Mùa Vọng. Mỗi khi suy niệm mầu nhiệm thứ Ba của Mùa Vui, chúng ta sống trong lễ Giáng Sinh.

XƯNG TỘI

Xưng tội là việc cần thiết, không thể thiếu trong Mùa Vọng, vì đó là cách chúng ta giao hòa với Thiên Chúa, dọn lường cho Chúa Giêsu đến. Linh hồn sạch tội mới xứng đáng là “hang đá” cho Con Thiên Chúa ngự vào: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Đồng thời chúng ta cùng Đức Mẹ tôn vinh Thiên Chúa qua bài Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người…” (Lc 1:46-55). Ngoài ra, chúng ta nên có một cuốn sách để đọc trong Mùa Vọng, gọi là đọc sách thiêng liêng.

Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Xin cho con được thấy tỏ tường phần phúc lộc dành cho những người được Chúa chọn, để chúng con được vui niềm vui dân Chúa và cùng hiên ngang với gia nghiệp của Ngài” (Tv 106:4-5).

TRẦM THIÊN THU (Viết theo IgnitumToday.com)