Thế giới này quả là một nơi tuyệt vời.

Thế giới này quả là một nơi tuyệt vời.

Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!

(The world is a wonderful place. What goes around comes around!)

1/- Câu chuyện thứ nhất xin kể về ông Gandhi. Ông là một vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Ông được dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là “Linh hồn lớn”, “Vĩ nhân”, “Đại nhân” hoặc là “Thánh Gandhi”.
Người ta kể chuyện là có thời ông Gandhi đi một chuyến xe lửa. Khi xe bắt đầu chuyển bánh thời ông nhảy vội vã lên tàu khiến cho một chiếc giày của ông rơi xuống đường. Ông không thể nào nhảy xuống để nhặt lại chiếc giày trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Ông bèn tháo luôn chiếc giày còn lại trong chân và ném về phía chiếc giày kia ở dưới đường. Hành khách trên tàu tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy thế và lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông.
Gandhi mỉm cười và ôn tồn giải thích rằng: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc giày thứ nhất thì người đó có thể tìm thấy chiếc thứ hai và như thế là có được đủ đôi giày để đi.”
Chúng ta ít khi nghĩ đến các người khác mà thông thường chỉ nghĩ về chính bản thân mình mà thôi. Khi bị mất mát thì điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Kế đó mất thêm nhiều thời gian nữa để nuối tiếc, than thở, rồi sinh ra chán nản. Nhiều khi trở nên bực bội và gắt gỏng nữa.
Gandhi đã có một hành động thật cao quý vì trong khi bản thân mình bị mất mát như thế, ông vẫn để tâm nghĩ đến người khác. Hành động này chứng tỏ việc nghĩ đến người khác đã trở thành một phần trong tâm tưởng và nguyên tắc sống của ông.
Nếu trong những lúc mà chúng ta được sống an bình và thành công mà chúng ta còn không quan tâm tới những kẻ bị bất hạnh hơn mình thì liệu khi gặp gian khó, mất mát, ta có thể làm được điều đó hay không? Trong xã hội, xung quanh chúng ta hàng ngày có biết bao nhiêu người thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ. Những gì họ cần đến không nhất thiết phải luôn luôn là vật chất, nhiều khi họ chỉ cần một lời động viên an ủi. Cõi ta bà này sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi chúng sinh không chỉ chăm lo cho lợi ích riêng mình mà còn chăm lo cho lợi ích của người khác nữa.

2/- Câu chuyện thứ hai liên quan tới vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông  là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944–45 từ mặt trận phía Tây
Vào thời xa xưa đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng của ông vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp. Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt. Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này. Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công lực tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường. Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông không hề quan tâm đến chức phận của ông và không hề tỏ thái độ gì trước hai kẻ đang gặp nạn này. Ông chỉ theo bản tính lương thiện vốn sẵn có của ông là luôn luôn muốn giúp đỡ người hoạn nạn mà thôi. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng đi thình lình ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào cái tâm  lương thiện, cái lòng từ bi đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát này. Quả là tự cứu mình bằng cách giúp người khác.

3/- Câu chuyện thứ ba kể về một cậu bé nhà nghèo tên là Howard Kelly. Quá nghèo nên hàng ngày cậu thường phải đến gõ cửa từng nhà để bán báo trên đường đi tới trường học của mình.
Một hôm cơn đói nổi lên thình lình, cậu thò tay vào túi thì thấy chỉ có một đồng duy nhất cuối cùng. Đồng tiền này cậu định dành lại để mua thức ăn cho mấy đứa em ở nhà. Sau vài giây phút lưỡng lự cậu quyết định đi tới ngôi nhà ở phía trước để xin chút đồ ăn. Nhưng người mở cửa cho cậu lại là một cô bé xinh đẹp và dễ thương. Cậu tỏ ra bối rối và ngại ngần, nên cậu chỉ dám mở miệng xin một cốc nước để uống mà thôi.
Cô bé trông thấy cậu có vẻ nghèo nàn và đang mệt lả đi vì đói nên thay vì mang nước cô lại đem cho cậu một cốc sữa lớn. Cậu từ từ uống một cách ngon lành rồi mới rụt rè khẽ hỏi cô gái: “Tôi nợ cô bao nhiêu?” Cô gái trả lời: “Bạn không nợ nần gì tôi cả. Mẹ tôi đã dạy là không bao giờ làm điều tốt mà còn chờ được trả công.” Cậu cảm động nói: “Tôi thành thực biết ơn cô.”
Sau khi rời khỏi ngôi nhà cô bé tốt bụng đó, cậu Howard Kelly không chỉ cảm thấy cơ thể khỏe khoắn trở lại mà cậu còn có lòng tin tưởng hơn vào từ tâm của con người. Điều này giúp ý chí cậu mạnh mẽ thêm lên và không chịu khuất phục số phận hẩm hiu của mình.
Nhiều năm sau đó, cô gái trẻ nói trên mắc phải một căn bệnh rất hiểm nghèo. Các bác sỹ tại địa phương đã cố gắng nhưng đành bó tay, không thể làm thuyên giảm bệnh. Cuối cùng họ quyết định chuyển cô lên bệnh viện thành phố nơi có nhiều chuyên gia mong chữa khỏi bệnh cho cô.
Trong số các bác sỹ được mời tới hội chẩn có một người tên là Howard Kelly. Khi nghe tới cái tên nơi quê quán của cô gái, một tia sáng chợt lóe lên trong ký ức của Kelly. Kelly vội đứng dậy, chạy xuống phòng cô gái. Bước tới gần giường bệnh ngay lập tức Kelly đã nhận ra đó chính là cô gái cho mình sữa ngày xa xưa. Kelly quay trở lại phòng hội chẩn và đề nghị được là người phụ trách ca bệnh đó.
Kelly làm hết sức mình với một sự quan tâm đặc biệt để chữa bệnh cho cô gái. Sau một thời gian chống chọi bệnh tình cô thuyên giảm và cuối cùng là khỏi bệnh hoàn toàn.
Trước ngày cô gái xuất viện, bác sỹ Kelly đã yêu cầu nhân viên quầy thu ngân chuyển hóa đơn tới bàn giấy của mình. Kelly viết ít chữ lên trên hóa đơn trước khi nó được gởi tới phòng bệnh để trao cho cô gái.
Khi mở ra đọc cô gái thầm nghĩ rằng có lẽ cô sẽ phải ra sức làm việc cả đời mới trả hết món tiền này. Nhưng cô thật sự ngạc nhiên khi đọc thấy trên phần đầu hóa đơn đã ghi sẵn dòng chữ: “Hóa đơn đã được thanh toán bằng một ly sữa”. Và người ký tên là: “Bác Sỹ Howard Kelly.”

4 /- Câu chuyện thứ tư xảy ra tại Đại học Stanford vào năm 1892. Thời đó có một học sinh 18 tuổi gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Là một trẻ mồ côi anh ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền, anh bèn nảy ra một sáng kiến. Anh cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

Họ đến mời Ignacy J Paderewski, một nghệ sĩ dương cầm đại tài. Người quản lý của Paderewski yêu cầu một khoản tiền là $2000 cho buổi biểu diễn. Sau khi họ thỏa thuận xong, hai người sinh viên bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị buổi trình diễn. Ngày ấy cuối cùng đã đến. Paderewski đã tới biểu diễn tại Stanford. Nhưng không may là vé không bán được hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé họ chỉ có được $1600. Họ thất vọng, đến để trình bày hoàn cảnh của mình với Paderewski. Họ đưa cho ông toàn bộ số tiền bán vé, cùng với một check nợ $400 và hứa rằng họ sẽ cố gắng trả số nợ ấy thật sớm.
Không ngờ Paderewski lại xé bỏ tờ check, trả lại số tiền cho hai chàng thanh niên và nói: “Hãy giữ lấy 1600 đô này, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu nữa thì mới đưa cho tôi.” Hai chàng thanh niên vô cùng bất ngờ, xúc động nói lời cảm ơn…
Đây chỉ là một việc nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của Paderewski. Ông giúp hai người mà ông ấy không hề quen biết. Trong cuộc sống hầu hết chúng ta đều nghĩ: “Nếu giúp họ, chúng ta sẽ được gì?” Nhưng những người vĩ đại lại nghĩ khác: “Nếu mình không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp gian khó này?” Người có từ tâm giúp ai không mong đợi sự đền đáp và chỉ nghĩ đó là việc nên làm mà thôi.
Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski nói trên sau này trở thành Thủ Tướng của nước Ba Lan. Ông là một vị lãnh đạo tài năng. Không may chiến tranh thế giới bùng nổ và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Hơn một triệu rưỡi người dân đang bị chết đói. Chính phủ của ông không còn tiền. Không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ ông bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ trợ giúp.

Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống thứ 31 của Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy. Cuối cùng thì thảm họa cũng đã được ngăn chặn.
Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới cảm thấy thoải mái. Ông bèn quyết định đi sang Hoa Kỳ để tự mình cảm ơn ông Hoover. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói: “Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy.”
Thế giới này quả là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại! (The world is a wonderful place. What goes around comes around!)
Người ta cũng còn nhớ ông Winston Churchill từng nói đại ý rằng chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta bố thí. Sống trên đời phải có một chút gì cho đi. Một chút đó chính là cái mình cố gắng (We make a living by what we get, but we make a life by what we give.)

Bản chất của Vô Minh & Giác Ngộ (Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo – Phần 2)

Bản chất của Vô Minh & Giác Ngộ (Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo – Phần 2)

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (33)

Vô minh thực chất là cái gì? Cảnh giới và nhãn quan của Giác ngộ là như thế nào

GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH”
TRONG THIỀN  PHẬT GIÁO

(Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)

PHẦN 1: Thiền Huệ Năng : Thiền là ”Thấy Tánh”

PHẦN 2

BẢN CHẤT CỦA VÔ MINH & GIÁC NGỘ

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (6)

1.      Vô minh – Vô Niệm

a.      Bản chất Vô minh

Trong Kinh Bảo Đàn, Vô minh hay được gọi là Hư Vọng là điều mà Huệ Năng cho là nguồn mạch của đau khổ, phiền não trong tâm con người nên cần phải giải trừ Vô minh thì mới hy vọng thấy Tánh. Vô minh có nghĩa là sự dấy lên của một ý nghĩ (tâm) trong ý thức gọi là Vọng Niệm. Vô minh cũng có nghĩa là không sáng, là không được ánh sáng của Tự Tánh chiếu rọi nên dễ rơi vào mê lầm ảo tưởng.[1]

Huệ Năng thường ví “Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng, trí huệ thường sáng; vì chấp cảnh bên ngoài, nên bị vọng niệm mây đen che khuất, Tự tánh chẳng được sáng tỏ.”[2] Tánh vốn là “cái Một tuyệt đối, thuần nhất, bình đẳng như nhau ở kẻ trí cũng như người ngu” [3]. Cái nhiều là cái phân hóa ra từ điên đảo Vô minh trong tâm thức của ta. Việc làm thiết yếu nhất của việc ngộ đạo Phật Giáo là vận dụng tất cả khí lực bình sinh để giải quyết vấn đề Vô minh, làm sao để kiến chiếu muôn vật trong “Một niệm[4]”.[5]

Vô minh thực chất là cái gì? Rõ hơn, Vô minh thật ra chẳng là cái gì cả, bản chất của nó chỉ là một ý niệm do lý trí phân biệt nảy sinh ra trong tâm thức của con người. Cũng như Giác ngộ, Vô minh không có giới hạn về thời gian vì nó không thuộc về thời gian mà là thuộc về Ý chí. Nhưng Vô minh thì ngược hẳn Giác Ngộ, trong khi Giác Ngộ là trở về với “Cái Một” tuyệt đối của Ý chí thì Vô minh là cái thể của Ý chí phân làm đôi khi nẩy ra một cái muốn là “muốn tự biết nó”. Từ đây nảy sinh ra một Ý thức gọi là động niệm phân hóa thành “Chủ” và “Khách”. Với tư cách là “Chủ” (Ý Chí nơi Tự Tánh) vốn đã tự đủ nên muốn thoát tất cả những gì ràng buộc trong mọi ước vọng hiểu biết. Trong khi đó với tính cách là “Khách” (Ý thức) vẫn luôn có cái gì đó không thể biết được, do đó luôn ở trong trạng thái cầu hiểu biết. Cuộc xung đột giữa “Chủ” và “Khách” vì thế là không thể tránh khỏi và cách nào đó Vô minh theo liền kiến thức luận lý như “bóng với hình”. Vì thế, Vô minh ở đây không có nghĩa là thiếu kiến thức hay chưa am tường một lý thuyết nhưng có nghĩa là không nắm được những yếu tố cốt yếu của cuộc sống biểu hiện ra từ Ý chí. [6]

Ở đây, chúng ta cần phân biệt bản chất khác nhau về “cái biết của Ý chí nơi Tự Tánh” (Chủ) và “cái biết của Ý thức nơi lý trí thuần túy” (Khách). Ý Thức (Khách) luôn tiếp xúc với thế giới bên ngoài một cách trực tiếp qua các giác năng, cái biết của Ý thức ở đây chủ yếu là cái biết mang tính kiến thức đơn thuần. Cái biết của Ý thức vì thế là cái biết của Vô minh, cái biết bị tách rời giữa người biết và điều được biết, ngoại giới biệt lập với nội tâm do đó luôn có những cặp mâu thuẫn đối lập nhau xuất hiện. Khi ta tưởng mình biết việc gì thì đồng thời cảm thấy vẫn có việc gì khác mà ta không biết, vì cái không biết luôn nằm sau cái biết dẫn đến là không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Do vậy, cần phải soi lại vào Tự tánh để vượt qua những mâu thuẫn về mặt nhận thức như trên. Không qua khỏi ngưỡng cửa ấy thì tâm ta không bao giờ yên, đời sống trở thành một cực hình không chịu nổi. [7] Huệ Năng cũng từng nhắc đến việc loại trừ ý niệm Chủ (Năng) – Khách (Sở) này: “Ngươi hễ tâm như hư không, chẳng chấp vào Không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý), Thánh phàm đều quên, Năng Sở đều diệt, Tánh tướng như như, thì không lúc nào chẳng phải Định vậy”.[8]

Thật ra, Ý thức thì vẫn là cái có đó, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nó. Ý thức có tài giải quyết những vấn đề thực dụng khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài và có sứ mạng cũng thật xác đáng là chiếu sáng Ý chí trong việc tiếp xúc với ngoại cảnh. Nhưng điểm yếu của Ý thức ở chỗ là thay vì chiếu sáng Ý chí thì nó lại đeo dính thế giới bên ngoài. Các hiện tượng, khái niệm, đối tượng khao khát tìm hiểu vẫn chính là chủ thể cho chính Ý thức. Vô minh là ở việc Ý thức quá dính bén với cảnh trần để thỏa mãn cho chính mình, không còn tin tưởng vào cái biết của Ý Chí nơi Tự Tánh. Ý thức do vậy không thể tự mình quét sạch được Vô minh là thể chất cố hữu của Ý thức, cũng như “gươm thì không thể chặt được gươm”. Vì thế, cần nhấn mạnh rằng, để vượt được bức tường Vô minh không phải là hành vi tri thức của cái biết thuần túy nhưng phải là sự tự ngộ lại Tự Tánh là bản chất đích thật của mình, một sự tâm chứng hiện thực, ngoài tất cả khuôn phép của luận lý. [9]

Ngược lại, khi Ý thức không tự giải thoát được chính mình thì Ý chí với tư cách là Chủ chỉ còn cách là vận dụng hết “khí lực bình sinh” để tự chiếu sáng chính mình. Đó là cái biết từ bên trong của Trí Huệ. Trong Ý chí thật ra ngoài “cái biết” còn có “cái thấy”. Ý chí tự do, tự chủ do đó thấy là “tự thấy”, biết là “tự biết”. Cái biết này vì không còn phân chia Chủ-Khách nên cái biết cũng không còn phân biệt đâu là người biết và điều được biết nữa. Đó mới thật là “cái biết” theo nghĩa cốt yếu nhất. Hễ Ý chí còn bị đánh lừa những gì do nó tạo ra thì Vô minh vẫn còn chiếm ưu thế, vẫn còn phân biệt giữa người biết và điều được biết. [10] Do vậy, vấn đề không phải là diệt trừ Ý thức nhưng ở chỗ là làm sao Ý thức và Ý chí hoạt động trong cùng một thể đến nỗi không còn phân biệt đâu là Ý Chí, đâu là Ý thức nữa. Một khi Ý thức cứ thích tách riêng không tin vào “cái biết tự đủ” nơi Ý chí để tìm thỏa mãn “cái biết” của mình nơi sự vật bên ngoài thì sẽ xảy ra sự xung đột mâu thuẫn nội tại không thoát ra được.

Hiện tượng Ý chí phân đôi như trên được nhắc đến rất nhiều trong Triết lý Ấn Giáo cũng như trong Tâm lý theo bình diện là “Cái Tâm, Cái Ngã hay Cái Tôi phân đôi”. Đây là hiện tượng phân tâm “Tâm thượng sanh Tâm” nghĩa là trên cái Tâm này thêm một cái Tâm nữa. Cái Tâm sau là “niệm” hoặc “tư tưởng”, đó là cái “Tâm thừa” hay “Cái Tôi tâm lý” nên sinh ra mê và khổ. Ở triết Ấn, điều này được diễn tả bằng hình ảnh một “con chim không ăn” (Tự tâm) đứng nhìn “con chim ăn” (Tâm thừa). “Con chim không ăn” là cái “Ngã Tự Tánh” đặc quánh, tự đủ do vậy không cần phải thỏa mãn mình nơi bất cứ cái gì khác nữa. Trong khi “con chim ăn” là cái “Ngã giả” tự tìm thỏa mãn cho mình ở thế giới bên ngoài.[11] Phật Giáo sở dĩ chủ tâm Vô Ngã là muốn xóa đi “cái ngã giả” đó, để chỉ còn lại cái ngã Tự Tánh thôi. Khi đó thì Ngã không còn phân biệt đâu là Ngã hay Vô Ngã nữa. Nếu còn phân biệt như thế thì vẫn còn trong Vô minh vậy.

Cũng thế, sở dĩ Phật Giáo chủ trương diệt dục, diệt ham muốn là diệt đi ham muốn được thỏa mãn của “cái ngã giả” chứ không phải hiểu theo nghĩa tiêu cực là diệt cái Tự Ngã. Diệt đi ham muốn cái Ngã giả vì đó chỉ là những thỏa mãn nơi Vô minh không thực, hậu quả dẫn đến chỉ là đau khổ và thất vọng, vì tất cả chỉ là ảo ảnh nên cũng mau qua, chóng tàn. Cái Tự Ngã vốn tinh tuyền và thật nên không gì có thể đụng chạm đến nó. [12] Thật ra, cuộc chiến để loại trừ cái Tâm giả cũng là trên bình diện tâm tưởng của ta mà thôi, Cái Ngã thật hay giả vốn chỉ là một trong tâm tưởng của ta, vì ta cứ thích phân ra cho rạch ròi nên Vô minh tăm tối là chỗ đó.

