Nguyễn Ngọc Già vượt lằn ranh đỏ

Nguyễn Ngọc Già vượt lằn ranh đỏ

Lê Diễn Đức

RFA

Blogger Nguyễn Ngọc Già bị công an bắt giữ hình sự hôm 27 tháng 12 năm 2014. Đây không phải là một vấn đề gì lạ, mà chỉ là động thái của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trong việc ngăn chặn, bẻ gãy các cây viết tự do.

Việc bắt giữ này được thực hiện liên tiếp sau khi đã cho “nhập kho” các bloggers “Anh Ba Sàm” Nguyễn Hữu Vinh, “Người Lót Gạch” Hồng Lê Ngọc và “Quê Choa” Nguyễn Quang lập.

Các trang báo lề trái đưa tin trong sự cẩn trọng chừng mực về việc khẳng định bút danh Nguyễn Ngọc Già và tên thật của blogger là Nguyễn Đình Ngọc.

Tôi biết tác giả Nguyễn Ngọc Già từ lâu, qua các bài viết của ông. Thoạt đầu tôi cho rằng, đây là một cây bút sống ở trong nước, vì sử dụng bút danh nên mới có cách viết mạnh bạo như thế.

Các bài viết của Nguyễn Ngọc Già cho thấy ông là một con người chính trực và can đảm. Ông viết bằng cái tâm và ý thức mong muốn đất nước thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn.

Nói rằng ông sử dụng bút danh giấu tên thật là không phải. Ông từng tự thuật về thân nhân của mình, ít nhất qua bài “Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hoà“, trong đó ông kể cha ông là “Việt Cộng nằm vùng”, là gia đình “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Và “Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự “ân sủng” dành cho ông – một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự “ban ơn” nào từ người cộng sản. Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây ra”.

Vào tháng 12 năm 2014, nhân ngày Quốc tế Nhân quyền, trong bài “Tôi thách thức dư luận viên” thì ông đã công khai trước công luận khi viết trên Dân Làm Báo: “Tôi – Nguyễn Ngọc (bút danh Nguyễn Ngọc Già) – tuyên bố thách thức…”

Các bài viết của ông thường bám vào những sự kiện thời sự diễn ra trên đất nước liên quan đến dân chủ, nhân quyền và sự phát triển của đất nước, được thể hiện trung thực với những phân tích có lý lẽ.

Ông nói thẳng, trực diện, đôi khi quyết liệt công kích vào những bất công của chế độ cộng sản, vào sự đán áp những tiếng nói dân chủ, sự nguỵ biện dối trá của bộ máy tuyên truyền, về vấn nạn tham nhũng hà hiếp dân của quan chức…

Ông nhìn nhận trách nhiệm và lương tri của một người cầm bút trong xã hội:

“Vẫn biết chì chiết càng làm đau lòng thêm cho những ai cầm bàn phím như cầm chén cơm! Phải vậy thôi! Nhưng lương tri đâu? Lòng trắc ẩn trước đồng bào đau khổ đâu?”

Có thể nghiêm túc khẳng định rằng, Nguyễn Ngọc Già là một cây bút đối lập, một người bất đồng chính kiến. Ngôn ngữ trong các bài viết của ông tuy thận trọng nhưng có tính phản kháng mãnh liệt, ít ai trong nước dám thể hiện như vậy.

Ông Nguyễn Ngọc Già là người sinh ra trong thể chế Việt Nam Cộng Hoà, gắn bó với nó và ông thẳng thắn phê phán chế độ cộng sản:

“Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội – có thể chưa phải là tốt đẹp nhất – nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng “cải cách” giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả dĩ. Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam”.

Nguyễn Ngọc Già đã chính xác khi nhìn nhận chế độ cộng sản thực chất là một chế độ nguỵ quyền, duy trì sự cai trị bằng tuyên truyền giả dối:

“Chữ “ngụy” là một từ Hán – Việt, nó phản ánh những cái gì giả trá nhưng mang dáng vẻ của Sự Thật. Để thoát khỏi tình trạng Việt Nam lệ thuộc nhiều mặt đối với chế độ toàn trị tại Trung Quốc cũng như hiện trạng bi đát và bế tắc của Việt Nam hiện nay, thay vì “Thoát Trung”, có lẽ người Việt Nam cần phải gọi đích danh: THOÁT NGỤY. Khởi đầu của quá trình “Thoát Ngụy”, nhất định phải do giới cầm quyền Việt Nam hiện nay, bởi họ phải chịu “trách nhiệm toàn diện” dựa trên sự “lãnh đạo toàn diện” của ĐCSVN, suốt 70 năm qua”.

Trong một chế độ chuyên quyền, độc ác, làm sao một cây bút như vậy tung hoành trên lề trái, vươn tay ra các diễn đàn truyền thông quốc tế như VOA hay RFA, có thể tiếp tục tồn tại?

Cho nên bắt giam Nguyễn Ngọc Già là sự việc hiển nhiên, chẳng liên quan gì đến đấu đá nội bộ hay chính sách đối ngoại.

Tranh giành quyền lực nội bộ gay gắt bao nhiêu chăng nữa thì chế độ vẫn phải được bảo vệ để duy trì lợi ích chung. Các phe nhóm bao giờ cũng tìm ra thoả hiệp để tiếp tục sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông Nguyễn Ngọc Già là người đã bất chấp nguy hiểm, đã vượt qua lằn ranh đỏ của chính sách kiểm soát thông tin của Nhà nước Cộng sản Việt Nam.

Trong năm 2015 có nhiều kỷ niệm các ngày lễ lớn, tình hình đàn áp nhân quyền chắc chắn sẽ gia tăng hơn. Rất nhiều những tù nhân dự khuyết khác chắc đang nằm trong vòng ngắm, vấn đề chỉ là khi nào trở thành chính thức mà thôi. Trong mọi sự bắt bớ đề họ đều có toan tính.

Nhà cầm quyền thả nổi Internet cho bàn dân thiên hạ có cơ hội ca thán, thậm chí chửi rủa trên mạng, xả bớt tức giận cũng chỉ nhằm mục đích theo dõi. Nhưng hơn ai hết, vì không có báo chí tự do nên họ coi thông tin là mặt trận. Trên mặt trận ấy cuộc chiến diễn ra không ngừng nghỉ với lực lượng 80 ngàn dư luận viên ăn lương và một bộ máy đàn áp khổng lồ. Khi thấy ai đó có hại cho chế độ và gây ảnh hưởng lớn quần chúng, họ sẽ ra tay.

Bản chất của chế độ cộng sản là bạo lực. Họ tồn tại nhờ bằng bạo lực và sử dụng bạo lực tới cùng, thậm chí cả trước khi chết.

© Lê Diễn Đức

Vài lời bàn về Khổng Tử và Viện Khổng Tử

Vài lời bàn về Khổng Tử và Viện Khổng Tử

Chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2014) – Sài Gòn – Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.

Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.

Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.

14123000

1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng

Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho… Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!

Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.

2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc

Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!

Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!

3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm

Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.

Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.

Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!

Trần Quang Đức

Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):
1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.

Việt Nam đang xét lại chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc

Việt Nam đang xét lại chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc

Chuacưuthe.com

VRNs (30.12.2014) – Melbourne, Úc Đại Lợi – Năm 1989, trước tình trạng Khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô khủng hỏang tòan diện, đảng Cộng sản giao nhiệm vụ tìm hiểu về “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” cho Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách.

Qua nghiên cứu thực tế ông Bách đã kết luận Việt Nam cần phải tìm một hướng đi riêng và cần nhịp nhàng đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị: “Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.”

Đáng tiếc, đảng Cộng sản đã không chấp nhận còn trù dập ông, rồi quay sang Trung Quốc vay mượn Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc nước này.

Thiếu tư tưởng hướng dẫn đảng Cộng sản càng ngày càng đưa đất nước vào ngõ cụt…

141230002

… đi mà không rõ đi đâu

Ngày 22-12-2014 vừa qua tại cuộc hội thảo do Ngân hàng Thế giới và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thú nhận: “Tôi cứ suy nghĩ mãi một điều, nếu chúng ta đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến… thì không bao giờ chúng ta đi nhanh và bền vững được…”

Chắc bạn đọc vẫn nhớ ngày 23-10-2013 trước Quốc Hội, Nguyễn Phú Trọng đã cho biết: ”… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”

Và vào cuối năm 2013, tại Học viện Chính trị quốc gia, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.

Mô hình mà ông Vinh nhắc đến là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bản sao của mô hình Trung Quốc.

… Việt – Trung đi đúng hướng

Là mô hình đảng trị với 4 trụ cột căn bản là: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xã hội xã hội chủ nghĩa và văn hóa theo bản sắc Trung Quốc.

Tạp Chí Cộng Sản Online, ngày 28-11-2014, vừa qua đã đăng bài “Góp phần tìm hiểu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc”, bài viết đã giải thích lý do đảng Cộng sản đeo đuổi mô hình như sau:

“…do cả Việt Nam và Trung Quốc đều chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng lý luận.

Ngoài ra, thời gian qua do quan hệ hợp tác và giao lưu giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều thuận lợi nên, lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc được các học giả Việt Nam rất quan tâm và về cơ bản những nội dung quan trọng nhất của hệ thống lý luận này được các học giả Việt Nam nắm bắt kịp thời.

Mặt khác, công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và đổi mới, mở cửa của Việt Nam gần 30 năm qua có nhiều điểm giống nhau nên nghiên cứu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc để rút ra những bài học kinh nghiệm, tham khảo cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một việc làm cần thiết…”.

Điều lý thú là bài viết lại nhìn ra thực tế:

“… xã hội Trung Quốc hiện nay cũng đang đứng trước vô vàn vấn đề gay gắt với nhiều thách thức và nguy cơ. Đó là sự phân hóa xã hội, sự phân hóa vùng miền, sự ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, bạo lực xã hội, các hành động cực đoan, chia rẽ, ly khai, sự tham nhũng, cửa quyền, sự bất ổn xã hội, vi phạm dân chủ,… Sự ổn định của kinh tế – xã hội của Trung Quốc hiện nay đang chất chứa trong nó nhiều mâu thuẫn xã hội gay gắt…”

Từ thực trạng xã hội tại Trung Quốc (và Việt Nam) như trên, bài viết đã biểu lộ nghi ngờ và đặt ra nhiều câu hỏi như: “Lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thực sự đưa Trung Quốc lên chủ nghĩa xã hội hay không, hay sẽ dẫn dắt Trung Quốc tới đâu?”

Bài viết đã được phổ biến trên Cơ Quan Lý Luận và Chính Trị của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lại phổ biến trước Hội Nghị 10 để sửa sọan cho Đại hội XII cho thấy quan điểm xét lại Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc đã xuất hiện từ phía bên trên đảng Cộng sản Việt Nam.

Đến ngày 25-12, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc Du Chính Thanh sang Việt Nam gặp hầu hết giới cầm quyền bao gồm: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Hồng Anh và Nguyễn Thiện Nhân.

Tại Đại học Hà Nội, Du Chính Thanh đã chính thức khai trương Viện Khổng tử với một mục đích truyền bá Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc, để củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung.

Được Tân Hoa xã phỏng vấn Du Chính Thanh cho biết: “Chuyến thăm của tôi, do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và Tổng bí thư Tập Cận Bình yêu cầu, nhằm mục đích nâng cao hiểu biết song phương, xây dựng đồng thuận và thúc đẩy tiến bộ trong các quan hệ Trung – Việt theo đúng hướng.

… đi Chệch Hướng?

Việt Nam đang muốn ký kết các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Các hiệp định này đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi để thính hợp với các quốc gia cùng ký kết.

Cụ thể Việt Nam phải xây dựng Nhà nước thượng tôn pháp luật với 4 cột trụ chính là: kinh tế thị trường, chính trị tự do, xã hội dân sự và văn hóa nhân bản tôn trọng con người.

Gần đây giới chức và truyền thông Việt Nam có nói đến các điều kiện để Việt Nam hội nhập với các quốc gia dân chủ, nhưng rất mập mờ khi nói đến mô hình dân chủ tự do. Trong một bài khác người viết sẽ trình bày một cách cụ thể và rõ ràng mô hình này.

Nếu năm 1989, ý kiến ông Trần Xuân Bách được đảng Cộng sản lắng nghe và tôn trọng thì ít nhất Việt Nam cũng đi được một phần của con đường hội nhập. Nhưng vì đi theo Trung Quốc, Việt Nam vẫn chỉ là một bản sao tồi của Chủ Nghĩa (và Mô Hình) Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc.

Vì thế hiện nay trong nội bộ đảng Cộng sản không phải chỉ xảy ra những tranh giành nhân sự. Mà còn xẩy ra những tranh chấp về tư tưởng và đường lối như vấn đề Biển Đông, đảng hay nhà nước nắm quân đội, tiếp tục theo hay từ bỏ Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc…

Kết

Trong guồng máy nhà nước đến Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng mà phải còn buộc miệng than rằng: “… đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến…”.

Còn dân vẫn tiếp tục bị bịt miệng. Ba bloggers Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập và Nguyễn ngọc Già vừa bị bắt. Bài cuối cùng ông Nguyễn Quang Lập đăng trên blog Quê Choa là bài: “Vì sao cần cảnh giác với Viện Khổng Tử”.

Không màng đến nguy cơ mất nước, đến thực trạng khủng hỏang tòan diện, đến nguyện vọng của người dân, tương lai Việt Nam vẫn chỉ do một nhóm người hay ngọai bang Trung Quốc quyết định.

Để thóat khỏi Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc chỉ còn con đường duy nhất là cả nước phải vùng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc.

Nguyễn Quang Duy

Nhân chuyện bang giao Mỹ-Cuba, nhớ Elian Gonzalez

Nhân chuyện bang giao Mỹ-Cuba, nhớ Elian Gonzalez

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương
Ngày 1 Tháng Giêng, 1959, ông Fidel Castro lãnh đạo một lực lượng quân sự thành công chống Tổng Thống Fulgenio Batista, một tướng lãnh độc tài, và đưa dân tộc Cuba vào một thứ độc tài đẫm máu khác.

Tháng Hai, 1960, chính quyền Castro ký một hiệp thương với Liên Xô, và sau đó, tiếp tục thắt chặt quan hệ và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế của quốc gia này. Hoa Kỳ cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 Tháng Giêng, 1961.

Hai cha con Elian Gonzalez vẫy tay chào trước khi rời Hoa Kỳ bay về Cuba.
(Hình: Tim Sloan/AFP/Getty Images)

Trong thời gian này, cũng như hoàn cảnh Việt Nam, hàng nghìn người Cuba đã chối bỏ chế độ Cộng Sản vượt biển đến Floria, Hoa Kỳ, trên những con thuyền tồi tàn, rách nát.

Tháng Mười Một, 1999, một chiếc thuyền đánh cá Hoa Kỳ tìm thấy một đứa bé Cuba nằm bất tỉnh trên một ruột xe cao su trong eo biển Florida ngoài khơi thành phố Miami. Đó là Elian Gonzalez, 6 tuổi, đi cùng với mẹ, cha kế và 9 người khác vượt biên từ Cuba tìm đường sang Hoa Kỳ tị nạn, tất cả đều bỏ mình trên biển, trong một cơn bão, khi chỉ còn cách Hoa Kỳ 56 km, duy chỉ có ba người sống sót, trong đó có Elian. Cha mẹ Elian ly dị nhau từ nhiều năm trước và cha của Elian, ông Juan Miguel Gonzalez, đã có gia đình khác.

Hoa Kỳ cho phép ông Lazaro Gonzalez ở thành phố Miami, bác ruột của Elian, tạm chăm sóc Elian chờ quyết định tình trạng di trú của em, tất cả hy vọng Elian sẽ được hưởng quy chế tị nạn như nhiều người đã trốn khỏi Cuba nhiều năm trước đến Hoa Kỳ.

Nhưng cha của Elian, với sự yểm trợ và thúc đẩy của ông Fidel Castro, yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ trả Elian về Cuba. Một cuộc tuần hành được chính phủ Cuba tổ chức với hàng trăm nghìn người Cuba yêu cầu chính phủ Mỹ trả lại Elian cho Cuba. Một sự tranh chấp giữa Fidel Castro và cộng đồng người Mỹ gốc Cuba tại Miami thành hình. Tuy nhiên, Sở Di Trú Hoa Kỳ, áp dụng nguyên tắc thông thường về đoàn tụ gia đình, phán quyết trả Elian lại cho cha của em, vì những người thân thuộc của Elian ở Miami không phải cha hay mẹ ruột của em.

Hai tháng sau đó, sau khi tòa án tối cao Mỹ bác đơn kháng cáo của họ hàng Elian tại Miami, đêm 22 Tháng Tư, 2000, các viên chức FBI, trang bị tận răng, tấn công vào ngôi nhà mang số 2319 NW 2nd Street ở Little Havana, Miami, bắt Elian mang đi trong sự vùng vẫy tuyệt vọng và tiếng khóc la của em. Chính phủ Fidel Castro coi đây là một thắng lợi vĩ đại của mình và cộng đồng người Cuba sau đó đã bầy tỏ sự bất mãn của mình với quyết định của chính phủ Clinton, để một năm sau ông Al Gore, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân Chủ, thua ông George W. Bush chỉ với 537 phiếu. Nếu Elian không bị trả về Cuba, hẳn ông Al Gore có thể có đủ phiếu của dân tị nạn Cuba để trở thành tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ.

Cha ruột của Elian lúc ấy đang làm nghề hầu bàn tại Cuba, sau chiến thắng vang dội “đem Elian về với tổ quốc Cuba,” ông được sắp xếp, cất nhắc để trở thành một dân biểu Quốc Hội Cuba vào năm 2003. Elian trở thành bảo vật của Cuba, được công an bảo vệ nghiêm ngặt, khó có ai gặp được em. Trong viện bảo tàng thành phố, có một gian phòng triển lãm những gì liên quan đến câu chuyện Elian. Báo chí Cuba cho rằng, ông Fidel Castro đặc biệt quan tâm đến việc học hành của Elian và cha của em luôn luôn được chủ tịch Cuba tiếp kiến mỗi khi có dịp đến Havana.

Một đứa trẻ mới lên 6, sẽ dễ quên mọi chuyện, hình ảnh người mẹ mình và những ngày vượt biển đầy gian nguy, chết chóc. Nếu ở lại Hoa kỳ, Elian sẽ sống dưới một lối giáo dục khác và thành một con người khác. Nhưng ở Cuba, vào dịp Lễ Phục Sinh 2010, kỷ niệm 10 năm Elian “về với tổ quốc,” hình ảnh Elian Gonzalez được đưa lên truyền thông Cuba, với hình ảnh một thanh niên, đoàn viên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Cuba, với đồng phục, cầu vai đỏ, huy hiệu đoàn trên tay áo, tóc hớt cao và được đề cao: “Elian Gonzalez bảo vệ cách mạng tại Đại Hội Thanh Niên.”

Trước đây, vào năm 1980, nước này đã mở cửa, để cho bất cứ ai cũng có thể ra đi với giấy thông hành. Gần 125,000 người Cuba đã chạy sang Mỹ. Cuba và Mỹ năm 1994 từng ký một thỏa thuận nhập cư theo đó hai bên tạo điều kiện cho việc di cư của người dân Cuba tới Mỹ diễn ra một cách “an toàn, hợp pháp và có trật tự.” Bây giờ, nếu như theo lời Chủ Tịch Cuba Raul Castro mới đây, đòi hỏi Mỹ phải tôn trọng chế độ Cộng Sản ở quốc gia này, nghĩa là Cuba vẫn không từ bỏ “búa liềm,” sau khi mở cửa bang giao, sẽ có bao nhiêu người Cuba tìm cách đến Mỹ nữa. Chỉ trong năm 2014 này, tuần duyên Hoa Kỳ đã bắt được hơn 2,000 di dân Cuba mạo hiểm tìm đường vượt biển chạy khỏi chế độ Cộng Sản. Chúng ta cũng biết rằng khoảng cách từ Cuba đến Key West, Florida, không bao xa.

Rồi đây khi có bang giao trở lại giữa Cuba và Hoa Kỳ, những người chấp nhận chết chóc ngày trước để vượt biển đến Hoa Kỳ, sẽ có dịp trở lại du lịch, viếng thăm hay “về quê ăn Tết” như những người Việt Nam của chúng ta. Elian cũng có cơ hội được Cuba gửi trở lại du học ở Hoa Kỳ. Cán bộ Cộng Sản Cuba cũng sẽ có cơ hội xâm nhập cộng đồng người Cuba tị nạn ở Miami, hay nói chung là Florida, và cộng đồng này rồi đây cũng sẽ chia rẽ, hết sự đoàn kết, xung đột chính kiến, và khẩu hiệu “hòa giải” sẽ được nêu ra. Nhiều dân gốc Cuba sẽ có cơ hội trở lại quê nhà để đầu tư, buôn bán và tình trạng này sẽ không khác gì người Việt chúng ta đã liều chết vượt thoát ra khỏi quê hương, nay lại có cơ hội trở về nơi chốn họ đã bỏ ra đi.

Và trong tình trạng Cuba nghèo đói vì bị cấm vận từ suốt 50 năm nay, sẽ có cảnh Cuba hải ngoại tị nạn “áo gấm về làng.” Phi trường La Havana rồi đây sẽ có hằng trăm thân nhân chờ đợi đón một “Cuba kiều” về thăm quê hương, không khác gì quang cảnh của Tân Sơn Nhứt 10, 20 năm về trước. Và rồi dân Cuba ở Mỹ sẽ có cơ hội “bảo lãnh” cho thân nhân ruột thịt đến Mỹ, sẽ có thanh niên hay ông già về Cuba lấy vợ. Ai muốn hút xì gà Havana hảo hạng thì kỳ này tha hồ, ai hảo ngọt, sẽ có đường cát Cuba giá rẻ mạt.

Liệu trong suy nghĩ của chúng ta, những cái chết như của bà mẹ Elian Gonzalez trên Vịnh Mexico và hàng trăm nghìn người Việt Nam bỏ mình trên biển Đông có còn ý nghĩ gì không? (*)

(*) Theo con số của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, từ năm 1975 đến 1985 có 849,228 người vượt biển, trong đó năm 1981 Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế cho rằng phân nửa số người vượt biển đã chết dưới tay hải tặc.

Ta được dựng nên là để hưởng hạnh phúc, có thật vậy không?

Ta được dựng nên là để hưởng hạnh phúc, có thật vậy không?

Dongten.net

generic-happiness

Ai cũng bảo rằng ta được sinh ra là để hưởng hạnh phúc. Ai cũng nói là có một điều tuyệt vời đang đợi ta đưa đến chỗ thành toàn. Nhưng thực tại cuộc sống mà ta đang trải nghiệm đây, dường như khiến ta không thật đồng tình với những ý kiến ấy. Hạnh phúc ư? Ta đang đói, nhìn đứa con thơ đang vật vã chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo, hết người thân này đến người thân nọ lần lượt lìa bỏ ta, tình yêu ta đang hy vọng không được sinh hoa kết trái, người ta tin tưởng phản bội ta… Bấy nhiêu sự ấy đang cùng một lúc đè nặng trên đôi vai như muốn kéo ghì ta xuống. Đấy gọi là hạnh phúc sao? Quá khứ của ta là những chuỗi ngày tối đen. Hiện tại của ta bị bủa vây bởi trăm ngày cay đắng. Tương lai của ta cũng chẳng có một lối ra. Một khối khổng lồ chằng chịt những rắc rối đang hăm hở chực chờ nuốt chửng ta. Ta dường như thấy sợ cuộc đời này hơn là yêu mến nó. Ta thấy thật khó để mong chờ một điều gì đó tốt đẹp sẽ đến bên đời mình. Sống trên đời này là để hưởng hạnh phúc sao? Có thật như thế không?

Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào việc ta hiểu thế nào là hạnh phúc. Nếu nghĩ hạnh phúc được kết dệt khi mọi ý muốn của mình được nên trọn, thì chắc là sẽ chẳng bao giờ ta có được nó khi còn sống trên trái đất này. Cuộc sống này phũ phàng lắm! Nó chẳng bao giờ chìu chuộng ai đến cùng. Có đôi khi ước mơ của ta được nó thỏa đáp, nhưng cũng có khi nó chẳng đoái hoài gì đến nguyện vọng của ta, bất chấp nguyện vọng ấy có chính đáng và tốt đẹp thế nào đi nữa. Chuyện trái ý là chuyện xảy ra như cơm bữa, mà dù ta có gào thét hay than trách bằng hết sự căm hờn của ta, nó vẫn cứ đến và bắt ta phải đón nhận. Ai mà chẳng thích mình giàu, ai lại không mong mình khỏe… nhưng cuộc sống cứ thích để mình nghèo xơ xác, cứ muốn mình phải mang bệnh tật liên miên. Ta làm gì được nó? Khi đã yêu, ai lại không muốn cùng người mình yêu dệt nên tơ vàng lấp lánh, cùng nhau xây đắp tổ uyên ương. Nhưng cuộc sống lại không cho phép chúng ta thành đôi, nó khiến chúng ta phải chia lìa ngăn cách. Ta có thể làm được điều gì hơn không?

Thực ra, phần lớn những bất hạnh mà chúng ta có xuất phát từ lỗi của chính chúng ta. Ta buồn vì mình không có kết quả tốt trong những kỳ thi. Đó là vì ta không chịu học hành cho nghiêm túc. Ta lo lắng vì mình dần dần mất đi những tương quan, ấy là vì ta đã không biết trân trọng, nâng niu và gìn giữ những tương quan ấy. Ta thất vọng vì chẳng ai để ý đến ta, chẳng ai dành cho ta những tình cảm ngọt ngào, ấy là vì ta đã có lúc không đối xử tốt với họ, hay trong lòng ta còn mang những cao ngạo, muốn những người khác phải phục tùng mình. Ta sợ khi nghĩ về tương lai, có lẽ bởi vì trong quá khứ, ta đã làm một chuyện sai trái nào đó mà đến bây giờ ta vẫn chưa thể giải quyết xong hậu quả nó gây ra. Nếu lòng ta không nuôi hận thù, thì chẳng có gì làm ta bất an. Nếu lòng ta luôn sáng trong, không cầu, không đòi hỏi, thì sự gì xảy đến cũng chẳng thể làm ta chán chường. Nếu ta biết hành xử sao cho phải phép, biết đưa ra những chọn lựa đúng đắn, biết quyết tâm vượt qua những cám dỗ hấp dẫn gọi mời, biết rèn luyện ý chí và con tim cho vững chãi, thì lòng ta lúc nào hạnh phúc và bình an.

Có nhiều người thích đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nhưng nếu hoàn cảnh có thể chi phối mọi sự thì tại sao lại có người trở nên vĩ đại dù sống trong nghèo khổ và vất vả trăm bề, và những người khác thì luôn gặp phải thất bại ê chề dù sống trong cung vàng điện ngọc? Kỳ thực, hoàn cảnh chẳng có lỗi gì cả. Điều quan trọng không phải là chuyện gì xảy đến với ta, nhưng là, ta sử dụng những gì đang xảy đến với ta như thế nào cho có lợi ích. Hoàn cảnh tốt tạo điều kiện tốt cho ta. Hoàn cảnh xấu giúp tôi luyện và thanh lọc ý chí của ta. Đã sống trên đời, ta cần phải có một lòng tin. Sở dĩ ta phải tin, là vì có nhiều chuyện xảy ra mà ta không thể nào hiểu được. Ta tin vào một điều gì đó tốt đẹp nằm đằng sau lớp mây mù này, nhưng hơn hết, ta tin vào một Ai Đó đủ sức giúp ta vượt qua. Đấng ấy là chỗ dựa của ta, là nền đá vững chắc để ta bám vào, không sợ ngã. Lòng tin cũng mang đến cho ta một niềm hy vọng. Hy vọng là phóng tầm nhìn về phía tương lai, một tương lai tươi sáng như ánh mặt trời bừng dậy sau những cơn mưa dài. Hy vọng là mở ra cho mình những hướng đi tích cực, là tự nói với mình rằng: nếu ta cứ theo chính lộ mà đi, thì chắc chắn sẽ đến được nơi yên bình, hạnh phúc. Tin và hy vọng mở lối cho ta tìm đến tình yêu, căn cội sâu thẳm nhất mà Tạo Hóa đặt để nơi mình. Đây cũng chính là bí quyết của hạnh phúc: con tim mình, khối óc mình, trọn vẹn con người mình mở ra với trời đất, với tự nhiên, với muôn loài bằng một tình yêu rực cháy. Tình yêu này sẽ băng qua những rào cản trên đường đời, hệt như cánh hoa sen vươn mình giữa bùn đen để tỏa hương thơm ngát.

Sống trên trần gian là thực hiện một cuộc hành trình. Một hạnh phúc chung cuộc đang đợi ta tìm đến nằm ở điểm cuối của cuộc hành trình này. Đó là điều chắc chắn! Nhưng chúng ta không cần phải đợi đến cuối hành trình ấy mới nếm được mùi vị hạnh phúc tuyệt hảo mà Tạo Hóa dành cho chúng ta. Đâu đó, trên chuyến hành hương tại thế này, ta vẫn có thể cảm nghiệm được chút hương hoa của nó. Đó là khi ta đừng cố tìm thỏa mãn cho mọi ước vọng của mình. Đừng lấy đó là tiêu chí cho hạnh phúc của ta, nhưng hãy bước đi trên đường ngay nẻo chính và sẵn lòng đón nhận hết mọi điều xảy đến với mình với một lòng tin, niềm hy vọng và tình yêu mạnh mẽ. Hạnh phúc sẽ đâm rễ ngay chính trong lòng mình và một nguồn bình an đích thực sẽ vươn dậy nở hoa. Đây là kiểu hạnh phúc và bình an mà Đấng Phục Sinh đã ban cho các môn đệ của Ngài. Nó sâu sắc và có tính nội tâm, chứ không hời hợt và phô diễn bên ngoài như bao người lầm tưởng. Nếu ta biết gắn kết với Nguồn Hạnh Phúc, thì chắc chắn ta sẽ có hạnh phúc!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Khai trương Viện Khổng tử ở Việt Nam

Ông Du Chính Thanh (hai, trái sang) tại lễ khai trương Viện Khổng tử tại Hà Nội hôm 27/12/2014.

Viện Khổng tử của Trung Quốc vừa được khai trương tại Đại học Hà Nội nhân chuyến thăm Việt Nam ba ngày của Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Chính hiệp TQ, ông Du Chính Thanh.

Học viện Khổng tử được thành lập ở nhiều quốc gia trên thế giới và là tổ chức được nhà nước Trung Quốc trực tiếp đầu tư kinh phí hàng năm cho từng viện.

Tờ tin mạng của Tân Hoa Xã, Xinhuanet.com bản tiếng Anh, hôm thứ Bảy cho hay Học viện Khổng tử đã được chính thức khai trương tại Hà Nội với sự tham dự của ông Du, quan chức hàng thứ tư trong Bộ Chính trị Trung Quốc, và ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

“Trong thời gian ở Việt Nam, ông Du đã viếng lăng cố Chủ tịch Việt Nam ông Hồ Chí Minh và chứng kiến khai trương Viện Khổng tử ở Đại học Hà Nội,” Tân Hoa Xã nói.

Hôm Chủ nhật, trang tin Vnexpress.net cũng đưa tin hai ông Du Chính Thanh và Nguyễn Thiện Nhân đã ‘dự lễ gắn biển’ và dẫn lời Hiệu trưởng Đại học Hà Nội, ông Nguyễn Đình Luận nói:

“Việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung,” tờ báo điện tử của Việt Nam cho hay.

’65 năm quan hệ’

Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương laiTờ Xinhuanet của Tân Hoa Xã

Hôm thứ Bảy, tờ báo điện tử của Tân Hoa xã dẫn lời ông Du Chính Thanh nói về quan hệ giữa Trung Quốc với Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh ‘quan hệ hợp tác’ vẫn là xu hướng ‘chính’ trong quan hệ của hai nước láng giềng từ 65 năm qua.

“Hợp tác hữu nghị vẫn là chính yếu trong quan hệ Trung – Việt kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao 65 năm qua…

“Các trao đổi cấp cao giữa hai đảng đã đóng vai trò không thể thay thế trong việc phát triển các mối quan hệ song phương.”

Tân Hoa Xã cho hay ông Du Chính Thanh bày tỏ quyết tâm phối hợp với Việt Nam nhân sự kiện sáu thập niên quan hệ.

“Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương lai.”

Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài ba ngày, từ 25 tới 27/12/2014, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc đã có các cuộc làm việc với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam gồm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, thường trực Bộ Chính trị Lê Hồng Anh và Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Nguyễn Thiện Nhân.

Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì

“Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì”

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu,
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 2: 1-2

Trăng chỉ quì, khi nhà thơ sấp mặt. Sấp mặt, để uốn mình theo dáng liễu dâng lời nguyện. Trăng còn quì, khi Chúa tỏ lộ với người người, ngày Hiển Linh.

Trình thuật Hiển Linh hôm nay, diễn lại tình Chúa khắp đất trời, miền Israel. Hiển Linh, bên tiếng Hy lạp có nghĩa một “bày tỏ”/”biểu hiện”. Và, Hội thánh nay mừng lễ Chúa Tỏ Hiện chính mình Ngài, đã hàm ngụ ý nghĩa một biểu hiện, như tiếng Hy Lạp.

Lần đầu Chúa Hiển hiện là ngày 25 tháng Chạp. Ngày ấy, Chúa hiện hình qua Hài nhi nhỏ bé, chẳng giúp gì. Ngài được mọi người coi như trẻ bé không nhà. Nghèo hèn. Và, kém cỏi. Ngồi quanh bên Ngài, là các trẻ nghèo hèn bị bỏ rơi. Là, mục đồng thấp bé của xã hội nghèo túng. Điều này, rất ăn khớp với chủ đề được nói đến trong Tin Mừng thánh Luca.

Hiển Linh hôm nay, cũng mang dáng dấp một tình huống tương tự. Nhưng ở đây, Hiển Linh là ngày lễ hoàn toàn khác. Khác ở chỗ, lễ hội này lại dành để cho người xa lạ, ở ngoài. Các vị ở ngoài, vẫn đến thần phục một trẻ bé, theo cung cách đối với vị vua quan. Điều này, còn xứng hợp với chủ đề mà thánh Matthêu đưa ra:“Hãy đi, mà tuyển chọn môn đồ mọi dân nước.”

Tỏ mình lần thứ ba, là dịp Đức Chúa chấp nhận để thánh Gio-an thanh tẩy. Khi ấy, Đức Chúa trưởng thành, Ngài cùng đứng bên sông với những người tỏ ra biết sám hối. Và đó là lúc, có tiếng từ trời cao xác định Ngài là Con Thiên Chúa. “Đây! Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài.” (Mt 3: 17)

Tỏ mình lần thứ tư, Đức Chúa tỏ rõ nơi Tin Mừng thánh Gio-an. Tỏ hiện này, là Chúa tỏ mình ở tiệc cưới. Ngài tỏ mình, là để mọi người biết về Vương Quốc của tình yêu. Của, sự công chính và an bình.

Vương Quốc của Ngài, nay tỏ hiện nơi Đức Giê-su Kitô. “Nước” ở đây, một biểu tượng cho Giao Ước cũ, nay biến thành “rượu”. Đấy, chính là Giao Ước Mới đã ký kết, có dấu ấn đóng trên thập tự, ở Calvari. Đức Mẹ, đại diện cho Hội thánh Chúa, nay được công nhận là Đấng Cầu Bàu, đã dùng uy tín của Mẹ Thiên Chúa để khiến Con của Mẹ, làm theo. Đây, “dấu chỉ” đầu trong 7 dấu ấn, qua đó Chúa biểu hiện rõ căn tính của Ngài, nơi Tin Mừng.

Hiển Linh hôm nay, có người hẳn sẽ thắc mắc: về câu truyện các “đạo sĩ” không chắc đã thực sự xảy ra theo đúng sử sách. Hay, chỉ là một truyện như mọi truyện kể, cũng không chừng. Trước nhất, phải công nhận đây chính là một truyện kể. Là trình thuật, gồm các sự kiện thật khó đoán trước. Khó đoán, như việc dự báo thời tiết về đêm, có lúc xuống đến 10 độ. Cũng rất khó, như việc dự đoán mực nước mưa dâng tràn, đến 10 milimét.

Truyện kể ở đây, lại là truyện Kinh Sách. Cốt đặt nặng về ý nghĩa. Như khi nghe đọc Phúc Âm, đôi khi ta cũng thắc mắc, hỏi rằng: “Truyện kể ấy, có nghĩa là gì?” “Truyện kể ấy, đem đến cho ta những gì đây?” Bởi lẽ, sự thật vẫn nằm ở ý nghĩa, chứ không ở sự việc có đích thực xảy ra, hay không.

Thật ra, trong truyện kể như thế, sự kiện tỏ bày hiện hữu cũng chỉ vu vơ, rất lờ mờ. Không đủ dữ kiện cho báo đài/truyền hình, làm bản tin. Bởi, báo đài/truyền thông bình thường chỉ lưu tâm đến những gì, khả dĩ có thể trả lời câu: Ai vậy? Đó là chuyện gì? Tại sao thế? Ở đâu? Khi nào? Ý nghĩa làm sao? Trong truyện kể tương tự, thật khó trả lời các câu hỏi như thế.

Về các đạo sĩ, mà người Hy Lạp có thói quen gọi là “magoi” (tức đạo sĩ/thân hào nhân sĩ) là các bè/nhóm hoặc các học giả kinh điển, chuyên lo giải mã chiêm bao, cùng giấc mộng. Ngày hôm nay, ta vẫn gọi các chiêm tinh gia/nhà ảo thuật thuộc tầm cỡ như phái Zoroastri, thời buổi trước. Truyền thống Giáo Hội gọi là Ba Vua (như: 3 vua ở Phương Đông), cũng là do ảnh hưởng từ Thánh Vịnh 72, câu 10: “Cả các vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đến tiến dâng lễ vật.” hoặc từ sách Isaya đoạn 49, câu 7 có nói: ”Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy”, hoặc câu 10 đoạn 60: “Vua chúa của chúng sẽ góp phần.”

Thật sự, khó mà biết được con số các vị này gồm bao nhiêu người. Nhưng, truyền thống Giáo Hội vẫn định ra, chỉ có 3 vị. Vì tất cả, có những 3 loại quà được dâng tiến. Và, tên các vị này được đặt theo ý nghĩa của từ ngữ, như: Caspar, đại diện cho dân da màu. Tức: thế giới ở bên ngoài Do Thái, nay đến với Chúa.

Như ta vẫn biết, “họ đến “từ cõi trời Đông”. Gia dĩ, có thể từ Ba Tư, miền Đông Xy-ri-a hoặc từ Ả Rập đến. Nghĩa là, những vùng sâu vùng xa. Xa và sâu, nơi chân trời ấy. Thần học gia Aloysius Pieris cho rằng: điều này mang ý nghĩa rất đáng kể với dân Á Châu. Bởi, các “thân hào nhân sĩ” đến từ vùng châu Á, chứ không là chiêm tinh gia địa phương, theo ánh sao lạ, mà tìm đến.

Dõi theo ánh sao, không rõ thời ấy có xảy ra hiện tượng sao chổi nào không? Hoặc, có sự nối kết hành tinh nào, khiến các vị ngạc nhiên, đi tìm kiếm? Dù sao, khó tưởng tượng nổi chuyện “dõi ánh sao” cả trăm dặm, để rồi cuối cùng, thấy sao vẫn lủng lẳng, trên đầu mình. Tìm cho được sự thật, thì cũng là chuyện vô bổ, mất thì giờ. Bởi, sao đây chính là Đức Giê-su. Là, Ánh Sáng soi dẫn muôn dân.

Thành thử, không nên tìm tòi lý lẽ đưa dẫn đến sự kiện. Cho bằng, hãy chú tâm đến bối cảnh và ý nghĩa nói đến trong Tin Mừng. Theo đó thì Thiên Chúa, bằng vào bản thể Đức Giê-su, là Đấng đến với thế giới nhân trần. Không như, các lãnh tụ tôn giáo, những thượng tế với kinh sư, dù biết chắc Đức Mê-sia hạ sinh cách nào, vẫn không hề bỏ công tìm kiếm.

Như Bét-lê-hem, đất miền mộc mạc chỉ cách Giê-ru-sa-lem không bao xa, thế mà Hêrôđê vẫn muốn gặp. Gặp Chúa, cốt để tẩy xoá/trừ khử mối đe doạ thay thế chỗ, của mình. Trong khi đó, khách lạ đường xa, lại cất công ra đi ngàn dặm tìm kiếm “Vua Do Thái”, để triều bái. Dâng phẩm vật.

Ngoài việc triều bái, các vị này còn dâng tiến những là: vàng, nhũ hương, và mộc thảo đầy thuốc quý. Quà tặng các vị dâng cho Chúa, vẫn là điều được gợi hứng từ lời sấm của tiên tri Isaya, ở bài đọc 1:”Họ mang theo vàng với trầm hương” (Is 60: 6). Với truyền thống Giáo hội, sau này thì: vàng tượng trưng cho Vương quyền của Chúa.Nhũ hương, biểu hiện thiên tính của Ngài. Và, mộc dược là sự thống khổ và nỗi chết Ngài gánh chịu, để cứu rỗi.

Nói chung, Lễ Hiển Linh cho ta biết một điều, là: Chúa không coi ai là khách lạ, người ngoài cả. Trái lại, tất cả đều trở thành con cái dấu yêu, của Chúa. Dù ngoại hình của ta có khác nhiều, ta vẫn cùng chung gia đình. Gia đình, có Người Cha Đáng kính, mà ta được phép gọi: “Lạy Cha của chúng con”. Điều này còn có nghĩa: ta là người anh người chị, của nhau. Là gia đình, vẫn không có chỗ cho những kỳ thị về bất cứ thứ gì. Dù, đó có là sắc tộc, chủng loại, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp… Không có chỗ, cho những khác biệt về vị thế, mức độ.

Hiển Linh hôm nay, dù có mang tính mông lung/mơ hồ của một truyện kể, nhưng thông điệp ấy vẫn rõ mồn một. Rõ như ban ngày. Cảm tạ Chúa. Hôm nay, không có ai là “dân riêng được chọn”. Dù, có là người Do Thái. Dù là Kitô-hữu. Công giáo hay dân đứng ở ngoài. Hãy cứ tìm hiểu về đặc tính gần gũi/cận kề, với Đức Chúa. Đó, cũng là lý do để ta tìm cách mà gần gũi/cận kề, bên nhau. Gần gũi/cận kề, là không đứng ở ngoài làm khách lạ người dưng.

Nhưng, tất cả đều được mời. Dù, người được mời có là Mẹ của Đức Chúa. Dù, ta giàu có hay vẫn nghèo hèn. Dù, ta được trọng đãi hoặc vẫn bị bỏ rơi, đơn lẻ. Dù, người được mời có mạnh khoẻ. Hay, vẫn ốm yếu, tật nguyền. Là, thánh nhân hay vẫn chỉ là tội phạm, ta vẫn là con của Đức Chúa.

Chỉ là dân ngoại/khách lạ người dưng, khi đã lầm lỡ. Và làm cho ai đó trở thành người sống ngoài rìa, ngoài cộng đoàn. Ngoài tình thân. Nghĩa là, ta vẫn chối từ tặng ban đặc sủng thương yêu tôn kính. Tặng ban cách đồng đều cho hết mọi người. Cho cả dân ngoại. Nếu ta vẫn cứ làm cho người ngoài cứ thế ở ngoài rià, tức là: ta đã tiếp tay với nhóm Pharisêu ngạo nghễ, với đám thượng tế rất kiêu sa. Mù quáng. Cố chấp.

Về lại với chính mình, ta hãy tự hỏi: mình thuộc về sao nào? Chúa gọi mình ra sao? Cách nào? Ngài muốn ta tìm đến gặp Ngài nơi ai, để có thể phục vụ và theo chân Ngài? Nơi người vẫn có cỗ cao mâm đầy, ư? Hay nơi kẻ nghèo hèn? Có phải ta vẫn cản ngăn người khác tìm kiếm “ánh sao”, cho chính họ?

Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay, dĩ nhiên có những điều ta khó mà đổi thay. Khó mà, quyết định ai sai – ai đúng. Nhưng vẫn không trễ, để ta có thể dõi mắt tìm kiếm “ánh sao”, cho đời mình. Tìm kiếm, để dõi bước chân mềm mà đi theo. Ngay ở đây. Bây giờ.

Khi xưa, đạo sĩ đã cất bước ra đi. Ra đi, các vị đi mãi tận đất miền Bét-lê-hem, mới gặp Chúa. Chẳng vị nào tiếc công hoặc tiếc của. Ra đi, các vị đã làm gương để ta cũng ra đi với lòng quả cảm và tin yêu, mà dõi bước. Dõi bước, nhưng không luyến tiếc, hối hận. Dõi bước ra đi, để sẽ không ân hận là mình đã khởi sự, từ hôm nay.

Trong tinh thần cương quyết ấy, ta cứ hát lên lời ca phấn chấn thúc đẩy:

“Người đi trên dương gian

Thở hơi gió từ ngàn năm

Gió lung lay Hoành Sơn

Gió dâng cao Biển Đông

Người đi trong thanh xuân

Sưởi hương nắng như lửa sống

Máu sôi như sắc trời

Bước nhanh vượt chân đời.”

(Phạm Duy – Lữ Hành)

Đi, trên dương gian. Đi, trong thanh xuân. Đi, để thấy “trước cửa bóng trăng quỳ”. Trăng quỳ, như người quỳ. Quỳ và lạy Đấng Hài Nhi, nay đến cứu độ nhân gian chốn phàm trần. Còn lỗi phạm.

Lm Frank Doyle sj –

Mai Tá Lược dịch

“Một người ngồi bên kia sông”,

“Một người ngồi bên kia sông”,
“im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào.”

(Phạm Duy – Hẹn Hò)

(Titô 2: 1-8)

Hát chữ “Hẹn hò” theo kiểu nhạc sĩ Phạm Duy, lại là và vẫn là hát những lời ca và ý nhạc rất nổi cộm. Hát thế rồi, mà lại cộng thêm tiếng “mưa rơi” ướt át, như để kể lể đôi điều ở bên dưới:

“Trời thì mưa rơi,

mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau.

Người thì hẹn nhau sang song,

mong cho chóng tạnh mùa Ngâu.

Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau

cách một biển sâu.

Hẹn hò tàn thu sang xuân bên nhau

biết thuở ban đầu.

Dù tình không nguôi,

đôi ta xin cho hứa vui về sau.

Trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi

cách biệt dài lâu…(Phạm Duy – bđd)

Hát chữ “cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau” theo kiểu “mưa Ngâu” còn là hát và nói lời yêu đương, giận hờn, như truyện kể khác có ngay bên dưới:

“Giật mình thức giấc. Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn bốn giờ sáng. Tôi đến bên máy vi-tính bật máy lên. Mở chương-trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy-nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương-trình lại bật lên thông-báo nhấp nháy màu đỏ chói: “Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen Lan”. Tôi chỉnh chương-trình để xem lại cái ngày đầu-tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức. Tôi quyết-định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc-chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn-nguyện với một cái thiệp nhiều ý-nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của Lan tôi hồi-hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem.

“Anh thân mến !

Thế là chúng mình quen nhau đã ba năm rồi. Trong ba năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh. Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan-hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến-yêu, kính-nể. Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã chín giờ tối mà anh vẫn chưa về. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh. Em xin phép được tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn : “Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được” và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: “Đôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản, là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!. Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc Anh luôn vui vẻ và thành đạt”.

Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây: Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng bia, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ-quan, chuyện nhà xếp, chuyện quan-trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn không hết. Em thấy mẹ anh cặm cụi dọn dẹp lại thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say. Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu-nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan-liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện Iran, chuyện Sadam, chuyện SEA Games… Em thấy mẹ cẩn-thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập-ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con? Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù là tăng bốn hay tăng ba… Em thấy mẹ cứ trằn-trọc ra vô mãi, đã gần hai giờ rồi mà phòng nó vắng tanh. Không biết có chuyện gì không hay? Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền. Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định-mức chưa. Em thấy anh ghiền chơi máy điện-toán, đồ điện-tử, cứ hì hục nâng-cấp CPU lên năm lên sáu lần… Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chậm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh còn tắm mưa ngoài đường.  Em thấy anh là chuyên-viên vi-tính, viết phần mềm để quản-lý công-ty, làm network viễn-liên để đấu mạng cho các hãng thầu khét tiếng, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình-thương của người mẹ. Em thấy mẹ chẳng cần vi-tính, vẫn âm thầm lập-trình cá, cơm, rau, nước. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh! Em thấy anh làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh. Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao…

Có bao giờ các bạn nghĩ rằng mình đã thật sự quan-tâm đến ai đó chưa?

Có bao giờ các bạn đã quan-tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?

Có bao giờ các bạn tự đặt mình vào hoàn-cảnh của người khác?

Hy-vọng qua câu chuyện này tôi và các bạn có thể tìm lại được những bài học về sự quan-tâm mà các bạn đã lỡ đánh mất. Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người mẹ, người cha, những người luôn ở bên các bạn, luôn hướng sự quan-tâm về phía các bạn mà không cần đòi hỏi điều đó từ các bạn!

Mẹ – là dòng suối ngọt ngào, là nải chuối buồng cau, là tiếng hát đêm thâu…

Một tình-yêu không biên-giới và không đòi-hỏi người trả ơn.

Thọ (Trích truyện do bạn bè gửi vào ngày 28/11/2014)

Có thể là, cuộc đời người gồm những điều được nói và hát suốt nhiều thế-kỷ. Hát và nói, còn để tỏ tình cho nhau, bằng những lời như sau:

“Nước vẫn trôi mau,
mắt vẫn hoen sầu.
Đành để hồn theo nước trôi không màu.
Số kiếp hay sao
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần nhau?
Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát hò, thì như thế. Chuyện trò, lại không vậy. Không như vậy, cả đến những lời chuyện trò ở nhà Đạo, có đấng bậc ở trên cao tít lại đã từng phán những ý-tứ và ý-từ mạnh bạo, khác thường, như bao giờ. Và, ý-từ cùng ý-tứ của lời phán bảo ở dưới đây cũng nên coi như lời phán bảo vào ngày hôm nay tuy có mạnh và có bạo như thời trước hay không, vẫn là điều để bạn và tôi nhận xét. Nhưng trước hết, ta cứ nghe ý-kiến của ngài xem sao đã. Những ý-tưởng vẫn bào rằng:

“Rõ ràng là, khi đáp-trả những lời bình-phẩm về việc tuyển-dụng và ban giáo-huấn cho một số phong-trào giáo-dân người Công-giáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói rằng: các phong-trào như thế là để tôn-trọng sự tự-do của các thành-viên trẻ tuổi và để ta không còn khai-thác điểm yếu của họ về kinh-nghiệm trong trưởng-thành.

Đức Giáo-hoàng cũng kêu gọi các phong-trào này hãy tránh rơi vào tình-trạng ganh-đua, đối-đầu và đâm lưng nhau, nhưng ngược lại hãy hợp-tác cho lợi-ích chung cũng như tôn-trọng thẩm-quyền của các giám-mục cai-quản giáo-phận.

Đức Phanixô đã đưa ra lời kêu gọi này vào ngày 22/11/2014 nhân có buổi gặp gỡ giữa các thành viên Quốc hội của các nước thuộc Thế giới Thứ Ba có các Phong trào và Đoàn-thể mới trong Giáo-hội như thế.

Đức Giáo Hoàng nói: “Là người chịu trách-nhiệm về các khó-khăn trong gia-đình cũng như về thể-chế giáo-dục trên thế-giới, ta đều biết: giới trẻ hôm nay đang “trải-nghiệm khó khăn về căn-tính, nên thấy khó lòng khi buộc phải chọn lựa điều gì. Kết cuộc là, họ cứ để cho mọi sự định đoạt đời họ và để mất đi sự tự-chủ khi buộc phải có quyết-định quan-trọng cho đời mình. Vì thế nên, ta cần phải chống lại mọi chước cám-dỗ cứ làm muốn ta tước-đoạt sự tự-do của người khác, và buộc họ theo ý mình mà không cho phép họ có cơ-hội được trưởng-thành, hoặc lớn mạnh. Mọi tiến-triển về luân-lý cũng như linh-đạo vẫn kiểm-soát và khuynh-loát tính thiếu trưởng-thành của người trẻ và mọi thành công nơi họ chỉ có tính bề ngoài dễ đưa đến thất-bại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh sự kiện là: các phong-trảo này khác cũng nên hợp-tác với nhau và với các đấng chủ-quản Giáo-hội ở địa-phương mình. Ngài tiếp lời căn dặn: “Giả như thế giới này đầy tràn những rẽ chia, kình chống và đâu nhau sau lưng, không cần biết nguyên do tại đâu, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng cho họ được?”Các phong-trào và ban/ngành cộng-đoàn được kêu mời hợp tác nỗ-lực để lo cho những người tật nguyền tâm thần trên thế-giới chỉ muốn đặt nặng chuyện tiêu-pha hưởng-thụ quên cả Chúa Mẹ cùng các giá-trị thiết-yếu cho cuộc sống.”

Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Sự hiệp-thông đích-thật không thể tồn tại trong phong-trào này khác hoặc trong cộng-đoàn được, trừ phi họ biết hội-nhập vào với cộng-đồng rộng lớn là mẹ thánh Giáo hội có hệ-cấp trên dưới, rõ ràng.“ (xem Francis Rocca, trong bài viết có tựa đề là  Francis cautions new movements, trên báo The Catholic Weekly, 30/11/2014 tr. 5)

Xem thế thì, chân-lý mọi thời vẫn là: ta hãy hiệp-thông tương-quan với nhau trong cộng-đồng rộng lớn tức Giáo hội. Có tương-quan hiệp-thông như thế, mới thấy rằng: mình và mọi người vẫn là Thân Mình của Đức Kitô, thôi.

Về hiệp-thông tương-quan, bần đạo đây cũng đã trải-nghiệm một tình-huống khá mới mẻ, là: vừa qua bần đạo có anh bạn mới quen ở Sydney, tên anh là Nguyễn Văn Tạ từng là cựu tu-sinh Dòng thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô và là cựu học-viên Giáo-Hoàng Học-viện ở Đà-Lạt trước 75. Anh đọc bài phiếm nọ có trích-dẫn câu nói của Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng tuyên bố: Đức Giêsu không phải là người Công giáo…

Để hỗ-trợ cho lời vàng-ngọc của vị chủ chăn toàn-thể Giáo-hội Công-giáo, anh đẽ chìa cho bần đạo thấy cuống “The Catholic Church của Lm Hans Kũng, trong đó có chương/đoạn bắt đầu bằng câu hỏi: “Đức Giêsu khi xưa có là người Công-giáo?” Và, tác-giả đã từng viết:

“Nhiều người Công-giáo lại vẫn có lập-trường phù-hợp với truyền-thống chuyên giữ “ lề phải”, lại cứ hiểu ngầm Ngài là như thế! Giáo-hội Công-giáo lâu nay vẫn luôn đặt nền tảng trên những gì mà ngay nay, nhiều người vẫn suy như thế; và Giáo-hội Công-giáo lâu này vẫn cứ bảo và có khuynh-hướng cho rằng: trên nguyên-tắc, Đức Giêsu thật ra cũng phải như thế mới được.

Thế nhưng, phải chăng Giáo hội đây lại đã thành-công rực rỡ và vững-mạnh hơn các Giáo-hội khác cũng có lý để dựa dẫm vào Đức Giêsu Kitô, chứ? Hoặc giả, chính Giáo hội đầy phẩm-trật này cũng tự-hào dựa vào ai đó là người có thể quay ngược trở lại sự việc này? Theo kinh nghiệm, ta có thể nào tưởng-tượng ra rằng Đức GIêsu thành Nazarét có mặt ở thánh lễ do Đức Giáo Hoàng chủ-trì tại Quảng Trường thánh Phêrô, ở Rôma chứ? Và, hoặc giả, những người có mặt ở nơi đó dám sử-dụng ngôn-từ của nhà văn người Nga là Dostoevsky khi viết cuốn Quan-toà Dị-giáo, có nói: “Sao ngài lại đến quấy rầy bọn tôi thế?”

Ở trường-hợp nào đi nữa, mọi người cũng đừng quên rằng: mọi nguồn cung-cấp thông-tin và tường-trình đều phải thuần-nhất. Bởi, ngang qua Lời và Hành-xử của Ngài, Đức Giêsu là người Nazarét đã dính-dự vào cuộc xung-đột nguy-hiểm với quyền-bính nắm giữ trật-tự vào thời Ngài. Xung-đột không phải với dân-chúng mà là với giới-chức có thẩm-quyền về Đạo, với hệ-cấp quản-trị đã trao-nộp Ngài cho nhà cầm-quyền thực-dân người La Mã và như thế dẫn đưa Ngài vào chỗ chết…

Chính Đức GIêsu là Đấng từng “toả sáng” tinh-thần và đường-lối sống của Ngài theo nghĩa tốt-đẹp nhất của ngôn-từ. Điều nay ăn khớp với “chúng-dân” (tiếng Hy-Lạp gọi là “demos)” của những người từng được tư-do (chứ không là thể-chế gò bó, chế-ngự, dù ta có gọi đó là Toà Dị-giáo hay gì đi nữa; và trên nguyên-tắc vẫn phải đồng đều về quyền-hành (chứ không là Giáo-hội mang đặc-trưng/đặc-thù của giai-cấp , chủng-tộc hoặc vai-vế) của những người anh và người chị (chứ không phải đoàn-lũ nam-nhân chỉ muốn tôn-sùng có một người. Đây là Kitô-hữu tiên-khởi có tự-do, công bằng/đồng đều và bằng-hữu, chứ không phải là cộng-đoàn tiên-khởi ngay lúc đó đã có cơ cấu phẩm-trật gồm các tông-đồ làm trụ-cột và có thánh Phêrô là đá tảng của ai đó, chứ?” (xem Hans Kũng, The Beginning of the Catholic Church, Phoenix Press London 2002, tr. 15-16)

Có tự-hào để bảo: Đức Giêsu là Công Giáo chứ Ngài không thuộc Do-thái-giáo hoặc Tin Lành/Thệ Phản chăng, cũng chỉ để đưa dẫn Ngài vào với phe/phái của mình ở đâu đó, mà thôi. Nào có gì chắc chắn để chứng-minh rằng: khi xưa Ngài cũng thực-thi các điều-luật của Đạo mình.

Nói thế, là để hỏi rằng: Chúa và tôi có cùng một lối sống, cùng một đường-hướng tư-duy, sinh-hoạt phụng-vụ hoặc lễ-lạy giống như người nhà Đạo, rất hôm nay?

Nói như thế, là để bảo: người thời nay có chăng lập-trường sống những bon chen, nổ dòn lộp độp nhiều diễn-xuất?

Nói đến thế, là cốt để tôi và bạn ta cùng nhau kiểm-điểm xem lâu nay mình quan-niệm thế nào về niềm tin, thương yêu và hy vọng, là cốt cán của mọi ràng buộc trong Đạo, mà thôi.

Nói những thế, còn muốn nói nhiều về tư-thế cũng như quyết-tâm của mỗi người và mọi người trong tin-yêu.

Nói thế nào đi nữa, cũng cứ thử nghe người đời không nói nhiều, nhưng lại cứ hát, nhưng ca-từ cũng đầy ý-tứ và ý-từ như sau: 

“Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát như thế, là người đời những muốn kể về tâm-trạng của chính mình, khi đã có những “hẹn hò” có tâm-tư và tâm-tình của người ở đời rất chóng chán. Chán rất nhiều, khi đã hẹn hò là thế, mà sao người cùng hẹn lại cứ thờ ơ, ơ hờ nhiều năm tháng!

Hát đến như vậy, còn để bảo cho nhau và với nhau rằng: đời người vẫn có những tháng ngày khiến con người quên cả lời hẹn hò, nhiều khúc mắc. Khúc mắc như nhiều chuyện từng xảy đến với muôn người, ở đới.

Nói cho cùng, có là Công Giáo, Chính Thống hoặc Tin Lành/Thệ Phản đi nữa, cũng nên nghe đấng thánh hiền lành từng nhắc nhở rằng:

“Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.2

Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực,

vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại.3

Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh,

không nói xấu,

không rượu chè say sưa,

nhưng biết dạy bảo điều lành.

Như vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con,5

biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng,

để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.

(Titô 2: 1-8)

Nói cho cùng, dù bạn/dù tôi, ta có theo giáo-phái nào đi nữa, thì cuối cùng cũng đều qui về một mối, một lònglà: niềm tin vào Đức Kitô là Đấng Cứu-Chuộc mọi người, không chỉ mỗi Công-giáo mà thôi.

Nói cho cùng, có tự-hào là người Đạo nào đi nữa, cũng hãy tự-hào rằng: lâu nay mình vẫn hằng phổ-biến triết-thuyết của Tin Mừng luôn bảo rằng: Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu. Và, một khi ta đã trở nên một với Ngài rồi, thì không có lý gì để ta hay ai đó lại cứ tự cho chỉ một mình mới có chính-nghĩa khi tin tưởng vào Thiên-Chúc và thánh hội của Ngài.

Nói cho cùng, là nói và hỏi rằng: thánh Hội của Chúa có chủ-trương và có quyết-tâm thực-hiện chủ trương ấy trong yêu thương giùm giúp hết mọi người hay không? Hoặc, vẫn cứ như người khi xưa được Ngài gọi là nhóm hội vẫn tự cao, tự đại cho rằng: nhóm của mình/đạo mình mới nắm vững, thực-hiện luật lệ, rất chính-qui?

Nói cho cùng, còn là nói ít, nhưng làm nhiều. Làm như Tin Mừng dạy, nhưng lặng-thinh, im ắng, rất ẩn-dật.

Nói cho cùng, còn nói bằng truyện kể rất nhè nhẹ để minh-hoạ cho những gì mình từng có kinh-nghiệm để đời về cuộc sống ở đời.

“Truyện rằng:

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.

Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa. Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô. Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.

Và người kể truyện, lại cũng tóm kết ý-nghĩa của truyện kể bằng những lời như sau: “Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Có trích-dẫn và/hoặc giải-thích lời trích và dẫn của mình thế nào đi nữa, cuối cùng cũng chỉ để tóm gọn mỗi điều này: Hãy cứ chứng-tỏ tình-thương mình có với người khác đi đã, từ đó người kia/người nọ sẽ biết mình là ai, và Thày mình là Đấng nào.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những nhận-định

Cùng cương-quyết hiếm có

Suốt đời mình,

giống ở trên.

CẢI TẠO NGƯỢC

CẢI TẠO NGƯỢC

Trích EPHATA  634

Dưới đây là một trích đoạn trả lời phỏng vấn ông Nguyễn Hoàng Đức với đài RFA:

“Tôi đã từng làm trong Phòng Tôn Giáo của Bộ Công An. Trong Phòng ấy người ta có “đối sách” về Đức Cha mà sau này là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Ông bị chuyển đổi từ miền Nam ra với cái tội rất to là vì ông là cháu của Ngô Đình Diệm và trở về Sàigòn làm Phó Tổng Giám Mục theo ý là lót ổ để lên Tổng Giám Mục.

Và ông cứ thế bị chuyển ra ngoài Bắc. Trong thời gian ông ấy bị cầm cố ở Hà Nội ( có nghĩa là không ở tù ) tức là được giữ trong mật viện. Có một đội trông ông ta, nhưng tôi là một cán bộ cũng khá lâu năm, một sĩ quan khá lâu năm nên tôi đề nghị để tôi ra học tiếng Pháp với cha, trên tinh thần là luyện tiếng Pháp chứ không phải để trông cha. Cụ thể là như thế…

Sau khi học tiếng Pháp với ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa, vì tôi làm ở Cục Chống Phản Động nên biết dễ phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.

Sau khi vào Sàigòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các Nhà Thờ, Nhà Thờ trung tâm Đức Bà, Nhà Thờ Kỳ Đồng… Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một giấc mơ là tôi đi Nhà Thờ và tôi có rửa tội.

Đúng đêm tôi rửa tội ở Nhà Thờ lớn thì cha Ngân, bây giờ trở thành Giám Mục, bảo với cha Hùng, hiện nay đang học bên Ý hay bên Pháp gì đấy, mời tôi viết diễn giải về Đức Tin, và tôi có viết bài “Con đường Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận”. Bài này đã gởi qua Tòa Thánh và nằm trong hồ sơ và đã được cha Sỹ đang ở Việt Nam xin đưa chữ ký vào những bản dịch khoảng 4, 5 thứ tiếng. Tôi hiểu là việc phong Thánh cần phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức Tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh. Phép lạ thứ ba là mồ mả phát. Tôi là một trong những phép lạ về Đức Tin.”

NGUYỄN HOÀNG ĐỨC – RFA link

Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức nguyên là công an, từng học tiếng Pháp với Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Anh đã viết một chuyên luận về: “Hành trình Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận” để mô tả lại quá trình biến đổi tình cảm, tâm lý và đến với Chúa của anh. Tài liệu đó hiện đang được Bộ Phong Thánh ở Roma lưu giữ xem như một phép lạ Đức Tin.

Được Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình Tòa Thánh Vatican mời qua Rôma làm chứng về Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận nhân dịp lễ kết thúc điều tra phong Chân Phúc cấp Giáo Phận. Ngày 2.7.2013 anh lên đường sang Rôma, nhưng đã bị công an ngăn chặn và thu hộ chiếu tại sân bay Nội Bài mà không có lý do rõ ràng.

Đức cố Hồng Y sống 13 năm trong ngục tù Cộng Sản, một số sự việc trong đời sống tù đày đã được ngài kể lại trong “Năm chiếc bánh và hai con cá”, tác phẩm được dịch ra 8 thứ tiếng, để phục vụ các tham dự viên ‘Những Ngày Giới Trẻ’ tại Paris năm 1997. Mời bạn đọc xem lại vài trích đoạn sau:

Có lúc Chúa dùng Giáo Dân để dạy tôi cầu nguyện

Thời gian bị quản thúc ở Giang Xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ Giáo Xứ Ðại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi: “Thưa cha, cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội Thánh; ở trong tù cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do !”

Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện

Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi: “Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi ! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật ! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau: “Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ Nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập Nhà Thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.

Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây !” ( Ảnh chụp Đức Hồng Y Thuận và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 tại Roma )

Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc !” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm“.

Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.

Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết !”

Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá ! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.

Tôi phải làm thế nào ?

Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế ? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.

Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời…

Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi ! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.

Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”. Khi nào có hai hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.

Hát kinh “Veni Creator”

Một hôm một ông xếp hỏi tôi:

– Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công Giáo” ?

– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công Giáo và cho cả nhà nước.

– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy ?

– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.

– Ông có thể giúp được không ?

– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon ( từ điển bỏ túi ) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo Hội…

Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo Hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành.

Ai cũng muốn biết Viện Phụ là gì, Thượng Phụ là gì, Công Giáo khác Anh Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo chỗ nào ? Tài chánh của Tòa Thánh từ đâu mà có ? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện Tu Sĩ, Giáo Sĩ thế nào ? Giáo Hội phục vụ nhân loại thế nào ? Tại sao Giáo Hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại ? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.

Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu Tu Sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo Hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:

– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không ?

– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào ?

– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.

Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không ? Anh ta chọn bài Veni Creator ( Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm… ). Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe !

Nguồn: Diễn Đàn Người Giáo Dân

Sự Khó Khăn Nơi Nhà Trọ

Sự Khó Khăn Nơi Nhà Trọ

Thời gian đó, tôi đang dậy lớp HAI tại thành phố London, tỉnh bang Ontario, Canada, và được yêu cầu dựng một họat cảnh Giáng Sinh cho mùa Giáng Sinh năm đó.  Một số người đã cho rằng những gì xảy ra trong họat cảnh đã làm hỏng buổi trình diễn, nhưng có một số đông người khác lại cho rằng, đây lại là một câu chuyện về Giáng Sinh chân thật nhất, cảm động nhất mà họ được xem.

Bây giờ, mời bạn làm quan tòa, phân xử xem sao nhé!

Sau  một thời gian suy nghĩ và tính toán, tôi cũng thực hiện xong bảng phân vai cho họat cảnh.  Nhưng cũng gặp phải một điều phiền phức, đó là cậu học sinh, tên là Ralph.  Em là một chú bé rất mập, đã được 9 tuổi, mà lẽ ra phải đang học ở lớp 4 cơ đấy.  Ngoài sự mập mạp quá đáng, em còn là một chú bé rất vụng về, làm cái gì, hay nghĩ điều gì cũng rất chậm, chậm quá thể.  Tuy nhiên, đám trẻ lại rất thương qúy em, đặc biệt là những đứa còn bé – Lúc nào em cũng tỏ ra như là người anh lớn tự nhiên phải bênh vực, bảo vệ các em nhỏ.

Ralph muốn là một chú bé chăn chiên với ống sáo trên tay.  Tôi bảo em là tôi có được một vai rất quan trọng và rất hợp với em.  Em sẽ là ông quản lý nhà trọ.  Lý do của tôi là : vì bản chất chậm chạp, em sẽ không phải nhớ nhiều lời đối thọai.  Thêm nữa, cái khổ người dềnh dàng của em, sẽ làm cho sự từ chối gia đình ông Giuse về chổ ở trọ, gây nhiều ấn tượng hơn.  Chúng tôi tập đi tập lại họat cảnh nhiều lần, mỗi em đều cố gắng và cảm thấy sự quan trọng đóng góp cho sự thành công của buổi trình diễn.

Hội trường tràn ngập những người thân và bạn bè cho buổi văn nghệ rực rỡ mỗi năm và trên sân khấu đầy những đứa bé mặt mày hớn hở, vui tươi chờ đợi đến phiên mình diễn, em nào cũng tỏ vẻ hưng phấn.

Buổi diễn tiến hành rất suông sẻ, không xẩy ra điều rủi ro nào đáng kể – cho tới khi ông Giuse xuất hiện, với những bước đi chậm chậm, nhẹ nhàng dìu bà Maria đến cửa quán trọ.  Ông gõ thật mạnh lên cánh cửa gỗ của quán trọ.

Từ nãy giờ, Ralph chỉ chờ có thế.  Em mở tung cánh cửa với một thái độ rất thô lỗ, và la toáng lên:

–  Mấy người muốn gì, hả?

Ông Giuse nhỏ nhẹ:

–  Dạ, chúng tôi đang cần một chỗ trọ ạ.

–  Đi kiếm chỗ khác đi.

Ralph nhìn thẳng về phía trước, nói thêm với giọng cứng rắn:

–  Quán trọ đầy người rồi.

–  Xin ông thương dùm cho, chúng tôi đã hỏi khắp nơi mà cũng chẳng được gì.  Chúng tôi đã đi từ xa đến và đã rất mệt mỏi, thưa ông.

–  Không còn phòng nào cho các người đâu.

–  Thưa ông quản lý nhân lành, xin làm ơn, đây là Maria, vợ tôi.  Cô ấy đang có thai gần đến ngày sinh và cần một chỗ để nghỉ qua đêm.  Cô ấy đã mệt mỏi quá rồi.  Chắc là ngài có một góc nhỏ nào đó, ch nào cũng được, cho cô ây nghỉ đỡ.

Ralph nhíu mày, cúi nhìn Maria, im lặng một lúc lâu.  Bên dưới, khán giả trở nên căng thẳng.  Tôi vội nhắc khẽ từ phía cánh gà: “Không năn nỉ ỉ ôi gì cả, xéo ngay, xéo.”

Ralph cứ đứng đờ người ra, cau trán như đang cố suy nghĩ điều gì!

Từ sau cánh gà sân khấu, tôi đã nhắc ba lần, lần sau nhắc to hơn lần trước.  Ralph cứ đứng như trời trồng không tỏ một dấu hiệu nào cả.  Đám thiên thần đứng sau hậu trường với tôi, cũng bắt đầu bối rối, bồn chồn.

Sau cùng, chắc Ralph cũng nhớ ra, tự động lập lại nhưng chữ mà em đã học thuộc lòng trong những tuần lễ dài diễn tập :

– Không năn nỉ ỉ ôi gì cả, xéo ngay, XÉO.

Ông Giuse buồn rầu, quàng tay dìu bà Maria và chuẩn bị rời đi. “ÔNG” quản lý nhà trọ Ralph lại không chịu đóng cửa trở vào trong nhà trọ như đã được hướng dẫn tập dư.  Cậu học trò lớp Hai đóng vai ông quản lý đứng bất động, nhìn theo cặp vợ chồng Giuse Maria cô đơn, bất hạnh…  Trông Ralph có vẻ lúng túng khó xử, miệng em há to, trán cau lại có vẻ đăm chiêu suy nghĩ, và mắt em long lanh đầy nước… Đột nhiên, toàn bộ họat cảnh Giáng sinh, phần còn lại thay đổi hoàn toàn…. Ralph gào lên:

–  Ông Giuse ơi, đừng đi vội.  Làm ơn đừng bỏ đi.  Đưa cô Maria trở lại đây.

Mặt em đột nhiên hân hoan với nụ cười rộng mở.  Em giang rộng vòng tay :

– Các bạn có thể ở trong phòng của tôi mà.

Quả thật, không ai trong đám đông khán giả hay ở trên sân khấu ngày hôm ấy, lại gặp được những phút giây kỳ diệu trong đêm trình diễn họat cảnh Giáng sinh hơn là Ralph.

Và, lạy Chúa tôi, mắt tôi đầy lệ…. Tôi bật khóc lúc nào không biết!

Hồng ân Chúa đổ xuống trên mọi người, và trong giây phút linh thiêng ấy, ca đoàn thiên sứ bé nhỏ trong hậu trường bước ra sân khấu hòa vang ca khúc:

“Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời. Bình An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương.”

Phạm Vinh Sơn.

Dịch từ trưyện ngắn của: Dina Donohue

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

HRW nói VN dùng côn đồ trấn áp nhân quyền

HRW nói VN dùng côn đồ trấn áp nhân quyền

Cảnh sát Việt Nam đối mặt với những người ủng hộ ông Lê Quốc Quân tại phiên xử ông hồi tháng Hai năm 2014

Công an Việt Nam bị cáo buộc làm ngơ trước những vụ hành hung các nhà hoạt động

Giám đốc Á châu của tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch vừa lên tiếng cáo buộc Việt Nam dùng côn đồ để trấn áp nhân quyền.

Trong bài viết đăng trên trang The Diplomat hôm 27/10, ông Brad Adams mở đầu với những câu:

“Điều gì tệ hại hơn, bị bỏ tù hay bị đánh đập? Đây là câu hỏi mà các nhà hoạt động ở Việt Nam cân nhắc vào Ngày Nhân quyền Quốc tế trong tháng này.

“Chính quyền Việt Nam đã bỏ tù người dân vì khác chính kiến trong hơn nửa thế kỷ qua. Gần đây chính quyền cố thuyết phục các chính phủ và các nhà ngoại giao rằng họ đã độ lượng hơn và chỉ ra rằng các vụ bắt những người chỉ trích đã giảm đi.”

Mặc dù vậy ông Adams nói ít nhất 29 nhà hoạt động và blogger trong đó có hai blogger có tiếng, Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Quang Lập đã bị bắt trong năm 2014.

Nhưng cáo buộc chính của bài viết là chính quyền ở Hà Nội đã dùng côn đồ để trấn áp những người mà họ không bỏ tù.

“Côn đồ, có vẻ như là nhân viên chính quyền mặc thường phục, đã bắt đầu tấn công những người bất đồng chính kiến, thường là [tấn công] công khai, mà hoàn toàn không chịu hậu quả gì.

“Gần đây nhất, hôm 9/12, blogger Nguyễn Hoàng Vi ở thành phố Hồ Chí Minh đang đi về nhà thì bị một nhóm nam và nữ giới chặn được, túm tóc và đấm túi bụi.

“Hàng chục người trong đó có cả các nhân viên an ninh của chính quyền đóng bên ngoài nhà Vi đã đứng nhìn và không can thiệp.

“Khi một lái xe taxi định chở Vi tới bệnh viện thì lực lượng an ninh can thiệp và đòi đưa cô về nhà.”

Việt Nam luôn bác bỏ các cáo buộc về chuyện họ trấn áp những người bất đồng chính kiến.

‘Xô đẩy Tổng lãnh sự’

Ngoài vụ việc đối với blogger Nguyễn Hoàng Vi, ông Brad Adams cũng nêu những vụ trấn áp với hình thức tương tự đối với blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Ngọc Tuấn và Huỳnh Trọng Hiếu.

Bênh cạnh đó là những cuộc tấn công khác nhắm vào các nhà hoạt động Trần Thị Thúy Nga và Trương Minh Đức.

Ông Adams cũng nói ngay cả Tổng Lãnh sự Pháp ở thành phố Hồ Chí Minh cũng bị xô đẩy khi ông tới nơi diễn ra một vụ chạm trán giữa các nhà hoạt động và côn đồ.

” Không ai bị buộc tội trong những vụ này. Hầu hết các vụ tấn công xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật và trước mặt những người khác. Cảnh sát mặc sắc phục không can thiệp, nhiều khả năng vì họ tin rằng những kẻ tấn công là nhân viên chính quyền.

Brad Adams, Giám đốc Á châu của Human Rights Watch”

Vị Giám đốc Á châu của Human Rights Watch viết:

“Không ai bị buộc tội trong những vụ này. Hầu hết các vụ tấn công xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật và trước mặt những người khác.

“Cảnh sát mặc sắc phục không can thiệp, nhiều khả năng vì họ tin rằng những kẻ tấn công là nhân viên chính quyền.

“Toan ngăn chặn các cuộc tấn công, đúng ra là một quyết định duy nhất đúng về mặt nghề nghiệp và đạo đức đối với một cảnh sát, lại quá mạo hiểm và có thể làm họ mất việc hoặc tệ hơn.”

Cuối bài ông Adams nói cho dù châu Âu và Nhật Bản muốn tăng cường buôn bán và Hoa Kỳ muốn có quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam để đối trọng với Trung Quốc, họ cũng “cần nhớ rằng các chính phủ tốt nhất và ổn định nhất là các chính phủ tạo không gian an toàn cho tự do ngôn luận chứ không phải các chính phủ đánh đập hay bỏ tù những người bày tỏ chính kiến.”

Human Rights Watch và một số tổ chức theo dõi nhân quyền khác từng bị Việt Nam liệt vào các tổ chức “có dụng ý xấu” đối với chính quyền Hà Nội.

Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Nguyên nhân khủng hoảng gia đình

Chuacuuthe.com

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (26.12.2014) – Đồng Nai – Con người ai cũng tự hào về gia đình của mình. Con cái tự hào về cha mẹ. Cha mẹ tự hào về con cái. Có người còn tự hào về gia tộc và dòng họ của mình. Thế nhưng, niềm tự hào ấy hôm nay đang mất dần khi mà nhiều thành viên trong gia đình đang sống thiếu trách nhiệm với bổn phận, đôi khi còn gây đau khổ cho gia đình bởi tội lỗi và đam mê của mình. Đó cũng là nguyên nhân đưa đến sự đổ vỡ nơi các gia đình hôm nay.

Nhìn vào những vụ bạo lực trong gia đình, mẹ sát hại con, cháu “xuống tay” với bà, chồng cạn tình với vợ liên tục xảy ra gần đây khiến cho chúng ta có cái nhìn thật bi quan về cái nôi gia đình mà trước đây bảo là nơi bình yên, hạnh phúc nhất.

Chỉ trong 2 ngày 22 và 23-6, Vĩnh Phúc chấn động với hai vụ án giết người mà kẻ xuống tay lại chính là những người thân thích cùng chung dòng máu. Người mẹ N.T.L chỉ vì giận chồng cũ tái hôn mà dùng dao chém chết đứa con trai 8 tuổi để trả thù. Đứa trẻ chết trong giấc ngủ, không kịp biết   khi kẻ hại mình lại chính là người mẹ dứt ruột đẻ ra. Tiếp sau đó 1 ngày, tại xã Đình Chu anh N.Đ.T đã dùng gậy hạ sát bà. Nguyên nhân cũng chỉ vì người bà đã khuyên nhủ cô gái mà T đang theo đuổi không nên yêu T, rằng T vốn hung hăng, đã từng đánh đập 2 người vợ trước, khiến họ phải bỏ đi.

Trước đó, ngày 20-6, tại Hà Nội cũng xảy ra vụ án chồng sát hại vợ. Kẻ thủ ác Đ.M.Q trú tại phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm. Do mâu thuẫn vợ chồng, vợ Q đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Do ép vợ quay về không được nên Q đã tước đoạt mạng sống của vợ, bỏ lại hai đứa con thơ, đứa 4 tuổi, đứa mới lên 3.

Sở dĩ người ta có thể đoạn tình, đoạn nghĩa với người thân của mình thường chỉ vì ai đó đã lao vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền. Vì danh lợi thú mà họ sẵn sàng hành động trái với cả luân thường và đạo lý làm người.

Một nguyên nhân khách quan mà chúng ta không thể không nói đến chính là sự hội nhập với trào lưu văn hóa thế giới khi Việt Nam hội nhập kinh tế, nhưng người dân Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị tâm lý, trình độ để tiếp thu. Điển hình là sự tự do cá nhân đối với phương tây là tốt, nhưng với Việt Nam lại là một tai họa khi đa số không hề có khả năng sống tự lập và tự chủ dẫn đến rất nhiều thành phần buông lỏng trách nhiệm với gia đình.Cha mẹ thiếu trách nhiệm với con vì mải mê kiếm tiền. Con cái sống buông thả tự do đến nỗi thiếu trách nhiệm với bản thân và xã hội.

Đó là nguyên nhân dẫn đến những bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục bừa bãi và hôn nhân đồng giới, buôn bán phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục, bất bình đẳng giới tính trong gia đình Việt Nam.

Có lẽ chúng ta cần phải xác định lại giá trị hạnh phúc trong gia đình. Gia đình hạnh phúc không hẳn là có tiền để rồi mải mê kiếm tiền mà bỏ rơi nhau. Gia đình không hệ tại ở việc người  có chức này, người kia có chức nọ. Gia đình hệ tại ở sự đùm bọc yêu thương nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Nếu có tiền, có địa vị mà xa cách gia đình thì cũng không mang lại hạnh phúc cho gia đình. Gia đình chỉ tồn tại khi mỗi thành viên biết sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình của mình.

Hôm nay lễ kính thánh Gia Thất là một gia đình gương mẫu. Các ngài đã sống đùm bọc với nhau. Các ngài luôn sống có trách nhiệm với nhau. Các ngài luôn sử dụng tự do theo thánh ý Chúa. Không tìm kiếm nhu cầu của bản thân. Không chiều theo xu hướng cá nhân nhưng luôn sống cho nhau và vì nhau. Nhất là các ngài đã biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Các ngài luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc đời.

141225005

Thánh Giuse vì an nguy của Mẹ Maria và hài nhi Giê-su đã sẵn lòng đón Mẹ về làm bạn mình. Đức Maria đã không sợ hiểm nguy khi nói lời xin vâng để ý Chúa được nên trọn. Chúa Giê-su dầu là Thiên Chúa nhưng vẫn sống khiêm tốn vâng lời thánh Giuse và Mẹ Maria.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi mà mỗi thành viên trong gia đình biết từ bỏ ý riêng để sống có trách nhiệm với gia đình. Gia đình sẽ không có khổ đau nếu mỗi người biết sống hy sinh cho gia đình, biết làm việc để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình. Và cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi các gia đình Công Giáo biết đặt ý Chúa trên mọi ý hướng cá nhân để vì Chúa họ sống yêu thương và có trách nhiệm với nhau.

Xin Chúa cho các gia đình luôn được hợp nhất bình an khi họ có Chúa đồng hành và để ý Chúa được thực hiện trên cuộc đời của họ. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền