Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Chuacuuthe.com

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (26.12.2014) – Đồng Nai – Con người ai cũng tự hào về gia đình của mình. Con cái tự hào về cha mẹ. Cha mẹ tự hào về con cái. Có người còn tự hào về gia tộc và dòng họ của mình. Thế nhưng, niềm tự hào ấy hôm nay đang mất dần khi mà nhiều thành viên trong gia đình đang sống thiếu trách nhiệm với bổn phận, đôi khi còn gây đau khổ cho gia đình bởi tội lỗi và đam mê của mình. Đó cũng là nguyên nhân đưa đến sự đổ vỡ nơi các gia đình hôm nay.

Nhìn vào những vụ bạo lực trong gia đình, mẹ sát hại con, cháu “xuống tay” với bà, chồng cạn tình với vợ liên tục xảy ra gần đây khiến cho chúng ta có cái nhìn thật bi quan về cái nôi gia đình mà trước đây bảo là nơi bình yên, hạnh phúc nhất.

Chỉ trong 2 ngày 22 và 23-6, Vĩnh Phúc chấn động với hai vụ án giết người mà kẻ xuống tay lại chính là những người thân thích cùng chung dòng máu. Người mẹ N.T.L chỉ vì giận chồng cũ tái hôn mà dùng dao chém chết đứa con trai 8 tuổi để trả thù. Đứa trẻ chết trong giấc ngủ, không kịp biết   khi kẻ hại mình lại chính là người mẹ dứt ruột đẻ ra. Tiếp sau đó 1 ngày, tại xã Đình Chu anh N.Đ.T đã dùng gậy hạ sát bà. Nguyên nhân cũng chỉ vì người bà đã khuyên nhủ cô gái mà T đang theo đuổi không nên yêu T, rằng T vốn hung hăng, đã từng đánh đập 2 người vợ trước, khiến họ phải bỏ đi.

Trước đó, ngày 20-6, tại Hà Nội cũng xảy ra vụ án chồng sát hại vợ. Kẻ thủ ác Đ.M.Q trú tại phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm. Do mâu thuẫn vợ chồng, vợ Q đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Do ép vợ quay về không được nên Q đã tước đoạt mạng sống của vợ, bỏ lại hai đứa con thơ, đứa 4 tuổi, đứa mới lên 3.

Sở dĩ người ta có thể đoạn tình, đoạn nghĩa với người thân của mình thường chỉ vì ai đó đã lao vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền. Vì danh lợi thú mà họ sẵn sàng hành động trái với cả luân thường và đạo lý làm người.

Một nguyên nhân khách quan mà chúng ta không thể không nói đến chính là sự hội nhập với trào lưu văn hóa thế giới khi Việt Nam hội nhập kinh tế, nhưng người dân Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị tâm lý, trình độ để tiếp thu. Điển hình là sự tự do cá nhân đối với phương tây là tốt, nhưng với Việt Nam lại là một tai họa khi đa số không hề có khả năng sống tự lập và tự chủ dẫn đến rất nhiều thành phần buông lỏng trách nhiệm với gia đình.Cha mẹ thiếu trách nhiệm với con vì mải mê kiếm tiền. Con cái sống buông thả tự do đến nỗi thiếu trách nhiệm với bản thân và xã hội.

Đó là nguyên nhân dẫn đến những bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục bừa bãi và hôn nhân đồng giới, buôn bán phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục, bất bình đẳng giới tính trong gia đình Việt Nam.

Có lẽ chúng ta cần phải xác định lại giá trị hạnh phúc trong gia đình. Gia đình hạnh phúc không hẳn là có tiền để rồi mải mê kiếm tiền mà bỏ rơi nhau. Gia đình không hệ tại ở việc người  có chức này, người kia có chức nọ. Gia đình hệ tại ở sự đùm bọc yêu thương nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Nếu có tiền, có địa vị mà xa cách gia đình thì cũng không mang lại hạnh phúc cho gia đình. Gia đình chỉ tồn tại khi mỗi thành viên biết sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình của mình.

Hôm nay lễ kính thánh Gia Thất là một gia đình gương mẫu. Các ngài đã sống đùm bọc với nhau. Các ngài luôn sống có trách nhiệm với nhau. Các ngài luôn sử dụng tự do theo thánh ý Chúa. Không tìm kiếm nhu cầu của bản thân. Không chiều theo xu hướng cá nhân nhưng luôn sống cho nhau và vì nhau. Nhất là các ngài đã biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Các ngài luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc đời.

141225005

Thánh Giuse vì an nguy của Mẹ Maria và hài nhi Giê-su đã sẵn lòng đón Mẹ về làm bạn mình. Đức Maria đã không sợ hiểm nguy khi nói lời xin vâng để ý Chúa được nên trọn. Chúa Giê-su dầu là Thiên Chúa nhưng vẫn sống khiêm tốn vâng lời thánh Giuse và Mẹ Maria.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi mà mỗi thành viên trong gia đình biết từ bỏ ý riêng để sống có trách nhiệm với gia đình. Gia đình sẽ không có khổ đau nếu mỗi người biết sống hy sinh cho gia đình, biết làm việc để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình. Và cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi các gia đình Công Giáo biết đặt ý Chúa trên mọi ý hướng cá nhân để vì Chúa họ sống yêu thương và có trách nhiệm với nhau.

Xin Chúa cho các gia đình luôn được hợp nhất bình an khi họ có Chúa đồng hành và để ý Chúa được thực hiện trên cuộc đời của họ. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Bất an của nhân dân và sợ hãi của nhà cầm quyền

Bất an của nhân dân và sợ hãi của nhà cầm quyền

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-12-25

kinhhoa12252014.mp3

000_Hkg10129402.jpg

Ảnh minh họa chụp tại Sài Gòn hôm 13/12/2014.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Bất an

Vinh danh thiên chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
.

Hai câu cầu chúc trong ngày lễ giáng sinh được Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn trích dẫn, để sau đó dẫn tới sự tán thán về một nỗi buồn của ông trên trang FB:

Viết ra câu thứ hai làm tôi chợt phân vân… Trên trời thì không biết sao, chứ ở dưới đất (dưới trần) thì tôi thấy sao những người thiện tâm, đặc biệt là ở VN, có khi chẳng được bình an.

Mặc dù sự bình an là điều mong muốn của tất cả mọi người, như cây bút Trịnh Khả Nguyên viết trên trang blog Bauxite Việt Nam:

“Bình an dưới thế” là mong ước chung của mọi người. Ai cũng muốn có một cuộc sống an lành, một gia đình hòa thuận, một xã hội công bình, một môi trường trong sạch. Không ai muốn bị bệnh hiểm nghèo, bị hoạn nạn, bị đối xử bất công, bị vu oan giá họa. Ngay những người ít thiện tâm, hay làm điều ác cũng muốn mình, gia đình mình, người thân của mình được an khang thịnh vượng.”

” Bình an dưới thế” là mong ước chung của mọi người. Ai cũng muốn có một cuộc sống an lành, một gia đình hòa thuận, một xã hội công bình, một môi trường trong sạch.
-Trịnh Khả Nguyên”

Những người lo lắng cho sự bất an đang đổ dồn ánh mắt về người tử tù Nguyễn Văn Chưởng mà bản án vốn gây nhiều tranh cãi. Theo bản án này thì ông Chưởng sẽ bị tử hình vào cuối năm nay. Cha mẹ và gia đình ông thì cứ nhất mực kêu oan rằng ông vô tội. Các lời buộc tội, các tang chứng tại tòa đều không mang tính thuyết phục là ông Chưởng đã phạm tội giết người.

Một vụ án tử hình khác cách đây không lâu được dừng lại. Người tử tù Hồ Duy Hải may mắn được công luận chú ý và vụ án bị ngưng để tái điều tra, cũng vì lý do những chứng cứ rất mù mờ, không thuyết phục được rằng ông Hải đã gây án.

Hai nghi án được các blogger bàn đến trong thời gian chưa đầy một tháng làm tăng nỗi bất an trong một xã hội mà nhiều người cho rằng có sự song hành giữa sự mất hiệu quả của nền công lý, và sự gia tăng bạo lực trong xã hội. Người ta vẫn còn nhớ câu chuyện hồi năm ngoái người dân tại một ngôi làng nhỏ bắt giữ năm viên công an vì không hài lòng cái cách mà cơ quan công quyền quản lý địa phương họ. Nhiều người dân bị chết do sự bạo hành của công an, và ngay cả lực lượng công an cũng không khỏi bị đe dọa bởi bạo lực.

Nhà văn Phạm Đình Trọng có nói với chúng tôi trong một lần trao đổi rằng xã hội Việt Nam đang bị đe doạ bởi bạo lực khi người ta đối xử với nhau bằng bạo lực vì người ta không còn tin ở công lý, và một phần quan trọng hơn là cơ quan công quyền hay dùng bạo lực để hành xử. Người ta nói nguyên nhân của điều đó không ở đâu xa lạ mà xuất phát từ nguyên tắc sử dụng bạo lực cách mạng.

Tính bạo lực đó được blogger Cánh Cò nhớ lại trường hợp của nhà văn Nguyễn Quang Lập vừa bị bắt, cũng như trường hợp viên tướng công an tên là Thanh bị đưa ra trước tòa dù đang bị trọng bệnh:

nguyen-quang-lap-b-622.jpg

Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê Choa nổi tiếng.

Người cộng sản rất giỏi nói tiếng nhân đạo nhưng việc làm thì ngược lại hoàn toàn. Khập khiễng như Bọ nhưng vẫn còn đi được thì còn vào tù. Nằm liệt trên cáng như tướng Thanh vẫn bị khiêng ra tòa nghe xử án. Đây là cách chứng tỏ quyền lực tuyệt đối, tuyệt đối đến vô nhân đạo của chế độ vốn đi lên từ bạo loạn.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn thuật lại những điều buồn lòng của ông khi ông là nạn nhân của những bạo lực ngôn từ của những người dân bình thường, đến nổi ông phải trích một câu nói của người xưa rằng Bạc như dân, bất nhân như lính!

Ông Vương Trí Nhàn có lẽ là một trong những cây bút hiếm hoi nói ngược lại cái mỹ từ nhân dân vốn được ngôn ngữ chính thống nâng niu bấy lâu nay. Ông nêu nguyên nhân của việc đó là từ sự suy thoái của chính cơ quan công quyền:

Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư vô. Chúa đã chết rồi! Ai muốn làm gì thì làm! Bởi cảm thấy trên đời này không còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hãn. Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn. Tự cho phép mình hư! Nhìn nhau để yên tâm mà hư! Khuyến khích nhau hư thêm, càng đông người hư càng thích! Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì có thể giữ con người lại nữa.

Quyền lực

Bàn về những người cầm quyền hiện nay, Blogger Cánh Cò viết rằng các vị chức sắc chính quyền hiện nay phát biểu như thánh, nhưng lại rỗng như một chiếc giếng khô. Còn giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thì nhận định về những lời phát biểu gần đây của các quan chức hàng đầu Việt Nam:

Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…’ những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.

Đằng sau những lời nói đó lại đang diễn ra một cuộc đấu đá quyền lực khốc liệt bên trong đảng cầm quyền được mô tả trong bài nhận định tình chính trị mới nhất của blogger Kami. Theo blogger này thì hội nghị trung ương của đảng cộng sản Việt Nam năm nay diễn ra rất muộn màng. Lẽ ra nó đã được tổ chức trước kỳ họp quốc hội để có thể ra những chỉ đạo theo nguyên tắc đảng lãnh đạo. Nhưng nay Quốc hội đã bế mạc phiên họp thường kỳ mà dường như việc họp hội nghị trung ương vẫn chưa ngã ngũ. Trong một lần trao đổi với chúng tôi mới đây, Giáo sư Vũ Tường có nhận định rằng quyền lực trong đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam hiện nay rất chia rẽ với những phe nhóm lợi ích khuynh đảo chính trường và lợi ích của quốc gia.

Sợ hãi

Nhạc sĩ, blogger Tuấn Khanh khi viết về người tử tù Nguyễn Văn Chưởng có đề cập đến một chuyện trớ trêu là ông Chưởng bị giam trong một trại giam mang tên Trần Phú, người Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam. Ông Trần Phú bị thực dân Pháp dùng nhục hình giết chết. Nay Tuấn Khanh thấy rằng giờ đây người Việt lại đang thừa kế những gì mà họ lên án, và những điều đó đã từng được dùng như duyên cớ để lật đổ một chế độ là chế độ thực dân Pháp.

” Không dám đối diện với người dân của mình, chính quyền ngày càng tỏ ra khinh thường người dân của mình, cùng với nỗi sợ hãi hoang tưởng đặc trưng của một kẻ có lỗi với người dân của chính mình.
-Mai Tú Ân”

Giải thích điều trớ trêu đó Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho rằng vì những người cầm quyền sợ sự thật như kẻ gian sợ ánh sáng. Đó cũng là điều mà nhiều blogger cho là nguyên nhân mà ông Nguyễn Quang Lập bị bắt vì ông mong làm người chuyên chở sự thật đến cho người đọc.

Facebooker Mai Tú Ân viết rằng chính nỗi sợ ấy làm cho hố ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị trị ở Việt Nam ngày càng xa cách:

Không dám đối diện với người dân của mình, chính quyền ngày càng tỏ ra khinh thường người dân của mình, cùng với nỗi sợ hãi hoang tưởng đặc trưng của một kẻ có lỗi với người dân của chính mình.

Chính quyền đang tự mở ra cái hố sâu ngăn cách, hay một mặt trận đối nghịch, đối đầu vô lý giữa lòng một quốc gia đang cần sự đoàn kết và hòa giải hơn là sự đối đầu.

Vì đâu nên nỗi

Đi tìm kiếm nguyên nhân của sự bất an của người dân, và sự sợ hãi của nhà cầm quyền, nhà khoa học Tô Văn Trường viết:

Quản trị một quốc gia, thực ra có yếu kém, bê bết thì mới “sợ dân chủ” – người cha trong gia đình khi không còn có thể tương thích với con cái bằng lời thì sẽ dùng roi vọt – khác nào là đã “tự thú” về sự bất lực của mình!

Những nhà lãnh đạo Việt Nam không phải không nói đến những yếu kém của hệ thống điều hành đất nước hiện tại, nhưng họ lại cho rằng chẳng qua là do cán bộ đã không thực hiện được một cách đúng đắn, chủ nghĩa cộng sản, hay những nguyên tắc của Lenin. Giáo sư Tô Văn Trường phản bác điều đó:

Vấn đề không phải là hiểu sai hay không thực hiện đúng chủ nghĩa Lênin mà ở chỗ chọn chủ nghĩa Lênin là sai lầm. Đi theo chủ nghĩa Lênin là từ bỏ Đệ nhị quốc tế, để theo Đệ tam quốc tế, và thực tế là theo chủ nghĩa Lênin-Stalin với những hệ luỵ độc tài, toàn trị tai hại. Mấy thập kỷ qua cho thấy các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo xu hướng Đệ nhị quốc tế tức là trên nền tảng dân chủ như Thụy Điển thì trái lại đều thành công.

Trong bất kỳ một cuộc lột xác thay đổi nào đều không tránh khỏi nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần. Mục tiêu tối thượng phải tránh được đổ máu làm hao tổn hiền tài và nguyên khí quốc gia. Muốn tránh được điều này, phải thay đổi thể chế, đoàn kết dân tộc và thực hiện dân chủ.

Yêu cầu của ông Tô Văn Trường cũng được nhiều trí thức Việt Nam lên tiếng trong thời gian gần đây. Nhưng cũng có những lời đồn đoán rằng chính những đề nghị thay đổi tận gốc đó đã làm đảng cộng sản không hài lòng và kết quả là nhiều nhà những vụ bắt bớ đã xảy ra.

Khi không chấp nhận sự thay đổi thể chế, dường như nhà cầm quyền lại đang loay quay, bế tắc. Một ông Thứ trưởng đương chức lên tiếng với báo giới rằng Chúng ta đi mà không biết đi về đâu!

Trong không khí bất an và dường như bế tắc đó, blogger, nhạc sĩ Tuấn Khanh khuyên mọi người nên hy vọng:

Nhưng tôi và bạn không thể không nói, không thể không hy vọng. Phần nhân tính ít nhất mà bạn có, dù bất lực, là phải ghi nhớ. Ít ra, mai sau chúng ta vẫn có thể đứng dậy và trở thành nhân chứng đáng giá của thời cuộc. Nhân chứng của sự thật dù trãi qua rêu phong. Dù chỉ làm một tiếng chuông cô độc, vẫn hơn là hoà tan mình, thoả hiệp trong đêm tối vô tận không thức tỉnh.

Hy vọng những oan án được cởi bỏ, hy vọng xã hội thoát khỏi sự bất an, hy vọng nhà cầm quyền đừng sợ hãi người dân, hy vọng họ biết con đường phải đi là đâu.

Hy vọng là lời chúc tốt lành đến với mọi thính giả trong mùa Giáng sinh và năm mới.

Kỹ niệm mười năm

Kỹ niệm mười năm

Thư tâm tình của anh Thụ (Mai)

Mười năm về trước, vào ngày 24/12/2004 tại Northern Virginia, tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital.  Hôm đó, tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh.  Lúc tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot.  Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ -36 độ âm nhưng tôi không có áo lạnh.  Kết quả, tôi bị stroke, sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm.  Bố Mẹ và một số người thân đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi.  Một ngày rưỡi sau, là biến cố Tsunami làm đến 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống và từ dạo đó, tôi chiêm niệm sống gần gũi Chúa và Đức Mẹ nhiều hơn.

Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong một buổi sáng Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa,  xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa.  Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng, và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến….bây giờ gần 10 năm rồi.

Xin Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 10 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi…một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.

Xin chúc các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và các Anh Chị một Mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân  Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

Bảo Trọng,

Thụ & Mai

We Wish You a Merry Christmas Song.wmv

w42h.gif

Chỉ có một  thứ hạnh phúc trên đời này, đó là yêu thương và được yêu thương ~ George Sand
Thu & Mai,

Giang Sinh 2014.

THƯ GỞI CHÚA HÀI ĐỒNG

THƯ GỞI CHÚA HÀI ĐỒNG

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

Chúa Hài Đồng yêu quý của con,

Sắp đến Lễ Giáng Sinh rồi đáng lẽ mọi người rộn rã lắm, vui vẻ lắm, háo hức lắm. Thế nhưng năm nay mùa Bình An gần kề mà sao trần gian còn lắm thương đau quá, còn nhiều bất an quá. Khi nào con người mới có bình an đích thật đây hả Chúa?

Chúng con sống bên bờ đại dương được ví von “bao la như biển Thái Bình” nhưng dường như chưa bao giờ bình yên trong giông bão. Tên là Thái Bình mà có được bình yên đâu! Cơn siêu bão Haiyan ngày 9-11 quét qua Philippines như một cơn sóng thần. Hơn 10.000 người có thể đã chết và khoảng 500.000 người trở thành vô gia cư. Nước triều dâng 5-6 m khi bão càn quét  đã biến thành phố Tacloban thành nghĩa địa. Người ta trở nên hung hãn hơn, đi hôi của, cướp phá để tìm thực phẩm. Họ bước đi như những thây ma di động trên những con đường đầy những xác người, tìm kiếm đồ ăn nước uống : “Những người đói khát đang rất giận dữ trong tuyệt vọng”!

Thế nhưng không phải ai cũng hung hãn ích kỷ lo cho bản thân mình trong cơn bão dữ. Vẫn còn hình ảnh rất đẹp của Chúa Hài Đồng nơi cô bé 6 tuổi hy sinh bản thân mình để cho mẹ được sống.

Cô giáo Bernadet Tenegra, 44 tuổi, vẫn còn nhớ mãi những lời cuối cùng của cô con gái 6 tuổi nói với mình: “Mẹ, mẹ hãy buông con ra. Mẹ hãy tự cứu lấy mình.” Lúc ấy cả gia đình cô giáo Tenegra đang túm tụm trong túp lều tại làng Barangay. Khi bão Haiyan đến, nước bất ngờ dâng lên cuốn trôi cả nhà trong đó có người chồng và một đứa con gái khác của cô. Người mẹ kể lại trong nước mắt: “Tôi đã cố gắng giữ lấy con và luôn miệng nói với con rằng hãy bám chặt vào để mẹ kéo con lên. Nhưng con bé đã buông tay và bị những thanh gỗ đâm vào người. Con bé còn nói: “Mẹ, mẹ hãy buông con ra. Mẹ hãy tự cứu lấy mình”.

Giữa những tang thương đổ nát, vẫn có hình ảnh thật đẹp như ánh sao soi chiếu đêm đông giá lạnh tình người phải không Chúa? Niềm tin của con vào con người ngày nay được hâm nóng bởi những con người nghèo khổ hoạn nạn, bởi những em bé biết quên thân mình nghĩ đến người khác chứ không bởi những người lớn, những người giầu có quyền cao chức trọng nhưng dửng dưng vô cảm trước đau khổ của tha nhân.

Con chỉ cho Chúa thấy một hình đẹp nữa của Chúa nè.

Trong khi Việt Nam chào mừng công dân thứ 90 triệu ra đời, thì Bea Joy con gái của cô Sagalis 21 tuổi, chào đời ngày 8-11-13 tại một sân bay đã bị tàn phá và đang được trưng dụng làm trung tâm y tế tạm thời ở Tacloban. Bé được đặt nằm trên một miếng gỗ bẩn thỉu, xung quanh là kính vỡ, mảnh kim loại, rác rưởi chất chồng như xưa Chúa sinh ra trong máng cỏ bò lừa hôi tanh. Thật lạ lùng, trong tình cảnh bi đát như vậy, Bé Bea Joy vẫn chào đời. Một người con được sinh ra.

Người mẹ trẻ nghẹn ngào : “Con bé là phép nhiệm màu Chúa dành cho tôi. Tôi nghĩ mình sẽ chết cùng với đứa con còn ở trong bụng này khi cơn đại hồng thủy ập đến cuốn tất cả chúng tôi đi.”

Người cha là Jobert, ôm chặt đứa con gái bé bỏng mới sinh, mắt đỏ hoe chia sẻ nỗi niềm buồn vui: “Chúng tôi mừng con gái chào đời hôm nay, nhưng chúng tôi cũng tưởng niệm những người đã ra đi. Chính Chúa đã giúp tôi tìm thấy vợ đang trôi giữa biển rác mênh mông, xác người và động vật nằm lẫn lộn!”

Một mầm sống được nẩy sinh giữa hàng chục ngàn xác chết. Sự sống vẫn không bị dập tắt trong đổ vỡ hoang tàn. Quyền năng và lòng thương xót của Chúa vẫn thể hiện trong tình cảnh thất vọng nhất. Chúa vẫn có đó. Chúa vẫn giáng sinh trong những hang Belem tăm tối nhất của cuộc đời chúng con để thắp lên niềm tin cho chúng con.

Chúa ơi,

Con thấy người dân Philippines thật dễ thương. Ngay khi Philippines đón nhận hậu quả thảm khốc của cơn bão mạnh nhất, và dự báo sẽ đánh thẳng vào miền Trung Việt Nam với mức độ tàn phá vô cùng khủng khiếp, con đọc thấy trên trang mạng xã hội những lời cầu nguyện bình an đầy lòng nhân ái của các bạn Philippines : “Cầu nguyện cho các bạn Việt Nam… Chúng tôi là nạn nhân của cơn siêu cuồng phong vừa quét qua Philippines, hãy bảo trọng nhé các bạn Việt Nam”…

Thật đúng như dân ca xứ Nghệ có câu hát : “qua cơn lận đận, mới hiểu tận lòng nhau”. Thánh Faustina cũng cảm nghiệm : “Chính qua đau khổ mới biết ai là bạn thật” Giữa những hoang tàn đổ nát, ngổn ngang xác chết và đói khát rình chờ mà các bạn Philippines còn biết nghĩ đến đất nước sắp hứng chịu đau khổ như mình và dâng lời cầu nguyện. Chính điều ấy làm con thêm niềm tin yêu vào cuộc đời vào con người. Vì thói đời chỉ tìm phò những người đang “thịnh” đang lên, có mấy ai phò người đang “suy” đang xuống. Nhưng chính những con người đang suy sụp ấy mới cần ta vực dậy chứ người đang “thịnh” thì cần ta phò làm gì nữa ? Nếu có chỉ là vụ lợi và cầu danh mà thôi.

Có lẽ chính nhờ những lời nguyện cầu chân thành ấy và Chúa thấy miền Trung vừa gánh chịu mấy cơn bão liên tiếp nên cho bão Haiyan chuyển hướng đi và giảm dần. Tuy nhiên những tỉnh miền Bắc cũng vẫn phải oằn mình gánh cơn bão Haiyan này. Nhiều người chết, mất tích và nhà cửa, tài sản, mùa màng thiệt hại nặng nề. Oái oăm nhất là có 14 người chết và 81 người bị thương không phải do bão mà từ trước khi bão đến vì tai nạn khi leo lên chằng nhà cửa chống bão!

Trong tình hiệp thông “vui với người vui, khóc với người khóc”, ngày 10-11-13, hơn 60.000 người Công Giáo tập trung trước quảng trường thánh Phêrô cùng với ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho những người dân Philippines bị nạn sau siêu bão Haiyan. ĐTC nói : “Thật đáng buồn khi có rất nhiều người dân gặp nạn và thiệt hại rất lớn. Hãy cố giúp họ bằng những hành động thực tiễn”. ĐTC tỏ ra rất đau buồn trước sự tàn phá và những mất mát do siêu bão gây ra và khẳng định ngài luôn ở bên cạnh tất cả người dân bị nạn.

Cầu nguyện và hành động, ĐTC không hô hào xuông, nhưng kêu gọi người tín hữu hãy cố giúp nạn nhân bão lụt bằng những hành động thực tiễn. Chúa không ở tít trên trời cao nhỏ lệ xót thương con người đang trầm luân trong bể khổ, nhưng đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…” (Pl 2,7). Thử hỏi sự đóng góp cho những nạn nhân thiên tai bão lụt của chúng con được bao nhiêu? Có sánh bằng với việc quyên góp xây cất các cơ sở tôn giáo không? Phải chăng vì không có bằng ân nhân hay không được rao tên trong công việc từ thiện này nên sự đóng góp còn rất khiêm tốn?

Chính vì thế mà trong hội nghị thường niên các Bề Trên Thượng Cấp (từ ngày 05 đến 07-11-2013), Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Phó Tổng Giám Mục GP Sài Gòn, nhấn mạnh : “Giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thiết lập, xuất thân từ những nguời nghèo, bao gồm phần lớn là những người nghèo, thì trong Giáo hội, người nghèo phải có chỗ đứng, có tiếng nói. Người nghèo không thể mãi là những người thấp cổ bé miệng. Nghèo vật chất, nghèo văn hóa, nghèo tâm linh, nghèo giá trị, những người bị khinh thường, bị ức hiếp, những người tật bệnh đói khổ, người già yếu cô đơn. Giáo hội phải lưu tâm nhiều hơn đến những hạng người này, chăm sóc đặc biệt hơn, đồng hành với họ, chia sẻ nếp sống của họ, chia sẻ của cải cho họ, trợ giúp thực tế khi họ cần. Những hệ luận thực tế là: nếp sống khó nghèo của các thành viên có ơn gọi đặc biệt như giáo sĩ và tu sĩ, các giáo phận và giáo xứ, các Dòng Tu, “bớt xây dựng các cơ sở có quy mô quá lớn và tốn kém quá nhiều”.

Chúa Hài Đồng ơi,

Chúa còn kiên nhẫn để nghe con nói chuyện thế gian nữa không?

Hết chuyện “thiên tai” đến chuyện “nhân tai”. Những tai hại về vật chất lẫn tinh thần do con người gây ra cũng nặng nề chẳng kém gì động đất sóng thần. Dư chấn của những “nhân tai” đó là sự sói mòn lòng tin nơi con người. Nhìn đâu cũng thấy giả hình, giả tạo, giả nhân, giả nghĩa, nên rốt cuộc chúng con chẳng còn biết tin vào ai nữa.

Mỗi ngày Chúa có theo dõi báo chí và thời sự trên tivi không? Con nghĩ là Chúa phải đọc phải coi để biết tình hình trong và ngoài nước. Không những thế, Chúa còn bỏ trời cao nhập thể làm người để chia sẻ thân phận con người của chúng con. Chúa hiểu con người hơn cả chúng con hiểu mình nữa. Chúa thấy rõ tấm lòng con người chúng con “sớm nắng chiều mưa”, thay đổi như chong chóng, ấy vậy mà Chúa vẫn tin tưởng con người, yêu thương con người. Thế nhưng chính con người lại không tin tưởng nhau, không chấp nhận nhau, nghi ngờ nhau và loại trừ nhau.

“Chúng ta thấy rằng ở đâu đó đã có khủng hoảng niềm tin trong thế hệ trẻ” Phó chủ nhiệm Ủy Ban Tư Pháp Nguyễn Đình Quyền phát biểu trước Quốc hội ngày 7-11-13, và cho rằng đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và bất ổn xã hội.

Đại biểu Nguyễn Bắc Việt còn nhấn mạnh hơn : “Khủng hoảng kinh tế sẽ vượt qua được nếu niềm tin vẫn còn, nhưng nếu để mất niềm tin là mất hết”

Phó chủ tịch quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn thêm vào mảng tối đó : “Tin sao được và làm sao tránh khỏi khủng hoảng lòng tin, khi cử tri nói rằng đi khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế thì bị chích đau hơn nếu không có tiền!”

Chúa ơi, thật là đau lòng “Khi y đức không còn thì nói gì đến chữa bệnh” phó chủ tịch UB Văn Hóa Giáo Dục Lê Như Tiến bình luận về vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, giám đốc thẩm mỹ viện Cát Tường ở Hà Nội, mang thi thể nạn nhân là chị Lê Thị Thanh Huyền chết tại thẩm mỹ viện của mình đến cầu Thanh Trì ném xác xuống sông Hồng để phi tang.

Về mặt giáo dục cũng chẳng hơn gì : “Một nền giáo dục với chất lượng thấp đã khiến bao nhiêu bậc phụ huynh phải ráng kiếm tiền cho con em đi nước ngòai học – tình trạng mà không ít người đã chua xót gọi là “tỵ nạn giáo dục”.

Đại biểu Trần Du Lịch khi thấy một nền kinh tế trồi sụt với những chính sách luôn bị thay đổi nên đã đề nghị quốc hội phải làm sao đó “để doanh nghiệp có niềm tin vào thị trường”.

Bước qua lãnh vực tôn giáo, niềm tin của người dân cũng bị lung lay khi  thấy nhiều người đến khu phố 2, phường Bình Đa, TP Biên Hòa thuê nhà trọ, rồi giả dạng nhà sư đi bán nhang. Khoác lên người chiếc áo thầy tu mầu nâu, cộng với tài khua môi múa mép, họ đã thuyết phục nhiều người mua nhang giá chừng 5000 ngàn đồng thành 30000 ngàn đồng. Các cơ quan chức năng biết mà chẳng làm gì được (Tuổi Trẻ 21-10-13).

Những người lừa đảo còn trục lợi cả trên những người đã khuất nữa. Ngày 28-10-13, công an tỉnh Quảng Trị đã bắt “Cậu Thủy” tự xưng là “nhà ngoại cảm” vì tội làm giả hài cốt, di vật, nơi chôn cất liệt sĩ để lừa đảo tiền của thân nhân liệt sĩ.

Cán cân công lý cũng bị sai lệch. Bao nhiêu người bị kết án oan ức. Biết tìm lẽ công bằng ở đâu? Ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, người bị án oan chung thân, phải thụ án đến 10 năm mới được trả tự do ngày 4-11-2013 nhờ nghi can vụ giết người là Lý Nguyên Chung ra đầu thú. Ông đã kể câu chuyện oan trái tù tội của mình bắt nguồn từ những lời khai bị ép cung, bức cung nhục hình trong thời gian ông bị giam giữ : “Họ làm mọi cách để tôi phải nhận tội”.

Trong lãnh vực ngoại giao giữa các nước cũng chỉ “bằng mặt mà chưa bằng lòng”. Các cường quốc trên thế giới vẫn đâu có tin tưởng nhau hòan toàn, vẫn đặt máy nghe lén tin tức của nhau. Trong cuộc tiếp kiến hơn hai giờ với ông John Kerry ngoại trưởng Mỹ vào tháng 11-2013, vua Abdullah người đứng đầu hoàng gia Saudi Arabia thẳng thắn nói : “Mối quan hệ thật sự giữa bạn bè là dựa trên sự chân thành, thành thật và thẳng thắn, hơn là chỉ bằng những hành động xã giao…”

Thánh Faustina viết : “Tôi rất ngạc nhiên vì sao người ta có thể ganh tỵ đến thế. Khi thấy điều lành của ai, tôi vui mừng như điều lành của chính mình. Niềm vui của người khác là niềm vui của tôi, và đau khổ của tha nhân cũng là khổ đau của tôi, nếu không làm sao tôi dám kết nghĩa thân tình với Chúa Giêsu. Tinh thần của Chúa Giêsu luôn luôn là đơn sơ, hiền lành, chân thành; mọi xấu xa ghen tỵ, và gian tà đội lốt nụ cười thân thiện chỉ là những con quỷ nhỏ ranh mãnh mà thôi…” (NK, 633)

Chúa Hài Đồng quý mến,

Chúng con vừa cử hành nghi lễ bế mạc Năm Đức Tin rất hoành tráng. Năm Đức Tin khép lại không có nghĩa là đức tin của chúng con đã “ngon rồi”, không cần phải quan tâm đến nữa, để đó đi làm chuyện khác. Đức tin không phải là phong trào nổi lên rầm rộ với đầy đủ nghi lễ, diễn văn, báo cáo thành tích, quay phim chụp ảnh đưa lên trang web, rồi sau đó “Amen, tắt đèn đi ngủ”, chuẩn bị cho chủ đề của năm kế tiếp. Nếu làm như thế thì rõ ràng trong việc đạo, chúng con cũng chỉ chạy theo phong trào như ở ngoài đời.

Trong bài thời sự và suy gẫm “Phong Trào Đừng Nên Làm Ào” đăng trên báo Tuổi Trẻ (30-7-13), Phạm Xuân Nguyên nhận xét : “Có những phong trào chỉ nặng tính hình thức, khoa trương, phát động mà không thực hiện, thực hiện mà không hiệu quả, hiệu quả mà không tương xứng tầm vóc, ý nghĩa phong trào. Bây giờ ở ta dễ có bệnh phong trào. Làm một việc gì cũng gọi là phát động phong trào, cũng ra quân, cũng trống gióng cờ mở, báo đài quay hình đưa tin, làm ào ạt. Nhưng rồi sau một thời gian phong trào xẹp xuống, việc đâu vẫn hoàn đấy, như các phong trào “đường thông hè thoáng”, an toàn giao thông, thực là như dân gian nói “bắt cóc bỏ dĩa”, đường vẫn tắc, lề đường vẫn bị chiếm dụng, xe cộ đi lại vẫn mất an toàn, luật giao thông vẫn bị vi phạm. Lại có những phong trào hô hào đông người chỉ để làm những việc hình thức, không đáng phải tốn sức như vậy, như đem 1000 thanh niên ra thi công 700m đường giao thông nông thôn ở xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội…người đứng chen chúc, cựa quậy đã khó nói chi đến việc vận chuyển vật liệu. Nhìn cảnh đó thì thấy thật là phô trương, hình thức, không cần thiết…Vậy xin có câu vè thế này : phong trào đừng nên làm ào. Cốt là hiệu quả chớ hao sức người.”

Chúa thấy nhà báo đó nhận xét sâu sắc đó chứ : “phong trào đừng nên làm ào”. Mỗi năm Giáo hội đưa ra một chủ đề để những người tín hữu sống và làm việc chứ không phải là xướng lên dấy lên một phong trào cho có tụ! Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Mà một trong những điểm rất quan trọng của việc thực hành đức tin chính là cầu nguyện.

Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ ngày 17-10-2013 tại nhà nguyện Thánh Mácta đã giải thích : “Khi không cầu nguyện là bạn luôn luôn đóng cửa. Chìa khóa mở cửa đức tin chính là việc cầu nguyện. Một Kitô hữu không cầu nguyện biểu hiệu cho một chứng nhân “kiêu ngạo, cao kỳ, tự tin nơi mình. Người này không khiêm tốn và chỉ tìm cách tự đề cao mình mà thôi.”

ĐTC lưu ý những ai “không cầu nguyện, thì bỏ rơi đức tin và biến đổi đức tin thành một ý thức hệ có tính cách luân lý và không có Chúa Giêsu…Sự hiểu biết Chúa Giêsu đã biến thành một kiến thức về một ý thức hệ có tính cách luân lý, và khép kín tất cả các cánh cửa…”

Đức tin được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện phải thúc đẩy người tín hữa mở toang các cánh cửa. Cửa lòng và cửa nhà thờ. Mặc dù chúng con viện lý do an ninh hay bất tiện để chỉ mở cửa có giờ giấc, nhưng ĐTC nhắc nhở “Một nhà thờ đóng cửa không thể chấp nhận được”, vì “mọi người đi ngang không thể bước vào” và “Chúa Kitô đang ngự bên trong, không thể bước ra ngoài.”

Nếu đức tin của con không thể hiện bằng hành động thì con cũng nhốt Chúa ở bên trong rồi. Không ai tin tưởng con. Không ai có thể bước qua cánh cửa lòng con để tương giao cảm thông chia sẻ. Con cũng chẳng muốn mở lòng để đến với ai vì con chẳng tin ai. Con khép kín tất cả các cánh cửa. Con là một hang đá Belem lạnh lùng quanh năm mùa đông tuyết phủ băng giá.

Hơn hai ngàn năm trước Chúa giáng sinh trong hang đá Bêlem đâu có cánh cửa hay hàng rào bảo vệ nào đâu. Ai muốn đến với Chúa cũng được. Chính vì thế mà những chú mục đồng khố rách áo ôm mới có cơ hội được đến kính viếng Chúa trong Đêm Cực Thánh đó. Nếu như bây giờ thì làm gì có cửa, phải không Chúa?

Để Năm Đức Tin không là một phong trào “chợt đến chợt đi”, trong ngày Thánh Mẫu 13/10/2013, ĐTC mời gọi con tự vấn : “Tôi là một Kitô hữu cầm chừng (a Christian by fits and starts), hay là một Kitô hữu toàn thời (a Christain full time) ?”

Quả thật như ĐTC nhận xét thứ văn hóa phù du đang chi phối đến cách thức sống đức tin của chúng con. Chúa đòi chúng con phải trung thành với Chúa. Cho dù đôi khi chúng con có bất trung bất tín thì Chúa vẫn trung thành với chúng con. Ngay cả những lúc yếu đuối, sa ngã phạm tội, Chúa luôn nâng đỡ, khuyến khích chúng con trở lại mà nói về nỗi yếu hèn của chúng con để Chúa ban sức mạnh cho chúng con đi hết cuộc hành trình. Chỉ cần chúng con tín thác vào Chúa.

Nếu là phong trào thì con chỉ cho Chúa “giáng thế” trong đêm Noel thôi, còn những ngày khác con cho Chúa “xuất thế”. Con mời Chúa đi chỗ khác chơi hay cứ nằm yên trong hang đá Bêlem để con muốn làm gì thì làm theo ý con cho thoải mái. Rồi mỗi năm con sẽ cho Chúa “xuống thế” một lần với hang đá ngôi sao lấp lánh bên tiệc tùng linh đình. Mỗi năm con đến bái thờ Chúa một lần như vậy là “phải đạo” rồi!

Cách hiểu và sống thứ văn hóa phù du ấy đã được ĐTC chấn chỉnh trong bài giáo lý 12/10/2013 tại quảng trường Thánh Phêrô. Việc nhập thể của Chúa Giêsu không phải là một biến cố của quá khứ để kỷ niệm không có liên hệ gì tới bản thân của chúng con. Việc tin tưởng vào Chúa Giêsu chính là việc con cống hiến cho Chúa xác thịt của con để nhờ đó Chúa có thể tiếp tục ngự giữa chúng con. Sống mầu nhiệm nhập thể là cống hiến cho Chúa đôi tay để chăm sóc những người nghèo hèn đói  khổ; đôi chân để bước đến gặp gỡ tha nhân; đôi tay để ôm ấp thành phần hèn yếu và làm việc trong vườn nho của Chúa; trí óc để suy tư và sống theo ánh sáng Tin Mừng; và nhất là cống hiến trái tim của con để yêu thương và chọn lựa theo ý muốn của Thiên Chúa.

Chúa ơi,

Con mong có ngày được như chị Thánh Faustina cảm nghiệm mầu nhiệm nhập thể là như thế nào. “Trong giờ thánh, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Vẻ oai nghi của Người xuyên thấu đến độ tôi phải thưa lên : ‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa còn quá bé nhỏ, nhưng con biết Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Thiên Chúa của con!’ Chúa Giêsu đáp lại : ‘Cha đúng là như vậy, và Cha vẫn đồng hành bên con như một con trẻ, cốt để dạy con bài học khiêm nhường và đơn sơ’.” (NK, 184)

Khép lại năm Đức Tin, thư Chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa ngày 10 tháng 10 năm 2013 đề cập đến nỗ lực “Tân Phúc-Âm-hóa” trong ba năm kế tiếp :

Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa đòi hỏi duyệt lại toàn bộ các sinh hoạt mục vụ ở tất cả mọi bình diện, nghĩa là phải thực hiện cuộc hoán cải từ trong tâm thức đến định hướng và phương pháp khi làm mục vụ” (số 4)

Con rất tâm đắc khi Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc triển khai việc “Tân Phúc-Âm-hóa” một cách rất cụ thể, thẳng thắn, với các Bề Trên Thượng Cấp trong hội nghị thường niên tháng 11-2013:

“Giáo hội tại Việt Nam trong thời hiện đại, chưa chu toàn đầy đủ sứ vụ loan báo Tin mừng. Có những cố gắng còn rời rạc, chưa được nối kết và hướng dẫn. Cần phải có một sự “chuyển mình thật mạnh dạn”, thật can đảm. Chuyển từ một loại “mục vụ bảo trì” (pastorale de maintien), gìn giữ và bảo vệ cơ chế, cơ sở, sang một “mục vụ truyền giáo” đích thực (pastorale missionnaire).

“Giáo hội là Giáo hội cho tất cả những ai cần “ơn cứu rỗi”, mà mọi người đều cần, dù ý thức hay không: những người chưa là Kitô hữu cũng như những người đang là. Chính vì thế mà có việc Phúc-Âm-hóa và việc Tân Phúc-Âm-hóa. Cần có một nhiệt tình mới, một phương pháp hay đường hướng mới, một cách diễn đạt mới trong việc loan báo Tin mừng. Cần phải Phúc-Âm-hóa mọi lãnh vực; những nơi nào chưa có đầy đủ ánh sáng, phải có ánh sáng (Ánh sáng Chúa Kitô), như những “vùng ven”, hiểu theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng; mọi “ngóc ngách của hữu thể”, mọi bình diện của cuộc sống.

“Mục vụ của Giáo hội phải là mục vụ của tình thương dịu dàng (pastorale de la tendresse), làm chứng cho sự dịu dàng của Thiên Chúa, một cách đặc biệt đối với các tội nhân. Cần đề cao và thi thành “mục vụ của lòng thương xót của Thiên Chúa (pastorale de la miséricorde). Mọi thành phần Dân Chúa, nhất là các mục tử, cần phải là những “Đấng an ủi khác” (alter Paraclitus): Hãy ủi an Dân Chúa và mọi người. Hãy mang niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người.

“Cần mạnh dạn triệt để canh tân nếp sống và cách làm việc của mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là của các thừa tác viên trong Hội thánh; cần chú trọng tới chất lượng của việc đào tạo nhiều hơn là số lượng. Phải củng cố và tăng cường “đời sống cầu nguyện” nơi mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là nơi các giáo sĩ và tu sĩ, vì ngày nay ảnh hưởng xấu của khuynh hướng “duy thế tục” quá nặng nề, ngay cả trong tu viện, chủng viện, trong đời sống gia đình cũng như giáo xứ.

“Quan trọng hơn cả vẫn là sự cần thiết phải có gương sáng trong lòng Hội thánh, nhất là gương sáng của các mục tử, các nhà đào tạo, các bề trên trong cộng đoàn, các phụ huynh trong gia đình.”

Gương sáng ấy chính là muối cho đời.

Trong bài giảng sáng ngày 23-5-13 tại nguyện đường Thánh Marta, ĐTC Phanxicô mời gọi các Kitô hữu hãy là “muối cho đời“. Đời người Kitô hữu phải là một cuộc sống sinh động với ‘hương vị‘ phản ánh đức tin, đức cậy, đức mến. Kitô hữu đừng trở thành những vật trưng bày trong bảo tàng viện :

“Căn tính Kitô không thuần nhất, nhưng thể hiện trên mỗi người chúng ta tùy theo cá tính, đặc điểm và văn hóa riêng của mỗi người. Ta cần bảo vệ căn tính Kitô vì đó là một kho tàng quý báu. Tuy nhiên, căn tính này còn mang đến thêm cho mỗi người một điều nữa: đó chính là hương vị!

“Đặc tính Kitô giáo mà chúng ta có được thật tuyệt đẹp. Nếu anh chị em tìm kiếm sự thuần nhất, và mọi người trở thành ‘muối’ trong cùng một cách thức, thì mọi thứ sẽ giống như người nội trợ nấu nướng nêm quá nhiều muối, người ta chỉ nếm được vị mặn của muối thay vì thưởng thức bữa ăn.

“Đặc tính Kitô giáo chính là: mỗi người là chính mình, với những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban tặng.

“’Muối cho đời này phải được chia sẻ với tha nhân. Nếu chúng ta cất giữ, nó sẽ trở nên nhạt nhẽo và ẩm ướt.”

Vâng, cảm ơn Chúa Hài Đồng,

Con phải là chính con, với hương vị riêng của con, với đặc sủng Chúa ban cho con, và con sẽ đem những ân huệ ấy chia sẻ với mọi người cho cuộc đời thêm đậm đà, cho tình người thêm nồng ấm và cho lòng tin còn mãi trên trái đất này.

Trong đêm Giáng Sinh, các Thiên Thần hát vang lời chúc;

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người Chúa thương”

Chúa yêu thương tất cả mọi người, không loại trừ ai. Chúa muốn ban bình an cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.

Tuy nhiên chỉ khi nào con có từ tâm, thiện tâm, thành tâm thì con mới lãnh nhận được bình an từ trời cao.

Khi lòng con đầy ác tâm, tà tâm, tà ý thì chính con khép tất cả các cánh cửa lại, làm sao nhận được bình an.

“Bình an dưới thế cho người thiện tâm…”

15 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

15 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

Lm. Trần Đức Anh OP

12/23/2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giáo Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.

7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh ‘ngồi lê đôi mách’, lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

13. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

14. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

15. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ – một điều mà LM này bịa đặt – về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

Ước mơ đêm Giáng Sinh

Ước mơ đêm Giáng Sinh

Chuacuuthe.com

VRNs (24.12.2014) – Đồng Nai – Con người luôn có những hoài bão và ước mơ. Hoài bão về quá khứ huy hoàng. Ước mơ về tương lai tương sáng. Chính những hoài bão, ước mơ ấy đã thúc đẩy con người dấn thân để xây dựng một thế giới an bình, thịnh vượng hơn. Cho dù phải đương đầu với thách đố và hiểm nguy.

Ngày 28/8/1963, mục sư Martin Luther King đã phát biểu bài diễn văn hay nhất thế kỷ với tựa đề: “Tôi có một giấc mơ”. Ông đã nói với hơn 200.000 người, trước đài tưởng niệm Lincohn. Ông kêu gọi thực hiện sự bình đẳng giữa những người khác màu da và chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc. Nhân đó, ông đã nói về những ước mơ của mình, cũng là ước mơ của nhiều người Mỹ:

141223004

Ông nói:

Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày, trên những ngọn đồi vùng Georgia, con cái của nô lệ và chủ nô cũ có thể ngồi với nhau như anh em.

Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày bốn người con của tôi sẽ  được sống trong một đất nước, nơi chúng sẽ không bị đối xử bằng màu da mà bằng chính thực chất con người chúng.

Diễn văn đầy nhiệt huyết của ông đã gióng lên hồi chuông, hiệu triệu và cổ vũ nhân loại đứng lên chống lại việc đối xử bất công, tàn nhẫn đối với một lớp người, vốn đã ăn sâu, bám rễ trong lòng xã hội Mỹ.

Ước mơ của ông dường như đã thành hiện thực khi mà Nước Mỹ đã bỏ phân biệt màu da. Người da đen có thể làm chính trị và thậm chí đã giữ chức vụ to lớn nhất Nước Mỹ là đương kim tổng thống Obama.

Vâng, ước mơ hòa bình, ước mơ được đối xử bình đẳng vẫn là ước mơ của con người qua mọi thời đại. Ước mơ không chỉ là một tương lai chưa đến mà là một hoài bão của con người mong được hưởng những quyền lợi mà tạo hóa ngay từ lúc tạo dựng đã ban tặng. Thiên Chúa tạo dựng ban đầu mọi sự đều tốt đẹp. Vạn vật và con người là khúc nhạc  hài hòa. Con người tràn ngập hạnh phúc trong vườn địa đàng. Thế nhưng, mọi sự đã trở thành hoài bão khi mà con người quay lưng lại với Đấng tạo hóa. Con người theo ma quỷ để từ chối quyền tối thượng của tạo hóa. Hậu quả là con người sinh ra phải đau khổ và phải chết. Tệ hại hơn nữa là vạn vật đứng lên chống lại con người.

Ước mơ được sống lại giây phút ban đầu nơi vườn địa đàng đã đi vào trong lòng người qua muôn thế hệ. Con người vẫn khao khát. Con người vẫn chờ mong được sống những giây phút bình yên hoan lạc của vườn địa đàng. Lời cầu nguyện trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời dường như là một khắc khoải khôn nguôi của con người mong đến ngày trời đất giao hòa, vạn vật và con người cùng chung niềm vui vì có Thiên Chúa hiện diện giữa con người.

Hôm nay chúng ta tưng bừng mừng kỷ niệm việc Con Thiên Chúa xuống trần. Thiên Chúa đã đến trần gian để thực hiện ước mơ hoài bão cho con người, để giao hòa trời với đất,  để trao lại cho con người  quyền làm con Thiên Chúa. Từ nay Thiên Chúa không xa cách biệt con người. Từ nay Thiên Chúa chọn chốn dương gian làm ngôi nhà của mình. Thiên Chúa ở giữa nhân loại để những ai đón nhận Người thì Ngài sẽ ban cho họ ngập tràn ánh sáng của niềm vui và hạnh phúc. Bình an và hoan lạc sẽ ngự trị nơi tâm hồn những ai thành tâm thiện chí đi tìm Ngài.

Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Đây là niềm vui, niềm hạnh phúc vì nhờ cuộc viếng thăm này mà thân phận con người được đổi thay. Từ nay Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Đồng thời, khi con người chấp nhận mở lòng cho Thiên Chúa viếng thăm cũng là lúc mời gọi con người dũ bỏ bỏ thói đời tội lỗi để mặc lấy con người mới trong ân sủng của Chúa. Đó là cách chúng ta có bình an tâm hồn. Bình an là điều ai cũng khao khát chờ mong. Nhưng bình an không ở xa mà ở tại lòng người thiện chí, biết thành tâm thiện chí theo đường thiện, biết tìm kiếm Chúa là cứu cánh đời mình.

Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.

Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.

Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Tranh Giành Quyền Lực, Trăm Dâu Đổ Xuống Đầu Tằm

Tranh Giành Quyền Lực, Trăm Dâu Đổ Xuống Đầu Tằm

Nguoi-viet.com

Người Buôn Gió
Người Buôn Gió, tác giả các câu chuyện “Đại vệ chí dị” đang ở Đức Quốc. Ông được một thành phố nước này mời sang ở một thời gian để có chỗ yên tĩnh viết văn. Thỉnh thoảng ông vẫn viết trên trang facebook những cảm nghĩ của ông về các vấn đề thời sự tại Việt Nam. Bài dưới đây là một.

Chính trường Việt Nam ngày trở nên khốc liệt khi sát đến ngày thành lập lực lượng quân đội Việt Nam.

Sĩ quan cao cấp quân đội CSVN dự đại hội đánh dấu 70 năm thành lập tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia ở Hà Nội ngày 20/12/2014. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng trong vai trò quân uỷ trung ương đã có một bài phát biểu nhấn mạnh việc quân đội phải do Đảng tức cá nhân ông kiểm soát. Trong bài phát biểu của mình ông có chút chia sẻ quyền lực với vai trò chủ tịch nước của ông Trương Tấn Sang.

Cùng ngày hôm đó, ông Trương Tấn Sang phong hàm thượng tướng cho 3 trong 4 tướng chuyên trách việc vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội.

Cũng trong bài phát biểu của mình, ông Nguyễn Phú Trọng lại một lần nữa đem thế lực thù địch chống phá chế độ ra làm biện minh cho việc Đảng vì sao phải chỉ huy chắc được quân đội. Một cách biện minh cũ mèm hết từ năm này sang năm khác.

Hành động và phát ngôn của ông Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước nổi bật trong ngày 19/12/2014 đã khiến vai trò của Chính phủ do ông Nguyễn Tấn Dũng bị lu mờ. Cảm giác như ông Dũng không được chia sẻ quyền lực điều hành quân đội.

Từ Thái Lan trở về, ngay hôm sau tức ngày 20/12/2014 ông Nguyễn Tấn Dũng chủ trì tổng kết kết quả năm 2014 của Bộ Công An. Cũng trong một chiêu bài tương tự như ông Nguyễn Phú Trọng, ông Dũng mang hình ảnh các “tổ chức chính trị đối lập trong nước” để che đậy sự kiểm soát Bộ Công An của mình.

http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/212928/khong-de-hinh-thanh-to-chuc-chinh-tri-doi-lap-trong-nuoc.html

Trở lại về những cái gọi là Thế Lực Thù Địch (TLTD) và Tổ Chức Chính Trị Đối Lập (TCCTĐL) mà các lãnh đạo hàng đầu vẫn chăm chăm đối phó là những tổ chức thế nào, liệu các tổ chức này có nguy hiểm, ghê gớm đến mức độ như các vị lãnh đạo nói hay không?

Chúng ta thử nhìn xem một tổ chức được Bộ Công An phá cách đây vài năm, một tổ chức mà báo chí vẽ ra thật ghê gớm và đáng sợ. Tổ chức đó gồm những ai. Đó là Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung. Không cần phải đến tận nhà, gặp tận mặt những con người “ghê gớm tưởng như có lực lật trời, nghiêng đất”‘ này.

Chỉ cần chúng ta theo dõi họ trên Facebook hay Internet thì thấy ngay những thư sinh trói gà không chặt. Tìm mỏi mắt không thấy những “âm mưu toan tính” nào trong những dòng trạng thái hay bài viết của họ. Cùng lắm chỉ dăm ba câu bóng gió hoặc vài lời chỉ trích ngắn ngủi. Những con người ấy chúng ta có thể cảm nhận bằng mắt, bằng tai luôn để xem họ “nguy hại” thế nào cho an ninh đất nước.

Một tổ chức nữa cũng được Bộ Công An phối hợp với các bộ khác bắt gọn, đó là Hội Đồng Công Án Bia Sơn ở Phú Yên chỉ rặt mấy ông già, đang xây dựng khu sinh thái trên núi, có chút thuốc nổ để phá đá. Thứ thuốc nổ có thể thấy bất cứ nơi nào tại Việt Nam gần những mỏ đá hay những nơi cần phá đá.

Thế mà mấy ông già đó được vẽ thành một tổ chức đang xây dựng căn cứ quân sự nhằm dùng vũ lực chiếm chính quyền. Chuyện quá hoang đường nhưng báo chí Việt Nam vẫn vẽ được cho khối người tin.

Rồi một đám đủ loại người tự phát biểu tình chống Trung Quốc, ngay đến cả cái lý do cao cả là chống ngoại xâm, chỉ biểu tình chứ không phải làm gì khác. Kéo dài mãi cũng chỉ loanh quanh vài trăm người. Bị bắt bớ, đánh đập vài lần là tan cuộc.

Thử nhìn xem Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Hội Nhà Báo Độc Lập, Con Đường Việt Nam….liệu làm được cái gì để lật đổ chế độ này. Dăm ba bài viết trên mạng bị ngăn tường lửa hay ddos là liêu xiêu. Vài cái bản kiến nghị thu thập chữ ký, giơ ảnh ngồi trong nhà phản đối rồi đưa lên mạng thì bao giờ lông chân chế độ này rụng.

Đây không phải là hạ thấp các tổ chức này, nhưng phải khẳng định cách đấu tranh ôn hoà, mục tiêu cải cách, cải thiện chế độ với phương pháp hoà bình, dùng ngôn luận của họ được đăng tải trên vài trang mạng thì làm sao có thể biến thành một Thế Lực Thù Địch hay Tổ Chức Chính Trị Đối Lập để tiếm quyền thay đổi chế độ. Liệu sự tuyên truyền của những tổ chức này đến bao giờ lan toả được trong dân chúng, thúc đẩy dân chúng hành động.

Trong khi dân chúng thì đi hôi bia ở một xe tai nạn, mà chả cần ai kêu gọi. Trong khi chỉ cần một cửa hàng bán đồ ăn miễn phí ngay lập tức cuốn hút hàng nghìn bạn trẻ đạp lên nhau để chen vào bốc thức ăn, một ngôi sao ca nhạc thốt một lời có hàng nghìn chia sẻ, mấy chục nghìn người like hưởng ứng. Chưa kể một đại gia hứng lên tuyên bố miễn phí vé khu du lịch là cả chục ngàn người chen nhau tắc đường để được đến vui chơi.

Chỉ cần một cô gái cởi áo ngực đưa hình ảnh lên mạng là thu hút gấp vài trăm đến vài nghìn lần những lời kêu gọi cải cách này nọ của các tổ chức xã hội tự phát đưa ra. Chả cần đến bộ máy tuyên truyền 700 tờ báo, mấy chục ngàn tuyên truyền viên, dư luận viên, cộng tác dư luận viên, mặt trận, tổ dân phố, hội phụ nữ, cựu chiến binh…ra tay.

Nhìn thực sự thì các Tổ Chức Chính Trị Đối Lập, Thế Lực Thù Địch mà các ông lãnh đạo vẽ không ghê gớm như thế, cũng chả thù hận chồng chất nào để biến đất nước này thành đám nồi da xáo thịt. Với mục đích muốn dùng tiếng nói để cải thiện cách cư xử bất công, băng hoại đạo đức, tham nhũng, nêu cao tinh thần trách nhiệm với dân tộc và lòng yêu nước qua những biện pháp ôn hoà dùng ngôn luận. Các tổ chức mà chúng ta đang thấy không bao giờ phải gọi là Thế Lực Thù Địch, Tổ Chức Chính Trị Đối Lập về bản chất mục đích cũng như hành động lẫn thực lực của họ.

Gọi như thế là vu cáo, là xuyên tạc, là lừa bịp.

Gọi như thế là giống bọn thầy mo bịa ra ma xó, bọn thầy cúng bịa ra vong về, bọn thầy pháp bịa ra quỷ hòng để reo rắc sợ hãi, qua đó chế ngự tính phản kháng khoa học của con người. Bọn buôn thần bán thánh này tự cho mình là được trời đất ban cho quyền giúp dân đối phó với ma quỷ, rồi nhờ sự sợ hãi của nhân dân mà chúng bắt cung phụng, lễ nạp, dâng hiện vật. Chưa đủ chúng còn tạo ra những tay chân để phục vụ mưu đồ của chúng bằng thủ đoạn tuyên truyền ma quỷ, hay quy ai là ma quỷ dùng vũ lực trừng phạt.

Vấn đề là ở nước ta bọn thầy mo, thầy pháp, thầy cúng quá nhiều. Cho nên càng ngày càng phải vẽ ra thêm những ma quỷ, vong hồn. Càng ngày càng phải tạo thêm nhiều tay sai để tranh giành, đề phòng nhau. Liên miên bao nhiêu năm từ lúc sơ khai đến thời đại thông tin hiện đại hoá mà ma, quỷ vẫn hiện hình khắp nơi, lễ bái, cầu cúng làn tràn khắp nơi, quanh năm suốt tháng.

Chúng ta thử nhìn có bao nhiêu lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ này. Ai đếm nhanh tổng số các cục an ninh trong bộ Công An, các ban tuyên huấn, vụ tuyên giáo, tổng cục trong quân đội, cục, vụ, phòng, ban trong Đảng….? Hằng hà đa số công khai và cả không công khai các cơ quan, tổ chức trang bị vũ khí, thiết bị hiện đại, ngân sách và nhân lực dồi dào để làm việc đó.

Khi mà lính lác đông, vũ khí dư thừa mà không có địch, sẽ e ngại dẫn biến. Thế là vẽ ra các thế lực thù địch, biến mấy thằng thư sinh trói gà không chặt, mấy con đàn bà một nách hai ba đứa con, mấy ông già sắp chết lụ khụ thành thế lực thù địch, thành tổ chức chính trị đối lập….để vừa hợp thức hoá chuyện xây dựng lực lượng bảo vệ, vừa cho các lực lượng này có việc để làm.

Đến lúc sắp đại hội bầu bán, thanh trừng nhau thì ông nào ông nấy dùng chiêu bài TLTD cả TCCTĐL để nắm quyền điều khiển các tổ chức vũ trang, gây sức ép cho nhau. Thế mới có chuyện Cảnh sát cơ động đi bắt ngân hàng, an ninh đi bắt vũ trường, khách sạn. Bọn băng nhóm hình sự dưới mác công ty lại do an ninh kinh tế bắt chứ chẳng phải cảnh sát kinh tế hay hình sự. Đấy là thanh trừng tay chân của nhau, tiện quản lý lực lượng thì sai lực lượng đó đi.

Lúc ngang cơ tranh nhau kiểm soát đi bắt người đã đành, lúc thế yếu hơn, cũng quay ra đi bắt người để lập công. Thế là mạnh thì cũng bắt người, yếu cũng đi bắt người. Không có người bắt thì vẽ ra mà bắt.
Vì vậy mới có Thế Lực Thù Địch, Tổ Chức Chính Trị Đối Lập Chống Đối. Mới có vô số tổng cục, cục, vụ, ban, ngành…vũ trang, thiết bị.

Trăm dâu lại đổ xuống đầu tằm.

Đm nguy hiểm chống phá như thằng Người Buôn Gió cũng đéo chống nổi bao lâu nữa, không cần xử lý thì dăm ba tháng nữa cũng phải đi quyét tuyết, rửa bát dành tiền để về có chút vốn làm ăn. Lực đâu ra mà chống nổi mãi. Ai mà bỏ tiền nuôi cho nó mãi để hàng ngày căng đầu viết bài chống phá.

Đêm Havana & Ngày Hà Nội

Đêm Havana & Ngày Hà Nội

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Có nơi nào trên trái đất này

Mật độ đắng cay như ở đây?

Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.

Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…

Có nơi nào trên trái đất này

Mật độ yêu thương như ở đây?

Mỗi tấc đất có một người qùi gối

Dâng trái tim và nước mắt

Cho nỗi đau của cả loài người …

Phùng Quán

Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến chuyện phiêu lưu tới một nơi xa xôi, lôi thôi và tai tiếng (tùm lum) như thế. Đã thế, đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ!

Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ và nghe sao là nói vậy. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ làm mích lòng cả đống người. Tôi biết vậy nhưng không thể nào nói khác vì những điều mà tôi được nghe kể về Hà Nội (thường) không có gì là đàng hoàng hay tử tế –  đại loại như:

“Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:

– Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.

– Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”

“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá (Phạm Xuân Đài. Hà Nội trong mắt tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).

Trời đất, đó là chuyện nhỏ và chuyện cũ (rích) rồi – từ hồi thế kỷ trước lận – bới móc ra làm chi nữa, cha nội ? Thì rành rành là chuyện bây giờ, thế kỷ XXI đây nè, Hà Nội vẫn cứ y chang như hồi đó – chớ có khác (mẹ) gì đâu:

“Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….”

“Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa thế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện ‘chủ nghĩa xã hội ưu việt’ trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này” (Bùi Bích Hà, “Nhìn lại quê hương,” Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).

Phạm Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, tha phương cầu thực, cù bơ cù bất, ở tận California hay đâu đâu đó. Cả hai chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi. Biết (khỉ mốc) gì đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?

Nguyễn Huy Thiệp thì khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của Hà Nội (nói riêng) và của cả nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô “mến yêu của ta.”. Trong tác phẩm Tuổi hai mươi yêu dấu, nhà văn  đã mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau:

“Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.”

Ý, trời đất, quỉ thần, thiên địa ơi! Giữa Thời đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong lòng thủ đô Hà Nội – nơi mà cách đây chưa lâu người ta vẫn còn phải nhai rón rén khi ăn – mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ) như vậy thì kể như là… hết thuốc!

Và Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) như thế trên thế giới này. Tôi nghe kể là ở thủ đô của Cuba – một nước anh em xã hội chủ nghĩa – tình trạng cũng bết bát, và bệ rạc không kém:

“Ở La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xã hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền xanh, bên cạnh thế giới mệt nhoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về một cái ngân phiếu” (Trần Công Sung,” Cuba Sí, Cuba No,” Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).

Đó cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt – bây giờ! Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh) tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả hai đều đã tin tưởng rằng sẽ giành lại được độc lập và tự do bằng con đường… cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở (và chết dở) trong lòng cách mạng!

Ví von mà nói thì Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem, song sinh, trong một gia đình khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải lòng đúng đồ phải gió, và đã trao duyên lầm… tướng cướp! Và quí vị tướng cướp này đang làm cái công việc mà họ mệnh danh giữ hoà bình cho thế giới – nếu trích theo nguyên văn lời của ông Nguyễn Minh Triết, nguyên chủ tịch nước Việt Nam:

Có người ví von, Việt Nam – Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới! Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ…”

Havana, tuy thế, vẫn còn “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào lúc có mặt trời – theo lời của Trần Công Sung:

“Đêm xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở những khu bình dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có tiếng nhạc, giọng hát…”

Nói cách khác là ban đêm thì dù Việt Nam có gác hay không, Cuba vẫn nghỉ.

Cho nó khoẻ!

Vẫn theo như nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana “có một cái gọi là cái hồn (“âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi còn tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ nghĩa Xã hội (đang muốn “chuyển qua từ trần”) ở đất nước này.

Hà Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng chỉ còn sống thoi thóp ở nơi này. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đã đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả.

Tình trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích Hà – qua bài báo thượng dẫn: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.”

Cách đây không lâu – trên diễn đàn talawas – khi được hỏi “phải hình dung thế nào về văn hiến Thăng Long,” giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: “Gần đây có một vị viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng.”

Thiệt, nghe mà… hết hồn luôn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ thứ XVI mà khí phách và hồn phách vẫn còn lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy của người dân – dù nơi đây công an (chắc) không ít hơn Hà Nội. Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật, lừng lẫy cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền và bạo lực (có vài chục năm) mà đã “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” hết thế sao?

Tôi không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực đã hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng những chú lính gác cửa của Bắc Kinh (hay còn có tên gọi mới, dễ thương hơn, là “những kẻ canh giữ cho hoà bình thế giới”) chưa bao giờ thực sự nhìn ra được cái hồn của đất Thăng Long, chớ đừng nói chi đến chuyện họ “đụng” được tới nó.

Do tình cờ, tôi có lần (may mắn) cảm thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn hộ nhỏ – ở ngõ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái – của một người đàn bà tên Sợi.

Chị Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngõ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.

Chị Sợi bán hàng không đủ thunhập để nuôi mình, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ chết nên – đôi lúc – buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống cấp” của người đàn bà đã quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách hàng duy nhất: đám ăn mày.

“Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.

Anh đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.

Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.

Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi…

Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. Án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.

– Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.

Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:

Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.

Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.

– Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.

Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.

……

Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói:

– Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết.

Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!

Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:

– Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.

– Em biết quê bà ở đâu mà tìm?

– Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.

Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”

Chị Sợi, anh què – cũng như bà Mít – cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi hát, hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp, như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập ngụa phân người giữa lòng Hà Nội.

Chính ở những nơi tăm tối này, họ đã giấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân tộc qua từng nhịp thở và nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn lai láng (như thế) khi viết những dòng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt Nam hơn nửa vòng quả đất.

Sau khi đọc xong “Truyện không tên,” tôi đã viết thư cảm ơn tác giả vì đã mở cho tôi thấy cái hồn của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự – thế thôi.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A và đoàn đại biểu Diễn đàn XHDS viếng cố nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ảnh và chú thích: http://danquyenvn.blogspot.

Bùi Ngọc Tấn đã ra người thiên cổ nhưng chị Sợi, anh Què vẫn còn đang sống tại Hà Nội. Nơi đây, không phải lúc nào ra ngõ cũng gặp anh hùng hay gặp một ông (hoặc một bà) tiến sĩ. Đôi khi, chúng ta vẫn gặp được những mảnh hồn của mảnh đất này nhưng không có cơ duyên để nhận biết thôi.

Tổng thống Mỹ cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giúp Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ

Tổng thống Mỹ cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giúp Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ

Dongten.net

10603583_1589041321326421_8493729717557828970_n

Trong bài diễn văn trên truyền hình hôm qua, thứ tư ngày 17/12/2014, tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên tiếng ca ngợi và cám ơn những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong việc tìm kiếm giải pháp tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cuba.

Ông Obama cho biết Đức Giáo hoàng đã gửi thư riêng cho hai nhà lãnh đạo Mỹ và Cuba, qua đó hối thúc 2 nhà lãnh đạo tìm kiếm giải pháp trả tự do cho Alan Gross, một công dân Mỹ bị Cuba cầm tù.

“Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một lời kêu gọi cá nhân đến tôi và chủ tịch Cuba Raul Castro để hối thúc chúng tôi giải quyết trường hợp của Alan,” Ông Obama cho biết.

Cuối bài diễn văn, ông Obama đã gửi lời cám ơn Đức Phanxicô vì gương sống của ngài.

“Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì đời sống đạo đức của ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải dấn thân cho một thế giới nên là chứ không phải đơn thuần bằng lòng với một thế giới như hiện tại.”

Trong một động thái tương tự, ông Raul Castro, chủ tịch Cuba phát biểu trên truyền hình đã ngỏ lời cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự kiện mang tính lịch sử khi Cuba và Mỹ bình thường hóa quan hệ.

Chỉnh Trần, S.J.

Biên dịch

Lịch sử những ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng thế giới

Lịch sử những ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng thế giới

http://baomai.blogspot.com/

Chỉ còn ít ngày nữa là mùa Giáng Sinh, một trong những ngày lễ hội mang tính tôn giáo lớn nhất hành tinh sắp sửa về. Và trong chương trình âm nhạc kỳ này, chúng tôi xin được cùng quí vị một lần nữa điểm lại sự ra đời của những ca khúc Giáng Sinh bất hủ tiêu biểu.

Silent Night

http://baomai.blogspot.com/

Silent Night, đây được xem là một trong những thánh ca lâu đời nhất, do một cha xứ người Áo viết năm 1817. Xác định sự ra đời của ca khúc này là cả một sự tranh cãi kéo dài… mãi cho đến năm 1995, khi người ta tìm được bản chép tay của bài nhạc thì tác giả mới chính thức được công nhận, đó là linh mục nghèo mang tên Joseph Morh với phần soạn nhạc của một thầy giáo trường làng Franz Gruber.

http://baomai.blogspot.com/

Hơn 40 năm sau đó, 1895 ca khúc này được linh mục John Young dịch sang tiếng Anh và bài hát nhanh chóng đến với công chúng, nhất là trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến, quân đội của cả 2 bờ chiến tuyến Anh và Đức đều có thể hát được theo 2 ngôn ngữ riêng.

http://baomai.blogspot.com/

Người ta nói rằng, những giai điệu thiêng liêng, trong trẻo ngân vang như tiếng thở đêm đã phần nào xoa dịu nỗi đau thể xác của binh lính khi đó… Giờ đây, gần 200 năm sau, Silent Night đã được dịch ra hơn 140 thứ tiếng và bản gốc đã được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2011.

httpv://www.youtube.com/watch?v=xRQzyAPfsIg

The First Noel

http://baomai.blogspot.com/

Cùng với Silent Night, bản The First Noel cũng thường được vang lên báo hiệu mùa Giáng Sinh đã về. Các nguồn tài liệu nói về sự ra đời bài hát này rất khác nhau, có nơi nói rằng bài hát này ra đời ở Pháp bởi có chữ Noel, nhưng có tài liệu khác lại cho rằng bài hát bắt nguồn từ xứ Cornwall của nước Anh.

http://baomai.blogspot.com/

Có thể nói The First Noel là một trong những bản nhạc Giáng Sinh ra đời sớm nhất, nó xuất hiện từ thế kỷ 16, thế nhưng đến nay nó không hề bị quên lãng. Bài hát ca ngợi sự tinh túy của lễ Giáng Sinh, là hồi chuông hân hoan loan báo tin vui ngày Chúa giáng trần, ca khúc mang chất dân ca… Lúc đâu người ta cho rằng bài hát có tên The First O Well hay The First Nowell, bài hát gần đây được trình bày thành công qua tiếng hát của nhóm Celtic Woman của Ireland.

httpv://www.youtube.com/watch?v=mawwURNqPC0

O Holy night

http://baomai.blogspot.com/

Cùng với chất nhạc nhẹ nhàng, ngân vang rung lên hòa nhịp với tiếng chuông ngân đổ dồn đêm Giáng Sinh, người ta không thể không nhắc tới O Holy Night.

Ca khúc này khởi nguồn từ nước Pháp, theo lời yêu cầu của một linh mục không tên tuổi, do một thi sĩ viết và một người Do Thái phổ nhạc… lần đầu tiên ca khúc được cất lên là vào năm 1847, đây là một trong những bản thánh ca được thu âm và trình diễn nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc với hàng trăm triệu đĩa hát do nhiều tên tuổi lẫy lừng trình bày.

http://baomai.blogspot.com/

Một trong những người đã trình bày rất thành công là Celine Dion, cô đã đáp ứng được độ khó và yêu cầu khắt khe về âm nhạc, nhạc cảm để đưa O Holy Night – Đêm Thánh Vô Cùng trở thành một dấu son trong sự nghiệp biểu diễn.

httpv://www.youtube.com/watch?v=q5n6X9sUznI

Jingle Bells

http://baomai.blogspot.com/

Khác với chất nhạc thánh ca trầm buồn, nhiều bản nhạc viết về Giáng Sinh nổi tiếng khác lại mang không khí vui tươi của lễ hội lớn nhất hành tinh. Trong số những bài hát vui nhộn này, Jingle Bells – Tiếng Chuông Ngân không thể bỏ qua.

http://baomai.blogspot.com/

Jingle Bells do nhạc sĩ James Lord Pierpont sáng tác năm 1857, rất nhiều bản cover với nhiều thể loại khác nhau đã xuất hiện như jazz, rock, pop… nhưng rõ ràng giai điệu nguyên thủy vui tươi vang ngân của tiếng chuông, thúc giục người người hãy hòa mình vào thiên nhiên, trời đất đón một mùa giáng sinh an lành vẫn được yêu mến hơn cả. Trong Jingle Bells người ta thấy được trọn vẹn bức tranh của ngày lễ Giáng Sinh với ông già Noel cưỡi xe tuần lộc, màu trắng của tuyết, màu xanh của thông, màu đỏ của ông già Noel và hơn hết là tiếng chuông ngân vang đổ dồn từ những giáo đường.

httpv://www.youtube.com/watch?v=p07T4dlw2cc

Joy to the World

http://baomai.blogspot.com/

Cùng để ngợi ca Chúa hài đồng, Joy To The World – Phước Cho Nhân Loại cũng là một trong những ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng khác mà được rất nhiều người mến mộ. Nội dung bài hát là thông điệp chuyển tải niềm vui và tinh yêu thế chỗ cho những tội lỗi và đau buồn.

http://baomai.blogspot.com/

Dựa trên ý tưởng từ Kinh Thánh, lời của ca khúc do Issac Watts viết nên và phần âm nhạc được Lowell Mason đưa vào. Người ta nói rằng bài hát lần đầu được thu âm là năm 1954 và đĩa ghi âm nổi tiếng của Joy To The World là bản hòa tấu dưới sự điều khiển của Percy Faith và đến hôm nay thì Joy To The World vẫn luôn thuộc top đứng đầu trong những bảng xếp hạng về nhạc Giáng Sinh hay nhất.

httpv://www.youtube.com/watch?v=O5hj518Iugk

Từ Anh chị Thụ Mai gởi

NHỮNG NGƯỜI ĐẠO SĨ

NHỮNG NGƯỜI ĐẠO SĨ

A – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ NHẤT

Tôi tên là Gaspar, một trong ba người đạo sĩ đã đến dâng của lễ bên máng cỏ ở Bêlem.  Hai người bạn của tôi là Melchior và Balthazar.

Từ lâu rồi, tôi mãi ngắm nền trời sao, và hôm ấy, ngôi sao tôi chờ đợi xuất hiện.  Các bạn từng có hình ảnh về sao lạ ở Bêlem, nên các bạn hình dung đó là một ngôi sao khác thường, với một cái đuôi thật dài chỉa thẳng về hang đá.  Một ngôi sao mà không ai có thể nhận lầm được.

Xin thưa với các bạn, nếu các bạn nghĩ như thế thì các bạn lầm rồi đấy.  Ngôi sao ấy không khác với các ngôi sao bình thường đâu.  Tôi đã chờ đợi nó từ bao nhiêu năm trường mà khi xuất hiện, tôi vẫn còn do dự.  Tôi đã chỉ cho bao nhiêu người xung quanh, cho bà con họ hàng, cho thân bằng quyến thuộc.  Họ chỉ nhìn thoáng rồi thôi.  Họ bảo rằng giữa hằng hà sa số tinh tú trên trời thì ngôi sao ấy cũng chẳng có gì đặc biệt.  Không ai chịu lên đường với tôi, rốt cuộc tôi phải đi một mình.  Không ai muốn đặt niềm tin vào một vì sao, mà xét cho cùng, có thể chỉ là một ngôi sao như trăm ngàn ngôi sao khác.  Nhưng riêng tôi thì tôi phải ra đi, bởi vì tôi không thể đặt ngôi sao ấy đồng hàng với những ngôi sao bình thường được.

Khi gặp được Melchior và Balthazar, niềm phấn khởi của chúng tôi có gia tăng.  Nhưng dù sao cũng chỉ là ba người thức giấc bước đi trong đêm tối cố theo một ngôi sao, trong khi mọi người khác đang yên hàn trong giấc ngủ.  Càng đi chúng tôi càng mệt mỏi.  Khi thể chất mệt nhoài, thì tinh thần cũng sa sút, và những gì chúng tôi tin tưởng lúc khởi hành cũng dần dần nhạt phai.  Nhất là khi trên nền trời hiện ra nhiều vì sao mới, sáng sủa hơn, đẹp đẽ hơn, gần gũi hơn.

Thế nhưng chúng tôi cũng bám vào ngôi sao ban đầu, bám vào một cách cố chấp, vì chúng tôi đã tự hứa sẽ trung thành với ngôi sao đã thúc dục chúng tôi lên đường.

Rồi chuyện bi đát đã xảy ra: Ngôi sao của chúng tôi đã biến mất.  Bây giờ chúng tôi mới thực sự cô đơn.  Ba chúng tôi nhìn nhau không dám nói một lời.  Chúng tôi không tìm ra lời nào để khích lệ nhau.  Đức tin thúc dục chúng tôi đi tới, lý trí bảo rằng chúng tôi phải quay về.  Và chúng tôi im lặng đi bên nhau, cô đơn giữa những người cùng chí hướng.  Chúng tôi bước đi trong đêm tối, đêm tối trên trời, và đêm tối trong lòng.  Với tâm trạng đó, chúng tôi tiến về Giêrusalem.

Đến Giêrusalem, chúng tôi cảm thấy mình như rồ dại.  Chúng tôi chờ đợi một Giêrusalem tưng bừng mở hội đón chào đấng Messia, nhưng trái lại chúng tôi bắt gặp một Giêrusalem hờ hững.  Giêrusalem là nơi phát xuất Kinh thánh, là nơi của Lời hứa, vậy mà Giêrusalem chẳng hay biết gì cả.  Điều này chứng tỏ rằng chúng tôi đã sai lầm, chúng tôi đã bị một ngôi sao vớ vẩn nào đó đánh lừa. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn tiếp tục.  Chúng tôi sẽ đi ngược lại với mọi chứng cớ, vì chúng tôi là những người đã bị một vị sao trên trời cuốn hút; chúng tôi không thể lùi lại.  Chúng tôi sẽ là những người khôn ngoan nhất hoặc sẽ là những người rồ dai nhất.

Chúng tôi phải bước tới.  Đến gặp Hêrôđê.  À! thì ra cũng còn một người thức tỉnh.  Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi, ông cho gọi các luật sĩ đến chỉ đường cho chúng tôi về Bêlem; ông mời chúng tôi trở lại báo tin cho ông biết để đi thờ lạy …

Mãi sau này chúng tôi mới biết được rằng vì quyền lợi mà ông thức tỉnh chứ không phải vì niềm tin.  Thì ra người ta dễ dàng thức tỉnh vì quyền lợi hơn là vì niềm tin.  Bởi thế mà Hài Nhi đã bị kết án tử hình trước khi chúng tôi đến thờ lạy.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về Bêlem như những người say, dân chúng Giêrusalem đang tựa cửa đứng nhìn.  Chúng tôi đã bao nhiêu đêm ngày lặn lội đến triều bái vị vua mới sinh.  Còn họ, họ không buồn ngưng cuộc sống bình thường lấy một ngày để đến Bêlem kiểm chứng.  Phải chăng họ đã chờ đợi quá lâu rồi nên bây giờ không còn tha thiết gì nữa?  Phải chăng niềm tin của chúng tôi chỉ là ảo tưởng?

Lúc đến Giêrusalem, chúng tôi đã đi ngược lại quan niệm của những người bàng quan.  Giờ này về Bêlem, chúng tôi đi ngược lại với quan niệm của những người được tuyển chọn.  Dưới mắt mọi người, chúng tôi là những kẻ bất bình thường, nếu không phải là những người khờ khạo.

Và này, ngôi sao lại xuất hiện, chúng tôi nhìn nhau mỉm cười mà nước mắt tuôn trào.  Không! Ngôi sao xuất hiện không phải để chỉ đường, vì chúng tôi đã biết đường về Bêlem.  Ngôi sao xuất hiện không phải để củng cố niềm tin, vì chúng tôi vẫn tin tưởng, tin tưởng một cách ngoan cố, tin tưởng ngay trong lúc ngỡ rằng mình nghi ngờ.  Ngôi sao xuất hiện như một bằng chứng tình yêu đáp lại tình yêu.

Chúng tôi đã đến Bêlem dâng lên hài Nhi những của lễ vật chất kèm với tấm lòng thành của mình.  Chúng tôi đã tìm được kho tàng quí giá nhất.  Đối diện với hài Nhi, chúng tôi hiểu rằng, khi ra đi, chúng tôi đã không có một của lễ nào xứng đáng để dâng lên Ngài.  Chúng tôi quả đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược.  Nhưng những của lễ đó hoàn toàn không có giá trị nếu không kèm theo những đau khổ, những cực nhọc, những lo âu, những thử thách, những đêm tối trong lòng.

Nhờ vậy mà chúng tôi đuợc thấy ánh sáng trong đêm Bêlem này.  Bây giờ chúng tôi có thể ra về, chúng tôi trở về rón rén, im lặng vì chúng tôi đã tìm được kho tàng mà những vị vua chúa không thèm, một kho tàng mà họ ghét bỏ và muốn tiêu diệt.

Vâng, Hêrôđê đã ra lệnh cho binh sĩ chỉnh tề gươm giáo.  Chúng tôi không trở lại với Hêrôđê, chúng tôi đã thất hứa.  Các bạn không trách chúng tôi chứ?  Chúng tôi đành thất hứa với một ông vua, chứ làm sao chúng tôi có thể phản bội hài Nhi.

Tôi tin rằng các bạn thông cảm với chúng tôi, bởi vì hành trình của chúng tôi cũng chính là hành trình của các bạn ngày hôm nay.  Hành trình của những người hướng về một ngôi sao có khi đã tắt, và âm thầm tiến về Bêlem.

B – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ TƯ

Có lẽ tôi cũng cần phải lên tiếng, bởi vì nếu hôm nay tôi im lặng, tôi sẽ là một tên vô ơn bạc nghĩa nhất trên đời. Tôi là một người đã đến bên hài nhi với hai bàn tay trắng và đã nhận tất cả nơi Giêsu.  Tôi là một trong muôn ngàn người đến với Giêsu, nhận lấy thật nhiều rồi ra đi lặng lẽ.  Tôi là người đạo sĩ thứ tư, người đạo sĩ đến sau cùng và Phúc âm không đề cập đến.  Cố nhiên tôi cũng đã chuẩn bị một lễ vật dâng lên hài Nhi, nhưng vì lơ đễnh tôi đã để rơi rớt.

Ngày tôi phát hiện vì sao lạ, tôi đã mở kho tàng mình và lấy ra ba viên ngọc quí nhất để làm của lễ tiến dâng.  Tôi đã chậm trễ dọc đường nên không tới kịp như ba vị trước.

Trên đường đi, tôi đã gặp một cụ già hấp hối, đói rét và bệnh tật nhưng không có ai chăm sóc. Tôi đã yếu lòng nên lấy ra một viên ngọc để nhờ người chăm sóc cụ già ấy.  Đó là lý do đầu tiên làm tôi chậm bước.  Ngày hôm sau, tôi lên đường một mình.  Khi qua một khu rừng thưa, tôi nghe có tiếng thét thất thanh, tôi đã dừng lạc đà rồi tò mò chạy đến.  Tôi thấy có mấy tên côn đồ muốn hành hung một phụ nữ.  Tôi không đủ sức đánh chúng, nên đành phải rút viên ngọc thứ hai mà mua lấy tự do cho người bất hạnh kia.  Thế là tôi chỉ còn một viên ngọc cuối cùng.  Tôi quyết sẽ không phung phí vì bất cứ một lý do gì nữa. Nhưng rồi tôi lại không giữ được lời tôi nguyện.

Khi đến gần Bêlem, bỗng thấy lửa rực trời.  Những người lính của Hêrôđê đang giết những trẻ em.  Gần một ngôi nhà bốc lửa, một tên lính nắm xốc ngược một hài nhi định lấy gươm mà đâm thâu, và dưới chân là người mẹ quì khóc gào không ra tiếng…  Tôi bỗng quên lời hứa với chính mình và đem viên ngọc thứ ba trao cho tên lính để nó trả đứa bé lại cho người mẹ khốn cùng.  Thế là hết, tôi chẳng còn gì nữa.  Tôi đã đi bao nhiêu đêm ngày đến đây mong triều bái vị vua mới sinh, thế mà tôi lại đến với hai bàn tay trắng.  Dù sao thì tôi cũng phải đến để xin lỗi Ngài.

Tôi cúi mặt bước vào hang đá.  Tôi nghẹn ngào khi thấy vàng ròng, nhũ hương và mộc dược của những người đi trước tôi.  Tôi không còn lòng dạ nào nói lên lời xin lỗi.  Tôi quì xuống cạnh máng cỏ, úp mặt vào lòng bàn tay, mặc cho dòng nuớc mắt tuôn trào.

Nhưng kìa, sao nước mắt tôi hôm nay ấm thế?…  Không, không phải là nước mắt, nhưng là đôi tay ấm áp của Chúa Hài Nhi đang nắm lấy tay tôi.  Chúa Hài Nhi không lộ vẻ trách móc, nhưng nhìn tôi âu yếm, trên môi nở một nụ cười.  Và tôi cảm thấy tràn đầy bình an.  Tôi chợt hiểu rằng, tôi là người duy nhất lãnh nhận tất cả nơi Hài Nhi, bởi vì tôi chẳng có gì để tiến dâng cả.  Tôi hiểu rằng nếu tôi đến bên hài nhi với ngọc ngà châu báu thì có thể tôi đã trở về không, bởi vì lòng tôi đầy ắp tự mãn nên không còn chỗ để chứa chất bình an của Ngài.  Nhưng tôi đã đến bên hài nhi với đôi bàn tay trắng, và cõi lòng trống không, vì thế tôi đã nhận được bình an tràn đầy.

Vì thế mà hôm nay tôi bắt buộc phải nói lên một lời cảm tạ. Tôi muốn nói với các bạn rằng nếu bạn còn một của cải vật chất hay tinh thần nào đó mà bạn dành cho Hài Nhi, thì hãy phân phát cho người khác; các bạn hãy đến bên Hài Nhi như tôi, đến với sự khó nghèo trong lòng và với hai bày tay trắng, thì rồi các bạn sẽ nhận được tất cả.

Trần Duy Nhiên – Trích Chia Sẻ Giáng Sinh

From: suyniemhangngay1-& Anh chị Thụ Mai gởi

Rồi đây, mây trên đồi vắng,

“Rồi đây, mây trên đồi vắng,”
Lang thang tìm phiến đá xưa rêu mòn
Rồi đây, mưa ru ngàn lá
Mây bay mờ xoá, rừng thông lắng buồn.”

(Phạm Mạnh Cương –

-Mắt Lệ Cho Người Tình)

(Kh 7: 3/2 Cor 2: 14-16)

Trần Ngọc Mười Hai

Mây trên đồi vắng, mà lại thấy “mắt lệ cho người tình”, ôi thôi điều này chỉ thấy có ở thi-ca, âm-nhạc, mà thôi. Mắt lệ cho người tình, có khi cũng hơi khác như các đấng bậc ở nhà Đạo cũng từng nói. Thế nhưng, người nghệ sĩ ở ngoài đời, lại vẫn nói bằng câu ca/tiếng hát rất tình như sau:

“Tình anh, như thông đầu núi
Trăng thanh chìm suối, tháng năm vời vợi
Tình em, như sương chiều xuống
Mênh mông đồi núi, mờ trong bóng đêm.

Biệt ly, hôn nhau lần cuối
Trông nhau lần cuối, giá băng tơ trời
Bài hát chia phôi ban đầu
Vắng tiếng kinh chiều cầu cho tình ái.

Biệt ly, hôn nhau lần nữa
Xa nhau lần nữa, nói sao cho vừa
Chỉ thấy ánh mắt u hoài
Nuối tiếc ân tình, trọn đời khó phai.”

(Phạm Mạnh Cương – bđd)

Nơi nhà Đạo, các đấng bậc có nói nhưng không hát và cũng chẳng ngâm, nên các ngài vẫn nói hoài nói mãi những tiếng/giọng như sau:

“Khi nghe trong Bài Đọc Thứ Nhất tiếng của vị Thiên Thần kêu vang vang cho 4 Thiên Thần được ban cho quyền hủy-hoại cả đất liền lẫn biển khơi rằng: “Đừng hủy-hoại đất-đai, biển-khơi hay cây-cối” (Khải Huyền 7:3), thì chúng ta nhớ đến câu nói không phải ở Sách Khải Huyền mà ở trong lòng của mọi người: con người có khả năng làm điều ấy hơn thiên thần nữa kìa. Chúng ta có thể tàn phá Trái Đất này còn giỏi hơn các Thiên Thần.

Đó, thực sự là những gì chúng ta đang làm. Đó, là những gì chúng ta đang thực-hiện, ở chỗ chúng ta đang hủy-hoại thiên-nhiên tạo-vật, chúng ta đang tàn-phá sự sống, chúng ta đang tàn-phá các nền văn-hóa, chúng ta đang tàn-phá các thứ giá-trị, chúng ta đang tiêu-diệt niềm hy-vọng.

Chúng ta cần đến sức mạnh của Chúa biết bao, để chúng ta được niêm-ấn bởi tình-yêu của Ngài và quyền-năng của Ngài trong việc ngưng lại cuộc đua hủy-diệt điên-cuồng này!

Việc hủy-diệt những gì Ngài đã ban cho chúng ta, những gì tuyệt-vời nhất Ngài đã làm cho chúng ta, để chúng ta canh-tác, duy-trì, sinh lợi… Khi tôi ở trong hậu-cung-thánh nhìn thấy các bức tranh vẽ 71 năm trước (vẽ cảnh dội bom hồi Thế Chiến Thứ II ở miền San Lorenzo là nơi nghĩa-trang này tọa-lạc), tôi nghĩ rằng:

“Đó thật trầm trọng, thật đau thương. Nhưng vẫn không thể nào sánh với những gì đang xẩy ra hiện nay. Con người chiếm-hữu hết mọi sự, tin mình là chúa tể, tin rằng mình là vua chúa.

Rồi chiến-tranh, các cuộc chiến-tranh tiếp-tục bùng nổ, thật sự không phải là để giúp gieo-vãi hạt giống sự sống mà là hủy-hoại. Nó là một thứ kỹ-nghệ hủy-diệt. Nó cũng là một guồng máy của sự sống để rồi không chỉnh-sửa được sự vật thì loại-bỏ chúng đi, ở chỗ chúng ta đang loại-bỏ trẻ em, chúng ta đang loại-bỏ người già, giới trẻ bị loại-bỏ bởi chẳng có công ăn việc làm…

Cuộc tàn-phá này là hậu-quả của một thứ văn-hóa phế-thải. Chúng ta loại bỏ con người.”

(X. Lời Giảng Lễ Các Thánh Nam Nữ của ĐGH Phanxicô 1/11/2014 ở Nghĩa Trang Verano Rôma)

Nghe thế rồi, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp lời ca do nghệ sĩ hát thêm, như sau:


“Rồi đây, anh như ngàn gió

Phiêu du từ đó biết đâu hẹn hò.

Rồi đây, em phương trời cũ,

Quê hương tình ái còn vương mắt lệ.

Tình yêu mong manh là thế,

Xa xôi là thế xót xa tình buồn.

Tình yêu thương đau từ đấy,

Dư âm còn đấy lệ trong mắt ai.”

(Phạm Mạnh Cương – bđd)

Và đây, khi nghe câu hát: “Anh như ngàn gió, phiêu du từ đó”, nên anh và tôi hoặc ai đó, lại sẽ phiêu du vào đất miền thần-học, có những vấn-đề thời-sự cần suy-tư như sau:

“Mọi đổi thay trong văn-hoá/xã hội ở thời này là vấn-đề lớn, rất khó giải. Vấn-đề ở chỗ: rất nhiều người, hôm nay lại cho rằng: mình có niềm tin đích-thật và cũng có người nghĩ rằng: mình chẳng có theo “đạo” nào hết. Những người này chỉ muốn bảo: chẳng tôn-giáo nào ta được biết lại tỏ-bày kinh-nghiệm về niềm tin sâu-sắc của chính mình, cách phù-hợp.

Thế nên, trong thống-kê dân-số gửi đến nhà cứ 5 năm một lần, khi được hỏi bạn theo tôn-giáo nào, thì nhiều câu trả-lời lại đề: không gì hết. Điều này không có nghĩa là: họ không có niềm tin. Điều này cũng có nghĩa: phương-cách cổ xưa để diễn-tả và rao-truyền niềm tin nay không còn như xưa nữa.

Điều này thực sự nói về niềm tin và tôn-giáo và mối giây liên-hệ của hai thứ. Tin là nhận-thức rằng mọi hữu-thể đều hiện-hữu. Với người có niềm tin, thì việc này nói về quan-hệ riêng-tư giữa con người và Thiên-Chúa.

Và, đó là kinh-nghiệm. Tôn-giáo là tập-hợp các truyền-thống, tin-tưởng, huyền-nhiệm, nghi-thức, đạo-đức/chức-năng, vv. Từng nói lên ký-ức tập-thể của niềm tin sống động kéo dài mãi như thế. Tôn-giáo và niềm tin không cùng một thứ. Tôn-giáo là việc tỏ-bày kinh-nghiệm ngày càng sâu sắc và phong-phú hơn bất cứ sự bày-tỏ nào cũng thế. Tôn-giáo là một tỏ-bày và là bày-tỏ niềm tin. Cả hai thứ đi chung với nhau và thường thì trộn-lẫn vào nhau.

Khi niềm tin lên cao tại một số nơi hoặc ở một số nền văn-hoá, niềm tin ấy mặc lấy văn-hoá theo nghĩa những sự-thể rất đạo-giáo đang diễn ra ở nơi đó. Niềm tin ấy mang dáng dấp hình-hài của những thứ và những sự xảy ra tại nơi đó. Niềm tin ấy còn mặc lấy thứ ngôn-ngữ địa-phương.

Và, thời-gian trôi mau, niềm tin lại sẽ biến môi trường này trở-thành của chính mình. Nó trở thành chiếc xe chuyên-chở mọi kết quả đạt được đem đến nhiều nơi khác. Và đi như thế, tôn-giáo cũng mang theo niềm tin với mình, nữa. Chìa khoá chính cho tương-quan giữa niềm tin và tôn-giáo là nắm bắt được rằng: niềm tin là kinh-nghiệm, còn tôn-giáo là việc bày-tỏ kinh-nghiệm ấy ra ngoài.

Niềm tin mà không có tôn-giáo cưu-mang và tỏ-bày, sẽ thiếu nhiều hỗ-trợ, giùm giúp. Tôn-giáo mà lại không có niềm tin sâu-sắc đích-thực ở bên trong, lại sẽ chết dần trong nguồn nước…

Có hai vấn-đề ở đây: Niềm tin như kinh-nghiệm nội-tâm mà không có sự tỏ-bày nhờ vào tôn-giáo sẽ đi đến kết-cuộc như một thứ tôn-thờ chủ-nghĩa Narcisse. Và, tôn-giáo mà không niềm tin sâu-sắc nội-tại, thì cũng sẽ chìm đắm biến mất trong các tín-ngưỡng chính-trị đang vượt trội ở nền văn-hoá địa-phương, sở tại.

Vậy thì, Hội-thánh/Giáo-hội thực sự cống-hiến những gì? Câu trả lời sẽ là việc sẻ-san trong đối-thoại chuyện-trò về kinh-nghiệm tin-tưởng. Một san-sẻ được tôn-giáo giúp đỡ bằng việc tiếp-nhận và thông-cảm.

Bằng vào ý-nghĩa của sự-thể mong-mang đầy tính người như thế, Thiên-Chúa yêu-thích đi vào nền văn-hoá có niềm tin tôn-giáo và có thể, Ngài cũng khởi-sự cuộc chuyện trò/trao-đổi với mức độ cũng rất mới.”

(xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San Chúa nhật Cung hiến Đền thờ Latêranô năm A 9/11/2014)

Xem như thế, thì: niềm tin, tôn-giáo và văn-hoá luôn tháp-tùng, gộp chung trong cuộc sống vui tươi đằm thắm rất chất-lượng. Thế đó là thần học đi Đạo và ở trong Đạo. Thần-Học về kinh-nghiệm có niềm tin tôn-giáo đầy chất văn-hoá về Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu ở ngoài đời lại cũng  khác. Khác, theo cung-cách thực-tiễn và thựa-hành như sau:

Ở một đất nước giàu có của Châu Âu, có một cô ca sĩ rất nổi tiếng. Tuy mới chỉ 30 tuổi nhưng danh tiếng cô đã vang dội khắp nơi, hơn nữa cô có một người chồng như ý và một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Một lần, sau khi tổ chức thành công một đêm diễn, cô ca sĩ cùng chồng và con trai bị đám đông người hâm hộ cuồng nhiệt bao quanh. Mọi người tranh nhau chuyện trò với cô. Những lời lẽ tán tụng khen ngợi tràn ngập cả sân khấu.


Có người khen cô tuổi nhỏ chí lớn, vừa tốt nghiệp đại học đã bước chân vào nhà hát tầm cỡ quốc gia và trở thành nữ ca sĩ trụ cột của nhà hát. Có người tán tụng rằng mới có 25 tuổi mà cô đã được lựa chọn là một trong 10 nữ ca sĩ có giọng háy opera xuất sắc nhất thế giới. Có người lại ngưỡng mộ cô có người chồng tuyệt vời, một cậu con trai kháu khỉnh, dễ thương.

Trong khi mọi người thi nhau bàn luận, cô ca sĩ này chỉ im lặng lắng nghe, không thể hiện thái độ gì. Khi mọi người nói xong cô chậm rãi nói: “Trước tiên, tôi cảm ơn những lời ngợi khen của mọi người dành cho tôi và những người trong gia đình tôi.

Tôi hy vọng có thể chia sẻ niềm vui này với mọi người. Nhưng các bạn chỉ nhìn thấy một số mặt trong cuộc sống của tôi còn một số mặt khác, các bạn vẫn chưa nhìn thấy. Cậu con trai của tôi mà mọi người khen là bé kháu khỉnh, đáng yêu, thật bất hạnh, nó là 1 đứa trẻ bị câm. Ngoài ra, nó còn có một người chị tâm thần và thường xuyên bị nhốt ở nhà.”

Mọi người đều ngơ ngác, sửng sốt nhìn nhau, dường như rất khó chấp nhận một sự thật như thế. Lúc này, cô ca sĩ mới điềm tĩnh nói với mọi người: “Tất cả những chuyện này nói lên điều gì? Có lẽ chúng nói lên một triết lý, đó là, Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá nhiều thứ bao giờ.”

Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá ít, cũng không cho ai quá nhiều. Vì thế, đừng nên chỉ nhìn thấy hoặc ngưỡng mộ những thứ người khác có, mà nên nghĩ và trân trọng những thứ bạn đang có, cho dù đó không phải là những vinh quang tột đỉnh.

Vậy nên, nếu ai hỏi bạn “Bạn có hạnh phúc không?” Bạn hãy trả lời rằng : ”Mình hạnh phúc. Hạnh phúc theo cách mình sống và những gì mình đang có trên đời này”. (sưu-tầm và trích dẫn truyện kể của một người ký tên là ST trên mạng vi-tính, rất phổ-biến)

Suy-tư về kinh-nghiệm sống trong cuộc đổi đời ngày hôm nay, có thể là như thế. Như thế, cũng nói lên đôi điều về sự-kiện thực-tế chưa có giải-đáp cho thế hệ của kẻ tin ở đầu thế-kỷ 21 hiện giờ.

Cuộc đổi-đời thế-kỷ, nay lại được đấng bậc ở trên cao có nhận-dịnh rất đặc-thù nhân buổi họp mặt của thành-viên trong Bộ Dòng Tu hôm 27/11/2014, hôm ấy Đức Phanxicô có nói:

“Đi từ đề tài “Rượu mới trong các bầu mới”, Đức Thánh Cha khẳng-định rằng:

Chúng ta đừng sợ từ-bỏ các bầu rượu cũ, nghĩa là cần đổi mới những thói quen và cơ-cấu trong đời sống Giáo Hội, cũng như trong đời sống thánh-hiến, mà chúng ta nhận thấy không còn tương-ứng với những gì Thiên-Chúa yêu-cầu chúng ta ngày nay, để mở rộng Nước Chúa trong trần-thế: đó là những cơ-cấu mang lại cho chúng ta một sự bảo-vệ giả-tạo và ảnh-hưởng tiêu-cực tới năng-động bác-ái: đó là những tập-quán làm cho chúng ta xa lìa đoàn chiên mà chúng ta được sai đến và ngăn-cản không cho chúng ta nghe tiếng của những người đang chờ đợi Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.

Đức Thánh Cha cũng nhắc đến những nhược-điểm có thể gặp thấy trong đời thánh-hiến ngày nay, như: sự kháng-cự của một số thành-phần chống lại sự thay-đổi, sự suy-giảm sức thu-hút, nhiều người bỏ tu, sự mong manh của một số hành-trình đào-tạo, những cơ-cực vất-vả vì thi-hành các công tác và thừa-tác-vụ làm thương-tổn đời sống thiêng-liêng, sự khó hội-nhập vào các môi-trường và thế-hệ khác, sự thiếu quân-bình trong thực-thi quyền-bính và sử-dụng của cải…”

(xem G. Trần Đức Anh, op dịch tin Vatican 27/11/2014, đăng trên www.chuacuuthe.com trang chính ngày 27/11/2014)

Cảm-thông với lời nhận-định của đấng chủ-quản Hội-thánh một cách rộng và đem vào đời, còn là cảm-thông rằng: thời nào, cũng có đổi-thay. Đổi và thay, cả trong niềm tin, văn-hoá và tôn-giáo. Thay và đổi, không có nghĩa ta đi dần vào sự chết hoặc vào cái-gọi-là “văn-hoá của sự chết”. Đổi-thay/thay-đổi là lý-lẽ cuộc sống rất năng-động. Có như thế, cuộc sống của mọi người mới đứng vững và khá hơn lên.

Vẫn cứ mong, mọi thay và đổi sẽ theo hướng tích cực, rất tốt đẹp, hơn bao giờ. Trong chiều-hướng đó, cũng nên đi vào vườn hoa Lời Chúa, có những nhủ khuyên như sau:

Tạ ơn Thiên Chúa,

Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô,

tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi

mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô,

như hương thơm, lan toả khắp nơi.

Vì chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô dâng kính Thiên Chúa,

toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất.

Đối với những người bị hư mất,

chúng tôi là mùi tử khí đưa đến tử vong;

nhưng đối với những người được cứu độ,

chúng tôi lại là hương sự sống đưa đến sự sống.“

(2 Cor 2: 14-16)

Trong chiều hướng nhận-định về cuộc đời có đổi thay như thế, cũng lại mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên-ngang cất bước và hát lên rằng:

Rồi đây, anh như ngàn gió

Phiêu du từ đó biết đâu hẹn hò.

Rồi đây, em phương trời cũ,

Quê hương tình ái còn vương mắt lệ.

Tình yêu mong manh là thế,

Xa xôi là thế xót xa tình buồn.

Tình yêu thương đau từ đấy,

Dư âm còn đấy lệ trong mắt ai.”

(Phạm Mạnh Cương – bđd)

Hát thế rồi, ta bồi thêm cho bài viết bằng một đoạn truyện kể ngăn ngắn để minh-hoạ cho những chuyện được đề-cập, hôm nay:

“Trong Dòng khắc-kỷ/khổ-tu nọ, các thày sống ở đây luôn luôn phải tịnh-khẩu để cầu nguyện trong thinh-lặng. Duy, chỉ được phát-biểu khi được phép, chí ít là không bao giờ được yêu-cầu có được điều gì để trau-dồi bản thân.

Trong bữa cơm thân-mật hôm ấy, một thày Dòng thấy trong tô cháo mình ăn có con chuột nhắt chết phỏng từ hồi nào. Gặp sự thể như thế, hỏi rằng thày phải làm gì bây giờ? Than-phiền ư? Đổ đi hay tiếc rẻ nuốt vào bụng, sau một ngày mệt nhừ vì lao-động công-ích. Bất chợt, thày Dòng ấy bèn ngồi im, nhắm tịt mắt và suy-nghĩ một hồi.

May quá, thày tìm ra được giải-đáp để có được bát cháo khác mà không lỗi luật Dòng. Thày bèn giơ tay xin phép nói, thấy thế Bề Trên hỏi:

-Thày A…, thày có điều gì muốn nói, thế?

-Dạ thưa Bề Trên, các thày ngồi quanh bàn con đây đều thiếu con chuột chết trong bát cháo…”

(tiếu-lâm chay/mặn kể  trên mạng…)

Thế đó, là văn-hoá thời xưa cũ. Thế đó, còn là tinh-thần tu-trì tu-đúc rất văn-minh, của một thời. Thời đại ít thấy đổi-thay nhưng mọi người vẫn sống văn-minh, văn-hoá sống cả kinh-nghiệm niềm tin tôn-giáo rất tốt đạo, đẹp đời. Ở muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nhớ ngày xưa cũ

Có văn hoá, văn minh

Của niềm tin tôn-giáo

Rất thời-thượng.