Nói cho cùng, Vô minh tự nó không có tội, cũng không là nguồn gốc của tội lỗi. Thế nhưng, nếu ta không thông suốt Vô minh là gì và ý nghĩa của nó là gì trong cuộc sống thì mọi tội lỗi sẽ tiếp nối nhau chằng chịt và tham ái là đầu mối tội lỗi. Ta chỉ có thể chế ngự được khi lý Vô minh được quán chiếu đến tận cùng bằng tâm tưởng của ta nơi diệu lý “Vô Niệm”. [13]

b.      Từ Vô Ngã đến Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Tướng

Giáo lý Phật Giáo Đại Thừa có vẻ nhấn mạnh đến vấn đề Vô Ngã nhưng nơi Thiền Môn vấn đề Vô Ngã được thu hẹp lại nơi phạm trù Vô Niệm. “Niệm” là một tư tưởng phát xuất từ thâm tâm mà cũng là một thời gian ngắn nhất (satna). Nhiều người thường nghĩ rằng Vô Ngã là phải xóa đi cái Ngã; không chỉ xóa đi cái Ngã giả mà cái Tự Ngã cũng phải diệt luôn thì mới đạt được trạng thái Niết Bàn[14]. Cũng vậy, ở khái niệm Vô Niệm, họ cũng cho rằng là phải làm sao để tâm trí ta không còn một khởi niệm nào nữa, theo nghĩa của họ thì phải để tâm ta vào hư không vô định… Tất cả những điều này, Thiền môn phủ nhận hoàn toàn và còn cho rằng đây là một sai lầm trầm trọng đưa đến sự ảo vọng và bệnh hoạn, hơn là đưa đến lý Giác Ngộ Niết Bàn. Như ở trên đã bàn về vấn đề Vô Ngã, ở đây chỉ chú ý đến hơn ở vấn đề Vô Niệm.

Theo Huệ Năng, sư giảng rất nhiều lần về điều này:

Sao gọi là VÔ NIỆM? Nếu thấy tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn[15], đối với lục trần[16] mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI[17], tự tại giải thoát gọi là hạnh VÔ NIỆM.[18]

Đối với Thiền môn, ý hướng hay ý tưởng từ bên trong là vô cùng quan trọng vì nó sẽ quyết định và chịu trách nhiệm cho tất cả các hành vi và cả vận mệnh ta sau đó. Chắc chắn đã là con người có lý trí thì ta luôn có những ý tưởng trong mình trước một sự việc xảy ra. Ý tưởng đó có thể là xấu hay tốt, cho dù ý tưởng không rõ ràng nhưng cái thâm ý đã bao hàm một cách rõ ràng mà chỉ tự mỗi người mới ý thức cái thâm ý của mình bên trong.

Thông thường, chúng ta được dạy là phải có ý hướng tốt, đừng có ý hướng xấu trước một sự việc gì. Tuy vậy, đối với quan niệm của Thiền môn thì bao lâu ta vẫn còn “tác ý” dù tốt hay xấu thì ta vẫn còn sinh ra “Nghiệp” (Karma nghĩa là tác ý hay Ý chí) dù là nghiệp tốt hay xấu [19]. “Có ý muốn làm mới có hành động, bằng thân khẩu hay ý”. Mà đã tác Nghiệp thì chắc chắn phải có “Báo ứng” (sự đáp trả lại). Điều này giống như ta tác động một lực bằng tay vào tường thì luôn có một lực đồng thời phản lại làm cho tay ta đau.

Ở đây thiền nhấn mạnh không chỉ là tác động bằng hành động nhưng khi ta tác động chỉ bằng một Ý lực thì ta biết chắc sẽ có phản hồi lại một ý lực tương tự sau đó. Vì lẽ đó, nếu còn “nghiệp báo” thì ta vẫn còn luẩn quẩn trong sự “vay trả, trả vay” của vòng Luân hồi nghiệp quả, ta vẫn chưa thật sự thanh thoát và chứng quả Giác Ngộ. Cửa Giác Ngộ của Thiền là phải đạt đến Vô Niệm. Nghĩa là không còn tác ý nữa, dù đó là ý tốt. Việc tốt ta làm là làm điều phải làm thôi, do Tự Tánh thúc đẩy từ bên trong chứ chẳng phải có ý tốt để mưu cầu điều gì cả, mà cũng chẳng cho đó là tốt. Ta cứ ung dung tự tại làm việc của ta vì đó là bổn phận phải làm!

Như thế, ta có thể thấy rằng, Vô Niệm không là đi vào cái hư không trống rỗng vô vị nhưng là trở lại với Tự tánh để hòa làm một với “Một niệm” ở nơi Tự Tánh. Kinh Phổ Diệu có nói: “Bỗng chốc trong Một niệm, bằng Trí Bát Nhã, Phật chứng Vô Thượng Bồ Đề”[20]. Mặc dù, nói là “Một niệm” là không đi vào các thế đối đãi nhị nguyên nhưng cho rằng mọi sự là Một mà thôi thì hiểu là “tất cả là một, và một là tất cả”[21]. Nhưng thật ra, cái ý niệm “Một” đó cũng không được nghĩ hay nói ra mà cũng không phải là cái hư không. Huệ Năng luôn nhắc nhở môn đệ của mình ở điểm này:

Chớ nên nghe ta nói “KHÔNG” mà liền chấp “KHÔNG”. Trước nhất chớ chấp “KHÔNG”, nếu để tâm “KHÔNG” tĩnh tọa là lọt vào “VÔ KÝ KHÔNG” [22]. Ở nơi khác sư còn nói mạnh hơn: “để tâm không mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được vì họ bị rơi vào tà kiến”[23].

Vì thế, “Một niệm” hay “Vô Niệm” nghĩa là chỉ có “hiểu” và “thấy” mọi sự như nó là, không nghĩ ngợi gì thêm, không cho tốt-xấu, hay-dở gì cả, tất cả chỉ là “Một Tuyệt Đối”. Sự việc dù có xảy ra như thế nào thì cứ chấp nhận nó như thế ấy không vội phán quyết là tốt-xấu, thiện-ác. Phán quyết của ta dù như thế nào cũng chỉ là phiến diện, một cứ nơi Tự Tánh thì sẽ được tự do tự tại. Chính điều này mà Thiền không chú trọng nhiều đến lý luận nhưng đề cao sự thinh lặng để chiêm ngắm thôi, cũng không đề cao việc ngồi thiền[24] cho bằng việc giữ tâm mình được thanh tịnh ở Vô Niệm. Đây là điều mà Lão-Trang có nhắc đến là “Vô Vi” hay “Khí hạo nhiên” hay phương Tây thường nói là “Let it be” (hãy để như nó là). Không bàn không nói, cứ để tâm thể thanh tịnh rồi tự nơi mỗi người sẽ tự chứng nghiệm lấy sự đơn sơ tự nhiên của diệu lý Vô Niệm đó.

Từ Vô Niệm sẽ dẫn đến Vô Trụ và Vô Tướng. Huệ Năng chỉ rõ rằng:

Thiền lấy “VÔ NIỆM làm tông, VÔ TƯỚNG làm thể, VÔ TRỤ làm gốc. VÔ TƯỚNG là ở nơi tướng mà lìa tướng. VÔ NIỆM là ở nơi niệm mà chẳng niệm. VÔ TRỤ là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật, thiện ác, tốt xấu, kẻ thù, người thân trên thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi dễ, đều cho là không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoại cảnh.[25]… Không ở nơi cảnh mà sinh tà kiến, nhưng ở niệm phải sinh ở Tự tánh. Niệm của Tự tánh là Vô niệm, tức là đều cho là không. Vô niệm thì khác với niệm tuyệt, tức là không nghĩ gì cả chỉ nhìn vào hư không.” [26]

Vô Niệm tức không khởi niệm phân biệt thì sẽ dẫn đến Vô Trụ. Vô Trụ là không bám dính vào bất cứ gì cả ngay cả ở nơi một ý niệm được gọi là “Không”, một chỉ ở nơi Tự Tánh mà hành động một cách tự do tự tại. Chính ở điều này mà Huệ Năng đã đạt “Đại Ngộ” được Tự Tánh khi nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng về Kinh Kim Cương ở câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” [27].

Vô trụ trong Thiền là trạng thái tự do tuyệt đối, tự do ngay cả đối với ý niệm về Thượng Đế (Vô Trụ Xứ). Nhiều người có vẻ ngạc nhiên về điều này, nhưng thật ra Thiền “không mưu toan bại hoại phá Thánh, bài Thần. Thiền cũng không cốt thấy Thượng Đế hay Chúa y như thực”. Thiền cũng nêu cao ý chỉ là “nhìn vào tạo vật không hỏi đến Đấng Hóa Công. Có thể trong khi hành Thiền người ta bắt gặp Chúa đang đắp nắn vũ trụ nhưng việc ai nấy làm. Thiền vẫn tiếp tục theo đường riêng, Thiền không ỷ lại vào chỗ dựa ấy. Vì thật ra, còn ý niệm thần bí về Chúa là còn có một đối tượng để nắm bắt. Hễ có được Chúa là phải loại trừ những gì chẳng là Chúa. Đó là tự mình đặt giới hạn cho mình, Thiền muốn tự do tuyệt đối.” [28]

Như trên đã nói, Huệ Năng nhấn mạnh đến việc nhận ra “Tự Tánh Siêu Việt” (Chúa) nơi chính mình trước nghĩa là phải bắt đầu từ trong thâm tâm mình đã, nếu không như thế thì việc ta tìm Chúa hay Phật bên ngoài: nơi sự vật, nơi việc cầu nguyện chỉ bằng miệng hay nơi các ý niệm dù là “Cao Vời Siêu Việt” của tư tưởng lý trí, thì chưa hẳn là “Chúa” thật. Nếu ta quá ỷ lại nơi ý niệm của ta về “Chúa” thì cũng chỉ là ảo tưởng nơi việc thờ kính của ta mà thôi.

Quả vậy, nếu Đấng Tuyệt Đối là tuyệt đối thì hơn hẳn với những gì ta nghĩ trong tâm tưởng của mình, vì tư tưởng ta không thể bao quát hết Đấng đó. Chúa mà ta cho là có đó bên ngoài là một Chúa nào giới hạn trong ý nghĩ ta mà thôi. Ý tưởng câu nói mà Thiền hay nhắc đến là “gặp Phật giết Phật” hay “Phật tại Tâm” là như thế, nghĩa là bao lâu chưa nhận ra “Phật Tánh” trong ta thì Phật bên ngoài nhiều lúc chỉ là ngẫu tượng. Vấn đề cốt yếu là ta phải chứng ngộ được Tự Tánh, khi đó ta cứ ở nơi Tự Tánh để thể nghiệm được thực tại cuộc sống của ta là gì, chỉ im lặng trong cái thực tại diệu kỳ không cần phải bàn luận, vì càng bàn luận về Thực tại Siêu hình thì càng mắc kẹt trong thế mâu thuẫn của Vô Minh, lòng ta lại càng thêm khắc khoải, ưu tư. Tự do ngay cả đối với ý niệm về “Đấng Tuyệt đối”, đó là sự “can đảm đến cùng” của Thiền vậy!

Vô Tướng cũng thế, nghĩa là không chấp vào sắc tướng bên ngoài mà nảy sinh những phán đoán đối lập nghịch với Tự Tánh. Dù có thấy điều dữ điều lành rành rành trước mắt thì cũng “chẳng lấy chẳng bỏ”, “chẳng chấp chẳng nhiễm”. Tâm sở dĩ loạn là vì quá chấp tướng, chấp cảnh bên ngoài. Cứ ở nơi Tự Tánh thì bên ngoài “ở nơi tướng lìa tướng, trong thì nơi không lìa không”. Vì nếu chấp vào tướng sẽ gây nên tà kiến còn nếu chấp vào tính “không” thì lại trở vào Vô minh. Đây có lẽ là cái thế gọng kìm thật khó thoát ra được nếu không chứng ngộ được bản chất của Tự Tánh, tức phải dùng Ánh Sáng của Tự Tánh để chiếu rọi Vô minh. [29] Nhìn chung, các tiến trình từ phá bỏ Vô minh đến đạt Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Chấp đều có liên hệ mật thiết với nhau và đều phải phát xuất từ việc Thấy Tánh và chứng ngộ Tự Tánh. Chúng ta sẽ hiểu hơn về thực tại Tự Tánh khi đi sâu tìm hiểu thêm về Bản Chất của Giác Ngộ Tự Tánh trong Thiền.

2.      Bản chất của Giác Ngộ Tự Tánh

Giác Ngộ là một điều tối quan trọng và tinh yếu nhất của Thiền. Đã gọi là Thiền là phải có Ngộ. Không Thiền thì không có Ngộ, không Ngộ thì chẳng phải Thiền. Thiền không Ngộ thì cũng như “mặt trời không có ánh sáng và nắng ấm”, như “tiêu không cay” vậy. Ngộ cũng là lý do tồn tại của Phật Giáo. Yếu chỉ Phật Giáo không gì khác hơn là nội dung của Giác ngộ. Để từ đó ta “sống thân thiết với cảnh giới tự chứng của Người mở đạo”, nhờ tự chứng như thế thì “Phật mới là Phật”. Do vậy, Thiền đi liền với việc tìm sự “Giác Ngộ Tối Cao”, chính đây là trụ cột chống đỡ cho sự tồn tại của Phật Giáo. Thiền được Phật Thích Ca “Tâm truyền” cho Ca Diếp qua câu chuyện “Niêm Hoa vi tiếu”: khi Phật đưa lên một cành hoa trước hội trường, một cử chỉ mà riêng chỉ có Ca Diếp[30] mới nhận ra thâm ý và đáp lại Thầy bằng một cái mỉm cười. Đó là khởi điểm của Đạo Thiền. [31]

a.      Cảnh giới của Giác Ngộ

Cảnh giới của Tự Giác thường được diễn tả bằng các từ ngữ sau: Trí, Huệ (Bát Nhã), Chứng, Ngộ, Thành, Giác, Kiến (Thấy). [32]

Giác (Budhi) hay Bồ Đề là trạng thái tuyệt đối của Tâm, dứt bặt hết phân biệt vọng tưởng hoặc Kiến chấp (cái thấy bị bóp méo do chấp trước theo định kiến). Phật (Budha) nghĩa là người Giác. Giác là thể nghiệm trạng thái kiến chiếu muôn vật trong “Một niệm”. Chỉ có trong “Một niệm” mới có Giác. Để có “Một Niệm” là việc làm thiết yếu của Phật Giáo khi dùng hết khí lực bình sinh để giải quyết vấn đề Vô Minh như trên đã bàn. [33] Niết Bàn (Nirvana) chỉ về trạng thái tâm bặt hết phiền não đồng một thể với Giác nhưng Giác mang sắc thái trí thức hơn. [34] Niết Bàn không nên được hiểu tiêu cực là sự tận diệt cả hồn lẫn xác, Phật không bao giờ ngụ ý Niết bàn nên hiểu như vậy. Niết bàn vẫn mãi mãi gắn liền vào tư tưởng Giác Ngộ. [35]

Trí Bát Nhã là một sự hiểu biết đạt đến tầng cao hơn kiến thức bình thường. Đó là một năng khiếu gồm cả trí và tâm, là một sự kiến chiếu trong Một niệm, không phân biệt chủ thể khách thể gồm thâu trong một Tâm, và Giác là kết quả của nó. [36] Ngộ có nghĩa là tự chứng lấy bằng trực giác một điều rất hiển nhiên ngoài giới hạn không gian thời gian.[37] Giác Ngộ gồm thâu cả Ý chí lẫn Trí thức, là một hành vi trực giác phát sinh từ Ý chí. Ý chí muốn biết nó y như thực (đúng bản chất). Phật Thích Ca ban đầu cũng luẩn quẩn nơi vòng sinh tử và Vô minh không sao thoát ra được trong sự vô vọng. Đó là sự vô vọng tuyệt đối của con đường dụng trí. Sau đó, với tất cả đại hùng lực của Ý chí Ngài đi ngay vào việc đập vào Vô Minh thì cửa mở ra, Ngài đã tự chứng tự ngộ.[38]

b.      Nhãn quan Giác Ngộ

Tinh yếu của Giác Ngộ nơi Thiền còn là mở ra một nhãn quang mới phóng vào cuộc sống và vũ trụ. “Nhãn quang này đòi ta phải vứt bỏ đi nếp nghĩ thông thường, ta nhận ra đâu là lối nhận định khác hơn. Ta thử xem lối nhận định thường có đủ đáp ứng trọn vẹn và rốt ráo những đòi hỏi của tâm hồn ta không? Ta cũng thử tìm xem cái gì hay điều gì khiến ta bị vướng mắc, thiếu tự do để từ đó có tự do hơn, có được cảm giác ổn định và thoải mái hơn. Thiền đề nghị ta làm việc ấy. Đoan chắc có được cái nhìn mới ấy thì cuộc đời sẽ diễn ra trong một khuôn mặt tươi mát hơn, thâm trầm hơn và thỏa đáng hơn. Đó thực sự là một đại biến cố của cuộc đời không dễ gì đạt tới vì đó là một cuộc ‘rửa tội trong lửa’, phải dấn qua vô số thử thách.” [39]

Giác Ngộ nghiêng về “trí hơn là tình, đó là một trực giác phóng thẳng vào bản thể muôn vật, khác với hiểu biết bằng phân tích lý luận”. Đó là “một khám phá ra một thế giới mới, muôn vật sẽ hiện ra dưới một quan điểm hoàn toàn mới lạ, chẳng ngờ. Thế giới sau khi ngộ không còn là thế giới cũ ngày nào, thế giới không bao giờ mê trở lại như xưa. Tất cả tâm thức cũ tưởng chừng như sụp đỗ, mọi mâu thuẫn dị biệt đều dung thông trong cái toàn thể thân thiết và nhịp nhàng”. Giác Ngộ giống như “một cuộc cách mạng đánh thẳng vào toàn diện cuộc sống tái thiết lại toàn thể đời người, đặt lại nền móng cho mọi nhận định liên quan đến cuộc sống. Từ đây, có sự thức tỉnh của một giác quan mới nên ta sẽ xét mọi giá trị cũ đều dưới một quan điểm hoàn toàn mới. Đặc biệt Giác Ngộ tác động mạnh đến đời sống đạo đức và tâm linh, làm đẹp ra, phấn khởi lên, trong sạch lại…”[40] Nhìn chung, Giác Ngộ là kinh nghiệm riêng tư, thân thiết của cá nhân không thể “nói hết bằng lời, tả bằng bút”. Những diễn tả của các Thiền Sư chỉ là thử khơi gợi lên, chỉ cho thấy mà thôi.

Nhìn chung, “nội dung của Giác ngộ thật ra giản dị vô cùng ở bản thể Tự tánh nhưng có sức chấn động kinh khủng đến toàn thể con người. Xét về mặt trí Giác ngộ giúp ta vượt qua những mâu thuẫn, đó là thế kẹt thuộc phạm vi ngôn ngữ văn tự và nhận thức thông thường. Về mặt tâm thức ta chú ý hướng đến việc tái thiết lại phẩm cách con người mình, chú ý đến hơn sự tự do của tâm hồn.”[41] Dầu vậy, hiểu nội dung Giác Ngộ thì chưa hẳn là đã đạt được sự Giác Ngộ. Vượt qua bức tường Vô Minh để đạt được Giác Ngộ Tự Tánh không phải là chuyện dễ dàng ngày một ngày hai như mọi người từng nghĩ về pháp giáo Đốn ngộ. Cái khó là vết hằn của Vô Minh nơi những tham sân si của mỗi người đã bén rễ quá sâu dường như không lay chuyển nổi. Làm sao để bứng bỏ vết hằn đó để con người có hy vọng Giác Ngộ Tự Tánh? Đó là công việc của Đạo Thiền nhắm đến.

Lửa Mới

4/2014

Xin xem tiếp phần 3 vào kỳ tới:
Làm sao để Giác ngộ Tự Tánh?

ƠN HOÁN CẢI + ƠN THIÊN TRIỆU

ƠN HOÁN CẢI + ƠN THIÊN TRIỆU

Từ một chàng trai hư hỏng, cờ bạc, ma túy đến một phạm nhân, rồi thành đan sĩ linh mục, giờ đây chính Lm P.X. Trần An lại hoán cải cuộc đời cho nhiều người giúp họ sống lương thiện, có ích.

Phóng viên Báo điện tử Gia đình Việt Nam đã tới Đan Viện Thiên An ở Huế và gặp Đan sĩ, Linh mục Phanxicô Xaviê Trần Văn An. Cuộc đời linh mục là một hành trình đầy thử thách, gian nan; đầy sự phấn đấu, lòng nhân từ và hồng ân.

Từ tình yêu thương bao la của mẹ

Sinh ra trong gia đình giàu có ở giáo xứ Cầu Rầm (Vinh, Nghệ An), chàng trai Trần Văn An ngày ấy rất khôi ngô và hào hoa.

17 tuổi, Trần Văn An bắt đầu con đường ăn chơi, sa đọa. Học hết cấp 3, cha mẹ cho theo nghề kim hoàn, Trần Văn An trở nên giàu có nhờ buôn bán vàng và đồ cổ. Nhưng chẳng mấy chốc, anh tiêu sạch tiền và sa vào cờ bạc, rượu chè, ma túy.

Hết tiền, Trần Văn An quay sang ăn cắp tiền của gia đình và nhiều người, tham gia băng nhóm xã hội đen, đánh lộn, ăn cắp và hút chích để rồi sa chân vào vòng lao lý, bắt đầu những tháng ngày tù tội khổ đau.

Từ một thanh niên có tương lai tốt đẹp, thành người ăn chơi sa đọa rồi một tù nhân, Trần Văn An còn bị thêm cú sốc khi người yêu “sang ngang”. Tuyệt vọng đến tận cùng, được tha về, anh vẫn chứng nào tật nấy, ngựa theo đường cũ, chẳng bao lâu lại dính vào nghiện ngập.

Chúng tôi hỏi cơ duyên nào khiến Trần Văn An quyết tâm từ bỏ con đường nghiện ngập và trở nên công chính, linh mục trả lời, rằng từ tình thương bao la của mẹ lay động lòng trời.

Khi đang lén lút hút thuốc phiện tại nhà, Trần Văn An bị mẹ phát hiện. Ngước mắt nhìn người mẹ yêu dấu khổ đau, sốc đến tận cùng, anh như bị sét đánh. Từ nội tâm như bật lên tiếng nói, thúc giục anh trở về với mẹ, phải sống tốt để tạ ơn mẹ. Cũng từ đó, trong anh có một quyết tâm lớn là làm lại cuộc đời, anh chạy đến Thánh Địa La Vang (Quảng Trị) nguyện cầu với Mẹ Maria, cầu nguyện Chúa cho anh đủ sức vượt qua cám dỗ của ma túy.

Năm 1992, chính bố ruột gửi Trần Văn An đến ở cùng một cha xứ. Hai năm sau, Trần Văn An gia nhập Đan Viện Thiên An và trở thành Đan sĩ dòng Biển Đức của đạo Thiên Chúa Giáo. Kể từ đó, Trần Văn An dành cả cuộc đời linh mục, đan sĩ của mình để cầu nguyện, giúp đỡ, chia sẻ và mang niềm hy vọng cho biết bao nhiêu người lầm lỡ muốn trở về con đường thiện. Vị linh mục nói: “Chúa đã yêu thương tôi và cứu chữa tôi. Vì thế tôi cố gắng làm một việc gì đó hữu ích cho người nghèo, bệnh nhân và người tội lỗi”.

Tôi hỏi: viết rõ quá khứ như vậy liệu có gì phiền không? Linh mục cười, nói rằng đây là sự thật và khi nói về sự thật cuộc đời mình thì mình đang hòa giải với chính mình đã; mình thấy thanh thản và cũng là để cảm tạ những ơn lành Chúa ban cho mình.

Hơn nữa nếu sự thật này mà chia sẻ được với bao thanh niên lỡ lầm cùng cảnh ngộ với thời trai trẻ của mình thì nên nói, vì câu chuyện này thêm sức mạnh, thêm niềm tin và hy vọng cho họ.

Dự án phát huy sức mạnh nội tâm…

Có một thanh niên tên Q, quê ở Hà Tĩnh, là người đã sống ngoài vòng pháp luật hơn 10 năm chỉ vì trong một bữa tiệc lời qua tiếng lại, dùng dao đâm chết bạn đồng hương rồi bỏ trốn. Người thanh niên này đã đến nhờ linh mục Trần Văn An giúp. Trước thái độ ăn năn của Q, linh mục đã chia sẻ, giúp đỡ, hướng dẫn Q tĩnh tâm, thống hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khuyên Q ra đầu thú để nhận được khoan hồng của pháp luật.

Trong bức thư gửi Linh Mục Trần An, Q tâm sự “Thưa Cha, con cám ơn Cha nhiều lắm, nhờ Cha mà giờ đây con sắp được vào tù. Con cảm thấy bình an hạnh phúc lắm, bởi tuy thân xác con ở tù nhưng lương tâm con lại được tự do giải phóng”

Còn rất nhiều, rất nhiều người khác nữa từ thanh niên đến người lớn tuổi, từ người công giáo đến người ngoài công giáo đã nhận được sự giúp đỡ tận tâm của Linh mục Trần An.

Thấy phương pháp dưỡng tâm, hướng dẫn người nghiện ma túy tĩnh tâm bằng cầu nguyện để tìm ra ý nghĩa đích thực của sự sống, của cuộc đời mình có kết quả rất tốt, tôi hỏi Linh mục Trần An sao không nhân rộng ra. Linh mục cho biết đã vận động được một số bà con giúp đỡ và đang xin chính quyền các cấp cho phép mở “Ngôi nhà tĩnh tâm, hướng thiện”.

Đây là dự án từ thiện về giáo dục hướng thiện, giúp đỡ, dạy nghề cho người nghiện ma túy, giúp họ tìm ra sức mạnh nội tâm để chiến thắng ma túy.

LÊ THÀNH

Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn,

“Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn,”

đời tôi cô đơn nên yêu ai cung không thành.

đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang,

yêu ai cũng lỡ làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi.

(Vinh Sử – Đời tôi cô đơn)

(1Cor 7: 30-32)

Trần Ngọc Mười Hai

Là nghệ sĩ, có thể anh chị vẫn hát những câu như thế. Chứ còn, linh mục bọn tôi, hỏi rằng hát vậy có nên không?

Nên hay không, xin bạn và tôi, ta cứ nghe thêm một đoạn nữa rồi ắt biết:

“Đời tôi cô đơn nên yêu em chẳng bao lâu

ngày mai đây em lên xe hoa bước theo chồng.

đời tôi quen cô đơn nên tôi chẳng trách em.

tôi quen rồi những chuyện dang dở từ khi mới yêu.

tôi quen tôi đã quen rồi em,

dang dở khi tình yêu tôi không xây trên bạc vàng.

tôi quen tôi đã quen rồi em

em khóc làm gi nữa bận lòng gi kẻ trắng tay.

tôi xin xin chúc em ngày mai hoa gấm ngọc ngà

luôn vây quanh em cả cuộc đời.

riêng tôi duyên kiếp luôn dở dang

nên suốt đời tôi vẫn yêu cô đơn như tình nhân.

(Vinh Sử – bđd)

Chẳng biết sao chứ bần đạo đây mới được đọc một bài tâm sự do đấng bậc nọ sống ở Úc từng viết về tâm-trạng của chính mình khi ông chọn suộc sống tông-đồ mục-vụ ở quê miền rất Úc Đại Lợi, lại có những giòng chảy như sau:

“Lâu nay, ngay từ ngày thụ-phong linh-mục ở Ballarat và thực-thi công-cuộc thừa-tác mục vụ ở Warrnambool, Koroit và Hamilton, tôi vẫn tự coi mình như linh-mục đồng quê, bởi cư dân ngụ ở nơi đó cũng tự gọi như thế. Và tôi cũng nghĩ là như thế, đã từ lâu…

Sống ở xứ đạo miền quê, tôi nay quen dần với cuộc sống ‘vò võ’ chỉ có mỗi một mình. Nhìn vào quá khứ tôi thấy mình cũng học được nhiều thứ. Bản thân mình, tôi là người anh cả trong gia đình có 9 người. Xem thế thì, tôi đã lớn lên trong khung cảnh gia đình đầy những người. Lên đại học, tôi lại là sinh-viên nội-trú san sẻ chốn ngụ cư với không ít sinh viên khác. Và khi bước chân vào đại-chủng-viện, lại cũng ở chung với nhiều bạn đồng cảnh, đồng-nghiệp. Nay sống ở vùng xa xôi thuộc tiểu bang Victoria, nước Úc, đáng lý ra tôi sẽ sinh sống cùng với gia đình nhỏ; nhưng chốn tôi ăn ở tại xứ họ này, lại không phải là gia đình nhỏ, mà chỉ mình tôi phải xoay xở đủ mọi thứ, cũng một mình.

Đáng lý ra, thật dễ sống trong khung cảnh nhà xứ với 3 phòng: gồm một nhà bếp, một phòng học/làm việc và một phòng ngủ, các nơi khác còn lại của nhà xứ đều không bàn ghế tủ giường và bỏ lơ là, trống rỗng. Tôi chống lại sự việc này nên đang cố gắng tạo dựng một cơ ngơi mang tính gia đình hơn, là: ăn ở phòng ăn, đọc sách tại phòng khách; nên, phòng ốc được trang-bị ngày càng thêm nhiều bàn ghế/tủ giả hơn và cứ từ từ tôi biến phòng ốc thành khu đông người ở bằng các tranh ảnh và bản in trên giấy dán khắp tường.

Làm như thế, cũng không có gì là lớn lao cho lắm. Nhưng phòng ốc tôi sinh sống nay được bày biện như nhà xứ với đồ đạc từ thế kỷ 19 có ghế bành, đồ đạc thuộc thập niên 90, và cứ thế giúp tôi có cảm giác như đang ở với gia đình vậy.

Lý do cho mọi chuyện, lại cũng đơn giản chỉ vì tôi không là người đơn độc ở một mình, nên không việc gì phải sống như những người đó. Linh mục độc thân nhưng lại được mọi người gọi bằng tiếng “cha”. Theo tôi thì, đây có sự khác biệt ‘một trời một vực’ giữa những người sống một thân một mình với cuộc sống độc-thân trong thánh-hiến. Trên lĩnh-vực thực-tế, thì một giáo xứ mang tính gia-đình sẽ giúp tôi cưỡng lại vị-thế thương-hại/thương xót chính mình và cả đến sự đơn độc nữa.

Cụ-thể hơn, thì thế này: khi tôi suy-tư và học hỏi mọi sự đều thấy hài lòng và vui thích, như hiện tại, thì trong tôi tràn đầy sự cảm-kích với những vật liệu lành-thánh ở quanh tôi. Giả như tôi có lang thang trong khu vực quanh nhà xứ lớn rộng và trống rỗng như thế, có cảm-giác sự đơn độc rất day dứt, thì chỉ cần liếc nhìn vào các ảnh hình ở quanh mình có Chúa hiện diện là tôi đã thấy mình không còn đơn chiếc nữa. Và ngay khi ấy, tôi dâng hiến cái cảm-giác đơn độc trong phút chốc ấy như một động-tác thương yêu, là xong ngay.

Ngoài ra, tôi đang vui hưởng tính hiếu-khách của giáo-dân miền quê. Các vị này vẫn mời chào tôi đến với mỗi người trong nhà của họ và tôi đặc biệt rất quí các bữa ăn với các gia đình còn son trẻ. Khi ấy mới thấy quí tình thân thương đại lượng của các bậc cha mẹ son trẻ, là các người đồng đạo, đồng thuyền với tôi, đã cho đi rất nhiều qua vị-thế của đời sống vợ chồng. Điều đó khiến tôi học đòi bắt chước tính chân phương đại độ của họ trong cuộc sống theo ơn gọi của riêng tôi.

Tắt một lời, sống một mình ở xứ đạo quê mùa, dân-dã, tôi học được nhiều bài học về thương yêu giùm giúp khiến tôi lên tinh-thần hơn trước”. (x. Lm John Corrigan, Diary of a country Priest: A solitary life? No. I’m never really alone, The Catholic Weekly 16/11/14, tr. 33)

Nhà Đạo mình thì như thế. Khi đã yêu rồi, thì không còn biết và cũng chẳng cần hiểu là mình có đơn độc hoặc đơn chiếc nữa không. Trong khi đó, người đời ở phố chợ đông đúc  dù đang yêu và vẫn yêu, nhưng miệng họ lại cứ hát những câu như sau:

“Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn.

dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng.

Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây,

tôi không hề trách đời hay giận đời mau đổi thay.”

(Vinh Sử – bđd)

Thế mới biết, cô đơn, lạnh lùng ở cuộc đời vẫn còn tùy. Tùy người. Tùy tâm tính và quyết-tâm tạo cuộc sống cho mình, thôi. Còn nhớ, khi xưa các cụ thường có câu: “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!. Và nếu ta cứ diễn đạt theo chiều hướng này, ắt cũng có thể bảo: cảnh có đông/vui, đâu làm cho người đơn độc thấy được niềm vui ở cuối đường, được!

Thế mới hay, rằng: cuộc sống con người dù ở ngoài đời hay trong Đạo, vẫn không cho những người đã sống và đang sống cuộc đời qua nhiều điều, để rồi người đời lại cứ dựa vào đó mà suy tư, đành hanh, tị nạnh.

Thế mới hiểu, như nhận định của người viết nọ từng minh định trên mạng, sau đây:

“Ở một đất nước giàu có của Châu Âu, có một cô ca sĩ rất nổi tiếng. Tuy mới chỉ 30 tuổi nhưng danh tiếng cô đã vang dội khắp nơi, hơn nữa cô có một người chồng như ý và một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Một lần, sau khi tổ chức thành công một đêm diễn, cô ca sĩ cùng chồng và con trai bị đám đông người hâm hộ cuồng nhiệt bao quanh. Mọi người tranh nhau chuyện trò với cô. Những lời lẽ tán tụng khen ngợi tràn ngập cả sân khấu.


Có người khen cô tuổi nhỏ chí lớn, vừa tốt nghiệp đại học đã bước chân vào nhà hát tầm cỡ quốc gia và trở thành nữ ca sĩ trụ cột của nhà hát. Có người tán tụng rằng mới có 25 tuổi mà cô đã được lựa chọn là một trong 10 nữ ca sĩ có giọng háy opera xuất sắc nhất thế giới. Có người lại ngưỡng mộ cô có người chồng tuyệt vời, một cậu con trai kháu khỉnh, dễ thương.

Trong khi mọi người thi nhau bà luận, cô ca sĩ này chỉ im lặng lắng nghe, không thể hiện thái độ gì. Khi mọi người nói xong cô chậm rãi nói: “Trước tiên, tôi cảm ơn những lời ngợi khen của mọi người dành cho tôi và những người trong gia đình tôi. Tôi hy vọng có thể chia sẻ niềm vui này với mọi người. Nhưng các bạn chỉ nhìn thấy một số mặt trong cuộc sống của tôi còn một số mặt khác, các bạn vẫn chưa nhìn thấy. Cậu con trai của tôi mà mọi người khen là bé kháu khỉnh, đáng yêu, thật bất hạnh, nó là 1 đứa trẻ bị câm. Ngoài ra, nó còn có một người chị tâm thần và thường xuyên bị nhốt ở nhà.”


Mọi người đều ngơ ngác, sửng sốt nhìn nhau, dường như rất khó chấp nhận một sự thật như thế. Lúc này, cô ca sĩ mới điềm tĩnh nói với mọi người: “Tất cả những chuyện này nói lên điều gì? Có lẽ chúng nói lên một triết lý, đó là, Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá nhiều thứ bao giờ.”

Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá ít, cũng không cho ai quá nhiều. Vì thế, đừng nên chỉ nhìn thấy hoặc ngưỡng mộ những thứ người khác có, mà nên nghĩ và trân trọng những thứ bạn đang có, cho dù đó không phải là những vinh quang tột đỉnh.

Vậy nên, nếu ai hỏi bạn “Bạn có hạnh phúc không?”

Bạn hãy trả lời rằng: “Mình hạnh phúc.

Hạnh phúc theo cách mình sống và những gì mình đang có trên đời này”.

(trích dẫn bài viết của tác giả ký tên là ST trên Internet)

Thế mới lạ, câu hỏi cuối cùng cứ lởn vởn trong đầu mọi người, vẫn cứ là: “Bạn có hạnh phúc không?” Hạnh phúc hiểu theo nghĩa thường, bất kể hoàn cảnh của đời mình có sống cô đơn, một mình ở chốn “khỉ ho cò gáy”, như linh mục tên John Corrigan ở “miệt dưới” nước Úc.

Hạnh phúc hiểu theo nghĩa đích đáng của đấng bậc ở “miệt trên cao” xứ Đạo toàn cầu, bên đó có giòng chảy đầy những chữ như sau:

1. Hãy sống thật với chính bản thân mình

Nhà thơ Mỹ Jay Parini cho rằng trước đó giáo hoàng Francis đã nhắn gửi thông điệp này khi khẳng định ông không đủ tư cách để đánh giá người đồng tính. Giáo hoàng nói: “Hãy bước về phía trước và để cho mọi người khác làm như vậy”.

Hãy sống thật với bản thân như Đức Giáo Hoàng. Ngài giản dị, gần gũi, vui tính, tràn đầy yêu thương, bao dung và bác ái. Khoảnh khắc hài hước của Đức Giáo Hoàng khi chủ trì hôn phối cho cặp đôi trẻ tại quảng trường Thánh Phêrô.

2. Hãy sống vì người khác

Đó là hãy đóng góp thời gian và tiền bạc của bản thân mình cho những người cần đến chúng. Đừng nên sống thụ động, trơ lì. Giáo hoàng Francis cho rằng mọi người cần cởi mở, vị tha và hào phóng với người khác. Ngài khiêm nhường quỳ xuống hôn chân giáo dân trong một nghi lễ. Ngài còn là người gần gũi với tất cả mọi người và đặc biệt rất yêu thương trẻ em.

3. Hãy sống một cách điềm đạm và lặng lẽ

Giáo hoàng dẫn lời nhà văn Argentina Ricardo Guiraldes mô tả một người thời trẻ “giống như một dòng chảy mạnh qua tất cả”, nhưng khi trưởng thành thì nên trở thành “một dòng sông tĩnh lặng, thanh bình”. Đức Giáo Hoàng luôn giản dị trong đời sống thường nhật, khiêm cung và lặng lẽ.

4. Hãy tận hưởng những khoảnh khắc thư thái

Giáo hoàng cho rằng chủ nghĩa tiêu thụ quá mức đã gây những nỗi lo âu vô cớ đối với nhiều người. Do đó mọi người cần dành thời gian nghỉ ngơi, chơi đùa với con cái. Các gia đình khi ăn cơm nên tắt tivi để có thể nói chuyện với nhau nhiều hơn. Ngài cũng luôn dành thời giờ để tận hưởng khoảnh khắc thư thái. Bóng đá và điệu Tango là sở thích của Ngài

5. Hãy dành chủ nhật cho gia đình

Giáo hoàng cho biết đây là một trong những điều răn trong Kinh thánh và đó là cách sống lành mạnh.

6. Hãy tìm việc làm cho người trẻ

“Chúng ta phải sáng tạo trong tìm việc cho người trẻ. Nếu họ không có cơ hội có việc làm, họ sẽ rơi vào các tệ nạn như ma túy” – giáo hoàng nhấn mạnh. Ông cho rằng không cần phải giàu có, nhiều tiền, chỉ cần tìm thấy niềm vui trong công việc là đủ.

Ngài cũng luôn hết sức gần gũi với giới trẻ.

7. Hãy tôn trọng tự nhiên

Theo giáo hoàng, suy thoái môi trường là một trong những thách thức lớn nhất đối với con người. “Câu hỏi mà chúng ta cần hỏi bản thân là phải chăng loài người đang tìm cách tự sát khi đối xử với tự nhiên một cách bừa bãi và bạo ngược như vậy” – giáo hoàng nói.

8. Hãy ngừng những suy nghĩ tiêu cực

Giáo hoàng cho rằng việc suốt ngày than thở về cái xấu và sự tiêu cực của người khác cho thấy sự thiếu tự tin của chính bản thân mình. Hãy để cho những điều tiêu cực trôi nhanh.

9. Hãy tôn trọng tín ngưỡng của người khác

Theo giáo hoàng, mỗi người đều có quyền nhìn thế giới theo cách riêng của họ và chúng ta phải tôn trọng điều đó. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thì: “Mỗi người đều có quyền nhìn thế giới theo cách riêng của họ và chúng ta phải tôn trọng điều đó”.

10. Hãy làm việc vì hòa bình

Giáo hoàng khẳng định chúng ta đang sống trong một thời kỳ có nhiều xung đột và cần phải kêu gọi hòa bình. Trên thực tế giáo hoàng từng đến Trung Đông để kêu gọi người Israel và Palestine đối thoại với nhau. Ông từng nhấn mạnh hậu quả lớn nhất của chiến tranh chính là những đứa trẻ thiệt mạng, bị tật nguyền hoặc trở thành mồ côi.” (x. Tạp chí Argentina Viva, Đức giáo hoàng Francis tiết lộ danh sách 10 bí quyết để sống hạnh phúc mà ông muốn gửi gắm tới tất cả mọi người.)

Nhắc đến đấng bậc nhà Đạo “ở trên cao”, nói đến hạnh phúc những 10 điều, cũng nên nhắc nhớ và nhắc nhở câu an ủi của đấng bậc lành thánh khác, ở Tin Mừng, như sau:

“Thưa anh em,

tôi xin nói với anh em điều này:

thời gian chẳng còn bao lâu.

Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có;

ai khóc lóc, hãy làm như không khóc;

ai vui mừng, như chẳng mừng vui;

ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;

kẻ vui hưởng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.

Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.

Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì hết.”

(1Cor 7: 30-32)

Thế mới biết, cuộc đời này, nếu cứ nói năng, tranh-luận về hạnh-phúc/sướng vui, cũng tùy người/tùy việc. Nay, xem thế thì bạn và tôi, ta cũng nên cảm-nghiệm chuyện vui/buồn ở đời người theo nhiều cách, nhiều khíá cạnh, rất khác nhau.

Có một cách và cũng là khía cạnh cho thấy người người đều thấy vui và hạnh phúc, khi mãn nguyện với việc mình làm rất đúng hướng, đúng điệu và đúng cách. Những hướng, những điệu và cách thức, tương tự ý-nghĩa của chuyện kể cũng rất phiếm được dùng làm đoạn kết kết cho bài phiếm nhẹ, rất như sau:

“Trong lần phỏng-vấn tìm việc có lời hỏi/đáp rất ngắn gọn, như sau:

-Được gọi đến phỏng vấn tìm việc như thế này, anh có thấy hạnh phúc không?

-Thưa ông, rất TT.

-Có thể nào anh nói rõ rất TT là nghĩa gì không? Hay chỉ có nghĩa “tê tê”, thẫn thờ?

-Thích thú, mới đúng nghĩa.

-Thế, tên anh là gì để tôi còn vào sổ?

-Dạ thưa, TT.

-Một lần nữa xin nói cho đủ chữ.

-Trần Trường, ạ.

-Thế tên cha là gì?

-Dạ, TT.

-Như thế là gì?

-Dạ, Trần Tình.

-Nơi sinh?

-Dạ, TT.

-Lại TT là nghĩa gì?

-Dạ, Thừa Thiên ạ.

-Văn bằng anh tạo được là do đâu?

-TT ạ.

-Xin lỗi, nếu tôi không được trầm tĩnh, thì chữ đó có nghĩa gì?

-Dạ, do “thủ thuật” ạ.

-Vậy thì, tại sao anh muốn có việc làm?

-Dạ, vì TT ạ.

-Lại nữa, TT đây là cái gì thế?

-Dạ, Túng Thiếu ạ.

-Thế anh thấy nhân cách của anh thế nào?

-Dạ, TT.

-Nghĩa là gì, xin nói cho đầy đủ chữ?

-Dạ, tuyệt trần ạ!

-Thôi được rồi, tôi sẽ gọi anh để cho biết kết quả.

-Thưa ông thấy TT, à quên tư thế của tôi thế nào, sau vụ này?

-Tôi nghĩ anh đang TT đấy!

-Dạ thưa, TT ông nói có nghĩa gì vậy?

-Có nghĩa là anh như người bị Tâm Thần, vậy thôi…”

(trích truyện cười trên trang mạng của Úc, do bạn bè gửi)

Nói cho cùng, có Tê Tê hay Zet zét, cũng chỉ là tư thế của những người đang đi tìm niềm vui trong cuộc sống có Tê Tê, nhiều tự truyện. Thế nhưng Tê Tê cuộc đời không chỉ mỗi tê tê, hay bê bê bối bối cũng chẳng sao. Miễn là bạn đi đâu, ở đâu cũng thấy hạnh phúc sướng vui là được. Chí ít, là sống đời đi Đạo, ở giữa đời.

Tắt một lời, cuộc đời người đâu chỉ mãi như câu hát ở bên dưới, mà rằng:

“Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn.

dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng.

Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây,

tôi không hề trách đời hay giận đời mau đổi thay.”

(Vinh Sử – bđd)

Tắt một lời, dù có “Tê Tê” buồn buồn như truyện kể, hoặc “cô đơn/lẻ bóng như câu hát, thì bạn và tôi, ta hãy cứ hiên ngang mà sống. Sống, theo lời khuyên bảo của đấng thánh-hiền nhà Đạo vẫn căn dặn rằng:

“kẻ vui hưởng của cải đời này,

hãy làm như chẳng hưởng.

Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.”

(1Cor 7: 30-32)

Tắt một lời, dù cho bộ mặt “thế gian” lan man với thế giới này vẫn không biến đi như lời thánh-hiền tiên đoán, thì bạn và tôi hãy cứ sống vui sống mạnh, sống xứng một đời đi Đạo, trong đời người. Rất ở huyện.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết-tâm

đại loại như thế.

Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,

“Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,”

“Cây em đan hộ tấm tình yêu
Để về mang ủ lòng anh lạnh,
Cho khoảng đêm trường đỡ quạnh hiu.”

(Dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mc 1: 14-20

Mai Tá lược dịch.

Nhà thơ ưu tư nhiều, về người em đan áo lạnh. Đan áo cho đêm trường khỏi quạnh hiu. Nhà Đạo ít bận tâm, về đáp ứng lời gọi mời, vẫn từ lâu.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô kể về lời Chúa gọi mời, có thử thách. Về, cả những đáp ứng của muôn dân thiên hạ, đã dửng dưng. Tin Mừng nay được viết, ngay sau khi Đức Chúa chịu thanh tẩy bên bờ sông Gióc-đan. Thanh Tẩy Chúa, có Ngôi Cha hỗ trợ. Có cả, Thần Linh Chúa ở cùng với Đức Giê-su.

Thánh Gio-an Tẩy Giả đã bị bọn xấu bắt giữ, nên thánh nhân đã “trao ban – phó nộp” vào lúc Đức Giê-su đi đến gặp ông. Đúng theo ngôn từ ta sử dụng trong thánh lễ, lúc vị chủ tế dâng Mình Thánh: “Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con.” Trao ban – phó nộp, mang ý nghĩa Chúa khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng, cho người đời.

Cuộc đời Ngài, tóm gọn vào hai giòng chữ, rất rõ ràng: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1: 15). Quả thật, toàn bộ tín thư Tin Mừng tóm gọn ở hai mệnh đề này. Đó, chính là mục tiêu Chúa đến với nhân trần. Và, ta đáp ứng việc ấy ra sao.

Thời buổi đã mãn, là Đấng Mêsia, Vua Cứu Độ, nay đã đến. Cũng thế, Vương Quốc Nước Trời, như Triều đại/ngai vàng của Chúa nay gần kề. “Vương quốc” Ngài, không là nơi chốn địa dư không gian, mà là mạng lưới tương quan. Và, ai tuỳ thuộc “mạng”, là người chấp nhận thị kiến sống do Đức Giê-su ban bố, cho mọi người. Tức, cuộc sống của những ai đặt căn bản trên thị kiến ấy. Chẳng cần biết người ấy là ai; họ ở đâu. Mạng tương quan, đang hiện hữu ở đây. Lúc này. Vương quốc của Ngài rộng hơn Hội thánh. Vẫn được gọi, là bảng hiệu chỉ rõ Vương Quốc Đức Chúa, hiện diện ở gian trần.

Làm cách nào vào được Vương quốc ấy? “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”. Ở bài đọc 1, tiên tri Giôna rao giảng về việc sám hối, chuyển đến dân chúng chốn thị thành ở Ninivê. Trái hẳn điều ông kỳ vọng, dân ngoại ở đây “đã biết tin vào Đức Chúa” và “họ đã bỏ đường gian ác mà trở về”.

Ở đây, cụm từ “sám hối” mang ý nghĩa còn mạnh hơn cả việc hối hận những lỗi phạm thời đã qua. Nó đòi hỏi một chuyển đổi tận thâm căn (người Hy Lạp gọi là Metanoia). Thay đổi định hướng. Đổi thay mọi ưu tiên trong đời mình. Thay, là thay cái cũ, để đi tới cái mới.

Điều thay đổi, là TIN VÀO Tin Mừng. Là, không chỉ chấp nhận rằng: những điều Chúa dạy bảo hoặc Giáo hội nhủ khuyên, đều đúng thật, thôi. TIN VÀO, còn đòi phải có quyết tâm, rất trọn vẹn. Quyết, rũ bỏ nhiều điều của chính mình như hai người thề hứa lúc kết hôn: quyết ở với nhau cả khi hạnh phúc cùng lúc gian nan. Cả, điều xấu lẫn cái tốt.

Phần hai của trình thuật, trưng dẫn đáp ứng đầu tiên với lời mời và gọi. Có 4 vị chài lưới, đã được bảo: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Ngay lúc ấy, Phêrô, Anrê bỏ chài bỏ lưới (tức bỏ cuộc sống cũ xưa) lập tức đi theo Ngài. Cũng thế, bỏ cha đẻ của mình ở lại, hai anh em nhà Zêbêđê là: Gioan và Gia-cô-bê đã ra đi, theo chân Chúa.

Theo chân Chúa, là trọn vẹn đặt tin tưởng và trao ban chính con người mình, cho Chúa. Thật ra, các vị thuộc lớp dân chài này, chỉ nghe thoe tiếng mời gọi, chứ đâu biết mình sẽ đi đâu. Cũng chẳng biết tương lai của mình, sẽ ra sao. Đấy, chính là sự tin tưởng lớn lao vào Con Người, đến từ mây xanh. Lại, đã đi vào cuộc đời mình. Đã đổi thay chính mình, để mình bỏ lại đằng sau tất cả sự an toàn, bỏ tất cả. Thật sự, thì quý vị ấy cũng đã ngang qua nhiều kinh nghiệm, vui cũng có. Khổ, cũng có.

Các anh sẽ thành những kẻ lưới người, là tiếp tục hành động cao cả, mà Thầy đem đến cho mọi người. Cao cả, là đường lối mới để sống. Sống chân thật. Sống trong tin yêu, tự do và công chính. Và, các ngài đã tạo cho mình nhiều kinh nghiệm thăng hoa mọi ước ao, mình vẫn có.

Lời gọi mời Chúa đưa ra, vẫn tiếp tục được gửi đến với mỗi người, trong chúng ta. Ta có sẵn sàng đáp trả? Có bước theo chân Ngài hay không, đó chính là vấn đề. Và, vấn đề còn đó, là hỏi rằng mạng lưới nào đang bủa rộng/giam giữ chúng ta? Lưới nào, hạn chế tự do có quyết tâm, của chính ta? Tương quan nào đang làm cản trở đường ta đang đi? Lo âu nào khiến ta khắc khoải? Tham vọng? Vị kỷ?

Bài đọc 2, thánh Phao-lô hôm nay nhắn nhủ giáo đoàn Corinthô hãy sống hoàn toàn tự do, và rũ bỏ. Rũ bỏ, là bởi những gì ta sở hữu, dù là vật chất hay của riêng ta dính bén, đều không mang tính trường cửu. Vẫn có thể, biến mất trong nháy mắt, chẳng báo trước. Cuộc sống dù đẹp, dù chỉ lan man tàn tàn, cũng chẳng tổn tại, lâu dài. Trừ phi, đó là giá trị căn bản của sự thật. Của tình yêu đích thực, của tự do và công lý. Giá trị chăng, chẳng phải do cái mình có. Mà là, bản chất của chính mình.

Bởi thế nên, hôm nay bà con ta hãy cầu và mong sao mình nghe được lời gọi mời, rất rõ. Mong và cầu, để mình có sự do, mà theo Ngài. Tự do, để nghe theo tiếng gọi mời, âu yếm ấy. Nghe, để lúc nào cũng sẵn sàng ra đi. Đi đến bất cứ nơi nào Chúa mời mình, đặt chân đến.

Trong tư thế sẵn sàng lắng nghe, ta cứ hân hoan lên, mà vui hát. Hát rằng:

“Này người yêu anh ơi!

Cho anh nồng ấm cuộc đời

Hoa thơm có ánh mặt trời

Ôi núi mừng – vì mây đến rồi!

Này người yêu, người yêu anh hỡi!

Yêu nhau mình đưa nhau tới

Bước nhẹ – và nói bên môi

Nói cho vừa … mình anh nghe thôi!”

(Nguyễn Đức Quang – Bên kia sông)

Nồng ấm cuộc đời, Ngài vẫn gọi. Gọi và nghe, là tư thế của cuộc đời. Một đời, có gió thổi. Có, mây trôi nhiều lá rụng. Một đời, có “em đan hộ tấm tình yêu, để về mang ủ lòng anh lạnh”. Một đời, quyết nghe theo Lời Chúa, để “đêm trường đỡ quạnh hiu.”

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch.

ƠN GỌI

ƠN GỌI

Thùy Phương

“Hãy tin rằng Ngài sẽ cho bạn những ơn thánh cần thiết vào những thời điểm cần thiết vì Ngài đã nói “ơn Ta đủ cho con”, và Ngài không bao giờ thử thách quá sức chịu đựng của bạn”

“Ơn Gọi” – chỉ hai chữ thôi nhưng đã đặt ra cho con biết bao nhiêu câu hỏi ngay từ khi con có trí khôn.  Ơn gọi là gì?  Là ai gọi?  Gọi như thế nào?  Và tại sao lại gọi?…  Biết bao nhiêu câu hỏi tại sao và tại sao mà chưa có lời giải đáp.  Hai chữ ấy theo con lớn lên khiến con càng phải đi tìm câu trả lời cho mình, và từng bước con khám phá ra qua cuộc sống, qua những biến cố hàng ngày.

“Ơn Gọi” – là một cái gì đó rất bình thường nhưng cũng thật phi thường.  Bình thường vì nó chỉ là một tiếng gọi nhưng phi thường vì tiếng gọi ấy chỉ là một ơn mà Thiên Chúa ban cho mỗi người.  Được sinh ra làm người và làm con Chúa chính là một hồng ân và ơn gọi sống đời thánh hiến mà Chúa dành cho con là một quà tặng mà con được nhận.  Con đã được mời gọi dấn thân vào đời sống tu trì một cách rất tình cờ và cũng thật tự nhiên.  Lời mời gọi ấy văng vẳng quanh con, qua gia đình, anh chị em, bạn bè, qua những nơi, những người mà con tiếp xúc.  Lời gọi ấy âm thầm nhưng lại mãnh liệt.  Đã nhiều lần con muốn làm ngơ trước lời ấy nhưng dường như càng lẩn trốn thì tiếng gọi ấy càng lớn dần trong con và ngày càng thôi thúc con phải làm điều gì đó cho Chúa, cho mọi người và cho chính bản thân.  Con cảm thấy mình rất can đảm, can đảm vì dám bước theo Chúa, can đảm vì có một quyết định mà người khác cho là “điên”….  Vâng, con chấp nhận như thế vì chính con cũng biết rằng: đi theo Chúa là khổ cực, là từ bỏ mọi thứ mà lẽ ra con sẽ có ở độ tuổi này.  Theo Chúa là từ bỏ gia đình, anh chị em để sống chung trong gia đình mới với mỗi người mỗi nết khác nhau, và theo Chúa chính là lội ngược dòng….

Nhưng khi đến được điểm hẹn với Chúa, con thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc vì có Chúa, hạnh phúc vì thực hiện điều Chúa muốn và hạnh phúc vì xuất phát từ con tim con.  Bởi con biết cuộc sống con ở trong tay Chúa, chọn con cũng là sáng kiến của Chúa.  Và cũng thật kỳ diệu thay khi sáng kiến ấy lại xuất phát từ khi con chưa lọt lòng mẹ thì Chúa đã chọn, Chúa chỉ việc đợi chờ con đáp trả một cách tự do mà không ràng buộc.

Và bây giờ con đã hiểu, con vẫn đang trên hành trình đi tìm hạnh phúc, và chỉ khi nào con chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người thì con mới thực sự hạnh phúc trong Chúa.

Xin mọi người hãy tiếp tục cầu nguyện cho ơn gọi của con nhé…..

Thùy Phương

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

dongten.net

II.    NỘI DUNG

1.      Tánh và Thấy Tánh

a.      Tánh

Trước hết, “Tánh” (Tính) về mặt ngữ nghĩa là chỉ về cái bản thể, yếu lý, linh hồn, hoặc cái bẩm sinh ở con người [12], người Việt hay gọi là “Lương tâm”. Từ mà chính Huệ Năng hay dùng là “Bổn lai diện mục” tức là “Khuôn mặt ngàn đời” trước sau không thay đổi. Tánh “vốn tự đủ, chẳng lay động, chẳng sinh chẳng diệt”[13] nơi mỗi người nên cũng được gọi là “Tự Tánh”, “Chân Như”, hay “Phật Tánh”. Tánh thể hiện về mặt trí gọi là “Bát Nhã”, đó là “Trí Bát Nhã” hay “Trí Huệ”. Tánh là một ánh sáng phát xuất từ bên trong nội tâm nên gọi là“Ánh Sáng Tự Tâm”. Việc thấy Tánh cũng mở ra một nhãn quan mới gọi là mở “Con Mắt Trí Huệ”. “Tự Tánh” mặc dù với nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều chỉ về một Thực tại Siêu Việt đã có sẵn trong mỗi người từ muôn đời. Huệ Năng nhiều lần nhắc nhở đồ chúng và môn đồ của mình: “Tâm ta tự có Phật, Tự Phật là chơn Phật… Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa.”[14]

Thật ra, thực tại Tự Tánh là một Thực tại Siêu Việt, ta không thể dùng lời để diễn tả hết những sâu diệu của nó. Ta cũng không thể chỉ dựa vào câu chữ ở trên mà hiểu được hết, chỉ khi ta tự chứng nghiệm lấy thì ta sẽ hiểu phần nào về Tánh đó. Điều này cũng giống như việc mãi giải thích cho “Hạt muối”[15] về “Biển” là gì trong khi chỉ cần ra đến biển và ngụp lặng vào biển thì hy vọng đã hiểu được phần nào. Hơn nữa, ta không thể diễn đạt được hết ý nghĩa và đúng bản chất của Tánh bằng một khái niệm nào bằng mặt chữ, mà dù có định nghĩa là gì thì ta cũng chỉ là gọi tên đơn thuần hay nói về một thuộc tính của Tánh mà thôi. Vì thế, các triết gia Ấn thường diễn đạt Tánh theo lối phủ định: “neti neti” nghĩa là không phải như vậy mà cũng chẳng như thế kia.[16]

Tánh mà Huệ Năng muốn nhấn mạnh cũng theo một lối như thế khi Sư ra câu đố cho các đồ đệ của mình. Sư hỏi: “Ta có một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?”. Một môn đệ của sư là Thần Hội bèn ra nói: “Ấy là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”. Sư nói: “Đã nói với ngươi là chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật Tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi”.[17]

Từ những gì bàn ở trên cho ta thấy rằng, tự bản chất Phật giáo đã hướng về Tuyệt Đối Siêu Việt. Mặc dù không cho đó là một Đấng có Bản vị như nhiều tôn giáo khác nhưng Phật Giáo chính thống luôn tin Thực Tại Siêu Việt mà trước hết là hướng tìm Siêu Việt ngay trong tâm mình. Theo Huệ Năng, chỉ vì ta “mê loạn trong tư tưởng” nên không hiện thực được Ánh sáng Siêu Việt ấy ở trong ta, cần có sự hướng dẫn và khai ngộ của một bậc Thiền đức cho đến khi con Mắt huệ mở ra để ta có thể nhìn thấy Tự Tánh tinh tuyền của ta, điều đó gọi là Thấy Tánh”. [18]

b.      Thấy Tánh – Trí Bát Nhã [19]

“Thấy Tánh” chính là đối tượng mà phép hành Thiền nhắm đến. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được Tự Tâm, thấy được Bản Tánh, tức thành Phật đạo” [20].  Thấy Tánh trong Thiền cũng hay gọi là “Ngộ”, “Giác” hay “Giác Ngộ” (Budhi – Bồ đề) [21]. Thấy Tánh hay Giác ngộ có thể nói rằng đó là trạng thái thức tỉnh của tâm hồn nhận ra điều gì đó lớn lao, rất cụ thể từ bên trong, là sự hiểu biết cao thâm mà từ trước đến giờ chưa hề biết đến.[22] Sự hiểu biết này phải phát sinh từ sự nhận ra bản chất của Tự Tánh nơi tâm hồn mình. Chắc chắn cái biết đó không phải là cái biết thuần lý trí và lý thuyết nhưng là sự tự trực nghiệm thấy được, tự nhận ra được Chân lý cao sâu từ bên trong không thể diễn tả hết bằng lời nói.[23]

Nếu như Thấy Tánh là nhận ra và hiểu được diệu lý của Bổn thể mình thì đồng thời sự nhận biết đó cũng phản lại cái diệu lý đó lên vạn vật gọi là Trí Bát Nhã. Như thế, Thấy Tánh là đồng một thể Trí Bát Nhã. [24] Trí Bát Nhã nơi sự Giác ngộ không những là trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết phân biệt của vọng tưởng nhưng còn là thể nghiệm trạng thái “kiến chiếu muôn vật trong Một niệm”[25]. Cần “Một Niệm[26] mới có Giác, cái biết của Trí Bát Nhã (Trí Huệ) là thấy “tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại”. Đó là cái biết phát xuất từ bản chất của Tự Tánh, “Trí Bát Nhã đều từ Tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào do vậy không thể lấy ý thức hay lý trí để cho đó là Trí Bát Nhã”. [27] Vì lẽ đó, nhìn thấy Tánh không chỉ là giới hạn nơi con người mình nhưng là nhận ra Tánh bao hàm toàn thể vũ trụ, vốn tự do tự tại không bị giới hạn vào điều gì cả. Tánh này vốn đầy sinh lực sáng tạo, tự tri tự giác.

Tuy vậy, Huệ Năng còn nhấn mạnh đến việc tìm thấy Tánh ở trong nội tâm mình trước mà không phải ở ngoài. Theo Sư, nếu không thấy Tự Tánh nơi mình trước thì chẳng thể thấy Tánh đó nơi vạn vật, vạn vật đều có Phật Tánh nhưng do tâm hạnh con người tà hiểm nên chỉ thấy vạn vật chỉ là vạn vật thôi mà cái thấy đó cũng bị sai lệch, và ngay cả Phật trước mắt cũng chẳng coi ra gì huống gì là người thường và sự vật thấp hèn. Huệ Năng luôn nhấn mạnh ở điểm này: “Nếu tự chẳng Phật tâm, nơi nào tìm chân Phật?”[28] “Ngoài tâm đi tìm đạo, suốt đời chẳng thấy đạo”[29] Vì thế, Thiền mà chẳng Thấy Tánh thì chẳng phải Thiền của Huệ Năng cũng chẳng phải phát xuất từ Tâm Phật Thích Ca dưới cây Bồ đề. “Dù có nói tụng muôn ngàn kinh Phật, hay ngày đêm tu tập cốt lấy cái học rộng nghe nhiều làm pháp Phật mà không thấy Tánh Phật nơi mình thì cũng là không, uổng công phí sức cũng giống như nói đủ về các món ăn mà vẫn đói”[30]. Điều này cho thấy, “cái biết đích thật” phải phát xuất từ Tự Tánh trước, nếu không thì cái biết từ bên ngoài vào cũng trở nên vô nghĩa đối với đời sống mình, nhiều lúc lại trở nên điều chẳng lành khi ta quá tự mãn về sự hiểu biết thuần kiến thức của ta!

Ở đây, cũng cần lưu ý rằng việc thấy Tánh hay không là ở nơi kinh nghiệm mỗi người tự chứng ngộ lấy. Nếu không như thế ta sẽ dễ tự vướng mắc vào thế phân biệt “thấy” hay “không thấy”. Vấn đề bàn ở đây chỉ là nêu vấn đề để bàn luận để hiểu phần nào về việc “Thấy Tánh”. [31] Để hiểu hơn về cái Thấy Tự Tánh ta cần vượt qua “lý trí phân biệt” để đi vào “Nhất nguyên vô biệt” nơi Trí Bát Nhã.

2.      Trí Bát Nhã – Nhất Nguyên Vô Biệt

Tại sao việc thấy Tánh hay Trí Bát Nhã nơi việc Giác Ngộ lại liên quan mật thiết với việc loại trừ lý trí phân biệt? Như chúng ta đã nói, Tự Tánh vốn thanh tịnh không là cái hai hay cái nhiều, vạn vật cũng là cùng nhất thể với Tự Tánh nên cũng bình đẳng như nhau. Huệ Năng thường nhấn mạnh rất nhiều ở điểm này:

“Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị.”[32]

Ở nơi khác Sư cũng nói:

“Niệm niệm viên tròn sáng tỏ, tự thấy bản Tánh, thiện ác dù khác, Tánh vốn bất nhị, Tánh bất nhị gọi là thật Tánh, ở trong thật Tánh chẳng nghĩ thiện ác”[33].

Quả thế, mọi sự vạn vật có bị phân ra với những trạng thái đối nghịch là chỉ tồn tại nơi tâm trí ta mà thôi. Trí Bát Nhã loại trừ cái nhìn phân biệt là để có cái nhìn trọn vẹn về sự vật, không bị nghiêng lệch phiến diện, từ đó không làm nảy sinh trong tâm những ý tưởng “tham, sân, si” vốn thường hay nảy sinh từ lý trí phân biệt.

Thật ra, khi nói không phân biệt tốt xấu thiện ác là một điều khá nghịch lý đối với cái nhìn thường hằng của đa số nhưng quả thật nếu thật sự có được sự chiếu rọi của Tự Tánh ta sẽ nhận ra rằng dù là âm-dương, sinh-diệt, có-không, tốt-xấu, thiện-ác… vẫn chỉ là “Một” trong tiến trình không gian, thời gian thôi. Phần lớn ta chỉ thấy có một mặt trong một thời điểm nào đó hay chỉ thấy mặt trội lên ở một điểm nào đó nên mới phân biệt ra như vậy chứ chẳng phải sự vật là phân biệt rạch ròi. Nếu xét kỹ ta sẽ thấy rằng, trong những điều ta cho là tốt nhưng bên trong đã hàm chứa mầm mống xấu hay ngược lại. Cũng cùng một sự việc nhưng người này cho là tốt nhưng người khác lại cho là xấu, hay cũng cùng một người lúc này cho là xấu nhưng lúc khác lại cho là tốt. Vì thế, tất cả những trạng thái đối nghịch là cũng do ý kiến chủ quan của ta ở một không gian hay thời gian nào đó. Lý do là cái nhìn của ta còn bị hạn hẹp, chỉ là cái nhìn trước mắt, chủ quan, phiến diện. Ngược lại, cái nhìn của Trí Bát Nhã phải là cái nhìn vượt lên đối tượng, vượt lên cả không gian thời gian, nhìn mọi sự trong tổng thể của nó, và đơn thuần chỉ “nhìn nó như là nó là” không nghĩ ngợi phân biệt gì nữa.

Mặc dầu vậy, Thiền không đặt nặng việc “có hay không sự phân biệt” cho bằng tâm ta có “tác ý” hay không, để rồi gán ghép cho sự vật là xấu để tránh né (sân) hay cho là tốt quá đến nổi nảy sinh ham muốn chiếm đoạt (tham) và đam mê (si).[34] Sự vật tự bản chất không tốt mà cũng chẳng xấu, có như thế nào là do những ý nghĩ trong lòng ta mà thôi.  Điều này được Huệ Năng tóm kết trong một đoạn kệ như sau: “…Đại viên cảnh trí Tánh thanh tịnh, Bình đẳng Tánh trí tâm chẳng bệnh. Diệu quan sát trí chẳng tác ý.[35] Do vậy, muốn giữ tâm thể được thanh tịnh thì đối với các vấn đề thiện ác Huệ Năng khuyên chớ nên suy lường.[36]

Trong đời sống thực tế, vấn đề khó là: mặc dù phân biệt thì ta vẫn phân biệt nhưng làm sao để tâm ta không nảy sinh những ý tưởng phân biệt gây nên những tình cảm yêu ghét. Khi sinh lòng yêu ghét, ta chỉ lo tìm lợi cho mình và gây hại người xung quanh bất chấp việc “bán rẻ” phẩm giá, mạng sống mình và người khác. Đó chính là mầm mống của “Vô minh”, là “bể khổ” và phiền não của cõi trần. Vô minh là gì, lý trí phân biệt gây nên Vô minh như thế nào và tác hại của Vô minh gây ra đau khổ như thế nào, chúng ta cùng xem xét ở phần sau.

Lửa Mới

04/2014

Xin xem tiếp tục phần 2 vào kỳ tới:
Bản chất của Vô Minh và Vô Niệm

Xin tải sách “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng tại đây:

https://drive.google.com/file/d/0B4ObwVVeiXE-bU50R19MV1VNQVU/view?usp=sharing

CHÚ THÍCH

[1] x. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM, tr. 91.

[2] Thừa: nghĩa là Hành, Tối Thượng Thừa hay Phật Thừa là con đường hành đạo chính tông của Phật Giáo. Tam thừa: Đại Thừa, Trung Thừa, Tiểu thừa là con đường nhỏ hơn, đòi hỏi ít hơn so với Tối Thượng Thừa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.48+56. (Số trang của sách này dựa trên sách người viết tự in từ file điện tử).

[3] Nghĩa là “Tâm truyền Tâm” thay vì truyền bằng văn tự hay lời nói, Thiền quan niệm rằng: “Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự”. Do vậy “Được ý phải quên lời,.. được cá quên nơm,.. qua sông rồi phải bỏ bè.”.

  1. Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr. 42.

[4] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.123.

[5] Sẽ được giải thích sau.

[6] Điều chính yếu là Phật Pháp phải là Truyền từ Tâm Phật. Y Bát thật ra chỉ là vật để làm cho người ta tin, minh chứng cho chánh Pháp (Giáo lý) của người được truyền thừa từ Phật Thích Ca. Vì có sự tranh giành lẫn nhau nên Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn căn dặn Huệ Năng không nên truyền Y Bát nữa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất.

[7] Sẽ bàn ở phần sau.

[8] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.4.

[9] Cũng gọi là “Kiến Tánh” hay “Giác Ngộ Tánh”, sẽ giải thích rõ hơn ở phần sau.

[10] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.255.

[11] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[12] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr. 280, phụ chú 2.

[13] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.8-9.

[14] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[15] Xem thêm câu chuyện “Hạt muối và biển” trong sách Lẽ Sống.

[16] Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Cuốn II, Hưng Giáo Văn Đông XB, tr.62.

[17] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Đốn Tiệm thứ tám, tr.66.

[18] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.14.

[19] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.137-146.

[20] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.17.

[21] Chúng ta sẽ bàn nhiều về Giác Ngộ ở phần sau, ở đây chỉ xin sơ lược qua những khái niệm tổng quát.

[22] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.278.

[23] Ngộ hay Trí Bát Nhã: theo Triết Ấn đó là sự tỉnh giấc của cái biết thuộc Nội Trí (Budhi) so với cái biết của ngoại trí (Manas) là cái biết thuần lý trí. Xem: Hoành Sơn, sđd, tr.79.

[24] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[25] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.144.

[26] “Một niệm”: sẽ được bàn ở phần sau.

[27] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[28] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[29] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.23.

[30] Huyết Mạch Luận của Bồ Đề Đạt Ma: x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.258 & 280-81.

[31] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.65.

[32] sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[33] sđd, Phẩm Sám Hối thứ sáu, tr.39.

[34] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.63.

[35] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.51.

[36] sđd, Phẩm Pháp Hội thứ chín, tr.78.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu chính:

  1. Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.
  2. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM.

Tài liệu khác:

  1. Thích Thiên Ân, Triết học Zen, Tập I, Đông Phương xuất bản, 1966.
  2. Suzuki, Thiền và Phân tâm học, NXB. Phương Đông, (Như Hạnh dịch).
  3. Shunryu Suzuki, Thiền Tâm – Sơ Tâm, NXB. Phương Đông, (Nguyễn Duy Nhiên dịch).
  4. Đan Minh, Thiền Đến Phiền Đi, Phương Đông, (Thích Thiện Phước dịch).
  5. Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Hưng Giáo Văn Đông xuất bản, 1970-1974.
  6. Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết học Cương yếu.
  7. Lý Minh Tuấn, Triết lý chữ Hòa (Từ linh đạo Kitô Giáo đến các Linh đạo Đông Phương), Phương Đông.
  8. Thường Nhân, Thanh Tịnh Tâm – Tu thiền thực tập, NXB. Phương Đông.
  9. Anthony de Mello SJ, Một Phút Khôn Ngoan, Antôn Đuốc Sáng.
  10. Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước.

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)(phần 1)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 1)

dongten.net

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (2)

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy.

Bạn đọc thân mến,

Xin gửi đến những ai quan tâm đến Tâm linh như một phần quan trọng trong cuộc sống của mình một bài luận về Thiền Phật Giáo.

Hy vọng qua bài luận này bạn đọc sẽ hiểu sâu hơn về cốt tủy Phật Giáo khi bàn về “Giác ngộ Tự Tánh” qua tác phẩm “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng, kèm theo những giải nghĩa trong bộ “Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki. Ở phần phản tỉnh cá nhân, tôi sẽ bàn thêm mối tương quan giữa Thiền và Kitô giáo như một phần để đối thoại và hiểu nhau hơn trong đời sống tâm linh nói chung.

Chắc hẳn với chút nghiên cứu quá giới hạn không thể đáp ứng hết lời giải đáp cho mọi vấn đề và cũng xin lượng thứ nếu có điều gì không đồng với quan điểm đức tin nơi mỗi người. Do vậy, ước mong bạn đọc khi tham khảo bài này cần vượt qua những câu chữ, không nên chú trọng quá để lấy kiến thức hay để tranh luận. Nhưng cách nào đó là để hiểu hơn và rút tỉa những điều bổ ích liên quan đến đời sống nội tâm cá nhân mỗi người; từ đó cảm thấy vui, tôn trọng nhau hơn khi nhận ra rằng chúng ta dù khác nhau về văn hóa và cách tiếp cận Tâm linh nhưng vẫn đi trên một Đường Đạo.

Lửa Mới

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (14)

Bài luận này sẽ gồm những phần chính như sau:

(1) Thiền Huệ Năng : Thiền là ”Thấy Tánh”.

(2) Bản chất của Vô Minh – Vô Niệm

(3) Bản chất của Giác ngộ Tự Tánh

Làm sao để Giác ngộ Tự Tánh?

(4) Tự độ và tha độ trong Phật Giáo (phản tỉnh cá nhân).

(5) Thiền dưới lăng kính Kitô giáo (phản tỉnh cá nhân).

Phụ lục: Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông.

(Xin click vào các con số trong ngoặc vuông [..] để xem chú thích ở phía dưới và click lại các con số ở chú thích để trở lại đọc tiếp.)

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (12)

GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH”
TRONG THIỀN  PHẬT GIÁO

(Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)

PHẦN I: THIỀN HUỆ NĂNG: THIỀN LÀ “THẤY TÁNH”

I.       LỜI MỞ ĐẦU

Dường như thời đại nào cũng vậy, cuộc sống được gắn liền với “cuộc truy tìm hạnh phúc” phát xuất từ khát khao thẳm sâu trong thâm tâm mỗi con người. Ai cũng muốn mình được hạnh phúc cách này cách khác dù là phải tìm đến cái chết. Dầu vậy, không có từ nào mà lại mông lung cho bằng hai chữ “hạnh phúc”. Hạnh phúc thật đa dạng nên mỗi người sẽ tự tìm cho mình những loại hạnh phúc khác nhau; đó có thể là tiền bạc, vật chất, danh vọng, địa vị, sắc đẹp… Có người chú ý đến những sở thích hay sở trường khả năng riêng của mình. Cũng có người cho rằng sức khỏe thể xác là quý hơn cả, có người lại hướng đến hạnh phúc trong đời sống trí thức, tinh thần hay tâm linh. Hạnh phúc như thế sẽ có nhiều thang bậc khác nhau nhưng phần lớn ai cũng cho rằng: điều họ đang tìm kiếm thì mới là hạnh phúc hơn cả!

Như vậy thì ai đúng ai sai, ai hạnh phúc hơn ai, ai mới là có hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đích thực là gì? Thật ra, hai chữ “hạnh phúc” không có một định nghĩa chung bằng câu chữ và không có một triết thuyết nào có thể diễn đạt hết con đường đạt đến hạnh phúc! Điều có thể xác định lại là: hạnh phúc thật hay không là tự ở nơi tâm hồn mỗi người cảm nhận.

Nhiều người tin rằng Thiền là một công cụ dẫn đến một công năng kỳ diệu cho cuộc sống và làm cho họ được giải thoát khỏi đau khổ và mang lại sự hạnh phúc đích thật.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (18)

DẪN VÀO THIỀN

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy. Thế nhưng, chắc hẳn đó phải là một thực tại tâm linh không phải ‘với tới’ chỉ bằng lý trí hay kiến thức luận lý. Dùng lý trí để nói về Thiền cũng là một thiển cận rồi! Khi tìm hiểu về Thiền, bài luận này chỉ muốn đụng chạm đến những khái niệm cơ bản và ngắm thử con đường mà Thiền muốn nhắm tới thôi. Còn Thiền thật sự là gì thì hãy để “Thiền” tự nói với mỗi người trong tâm hồn.

Dhyana hay Jhana (Thiền na / Thiền: dịch nghĩa là “tư duy tu”) bắt nguồn từ Ấn Độ, ở Nhật gọi là Zen, ở Trung Hoa gọi là Tịnh Lự. Nói đến Thiền ở Ấn Độ là nói đến phương pháp tu luyện cổ truyền có từ thuở ban sơ của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo sau đó. Dhyana hay Tịnh Lự là chỉ việc trầm tư về một Chân lý, một Triết lý hoặc một Đạo đến chỗ triệt ngộ, in sâu trong nội thức. Tu Thiền là phải đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt loạn động thì mới mong có sự giải thoát[1]. Phật Thích Ca cũng là một trong những người đi tìm sự giải thoát trong Thiền như thế.

Vì lẽ đó, có người khi nói đến “Thiền” là nghĩ ngay đến việc ngồi Thiền, ngồi làm sao để giữ mình trong tĩnh lặng, không còn bị chi phối bởi điều gì nữa. Cuộc sống xã hội điên đảo nên càng ngày càng có nhiều người đến với Thiền và họ hy vọng sẽ gặp được sự thinh lặng nội tâm và coi đó là niềm hạnh phúc thật sự. Cũng có người ngồi Thiền để gìn giữ sức khỏe trong việc luyện Thiên Khí Năng, Khí Công, Nhân Điện, Yoga… hay luyện một công phu phi thường nào đó có ích cho mình và giúp ích cho mọi người. Nhiều người khác cho Thiền là một thực tại tâm linh huyền bí nên họ sử dụng Thiền như một phương tiện để tu hành đạt chánh quả trong nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật Giáo. Nói cho cùng, “Thiền” được xem như là một phương tiện để đạt một mục đích hay công năng siêu vượt nào đó. Vì cách hành Thiền khác nhau nên mỗi người sẽ quan niệm khác nhau về Thiền. Không có một định nghĩa xác đáng cho tất cả vì Thiền cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Điểm nhắm chính là làm sao đạt được điều mỗi người mong muốn hay nhắm tới.

Trong giới hạn của bài luận này, người viết chỉ chú ý đến Thiền của Tổ Huệ Năng (637-713) thuộc Tông Phật Giáo Tối Thượng Thừa[2] ở Trung Hoa. Đây là tông phái Thiền được coi là “cốt tủy” của Phật Giáo vì được truyền từ Tâm của Phật Thích Ca (623-543 TCN) (gọi là Truyền Tâm Ấn[3]) khi Người đạt quả Giác Ngộ dưới gốc Bồ Đề. Huệ Năng là Tổ thứ 33 tính từ Phật Thích Ca, cũng là Tổ thứ 6 kể từ khi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (?-529) mang Thiền từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa (520). Huệ Năng được xem là Tổ khai sáng Thiền Trung Hoa. Mặc dù tinh thần Thiền tông vẫn là một nhưng hình thức Thiền của Huệ Năng lại hoàn toàn Trung Hoa vì được diễn đạt theo kinh nghiệm đặc nét riêng, đầy sáng tạo của tâm hồn thực tế con người Trung Hoa. Và cũng từ Huệ Năng, Thiền trở thành một Tông phái cực thịnh vào thời nhà Đường và các thời sau đó.[4]

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2015/01/L%E1%BB%A5c-T%E1%BB%95-Hu%E1%BB%87-N%C4%83ng.jpg

THIỀN HUỆ NĂNG

Huệ Năng (637-713) sinh ra trong một gia đình nghèo ít học làm nghề bán củi, cha mất sớm nên ông ở với mẹ. Một lần trong khi đi giao củi cho khách, Huệ Năng vô tình nghe một người tụng Kinh Kim Cương thì tự nhiên được khai ngộ[5]. Huệ Năng hỏi ra thì biết người đang tụng lấy Kinh này từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn (601-674); sau đó Huệ Năng tìm cách đến thọ giáo Ngũ Tổ. Qua cuộc đối đáp, Ngũ Tổ biết được Huệ Năng đã có căn cơ đi vào cốt tủy của Thiền Môn. Mặc dù suốt ngày chỉ lo việc giã gạo ở nhà sau nhưng Huệ Năng đã đi vào được tinh yếu của Thiền và đạt Đại Ngộ trước tất cả mọi người. Ngũ Tổ biết căn cơ của Huệ Năng nhưng không công khai cho mọi người biết điều đó. Về sau, Tổ chỉ âm thầm Truyền Y Bát (là vật làm tin[6]) cho Huệ Năng làm tổ thứ 6 của Thiền Tông. Huệ Năng trốn về phương Nam ẩn tích một thời gian lâu, sau đó lại ra thuyết về Pháp Đốn Ngộ Tự Tánh [7]. Có nhiều đồ đệ sau khi được Huệ Năng khai ngộ đã kế tục Pháp Đốn ngộ của sư. Cuộc đời và Pháp Đốn Giáo của sư Huệ Năng được một đệ tử là Thần Hội viết lại trong cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” [8]. Nội dung bài viết này phần lớn xoay quanh những ý chính trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh này, kèm theo những giải nghĩa trong bộ“Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (5)

Theo Huệ Năng, Thiền là “Thấy Tánh” [9]. Đó là hai chữ tinh yếu nhất trong dòng khai diễn của đạo Thiền. Thiền kết tinh tại đó, và “nhờ đó ta biết cố gắng của ta phải hướng về đâu, và bằng cách nào ta có thể hình dung nó trong tâm thức”. Thật ra, hai chữ này cũng đã được Bồ Đề Đạt Ma dùng đến, nhưng phải đến Huệ Năng mới “nắm trọn tinh nghĩa và in mạnh trọn vẹn ý nghĩa trong tâm thức người nghe cách dứt khoát không sao lầm lẫn được” so với các tông phái khác. [10] Yếu chỉ này lần đầu tiên được Huệ Năng tuyên xướng cho pháp sư Ấn Tông khi sư nói rằng: “Chỉ luận Thấy Tánh, chẳng luận Thiền định hay giải thoát.”[11]

“Tánh” hay còn gọi là “Thực tại Tự Tánh” nghĩa là gì? Tại sao Huệ Năng xem việc “Thấy Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là yếu chỉ của Thiền? Bằng cách nào để đạt đến sự Giác ngộ thực tại đó? Tất cả những gì bài luận này nhắm tới chỉ nhằm triển khai các khái niệm ấy. “Tự Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là một đề tài không dễ để luận bàn vì đó là một thực tại tâm linh. Trong giới hạn của mình, người viết cũng chỉ là một người nghiên cứu để trình bày lại những gì mình đọc được và cảm nhận được từ các tài liệu liên quan chứ không phải trên tư cách của một Thiền sư hay người đã chứng ngộ được điều gì!

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Các gia đình rất thân mến,

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi,

Tôi rất biết ơn về sự hiện diện của các bạn tại đây tối nay và vì chứng tá tình yêu các bạn dành cho Đức Giêsu và cho Giáo Hội. Tôi cảm ơn Đức Cha Reyes, Chủ Tịch Ủy Ban về Gia Đình và Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục, vì những lời chào mừng ngài thay mặt các bạn dành cho tôi. Và, một cách đặc biệt, tôi cảm ơn tất cả những ai đã trình bày chứng tá và đã chia sẻ đời sống đức tin của mình cho chúng tôi. Giáo Hội tại Philippines thật có phúc với nhiều phong trào tông đồ dành cho gia đình.

Kinh Thánh ít khi nói về thánh Giuse, nhưng cứ mỗi khi nhắc đến, chúng ta thường thấy Ngài luôn trong lúc nghỉ ngơi, như khi thiên thần mặc khải ý Chúa cho Ngài trong những giấc mơ. Trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không phải chỉ nằm nghỉ một lần, nhưng là hai lần. Tối nay, tôi muốn được nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả các bạn, ý tôi là nghỉ ngơi trong Chúa cùng với các gia đình và tôi nhớ gia đình của tôi, bố mẹ, ông và cố của tôi. Hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi với các ban và tôi muốn cùng suy tư với các bạn món quà gia đình.

Nhưng trước hết, tôi muốn nói một chút về giấc mơ… Mỗi người cha và người mẹ đều mơ về con của mình khi chúng còn trong dạ suốt chín tháng. Mơ về cuộc sống sau này của bé. Không thể có một gia đình không có những giấc mơ như thế. Khi bạn đánh mất khả năng mơ, bạn cũng đánh mất khả năng yêu và năng lực yêu này cũng mất. Tôi mời gọi các bạn, tối nay, khi xét mình, hãy tự vấn xem: “Tôi có mơ về con cái của tôi không? Tôi có mơ về tình yêu của người bạn đời không? Tôi có mơ về bố mẹ và gia đình không? Mơ và mơ trong một gia đình là điều rất quan trọng. Xin đừng đánh mất khả năng mơ theo cách này. Và bạn sẽ tìm ra được những giải pháp cho các vấn đề gia đình bạn dành thời gian để suy tư, suy nghĩ về chồng/vợ và chúng ta cùng mơ về những đặc tính tốt đẹp chúng ta có. Thậm chí đừng bao giờ đánh mất những điều mơ mộng khi còn hẹn hò.

Sự nghỉ ngơi của Giuse đã mặc phải ý Chúa cho ngài. Trong khoảnh khắc nghỉ ngơi với Chúa này, khi chúng ta tạm dừng những bổn phận và hoạt động hàng ngày, Chúa cũng nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta nơi bài đọc mà chúng ta vừa mới nghe, nơi lời cầu nguyện và chứng tá của chúng ta, và trong sự thinh lặng của con tim chúng ta. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều Chúa đang nói với chúng ta, đặc biệt là trong đoạn Tin Mừng tối nay. Có ba khía cạnh của đoạn này mà tôi muốn mời gọi các bạn cùng suy xét: nghỉ ngơi trong Chúa, thức dậy cùng với Giêsu và Maria, và trở thành một tiếng nói ngôn sứ.

Nghỉ ngơi trong Chúa. Nghỉ ngơi là điều rất cần thiết cho sức khỏe tâm trí và thể xác chúng ta, và thường rất khó có được vì rất nhiều nhu cầu đè nặng trên chúng ta. Nhưng nghỉ ngơi cũng là điều rất thiết yếu cho sức khỏe thiêng liêng để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và hiểu được điều Người muốn nói với chúng ta. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn để trở thành vị dưỡng phụ của Đức Giêsu và hiền phu của Maria. Là những người Kitô hữu, các bạn cũng được mời gọi, giống như thánh Giuse, để dành cho Giêsu một mái nhà. Các bạn xây dựng một mái ấm cho Ngài trong con tim, gia đình, giáo xứ và cộng đoàn của các bạn.

Để có thể nghe và đón nhận lời mời gọi của Chúa, xây dựng một mái nhà cho Giêsu, các bạn phải có khả năng nghỉ ngơi trong Chúa. Các bạn phải dành thời gian mỗi ngày để nghỉ ngơi trong Chúa để cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng các bạn có thể nói với tôi: Thưa Đức Thánh Cha, con muốn cầu nguyện, nhưng có nhiều việc phải làm quá! Con phải chăm sóc cho con cái; con phải làm việc nhà; con mệt mỏi đến độ thậm chí chẳng thể ngủ ngon được.” Điều này có thể đúng, nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện, chúng ta sẽ không biết được điều quan trọng nhất trên tất cả mọi sự là: thánh ý của Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta sẽ đạt được nhiều hiệu quả trong các hoạt động, trong những bận rộn với lời cầu nguyện của chúng ta.

Nghỉ ngơi trong lời cầu nguyện có tầm quan trọng rất đặc biệt đối với các gia đình. Chính nơi gia đình mà lần đầu tiên chúng ta học được cách cầu nguyện. Đừng quên điều đó, khi gia đình cầu nguyện cùng nhau, ở cùng nhau. Nơi đó, chúng ta đến để biết Chúa, để trở thành những người nam người nữ của đức tin, để thấy chính mình như là những thành viên của đại gia đình của Chúa, là Giáo Hội. Nơi gia đình, chúng ta học cách yêu, tha thứ, quảng đại và rộng mở, chứ không đóng kín và ích kỷ. Chúng ta học cách vượt lên trên những nhu cầu của riêng mình, để gặp gỡ những người khác và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ. Đó là lý do vì sao việc gia đình cùng cầu nguyện với nhau là điều rất quan trọng! Đó là lý do vì sao các gia đình rất quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội! Nghỉ ngơi trong Chúa chính là cầu nguyện, cả gia đình cùng với nhau.

Tôi xin mạn phép chia sẻ với các bạn một điều rất riêng tư vào tối nay. Tôi rất yêu mến thánh Giuse, vì ngài là một người có tinh thần thinh lặng rất mạnh mẽ, và trên bàn làm việc của tôi, tôi có hình của ngài đang ngủ. Dù là ngủ nhưng ngài vẫn luôn chăm lo cho Giáo Hội và ngài có thể làm thế, tại sao không? Khi tôi gặp phải một vấn đề hay khó khăn gì, tôi viết lên một mẫu giấy nhỏ và đặt nó dưới bức tượng để ngài có thể mơ về nó.

Phương diện thứ hai là thức dậy với Giêsu và Maria. Những khoảnh khắc quý giá để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng với Chúa trong cầu nguyện là những khoảnh khắc mà có lẽ chúng ta muốn kéo dài mãi. Nhưng như thánh Giuse, một khi chúng ta đã nghe được tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, chúng ta phải thức dậy và hành động trong gia đình, chúng ta phải thức dậy và hành động (x Rm 13,11). Đức tin không tách chúng ta ra khỏi thế giới, nhưng đưa chúng ta đi vào nó sâu hơn, điều này rất quan trọng. Chúng ta phải đi vào thế giới cách sâu xa nhưng với sức mạnh của lời cầu nguyện. Thực ra, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa ngự trị trên thế giới này.

Cũng như món quà Thánh Gia được trao phó cho Thánh Giuse, thì món quà gia đình và vị trí của nó trong kế hoạch của Thiên Chúa cũng được trao phó cho chúng ta. Thiên Thần Chúa đã mặc khải cho Giuse những mối nguy đang đe dọa Giêsu và Maria, buộc họ phải trốn sang Ai Cập và rồi sau đó định cư ở Nazaret. Cũng thế, trong thời đại của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy nhận ra những mối nguy đang đe dọa gia đình và mời gọi chúng ta hãy bảo vệ các gia đình khỏi những hiểm họa.

Hãy cẩn trọng với sự thực dân hóa của ý thức hệ mới. Có một ý thức hệ mà chúng ta phải cẩn trọng vì nó đang cố hủy hoại gia đình. Nó không được sinh ra từ giấc mơ mà chúng ta có từ Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện và từ sứ mạng mạng mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Nó đến từ bên ngoài. Đó là lý do vì sao tôi gọi là sự thực dân hóa. Chúng ta đừng đánh mất tự do để nhận lấy sứ mạng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Và cũng như người dân của chúng ta đã có thể nói “không” với thời kỳ thực dân hóa, thì các gia đình chúng ta phải phải khôn ngoan, và mạnh mẽ nói “không” với những kiểu ý tưởng thực dân hóa có thể hủy hoại gia đình này và xin thánh Giuse chuyển cầu để biết khi nào nói “vâng”, khi nào nói “không”.

Có rất nhiều áp lực trên đời sống gia đình ngày nay. Tại Philippines này, có vô số các gia đình vẫn còn chịu nhiều đau khổ từ thảm họa thiên tai. Hoàn cảnh kinh tế cũng khiến cho các gia đình phải xa cách nhau do phải di cư và tìm kiếm công việc, và những vấn đề tài chính đã khiến cho các chủ gia đình phải nỗ lực rất nhiều. Trong khi nhiều gia đình sống trong tình trạng quá nghèo, những người khác lại sống theo chủ nghĩa vật chất và có lối sống hủy hoại đời sống gia đình và những đòi hỏi cơ bản nhất của luân lý Kitô giáo. Đó là kiểu thực dân hóa ý thức hệ. Gia đình cũng bị đe dọa bởi những nỗ lực không ngừng của một số người muốn tái định nghĩa lại chính thể chế hôn nhân, bởi chủ nghĩa tương đối, bởi nền văn hóa phù du, bởi việc thiếu đi tinh thần mở ra với sự sống.

Tôi nghĩ đến Chân Phước Giáo Hoàng Phaolo VI trong những lúc có những thách đố về việc dân số gia tăng. Ngài biết những khó khăn, kinh nghiệm gia đình và đó là lý do vì sao trong Tông Huấn của mình, ngài đã bày tỏ lòng thương cảm cho những trường hợp cụ thể và ngài dạy các giáo sư cũng phải tỏ lòng thương cảm các đặc biệt. Ngài thấy được những thiếu sốt và khó khăn có thể gây ra cho gia đình trong tương lai. Giáo Hoàng Phaolo VI là người rất can đảm, ngài là một vị mục tử tốt lành, ngài đã cảnh báo chiên của mình về đàn sói đang đến và trên Thiên Đàng, ngài đang chúc lành cho chúng ta hôm nay.

Thế giới cần những gia đình tốt và mạnh mẽ để vượt qua những đe dọa này! Nước Philippines cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ nét đẹp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và trở thành một sự nâng đỡ và mẫu gương cho các gia đình khác. Mỗi một đe dọa cho gia đình là một đe dọa cho chính xã hội. Tương lai của nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II thường nói, hệ ở các gia đình (x Familiaris Consortio, 85). Vì thế, hãy bảo vệ gia đình của các bạn! Hãy nhìn thấy nơi các gia đình là gia sản to lớn nhất của đất nước và hãy luôn nuôi dưỡng các gia đình bằng lời cầu nguyện và ơn sủng của các bí tích. Các gia đình sẽ luôn có những thử thách của mình, các bạn đừng thêm vào thử thách cho các gia đình nữa! Thay vào đó, hãy trở thành những mẫu gương sống động của tình yêu, sự tha thứ và quan tâm. Hãy trở thành những đền thờ tôn trọng sự sống, loan báo sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Thật là một ơn lớn lao cho xã hội nếu mỗi gia đình Kitô hữu sống tròn đầy ơn gọi cao quý của mình! Vì thế, hãy thức dậy cùng với Đức Giêsu và Mẹ maria, và bước đi trên con đường Chúa đã vạch ra cho mỗi người các bạn.

Cuối cùng, Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta về bổn phận Kitô hữu của chúng ta trong việc trở thành tiếng nói ngôn sứ giữa cộng đoàn chúng ta. Thánh Giuse đã lắng nghe lời Thiên Sứ và đáp lại lời mời gọi của Chúa chăm lo cho Giêsu và Maria. Như thế, ngài đã đặt phần mình vào kế hoạch của Chúa, và trở nên một phúc lành không chỉ cho Thánh Gia, nhưng còn cho tất cả nhân loại. Cùng với Maria, thánh Giuse trở thành một kiểu mẫu cho trẻ Giêsu khi Người lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng (x. Lc 2,52). Khi các gia đình đưa các em nhỏ vào trong thế giới, giáo dục chúng trong đức tin và những giá trị vững chắc, và dạy bảo chúng đóng góp cho xã hội, chúng trở nên một phúc lành cho thế giới chúng ta. Gia đình có thể trở thành một phúc lành cho thế giới. Tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện và thiết thực qua cách chúng ta yêu và qua những việc tốt chúng ta làm. Chúng ta mở rộng nước của Đức Kitô trên thế giới này. Và khi làm như thế, chúng ta cho thấy mình đang sống trung tín với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Rửa Tội.

Trong suốt năm này, năm mà các giám mục của các bạn thiết lập là năm của người nghèo, tôi mời gọi các bạn, những gia đình, hãy đặc biệt lưu tâm đến lời mời gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là luôn sẵn sàng để vượt qua phạm vi gia đình mình và chăm lo cho những anh chị em đang thiếu thốn. Tôi xin các bạn hãy đặc biệt tỏ bày mối bận tâm dành cho những ai không có một gia đình của riêng mình, cách riêng là những người già cả và những trẻ em không cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy bị tách biệt, cô đơn và bỏ rơi, nhưng hãy giúp họ nhận biết rằng Chúa không bao giờ quên họ. Tôi rất cảm động sau thánh lễ sáng nay khi đi thăm một tổ ấm dành cho trẻ không có bố mẹ. Có bao nhiêu người trong Giáo Hội đã hoạt động để ngôi nhà này trở thành một tổ ấm, một gia đình? Đây là điều tôi có ý nói đến khi nói về ý nghĩa mang tính ngôn sứ của gia đình. Các bạn có thể nghèo về vật chất, nhưng các bạn có rất nhiều ơn để trao ban khi các bạn trao ban Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội của Người. Đừng che giấu đức tin của các bạn, đừng che giấu Đức Giêsu, nhưng hãy mang Người vào trong thế giới và trao ban chứng từ đời sống gia đình của các bạn!

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi, hãy biết rằng tôi luôn cầu nguyện cho các bạn! Hôm nay, tôi cầu nguyện cho các gia đình, tôi cầu xin Chúa tiếp tục giúp các bạn đào sâu tình yêu các bạn dành cho Ngài, và xin cho tình yêu này có thể được biểu lộ trong tình yêu các bạn dành cho nhau và cho Giáo Hội. Đừng quên là Đức Giêsu đang ngủ, đừng quên là thánh Giuse đang ngủ. Đừng quên sự bảo trợ của Thánh Giuse. Hãy luôn cầu nguyện và đem hoa trái lời cầu nguyện của các bạn vào trong thế giới để tất cả mọi người đều có thể biết Đức Giêsu Kitô và tình yêu nhân lành của Người. Xin các bạn cũng hãy cầu nguyện cho tôi, vì tôi thực sự cần những lời cầu nguyện của các bạn và luôn luôn tin vào những lời cầu nguyện ấy. Cảm ơn rất nhiều!”

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu


Vũ Van An

1/16/2015

Cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa Manila hôm nay, thứ Sáu, 16 tháng Giêng, Đức GH Phanxicô thúc giục người Công Giáo Phi Luật Tân trở thành các đại sứ của Chúa Kitô và thừa tác viên của hòa giải, bằng cách loan báo Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Nói với các giám mục, linh mục, tu sĩ và chủng sinh tụ tập tại Nhà Thờ Chính Tòa, Đức Giáo Hoàng nói rằng Giáo Hội tại Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô.

Giữa lúc người Phi Luật Tân chuẩn bị mừng 5 thế kỷ Giáo Hội du nhập vào quốc gia Á Châu này, Đức Giáo Hoàng nói rằng người Công Giáo phải xây dựng trên di sản quá khứ một xã hội được gây hứng bởi sứ điệp đức ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng để phục vụ ích chung.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức GH Phanxicô tại Nhà Thờ Chính Tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Manila

“Con có yêu mến Thầy không?… Hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy” (Ga 21:15-17). Lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô trong Tin Mừng hôm nay là những lời đầu tiên tôi thưa với anh chị em, các hiền huynh giám mục và linh mục, các tu sĩ nam nữ, và các chủng sinh trẻ trung. Những lời này nhắc ta nhớ tới một điều chủ yếu. Mọi thừa tác mục vụ đều phát sinh từ tình yêu. Mọi đời sống tận hiến đều là dấu chỉ tình yêu hòa giải của Chúa Kitô. Giống Thánh Têrêxa, trong tính đa dạng của ơn gọi, mỗi người chúng ta đều được mời gọi, cách nào đó, trở thành tình yêu giữa lòng Giáo Hội.

Tôi chào kính mọi anh chị em bằng một tâm tình âu yếm bao la. Và tôi xin anh chị em đem tình âu yếm này tới mọi anh chị em cao niên và bệnh hoạn của anh chị em, và tới mọi người không thể tham gia với chúng ta hôm nay. Giữa lúc Giáo Hội tại Phi Luật Tân hướng về lễ kỷ niệm 5 trăm năm truyền giảng Tin Mừng của nó, chúng ta cảm thấy biết ơn đối với di sản do không biết bao nhiêu giám mục, linh mục và tu sĩ của những thế hệ đã qua truyền lại. Họ lao nhọc không những để truyền giảng Tin Mừng và xây đắp Giáo Hội tại xứ sở này, mà còn tạo nên một xã hội được gợi hứng bởi sứ điệp bác ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng nhằm phục vụ ích chung. Ngày nay, anh chị em đang tiếp nối công trình yêu thương ấy. Giống như họ, anh em được mời gọi xây dựng những chiếc cầu, chăm nuôi đoàn chiên của Chúa Kitô, và chuẩn bị những con đường tươi mát cho Tin Mừng tại Á Châu vào lúc bình minh của một thời đại mới.

“Tình yêu Chúa Kitô thúc ép chúng ta” (2Cor 5:14). Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Thánh Phaolô dạy ta rằng tình yêu mà ta được mời gọi công bố là một tình yêu hòa giải, phát sinh từ trái tim Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi trở thành “các đại sứ của Chúa Kitô” (2Cor 5:20). Thừa tác vụ của chúng ta là thừa tác vụ hòa giải. Chúng ta công bố Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta công bố niềm vui của Tin Mừng. Vì Tin Mừng quả là lời hứa ơn thánh của Thiên Chúa, là sức mạnh duy nhất, một mình nó có thể đem lại sự toàn vẹn và lành lặn lại cho thế giới tan vỡ của chúng ta. Nó có thể gợi hứng cho việc xây dựng một trật tự xã hội thực sự công bằng và được cứu chuộc.

Trở thành đại sứ của Chúa Kitô, trước nhất, có nghĩa mời gọi mọi người tiến tới việc đích thân gặp gỡ một cách đổi mới với Chúa Giêsu (Niềm Vui Tin Mừng, số 3). Lời mời gọi này phải nằm ở cốt lõi việc anh chị em kỷ niệm công cuộc truyền giảng Tin Mừng tại Phi Luật Tân. Nhưng Tin Mừng cũng là lời mời gọi hồi tâm, tự vấn lương tâm ta, trong tư cách cá nhân và trong tư cách một dân tộc. Như các giám mục Phi Luật Tân đã rất đúng trong lời giảng dạy của mình, Giáo Hội Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô. Tin Mừng mời gọi các cá nhân Kitô hữu sống cuộc sống trung thực, liêm chính và quan tâm tới ích chung. Nhưng nó cũng kêu gọi các cộng đồng Kitô Giáo tạo ra “các qũy đạo liêm chính”, các hệ thống liên đới có thể mở rộng để bao gồm và biến cải xã hội bằng chứng tá tiên tri của mình.

Là các đại sứ của Chúa Kitô, chúng ta, các giám mục, các linh mục và các tu sĩ, phải là những người đầu tiên chào đón ơn hoà giải vào trái tim mình. Thánh Phaolô giải thích rõ ý nghĩa của điều này. Nó có nghĩa từ bỏ các lối nhìn phàm tục, để nhìn mọi sự cách mới mẻ dưới sự soi sáng của Chúa Kitô. Nó có nghĩa phải là những người đầu tiên biết xét lương tâm mình, biết thừa nhận các thiếu sót và tội lỗi của ta, và tiếp nhận con đường hồi tâm liên lỉ. Làm thế nào công bố được nét mới mẻ và sức mạnh giải thoát của Thánh Giá cho người khác, nếu chính chúng ta từ khước không để lời Chúa lay động sự tự mãn của ta, nỗi sợ thay đổi của ta, những thỏa hiệp ti tiện của ta với cung cách của thế gian này, nghĩa là “tính phàm trần thiêng liêng” của ta (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 93)?

Với chúng ta, các linh mục và người tận hiến, quay trở về với nét mới mẻ của Tin Mừng bao hàm hàng ngày phải gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Các thánh dạy ta rằng đây là nguồn của mọi nhiệt thành tông đồ! Đối với các tu sĩ, sống nét mới mẻ của Tin Mừng cũng có nghĩa là tìm ra như mới trong đời sống và việc tông đồ của cộng đoàn các sáng kiến để càng ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Chúa trong một tình yêu hoàn hảo. Đối với tất cả chúng ta, nó có nghĩa phải sống những cuộc sống phản ảnh được đức nghèo khó của Chúa Kitô; trọn cuộc đời của Người đã tập chú vào việc thực thi thánh ý Chúa Cha và phục vụ người khác. Dĩ nhiên, nguy cơ lớn lao đối với việc này là chủ nghĩa duy vật chất có thể len lỏi vào đời ta và xâm hại chứng tá ta đưa ra. Chỉ bằng cách trở nên nghèo, bằng cách tước bỏ tính tự mãn của ta, ta mới có thể đồng hóa với những người nhỏ bé nhất trong anh chị em mình. Ta sẽ nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới và nhờ đó, giải đáp được một cách trung thực và liêm chính thách đố của việc công bố tính triệt để của Tin Mừng trong một xã hội đã trở nên thoải mái với chính sách loại bỏ, phân cực và bất bình đẳng xã hội đầy tai tiếng.

Ở đây, tôi muốn ngỏ mấy lời đặc biệt với các linh mục, các tu sĩ và chủng sinh trẻ đang hiện diện giữa chúng ta. Cha yêu cầu các con chia sẻ niềm vui và niềm phấn khích trong tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội của các con với mọi người, nhất là với những người cùng trang lứa với các con. Hãy hiện diện với những người trẻ có thể đang bối rối và nản lòng, nhưng vẫn tiếp tục coi Giáo Hội là bằng hữu trên đường lữ thứ và là nguồn hy vọng. Các con hãy hiện diện với những người, vì phải sống giữa một xã hội trĩu nặng vì nghèo đói và thối nát, nên đã tan nát trong tinh thần, toan tính đầu hàng, bỏ trường, sống ngoài đường phố. Hãy loan báo vẻ đẹp và sự thật của sứ điệp Kitô Giáo cho một xã hội đang bị cám dỗ bởi những trình bày dối trá về tính dục, hôn nhân và gia đình. Như các con đã biết, các thực tại này mỗi ngày mỗi bị tấn công nhiều hơn bởi các lực lượng mạnh mẽ đe doạ làm méo mó kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tạo vật và phản bội chính các giá trị từng gây hứng và lên khuôn cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong nền văn hóa của các con.

Thực vậy, nền văn hóa Phi Luật Tân vốn được lên khuôn bởi óc tưởng tượng của đức tin . Người Phi Luật Tân ở khắp nơi vẫn nổi danh về tình yêu Chúa, lòng đạo đức sốt sắng của họ và lòng sùng kính đầy ấm áp của họ đối với Đức Mẹ và kinh mân côi của ngài. Di sản vĩ đại này chứa đựng một tiềm năng truyền giáo mạnh mẽ. Đó là cung cách nhân dân các con đã hội nhập văn hóa Tin Mừng và tiếp tục duy trì sứ điệp của nó (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 122). Trong các cố gắng chuẩn bị mừng 5 trăm năm của các con, hãy xây dựng trên nền tảng vững chắc này.

Chúa Kitô đã chết cho mọi người để, sau khi chết cho Người, chúng ta sẽ không còn sống cho chính mình nữa mà là cho Người (xem 2Cor 5:15). Các hiền huynh giám mục, các linh mục và tu sĩ thân yêu, tôi cầu xin Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, tiếp nhận cho tất cả anh chị em ơn nhiệt thành, để anh chị em dành chính anh chị em cho việc phục vụ anh chị em của mình cách vô vị kỷ. Bằng cách này, xin tình yêu hòa giải của Chúa Kitô càng ngày càng thấm sâu trọn vẹn hơn vào cơ cấu xã hội Phi Luật Tân và qua anh chị em, tới những vùng xa xôi nhất của thế giới.

Người Việt ‘đã sợ hãi từ lâu’

Người Việt ‘đã sợ hãi từ lâu’

Ông Menras Andre hay Hồ Cương Quyết trong buổi thảo luận hôm 15/01

Ông Menras André hay Hồ Cương Quyết, người mang hai quốc tịch Pháp – Việt, cho rằng việc người Việt Nam không xuống đường tuần hành tự do “không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, mà vì những nguy cơ trước một chế độ cảnh sát”.

Trả lời câu hỏi liệu người Việt do sợ hãi mà không lên tiếng trước bất công trong chương trình Bàn tròn thứ Năm hôm 15/01 về tự do ngôn luận sau vụ tấn công tòa báo Charlie Hebdo (xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg), ông André phân tích:

“Sự sợ hãi từ thời xưa, hồi trước năm 1975 ở Sài Gòn, tôi đã sống qua nó, tôi đã thấy nhiều người sợ hãi mà dám nói xấu về chế độ Nguyễn Văn Thiệu, là điều rất nguy hiểm.

“Mà bây giờ, dám “nói xấu” chế độ cộng sản này cũng rất nguy hiểm. Như đoạn trước tôi có nói rằng cái gen tự do của dân tộc Pháp đã mọc rễ ra sao, nhưng trong cái gen của dân tộc Việt Nam, sự sợ hãi không phải từ hôm qua, mà từ mấy thế kỷ rồi.”

Ông André nói từng chứng kiến tận mắt ‘côn đồ do chế độ thuê’ để đàn áp người biểu tình, và nhiều người bị ‘ném đá’, đẩy vào đồn công an trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Sài Gòn.

“Nếu người Việt Nam không xuống đường đi biểu tình thì không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, không bao giờ, mà vì nguy cơ trước một chế độ cảnh sát, cảnh sát toàn diện.

“Người dân thường không có tổ chức, không có ai bảo vệ. Nên họ phải suy nghĩ rất kỹ trước khi đi, và có khi đi là liều, không phải chỉ cho riêng họ mà cho cả gia đình,” ông Hồ Cương Quyết nói.

Ông Nguyễn Văn Huy tham gia chương trình từ Paris cũng cho rằng, người Việt Nam phải chịu di sản lịch sử nặng nề về vấn đề tự do, và tâm lý phục tùng đã “ăn sâu vào trí óc người Việt”.

“Hơn nữa về văn hóa, ở Việt Nam cái gì cũng liên quan đến gia đình. Tôi cũng có một thời chống đối chế độ cộng sản sau năm 1975, tôi thấy cái giá mà gia đình phải trả rất cao.”

Nhà nghiên cứu về dân tộc học phân tích, gia đình chính là trở ngại đầu tiên khiến người Việt không đấu tranh, và do chính sách lý lịch của Việt Nam – được ông so sánh với chế độ ‘tam tộc’ của thời phong kiến. (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg).

“Nếu họ đấu tranh chống lại một chế độ bạo quyền thì gia đình họ sẽ phải trả cái giá đó, mà gia đình không phải chỉ là cá nhân tôi, cha mẹ tôi, hay con cháu của tôi mà cả những người thân thuộc của mình. Chính vì vậy mà họ rất sợ.

“Hành trình giành tự do cho con người phải được tập dượt thường xuyên. Tự do không phải tự nhiên mà có, đây là cuộc đấu tranh trường kỳ qua nhiều thế hệ,” ông Huy nói.

Bình luận về việc chính quyền Việt Nam lên án hành động tấn công tòa báo Charlie Hebdo ‘dã man’, nhưng vẫn đàn áp blogger từ trong nước, anh Nguyễn Tiến Trung nói:

“Dùng súng bắn người là dã man, nhưng tôi cho rằng, việc bắt những nhà văn, những người nói lên tiếng nói trung thực về đất nước mình, nói những gì mình thực sự nghĩ về tình hình đất nước chứ không phải nói xấu, nên cần phải có định chế tòa án độc lập xét xử.”

‘Không thể lật đổ’ tự do

Chuyên viên nghiên cứu của Viện nghiên cứu Đông Á ở Lyon nói ông và cả gia đình cũng xuống đường sau vụ tấn công Charlie Hebdo: “Khi tự do ngôn luận bị tấn công thì cần phải phát biểu ý kiến về điều đó.”

“Người Pháp muốn tập trung với nhau để lên tiếng rằng không thế phá vỡ tự do ngôn luận trên đất nước mình. Đó là giá trị văn hóa Pháp, một nét văn hóa Pháp mà không thể bị lật đổ,” ông Francois Guillemot nói thêm.

Theo giải thích của ông Guillemot, Charlie Hebdo là biểu tượng của phong trào 1968 của Pháp, là thế hệ “có ‎y’ kiến trào phúng mạnh mẽ về chính trị, chế nhạo hoặc chỉ trích mạnh mẽ những ‎y’ kiến bảo thủ. Với tôi, người Pháp xuống đường là dĩ nhiên. Nét trào phúng của Pháp bị tấn công quá dữ, người ta phải có phản ứng nào đó, tập trung với nhau để nói rằng mình không sợ hãi sự khủng bố đó.”

Tuy nhiên, trong số những người xuống đường ở Pháp không phải ai cũng đồng tình với cách châm biếm của Charlie Hebdo, nhà văn Thuận bình luận. “Nhưng họ hiểu rằng khủng bố đã đụng đến quyền tự do ngôn luận. Bảo vệ Charlie Hebdo lúc này cũng là bảo vệ chính họ.”

Và với người Pháp, tự do quan trọng như ‘ánh sáng’, ‘như oxy’, ông Hồ Cương Quyết nói, nhưng tự do của Pháp chỉ có thể có được qua lịch sử đấu tranh lâu dài, từ thời Cách mạng 1789 và từ đó đưa ra tuyên ngôn độc lập với ba tiêu chí quan trọng nhất: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.

Nhà dân tộc học Nguyễn Văn Huy, phụ trách trang ethongluan.org so sánh, “khi vừa qua Pháp năm 1983, sang được một đất nước tự do tôi rất mừng. Và tôi thấy quan trọng nhất trong tự do ở Pháp là tự do tư tưởng.

“Người ta dạy cho đứa trẻ từ lúc còn nhỏ quyền tự do phát biểu. Tức là nó có quyền nói lên những gì nó muốn, chứ không như ở Việt Nam mình là cha mẹ bảo sao con nghe vậy.

“Và tự do ăn sâu vào tâm hồn của người đó và dẫn dắt họ hành động theo một con đường, và ảnh hưởng suốt cuộc đời của họ.”

Hàng triệu người Pháp đã đổ xuống đường trong nhiều ngày để biểu lộ tinh thần bảo vệ tự do sau vụ Charlie Hebdo

Tự do với nhà văn Thuận, là điều “tối thượng”.

“Một nhà văn nếu không suy nghĩ tự do chắc chắn sẽ ‘tự kiểm duyệt’ và đó là cái tai hại nhất cho sáng tạo.”

Tuy nhiên, “tự do ngôn luận không phải là tự do muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói mà nó cũng có những giới hạn của nó. Chẳng hạn như nếu tự do đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến cộng dồng khác, ảnh hưởng đến những tập thể khác là phạm luật.”

Nhưng trong trường hợp Charlie Hebdo, bên cạnh phong trào ủng hộ Je suis Charlie, cũng có phong trào Je ne suis pas Charlie, với một số ý kiến cho rằng tòa báo đã khiêu khích hận thù qua những bức tranh biếm họa đấng Tiên tri của người Hồi giáo khiến hàng triệu người giận dữ.

Tác giả của nhiều tiểu thuyết tiếng Việt và tiếng Pháp bình luận, luật pháp nước Pháp là ‘vô thần’.

“Tội phỉ báng đã bị loại bỏ khỏi luật pháp từ năm 1881 nên đứng trước luật pháp Charlie Hebdo không phạm luật.

“Không phải chỉ đến bây giờ vì những bức tranh biếm họa của Charlie mới gây ra khủng bố ở Pháp. Khi nước Pháp ra lệnh cấm đội khăn chẳng hạn, nước Pháp cũng bị khủng bố rất nhiều tuy rằng họ đã phát hiện ra.

“Nhưng những người Hồi giáo cực đoan có tư tưởng sẵn sàng nã súng vào những người không cùng tư tưởng với họ, nên tôi nhắc lại, là cần phải có những nhà báo, những nhà báo dũng cảm như Charlie Hebdo.” (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg).

Người Hồi giáo ở Đức biểu tình với biểu ngữ: ‘Nhà Tiên tri Mohammed, xin đừng giận dữ, người Hồi giáo luôn bên ngài’

Trong thư viết cho BBC sau cuộc thảo luận, ông Guillemot giải thích, vụ khủng bố cho thấy hai thế giới quan khác nhau, “hai khái niệm về sự thiêng liêng”.

“Một thế giới của đạo Hồi hay nhà Tiên tri Mohammed không thể, dưới bất kỳ hình thức nào, bị xúc phạm.

“Một thế giới khác là của Pháp, khẳng định rằng chính tự do ngôn luận là thiêng liêng. Hai thế giới này không thể hiểu nhau, và hôm nay lại càng khó hiểu nhau nữa. Xung đột này đặt ra câu hỏi về vị trí của Pháp trong thế giới ngày càng bất ổn định vì tôn giáo.”

Quan sát từ Việt Nam, nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, người từng bị ngồi tù vì tội danh ‘Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ nhận xét:

“Với một chính thể cộng hòa chính danh, thì cần phải bảo vệ tự do cho người dân và hạn chế quyền của chính phủ, giới hạn quyền lực của nhà nước thì như vậy tự do của dân mới được đảm bảo.

“Từng cá nhân phải được phát triển thì khi đó một quốc gia, một dân tộc mới có thể phát triển tối đa tiềm năng của mình.

“Cho nên tôi phải vận động để có được tự do cho Việt Nam. Hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam đang độc quyền nhà nước mà quyền làm chủ mà chưa có thì chưa thể nói đến quyền tự do khác được.”

Phá đám tang, nghề mới thời sản mạt!

Phá đám tang, nghề mới thời sản mạt!

J.B Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội
dam-tang-1-622.jpg
Một đám tang bị phá vòng hoa. (hình minh họa)

Photo by J.B Nguyễn Hữu Vinh

Trên bình diện thế giới, có nhiều nghề nghiệp độc đáo và kỳ lạ được báo chí nói đến. Những nghề nghiệp đó, được công nhận tại một số quốc gia có đặc thù riêng của họ như nghề thử cần sa, nếm thử bia, thử socola hoặc đóng vai xác chết trên truyền hình… Thậm chí, ở Trung Quốc, một số thầy thuốc đang tuyển nhân viên cho nghề… ngửi rắm để chẩn đoán bệnh tật của bệnh nhân.

Một thời gian dài trong lịch sử, đất nước Việt Nam chúng ta chưa có nghề nào được liệt kê là những nghề độc đáo và kỳ lạ như các nghề nghiệp được báo chí nhắc đến ở trên. Gần đây, ở đất nước Việt Nam xuất hiện một nghề mới: Nghề phá đám tang.

Nghề mới xuất hiện

Có lẽ, ngay từ buổi đầu của nhà nước Việt Nam 1945, mọi người dân Việt Nam dù qua mấy ngàn năm dưới mọi thời đại từ phong kiến, đến thực dân, chẳng ai có thể nghĩ được rằng sẽ có một ngày nghề mới này lại xuất hiện trên đất nước Việt Nam.

Sở dĩ không ai có thể tưởng tượng được, bởi qua hàng ngàn năm văn hiến, người Việt Nam vốn được dạy dỗ rằng phải tôn trọng người chết cũng như người sống. Người dân Việt vốn được dạy dỗ rằng “Nghĩa tử là nghĩa tận” rằng “sống cậy nhà già cậy mồ”… để nhắc nhở người đời tôn trọng vong linh kẻ chết. Và thật là thất đức và tai ngược khi xâm phạm mồ mả, vong linh kẻ chết. Thái độ của người sống trước người chết, là thước đo nhân cách và đạo đức của chính họ.

Do vậy, khi nghề “Phá đám tang” được hình thành và phát triển ở Việt Nam, nhiều người không tin nếu không nhìn thấy tận mắt, không tưởng tượng được nếu suy đoán theo lý lẽ cuộc đời và đạo đức con người bình thường.

Nhưng, thực tế nó đã xảy ra và ngày càng nhiều dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi không nói thì ai cũng biết, nếu không có sự “lãnh đạo tuyệt đối của đảng”, thì đã là con người sinh ra cái đầu trên cổ, trái tim trong lồng ngực, có cho vàng cũng ít ai dám hành nghề này.

Một vài điển hình

Không chỉ đến hôm nay, nghề phá đám tang mới phát triển mà có lẽ từ cách đây hơn chục năm. Năm 2002 trong đám tang Trung tướng Trần Độ – một vị tướng đã suốt đời đi theo Đảng Cộng sản – đám tang đã rất nổi tiếng với những trò phá phách thể hiện sự “quang vinh” “vô địch” và “tài tình” của “Đảng ta”.

LetangongTranDo-400.jpg
Đám tang Trung tướng Trần Độ năm 2002.

Ở đám tang đó, đảng đã chỉ đạo ngang nhiên bỏ câu “Vô cùng thương tiếc”  có sẵn trước bức tường trong nhà tang lễ đặt thi hài người quá cố. Ở đám tang đó, tất cả những người đến viếng không được ghi chức danh Trung tướng của ông Trần Độ trên băng tang. Những vòng hoa đến viếng, kể cả của ông Võ Nguyên Giáp cũng không được viết chức danh của người viếng và của người chết như ý muốn. Thậm chí, ở đó người chết còn bị Vũ Mão, thay mặt Đảng, Quốc hội, Nhà nước đọc bản “Điếu văn kiểm điểm” trước khi được đưa đi chôn.

Thế rồi, những đám tang bị phá như vậy xuất hiện ngày càng nhiều từ đó đến nay và xuất hiện không chỉ một nơi, một cấp và mức độ tàn bạo, bất nhân thì cứ theo đà “Năm sau cao hơn năm trước”.

Đã có hàng đoàn hàng lũ Công an, Cảnh sát các loại đánh đập người đưa tang, cướp xác một người dân Cồn Dầu rồi đưa đi vứt vào một chỗ nào đó mà tang chủ không hề được biết để nhằm mục đích cướp đất nghĩa địa, làng mạc có từ háng trăm năm nay ở Cồn Dầu, Đà Nẵng.

Người ta chứng kiếm đám tang mà công an dày đặc, xe công an lạng lách, chèn ép người đi đưa tang nhằm gây tai nạn cho họ ở đám tang ông Trịnh Xuân Tùng, người bị tên Trung tá Công an đánh cho gãy cổ đến chết và được xử 4 năm tù.

Người ta chứng kiến những đám tang bị cướp giật băng rôn, bị xông vào ép tang chủ cho làm ban tổ chức, bị người lạ xông vào khống chế tang chủ như đám tang mẹ Phạm Thanh Nghiên ở Hải Phòng.

Người ta thấy một điều: Hầu như, những đám tang bị phá nhiều nhất, quyết liệt nhất, bất nhân nhất lại chính là những đám tang của những người đã từng góp phần máu xương, sức lực xây nên chế độ này.

Sau ông Trần Độ, một lão tướng với những chức vụ cao cấp trong hàng ngũ Cộng sản đã bị phá đám tang, Ông Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từng giữ nhiều chức vụ trong hệ thống chính trị này, nhưng khi chết đã được “sự quan tâm đến mức cao nhất” dù đám tang được tổ chức trong chùa. Các băng tang bị giật, bị phá và những người tham dự lễ tang bị làm khó dễ, những tên côn đồ  ngang nhiên phá đám tang trước mắt mọi người. Và hẳn nhiên ai cũng biết những tên côn đồ đó  đều thuộc về đảng CSVN.

Rồi đám tang ông Trần Lâm, một luật sư, từng là một “đồng chí cộng sản”. Nhưng đám tang đã bị giật băng tang và phá rối bởi đám mật vụ vô nhân tính.

Và mới đây nhất, hôm 12/1/2015, một người Cộng sản đã ra đi và đám tang tiếp tục bị phá phách: Bà Hoàng Thị Ái Hoát (phu nhân Nguyên uỷ viên trung ương đảng, nguyên bộ trưởng, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Liên Xô Nguyễn Hữu Khiếu).

Trong điếu văn đọc trong đám tang của bà, ông Bí thư đảng không ngần ngại nói rằng: Đồng chí Hoàng Thị Ái Hoát đã là một đảng viên cống hiến đến hơi thở cuối cùng với mấy chục năm tuổi đảng. Đồng chí đã để lại cho đất nước những người con trưởng thành được đào tạo, giáo dục tốt…

Thế nhưng, những lời lẽ đó vẫn có thể đọc trơn tru khi đám tang của “đồng chí” đã được các “đồng chí” tìm cách phá ngay từ đầu. Thậm chí, ngay trước linh cữu của “đồng chí” một “đồng chí” hóa trang ra giật phá các băng tang viếng “đồng chí” một cách trắng trợn thì chỉ có những người Cộng sản mới làm được.

Thế mới hiểu nghĩa tình và “đạo đức cách mạng” của những người Cộng sản với nhau ra sao.

Ngay từ khi bước vào cổng khu vực nhà tang lễ, bất cứ ai muốm mua vòng hoa, muốn ghi băng tang vào viếng đều được những người lạ mặt chỉ đạo được làm, được viết và được bán hay không. Nhiều bạn bè, tổ chức dân sự, hội đoàn muốn mua vòng hoa tang, viết băng tang đã không thể thực hiện được. Đơn giản chỉ là vì không ai nghĩ rằng “đảng ta” lại “đạo đức văn minh” đến mức đó.

DamtangConDaubipha-400.jpg
Đám tang ở Cồn Dầu bị phá. File photo.

Thậm chí, một số vòng hoa khi mang vào tận nhà tang lễ, một đám người không rõ là ai nhưng ai cũng biết là ai đã ngang nhiên xông vào giật phá các băng tang như chỗ không người, ngay trước linh cữu.

Một tên đã khá già, xông lại giật chiếc băng tang trước linh cữu “đồng chí” của hắn đang nằm đó. Khi bị chất vấn, hắn bảo “tôi là người của Ban Tổ chức”. Nhìn hành động của hắn, tôi không kìm được sự phẫn nội. Tôi nói với hắn: “Cỡ mày, chết thì chó nó không thèm đến tha đi chứ chưa cần nói đến chuyện viếng”. Đến khi về một người bạn nói rằng: Anh này trước đây, năm 2007 đã là thượng tá công an (?). Thế mới lạ, Ban tổ chức đám tang lại có cả công an?

Những kẻ hành nghề này, không cần nói, thì ai cũng biết họ là ai. Họ hành nghề đó cách lén lút hoặc ngang nhiên, họ hành nghề bằng cách bất chấp sự kiêng dè, húy kỵ… họ hành nghề say mê và tự tin về một sự bảo kê bằng thứ luật pháp dùng để trả thù và cấp bậc, lương thưởng, chức vụ…

Côn đồ điều hành nhà tang lễ Bộ Quốc phòng?

Những đám tang của ông Trần Độ, bà Hoàng Thị Ái Hoát được tổ chức tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội, đó là là nhà tang lễ của Bộ Quốc phòng.

Hẳn rằng, khi các gia tang nhắm chọn nơi này để tổ chức đám tang, ngoài sự thuận tiện, thì họ cũng còn chút nào đó yên tâm về một nhà tang lễ do Bộ Quốc phòng quản lý, sẽ được an toàn và người quá cố được yên tĩnh sớm siêu sinh tịnh độ sau khi từ giã cõi trần. Thế nhưng, ở đây lại khác.

Những kẻ không trang phục, không cấp hiệu, không dám xưng chức danh, mà nếu nhìn vào như một đám du thủ du thực đã điều hành nhà tang lễ Bộ Quốc Phòng này.

Bất chấp luân lý, luật pháp những người này ngang nhiên cướp, phá, giật xé những vòng hoa viếng, đánh người vô cớ ngay trước mặt hàng loạt sỹ quan, chiến sĩ quân đội đang làm nhiệm vụ ở đây. Nhưng tất cả họ đều bất lực.

Nhìn những hành động này, tôi nói với một sỹ quan cấp tá ở đây: “Tôi không rõ, đây là nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, tại sao đám côn đồ này lại ngang nhiên điều hành và hành động bất chấp luật pháp với người dân mà các sỹ quan không ai có ý kiến gì là sao. Tại sao Bộ Quốc phòng lại bất lực?” Anh ta trả lời: “Vâng, chúng tôi sẽ lưu ý vấn đề này”.

Gieo nhân để chờ gặt quả, trông mặt mà bắt hình dong

Trên một trang mạng của một dư luận viên giấu mặt, những hình ảnh bị cắt dán nhằm vu cáo những người đến viếng tang. Chẳng ai lạ gì trò hèn hạ đê tiện và rẻ tiền này xuất phát từ đâu. Nhưng, có một câu khá hay như sau: “Người xưa dạy “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Bởi thế, thái độ của con người trước cái chết, trước nỗi bất hạnh của người khác, luôn phản ảnh trình độ giáo dục và nền tảng đạo đức của con người ấy”.

Đọc câu này, tôi nghĩ rằng nếu mấy sỹ quan hôm nay phá tang lễ kia đọc được, chắc hẳn như bị một thùng nước đá vào đầu.

Và tôi chợt nhớ ra một điều: Thì ra, không phải họ không biết những điều sơ đẳng này. Hẳn rằng họ không thể không biết việc phá phách đám tang, xúc phạm người quá cố, mồ mả và những việc linh thiêng là điều tối kỵ trong đạo đức làm người. Điều tôi thắc mắc là không hiểu tại sao họ vẫn biết, và họ vẫn làm?

Thế rồi, đọc lại những thông tin về những sự việc đã qua, người ta mới thấy rằng, họ có một lý do để bao biện cho hành vi phản đạo đức và lương tri của mình, đó là: Lệnh trên.

Lệnh trên, là lý do mà ông Vũ Mão dùng để biện minh cho cái “điếu văn kể tội” trước tang lễ ông Trần Độ. Thậm chí, ông ta còn tự hào “Tôi là nghị sĩ đóng vai nghệ sĩ bất đắc dĩ” và coi như đó là lý do để biện minh cho hành động của mình.

Than ôi, ông Vũ Mão chẳng lẽ không biết rằng, dù là lệnh trên, dù là thể chế, dù là tập thể hay gì gì đi nữa ra lệnh cho ông thì ông vẫn nên nhớ rằng ông vẫn là một Con – Người. Ông vẫn có một khối óc riêng, một trái tim riêng để xem xét và đánh giá hành động của mình đúng, sai, phải, trái. Do đó, ông sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành động của mình.

Và hôm nay, hay ngày mai cũng vậy, những kẻ đã tự ngậm dầu vào miệng để thổi lửa, hẳn sẽ có ngày cháy ngay miệng mình.

Còn với một chế độ do đảng lãnh đạo tuyệt đối, mà khai sinh một nghề mới: “Nghề phá đám tang” thì xét theo chiều dọc lịch sử và chiều ngang thế giới, hẳn tự nó đã nói lên tầm vóc của đảng, nói lên sự “quang vinh, trí tuệ, khoa học và sáng suốt tài tình” ra sao.

Hà Nội, ngày 14/1/2015

J.B Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội