Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc?

Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc?

Nguoi-viet.com


Ngô Nhân Dụng

Thứ Hai đầu tuần này có hai cuộc họp quan trọng, một ở nước ta, một ở Mỹ, bàn về tương lai Việt Nam trong năm năm tới. Trong cả hai hội nghị, không ai đưa cây đinh ốc vào chương trình nghị sự, thật đáng tiếc.

Câu chuyện cái đinh ốc bùng lên trong nước từ Tháng Chín. Báo chí đăng tin công ty Samsung điện tử thú nhận cơ xưởng ráp máy điện thoại của họ ở Bắc Ninh không tìm ra xí nghiệp nào của người Việt Nam có thể cung cấp những cây đinh xoắn trôn ốc, còn gọi là ốc vít.

Tại sao nhân dân ta anh hùng vẫn chưa làm được cái đinh ốc, sau 70 năm tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, và sau 30 năm đổi mới kinh tế cho nó giống xã hội tư bản thời hoang sơ? Trong hai cuộc hội nghị ở Boston và Hà Nội không ai trả lời cho câu hỏi đó.

Cuộc hội thảo, tổ chức tại Ðại Học Harvard ngày 5 Tháng Giêng năm 2015, bàn về “Các chính sách cho kinh tế Việt Nam trong năm năm tới.” Chương trình buổi sáng dành cho các chính sách gọi là vĩ mô, tức là những vấn đề lớn lao cho toàn thể kinh tế quốc dân như lạm phát, tiền tệ, thất nghiệp, vân vân. Giữa các chuyện to lớn đó, những cái đinh ốc nhỏ bé không thể chen chân vào được. Buổi chiều, các chuyên gia lại dành thời giờ tìm hiểu xem họ đang nghiên cứu những cái gì về kinh tế Việt Nam. Những cây đinh ốc chắc chắn không có cơ hội nào xuất hiện!

Trong cùng ngày Thứ Hai, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản khai mạc, trễ một tháng. Hội nghị này sẽ bỏ phiếu tín nhiệm cho các nhà lãnh đạo mà họ bầu ra từ đại hội trước; đồng thời sẽ bàn về “công tác nhân sự” đại hội thứ 12 năm 2016, tức là xem ai còn, ai mất, ai sẽ ngồi vào cái ghế nào. Trước ngày họp, dân lên mạng ở Việt Nam đã được chứng kiến cuộc đấu đá công khai giữa các phe trong đám Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang. Chủ yếu là phao tin đồn, chửi rủa, phe này bới móc phe khác. Khi họ vào họp, chắc chắn không ai nghĩ tới câu chuyện Samsung không dùng được những cái đinh ốc làm ở Việt Nam.

Câu chuyện hãng Samsung và những cây đinh ốc đáng chú ý vì trong năm 2013 Samsung ở Việt Nam (Samsung Electronics Vietnam, hay SEV) đã xuất cảng số điện thoại di động trị giá 23.9 tỷ đôla, gần bằng một phần năm (18%) tổng số tiền cả nước thu được nhờ xuất khẩu. Trong số hơn 400 triệu máy điện thoại di động mà Samsung bán ra trên thế giới thì số máy từ các nhà máy ở Bắc Ninh, Thái Nguyên chiếm 35% – trong tương lai sẽ tăng lên 50%. Ðể lắp ráp hơn 140 triệu cái máy đó, Samsung phải dùng các bộ phận, gọi là linh kiện, trị giá các bộ phận này lên tới gần 20 tỷ (19.8 tỷ) đô la. Tất nhiên, những bộ phận đắt tiền nhất do chính Samsung làm ra ở nước họ, Nam Hàn. Nhưng còn rất nhiều thứ bộ phận họ có thể mua ở các nước khác, rẻ hơn là làm tại Hàn Quốc. Nếu Samsung mang tất cả các bộ phận từ Nam Hàn qua thì nền kinh tế địa phương sẽ bất lợi. Chính phủ nước nào cũng yêu cầu các công ty ngoại quốc phải đặt mua nhiều hàng “bản xứ” để giúp các xí nghiệp địa phương. Nếu các xí nghiệp Việt Nam có cơ hội cung cấp một số bộ phận cho Samsung thì họ sẽ tạo thêm công việc làm cho công nhân Việt Nam.

Vậy người Việt Nam đã bán cho Samsung được những thứ gì?

Bộ Công Nghiệp, Thương Mại trong chính phủ đã trình làng một bản danh sách dài liệt kê 144 thứ bộ phận do các công ty ở Việt Nam cung cấp cho SEV; thí dụ pin điện, núm nghe đặt vào tai, USB chứa dữ liệu, giấy cách nhiệt, vân vân. Trong đó, 91 món dùng để ráp máy điện thoại Galaxy S4, 53 món cho loại “độc bản” (tablet) đường chéo 7 đốt (7 inches). Riêng hãng Samsung cho biết họ sẽ tăng số bộ phận đặt mua tại Việt Nam lên 170 món.

Nhưng rốt cuộc, có 67 doanh nghiệp cung cấp các linh kiện cho SEV; đại đa số là các doanh nghiệp của người Ðại Hàn, Nhật Bản, Singapore, Mã Lai. Chỉ có bốn doanh nghiệp Việt Nam cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho SEV, mà việc chính của họ là làm bao bì, in ấn.

Ông Shim Won Hwan, tổng giám đốc Samsung ở Việt Nam mới nói tại một hội thảo tại Hà Nội vào tháng Chín vừa qua, rằng “không doanh nghiệp Việt Nam nào ‘nắm bắt’ được cơ hội, họ chỉ cung ứng được nng sản phẩm in ấn, bao bì!” Còn những thứ “cao cấp” như cái đinh ốc vít, người Việt Nam làm không được theo tiêu chuẩn của Samsung! Họ cũng không kiếm mua được những bộ phận “sạc” điện cho cell phone do người Việt Nam làm.

Giáo Sư Nguyễn Mại, chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Ðầu tư Nước ngoài (VAFIE) xác nhận đây là tình trạng chung. Ông nói rằng các doanh nghiệp nước ta không thể cung cấp những món giản dị, rẻ tiền như bộ phận sạc pin, đinh ốc vít cho các doanh nghiệp vốn ngoại quốc. Ông Vũ Tiến Lộc, chủ tịch Phòng Thương Mại Công Nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết thêm rằng trước đây các công ty Nhật làm việc tại như Canon, Sony, cũng chỉ đặt mua bao bì của người Việt, những thứ khác không mua được hàng đúng tiêu chuẩn! Nghĩa là khi xuất khẩu một món hàng của Canon, Sony hay Samsung, trong một trăm đồng đô la thu vào thì người Việt Nam, kinh tế Việt Nam chỉ thực sự lãnh được một đồng hay hai đồng mà thôi. Ðó là tiền công lắp ráp và cung cấp bao bì. Ngay trong giá bán các thứ bao bì cũng vẫn có một phần phải trả lại cho nước ngoài, vì mình mua các chất làm giấy, làm plastic, mua mực tốt đủ tiêu chuẩn, vân vân. Ðó là hình ảnh một nền công nghiệp ăn mày. Bao giờ các doanh nghiệp nước ta còn chưa làm nổi cây đinh ốc thì cả nước vẫn còn đi ăn mày như thế.

Ông Vũ Tiến Lộc giải thích “nguyên nhân sâu xa là môi trường kinh doanh tại Việt Nam chưa thực sự bình đẳng.” Môi trường như thế nào mà không bình đẳng? Ông Lộc nêu một thí dụ: “nhiều doanh nghiệp không nhất thiết đầu tư vào công nghệ, quản trị nhưng vẫn cạnh tranh được nhờ vào mối quan hệ.” Nói rõ hơn là như thế này: Có doanh nghiệp tư nhân cố đổ thêm tiền bạc, thời giờ cải thiện kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị cho hiệu quả hơn, nhưng vẫn thua các doanh nghiệp chẳng làm gì cả. Chỉ vì những anh không làm gì cả đó hoặc là của nhà nước, hoặc do các cán bộ, đảng viên cộng sản cầm đầu, họ có “quan hệ” cho nên khi cần vay tiền là có tiền, vay với lãi suất thấp, khi cần thì xin giấy phép gì cũng nhanh, mua bán gì cũng dễ. Còn các xí nghiệp tư nhân cái gì gặp cũng khó, cũng chậm, bị hoạnh họe đủ thứ.

Vì vậy, Giáo Sư Tạ Lợi, Ðại học Kinh tế Quốc dân, nhận xét rằng “doanh nghiệp và cơ quan chức năng (tức các đấng cán bộ ngồi bàn giấy) vẫn như hai bánh xe răng cưa chạy hai hướng khác nhau.” Một người lãnh đạo công ty Ðiện Tử và Dịch Vụ Công Nghiệp Sài Gòn (Sagel) cho biết ngày xưa Sagel từng đầu tư để sản xuất một số hàng xuất khẩu; nhưng “việc xin giấy phép phải mất 3 năm, khi mình xin giấy phép xong, khởi sự đầu tư thì trên thế giới nhiều sản phẩm đã thay đổi, công nghệ đã khác trước rồi.” Có người thú nhận trong một cuộc hội thảo, “Giờ công nghệ ta thua Campuchia, họ làm được ô tô, ta có làm được đâu?”

Tất nhiên, nếu chưa ráp được cái ô tô thì có thể làm ra được những cái đinh ốc để ráp ô tô. Nếu không thì lại chỉ ráp bằng những thứ bộ phận được chế tạo ở Nam Hàn, Nhật Bản, Ðài Loan, Singapore, Mã Lai, Indonesia, Campuchia, vân vân. Nghĩa là suốt đời làm những công việc lương thấp nhất thế giới, thứ lương bổng ăn mày!

Tại sao Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản không bàn gì về những cái đinh ốc? Bởi vì mối lo lắng của họ không phải là chuyện người Việt Nam có làm ra nổi cái đinh ốc hay không. Không phải là các xí nghiệp Việt Nam làm ra được cái gì! Quanh năm, suốt tháng, cả ngày, suốt 24 giờ, họ chỉ lo làm sao bảo vệ quyền hành và lợi lộc cho bản thân và cho phe đảng. Họ sinh ra dưới một chế độ như vậy, được đào tạo như vậy. Trong tất cả các nước độc tài, cộng sản hay không cộng sản, hệ thống thăng tiến xã hội đều theo nền nếp đó. Những cuộc đấu đá trên mạng gần đây cho thấy, những phe Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang không một anh nào trình bày cho mọi người thấy phe mình có những chính sách nào tốt hơn phe bên kia. Bởi vì phe nào cũng vậy, họ không coi chuyện nước Việt Nam có sản xuất được đinh ốc là chuyện quan trọng. Ít nhất, không có thứ tự ưu tiên bằng vấn đề họ có còn giữ được địa vị và của cải hay không! Họ chỉ đem nhau ra chửi, bên này chửi bên kia tham nhũng hơn mình. Một phe tố cáo Trần Văn Truyền nhà cao cửa rộng thì phe bên kia tố giác Nguyễn Xuân Phúc còn nhiều nhà cửa hơn. Vì vậy, Hội nghị Trung Ương Ðảng chắc chắn không có thời giờ bàn chuyện những cái đinh ốc.

Còn quý vị kinh tế gia, khoa học gia họp tại Boston, họ cũng không bàn đến những cái đinh ốc nhưng vì lý do khác. Họ chỉ bàn các vấn đề lớn, gọi là kinh tế vĩ mô mà thôi. Việc sản xuất đinh ốc chắc chắn là chuyện nhỏ, kinh tế học gọi là vi mô. Lý do, không phải vì thân phận những cái đinh ốc quá nhỏ! Lý do chính là việc sản xuất và phân bố hàng hóa, dù nhỏ như cây đinh ốc, lớn như cái máy bay, đều thuộc phạm vi nghiên cứu kinh tế vi mô.

Môn kinh tế học vi mô khảo sát cơ cấu vận động xem các doanh nghiệp làm ăn theo những quy luật nào, cạnh tranh, trao đổi với nhau ra sao. Nếu sống trong môi trường theo đúng quy luật tự do cạnh tranh, trong khung cảnh pháp lý có luật pháp rõ ràng, công khai và công bằng, thì các tự nhiên doanh nghiệp phải chạy đua với nhau chế ra những thứ hàng tốt nhất với giá thành rẻ nhất. Còn trong khung cảnh kinh tế bao cấp xã hội chủ nghĩa thì các doanh nghiệp không được khích lệ một cách tự nhiên để làm ăn như vậy. Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước không cần cải thiện về kỹ thuật hay quản trị hữu hiệu, cũng vẫn thăng quan tiến chức. Họ chỉ cần đứng trong phe đang lên là vững chân. Cho nên, như ông Trần Việt Thanh, thứ trưởng Bộ Khoa Học Công Nghiệp công nhận, “phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đang dùng các kỹ thuật lạc hậu đi sau thế giới trung bình 2 đến 3 thế hệ.” Cũng vậy, không ai lo cải thiện năng suất lao động, cải tổ phương pháp quản lý. Vì chúng ta đã biết, cha chung thì không ai khóc!

Từ thập niên 1990, người ta đã nhận thấy một khuyết điểm của việc cải tổ kinh tế các nước cựu Cộng Sản là chỉ chú trọng các vấn đề vĩ mô. Bởi vì phần lớn các chuyên gia kinh tế được dùng ở ở Liên Xô cũ và Ðông Âu đều chuyên học ngành kinh tế vĩ mô. Rất hiếm người đào tạo trong ngành quản lý, ít người có kinh nghiệm về điều khiển các xí nghiệp thật sự, từ sản xuất đến tiếp thị. Thất bại ban đầu của những kế hoạch cải tổ kinh tế là do hành vi của các doanh nghiệp, phản ứng của họ không giống các thói quen trong kinh tế thị trường thực sự. Họ vẫn theo thói quen thời “bao cấp” chứ không hành động theo lối thị trường. Các chính sách vĩ mô trở thành vô hiệu vì cơ cấu vi mô chưa được cải tổ.

Câu chuyện hãng Samsung và những cây đinh ốc cho thấy trở ngại lớn nhất khiến kinh tế nước ta không tiến được là do một đảng chiếm độc quyền cả về chính trị lẫn kinh tế suốt 70 năm qua.

Cuối cùng, muốn vực dậy kinh tế Việt Nam trong năm, mười năm tới vấn đề quan trọng nhất không phải là những chính sách vĩ mô như tiền tệ, lạm phát, kích cung hay kích cầu. Quan trọng nhất là chấm dứt tình trạng độc quyền nắm cả nền kinh tế của một nhóm người gian tham và dốt nát. Muốn vậy, trước hết phải chấm dứt độc quyền cai trị của đảng cộng sản Việt Nam. Chấm dứt chế độ Cộng Sản rồi mới hy vọng sau ba năm, năm năm, có doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu sản xuất được những cái đinh ốc đúng với tiêu chuẩn của Samsung, Canon hay Sony!

Trung Quốc bắt giữ 680 nghi can tham nhũng trốn ra nước ngoài

Trung Quốc bắt giữ 680 nghi can tham nhũng trốn ra nước ngoài

Chuacuuthe.com

VRNs (09.01.2015) -Sài Gòn- Hãng tin Reuters dẫn thông tin từ Bộ Công an Trung Hoa cho biết, có 680 trường hợp tình nghi hối lộ và các tội phạm kinh tế đã bị bắt giữ, trong một chiến dịch chống tham nhũng nhằm vào các nghi phạm đã trốn ra nước ngoài.

Con số này nhiều gấp 4,5 lần số quan chức bị bắt vì tham nhũng trong năm 2013.

Chính phủ đã phát động “chiến Dịch Săn Cáo” từ năm ngoái nhằm mục đích săn lùng các quan chức và doanh nhân đã bỏ trốn ra nước ngoài  cùng với các tài sản bất chính của họ.

“Đây là một thắng lợi to lớn với  kết quả đáng ghi nhận,” quan chức Bộ Công An cho biết. Trong tổng số 680 nghi phạm bị bắt giữ, 117 người đã nằm trong hồ sơ nghi vấn từ hơn một thập kỷ qua, 390 nghi phạm đã tự về nước đầu thú.

Tổ chức Tài Chính Toàn Cầu có trụ sở tại Washington cũng cho biết hơn 1,008 tỉ Mỹ kim đã bị luồn ra khỏi Trung Hoa một cách bất hợp pháp từ năm 2002- 2011.

Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát động chiến dịch chống tham nhũng từ khi ông nhậm  chức vào năm 2013,  nhưng việc điều tra và thu hồi tài sản bất hợp pháp từ nước ngoài đã gặp rất nhiều khó khăn vì Trung Hoa không có hiệp ước đẫn độ với Hoa Kỳ và Canada. Đây là 2 điểm đến phổ biến của các nghi phạm kinh tế.

Các phương tiện truyền thông Trung Hoa cho biết nước này đang thỏa thuận ký kết hiệp ước dẫn độ với Hoa Kỳ nhằm thu hồi nguồn tài sản bất chính từ các quan chức tham ô.

Tuy nhiên các nước phương Tây vẫn còn ngần ngại trong việc ký kết hiệp ước dẫn độ với Trung Hoa. Tính toàn vẹn của hệ thống tư pháp và tình trạng đối xử các tù nhân là nguyên nhân của các lo ngại này. Các nhóm nhân quyền cho biết tình trạng tra tấn  và bản án tử hình rất phổ biến trong các trường hợp tham nhũng.

Bách Hợp

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

Tác giả: Uwe Siemon-Netto

(http://www.legion.org/magazine/217890/wrong-side-won)

Người dịch: Trần Văn Minh

01-12-2013

clip_image002

Một phụ nữ Việt đang than khóc bên cạnh xác chồng, được tìm thấy trong số 47 người khác tại một ngôi mộ tập thể gần Huế. Ảnh Corbis

Vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, Ralph White đã tìm cách gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng bị từ chối vì mắt bị chấn thương khi chơi tennis trước đó. Tuy nhiên, khi cuộc chiến đầy biến động gần tới hồi kết thúc hồi tháng 4 năm 1975, ông White khi ấy 27 tuổi, đang ở Sài Gòn, đã làm đúng với phương châm người lính thủy quân lục chiến “luôn luôn trung thành” – chỉ với phương cách dân sự.

Bằng cách khuyến dụ, thuyết phục và khéo léo qua mặt các thủ tục hành chánh, White đã tìm được một phương cách tuyệt vời để cứu thoát 112 nhân viên Việt Nam của Ngân hàng Chase National Bank và những người gia đình của họ: ông chỉ đơn giản nhận bảo trợ tất cả những người đó, trước sự chứng kiến của các thẩm phán Mỹ đang làm nhiệm vụ khẩn cấp tại sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Trong khi đối mặt với thất bại sắp xảy ra của đồng minh Hoa Kỳ là người Việt ở miền Nam, người công dân Mỹ này đã đạt được một chiến thắng tuy nhỏ bé nhưng thật nổi bật.

Bốn ngày sau đó, vào ngày 30 tháng 4, xe tăng T-54 của Liên Xô đã hoàn tất cuộc chinh phục của cộng sản đối với miền Nam Việt Nam bằng cách cán qua cổng rào của dinh tổng thống ở Sài Gòn. Ở bên trong, Tổng thống miền Nam, Việt Nam là ông Dương Văn Minh (Big Minh) đề nghị chuyển giao quyền hành. Đại tá Bắc Việt Bùi Tín trả lời: “Không có chuyện chuyển giao quyền lực… Ông không thể chuyển giao cái mà ông không có”.

Đối với tôi, một người Đức, những lời này nghe có vẻ giống các điều khoản của Đồng Minh áp đặt lên đất nước chúng tôi năm 1945, khi tôi còn là một đứa trẻ: đầu hàng vô điều kiện. Sự trớ trêu là trong khi vào cuối Đệ Nhị Thế chiến, một chính phủ rõ ràng là độc ác đã bị buộc phải đầu hàng theo cách này, điều trái ngược lại xảy ra 30 năm sau ở Sài Gòn: một chế độ độc tài toàn trị với các đặc điểm vô nhân đạo đến tận cùng uy hiếp một đối thủ nhân đạo hơn nhiều – mặc dù có những khuyết điểm – vào tình thế đầu hàng vô điều kiện, và được thế giới hoan hô.

Sau thời gian tường thuật về Việt Nam cho một nhà xuất bản lớn nhất của Tây Đức trong khoảng thời gian 5 năm, tôi kết luận rằng: kẻ xấu đã thắng. Không có lý do gì để vui mừng. Tuy nhiên, khi Tổng thống Gerald Ford tuyên bố tại Đại học Tulane ở New Orleans rằng chiến tranh Việt Nam “đã chấm dứt, ít nhất là đối với Hoa Kỳ”, một tuần trước khi miền Nam, Việt Nam cuối cùng đã bị tiêu diệt, ông đã nhận được sự hoan hô nồng nhiệt.

Đáng lẽ ra các phản ứng này nên được kềm lại trước số phận tăm tối của số lượng lớn những người Việt bị chuyển giao. Đối với họ, hành trình tử nạn thực sự chỉ mới bắt đầu với chiến thắng của cộng sản. Khoảng từ 200.000 tới 400.000 người đã bị chết chìm trong khi chạy trốn khỏi đất nước của họ trên những chiếc thuyền đánh cá và thuyền chắp vá tạm bợ, theo Cao ủy LHQ về người tị nạn. Khoảng 65.000 người đã bị hành quyết. Một triệu người bị đẩy vào các trại tập trung, ở đó, 165.000 người bị tra tấn hay bị bỏ đói đến chết. Trong số những người bị giết gồm có 30.000 người trong danh sách tình báo viên của CIA bị sót lại tại tòa đại sứ, theo tường trình của National Review.

Tính theo tỷ lệ, Ralph White thành công vượt trội so với chính phủ Hoa Kỳ: anh đã đem được tất cả người của mình ra, như đã dự tính khi anh tình nguyện chuyển từ Bangkok đến Sài Gòn để làm quyền tổng giám đốc cho chi nhánh Chase ở Việt Nam hai tuần trước khi Sài Gòn thất thủ. Trong báo cáo với cấp trên của mình tại Chase sau này, ông viết rằng “việc duy trì mối liên lạc giữa ngân hàng Mỹ và tòa đại sứ để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong kế hoạch di tản” là “mục đích duy nhất” cho sứ mạng của anh.

“Đọc lại báo cáo của mình làm cho tôi khá tự hào về người đàn ông 27 tuổi này,” Ông White, người bây giờ là một nhà văn ở Litchfield, Connecticut cho biết.

Gần bốn thập niên sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, tôi gặp một câu chuyện cảm động về một công dân Mỹ dũng cảm và trung thành với những giá trị của mình như bất cứ người lính nghiêm chỉnh nào. Patricia Palermo là một cô gái tiếp viên hàng không tóc vàng của hãng máy bay Pan Am từ Nebraska, tình nguyện làm tiếp viên trưởng cho các chuyến bay liên tục từ Guam đến Sài Gòn, đưa “những chàng trai trẻ má hồng và tinh thần phấn khởi” ra mặt trận, như cô nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn gần đây. “Khi tôi thấy họ một lần nữa 12 tháng sau đó, họ trông giống như những người đàn ông 50 tuổi. Nhiều người bị thương và tàn phế, một số bị đánh thuốc mê. Họ không được phép lên máy bay cho đến khi sau những ‘người trở về’ khác đã được xếp vào khoang hàng hóa – những người nằm trong quan tài kẽm”.

Palermo hiện đang sống ở New York, cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng bà bị tác động tình cảm dữ dội về các chuyến bay này đến nỗi bà đã loại ra khỏi tâm trí của mình cho đến năm 1980, khi bà xem trên truyền hình về tường thuật trực tiếp cuộc diễu hành đầu tiên vinh danh các cựu chiến binh Việt Nam. “Tôi lập tức lao ra khỏi nhà và cùng tham gia”, bà nhớ lại.

Phần đáng ghi nhớ nhất trong sự nghiệp hàng không của mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi Pan Am đem ít nhất 2.000 trẻ sơ sinh, hầu hết là người Mỹ gốc Á đang chờ được nhận làm con nuôi ở Hoa Kỳ, ra khỏi Sài Gòn. “Chúng tôi không được phép rời khỏi máy bay vì hỏa lực địch, nhưng chúng tôi có thể thấy một số bà mẹ tuyệt vọng ném con em của họ qua hàng rào tại Tân Sơn Nhất để được phi hành đoàn chúng tôi đưa đến nơi an toàn. Tôi nhớ một ai đó đưa cho tôi hai em bé giấu trong một cái giỏ. Một lần tôi đếm được hơn 400 trẻ sơ sinh trên chiếc máy bay Boeing 747 của chúng tôi. Trẻ sơ sinh ở khắp mọi nơi, ngay cả trong các ngăn để hành lý phía trên chỗ ngồi, và chúng nó rất yên lặng, luôn luôn yên lặng…. “

Tôi đã chứng kiến sự sụp đổ của Sài Gòn trên truyền hình trong căn chung cư của tôi ở Paris với nỗi đau buồn và tức giận vô cùng. Tôi ngạc nhiên trước việc thi hành hoàn hảo Chiến dịch Gió lốc, đã di tản 1.373 người Mỹ cuối cùng, cộng với 5.595 người Việt Nam và người các nước khác, chủ yếu bằng máy bay trực thăng từ một bãi đáp trên nóc nhà của văn phòng tùy viên quân sự ở Tòa Đại sứ Mỹ ngày 29 và 30 tháng 4. Tôi đã ở đó bảy năm trước trong dịp Tết Mậu Thân và theo dõi từ bên kia đường cuộc tấn công bị đánh bại của cộng sản vào Tòa Đại sứ. Bây giờ họ sắp sửa chiến thắng; vì thế tôi đau buồn.

Tuy nhiên, cơn giận của tôi chủ yếu hướng về các sinh viên và trí thức, những người cổ vũ chiến thắng của cộng sản là một hành động giải phóng. Họ hành xử như thế ở khắp mọi nơi: bên kia sông Seine ở Bờ trái; ở đất nước của tôi, Tây Đức; và ở Hoa Kỳ. Chứng kiến một biển cờ Việt Cộng màu xanh đỏ trên TV làm cho tôi cảm thấy muốn mửa, bởi vì đối với tôi, những màu sắc này tiêu biểu cho các vụ thảm sát tàn khốc mà tôi đã chứng kiến ở Việt Nam.

Chẳng hạn như, một đêm ở Tây Nguyên, tôi đã tình cờ gặp những xác chết bị chặt chân tay của một ông xã trưởng, vợ ông và 12 đứa con của họ, tất cả đã bị các tay sai cộng sản tra tấn. Theo như những người dân làng nói với tôi, gia đình đó đã bị giết chết bởi vì ông xã trưởng vẫn trung thành với chính quyền Sài Gòn. Đó là vào năm 1965. Trong năm 1967 là năm bầu cử, Việt Cộng đã thi hành ít nhất 100.000 hành vi khủng bố như thế chống lại dân thường để ngăn cản họ không đi bỏ phiếu.

Khi xướng ngôn viên Pháp thông báo sự kết thúc của miền Nam Việt Nam, tự nhiên tôi với lấy một cuốn sách nằm trên bàn cạnh giường ngủ của tôi ở khách sạn Continental Palace ở Sài Gòn và tôi mang theo tới Paris: “Hai nước Việt Nam”. Tôi đã từng gặp tác giả cuốn sách, nhà khoa học chính trị Pháp Bernard B. Fall, nhiều lần ở Sài Gòn và Washington trước khi ông bị giết bởi một quả mìn Việt Cộng. Đối với tôi, ông là một trong những chuyên gia sắc bén nhất về Đông Dương. Một đoạn trong cuốn sách của ông đã ám ảnh tôi từ đó đến giờ. Fall trích lời một chiến lược gia chủ yếu của Bắc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã qua đời ngày 4 tháng 10 [năm 2013] ở tuổi 102, nói với các chính ủy của một trong những sư đoàn của ông: “Kẻ thù (có nghĩa là phương Tây) … không có… các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài”.

Giáp chưa bao giờ nghi ngờ khả năng quân sự của Mỹ, nhưng tin rằng ông đã tìm thấy gót chân Asin của hệ thống dân chủ, như Fall giải thích: “Trong tất cả các khả năng, Giáp kết luận, công luận trong các nền dân chủ sẽ đòi hỏi chấm dứt sự ‘đổ máu vô ích’, hay cơ quan lập pháp của họ sẽ yêu cầu được biết trong bao lâu nữa họ sẽ phải bỏ phiếu gia tăng không ngừng tín dụng khi không có một chiến thắng rõ ràng trước mặt. Đây là những điều luôn luôn bắt ép các nhà lãnh đạo quân sự của các quân đội dân chủ phải hứa hẹn một kết thúc nhanh chóng cho cuộc chiến – để ‘đưa các chàng trai về nhà vào dịp Giáng sinh’ – hoặc buộc các chính trị gia dân chủ phải đồng ý với hầu hết các loại thỏa hiệp nhục nhã, thay vì chấp nhận ý tưởng về chiến dịch chống du kích bán thường trực”.

Phải chăng sự thể thảm khốc này nảy sinh từ thất bại của Washington trong việc đáp trả, như đã hứa, “với lực lượng quân sự đáng kể” đối với bất kỳ vi phạm nào của Bắc Việt trong việc thi hành Hiệp Định Paris 1973, tôi tự hỏi? Hiệp định đã cho phép Hà Nội giữ lại 80.000 quân chính quy ở miền Nam, nhưng không có gì xảy ra khi con số đó tăng lên đến 200.000. Khi thảm kịch Việt Nam diễn ra quá tàn khốc, tôi cũng tự hỏi làm thế nào chúng tôi trong giới truyền thông, bao gồm đại đa số trong chúng tôi không đứng về phía Việt Cộng (một cách công khai hay âm thầm), đã không làm cho độc giả của chúng tôi nhận ra những bằng chứng không thể chối cãi nhất, rằng hầu hết người dân miền Nam không bao giờ ủng hộ cộng sản: từ đầu, chúng tôi, các phóng viên, đã nhìn thấy họ chạy trốn Việt Cộng.

Họ chạy trốn không phải vượt qua sông Bến Hải vào Bắc Việt, cũng không vào cái gọi là vùng giải phóng – “giải phóng” bởi những người cộng sản. Cho đến cuối cùng, những người tị nạn đổ xô về phần thu hẹp của đất nước dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn; 2 triệu người đổ vào thành phố Đà Nẵng. Những con đường về Sài Gòn đã quá đông đúc với những gia đình chạy trốn đến nỗi làm chậm lại bước tiến quân của Bắc Việt, và khi mọi chuyện lắng dịu, “thuyền nhân” không những ra đi từ phía Nam với số lượng khổng lồ mà còn từ các cửa khẩu phía Bắc. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có một cuộc di cư hàng loạt khỏi đất nước như vậy – không phải trong những ngày dưới quyền Trung Hoa, Pháp hay Mỹ. Và điều này được cho là giải phóng? Bằng cách nào đó, lúc đó tôi nghi ngờ và bây giờ đã tin, lối lập luận đó là một trong những thiệt hại của chiến tranh Việt Nam. Và cũng như sự trung thực trí thức.

Một hình ảnh lóe sáng trên màn hình TV ở Paris đã ghi khắc trong tôi nhiều thập niên vì đã đâm sâu vào suy tư của tôi. Hình ảnh cho thấy Phó Tổng thống Miền Nam Nguyễn Cao Kỳ đang cầm lái chiếc trực thăng UH-1A (Huey) hạ cánh trên boong của hàng không mẫu hạm USS Midway. Tôi đã được biết ông Kỳ khá rõ và thích ông. Đúng thế, ông là tướng lãnh hào nhoáng của Không lực Việt Nam, một con công như nhiều nhà quân sự trong suốt lịch sử. Nhưng ông không phải là anh hề quanh co như thường được mô tả.

Sáu năm trước, tháng 5 năm 1969, Kỳ và tôi đã đi du lịch với nhau từ Paris đến vào Sài Gòn, nơi tôi làm phóng sự về các cuộc đàm phán hòa bình của Việt Nam và ông dẫn đầu đoàn đại biểu Sài Gòn. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi lủng củng một cách bất thường, có lẽ bởi vì cả hai chúng tôi biết rằng mọi chuyện đã không diễn ra tốt đẹp ở Paris cho phía của ông; rõ ràng là một nhận thức sai lầm ở Hoa Kỳ và các nơi khác về Tết Mậu Thân năm 1968 đã phá vỡ ý chí của Mỹ để mang cuộc xung đột này đến một kết luận chiến thắng.

“Nhưng chúng tôi đã thắng vào dịp Tết!” Kỳ nổi giận. “Tại sao người Mỹ nghĩ khác đi?”

Tôi trả lời: “Tôi biết, thưa Thiếu tướng, tôi ở Huế trong thời gian ông giành chiến thắng. Nhưng công chúng tại Hoa Kỳ và Âu châu đã nhận được thông tin khác nhau”.

Tại Huế, tôi đã đứng bên mép một ngôi mộ tập thể, chứa thi thể của ít nhất 1.000 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị những người cộng sản tàn sát. Một nhóm truyền hình Mỹ lảng vảng quanh hiện trường một cách vô định. “Tại sao bạn không quay phim cảnh này?” Đồng nghiệp của tôi, Peter Braestrup, báo The Washington Post, hỏi họ. Người quay phim của họ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để tuyên truyền chống cộng sản”.

Tôi đã nói với Kỳ điều này, và ông ta đã không bình luận. Ông ta biết tôi biết rằng chiến thắng quân sự của Mỹ và VNCH vào dịp Tết đã bị biến thành một thất bại chính trị khi Walter Cronkite tuyên bố chiến tranh không thể thắng trên CBS trong một chuyến thăm ngắn sau Tết. Điều này trái ngược hẳn với những gì nhiều người trong chúng tôi, phóng viên chiến trường, đã chứng kiến và tường thuật từ Huế. “Nếu tôi mất Cronkite, tôi mất Trung Mỹ”, Tổng thống Lyndon B. Johnson được cho là đã nói như thế. Tôi chia sẻ cảm giác mất mát của Tổng thống và không bao giờ tha thứ thần tượng Cronkite về hành động bất cẩn báo chí của ông.

Ông Kỳ nhìn chằm chằm vào cánh cửa dẫn đến buồng lái của chiếc máy bay Air France.

“Tại sao ông cứ nhìn vào đó?” Tôi hỏi ông.

“Tôi chỉ muốn trở lại làm một phi công,” ông nói khẽ.

Cuộc chạy thoát của ông đến Midway bằng chiếc Huey đánh dấu sự nghiệp bay của ông kết thúc.

Một vài năm trước đây, tôi dạy một lớp báo chí cao cấp tại Đại học Concordia, Irvine, California. Chúng tôi tập trung vào cộng đồng tị nạn người Việt lớn mạnh và thành công tại Quận Cam. Sinh viên Kellie Kotraba, bây giờ là một nhà báo thành công ở Missouri, đã xem qua nghiên cứu của một nhóm gồm tám nhà nghiên cứu nổi tiếng dẫn đầu bởi bác sĩ tâm thần Richard F. Mollica của đại học Harvard, có tiêu đề “Sự bất thường cơ cấu não bộ và di chứng sức khỏe tâm thần nơi những cựu tù nhân chính trị miền Nam Việt Nam, những người đã sống sót sau chấn thương đầu và tra tấn”.

Nghiên cứu, được Hiệp hội Y khoa Mỹ công bố, cho thấy hàng ngàn tù nhân chính trị trước đây hiện đang sống tại Hoa Kỳ vẫn phải chịu đựng nặng nề từ hậu quả của tra tấn gây ra cho họ trong thời gian bị giam cầm nhiều thập niên trước đây. “Phải trên 100.000 người như họ,” Mollica nói với Kotraba, người sau đó đã yêu cầu Tòa Đại sứ Việt Nam tại Washington bình luận. Cô nhận được một lời từ chối qua điện thư từ tùy viên báo chí của Tòa Đại sứ, Tùng Phạm, với lời lẽ: “Thông tin nói rằng các tù nhân của trại cải tạo (sic) đã (sic) bị tra tấn là hoàn toàn không đúng sự thật”.

Chuyện này chẳng có gì lạ. Đáng ngạc nhiên hơn là một thực tế rằng các nghiên cứu của Mollica ít được chú ý trong giới truyền thông Mỹ khi nghiên cứu được công bố năm 2009, và khi tôi cung cấp những câu chuyện hấp dẫn của Kotraba cho nhiều nhà xuất bản, các biên tập viên của họ không mấy thích thú.

Tôi tự hỏi: tại sao các biên tập viên Mỹ làm ngơ trước thông tin về sự khổ đau ở quy mô lớn như vậy đang xảy ra, hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam? Có một sự tương đồng mạnh mẽ giữa những gì đã xảy ra ở một số trong 300 ngục tù cộng sản ở Việt Nam với các trại tập trung ở vùng chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Âu châu. Tôi vừa đọc xong một bản dịch tiếng Pháp về trường hợp của Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ, một linh mục Công giáo hiện đang sống ở New Zealand, về 13 năm của cha trong điều kiện giam giữ của cộng sản, 2.020 ngày cha trải qua trong cùm sắt – gây ra những vết thương mưng mủ với giòi bọ nảy nở.

Trong “Je dois vivre” (“Tôi phải sống”), Lễ mô tả chi tiết khủng khiếp như thế nào về bạn tù Đặng Văn Tiếp, một cựu đại úy quân đội VNCH và là thành viên của Quốc hội, đã bị giết chết trong sự vui mừng của đám đông quan chức cộng sản và vợ con họ hò hét đầy phấn khích. Ông bị bắt buộc phải uống một lượng lớn nước. Sau đó, tù nhân tay sai Bùi Đình Thi, cai tù tàn bạo nhất trong trại tù Thanh Cẩm, nhảy lên bụng của Tiệp cho đến khi nổ tung và ruột đổ ra ngoài. Tiệp chết.

Thi từng là một đại úy trong quân đội VNCH. Kẻ bị giam cầm tại Thanh Cam gọi ông là “Kapo”, một thuật ngữ được sử dụng cho những “kẻ được tin dùng” trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Giống như một số cựu Kapo Đức Quốc xã, ông đã tới Hoa Kỳ. Ông đã bị phát hiện tại Garden Grove, California, bị bắt giữ và bị trục xuất. Theo tin tức sau cùng, ông sống ở quần đảo Marshall.

Trong cuốn sách của mình, Lễ mô tả các nỗi ám ảnh thường xuyên của ông, trong đó gồm đau bụng dữ dội. Nỗi ám ảnh là một triệu chứng mà nhiều cựu chiến binh Mỹ biết quá rõ. Khi tôi làm việc với vai trò tuyên úy tập sự trong số những người này tại các trung tâm y tế Cựu Chiến binh ở St. Cloud, Minnesota, Tôi đã gặp một người làm bánh từ St. Paul, ông có cơn ác mộng cứ tái diễn. Mỗi ngày, ông mơ màng về một sự kiện gần Đà Nẵng. Ông đang ngồi ở ghế sau của một chiếc xe tải quân sự và thấy một cậu bé kéo chốt một quả lựu đạn, sẵn sàng liệng vào xe tải, có lẽ sẽ giết chết toàn bộ tiểu đội.

Người lính đã giết đứa trẻ. Nhưng rồi, đêm đêm, ông nhìn thấy khuôn mặt méo mó của cậu bé đã chết. “Đứa bé ấy khoảng 8 tuổi,” người cựu chiến binh nói, “bây giờ tôi có con sinh đôi và trong giấc mơ của tôi, khuôn mặt của đứa trẻ khoác lên hình ảnh con tôi”. Đây là một trong những câu chuyện buồn nhất tôi được nghe trong thời gian tập sự của tôi, đó là một phần của giáo dục thần học mà tôi đã bắt đầu vào khoảng giữa đời, có lẽ để trả lời cho những kinh nghiệm làm phóng viên ở Việt Nam.

Nhưng có điều gì đó tồi tệ hơn mà tôi tìm thấy trong số những cựu chiến binh Việt Nam: hầu hết mỗi thành viên của ba nhóm chăm sóc mục vụ mà tôi hướng dẫn, cùng với một nhà tâm lý học, đã bị xem là một kẻ sát hại trẻ em trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi từ giã chiến tranh. Một người thậm chí còn được yêu cầu không trở lại nhà thờ cho đến khi tóc của ông mọc trở lại, và xin xuất hiện trong bộ quần áo dân sự.

Hầu hết những người trong nhóm của tôi tin vào Thiên Chúa, nhưng nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ ở Việt Nam. Vì vậy, họ đã “quẳng Chúa đi”, theo kiểu họ gọi. Tôi đã viết một luận án thần học cho các cựu chiến binh Việt Nam với tựa đề “Sự tha thứ của Chúa”, nhắc nhở họ về cái nhìn sâu sắc của nhà thần học tử đạo người Đức Dietrich Bonhoeffer. Ông nói rằng loài người được kêu gọi để “chịu đau khổ với Chúa trong một thế giới vô thần”, mà trong trường hợp của họ hàm ý Chúa đang đau khổ với họ và luôn hiện diện với họ trong đau khổ – cả ở Việt Nam và sau khi họ trở về. Vì vậy, Chúa không bỏ rơi họ nhưng là người cùng chịu đau khổ với họ. Nhiều người trong số bệnh nhân tìm thấy ý nghĩ này hấp dẫn.

Cho đến hôm nay, tôi nghe các cựu chiến binh Việt Nam hỏi: “Phải chăng sự hy sinh của chúng ta vô ích?” Là một phóng viên chiến trường lớn tuổi, tôi không thể trả lời câu hỏi này một cách sáng tỏ. Nhưng là một nhà thần học tôi có câu trả lời. Trong bài tiểu luận nổi tiếng, “Ngay cả binh lính cũng có thể được giải thoát”, Martin Luther so sánh công việc của binh sĩ với bác sĩ giải phẫu, có thể phải cắt bỏ chân tay của bệnh nhân để cứu các phần còn lại của cơ thể. Thông thường bệnh nhân chết trong vài ngày hoặc vài tháng sau khi phẫu thuật. Nhưng liệu điều này có nghĩa là ca giải phẫu vô ích?

Là một phóng viên chiến trường, tôi thấy đại đa số các binh sĩ Mỹ và Việt Nam tận tình với công việc phục vụ người khác. Kẻ xấu đã thắng; điều này là sự thật. Là một nhà thần học, tôi phải nói thêm: con người không phải là chủ thể của lịch sử, và lịch sử luôn luôn rộng mở cho tương lai. Có thể sẽ mất nhiều thập niên nữa cho đến khi chúng ta nhìn thấy sự hy sinh của những người lính ở Việt Nam (thời xưa) đơm hoa kết trái và chế độ cộng sản biến mất, như các chế độ độc tài khác đã từng biến mất trong quá khứ. Có lẽ tới khi đó, thế giới sẽ khám phá ra rằng máu của người Mỹ và các đồng minh đổ ra ở Việt Nam trở thành hạt giống của một chiến thắng đặc biệt hơn chiến thắng mà họ đã bị từ chối ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tác phẩm mới nhất của Uwe Siemon-Netto là “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam”.

https://anhbasam.wordpress.com/2015/01/07/3257-ke-xau-da-thang-trong-cuoc-chien-viet-nam/

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Photo: paraflyer

Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút? Câu trả lời là: LƯỜI!

Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi.

Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa.

Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!

Lười vận động, tập thể dục

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4h sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.

Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.

Lười học

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.

Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.

Lười làm

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.

Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.

Lười suy nghĩ

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.

Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.

Lười tranh đấu

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.

Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.

Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?

Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu… Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói:

“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.”

Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.

Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!

Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.

Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.

Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!

Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai. Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hi sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.

Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hi vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của tử chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…

(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.)

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-01-07

hoaai01072015.mp3

dasua3-622.jpg

Bố mẹ và con gái của Anh Nguyễn Văn Chưởng kêu oan cho Anh.

Một kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên vừa được phổ biến rộng rãi trong và ngoài nước, kêu gọi người Việt khắp nơi cùng tham gia.

Góp tiếng nói cứu mạng người

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của nhiều tổ chức dân sự độc lập trong nước đồng ký tên lần đầu tiên được công bố trong bối cảnh dư luận xôn xao về 2 án tử hình của tử tù Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Dương và tử tù Hồ Duy Hải ở Long An. Theo thông tin từ gia đình và luật sư cho biết đây là 2 vụ án oan sai. Cả 2 tử tù bị giam 7, 8 năm trong tù và gia đình đã khiếu kiện trong ngần ấy năm nhưng không được giải quyết. Những ngày cuối năm 2014 và đầu năm 2015, hình ảnh kêu oan ngưng thi hành án tử hình của người thân gia đình 2 tử tù được truyền đi khắp các trang mạng xã hội với kỳ vọng công luận cùng góp một tiếng nói để cứu một mạng người.

Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu.
-LM Phan Văn Lợi

Kháng thư ra đời không những kêu gọi các cơ quan chức năng có thẩm quyền xét xử lại 2 án tử hình này mà còn lên tiếng về việc chính quyền Hà Nội vẫn áp dụng án lệnh tử hình tại Việt Nam. Linh mục Phan Văn Lợi, một trong những người khởi xướng cho biết nguyên nhân hình thành của kháng thư:

“Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu, đặc biệt sau năm 1975 với việc đã tử hình rất nhiều người trong quân dân cán chính VNCH bị đưa vào trong các trại cải tạo, cũng như là những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị đã bị xử bắn và từ năm 1975 cho đến hôm nay có rất nhiều tù nhân hình sự có án tử chịu hành hình… Chính đó là một vấn đề làm nhức nhối lương tâm của con người và là một thách thức trước nền văn minh nhân loại cho nên chúng tôi nghĩ rằng cần phải lên tiếng để yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phải học theo văn minh của loài người hủy bỏ án tử hình”.

Việt Nam có trên 500 tử tù

ho-duy-hai-622

Hồ Duy Hải trước tòa (trên) và bà Nguyễn Thị Loan mẹ của tử tù Hồ Duy Hải (hình phía dưới).

Theo số liệu của Tổ chức Ân xá Quốc tế, Việt Nam có trên 500 tù nhân bị kêu án tử hình vào thời điểm cuối năm 2012. Và theo thống kê của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam thì hiện tại con số này lên đến hơn 700 tử tù. Trong năm 2014, khoảng 50 tù nhân đã bị hành hình. Thế nhưng con số những tử tội xấu số bị thiệt mạng do oan sai như Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Chưởng là bao nhiêu thì vẫn còn là ẩn số.

Cựu tù nhân lương tâm-Nguyễn Bắc Truyển, thành viên của Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, ký tên trong “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” chia sẻ rằng trong thời gian thụ án tù ông gặp rất nhiều người bị án oan sai do bị ép cung, bị đánh đập, bị tra tấn để làm sao cho bản kết luận điều tra của công an được lô-gíc theo sự mớm cung. Do không chịu nổi sự bức cung trong trại giam nên nhiều người phải khai nhận theo sự hướng dẫn của công an.

Đại diện các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên trong kháng thư cho rằng vì án tử hình tước đi quyền căn bản được sống của con người nên việc tiến tới bãi bỏ án tử hình là xu hướng tiến bộ chung của thế giới. Họ cho rằng Việt Nam có tăng án tử hình nhiều hơn thì cũng không hạn chế được vấn đề tội phạm. Dù án tử hình ở con số cao nhưng các vụ án nghiêm trọng vẫn xảy ra, tội ác không được ngăn chặn. Ông Nguyễn Bắc Truyển chia sẻ thêm quan điểm của mình trong việc lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam nên bãi bỏ án tử hình:

Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân.
-Ông Nguyễn Bắc Truyển

“Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân. Nếu chúng ta làm được điều đó thì mới giải quyết được phần gốc và phần căn bản chứ còn nếu như chỉ đem những người phạm tội nghiêm trọng giết người rồi tử hình thì không giải quyết được phần gốc mà chỉ giải quyết phần ngọn. Con người ta thì vẫn do không được giáo dục, không được trang bị một tấm lòng nhân bản thì họ tiếp tục dễ dẫn đến hành vi giết người. Tôi cho rằng cái gốc căn bản vẫn là giáo dục”.

Hằng năm, các hội nghị quốc tế ủng hộ bãi bỏ án tử hình còn tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới do Tổ chức Ân xá Quốc tế cùng các tổ chức nhân quyền chủ trì. Tổ chức Ân xá Quốc tế vẫn kêu gọi chính quyền Hà Nội ân xá các án lệnh tử hình dù trong thời gian qua Việt Nam đã cải thiện cách thức thi hành án bằng phương pháp nhân đạo hơn là tiêm thuốc độc đối với tử tù thay vì xử bắn. Trường hợp mới nhất được ghi nhận là Viện KSND Tối cao của Việt Nam cho phép lập tổ liên ngành xem xét lại vụ án tử tù Hồ Duy Hải để làm rõ có bị kết án oan sai hay không.

Hiện Hoa Kỳ và Việt Nam nằm trong danh sách 58 quốc gia trên thế giới còn đang áp dụng án tử hình. Tuy nhiên, số liệu này ở Hòa Kỳ đang ở mức thấp trong vòng 20 năm qua. Năm 2014 chỉ có 35 người bị hành quyết ở 7 tiểu bang của Mỹ. Vào ngày 31/12/2014, Thống đốc tiểu bang Maryland, là người đang cân nhắc ra tranh cử Tổng thống năm 2016, ông Martin O’Malley tuyên bố sẽ giảm án tử hình đối với 4 tử tội thành án chung thân trước khi kết thúc 2 nhiệm kỳ vào tháng tới.

Tại Việt Nam, một trong những lời tuyên bố chính yếu trong kháng thư của các tổ chức dân sự độc lập vừa công bố nêu rõ “yêu cầu các cơ quan hữu trách Việt Nam ngưng ngay việc thi hành mọi án tử đã tuyên, bỏ ngay một số tội tử hình như buôn bán ma túy, in tiền giả (trong số 22 tội) và sớm sửa đổi Bộ luật Hình sự để án ‘tử hình’ hoàn toàn bị bãi bỏ”. Qua một cuộc trao đổi giữa Hòa Ái với TS. Xã hội học Trịnh Hòa Bình liên quan đến án tử hình ở Việt Nam hồi tháng 6/2013, ông cho rằng sớm hay muộn thì VN cũng sẽ theo xu hướng chung sẽ bỏ án tử hình nhưng chắc chắn không phải ngay lập tức. Câu hỏi đặt ra trong thời điểm này là Chính phủ Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào khi “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” được đặt trên bàn nghị sự?

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-01-07

01072015-pric-gas-down-unstab-up.mp3

Một tram xăng của Petrolimex ở Saigon

Một trạm xăng của Petrolimex ở Saigon

RFA

Your browser does not support the audio element.

Sài Gòn với hàng triệu xe máy túa ra đường mỗi sớm mai và ùn ùn kéo về nhà mỗi chiều tối, tắt đường, kẹt xe, ngập nước, khói bụi… tất cả những hiện tượng này làm nên bộ mặt Sài Gòn mỗi ngày và giá xăng trước đây tăng vọt đã khiến cho lưu lượng xe trên đường phố giảm đáng kể. Tuy nhiên, vài tuần trở lại đây, khi giá xăng giảm, vấn đề giao thông Sài Gòn lại một lần nữa đối mặt với hàng loạt khó khăn, rối rắm. Đặc biệt, khi giá xăng và giá gas giảm ngay trước thềm năm mới 2015 đã khiến cho Sài Gòn rơi vào cơn phấn khích tai hại trong giới lao động phổ thông.

Niềm vui ảo…

Một người tên Hội, sống tại quận 1, Sài Gòn, cho biết:“Mình thì không đi đâu ra ngoài. Nói chung là người Việt Nam mình thì phù du, bèo bọt, không thiết tha lắm!”

Theo ông Hội, Tết dương lịch 2015 ở Sài Gòn có thể nói là một cái Tết hoành tráng nếu nhìn từ bên ngoài. Lượng người kéo ra đường đón Tết cũng như các chương trình pháo hoa, sân khấu biểu diễn đón Tết diễn ra ở khắp mọi nơi trong thành phố với mật độ khá dày. Đương nhiên là người dân có nhiều lý do để vui, vì chí ít thì cũng từ tháng Giêng năm 2015, họ bớt đi gánh nặng về chi phí xăng, gas và hy vọng một ngày nào đó, giá điện cũng xuống thấp, xem như đời sống tạm ổn.

Người dân kéo nhiều ra đường đón Tết vì ít nhất, trong quĩ tiết kiệm của họ cũng dư ra một khoản nhỏ tiền bù giá xăng, gas trước đây, bây giờ họ dành để đón Tết. Đó là về mặt hình thức, vẻ bề ngoài. Nhưng thật sự, những cuộc vui tại Sài Gòn hiện nay có vẻ hình tướng và bất ổn, mối nguy rình rập nhiều hơn là sự ổn định lâu dài.

Dẫn chứng cho luận điểm vừa nêu, ông Hội nói rằng ông theo dõi, trước đây một năm, người dân nước Nga cũng đón Tết rất vui vẻ, hoành tráng và rầm rộ. Nhưng sau đó một năm, mọi sự thay đổi hoàn toàn, ngay cả cái ăn cũng thiếu hụt. Nước Nga rơi vào tình trạng như hiện nay bởi chính phủ Nga, nhà nước Nga đã tự tin thái quá hay nói cách khác là tự mãn trên những giá trị ảo. Bởi họ không đoán được những động thái chính trị của họ về Crime, Ukraina vô tình đã chạm đến ngưỡng chịu đựng của phương Tây và những đòn chí tử giáng vào nước Nga đang khởi động.

Trong lúc nước Nga tự tin về sức mạnh quân sự, tiềm năng vũ khí của mình thì họ quên mất rằng sức mạnh kinh tế đảm bảo dân sống và duy trì nền công nghiệp vũ khí lại nằm trong ngành dầu khí. Khi dầu khí rớt giá thì mọi tai biến dồn lên đầu cả dân tộc Nga.

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng - giá gas giảm, lương tăng..

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng – giá gas giảm, lương tăng..RFA

Bối cảnh Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng, cũng có dạng chính phủ quyền lực tập trung giống như Nga tuy khác nhau về thể chế chính trị, cũng dựa vào tiềm năng kinh tế dầu khí, điện lực, tài nguyên. Hiện tại, sau khi giá dầu bị rớt, công nghiệp khai thác dầu thô của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, cộng thêm hai mỏ vàng Bồng Miêu và Phước Sơn ở Quảng Nam có nguy cơ đóng cửa vì nợ thuế, các mỏ quặng khai thác Bauxite cũng hoạt động cầm chừng và chưa sinh ra lợi tức.

Trong khi đó, kinh tế biển Việt Nam bị cạn kiệt trong ba năm trở lại đây bởi sự mất an ninh trên biển Đông, ngư dân bỏ nghề vì không có vùng đánh bắt, tài nguyên rừng cũng cạn kiệt, ngành thủy điện gặp nhiều trục trặc bởi công nghệ lạc hậu và sự tàn phá môi trường kéo theo… Tất cả những tín hiệu trên giống như một chỉ dấu không tốt cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới. Đặc biệt là sự trượt giá không đúng lúc của đồng tiền Việt Nam hiện tại càng tỏ ra nguy hiểm hơn trong tương lai.

Tăng mức lương tối thiểu – tín hiệu vui?

Một người tên Thuận, nhân viên công ty chứng khoán Sài Gòn, chia sẻ:“Khi mà tỷ giá tăng thì mặt hàng sẽ kéo lên tăng. Ăn thua lương của mình được chừng nào. Coi như tăng lương tối thiểu lương lên đi, như khi thu nhập được năm triệu giờ lên sáu triệu, thì mục đích là để dễ sống thôi!”

Theo ông Thuận, động thái tăng mức lương tối thiểu cho cán bộ công chức cũng là một tín hiệu nối tiếp của việc trượt giá đồng tiền. Ông Thuận khẳng định rằng nếu như từ nay cho đến cuối năm 2015, đồng tiền Việt không bị tụt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện xem như ổn định. Ngược lại, nếu như đồng Việt tiếp tục trượt giá thì việc xăng, gas hạ giá tại Việt Nam chỉ có tính chất tạm thời bởi đồng Việt lúc đó lại rớt giá và giá gas, xăng phải căn cứ theo mức giá quốc tế. Việc tăng lương chỉ có tính chất đắp đổi vào khoảng rớt của đồng tiền Việt. Đời sống người lao động vẫn không có gì thay đổi nếu không nói là xấu đi.

Cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn

Một người tên Thuận

Và cũng theo ông Thuận dự đoán, vấn đề đời sống của người dân từ nay cho đến Tết Nguyên Đán sẽ tương đối vui, tuy tai nạn giao thông xãy ra nhiều hơn bởi lượng xe lưu thông tăng vọt… Nhưng bù vào đó, người ta sẽ vui vì sắp được tăng lương, vui vì hàng hóa chưa tăng giá, vui vì gánh nặng chi phí hàng ngày nhẹ bớt, thoải mái hơn.

Nhưng cũng theo ông Thuận, những cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn.

Ông Thuận đưa ra kết luận: Một nền kinh tế ổn định, vững chãi phải là nền kinh tế có đặc trưng rõ nét, hoặc là nền công nghiệp sản xuất, hoặc là công nghiệp dịch vụ. Nếu không có được hai đặc trưng này thì đương nhiên nền kinh tế đó chỉ dựa vào tài nguyên và nông nghiệp. Nhưng với Việt Nam, có vẻ như nông nghiệp quá lạc hậu, bất cập, tài nguyên đã cạn kiệt. Nếu năm tới, đồng Việt Nam rớt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện sẽ khó mà lường trước được.

Dù sao đi nữa, một cái Tết cũng đang chờ, và nếu vui được thì hãy cứ vui mà sống. Vì niềm vui là thứ cần thiết nhất để tạo ra sức mạnh mới cho tương lai. Ông Thuận đã nói như thế trước khi chia tay với chúng tôi.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Có lẽ, một trong những đề tài được bàn tán sôi nổi những ngày gần đây trên các diễn đàn mạng xã hội gây chú ý là sức khỏe và tính mạng ông Nguyễn Bá Thanh – một quan chức cao cấp của Cộng sản Việt Nam đang tại vị ở một vị trí quyền lực.

Cũng có lẽ phải coi Nguyễn Bá Thanh như một hiện tượng trong thời kỳ sản mạt ngày nay. Ít khi có một nhân vật được nhiều người ưa nhưng cũng bị lắm kẻ ghét như Nguyễn Bá Thanh.

Khi lên voi và sự say máu quyền lực

Trong nhiều vị trí của mình, từ anh Chủ nhiệm HTX đến Chủ tịch, Bí thư Tỉnh ủy Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh đã ghi nhiều dấu ấn lên đất Đà Nẵng cho đến ngày ra Hà Nội nhận công việc ở Trung ương. Nếu ai có điều kiện đi qua các thành phố, các tỉnh của Việt Nam rồi ghé qua Đà Nẵng, hẳn phải thừa nhận điều này: Đà Nẵng là một trong những thành phố đẹp về quy hoạch và phát triển, nhiều mặt của đô thị được cải thiện hơn hẳn Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác.

Sự khác biệt của Đà Nẵng hẳn nhiên là do nhiều yếu tố, tuy nhiên người ta không thể không nhớ đến vai trò của một nhân vật gắn liền với Đà Nẵng một thời gian dài: Nguyễn Bá Thanh. Thậm chí, ở đó ông làm mưa, làm gió một thời và đã để lại những câu ca, đặc trưng: “Cắt nửa Hải Châu, cắt nửa Hành Sơn ta làm đô thị nhỏ. Chặt đôi Thanh Khê, bẻ đôi Thanh Khê ta làm khu đô thị mới, đưa em về, đưa em về Cẩm Lệ chiều nay… Để cùng cướp đất phân lô bán nền…” . Vì khi đó “Trời của Thanh, đất của Thanh, con chim trên cành là của Bá Thanh…”.

Chỉ nghe những câu ca dân gian nói trên, người ta cũng đã đủ thấy vai trò và dấu ấn Nguyễn Bá Thanh in đậm ra sao trên đất Đà Nẵng này. Trong thời gian ông ở Đà Nẵng, nhiều thay đổi tại Thành phố Đà Nẵng để lại dấu ấn trong lòng du khách qua đây.

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Những lời đồn đoán, những hình ảnh, hoạt động của Nguyễn Bá Thanh, có đặc tính chung của quan chức cộng sản: “Lám láo, báo cáo hay”, hoặc “nổ tung trời”… Người ta còn nhớ, trong một hội nghị, ông ta lên án mạnh mẽ việc “con ông cháu cha” trong bộ máy nhà nước ở một Công ty về đô thị ở Đà Nẵng, thì không lâu sau đó, em trai, con trai ông ta được đặt vào những vị trí chỉ dành cho “con ông cháu cha”. Người ta cũng nhớ, ông càng kêu gào to lớn bao nhiêu về chống tham nhũng, về sự trong sạch, dưỡng liêm, về tinh thần đảng viên cộng sản, thì những vụ án như Cầu Sông Hàn, ông ta bị tố ăn hối lộ hàng tỷ đồng. Rồi sau đó xảy ra vụ án Tướng Công an Trần Văn Thanh bị điều chuyển công tác khỏi Đà Nẵng và cuối cùng là nằm trên cáng với đầy đủ dây truyền dịch để ra Tòa trong một vụ án nổi tiếng dư luận – ông này là người ký quyết định bắt chủ thầu xây dựng, người bị tố đã hối lộ Nguyễn Bá Thanh qua vụ xây cầu.

Đó chỉ là một tảng băng nổi đáng chú ý trong hàng loạt các hoạt động của Nguyễn Bá Thanh thời kỳ “trị vì Đà Nẵng”.

Người ta cũng nhớ, ông ta đưa ra nhiều câu nói “để đời” mà ít người dám mạnh miệng như: “Không ít cán bộ có cái thói vừa ăn vừa phá, phá tàn canh nền kinh tế”. Hoặc ông tuyên bố: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”.

Dù vậy, thì ông vẫn có những nét khác biệt của riêng mình khó trộn lẫn vào đám quan chức Cộng sản. Đó là dám lăn lộn, dám đối mặt, và đối mặt với ngay cả sự bất nhân không thèm che đậy.

Người ta có thể nghe trên mạng những cuộc nói chuyện điện thoại của ông với những người bình thường gọi đến phỏng hỏi han, chất vấn. Người ta cũng thấy ông ta sẵn sàng rời bỏ tư cách “chính trị gia” hoặc quan chức cộng sản để ra sân đá bóng với thanh niên. Thậm chí, người ta còn thấy ông đến thăm hoặc đối thoại với chính nạn nhân của ông ta như vụ Cồn Dầu… Và tất cả, vẫn chỉ là sự áp đặt trắng trợn và những lời dối trá.

Cũng là một trong những đặc tính của quan chức cộng sản ở Nguyễn Bá Thanh, đó là bệnh “máu tham, hễ thấy hơi đồng là mê”. Điều này chúng tôi có kinh nghiệm với ông ta và bộ máy dưới quyền ông ta trong vụ Cồn Dầu. Ở đó, giáo dân Cồn Dầu và các làng xung quanh bỗng dưng bị đuổi ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình đã sống hàng trăm năm, để lấy đất cho một nhóm có tiền làm giàu trên chính mảnh đất bao đời của gia đình họ. Chính vì sự bất chấp pháp luật này, mà giáo dân Cồn Dầu đã kiên trì đấu tranh hàng mấy năm trời nhưng không thể có một quy định luật pháp nào khả dĩ để thuyết phục họ. Nhưng Nguyễn Bá Thanh vẫn thể hiện bằng được vai trò của một “ông Trời con” tại đây bất chấp luật pháp và lương tri. Ông dồn đuổi, đàn áp họ bằng những biện pháp bất nhân nhất có thể thấy: Trấn áp, bao vây, đánh đập, giết người, cướp xác, đào mồ mả… có lẽ không thiếu. Người dân Cồn Dầu còn cho chúng tôi biết, ông tuyên bố rằng: “Nếu không lấy được Cồn Dầu, ông ta sẽ nhảy sông Cẩm Lệ tự vẫn” để nói lên quyết tâm cướp đoạt đất Cồn Dầu.

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Hàng mấy ngàn con người ở Cồn Dầu đã tan cửa nát nhà, mất đất đai vườn ruộng, chạy bán sống bán chết khỏi quê hương, đất nước bởi bàn tay Nguyễn Bá Thanh và đồng bọn của ông ta. Hàng ngàn ngôi mộ bị đào bới, di chuyển, hàng loạt giáo dân, người dân bị đánh đập và đánh đập đến chết. Những điều đó, dù đã xảy ra nhiều nơi, nhưng có hệ thống và quy mô lớn lao, thì có lẽ Cồn Dầu là một trong những địa điểm còn được nhắc đến lâu dài.

Và, hình ảnh Nguyễn Bá Thanh đã gây dấu ấn cá nhân mình trong tội ác lớn lao tại đó.

Và, ở đó, khi người ta say máu quyền lực và bạc tiền, họ không nhận ra mình đã và đang gây tội ác ra sao.

Khi xuống chó và những bước suy vi

Có lẽ, Nguyễn Bá Thanh đã đúng khi nói đại ý rằng: Ông ta chỉ có thể bơi được ở Sông Hàn mà không thể bơi được ở Sông Hồng – Một cách bóng gió là chỉ có thể làm “trời con” ở Đà Nẵng mà không thể ngoi ra Trung ương. Thế nhưng, cuộc sống không phải khi nào cũng chiều theo ý người, hoặc nhiều khi sự kiềm chế tham vọng không phải khi nào cũng có thể chiến thắng.

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Trước hiện tượng đảng xuống cấp trầm trọng, mục ruỗng và bất lực, hèn nhược và không còn sinh khí, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư ĐCS muốn giành lại chút quyền lực cuối cùng cho đảng bằng cách dựng lại cái gọi là Ban Nội chính và gom về tay đảng. Để nhằm vừa đá bóng, lẫn thổi còi trong con bài quyền lực, Nguyễn Bá Thanh được điều động ra Trung ương với chức danh Trưởng ban Nội chính.

Ra Hà Nội, chân ướt, chân ráo chưa ngồi ấm chỗ, ông ta nổ ngay “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”. Câu nói này như một lời tuyên chiến mạnh mẽ với cả bộ máy tham nhũng khổng lồ đã ăn sâu thành nếp, đã kết thành bè, thành mảng trong hệ thống Cộng sản Việt Nam, làm nhiều kẻ giật mình.

Và hẳn nhiên, khi đụng chạm lợi ích phe nhóm, quyền lợi sinh tử của mình, thì đảng chẳng là gì và lý tưởng cũng vứt đi. Cũng từ đó, trong nội bộ nhân dân âm ỉ tin tức về những cuộc đấu đá nội bộ.

Có thể nói, việc Nguyễn Bá Thanh bị ngã ngựa ngay sau khi ra Hà Nội làm Trưởng Ban Nội chính Trung ương nhưng bị đánh trượt khỏi ghế Ủy viên Bộ Chính trị được sắp xếp theo ý đảng từ trước, là một dấu ấn khó phai về những cuộc “đấu tranh nội bộ” rất rõ nét của Đảng. Và như vậy, Sông Hồng không đủ chỗ cho Nguyễn Bá Thanh vùng vẫy thi bơi.

Thế rồi, Nguyễn Bá Thanh trở thành cái bóng, âm thầm cho đến ngày sang Mỹ chữa bệnh ung thư với muôn ngàn lời đồn đoán rằng bị suy tủy, bị đầu độc, bị trả thù, bị ám hại… và đi sang Mỹ chữa bệnh vào ngày 16/8/2014.

Và hôm nay, khi “nền y học tư bản giãy chết” bó tay sau gần nửa năm chữa bệnh với chi phí mỗi ngày hàng chục ngàn đola, ông đang chờ ngày trở về để hưởng nền y tế “Hoàn toàn Việt Nam”.

Những điều còn lại sau Nguyễn Bá Thanh

Khi cái chết là điều khó tránh đối với Nguyễn Bá Thanh, khi đó mới lộ ra một điều bao năm ông che đậy: Nguyễn Bá Thanh, một đảng viên Cộng sản theo Chủ nghĩa Mác – Lenin vô thần vô thánh, lại là một “phật tử” có pháp danh hẳn hoi. Thậm chí, một số người đã cầu an cho ông vượt qua cái chết. Như vậy, sức mạnh vật chất đã không thể cứu vớt được ông và giờ đây người ta hi vọng nương nhờ vào thần thánh.

Điều này, đặt ra những câu hỏi khó có ai trả lời nổi ngoài chính ông ta.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Khi hành xử trên đỉnh cao quyền lực của một “ông trời con”, xua tay chân ép dân, đánh đập đến chết người, tra tấn, đàn áp, đào mồ động mả của người dân, ông ta có nghĩ mình cũng có một “pháp danh”?

Khi chung tay với những nhóm lợi ích, cướp đất đai, tài sản, nhà cửa của dân lành, đẩy họ đến chốn thảm cảnh… ông có khi nào nghĩ rằng những đồng tiền có được từ đó, sẽ dành để trả cho những bệnh viện với mỗi ngày hàng chục ngàn đola và khi đã hết hàng triệu đola thì ra về trong thất vọng để chờ đợi trong vô vọng cái chết nặng nề đang đến với mình?

Có lẽ, những điều đó chỉ có ý nghĩa đối với người sống, nhất là những quan chức cộng sản còn lại đang tiếp tục say máu quyền lực và bạo tàn đối với đồng loại, đối với nhân dân.

Và những cái mả

H1

Thông thường, trên đời ai cũng có một con đường từ khi sinh ra với điểm cuối là cái chết. Cuối cùng, thì con đường đi của mỗi người đều đến một đích chung: Cái mả. Một nhân vật của Nam Cao đã nói rằng: “Có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là cụ lớn mả! Lão sống có đến hơn năm mươi năm rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sốt! Chỉ có cái mả, cái mả đất…?

Khi những ngôi mộ ở Cồn Dầu bị đập phá, bị cướp xác, đằng sau là những tin đồn, những sự cảnh báo. Nhưng chẳng ai thèm nghe.

Từng nghe, một viên tướng CS sau khi chết đã được đưa về quê, khu mộ được xây và sau khi đặt xác, phía trên đổ bằng xe bê tông tươi thành một khối bê tông khổng lồ cho chắc chắn, xung quanh xây hàng rào có người canh.

Chợt nhớ, trước khi chết, Tào Tháo buộc phải xây 72 cái mả giống nhau ở ngoại thành, không cho bất cứ ai biết cái nào có xác của ông ta thật. Việc này nhằm chống bị trả thù bằng việc đào bới mồ mả sau khi ông ta chết. Hẳn là ông ta đã biết thân phận mình và thái độ của người đời đối với ông ta ngay khi còn sống.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Chợt nghĩ, ngày mai lại có những ngôi mộ đổ nhiều lớp bê tông, lại có những ngôi mộ có người bảo vệ, lại có những con người chưa chết đã biết mình vẫn tiếp tục là tội nhân ngay cả khi không còn quyền lực, thậm chí đã đi “theo cụ Các mác, cụ Lenin”.

Thì ra: Đó là những cái chết, mà người chết biết trước rằng: “Chết chưa phải là đã hết”.

Những cái mả càng được làm chắc chắn, càng được canh gác cẩn mật, thì điều người đời hiểu rất rõ sau những hàng lính canh, bảo vệ hẳn là người nằm trong đó càng lắm nợ với đời và người chết nằm trong đó vẫn không hề được yên.

Lám sao có thể yên, khi chính họ đã gây cho lòng dân cuộn sóng và người đời phải nguyền rủa.

Chợt nhớ, bộ phim Tam Quốc diễn nghĩa, khi hình ảnh Tào Tháo hiện lên là khi có bài thơ sau đây:

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đâu
Bạc đầu ngọn sóng cuộn anh hùng
Thị phi, thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ, bỗng tay không…

(Tam Quốc diễn nghĩa).

Hà Nội, Ngày 7/1/2015

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.

Nguyễn Sinh Hùng

Tôi nhớ là mình có mua được tập truyện ngắn The Daring Young Man on the Flying Trapeze (Chàng Tuổi Trẻ Gan Dạ Trên Chiếc Đu Bay) của William Saroyan, do Kinh Thi xuất bản – và Huy Tưởng chuyển ngữ – vào Mùa Hè Đỏ Lửa, năm 1972. Mới đọc được vài chục trang thì bất ngờ nhận được lệnh tổng động viên nên tôi phải rời nhà.

Nhiều năm sau – sau thời gian ở quân trường, chiến trường, và vài ba cái trại cải tạo không còn nhớ được hết tên – tôi trở về nhưng không còn tìm thấy cuốn sách của William Saroyan đâu nữa. Sau cái biến động khiến cả chục triệu người buồn (vào tháng 4 năm 1975) thì nhiều bạn bè và thân nhân của tôi còn biến mất luôn, nói chi là sách vở.

Bữa rồi, tình cờ thấy Amazon có bán The Daring Young Man on the Flying Trapeze and Other Stories (với giá rất bèo) tôi đã định mua nhưng trù trừ chút xíu rồi thôi. Tuổi đời, cùng với  những cảnh sống hãi hùng mà mình đã chứng kiến, khiến tôi không còn thấy cái thái độ (tưng tưng) của chàng tuổi trẻ trên chiếc đu bay có gì là “gan dạ” nữa.

Thiếu gì người dân Việt can đảm hơn nhiều và đã cùng nhau đâm xầm ra biển cả bao la, bằng những chiếc thuyền gỗ mong manh. Kẻ ở lại cũng liều lĩnh không kém khi hàng ngày vẫn lò dò trên những cái cầu bấp bênh, và mục nát, đang treo (chênh vênh) khắp nước.

Cầu qua sông Mã, Lai Châu. Ảnh: Tuấn Nam

Cầu qua sông Chò, Khánh Hoà. Ảnh:Nguyễn Thành Chung

Nhưng có cầu, dù là cầu treo lắc lẻo – nói nào ngay – vẫn còn hơn không. Phải đu dây qua sông mới thiệt là rùng rợn.

Ảnh: HÀ BÌNH – TRUNG TÂN

Ảnh: Trùng Dương

Tôi đưa em sang sông không bằng xe hoa, cũng không bằng con thuyền mà bằng sợi dây cáp nhỏ xíu xiu (thế này) nhưng cả hai vẫn còn sống sót mới là chuyện lạ, chớ chúng ta đều bị trọng thương hay tử thương thì là “việc vẫn xẩy ra như cơm bữa” – theo như (nguyên văn) tường thuật của phóng viên Trùng Dương:

Không ít trường hợp người dân khi đang đu dây qua sông thì cáp bị đứt, tuột ròng rọc rơi xuống sông, suối tử vong, hoặc bị thương nặng…

Ngày 26/10, ông Nguyễn Chua (53 tuổi, trú thôn 6, xã Hòa Lễ, Krông Bông cùng em trai là Nguyễn Chát (47 tuổi) lắp ròng ròng chuyển phân qua hệ thống dây cáp treo tự chế qua sông Krông Ana.

Sau khi chuyển hết số bao phân qua sông, ông Chua lắp ròng rọc đu người qua đi làm. Qua gần hết bờ, chiếc ròng rọc bất ngờ tuột ốc, trật khỏi dây cáp khiến ông Chua rơi tự do từ độ cao hơn 5m xuống mép sông chết ngay tại chỗ.

Trước đó, vào ngày 15/8 cũng tại khúc sông này, vợ ông Chua là bà Trần Thị Tho (52 tuổi), trong lúc đu mình qua sông bằng cáp treo tự chế cũng bị tuột cáp rơi xuống mép sông bị đa chấn thương suýt mất mạng…

Việc dây cáp bị đứt hay tuột chân rơi xuống suối xảy ra như cơm bữa, người dân vẫn phải chấp nhận ‘đùa’ với tử thần bởi tình thế… không qua không được! Không đu…lấy gì mà ăn!

Sau hàng loạt những tai nạn do đu dây cáp treo qua sông xảy ra, các ngành chức năng tỉnh Đắk Lắk cũng đã có những khảo sát, tìm phương kế nhưng đến nay vẫn chưa có một phương án khả thi nào để chấm dứt tình trạng đu dây.”

Muốn qua sông thì phải bắc cầu thôi, chớ còn “phương kế” hay  “phương án khả thi” (mẹ rượt) nào khác nữa đâu – mấy cha? Bởi vậy, theo thông tin của Tuổi Trẻ Online: “…  trong phiên chất vấn chiều 18-11, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng ‘hứa’ trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ… Đây là một trong những lời hứa có mốc thời gian, có số liệu cụ thể ở 50 tỉnh trên cả nước mà Bộ trưởng Đinh La Thăng quả quyết: ‘Đã không hứa thì thôi, hứa rồi thì phải làm.”

Được lời như cởi tấm lòng! Cả nước đều mừng hết lớn luôn. Còn mừng hơn hồi năm 2010, khi nghe lời hứa hẹn (cũng có mốc thời gian) của một vị quan chức khác – ông Nguyễn Sinh Hùng : “Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.”

Năm 2015 đã đến nơi rồi nhưng (may quá) chưa thấy cái bóng dáng Vinashin (mới) này đâu cả. Thiệt là phước đức. Nếu không, sang năm, nợ công sẽ tăng gấp đôi là … giá chót.

Hứa hẹn là cái “bệnh” chung của giới lãnh đạo cộng sản, chứ không riêng chi hai ông Đinh La Thăng hay Nguyễn Sinh Hùng.

Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng vừa mới “hứa” xong: “Nợ xấu ngân hàng sẽ về mức bình thường trong năm tới.” Ông Trương Văn Sang cũng đâu chịu kém: “… đến năm 2000 xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu.”

Trước khi chuyển qua từ trần, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đâu có quên hứa hẹn: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”

Tiếc là thằng chả không nói rõ “xây dựng” cái gì nên chỉ những nơi các quan cách mạng làm việc, và nhà riêng của cán bộ là phình to quá cỡ thôi; còn nhà thương, trường học, hoặc cầu đường, và (tất tần tật) mọi thứ tiện nghi công ích khác thì không, và mỗi lúc một thêm xuống cấp.

Sau khi thắng giặc Mỹ xong, dân Việt lại được nghe người kế nhiệm ông Hồ  “ban” cho một lời hứa khác : “Mười năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh.”

Người kỳ vọng, và thất vọng, nhiều nhất vào lời hứa này (dám) là blogger Nguyễn Văn Tuấn. Nghe ổng tâm sự mà muốn ứa nước mắt luôn:

“Những năm sau thống nhất (tôi không thể dùng chữ ‘giải phóng’) ông Lê Duẩn nổi như cồn. Đi đâu cũng gặp hình của ông ấy lúc thì trên tivi, lúc thì qua báo chí, lúc thì qua đài phát thanh. Sau này tôi mới biết ông là một người nắm quyền uy gần như tuyệt đối thời đó. Mỗi lời nói của ông là một mệnh lệnh, một chỉ thị, chắc cũng chẳng khác với quyền uy của ông gì đó bên Bắc Hàn hiện nay.

Mãi đến bây giờ, nhắc đến tên ông là tôi rùng mình nhớ ngay đến thời bao cấp, hợp tác xã, và đặc biệt là thời ăn bo bo và thuốc xuyên tâm liên. Như một cơn ác mộng. Nói chung là một thời kinh hoàng.

Trong cái thời kinh hoàng đó chợt loé lên một tia hi vọng. Tôi nhớ hoài cái tia hi vọng đó trong một buổi tối ngồi xem tivi trắng đen. Trong một bài diễn văn dài lắm, nhưng có câu tôi nhớ mãi (có lẽ đến cuối đời): 10 năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh…”

Thành ra, tôi đón nhận lời hứa ‘10 năm sẽ có tủ lạnh’ của ông Lê Duẩn như ruộng khô mong chờ cơn mưa hạ. Dĩ nhiên là chỉ là ước mơ âm thầm thôi, chứ nói ra thì cả nhà mắng cho là ‘đồ ngu tiền đâu mà mua thứ đó’. Đêm về nằm ngủ tôi vẫn mơ cái tủ lạnh trong nhà …

Mãi đến năm 1992 làng tôi mới có điện về. Mà, lúc đó làng tôi cũng chỉ có vài gia đình có điện thôi. Phải 2 năm sau có điện, ba má tôi mới đám mua cái tủ lạnh dưới ‘sức ép’ của đứa em gái…

Vậy mà cho đến nay, dù điện đã về gần 100% làng, nhưng số gia đình có tủ lạnh tôi đoán là chưa đầy 1/5. Tôi có con số đó vì chỉ đếm những nhà bà con chòm xóm ven sông mà tôi quen biết. Nhà nào cũng có tivi và radio, nhưng tủ lạnh thì vẫn là một thứ gì khá xa xỉ mà không phải ai cũng có khả năng mua một cái.

Lí do chính là người dân không có tiền để mua. Đời sống nông dân ngày nay khổ còn hơn thời trước 1975. Đầu mùa lúa là phải vay ngân hàng hay tư nhân để mua phân bón, thuốc trừ sâu cho mùa vụ. Khi gặt lúa xong thì bị cái tập đoàn VINAFOOD (có khi được xem là một tập đoàn phản dân hại nước) và con buôn ép giá.

Người nghèo thì phải bán lúa với giá bèo để có tiền trả nợ. Như tôi từng phản ảnh giá lúa còn thấp hơn cả giá ốc bưu vàng! Trả nợ xong thì chỉ còn vài triệu vừa đủ sống. Mùa vụ kế tiếp, chu trình “vay nợ – làm ruộng – bán giá bèo – trả nợ” lại tiếp diễn. Cuộc sống nhứ thế thì lấy tiền đâu để mua tủ lạnh?

Từ ngày ông Lê Duẩn hứa ‘10 năm nữa mỗi gia đình sẽ có tủ lạnh’ đến nay đã gần 40 năm. Thế giới đã bước vào thể kỉ 21 gần 15 năm. Trong khi nông dân bên Thái Lan chạy xe hơi Toyota đi chợ và nhà nào cũng có tủ lạnh, thì nông dân Việt Nam vẫn còn mơ một chiếc xe Honda và cái tủ lạnh.”

Nếu kết luận rằng bác Lê Duẩn là “một thằng cha nổ sảng” thì cái vụ nổ này cũng chưa đến nỗi nào, so với mấy nhiều vụ (vang trời) khác nữa – sau này:

  • TTXVN: “… đến năm 2010 (sẽ) xóa hết hộ đói, cơ bản không còn hộ nghèo!”
  • Qua tới thập niên 2030 hay 2040 thì viễn tượng mới thực là huy hoàng, theo như lời của  TS. Nguyễn Xuân Kiên, Viện Trưởng Viện Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội Việt Nam và Đông Nam Á: “Với tiềm năng sẵn có của các doanh nghiệp hiện nay, chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Ảnh & chú thích: Tiêu Phong

Nói tóm lại, theo lời của ông cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết “là chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế.” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 năm rồi) cũng “cất cao” không kém:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong khi bạn bè quốc tế đang “ngưỡng mộ” tùm lum, và “ngưỡng mộ” quá trời, quá đất (như vậy) mà ông Bộ Trưởng Giao Thông nước ta vẫn chỉ đưa ra một lời hứa hẹn vô cùng khiêm tốn: “Trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ…”

Nghe thiệt thấy thương hết sức!

Tuy ông Đinh La Thăng đã nhũn nhặn (thấy rõ) nhưng dư luận, xem ra, vẫn còn có điều tiếng eo xèo và nghi ngại: Tiền đâu mà xây? Thằng chả chỉ hứa (đại) cho đã miệng và cho qua chuyện vậy thôi.

Cho dù thiệt vậy chăng nữa thì cũng đã chết ai đâu? Bác Hồ, bác Hùng, bác Duẩn đều hứa (lèo) ráo trọi thì tại sao chú Thăng lại phải giữ lời cà? Hơn nữa, thử nghĩ lại coi: chớ hai phần ba thế kỷ qua dânViệt sống bằng cái gì, ngoài những lời hứa hẹn!

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

 

 

 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “ Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của  Ni sư Tenzin Palmo như sau:

Ni sư Tenzin Palmo

Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:

“ Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho  người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.

Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.

3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.

Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.

Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.

6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa là:

“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”

Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.

Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.

Hiền Thuận

Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết  sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn  ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?

Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.

Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:

“ Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”

Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày .Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.

Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn,  tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.

Chúa Giê –su đã dặn các môn đệ rằng:

“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”

ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy , chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp : “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”

*Ai  tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)

* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa   (Roma 14: 7-8)

* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh  em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.  (Roma 6: 8-11)

* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. ( 1 Cor 15: câu 19,20)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tiểu sử: ni sư Tenzin_Palmo

Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Mộc Thường

Alexander Litvinenko, 43 tuổi, là cựu điệp viên KGB của Nga. Ông đã trốn khỏi Nga và tị nạn chính trị tại Anh Quốc, sống ở London. Ông ta bị đầu độc ngày 1 và chết ngày 23 tháng 11 năm 2006 tại London. Nồng độc chất phóng xạ trong cơ thể ông ta quá cao đến nỗi ông chết sau 23 ngày kể từ ngày bị đầu độc. Liều gây chết trung bình (LD50) của Polonium-210 là khoảng 50 nano gram. Trong khi đó, người ta tìm thấy trong cơ thể của Litvinenko chứa nồng độ cao hơn gấp 200 lần.

clip_image002

Alexander Litvinenko trước khi bị đầu độc (© AP).

clip_image004

Alexander Litvinenko trong bệnh viện sau khi bị đầu độc năm 2006 (©AFP/Getty Images)

Norberto Andrade là người đã đem trà cho cựu điệp viên của Nga, Alexander Litvinenko tại quán bar trong khách sạn (Millennium Hotel) ở London, nơi cựu điệp viên này bị đầu độc. Norberto Andrade cho rằng chất phóng xạ đã được phun vào trong cốc trà của cựu điệp viên. Cách đầu độc này, sau đó được khẳng định nhờ vào các bằng chứng từ cơ quan điều tra. Cơ quan này đã tìm thấy chất phóng xạ Polonium-210 trên bức tranh được treo ngay trên chỗ ngồi của Litvinenko. Ngoài ra chất phóng xạ còn được tìm thấy trên mặt bàn, trên ghế ngồi và trên sàn nhà. Khi dọn dẹp bàn, Andrade cũng phát hiện phần còn lại của tách trà của Litvinenko có màu lạ.

Thủ phạm vụ đầu độc đầu tiên trên thế giới bằng Polonium-210 này vẫn không có nguồn tin nào chính thức khẳng định. Một cách không chính thức, cơ quan điều tra của Anh tuyên bố biết ai là thủ phạm. Nghi can trực tiếp được cho là hai cựu điệp viên KGB : Andrei Lugovoy và Dmitry Kovtun. Hai người này đã gặp Litvinenko tại Millennium Hotel ở London ngay trong ngày mà Litveniko bị đầu độc. Trước khi chết, Litvinenko cho rằng vụ đầu độc này liên quan đến Mr. Putin.

Mộc Thường

References

http://en.wikipedia.org/wiki/Poisoning_of_Alexander_Litvinenko

http://www.cbsnews.com/news/who-killed-alexander-litvinenko/

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2745023/Russia-REFUSES-public-inquiry-death-poisoned-spy-Alexander-Litvinenko.html

http://www.telegraph.co.uk/news/uknews/1557492/Litvinenko-waiter-recounts-polonium-poisoning.html

http://www.mailonsunday.co.uk/news/article-418652/Why-I-believe-Putin-wanted-dead-.html

http://www.theguardian.com/world/2014/dec/09/russian-tv-company-hires-man-accused-murdering-alexander-litvinenko

http://www.3rd1000.com/elements/Polonium.htm#Overview

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2247486/Alexander-Litvinenko-Poisoned-Russian-spy-working-British-AND-Spanish-intelligence-says-wife.html

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Trần Ngọc Mười Hai

Chuacuuthe.com

VRNs (07.01.2015) – Sydney, Úc Đại Lợi

“Rồi mai đây tôi sẽ chết

“Trên đường về nơi cõi hết.

Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?”

(Phạm Duy – Những gì sẽ đem theo về cõi chết)


(2Cr 4: 10-12)

Viết và hát về nỗi chết, hỏi rằng có ai viết nhạc hay hơn Phạm Duy, không? Nói về sự chết và chuẩn bị cho cái chết của mình, có vị nào trong Đạo làm và nói hay bằng thiền-sư Tây Tạng Songya Rinpoche? Tuy nói thế, bần đạo đây vẫn thấy có mẫu số chung nào đó giữa hai vị trên, đặc biệt hơn cả là ở câu hát bên dưới:

“Rồi mai đây tôi hoá kiếp.
Trong lòng còn bao luyến tiếc,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được tiền tài, hay danh vọng.
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp, hay rượu nồng.
Tôi không đem theo với tôi được lầu vang, hay gác tía.
Tôi không đem theo với tôi được mộng giầu sang, phú quý.
Tôi xin đem theo với tôi một nụ cười, không nghi ngại.
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời.
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc đời đang bước tới.
Tương lai vui hay tối thui cũng là nhờ anh lớn thôi…

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
(Phạm Duy – bđd)

Nghe hát thế, chắc có lẽ người nghe cũng thấy được điểm nổi bật, rất như thế. Còn, giả như bạn và tôi, ta được nghe chính miệng Thiền-sư Tây Tạng là ngài Songya Ripoche đến Sydney ngày 30/11/2014, đã bảo rằng:

“Phần đông người trên thế-giới ngày nay hoặc sống trong phủ-nhận cái chết, hoặc sợ hãi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở. Nhiều người tin rằng: nhắc đến cái chết thì cũng gần như là mong nó xảy đến cho mình.

Nhiều người khác nhìn cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô một cách thiếu suy-nghĩ, tưởng chừng như vì một lý-do bí-ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm-thắm mà không có gì phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thày của Tây Tạng: Người ta thường khinh-suất về sự chết và cứ nghĩ “Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự-nhiên quá mà. Tôi thì khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lý-thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn-giản….

Khi nhìn kỹ cách-thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kũbler Ross đã chứng-minh: với một tình-yêu vô-điều-kiện và một thái-độ có nhận-thức thì cơn hấp-hối có thể trở thành một kinh-nghiệm an lành, chuyển-hoá…

Nếu bây giờ không chịu chấp-nhận cái chết trong lúc đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết và sau khi chết. Hậu-quả sẽ là, ta tàn-phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới…” (xem Sogyal Rinpoche, Tạng Thư Sinh Tử, nxb Văn hoá Thông tin 2008, tr. 25, 29, 34)

Nghe Thiền-sư Rinpoche nói về việc chuẩn bị cho cái chết ngay khi còn sống, người Đạo Chúa cũng nghĩ nhiều về sự thể giống như thế. Sự thể, được Tin Mừng nhắc nhở nhiều lần, như:

“Thầy bảo thật anh em:

trong số người có mặt ở đây,

có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết

trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

(Mt 16: 28)

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;

còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,

thì sẽ tìm thấy được.”

(Mc 10: 33)

Với thánh Phaolô, cái chết không quan trọng bằng sự sống lại, trở nên công chính:

“Chúng ta sẽ được kể là công chính,

vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu,

Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết;

Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta

và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại,

để chúng ta được nên công chính.”

(Rm 4: 24)

Cuối cùng thì, chết vẫn không đáng sợ bằng sự thể được thánh-nhân quyết như sau:

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?

Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?

Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết,

bị coi như bầy cừu để sát sinh.”
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.

(Rm 8: 35-37)

Và nhất là đoạn viết cho cộng-đoàn Corinthô có đoạn đã nhấn mạnh:

“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.

Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.

Như thế,

sự chết hoạt-động nơi chúng tôi,

còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.”

(2 Cor 4: 10-12)

Giống như các vị theo tôn-giáo khác, người Đạo Chúa vẫn luôn giữ thái-độ coi thường sự chết vì nhiều lẽ. Trước nhất, vì biết rằng mình luôn kết-hợp với Chúa trong mọi việc. Và thứ đến, là vì mình luôn ở trong tư-thế chuẩn bị chết, tức: về với Chúa trong vinh-quang chói ngời ở cạnh Ngài.

Nhiều Dòng tu khắc kỷ ở Đạo Chúa, lại cũng luôn chuẩn-bị cho cái chết đang trờ đến, nên vẫn tâm-nguyện bằng những tâm tình trước khi đi ngủ, vẫn cứ nhủ:

“Lạy Chúa tôi,

Tôi biết thật tôi sẽ chết.

Có khi đêm nay tôi vào giường nằm nghỉ

mà chẳng còn trỗi-dậy nữa.

Cho nên Chúa đã bảo tôi vào giường nằm nghỉ như là vào mồ chết vậy.…”

Chính vì thế, nhiều người Đạo Chúa vẫn hiên-ngang hát lên lời ca đầy phấn-chấn, rằng:

“Khi Chúa thương gọi tôi về,

lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ!

Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát…”

Ngàn dân tung hô: tôi thật vinh phúc!

(Lm Kim Long – Ngày Về)

Ở ngoài đời, những người chịu ảnh-hưởng từ nền văn minh Đạo Chúa, cũng có những lập-trường coi nhẹ cái chết, như nhà văn Montaigne của Pháp đã từng viết:

“Để chiến thắng Thần Chết, chúng ta hãy áp-dụng một phương-cách ngược lối thông-thường, hãy xem cái chết chẳng có gì kỳ lạ. Ta vẫn tiếp xúc với nó, quen thuộc  với nó; hãy để tâm-trí thường-xuyên đến cái chết hơn bất kỳ điều gì khác… Ta không biết khi nào thì cái chết sẽ đến với ta, vì vậy, hãy chờ sẵn để đón cái chết ở khắp nơi. Tụ tập cái chết chính là tụ tập sự tự-do. Một người biết cách để chết thì sẽ không bao giờ trở-thành nô lệ.” (sđd tr. 36)

Ngoài các triết-gia ra, triết-học Đông Phương cũng có vị như Trang Tử, lại cũng nói:

“Con người sinh ra vốn mang theo sự đau khổ. Càng già, con người càng ngơ ngẩn, vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh khỏi càng thêm mãnh-liệt. Thật vô-cùng cay đắng. Con người sống để theo đuổi những gì luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao-khát sống còn trong tương-lai làm cho ta không thể sống trong hiện tại…” (bđd tr. 39)

Vậy, có người đưa ra vấn-nạn vẫn cứ hỏi: Nếu vậy, ta phải làm sao? Làm sao nghĩa là làm thế nào để đi vào hiện-thực? Đây là điều thật khó nói. Bởi, trên thực tế, có ai dám tập-tành việc chết đi ngay bây giờ? Thôi thì, ai hỏi thì cứ hỏi, ở đây bạn và tôi, ta cứ nghe xem thiên hạ nói với nhau như thế nào, về việc ấy. Trước nhất, là thiền-sư Songya Rinpoche có thể tóm tắt như sau:

“Điều duy nhất, ta thực sự có được là hiện tại.

Hãy tự hỏi: Tôi có nhớ vào mọi lúc rằng tôi đang chết hay không, bởi thế nên hãy đối xử với mọi chúng sinh với lòng từ bi trong mọi lúc…” (sđd tr. 540

Và, giải-pháp do ngài Songya Rinpoche đề ra để giải quyết sự-việc ở đây, có thể tóm gọn như sau:

“-chấp-nhận cái chết (sđd tr. 56-57);

-Quan-tâm đến việc giúp đỡ người khác, coi đó như tầm quan-trọng của yêu thương;

­-Ít quan-tâm đến những đeo đuổi vật-chất;

-Tin-tưởng vào chiều-hướng tâm-linh và ý-nghĩa của cuộc đời;

-Thay-đổi trong tính sâu-xa của con tim (sđd tr. 59);

-Làm việc với đổi thay (sđd tr. 65);

-Thông-điệp của sự Vô Thường: trong cái chết có niềm hy vọng (68), gặp-gỡ Kitô-giáo và Phật-giáo… (sđd 68)

Và, các điều khác cần chú-trọng như: bản-chất của Tâm (tr.75-87), luyện tâm (tr.99), Thiền-định để nhận rõ chân tâm (tr.101), luyện-tập chánh-niệm (tr. 104), sự thanh-bình tự-nhiên. Có 3 phương-pháp thiền: 1-dùng một đối tượng, 2-nhẩm đọc câu thần chú, 3-canh chừng hơi thở. Đồng thời thực-hiện 3 phương trong 1 là: Tâm trong thiền-định, tĩnh-lặng vĩnh-cửu và sự cân bằng tinh-tế (xem tiếp sách đã dẫn từ trang 128 trở đi)

Theo-dõi câu chuyện “thực-tập cái chết khi còn sống” của thiền-sư Songya Rinpoche, bần đạo lại nhớ đến đoạn viết của đấng bậc thày dạy là Lm Kevin O’Shea CSsR, khi cha giáo nói về “Cứu-Chuộc thế-gian qua các đạo trên trần-thế”, có đoạn nói rất rõ về “cái chết dần mòn”, như sau:

Về “cái chết dần mòn”, nhiều người cố tìm cho ra những gì liên-quan đến kinh-nghiệm thường thấy ở các đạo, nơi trần-thế. Với chúng ta, là những người sống ở trời Tây, thường hay bắt đầu bằng các phương-án liên-quan giữa Đạo Hồi và Đạo Chúa: ta đang sống, tức là: ta đối-đầu/trực-diện với những gì tuyệt-đối, theo cách này cách khác. Rồi từ đó, ta làm nhẹ bớt tuyệt-đối ấy thành một thứ tử-tế, tựa hồ như người nhà Phật vẫn đang làm, mãi đến hôm nay. Và rồi, ta lại đi từ ngạc-nhiên này đến ngỡ ngàng khác bằng với xuất-hiện của sự việc “ngất-trí” vượt thoát mọi sự mà đi vào thể-loại vô ngã/vô thường kiểu Ấn-giáo. Chính nơi này, ta được gặp Đấng đã trỗi dậy khỏi mọi kinh-nghiệm giống như thế và khi ấy, ta thấy mình “trở-nên-một” với Ngài, và trong Ngài.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, On Cứu Chuộc: Kinh nghiệm như thế giống thứ gì? www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 30/10/2014)

Và, cha giáo O’Shea CSsR, đã kết-luận bài viết về “cái chết dần mòn” bằng câu sau đây:

“Ta đang đối-đầu/trực-diện với thứ gì đó cũng khá mới. Trông nó có hình-thù như một đường biến-thiên còn giấu kín. Nó đòi hỏi toàn-bộ định-nghĩa mới về thiên nhiên. Nó cũng đòi ta nhìn vào thiên-nhiên như điệu múa nhảy và là bản giao-hưởng khúc nữa, cũng nên.

Ở đây, xin nói thêm rằng: rất nhiều ví-dụ cụ-thể về lập-luận về cái chết theo đường-lối khác hẳn. Và, nó mở rộng cửa cho giòng chảy tự-do về hành-xử nhẹ nhàng, tử-tế. Trên thực tế, ta có thể nhìn vào quan-hệ đại-kết hoặc tương-quan chủng-tộc, giới-tính và/hoặc các tương-quan chủ/nô, thày-thợ cùng quan-hệ lãnh-đạo/bằng-hữu, cũng như siêu-nhiên/tự-nhiên, và về cái chết nữa.

Thế nên, có thể nói tắt một lời, rằng: một khi đã chết đi, ta lại sẽ khám phá ra thực-tại mới, giống như thế…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Xem thế thì, ta đã khám-phá ra sự sống mới-mẻ, rất hợp lẽ. Tư-tưởng ta có được ở đây vốn dĩ rút từ tư-tưởng của học-giả Xavier Sallantin. Thuận lẽ phải, theo tôi hiểu là phương-cách thức-thời do kinh-nghiệm tự diễn-bày như sự việc đầy ý-nghĩa, đối với ta.

Đi vào cuộc đời trần-thế, chắc bạn và tôi cũng khám-phá ra những điều thực-tiễn để hiện thực “cái chết dần mòn” này rồi thì phải?

Để minh-hoạ cho câu chuyện ta bàn hôm nay, vừa qua, bần đạo có người bạn thân học cùng lớp, nghe bần đạo nói sẽ viết về việc dọn mình chết lành, anh liền gửi cho bần đạo câu truyện kể để minh-hoạ như sau:

“Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

– Không được. – Thần Chết lắc đầu.

– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?

– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:

– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:

Xin hãy ghi nhớ:

“Bao nhiều tiền bạc cũng không

mua nổi một ngày”.

(trích câu truyện do anh bạn họ Phạm kể và gửi qua mạng nối kết, rất thông tin)

Nghe kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết thúc câu chuyện chết-sống/sống-chết bằng lời ca do nhạc sĩ Phạm Duy viết ở trên, rằng:

“Tôi không đem theo với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được tượng đồng, bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được tuổi vàng trong cõi sống,
Tôi xin đem theo với tôi một cuộc tình không quen thuộc,
Ðôi uyên ương xin mến thương không khó nhọc hay ngượng ngùng.
Trong đêm thâu ôm ấp nhau bên cột đèn hay khóm trúc,
Không ai ngăn hay lấy cũng vì phạm thuần phong mỹ tục…

Rồi mai đây tôi sẽ chết.
Trên đường về nơi cõi hết.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Rồi mai đây tôi hoá kiếp,
Trong lòng còn bao luyến tiếc.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được nhiều điều tôi mong đợi,
Tôi không đem theo với tôi danh với lợi ra ngoài đời.
Tôi không đem theo với tôi được cả buồn vui mấy nỗi,
Tôi không đem theo với tôi, và để lại cho thế giới.
Tôi xin dâng cho thế gian một vài điều tôi công nhận.
Tôi xin dâng cho thế gian ôi số phận sinh làm người.
Thương cho em chưa thoát thai trong cuộc đời chưa hết chuyến,
Tôi xin dâng cho cái quên của một người sẽ tái duyên.

(Phạm Duy – bđd)

Và cứ thế, tôi và bạn, ta lại hát nốt câu kết để làm nền như sau:

“Rồi may đây tôi sẽ chết, trên đường về nơi cõi Niết
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu !
Rồi mai đây tôi hoá kiếp, trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu
(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên ngang sống đến ngày cuối chót của đời mình, mà không còn lo lắng hoặc luyến tiếc điều gì, dù có chết. Chết mai sau, hay chết bây giờ cũng vẫn được. Và cũng chấp nhận cho người và cho mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Đang đi dần vào cõi chết

Đã thấy mau hơn bao giờ.

Ảo tưởng dân chủ

Ảo tưởng dân chủ

Nguyễn Hưng Quốc

01.01.2015

Trong bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of the Communist Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12 năm 2014, Michael J. Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ tự do”.

Rất nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do” mà quên bẵng đi mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party state).

Cách đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn ngữ, văn hoá và chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị sang Việt Nam nghiên cứu trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên đã từng du lịch sang Việt Nam. Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại Việt Nam, tất cả đều cho Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền. Nó hoàn toàn khác với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc mà họ từng biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng không gợi lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng không gặp dấu hiệu nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm của bản thân tôi, một nhà giáo và một người cầm bút tuyệt đối không tham gia chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất ngạc nhiên. Và thú nhận: đó là điều họ không hề biết.

Thật ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả những người ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa. Họ chỉ đến Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng. Họ không thấy được bản chất của chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc không phải ít, cũng cho là Việt Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều người, hầu hết thuộc thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch hoặc thường trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không còn độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay trong lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân chúng có thể thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các tiệm cà phê hay quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba, giới hạn trong phạm vi chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính chất thiếu dân chủ ấy vừa rất ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn từ Trung Quốc.

Tôi cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những người ngoại quốc đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ sự mê hoặc trước ảo tưởng dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo nên để đánh lừa mọi người.

Để thoát khỏi sự lừa dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn thường dùng trước đây, phân biệt bản chất và hiện tượng. Hiện tượng: ở Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản chất: đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về hiện tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy nhiên, về bản chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng miệng; hai, nếu viết, người ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê phán giới lãnh đạo. Trước, có ba điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau này, những khu vực cấm kỵ ấy dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh? Người ta có thể khó chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng sản? Dường như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì cũng có đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.

Để đánh giá một chế độ cần nhìn vào cơ chế. Cơ chế ấy, ở Việt Nam, vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu tố quan trọng nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt Nam hoàn toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí mật. Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung Quốc, người dân vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì với Trung Quốc trong hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách, nếu có, họ đang theo đuổi để bảo vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân chủ, đặc biệt dân chủ trong lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ bắt bớ dân chúng cũng như các biện pháp trừng phạt những người dân dám lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật trên báo chí, người ta cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ.

Trong bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá khắc nghiệt như Bắc Triều Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với thời kỳ tiền-dân chủ (pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên trước đây. Với cái nhìn như thế, ông hy vọng những năm tháng chúng ta đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng của chế độ cộng sản.

Trong lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo tưởng, chúng ta cũng nên biết một sự thật: Không có chế độ độc tài nào tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây phương, tự do không bao giờ miễn phí (freedom ain’t free). Tự do bao giờ cũng là kết quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao giờ cũng từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là cái quyền căn bản của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.

Khi dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối cùng (last days) có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên .