Cướp máy bay quân sự để vượt biên

Cướp máy bay quân sự để vượt biên

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-01-26

RFA

01262015-40nam-hoaai.mp3

photo-600-2.jpg

Ông Trương Văn Ẩm chụp tại Hoa Kỳ ngày 26/1/2015

Hình do ông Trương Văn Ẩm gửi RFA

Your browser does not support the audio element.

Vào ngày 24/11/1979,  một cuộc không tặc máy bay quân sự C130 vô tiền khoán hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:

“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.

Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.

Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc đời ông:

“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói  với tôi rằng anh có lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy bay C30 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.

Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’
– Ông Trương Văn Ẩm

Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.

Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:

“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’”.

Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:

“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.

Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.

“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.

Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:

“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.

3sBddVM6-400.jpg

Chiếc máy bay C130, ảnh minh họa

Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế hoạch:

“Ông Nha nóng ruột, chung hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.

Sau đó không lâu, mọi việc suông sẻ:

“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.

Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.

“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.

Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:

“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước rồi”.

Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó.
– Ông Trương Văn Ẩm

Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:

“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.

Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.

Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:

“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các anh”.

Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:

“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.

Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.

Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.

Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoán hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.

Góc khuyết của Chân Dung Quyền Lực

Góc khuyết của Chân Dung Quyền Lực

Nguyễn Hưng Quốc

27.01.2015

Mấy tuần vừa qua, tôi gặp một số bạn bè, vốn là những trí thức và cán bộ trong nước có dịp sang Úc. Đề tài nói chuyện hầu như bao giờ cũng xoay về với trang blog Chân Dung Quyền Lực. Điều tôi ngạc nhiên nhất là tất cả họ đều đọc, hơn nữa, đọc rất kỹ các bài báo tố cáo nạn tham nhũng đăng trên Chân Dung Quyền Lực. Và tất cả đều tin những lời tố cáo ấy là đúng sự thật. Theo họ, tài sản khổng lồ đến từ tham nhũng của cha con Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đại tá Phùng Quang Hải cũng như của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng đã được rất nhiều người trong nước ghi nhận và bàn tán từ lâu.

Tất cả những người bạn ấy đều cho vụ tố cáo tham nhũng trên trang Chân Dung Quyền Lực đều, thứ nhất, xuất phát từ trong nội bộ cao cấp của đảng Cộng sản, và thứ hai, gắn liền với các tranh chấp chính trị thời kỳ trước Đại hội đảng vào đầu năm 2016.

Tuy nhiên, khi nói đến tranh chấp quyền lực, có một vấn đề nổi lên: ai tranh chấp với ai?

Dễ thấy nhất, từ trang Chân Dung Quyền Lực, là sự ca ngợi dành cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đã làm thủ tướng hai nhiệm kỳ, chắc chắn là Nguyễn Tấn Dũng không thể tranh giành chức thủ tướng lần nữa. Chiếc ghế duy nhất mà ông có thể nhắm tới là chức Tổng bí thư đảng thay thế cho Nguyễn Phú Trọng, người, năm tới, đã 71 tuổi, lứa tuổi hầu như bắt buộc phải về hưu. Để cạnh tranh vào chức Tổng bí thư, đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng là ai? Theo thông lệ từ mấy cuộc đại hội vừa rồi, từ Nông Đức Mạnh đến Nguyễn Phú Trọng, người làm chủ tịch Quốc Hội có khuynh hướng được chọn để làm Tổng bí thư. Tuy nhiên, trong kỳ đại hội vào năm 2016 thì khác. Nguyễn Sinh Hùng sinh năm 1946, sang năm sẽ 70 tuổi, không có khả năng sẽ được lưu dụng. Đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng chỉ còn lại một người: Trương Tấn Sang, người đang giữ chức Chủ tịch nước, cùng tuổi với Nguyễn Tấn Dũng. Để tìm cách loại trừ Trương Tấn Sang, trên trang Chân Dung Quyền Lực có 20 bài viết về ông, không những tố cáo ông tham nhũng mà còn tố cáo việc ông, lúc còn trẻ, bị chính quyền Miền Nam bắt, không chịu đựng được các cuộc tra tấn, đã khai báo nội tình của “cách mạng”. Hơn nữa, ngay cả khi lên làm Chủ tịch nước, ông vẫn có quan hệ với những thành phần đối kháng và đòi hỏi dân chủ. Trương Tấn Sang lại là người chuyên tìm cách để hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng, v.v…

Đó là chiếc ghế Tổng bí thư, còn chiếc ghế thủ tướng thì sao? Bình thường, người có khả năng lên làm thủ tướng là một trong các phó thủ tướng. Trong các phó thủ tướng hiện nay, người có nhiều triển vọng nhất là Nguyễn Xuân Phúc, còn khá trẻ (sinh năm 1954) và cũng là người duy nhất hiện nằm trong Bộ Chính trị. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà những người đằng sau Chân Dung Quyền Lực nhắm tới là triệt hạ con đường lên chức Thủ tướng của Nguyễn Xuân Phúc. Không có người nào bị đả kích một cách kịch liệt như ông. Vấn đề là: ai nã súng cối vào Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế thủ tướng? Chỉ có một trong hai hoặc cả hai khả năng: Một, người nào đó đang muốn chạy đua vào chức vụ thủ tướng; trong trường hợp này, người đó, phải đang nắm giữ chức phó thủ tướng; và hai, một người nào đó đang có tham vọng bày lại ván cờ chính trị tại Việt Nam với những khuôn mặt mới nằm trong tay mình để dễ thao túng.

Điều khó giải thích nhất là những cuộc tố cáo nhắm vào Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên trang Chân Dung Quyền Lực, ngoài Nguyễn Xuân Phúc và Trương Tấn Sang, người bị tố cáo nhiều nhất là Phùng Quang Thanh. Tại sao? Chắc chắn không phải tại ông tham nhũng hơn những người khác. Chuyện tham nhũng ở Việt Nam, hầu như không có người nào trong bộ máy chính quyền tránh được.  Vấn đề ở đây là: Tại sao người ta chọn tố cáo người này thay vì người khác. Ví dụ dễ thấy nhất: Trang Chân Dung Quyền Lực hoàn toàn không đụng đến Đại tướng Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ai cũng biết, ở Việt Nam hiện nay, nơi được xem là cái ổ của tham nhũng chính là công an. Không ai tin Trần Đại Quang có bàn tay sạch cả. Vậy tại sao Chân Dung Quyền Lực không hề đụng đến ông mà chỉ tập trung vào Phùng Quang Thanh? Câu hỏi ấy dẫn đến hai khả năng: Một, người ta tìm cách triệt hạ con đường tiến thân của Phùng Quang Thanh và hai, người ta muốn thay đổi cơ cấu quyền lực trong quân đội.

Hai khả năng ấy thật ra chỉ tập trung vào một người: Phùng Quang Thanh. Gần đây, nghe đồn Phùng Quang Thanh có thể sẽ được bầu vào chiếc ghế Chủ tịch nước để thay cho Trương Tấn Sang. Số lượng các bài tố cáo sự tham nhũng của bố con ông nằm trong âm mưu ấy chăng? Nhưng nếu vậy, ai sẽ được lợi trong âm mưu triệt hạ này? Ai đang nuôi tham vọng chạy đua vào chiếc ghế chủ tịch nước? Hơn nữa, cũng không loại trừ khả năng người ta không những ngăn chận con đường leo lên ghế chủ tịch nước của Phùng Quang Thanh mà còn muốn hất ông ra khỏi chiếc ghế Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng cũng như cái chân trong Bộ Chính trị nữa.

Tất cả những vấn đề nêu trên, theo tôi, đều đúng. Tuy nhiên, cũng theo tôi,

không nên tập trung quá nhiều vào các cuộc tranh chấp nội bộ trên trang Chân Dung Quyền Lực. Đó chỉ là một khía cạnh; một khía cạnh quan trọng và cực kỳ lý thú, nhưng dù sao cũng chỉ là một khía cạnh. Còn một khía cạnh khác, nổi lên từ trang Chân Dung Quyền Lực là bộ mặt thật của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Không nên vì quá tập trung vào các bài đã đăng để chỉ thấy, trong guồng máy lãnh đạo Việt Nam hiện nay, chỉ có Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng cũng như hai bố con Phùng Quang Thanh – Phùng Quang Hải là tham nhũng. Đó chỉ là những kẻ đã bị tố cáo. Còn những kẻ chưa bị tố cáo thì sao? Chắc chắn là họ cũng tham nhũng không thua gì những kẻ kia. Về độ giàu có của con cái và thân nhân, từ lâu ai cũng biết, hầu như không có ai bằng Nguyễn Tấn Dũng cả. Về mức độ tham nhũng, cũng từ lâu, ai cũng thấy không ai bằng công an; vậy tài sản của Trần Đại Quang như thế nào?

Nhìn vào những kẻ chưa được Chân Dung Quyền Lực đề cập, chúng ta dễ dàng thấy trang báo mạng này còn thiếu sót rất nhiều. Nó cố nói lên sự thật. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Còn những góc cạnh khác, hầu như ai cũng biết, nhưng biết một cách mơ hồ. Chúng ta hy vọng sẽ có những trang báo khác lần lượt phanh phui hết tất cả những tệ nạn tham nhũng của tất cả những người đang nắm giữ quyền lực tại Việt Nam hiện nay.

Tất cả. Chứ không phải chỉ có một số người đang tranh chấp quyền lực với nhau.

Cao Văn Lầu và Bản Dạ Cổ Hoài Lang

Cao Văn Lầu và Bản Dạ Cổ Hoài Lang

Vào một đêm tối trời cuối năm 1896, có 20 gia đình nông dân nghèo tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, Long An, vì không chịu nổi cảnh hà khắc của bọn quan lại địa phương nên đã xuống ghe xuôi về vùng Bạc Liêu lập nghiệp. Trong số đó có gia đình ông Cao Văn Giỏi, cha Cao Văn Lầu lúc ấy chưa tròn 5 tuổi (sinh 1892).

Vì sao “Dạ cổ hoài lang” ra đời?

Cha Cao Văn Lầu là người rất trọng đạo nho, ông “không sợ nghèo, chỉ sợ không giữ được đạo”. Nên khi đến vùng đất mới, ở tạm dưới mái chùa Vĩnh Phước An, ông liền gửi Cao Văn Lầu vào chùa học chữ nho. Học được hai năm, phong trào chữ Quốc ngữ phát triển, Cao Văn Lầu thôi học chữ nho chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Nhờ sáng dạ nên rất được thầy yêu, bạn mến. Việc học đang tấn tới nhưng đến lớp nhì (nay là lớp 4) thì ông đành chịu dở dang vì gia đình túng quẩn.

Gia đình chẳng vơi đi chút khó khăn nào. Thấy vậy cha ông bèn gởi ông cho thầy giáo dạy đàn ở xóm Rạch Ông Bổn. Ông thầy đàn có tên Lê Tài Khị, tục gọi Nhạc Khị, nổi tiếng môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi ngón đàn điêu luyện. Nhờ siêng năng, sáng dạ nên Cao Văn Lầu mau chóng sử dụng thành thạo các nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống… và trở thành nhạc sĩ nòng cốt trong ban nhạc của thầy. Ban nhạc hoạt động theo hình thức nhạc lễ kết hợp với đờn ca tài tử. Nhờ có đờn ca tài tử mà danh tiếng Cao Văn Lầu mỗi lúc một vang xa. Soạn giả Mộng Vân, một người bạn đồng môn lập gánh hát mời ông về làm nhạc trưởng. Nhờ đó mà ông có tiền gửi về nuôi cha mẹ. Theo đoàn hát được vài năm, lúc này Cao Văn Lầu tuổi đã ngoài 21, cha mẹ bắt ông về cưới vợ. Vâng lệnh cha mẹ, ông lấy cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phát ở miệt biển Bạc Liêu.

Để có tiền cưới vợ, ông phải đi vay 80 đồng của bà Sư Chơn, lãi suất cắt cổ, mỗi ngày đóng 1,6 đồng. Sau đám cưới, hai vợ chồng phải đi vào rừng mò củi lụt, xúc tép dưới lung để đủ tiền trả lãi. Suốt ba năm trời quần quật kham khổ, người vợ gầy héo không thể sinh con. Theo tục xưa: “Tam niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt khiến cho nhiều đôi lứa chia lìa. Vợ chồng Cao Văn Lầu không nằm ngoài quan niệm ấy, khi mẹ ông bảo: “Con hãy liệu mà kiếm vợ khác để nối dõi tông đường. Đó là chữ hiếu của con mà mẹ cũng trọn đạo với nhà chồng”. Nghe qua nghiêm lệnh của mẹ mà ông thấy như trời long đất lở! Hạnh phúc lứa đôi rồi đây sẽ sụp đổ. Thương cho người vợ hiền tần tảo, thủy chung nào hay tin dữ. Phận làm con phải lấy chữ hiếu làm trọng, ông hiểu nhưng chữ tình nào dám rẻ khinh.Sau thời gian chờ đợi không thấy con trai thi hành nghiêm lệnh, bà nói cho con dâu biết rõ sự tình.

Như mọi ngày, vợ chồng Cao Văn Lầu vẫn vào rừng mò củi, xúc tép để mưu sinh. Đến trưa, củi đầy ghe mà tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên mũi ghe, bất chợt vợ ông nghẹn ngào: “Má không cho mình ở với nhau nữa. Thôi anh cưới vợ khác, em về với mẹ cha em”. Nói xong vợ chồng gục đầu nức nở.

Chiều hôm ấy, vợ chồng đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau khóc, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ, ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi. Tay lau nước mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô định. Sau khi vợ đi rồi, ông như người mất hồn. Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, mới biết vợ ông không trở về. Lòng càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng hình bóng người vợ hiền vẫn bặt tin. Suốt một năm ròng chẳng biết vợ ở đâu, ông đành ôm sầu nuốt lệ. Cứ mỗi khi chiều xuống xách đờn ra bìa ruộng, nơi vợ chồng ly biệt. Nhìn ra đồng mà hình dung bóng vợ thất thểu giữa trời đêm. Ông gãy đờn theo tâm trạng của vợ lúc ấy, hết Xuân nữ đến Nam ai rồi Trường tương tư mà lòng chẳng vơi chút sầu thương.

Theo lời kể của ông Cao Kiến Thiết, con trai trưởng Cao Văn Lầu, ông nói có lần nghe cha mình tâm sự với bạn bè: “Lúc ấy tôi nghĩ, giờ này vợ mình ở đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ. Số phận vợ mình sao mà giống thân phận nàng Tô Huệ, quá thương chồng nên dệt bức Chức cẩm hồn văn dâng lên vua để tỏ lòng nhớ thương chồng. Hay nàng Tô Thị thương chồng đứng chờ cho đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài Hoài Lang (nhớ chồng)”.

Sau nhiều tháng làm bạn với cây đàn, bất chợt ông nghĩ: tiếng trống đêm đánh lên trong khi mình đờn bài Hoài lang. À, phải rồi. Âu là mình lấy hai chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thêm vào bản nhạc Hoài lang thành Dạ cổ hoài lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) vậy là hay biết mấy. Thế là bản Dạ cổ hoài lang ra đời, với 20 câu làm não ruột người nghe *.

Theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bài Dạ cổ hoài lang là tiếng nấc của nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu. Để rồi vào một đêm rằm tháng 8/1919, tại làng Vĩnh Hương, tổng Hòa Thạnh (nay là phường 2, thị xã Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu, Cao Văn Lầu chính thức công bố bản nhạc bất hủ của mình. Người may mắn được ông dạy bản Dạ cổ hoài lang đầu tiên là nghệ sĩ Bảy Cao, kế đến là Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt đến các nghệ sĩ khác và người hâm mộ…

Sau khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời, ông vẫn chưa vơi nỗi buồn thương. Không thể cam chịu cảnh chia ly, một mình khóc với bài ca. Ông quyết tâm đi tìm vợ! Ít lâu sau ông tìm gặp vợ ẩn sau mái chùa làm công quả. Cuộc trùng phùng như được tái sinh. Từ đó ông hay lui tới thăm vợ. Một hôm vợ ông cho biết đã mang thai, đối với ông hạnh phúc như tràn ngập trên cõi đời. Tuy vậy ông cũng không khỏi lo âu, bởi nghiêm lệnh của mẹ ông vẫn còn đó. Nhưng ông vẫn nhất quyết về thưa với mẹ. Mẹ ông nghe qua thay gì giận dữ, trái lại như bắt được vàng, hối thúc con trai chuẩn bị ghe rước con dâu trở về.

Bài ca vua của sân khấu cải lương

Từ khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời, nhanh chóng đi sâu vào lòng người mộ điệu, trở thành bài ca chính thống, bài ca vua trên sân khấu cải lương Nam bộ. Qua mỗi giai đoạn phát triển trở nên hay hơn và chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng lên 4 nhịp. Năm 1934 – 1944, tăng lên 8 nhịp. Năm 1945 – 1954, tăng lên 16 nhịp. Năm 1955 – 1964, tăng lên 32 nhịp và từ 1965 đến nay tăng lên 64 nhịp. Và cứ mỗi lần phát triển, bài Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên bản như các bài nhạc cổ khác, mà dần biến đổi hình thức, làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương. Rõ nét nhất là từ thập niên 1960, soạn giả Viễn Châu, đã tạo nên mối lương duyên kỳ lạ, kết hợp Tân nhạc vào Vọng cổ cho ra đời bản Tân cổ giao duyên, thu hút được khán thính giả tân và cổ nhạc. Điều này chỉ có ở vọng cổ, bởi lẽ tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị hợp với tấm lòng người Nam bộ. Lúc buồn vọng cổ giúp giải bày tâm sự, vơi đi nguồn tủi, lúc vui tươi vọng cổ góp phần cho sự kiện hân hoan. Cũng chính bản vọng cổ đã góp phần mang lại ánh hào quang cho nhiều lớp nghệ sĩ, danh ca, danh cầm, soạn giả cải lương… góp phần khơi nguồn dòng chảy cho lịch sử âm nhạc nước nhà.

GS – TS. Trần Văn Khê, khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài bản nào được như Dạ cổ hoài lang biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá nhân đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể”.

Trích nguồn : Mekongculture/Dr Thuan

https://www.youtube.com/embed/nNyWCrn2V7Y

Tự tử

Tự tử

Nguoi-viet.com

BS. Hồ Ngọc Minh

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà: www.bacsihongocminh.com

Hôm lễ Giáng Sinh và Tết Tây, con trai út, đi học đại học ở xa về thăm nhà nhân dịp lễ, đi ăn tối với ba mẹ. Đang ăn, thì có tin nhắn text message qua điện thoại. Cháu liếc nhìn màn hình điện thoại, thoáng ưu tư. Tôi chợt nghĩ, thời buổi “kỹ thuật số”, tạo ra những áp lực không cần thiết cho con người, nhất là cho giới trẻ, thanh niên. Không đợi chúng tôi hỏi, cháu buông điện thoại xuống bàn, vò đầu: “Bạn con, ở trường đại học. Nó mới tự tử.”

Tự tử là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây ra tử vong cho lứa tuổi từ 15 đến 24. Riêng tại nước Mỹ, mỗi năm có khoảng 750 ngàn người muốn và đã trải nghiệm với việc tự tử, trong số đó có khoảng 30 ngàn thực sự chết vì tự kết liễu đời mình. Người tự tử thuộc mọi lứa tuổi và giai cấp xã hội: bần cùng cũng có, triệu phú cũng có, tài tử nổi danh cũng có, lính tráng phục viên cũng có… Không nhất thiết là người lớn tuổi, hay người bị bệnh tật kinh niên, số người trẻ, khoẻ mạnh, tự tử ngày càng nhiều, sớm nhất chỉ dưới 10 tuổi, tuổi “teen” và “tween” (mười mấy tuổi đến độ tuổi 20) cũng nhiều, ngay cả cựu chiến binh chết vì tự tử nhiều hơn là chết trên trận mạc.

Tại sao người ta muốn kết liễu đời mình?

Hầu hết những người muốn tự tử bị trầm cảm, phiền muộn mà hệ quả là những đau đớn, dằn vặt của nội tâm mà họ không thể kham nỗi. Một phần của cội nguồn sự phiền muộn lại là những áp lực do cuộc sống bên ngoài đưa đến. Những người tự tử không phải vì họ yếu đuối hay hèn nhát, nhưng chỉ vì họ không giải quyết được những bức xúc, những giằng co trong tâm thần.

Thật ra không ít người trong chúng ta, một thoáng nào đó trong cuộc đời, cũng đã từng nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình, nhưng không nhất thiết là tất cả những suy tư nầy biến thành hành động. Chuyện nghĩ đến tự tử không phải là bất bình thường nhưng nếu ý định đó ám ảnh và giằng xé tâm tư thì bạn có vấn đề và cần sự giúp đỡ.

Những dấu hiệu của người muốn tự tử

Hầu hết những người muốn tự tử thường có những dấu hiệu báo trước mà người thân cần để ý mà giúp đỡ họ. Thí dụ, họ sẽ nói, sẽ viết, trên mạng lưới xã hội chẳng hạn về ý định muốn tự tử, hoặc có thể họ tìm kiếm nghiên cứu trên internet về các phương cách để tự kết liễu đời mình. Họ có thể than phiền những câu như, đời là vô nghĩa, đời không đáng sống v.v… Cuối cùng, những người nầy, đương không tự nhiên lại có thái độ rất bình tĩnh, thu xếp công việc rất ngăn nắp cho một chuyến đi xa.

Ngoài việc nói là họ muốn tự tử, những người nầy thường có dấu hiệu đè nặng của chứng phiền muộn trầm cảm như biếng ăn, biếng ngủ, biếng chơi…

Đừng nên khinh thường và bỏ qua khi một người nào nói, tâm sự với bạn là họ muốn tự tử, và cũng đừng thách thức họ là, nói mà không dám làm. Theo thống kê, đa số, người nói muốn tự tử là họ sẽ làm thiệt, không sớm thì muộn. Một số người tự tử có khi chỉ muốn đưa một thông điệp nào đó, nhưng khi hối thì quá trễ, không rút lại kịp. Vi thế biết sớm bạn có thể cứu họ ra khỏi tình huống tuyệt vọng.

Nếu bạn phát hiện, hay một người thân tự thú với bạn là họ có ý định tự tử, bạn nên lắng nghe họ. Đừng cãi cọ, thách thức, hay “lên lớp” giảng bài với họ, mà hãy từ tốn “tâm sự” là bạn hiểu niềm tuyệt vọng của họ và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để giúp họ ngoài chuyện… trợ tử. Nếu họ yêu cầu giữ bí mật, thì dĩ nhiên, là không. Bạn cần thông báo với những người khác, với bác sĩ, và nếu cần phải ngay gọi các số như 1-800-SUICIDE (784-2433), hay 9-1-1.

Trong trường hợp chính bạn là người muốn tự tử, bài biết này không nhằm mục đích khuyến khích bạn làm chuyện đó. Hy vọng bạn sẽ hiểu là thúc đẩy muốn kết liễu đời mình là chuyện có thể xảy ra mà bạn không thể cưỡng chế được. Tuy nhiên, nếu bạn nói ra những u uẩn trong lòng, sẽ có người giúp đỡ bạn. Bạn có thể gọi số điện thoại 1-800-273-TALK (8255) nếu bạn thấy có thôi thúc muốn tự tử để có nhân viên y tế giúp đỡ.

“Cô ấy còn trẻ, không chịu nỗi áp lực của việc học”

Con trai tôi cho biết về cô sinh viên vừa treo cổ tự tử trong phòng trọ nội trú ở trường đại học. Cái hình ảnh của tài tử Robin Williams treo cổ lủng lẳng bằng chính sợi dây nịt của mình lại hiện về trong đầu óc của tôi. Gần đây cũng có vài người quen của chúng tôi đã quyết định giã từ bằng phương pháp nầy. Tôi thấy thương cho cô sinh viên trẻ, cho cha mẹ cô ấy. Nói riêng về giới trẻ, nhất là sinh viên học sinh, con số tự vẫn ngày càng tăng vì những áp lực xã hội đưa đến. Có khi chúng ta, bậc làm cha mẹ có thể xem thường hay không để ý đến những áp lực đó, vì cho rằng nó không có thực và có khi “vô duyên”, “vô căn cứ” so với những áp lực mà thế hệ trước đã từng trải nghiệm. Không nên nói với người trẻ những câu như, ngày xưa bố mẹ cực như thế này thế nọ, hay ông bà khổ thế đó thế kia. Mỗi một thế hệ có những áp lực, những khó khăn khác nhau, và đối với những người muốn từ bỏ cuộc sống, những áp lực nầy rất thật. Thí dụ trong trường hợp cô sinh viên nầy, áp lực phải học cho giỏi khi vào được trường đại học có danh tiếng. Cái áp lực nầy có thể không đến nỗi nặng nề cho thế hệ của cha mẹ cô ta.

Vì thế nên hiểu cho con cái và người thân, không nên tạo những áp lực không cần thiết cho chính mình và cho những người chung quanh, là cách giảm thiểu khả năng tai nạn tử vong vì tự tử, là một nguy cơ có thật và kinh hoàng hơn cả bệnh Ebola!

Đổi mới cuộc đời

Đổi mới cuộc đời

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.

Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.

Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.

Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.

Bước thứ hai: Sám hối.

Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.

Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.

Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.

Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?

2.    Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…..).

3.    Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?

“Cơn sốt sắng xinh hơn cầu vàng diệp,”

“Cơn sốt sắng xinh hơn cầu vàng diệp,”

Ngửa tay thôi, ơn trời đà xuống hiệp.
Trăng và trăng cho thấm hết mọi nơi .
Người thế gian, ôi miệng lưỡi đâu rồi ?
Và tán tạ và khong khen nức nở .

(Dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 1: 21-28

Mai Tá lược dịch

Sốt sắng với ngửa tay, nhà thơ nay lãnh nhận “ơn trời đà xuống hiệp”. Tán tạ và khong khen, nhà Đạo sẽ nhận lãnh những “trăng và trăng, cho thấm hết mọi nơi”. Trăng hay sao, là tất cả những gì ta được biết. Biết, uy quyền của Đức Chúa đã tỏ dấu, đến với ta.

Bài đọc 1, hôm nay dẫy đầy một lời hứa. Lời Chúa hứa, là như: “Thiên Chúa của anh em, Người sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Hãy nghe Người” (ĐNL 18: 15-20). Theo lời hứa, Đức Giê-su đã xuất hiện như người Do Thái sống giữa muôn người, ở Palestin. Là tiên tri, Ngài không báo trước chuyện tương lai, như thày bói. Nhưng, như vị Ngôn Sứ chuyển đạt Lời của Chúa. Chính vì thế, mọi người hãy nghe Ngài. Nghe, như nghe một thông điệp. Từ Đức Chúa.

Thông điệp hôm nay, xuất từ trình thuật thánh Máccô. Trình thuật này, báo hiệu một ngày bận rộn với Chúa. Bận rộn, vì hôm nay ta nhận diện đủ bá quan văn võ, trong cuộc đời. Điều trước mắt, Ngài bận tham gia việc tế tự với dân chúng. Ngài giảng dạy, chữa lành, xua đuổi lũ ác quỷ. Và, Ngài cũng nguyện cầu ở chỗ riêng tư. Từ đó, có phản ứng bất chợt của đám đông chúng, rất thường dân.

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra ba loại dân chúng Chúa vẫn gặp. Tất cả những người này, đều phản ứng khác nhau. Phản ứng, là đối xử với Chúa, tuỳ hoàn cảnh. Trong ba loại người từng phản ứng, trước nhất là đồ đệ. Sau đó, đến lãnh tụ tôn giáo. Và cuối cùng, là đám dân đen bình thường. Dân bình thường, vẫn là những người luôn bước đi theo chân Chúa. Họ ra đi, mang theo niềm tin và nhận thức xác đáng, về chính Ngài.

Sinh hoạt của Chúa trong ngày đầu, Ngài đã công khai dẫn dụ mọi người, cả vào ngày Sabát. Ngày ấy, mọi người thấy Chúa gần gũi đám người thành thị vẫn có mặt ở hội đuờng. Vì là người Do Thái chuyên chăm, nên Ngài vẫn tuân thủ mọi đòi hỏi của niềm tin, đặt ra cho người Do Thái. Đó, còn là thái độ của đồ đệ Chúa vẫn có, sau Phục Sinh.

Điều Ngài không làm, là chê trách niềm tin của người dân bình thường. Trách mắng chăng, Ngài chỉ chê trách thái độ bẻ quặt sự thật, sống giả hình và chuyên nhũng lạm với người dân. Điều Ngài xác định, như có ghi ở Tin Mừng thánh Matthêu, không là bãi bỏ niềm tin người Do Thái. Mà là, sống đích thực niềm tin ấy, cho đúng cách (Mt 5: 17).

Hội đường người Do Thái, là nơi chuyên chăm nguyện cầu, và học hỏi Kinh thánh. Tuyệt nhiên, đây không là nơi để hiến tế, có các vị tư tế chủ trì. Đây, vẫn là nơi dân chúng bình thường rủ nhau đến, vào các ngày Sabát, cuối tuần. Ở đây nữa, không thấy xuất hiện các thày giảng hoặc trưởng tế chuyên lo việc Đền thờ. Đến hội đường, là để cầu khẩn và suy gẫm những điều được viết lại trong Kinh thánh. Bởi, nơi đây không là trung tâm của tế hiến phụng thờ, nên không có liên quan gì với nhóm Pharisêu, Luật sĩ hoặc kinh sư.

Tại hội đường, ai cũng được mời lên để diễn giải. Nên, vào ngày Sabát hôm ấy, Đức Giê-su cũng đã được mời lên để Ngài diễn giảng. Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu ngỏ lời giải thích, dân chúng đã hiểu ngay: Ngài là nhân vật khác thường. Trong khi cũng đứng bục, nhưng kinh sư/luật sĩ này khác chỉ giải thích ý nghĩa luật lệ Do thái, viết trong sách, mà thôi.

Khi Đức Giê-su giảng, Ngài tỏ rõ “quyền uy” tối thượng, có căn cứ. Nghĩa là, Ngài không giải thích luật lệ, hoặc tư tưởng của riêng ai. Nhưng việc giảng dạy Ngài làm, là giảng và dạy những điều liên quan đến chính Ngài. Cũng thế, lối giảng giải của Ngài được thánh Mátthêu viết: “Anh em nghe người xưa nói… còn Tôi, nay Tôi nói”.

Ở đây, hôm nay, Chúa không chỉ nói về quyền uy tối thượng của Ngài, thôi. Nhưng, Ngài cũng đã hành động một cách đầy uy quyền. Tức là, ngay trong khi Ngài giảng, đã thấy có người bị ác quỷ hành hạ, hiện diện quanh quất đâu đó. Điều này có nghĩa gì? Muốn hiểu điều này, cũng nên biết rằng: vào thời của Chúa, thế gian vốn tràn đầy thần linh các loại. Tốt có, xấu cũng có. Thần linh có mặt ở khắp nơi. Đôi khi còn tấn công vào những người hiện diện, bằng đủ mọi cách.

Những chuyện về quỷ ám hoặc bị thần linh xấu quấy rầy, không chỉ xảy đến vào thời xưa cũ, thôi. Nhưng, nay thấy nhiều người vẫn tin như thế. Vẫn thấy xảy ra, ở nhiều nơi trên thế giới. Chí ít, ở một số khu vực thuộc vùng Nam Á, như: Mã lai, Nam Dương, Phi Luật tân, vv… Ở các nước tân tiến, cũng thấy nhiều người vẫn tà tà tản bộ qua nghĩa trang. Ở Hồng Kông, Singapore, có người còn chọn ngày tốt xấu, tìm thày địa lý, tính toán phong thuỷ để định hướng nhà, đặt đất, cất mồ mả.

Thời của Chúa, những người ốm đau hoặc có hành vi ‘khác thường’, đều được coi như ‘bị quỷ ám’. Nhiều trường hợp, có người còn cho rằng: những người bị động kinh, lên cơn giựt, hoặc có vấn đề tâm thần, đều là nạn nhân của mãnh lực thần linh nào đó, từng xâm nhập. Người khác lại nghĩ, thần linh/ma quỷ đã khống chế người như thế. Nhưng vấn đề, là: Chuyện ấy, có thật như thế không?

Thật khó mà đoán biết. Rõ ràng là, ngày nay một số người chỉ đơn giản chẩn đoán y khoa, cũng đều biết. Nhưng có người gặp một số dân chúng ở nơi nào đó, trên thế giới vẫn nhất quyết rằng, có hình thức nào đó, về trường hợp quỷ ám. Vấn đề ở đây, là: những người như thế đã được Chúa chữa lành, trở về với chính con người toàn bộ của mình. Tức, họ được giải thoát trở về, không còn bị như thế, nữa.

Thời của Chúa, nhiều người thực sự tin là có các quyền lực ma quái, đủ mọi kiểu. Các quyền lực ấy, bắt nguồn từ nỗi hãi sợ rất lớn lao làm cho họ bất lực. Điều Chúa làm, là giải thoát những người này khỏi cơn hãi sợ, mình vẫn có. Và, không phải chính sức mạnh ma quái ác ấy đã làm cho họ hãi sợ nhiều, như nạn nhân. Không phải thực thể khách quan đã giới hạn sự tự do và hiệu năng của chúng ta, nhưng là cách thức ta nhìn sự việc. Chẳng hạn như, nếu ta để con rắn bằng cao su vào giường của ai đó, khiến người có phản ứng.

Vậy, cái gì làm người hét lên? Rắn bằng mủ, hay chính nỗi khiếp sợ, của chính họ?

Giáp mặt thần linh quái ác xuất hiện nơi hội đường, Chúa không tỏ dấu sợ sệt, đã quát bảo: “Câm đí! Hãy xuất khỏi người này.” (Mc 1: 25) Nghe như thế, người bị ám đã quăng quật, lên cơn giựt, nhưng thoát nạn. Và điều quan trọng, là: người ấy đã thấy mình tự do. Đã thoát nạn.

Đối với ta, khiếp sợ ở đâu? Sợ thần linh? Hoặc, có điều gì, người nào, nơi nào đã cản ngăn không cho ta làm điều mình muốn? Không để ta trở nên người mình muốn trở thành? Điều quan trọng, là: ta cần định ra khiếp sợ nào đang trấn át. Và, thấy được nó ở trong mình. Từ đó, không còn trách người khác, vì nó. Và, khi nhận ra nó đang lẩn khuất bên trong, ta xin Chúa giúp, mà trừ khử. Hãy đặt mình dưới sức mạnh quyền uy của Ngài. Để được giải phóng.

Chứng kiến việc Chúa giải phóng, người bàng quan đã tỏ bày ngạc nhiên: “Giáo lý của Ông thật mới mẻ, điều Ông dạy có uy lực. Ông ra lệnh cả với thần ô uế, và chúng phải tuân lệnh! (Mc 1: 26). Chẳng thế mà, tiếng tăm Ngài đồn khắp mọi nơi. Ở cả vùng quê, nữa. Thật đúng, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa.

Đọc Tin Mừng, ta thấy mức độ giải thoát Chúa làm. Và ở đây, công trình cứu độ của Ngài, đã khởi đầu. Ngài làm thế, Vương Quốc của Chúa đã gần kề. Và có thế, dân chúng mới có kinh nghiệm về quyền uy sức mạnh, do tự Cha.

Đó là sức mạnh quyền uy. Uy quyền, là cụm từ xuất tự tiếng Latinh (Augere), có nghĩa: làm điều gì đó để gia tăng. Nguyên ngữ cụm từ cho thấy: quyền uy đích thực, là khả năng gia tăng giùm giúp, tạo lực cho người nào. Giúp họ phát triển khả năng thăng hoá, chính mình. Giúp họ tăng trưởng như một bản vị. Giúp họ, trở nên hiệu quả hơn trong phát triển. Biết sử dụng đúng đắn quà tặng, Chúa đặt trong ta.

Quyền uy Chúa vận dụng, không phải để nắm đầu kiểm soát con người. Chúa từng nói, Ngài đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ mọi người. Ngài đến, là để giải thoát hết mọi người. Để rồi, với tự do, người người sẽ gia tăng hiệu năng, phát triển năng lực bên trong mình. Và, cùng sống cuộc sống của Chúa, ở bên trong. Ngài giải thoát mọi người khỏi quyền lực quái ác của hãi sợ, co giựt, vị kỷ. Giải thoát, khỏi mọi giận hờn, oán thán, thù hằn, cùng bạo động khiến họ không thể sống vui tươi.

Buồn thay, nhiều người hôm nay cứ nghĩ nếu mình trung tín với niềm tin nơi Chúa, là gánh nặng khó giải thoát mọi đè nén, giới hạn. Câu hỏi đặt ra cho ta, cho Hội thánh, là: mình đã làm những gì để con dân Chúa đã phải ưu tư suy nghĩ, tệ như thế? Trái với tinh thần Tin Mừng?

Trong cầu mong Chúa ban cho ta uy lực giải thoát, ta cứ hân hoan mà vui hát. Hát rằng:

“Vì thương nhau không là những thiên thần (2)

Sống tuyệt vời trong niềm đau một phận

Nên từ đó, nhân loại kia vẫn vẹn toàn.”

(Phạm Duy – Cung Chúc Việt Nam)

Không là những thiên thần, nhưng vẫn thương nhau. Thương nhau, để “cơn sốt sắng xinh hơn cầu hoàng diệp”, mà “tán tạ và khong khen nức nở”. Khong khen, chúc tụng Chúa đến muôn thuở. Muôn đời.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

“Lắng trầm tiếng chiều ngân”

“Lắng trầm tiếng chiều ngân,

nhạc dặt dìu ái ân”,
“Người ôi ! Nhớ mãi cung đàn
Năm tháng phai tàn, duyên kiếp vẫn còn lỡ làng.”

(Nhạc: Enrico Toselli: Serenata – Lời: Phạm Duy: Nhạc Chiều)

(Mt 19: 21-23)

Trần Ngọc Mười Hai

“Năm tháng (có) phai tàn”, “duyên kiếp (có) lỡ làng”, thì bạn và tôi, ta “nhớ mãi cung đàn”, nhớ “tiếng chiều ngân”, “dặt dìu ái ân”, quên sầu buồn. Thế đó, là ý/tình của các người em còn trẻ ở Sydney vẫn chủ trương nhớ đến “bạn nghèo” mình, ở nhiều nơi.

Bần đạo đây, mỗi lần nhắc đến nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” ở Sydney, đều thấy người mình rộn lên một nỗi nhớ, rất khôn nguôi. Nhớ nhiều, không chỉ mỗi bản “Nhạc chiều” mà Phạm Duy đặt lời Việt cho bản “Serenata” nổi tiếng, mà nhớ cả những bạn trẻ thiện-nguyện trong tinh-thần tận-hiến những 6 năm qua, để có chút gì còn nhớ còn thương các bạn thiếu may-mắn ở khắp nơi trên thế giới.

Nhớ hơn cả, là lần họp mặt mừng kỷ niệm 6 năm ngày thành-lập “quán xá” hôm 30/11/2014 vừa qua. Nhất là các bạn từ già đến trẻ đều đổ về vùng Fairfield East, Sydney để ủng-hộ tặng-tiền cho những người ở nhiều nơi đang có nhu-cầu nhiều hơn ai hết.

Nhớ thế rồi, bần đạo cứ ê-a rồi lại ngâm nga ba lời ca rất tình-tiết như sau:

“Chiều êm êm đưa duyên về người.
Đàn triền miên nắn tiếng sầu đời.
Người hỡi! Đến bên tôi nghe lời xao xuyến,
Như chuyện thần tiên.
Niềm mơ xưa là đó, cho ta nâng niu lời ca,
Chiều mơ không gian hờ hững cõi Thiên Đàng.
Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ.
Xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà.
Nhạc chiều của chúng ta là câu ân ái muôn đời.
Bóng đã xế rồi hãy nép trong lòng cõi đời.
Tình Yêu mãi mãi.”

(Phạm Duy – bđd)

Nói về nhóm “Nhớ Bạn Nghèo”, có thể nói mãi mà không hết. Nói những 6 năm trời dài đằng đẵng, tuy mệt mỏi nhưng luôn thấy nụ cười nở trên môi, hết mọi người. Có những bạn, sau bao năm xa cách nay gặp lại đã thấy vui. Vui cười suốt, nhờ có nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” làm chất xúc-tác để mọi người ở Sydney đến với nhau vui cưới rộn rã, và nhớ đến những người ở xa không có cơ-hội được cười, vì cuộc đời nhiều nghiệt ngã, truân chuyên.

“Nhớ Bạn Nghèo”, không chỉ nhớ bằng môi miệng, nhưng thực-tiễn bằng quà cáp/hiện vật, hiện kim, gói ghém nhiều công sức, thời gian và tiền bạc để “bạn nghèo” được vui và được cười.

“Nhớ Bạn nghèo”, là nhớ Lời Vàng/Ngọc mà Bậc thày Hiển thánh, từ nhiều năm trước, vẫn dặn rằng:

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện,

thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,

anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”

Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi,

vì anh có nhiều của cải.”

(Mt 19: 21-23)

“Nguời thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” nhưng anh lại không đem bán đi mà cho người nghèi khó, thế mới chết. Chết một điều, là: không chỉ mỗi sự-kiện Anh chẳng nhớ đến ai, chí ít là “người nghèo” ở phố/chợ. Mà, có nhớ đến người này/khác còn nghèo, nhưng Anh lại cũng chẳng cho họ một thứ gì. Tvgfffturc xzhế nên, anh mới buồn. Bởi thế nên, nhà nhạc sĩ vẫn cứ hỏi:

“Đã quên hết sầu chưa?

Lời này là tiếng xưa, quỳ dâng dưới nắng phai mờ

Bên gối ơ thờ ôi tiếng tơ tình mong chờ.”

(Phạm Duy – bđd)

Thật ra, tuy giàu có, nhưng anh thanh niên nọ lại chẳng cho ai thứ gì, vậy nên buồn.

Thật ra, nỗi-buồn-không-tên ở nhiều người, là do nhiều thứ và nhiều sự. Một trong những thứ và những sự, khiến con người buồn là ở chỗ: người ấy tuy sống vinh thân/phì gia là thế, nhưng vẫn chưa nhận ra lý lẽ của cuộc sống. Và, người đời gọi sự thể ấy bằng nhiều tên, như thể: giàu sang/phú quý, danh vọng/quyền thế, tài sắc/lương duyên, vv..

Với nhà Đạo, thì khác. Nhà Đạo, gọi đó là niềm tin-yêu rất mực, không thể thiếu/vắng trong sinh-hoạt đời người. Vừa qua, có người trẻ nọ ở Sydney cũng đà khám-phá ra một trong các chân lý để đời, cho mọi người như sau:

“Ngày nay, phải can đảm lắm mới dám cởi mở tỏ bày cho người khác biết về niềm tin mình đeo đuổi, vì cứ sợ người khác chê bai, dỡn cợt.

Những điều nói trên có thể áp-dụng nơi tôi, một cách rất chính xác. Nhiều lúc, có người cứ đến với tôi hỏi những câu thật vớ vẩn như: Cuối tuần này cô sẽ đi đâu? Có sinh hoạt gì vui nhộn không? Mỗi lần nghe hỏi như thế, tôi thường trả lời rất bang quơ rằng: thì, cũng đi đây đó xem cuốn phim mới được giải, rồi đi shop, hoặc đọc đôi ba cuốn sách rồi đi nhà thờ vào buổi chiều tối, chỉ thế thôi…”

Nghe tôi nói về chuyện đi nhà thờ/nhà thánh, bọn họ kêu trời rất thất thanh xem như chuyện động trời ít khi thấy. Tôi chỉ cười nhẹ và chẳng bàn cãi hoặc thêm thắt điều gì, dù sự việc này làm đau lòng cả một thế-hệ khi xưa vẫn tự hào mình là người chuyên chăm đi đạo và chuyện ấy vẫn được âm-thầm chấp-nhận. Nay thì, ra như ai cũng có khuynh hướng cứ để mọi người tha hồ mà phê-phán, cãi tranh.

Thành ra, ngày nay nếu có ai vừa trẻ tuổi mà lại siêng năng đạo-đức thường xuyên đi nhà thờ, chứ không giao du với giới vô-thần, thì chuyện đó mới khó. Nói thế là bởi, ngày nay người ngoài Đạo thường cảm thấy khiếp-sợ khi nghĩ đến cảnh-tượng cứ bị những người có đạo xấn xổ đến chuyện vãn nói năng hoặc dụ dỗ hồi hướng trở lại Đạo. Trong khi đó, đa phần người Công giáo chỉ muốn nói về Đạo mình mà không sợ bị phản-ứng mạnh.

Ngày nay, việc cho người khác biết mình có Đạo, cũng đã trở thành một thứ như “năm dấu thánh” ịn trên người mình, bởi mọi người chỉ muốn giữ niềm tin cho chính mình, thì người Công giáo lại cứ hay co cụm vào với nhau như tổ ong có đầu óc thiếu thông thoáng, lại có hơi quá khích, cuồng tín nữa…” (xem Neve Mahoney, Confessions of a practising Catholic, trên tờ Australian Catholics số Spring 2014, tr. 7-8)

Người viết ở trên nói thì nói thế, chứ: Người đi Đạo thời hôm nay mỗi người mỗi ý, đã không còn như xưa nữa. Không còn như xưa, tức: họ thường nhớ rất nhiều thứ và nhiều sự. Cả, những thứ và những sự được dậy dỗ ở trường lớp hay cuộc đời có những câu chuyên hay ho, ý-nhị, thực-tế áp-dụng cho đời mình và đời người, cũng thường thôi, hệt như truyện kể ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Sally vội vã tiến đến cửa phòng cấp cứu khi thấy cánh cửa bên trong mở ra. Sally hỏi vị bác sĩ: “Con trai của tôi thế nào rồi… Thằng bé sẽ ổn chứ?… Tôi có thể nhìn nó ngay bây giờ không!…” Vị bác sĩ trả lời từ tốn:

-Tôi rất lấy làm tiếc, chúng tôi đã làm hết sức mình có thể!”

Sally tự hỏi với lòng mình:

-Tại sao những đứa trẻ có thể chịu được căn bệnh ung thư, Chúa hầu như không ngó ngàng đến chúng sao. Chúa, người ở đâu trong khi con trai con lúc này cần một đặc ân của người!

Vị bác sĩ trả lời bên cạnh Sally:

-Ít phút nữa sẽ có ý tá đưa chị vào thăm cháu bé, trước khi chúng tôi chuyển cháu đi.

Sally muốn nói với người y tá rằng cô muốn ngay lúc này được gặp mặt con trai bé bỏng của cô để nói lời tạm biệt cậu bé, trước khi không còn dịp nào để có thể nhìn thấy cậu bé nữa.

Sally đưa nhanh những ngón tay của mình lên mái tóc còn bối rối.

-Bà đã chuẩn bị mang bao trùm tóc chưa?…” người y tá nói.

Sally nhanh chóng nhận bao trùm tóc dành cho người thăm bệnh lên đầu, vừa trùm tóc xong Sally khẽ nói:

-Jimmy đã từng có ý nghĩ sẽ hiến thân xác của mình cho trường đại học y. Thằng bé bảo rằng như thế sẽ có lúc giúp được cho một ai đó, và đó là điều thằng bé muốn.

Câu trả lời đầu tiên của tôi là không thể, nhưng Jimmy nói với tôi rằng:

-Mẹ à, con muốn mình trở nên có ích ngay cả khi con không còn sống nữa, có thể điều đó sẽ giúp được cho một cậu bé cô bé nào giống như con để bạn ấy có thêm thời gian sống với gia đình của bạn ấy!”

Sally bảo rằng:

-Jimmy của tôi là một cậu bé có trái tim bằng vàng, thằng bé luôn luôn nghĩ đến người khác, luôn muốn giúp đỡ những mọi người bằng một cách nào đó khi thằng bé có thể.
Sally từ từ bước chậm rãi đến phòng bệnh nhi lần cuối sau khi cô đã từng túc trực tại nơi này hơn 6 tháng ròng. Cô ngồi lên chiếc giường bệnh của Jimmy và thu dọn những món đồ chơi của Jimmy cho vào túi. Cô lẳng lặng xách chiếc túi nhỏ cho vào băng ghế của chiếc xe và từ từ lăn bánh. Bệnh viện lùi dần về phía xa như thể cô càng chạy xa bệnh viện chỉ còn như một cái chấm nhỏ nhoi. Sally không hề quay đầu lại nhìn, cô sợ mình lại trở đầu xe và chạy đến Jimmy một lần nữa.

Sally lái xe về nhà một cách khó nhọc và hầu như càng khó hơn khi bước chân vào nhà. Một cảm giác trống rỗng khiến cho Sally buốt tim. Cô mang chiếc túi đựng đồ chơi từ bệnh viện của Jimmy về phòng, và để mọi thứ bày biện đúng như khi Jimmy vẫn còn ở nhà, chiếc xe đồ chơi cứu hỏa được để góc kệ sách. Rồi Sally ngồi xụp xuống bên chiếc giường của Jimmy, cô ôm ghì chiếc gối của Jimmy vào lòng và nước mắt cứ lặng lẽ tuôn rơi.

Sally tỉnh giấc vào khoảng nửa đêm và nằm dài trên giường bỗng một lá thư rơi ra từ chiếc gối. Cô nhặt nó lên và đọc

Mẹ ơi!

Con biết rồi mẹ sẽ rất nhớ con, nhưng mẹ đừng bao giờ nghĩ rằng con sẽ quên mẹ hoặc con không còn yêu mẹ nữa, bởi vì dù con không còn ở cạnh mẹ để nói con yêu mẹ rất nhiều.

Con luôn nghĩ đến mẹ mỗi ngày và con luôn muốn yêu mẹ mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Một ngày nào đó mẹ với con sẽ được gặp lại nhau. Mẹ à, nếu mẹ muốn những đứa trẻ giống con không thấy cô đơn và buồn chán, mẹ hãy cho các bạn ấy phòng của con, cho các bạn ấy những món đồ chơi con đã từng chơi. Hoặc nếu như mẹ mang các món đồ chơi của con cho một bé gái nào đấy, bạn ấy sẽ không thể nào chơi những món đồ chơi của bọn con trai chúng con, lúc ấy mẹ nên mua cho bạn ấy một con búp bê hay món đồ chơi mà bạn ấy thích.

Mẹ đừng buồn khi nghĩ về con mẹ nhé, nơi này thực sự rất tuyệt. Ông và bà sẽ gặp con sớm thôi nếu con đã có mặt ở đây và chạy vòng quanh nhìn ngắm mọi nơi, nhưng hẳn là sẽ không lâu nữa đâu. Các thiên thần rất thân thiện và con rất thích nhìn họ bay lơ lửng trên cao.

Con mãi yêu mẹ

Jimmy của mẹ.

(trích truyện kể do tác giả ST sưu tầm và phổ-biến trên mạng)

Và người kể cũng “chua” thêm đôi lời bàn, vẫn nói rằng: “Khi bạn mất đi một ai đó và bạn nghĩ rằng bạn đã dành cho người đó nhiều tình cảm hơn người đó dành cho bạn, thì khi họ mất đi, họ sẽ là người bị mất mát nhiều nhất.

Nhân sự kiện, có nhóm bạn trẻ người Sydney vẫn chủ trương “Nhớ Bạn Nghèo” trong 6 năm qua, bần đạo đã nhiều lần tự nhủ về sự thể được kể ở Tin Mừng thánh Mát-thêu trong đó có ghi lời Chúa: “Hãy bán đi những gì anh có, cho người nghèo”, đầy ý-nghĩa. Những ý và nghĩa, đem đến cho đời nhiều niềm vui, trong nhung nhớ.

Niềm vui “cho đi”, vẫn là niềm vui đích-thực tuy khó thực-hiện. Niềm vui ấy, vẫn còn thấy ở nhiều truyện kể khác, nghe trong đời. Và, một trong các truyện kể khá ý-nhị, được trích như sau:

“Truyện rằng:

Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng
mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.
Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.
Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.

Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.
Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là
màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để
che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và
đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau. Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để
chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục là cây cỏ bừng mạch sống, lam là dòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!” (lại cũng trích từ truyện sưu tầm trên mạng của ST)

Truyện kể thì như thế, tức chỉ để nhắc nhở người đi Đạo hãy nhớ gốc nguồn thân thương của đời mình, rất có tình. Truyện kể, nay cốt để minh-hoạ cho đời người hiện có quá nhiều thứ để nghĩ-suy, toan tính rồi quyết-định. Quyết-định cho riêng mình, chứ chẳng để khuyên lơn thuyết phục được ai, trừ phi người đó người kia dung các biện pháp thực tế khác, để đạt hiệu quả.

Thế đó, còn là câu chuyện về nhóm “Nhớ Bạn Nghèo” ở Sydney vẫn từng làm. Nhớ Bạn Nghèo đây, có tôn chỉ là nhớ đến những bạn còn nghèo ở khắp nơi, bằng động-tác thiết-thực. Nhớ Bạn nghèo đây, còn là và phải là lập trường sống, là nhân-sinh quan và lý tưởng của mọi người trong Đạo, mới đúng.

Nhớ Bạn nghèo, là nhớ về lời nhắn nhủ của Đức Giêsu ở Tin Mừng khi Ngài vẫn cứ bảo: Mỗi khi các ngươi làm điều tốt lành cho người nghèo khó, là làm cho ta.”

Nhớ Bạn Nghèo, không chỉ là nhớ đến các đấng bậc ở nhà thờ từng giảng rao nói nhiều về tinh thần nghèo nhưng thực tế, vẫn chưa thấy rõ được như thế. Nhớ Bạn Nghèo, là có tương-quan đích-thực với những người còn thua kém mình về nhiều thứ. Nhớ cả đến những người thấp cổ bé họng, nhưng trong lòng không gian dối, uý-kỵ hoặc có đấu tranh.

Nhớ Bạn Nghèo, chính ra là cuộc sống có chất lượng, không xa hoa, phung phí, mua sắm thừa mứa cho mình cho riêng một người nào đó, chưa đến nỗi tệ hơn người nghèo ở phố chợ.

Và, nhớ bạn nghèo là còn biết trích ra vài phần trăm nào đó từ thu-nhập/lợi tức hằng năm/hàng tuần của chính mình mà đem cho những người có nhu cách cấp thiết hơn mình. Tắt một lời, nhớ đến bạn nghèo hơn mình là nhớ và thương những người xa lạ chẳng quen biết, nhưng vẫn nhận là “bạn” là người thân của mình ở đoâu đó, đang chờ đón một cái búng tay của mình, mà thôi.

Cuối cùng thì, Nhớ Bạn Nghèo thực chất là nhớ đến lời lẽ ở Tin Mừng thánh Mát-thêu vẫn vang vọng bên tai mình, những câu như:

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện,

thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,

anh sẽ được một kho tàng trên trời.”

(Mt 19: 2)

Nhớ thế rồi, nay ta cứ hung dũng hiên ngang, hát lời ca của nghệ sĩ già khi xưa từng viết:

“Niềm mơ xưa là đó, cho ta nâng niu lời ca,
Chiều mơ không gian hờ hững cõi Thiên Đàng.
Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ.
Xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà.
Nhạc chiều của chúng ta là câu ân ái muôn đời.
Bóng đã xế rồi hãy nép trong lòng cõi đời.
Tình Yêu mãi mãi.”

(Phạm Duy – bđd)

Nghệ sĩ già ngoài đạo còn hát thế được huống hồ là bạn là tôi, đang phấn khởi sống đời người trẻ đầy phấn chấn, rất yêu đời. Thế đó là những ý/lời của chuyện phiếm lai rai, dài dài một ngày vui, hôm nay và mai sau, rất dài đời.

Thế đó, là lời nhắn gửi đến bạn đến tôi, những người ở đây đó vẫn còn nhớ đến các “bạn nghèo” ở đó đây, nơi này. Mãi mãi.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều khi cũng quên bẵng

Các bạn còn nghèo

Đang chờ mình.

Vẫn tin vào Chúa, dù gặp gian truân

Vẫn tin vào Chúa, dù gặp gian truân

Dongten.net

timthumb.php

“Trên con đường vợ chồng con đang đi, chúng con luôn đặt niềm tin vào Chúa, vào Mẹ Maria. Chúng con được Chúa ban cho một đứa con trai. Ngày đêm chúng con luôn cầu nguyện, đọc Lời Chúa để cảm tạ. Xin cho con của con được sinh ra khỏe mạnh như bao đứa con khác. Cuối tuần vừa rồi, vợ con chuyển dạ sinh non. Bào thai chỉ mới được 7 tháng tuổi. Em bé được sinh ra trong sự lo lắng và chờ đợi. Khi em bé sinh ra cũng là lúc chúng con không còn đứng vững khi biết con trai mình mang căn bệnh nhiễm sắc thể thứ 18. Dù vợ chồng con vẫn mạnh khỏe, gia đình không có ai bị bệnh đó cả. Bác sĩ bảo em bé chỉ có thể sống không quá một tuổi. Bé có thể ra đi bất cứ khi nào. Nhìn con mà chúng con không còn chút nghị lực để tiếp tục sống. Chúng con luôn hỏi tại sao Chúa lại bỏ rơi chúng con. Lúc này, chúng con không biết phải làm thế nào cả.”

(Một độc giả)

Xin chào bạn,

Khi viết những chữ này để chia sẻ cùng anh, tôi thật sự không nhớ nỗi là mình đã đọc những dòng tâm tư của anh bao nhiêu lần rồi. Câu chuyện của gia đình anh đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi cảm thấy nơi đó là cả một bầu không khí ảm đạm, nỗi buồn, nỗi thất vọng và cả hụt hẫng nữa của anh và toàn thể gia đình. Anh và gia đình luôn quy hướng về Chúa với một lòng tin yêu. Thế nhưng, điều mà anh nhận được chỉ toàn là những đau xót. Tôi xin chia sẻ cùng anh nỗi đau thương mà anh và gia đình đang gánh chịu. Tôi hứa là sẽ cầu nguyện, xin Chúa nâng đỡ anh và gia đình trong biến cố đau thương này.

Tôi nghĩ là bất cứ ai, khi rơi vào tình trạng giống như anh cũng sẽ có cùng một thái độ và lối suy nghĩ như anh. Nếu anh thấy cần, anh có thể đến trước mặt Chúa, thổ lộ hết tất cả những gì đang có trong lòng anh, trách Chúa, buồn Chúa, hỏi Chúa… Hãy khóc trước Chúa, nếu như anh cảm thấy không thể kiềm chế được cảm xúc. Tôi tin là Chúa sẽ hiểu anh. Ngài sẽ không trách anh, trái lại, Ngài sẽ đến và thêm sức cho anh, vì chính Chúa Cha cũng đã có kinh nghiệm nhìn người Con Yêu của mình đang từ từ chết đi trên thập giá.

Bạn thân mến,

Cuộc sống mà chúng ta đang sống là một nhiệm mầu. Chúng ta sẽ không tài nào có thể lý giải được những biến cố xảy đến. Sự dữ vẫn cứ hoành hành khắp nơi, gây nên những điều có vẻ như rất bất công. Tại sao người giàu càng giàu, tại sao người nghèo cứ nghèo, tại sao người ác thì cứ luôn bình an vô sự, còn người tốt thì chết bất đắc kỳ tử…? Đây là những câu hỏi mà muôn đời chúng ta không thể nào có được câu trả lời cho thỏa đáng. Cả người tin vào Chúa và không tin vào Chúa đều trải qua tất cả những điều ấy, nhưng thái độ của hai loại người này trước biến cố không may xảy đến cho họ thì có khi lại khác nhau.

Anh có nhớ Mẹ Maria không? Mẹ sống một cuộc đời tuyệt vời, lúc nào cũng tín thác và đọc kinh dâng lời tạ ơn Chúa. Vậy mà phần thưởng Chúa ban cho Mẹ là gì? Là bị người ta xua đuổi nên phải sinh con trong chuồng bò, là khi thai kỳ chưa hết thì phải chạy trốn lánh nạn, là chịu cảnh nghèo cùng với con, và đau đớn nhất là đứng đó, nhìn con của mình chết từ từ trong đau đớn. Anh có thấy hoàn cảnh của mình giống Mẹ Maria không? Thấy con mình đang dần dần chết đi, mà không thể làm gì được. Nhưng Mẹ đã làm gì? Mẹ chẳng hiểu cái gì là ơn cứu độ, chẳng thể hiểu nỗi vì sao việc con mình chết đi thì có lợi cho cả nhân loại. Trước mắt Mẹ đây là một nỗi đau xé gan xé thịt. Nhưng MẸ VẪN TIN. Mẹ tin là Chúa khôn ngoan hơn Mẹ, Chúa quyền năng hơn Mẹ. Nếu Chúa đã muốn để cho chuyện này xảy ra thì chắc chắn là để nhắm đến 1 điều tốt hơn. Hiện tại, Mẹ chưa thấy chưa hiểu, nhưng từ từ, khi thời gian qua đi, Mẹ sẽ hiểu. Và quả đúng như thế, niềm tin của Mẹ đã không phản bội Mẹ, vì Chúa chẳng bao giờ làm ngơ kẻ đặt niềm tin vào Ngài. Giây phút này đây, tôi khuyên bạn hãy đến với Mẹ, chiêm ngắm Mẹ, để Mẹ ban thêm niềm tin cho bạn.

Bạn chia sẻ với tôi là trên con đường vợ chồng bạn đang đi, các bạn luôn đặt niềm tin vào Chúa, vào Mẹ. Đây chính là lúc bạn chứng tỏ niềm tin ấy! Người ta sẽ dễ dàng ca ngợi Chúa khi được Chúa ban cho của cải đầy dư, vạn sự như ý. Nhưng người ta có thực sự tin vào Chúa hay không, thì chỉ những lúc khó khăn như thế này mới chứng minh được. Bạn có nhớ dụ ngôn 10 cô trinh nữ không (x. Mt 25,1-13)? Khi bình thường, cô nào cũng như cô nào. Nhưng khi chú rễ đến muộn, cô nào khôn ngoan trữ dầu sẽ khác biệt với cô nào ỷ lại không trữ dầu. Đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy! Bình thường thì ai cũng như ai. Nhưng khi đau khổ đến, người có đức tin sẽ được phân biệt với người không có đức tin ngay. Nếu anh và gia đình đã luôn tin vào Chúa, thì hãy cố gắng thêm chút nữa đi. Hãy cố mà tin vào Chúa ngay trong khoảnh khắc này đi. Chắc chắn, một điều tốt đẹp trong tương lai sẽ đến với gia đình bạn vào một ngày không xa.

Chắc chắn là anh và gia đình đang đau khổ lắm. Những dòng chia sẻ của tôi trên đây chưa chắc giúp được gì cho anh, càng không có tác dụng cứu sống em bé. Nhưng tôi xin Chúa luôn ở cùng bạn và ban thêm niềm tin cho bạn. Sống giữa thế gian này, chỉ có niềm tin vào Chúa mới giúp mình thoát khỏi những bận tâm về đau khổ và buồn phiền thôi. Mến chúc anh sớm lấy lại tinh thần và là chỗ dựa vững chắc là vợ anh.

(Xin quý độc giả cùng hiệp thông với gia đình nhỏ trên qua lời kinh đơn sơ dâng lên Chúa, vì xét cho cùng, chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, là anh chị em của nhau)

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

“Chuyện tử tế” ngày nay

“Chuyện tử tế” ngày nay

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-01-24

VHNT01242015.mp3

tran-van-thuy-622.jpg

Đạo diễn Trần Văn Thủy.

Courtesy apl.edu.vn

Your browser does not support the audio element.

Nhiều vấn đề bức bối

Trong những năm vừa qua nhân sĩ trí thức Việt Nam đã lên tiếng lo ngại cho việc xuống cấp đạo đức, văn hóa suy đồi nghiêm trọng trong xã hội Việt Nam. Những chuyện đáng buồn từ trường học cho tới mặt bằng xã hội từ chính quyền cho tới hệ thống truyền thông, giải trí đâu đâu cũng xảy ra những vấn đề bức bối không thể chấp nhận.

Mời quý vị theo dõi cuộc mạn đàm giữa Mặc Lâm và đạo diễn Trần Văn Thủy, tác giả cuốn phim “Chuyện tử tế” phát hành từ hơn 30 năm trước nhưng nay nhìn lại vẫn thấy như cuốn phim nói về cuộc sống hôm nay. Trước tiên đạo diễn Trần Văn Thủy nhận xét:

Trần Văn Thủy: Tôi thấy có lẽ vào thời điểm hiện tại những bi kịch của xã hội, những chuyện trên báo đài và trong các phương tiện thông tin đại chúng đưa ra các mặt trái của xã hội, tệ nạn, những chuyện hiếp đáp nhau và những chuyện đau lòng nhiều quá.

” Theo sự hiểu biết trải nghiệm cũng như cái ám ảnh của tôi thì một đất nước có trở nên hấp dẫn hay không, có hạnh phúc hay không cái quan trọng nhất là mối quan hệ giữa người với người, cái tình người.
-Đạo diễn Trần Văn Thủy”

Đúng là thời điểm hiện tại thì tự nhiên nó rộ lên đề cao sự tử tế. Truyền hình thì có chương trình “Việc tử tế” và gần đây thì người ta nhắc nhiều lắm kể cả những tổ chức xã hội dân sự có quan tâm họ mời tôi đến để chiếu phim, nói chuyện, mạn đàm. Không phải ngẫu nhiên mà bây giờ lại quan tâm đến chuyện tử tế, coi như một đề tài nóng bởi vậy cho nên vừa rồi theo lời mời của một số diễn đàn thì tôi có trao đổi tham luận và có một số suy nghĩ như thế này:

Nếu mà nói về sự tử tế thì nó là vấn đề của nhân loại, nó lớn lắm và nếu nói vể sự tử tế tận cùng tới cái góc khuất của đời sống thì nó cũng sẽ đụng tới vấn đề chính trị. Đấy là qua cái trải nghiệm của tôi mà nhất là Việt Nam khi bàn vể chuyện tử tế, bàn về nếp sống văn hóa, sự ứng xử văn hóa thì thực ra nó không phải là vấn đề nhỏ.

Theo sự hiểu biết trải nghiệm cũng như cái ám ảnh của tôi thì một đất nước có trở nên hấp dẫn hay không, có hạnh phúc hay không cái quan trọng nhất là mối quan hệ giữa người với người, cái tình người. Tôi nghĩ chưa chắc một đất nước giàu nhất to nhất hay đông dân nhất hay đánh nhau giỏi nhất…mà ở xứ sở nào có tình người tốt đẹp thì người ta tìm thấy hạnh phúc và người ta coi là nơi đáng sống nhất.

Mặc Lâm: Trong lúc xã hội bàn cãi một cách rộng rãi về chuyện tử tế thì truyền thông có nhắc lại cuốn phim cùng tên của ông đã làm hơn 30 năm trước hay không?

Trần Văn Thủy: Gần đây người ta bàn rộ lên chuyện tử tế thì tôi đôi khi trở thành mục tiêu cho người ta đàm tiếu. Thường thường người ta đặt ra cho tôi câu hỏi: Tôi hỏi ông cái xã hội bây giờ so với hơn 30 năm trước khi ông làm “Chuyện tử tế” thì bây giờ nó tốt lên hay xấu đi? Tôi cũng thẳng thắn mà thưa rằng 30 năm trước đây tuy nghèo thật, khó khăn đời sống vất vả hơn nhưng tình người, cách đối xử giữa con người với nhau nó tốt hơn bây giờ. Bây giờ đời sống đi lên nhưng về mặt tình người, về mặt đạo đức, ứng xử thì nó tệ hơn ngày xưa. Rõ ràng bây giờ trộm cắp hơn, tệ nạn hơn, tham nhũng hơn, nhiều chuyện bất nhẫn hơn. Đấy là một nghịch lý.

20130601165840-chuyen-tu-te-400.jpg

Một cảnh trong phim Chuyện Tử Tế. Screen capture.

Có lẽ tôi là người khởi xướng cái đề tài này cách đây 30 năm mà tôi phải xin thưa với quý thính giả rằng thời tôi làm bộ phim có tên là “Chuyện tử tế” thì mọi người nhìn tôi bằng con mắt ít thiện cảm và cũng ít sự chia sẻ. Những người có trách nhiệm trong chính quyền về phương diện điện ảnh gây khó khăn cho tôi rất nhiều. Mà bộ phim cho tới giờ phút này cũng không nhận được một vinh danh, một đánh giá nào chính thức của các Liên hoan phim hay các hội đoàn về điện ảnh.

Tôi nghĩ rằng cái quan trọng nhất là giữa người với người. Sự ứng xử, lòng tốt, sự tử tế…thậm chí tôi viết trong lời mở đầu của cuốn phim có một đoạn nguyên văn mà tôi còn thuộc lòng như thế này:

“Từ rất xa xưa cha bác có dạy rằng tử tế vốn có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi giòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bĩ đánh thức sự tử tế đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người, người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành giỏi giang hoặc siêu phàm.

Tương tác giữa văn hóa và sự tử tế

Mặc Lâm: Thưa ông xét trên bình diện xã hội thì sự tử tế có liên quan mật thiết thế nào đối với văn hóa, nhất là trong thể giới văn minh ngày nay sự tử tế được xem như là khởi điểm của ứng xử trong cộng đồng?

Trần Văn Thủy: Cái chìa khóa cho xã hội đi lên là vấn đề văn hóa. Tất nhiên giữa văn hóa và sự tử tế nó có sự tương tác. Một người tử tế thì không thể nào thiếu văn hóa được. Tủ tế là đỉnh điểm của văn hóa. Trong bản thân người được gọi là có văn hóa không thể nào thiếu sự tử tế được. Đây là một đề tài lớn lắm anh Mặc Lâm ạ, đề tài của nhân loại, tuyệt đối không phải là đề tài nhỏ.

” Cái chìa khóa cho xã hội đi lên là vấn đề văn hóa. Tất nhiên giữa văn hóa và sự tử tế nó có sự tương tác. Một người tử tế thì không thể nào thiếu văn hóa được. Tủ tế là đỉnh điểm của văn hóa.
-Đạo diễn Trần Văn Thủy”

Thế nhưng ở Việt nam đã lâu rồi ai nói cái gì cứng một tí, lệch lề phải lể trái một tí thì “Ối giời ôi chuyện chính trị” hoặc là “không nói chuyện chính trị” hay “không thích chuyện chính trị”. Khổ, chính trị nó có tội vạ gì đâu? Xã hội Việt Nam bây giờ nếu mà luận bàn sơ sơ hay nói chuyện phiếm lề đường quán nước thì không sao nhưng bất kỳ một để tài gì mà nói đến sự tận cùng của nó thì đều đụng đến cái gọi là chính trị.

Mặc Lâm: Thưa có lẽ vì vậy mà chính quyền đang kêu gọi thực hiện theo nghị quyết vực dậy đạo đức nơi công sở cũng như thực hiện đời sống văn hóa mọi nơi…đem chính trị hướng dẫn văn hóa đôi khi cũng thuyết phục người dân phải không ạ?

Trần Văn Thủy: Tôi nói thì nó hơi ngược tí anh Mặc Lâm ạ. Ở Việt Nam đã từ lâu rồi người ta quan niệm rằng văn hóa là một phạm trù của chính trị. Một phạm trù nhỏ bé trong chính trị và chính trị phải lãnh đạo văn hóa, điều đó xã hội Việt Nam xem là mặc nhiên từ lâu rồi nó là như thế. Có lúc tôi đã nghĩ như thế này: hình như không hoàn toàn là như thế mà hình như chính trị là một phạm trù của văn hóa. Nếu như một nền chính trị mà không mang màu sắc văn hóa, không mang tinh thần nhân văn, nhân đạo, tiên tiến thì không thể nào có một cái thứ chính trị chân chính được.

Nếu cứ quan niệm đặt chính trị lên trên, rồi thì văn hóa phải đi theo chính trị thì một đất nước có một nền văn hóa tốt sẽ không thể nào có một nền chính trị dở được và cũng không thể sản sinh ra chính trị gia tồi được cho nên cái văn hóa nó phải bao trùm lên. Tôi nghĩ rằng nó bao trùm lên mọi mặt của đời sống xã hội chứ không riêng những phạm trù nào đâu. Phải nói rằng đến bây giờ chúng ta ý thức được điều đấy thì cũng là may mắn nhưng cũng quá muộn.

Mặc Lâm: Ông có vẻ bi quan nhưng tôi vừa đọc một bản tin nói về người dân Sài Gòn kéo một tên trộm dưới sông lên và thấy anh ta lạnh quá có người cởi áo ra cho anh ta nữa. Đây là một sự tử tế tuy ít nhưng vẫn xảy ra phải không?

Trần Văn Thủy: Anh gợi ra cái chuyện một số bà con đã lấy áo cho người ăn trộm thì nó là cái chuyện quý mà nó không phải là ít đâu những người tốt trong xã hội còn nhiều nếu không có chắc chúng ta không sống nỗi. Tôi xin thưa cũng trong bộ phim vừa nhắc đến là bộ phim “Chuyện tử tế” cách đây hơn 30 năm có một đoạn nguyên xi cái hình và lời của nó như thế này; “Xung quanh chúng ta có nhiều người tử tế lắm chứ! Những người tử tế chính là những người bất hạnh, nghèo khó. Họ chính là những người khát khao sự tử tế hơn ai cả.

Tôi vẫn tin đời sống còn rất nhiều người tử tế nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của người trí thức, vai trò của thông tin đại chúng, vai trò báo chí phát thanh truyền hình và đặc biệt là vai trò của người cầm quyền. Tôi nghĩ trong một đất nước, trong một gia đình, vai trò của người cầm quyền rất là quan trọng nếu anh không gương mẫu thì xã hội không thể tốt đẹp lên được.

Nhưng bây giờ nhìn vào những người cầm quyền thì đâu có nhiều gương tốt? Phần lớn những người tốt thì tiếng nói của họ đâu phải là tất cả và nhiều khi nổi lên những chuyện băng đảng rồi chạy quyền chạy chức, rồi tham nhũng. Để làm sao xã hội nó tốt lên được, để làm sao xã hội mà văn hóa và sự tử tế nó có đất tồn tại, thì có lẽ người cầm quyền chịu trách nhiệm rất là quan trọng. Bên cạnh sự khích lệ sự tử tế có lẽ phải bàn đến việc tạo ra một môi trường để con người ta có thể sống tử tế được. Nếu không có môi trường để con người ta sống tử tế, người ta đói rách quá người ta bần hàn quá, bất công ngạt thở quá thì làm sao người ta sống tử tế được mà cái này thì tôi nghĩ trách nhiệm của người cầm quyền.

Mặc Lâm: Như ông nói thì hình như vai trò của người dân trong xã hội không mấy quan trọng trong việc ứng xử với nhau một cách tử tế. Dù sao thì trong mỗi cá thể phải tự chịu trách nhiệm trong cách ứng xử của mình thưa ông?

Trần Văn Thủy: Tôi thấy anh Mặc Lâm hôm nay lại nhắc nhiều đến trách nhiệm và hiện trạng của người bình thường. Vâng, tôi rất chia sẻ và tán thành với anh bởi vì tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với vần đề thịnh suy, tốt xấu của xả hội. Tôi là người có chính kiến và tôi nghĩ đầu tiên phải là người câm quyền. Thượng bất chính, hạ tất loạn.

Thưa anh nếu như dân chúng, trí thức và những người có lòng không được tự do trình bày cái ý kiến của mình tức là lại đụng đến vấn đề lớn là vấn dề tự do ngôn luận ở Việt Nam, thì không có cách nào xây dựng một xã hội có văn hóa và có sự tử tế được đâu. Nếu bây giờ chỉ nói theo lề phải, chỉ nói theo văn bản, chỉ nói theo đường lối chính sách tại vì cuộc sống nó muôn màu muôn vẻ và nó đa dạng. Có lẽ để kết thúc buổi mạn đàm ngày hôm nay anh cho phép tôi được nhắc lại cái câu mà tôi cho rằng cũng đáng lưu tâm.

Vừa rồi có một buổi giao lưu ra mắt cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo” của sử gia Larry Berman ông ấy viết về điệp viên Phạm Xuân Ẩn ra mắt ở số 3 Phạm Ngũ Lão. Họ cũng biết tôi là người tham gia chiến tranh có mặt ở chiến trường cũng có rất nhiều quan tâm đến thời chiến, có một nhà báo bảo ông Trần Văn Thủy phát biểu đi, thế là tôi lên phát biểu. Cái đoạn cuối cùng tôi có nói như thế này: “Thượng đế sinh ra cho chúng ta mỗi người một cái mồm. Cái mồm có bổn phận phải nói những điều chúng ta nghĩ. Không có lý do gì cái mồm do Thượng đế sinh ra mà chúng ta lại nói những điều người khác muốn”. Cho nên tôi cho rằng tôn trọng tự do ngôn luận là điều tối thượng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, tử tế hơn, văn hóa hơn.

Mặc Lâm: Xin cám ơn đạo diễn Trần Văn Thủy.

Gia Tài Của Mác

Gia Tài Của Mác

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác.

Đỗ Mạnh Tri

Cuối năm, nhiều cơ quan truyền thông – trong cũng như ngoài nước – đồng loạt đưa tin “Dân Sài Gòn cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh.” Đọc xong bỗng chợt thấy có cái gì “vương vướng?” Tại sao không phải là “người dân cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh” mà lại có thêm hai chữ “Sài Gòn” vô đó, vậy  kìa?

Thương người như thể thương thân.

Rét thời cho mặc, đói thời cho ăn.

Gia Huấn Ca có dạy như vậy mà. Không lẽ, ở nơi khác, dân chúng lại hành sử khác sao? Mà có khác thiệt, và khác lắm, khi xem lại vài trang báo cũ:

Cách đây chưa lâu, báo Dân Trí đi tin:

Rạng sáng nay 7/6, người dân xã Hưng Đông, TP Vinh (Nghệ An) phát hiện một vụ cháy kinh hoàng: một người đàn ông cùng một chiếc xe máy bị thiêu cháy bên vệ đường

Quan sát kỹ tại hiện trường, PV Dân trí nhận thấy nạn nhân bị đốt cháy gần thành than, không thể nhận dạng, bốc mùi khét lẹt… Chiếc xe máy bị đốt cũng chỉ còn trơ khung đen.Nhiều người cho rằng nạn nhân xấu số này ăn trộm chó bị phát hiện, bị đánh chết ở đâu đó rồi đưa ra cánh đồng này đốt xác.”

Ảnh: Nguyễn Duy

Hai tháng sau, cũng báo Dân Trí, lại có thêm tin nữa:

Khoảng 17 giờ 30 phút chiều ngày 29/8, hai kẻ ăn trộm chó đã bị người dân xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) đánh chết….

Ba người bị đánh chết (ở Nghệ An) trong vòng hai tháng, đã khiến tôi liên tưởng đến những cái chết khác – thảm khốc và thương tâm không kém – cũng ở địa phương này, hồi giữa thế kỷ trước, chính xác là vào năm 1952, theo lời kể của nhà văn Võ Văn Trực:

Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch…”

“Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian” – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt… Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ….(Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Chuyện làng ngày ấy, và chuyện làng bây giờ – xem ra – không khác nhau nhiều lắm. Lòng “nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa” được thổi bùng lên từ thời “cách mạng phóng tay phát động quần chúng” đến nay – có lẽ – chưa bao giờ tắt (hẳn) ở rất nhiều nơi, tại Việt Nam.

Sài Gòn may mắn không phải là một nơi như thế. Vùng đất này không từng trải qua những năm Cải Cách Ruộng Đất (“nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa”) như tỉnh Nghệ An. Có phải nhờ vậy mà người dân “cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh,” thay vì đánh cho đến chết rồi mang đi đốt?

Nhắc đến Sài Gòn, tưởng cũng nên đọc lại vài dòng bút ký của anh Ba Sàm:

“Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên. Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải dừng theo!

Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm có 4 chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.

Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác thích thú để quan sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách nhường ghế cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm nay, trên xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành ‘Nội quy’). Lơ xe lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui, đeo bên thành xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.”

Thảo nào mà hôm rồi ông Chủ Tịch UBND Nguyễn Thế Thảo “than phiền về thái độ văn hóa ứng xử nơi công cộng của người dân thành phố, và “mong người Hà Nội ra đường trật tự như TP HCM.”

Chớ người Hà Nội “ứng xử nơi công cộng” ra sao mà mang tiếng dữ vậy cà? Xin đọc một đoạn văn khác của một nhà văn (vốn) gốc Hà Thành:

“Sắp đến ngày kỷ niệm Quốc khánh mùng 2 tháng 9, cả Hà Nội bừng sáng trong rừng khẩu hiệu và cờ hoa… Nơi các cửa hàng thịt cá mậu dịch người ta niêm yết trên bảng thông cáo: Các ô sổ phụ của phiếu thực phẩm tháng Chín bán cá bể, mỗi hộ được mua hai ký cá ngoài tiêu chuẩn để ăn mừng quốc khánh…”

“Cá bể chưa về. Thế mà có mấy người chầu chực sắp hàng từ năm giờ sáng. Trời vào thu rồi mà vẫn nóng, đám người chờ mua đông đặc không ra hàng lối gì. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại…vừa lúc đó, thốt nhiên bên kia đường bật lên tiếng reo lớn:”Cá về! Cá về!…”

Lúc đó thì không còn hàng lối gì nữa, mọi người chen chúc xô đẩy nhau, ý ới gọi nhau. Từng lớp sóng người dồn lên rồi lại dạt xuống, khiến không còn chỗ cho những bà mậu dịch viên đổ hàng. Thế là lại phải giải thích cho mọi người lùi lại, nhường cho một khoảng trống. Có đến hai mươi phút sau cá mới được đổ xuống vỉa hè, chả cần thau chậu gì ráo. Và lũ ruồi đánh hơi mới tài làm sao! Chỉ loáng một cái chúng đã kéo đến hàng đàn, bám đen lên đống cá. Tôi không đủ can đảm để giữ tư cách nữa, cứ thế mà chen đẩy theo sức lực của mình. Đứng trước tôi là một thằng bé, không hiểu bằng cách nào mà len lỏi tới trước được, nhưng cũng khổ cho nó, mỗi khi đợt xô đẩy dồn tới là nó lại bị đè ngã vào đống cá …” (Thế Giang. “Lộc Thánh”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa, CA: Người Việt, 1987).

Ảnh: vnexpress.net

Chuyện “xô đẩy” vì vài con cá, vài lạng thịt của người dân Hà Nội  – năm xưa –  có ảnh hưởng (ít nhiều) chi đến “văn hóa ứng xử nơi công cộng” của họ hôm nay không? Và “ảnh hưởng” (hay “di sản” hoặc “di hoạ”) này, mai hậu, “sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua” là một trong nỗi bận tâm của nhà văn Phạm Thị Hoài:

“Chúng ta thử hình dung, một ngày nào đó không xa, trong vòng một thập niên tới, Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự.

Khi đó, cái di sản kéo dài gần ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần một nửa thế kỉ trên toàn quốc đó sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào?

Xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?”

Nhà văn Phạm Thị Hoài không phải là người duy nhất có nỗi lo âu (bao la) cỡ đó. Trước đó, trong tác phẩm Di Sản Mác Xít Tại Việt Nam – xuất bản vào năm 2002 – giáo sư Đỗ Mạnh Tri cũng cũng đã … cầm đèn chạy trước ô tô một đoạn rất xa:

“Học thuyết Mác sẽ để lại gì trên đất nước Việt Nam ? Có chút tương lai nào cho học thuyết đó ? Nói rộng ra, tương lai nào sau khi độc tài toàn trị chấm dứt ?

….

Nhưng chôn hay không chôn, dù sao ông Mác cũng di tản vào Việt Nam rồi…. Vào với tất cả hành trang lỉnh kỉnh của ông, của con cháu và tổ tiên ông…. Cũng như mấy thế kỷ trước đây đạo Kitô và trước nữa, Khổng, Phật, Lão. Dù muốn dù không, Mác đã thuộc phần gia tài của người Việt. Trong gia tài có thể có nợ. Kể cả nợ máu.

Làm gì với gia tài đó ?

Dù muốn dù không, Mác và những bóng ma của Mác đã và đương ám ảnh người Việt từ hơn nửa thế kỷ nay. Dù muốn dù không, nhân danh Mác hay nhân danh chống Mác, người ta đã làm nên ức triệu những con ma, những oan hồn từ đây sẽ luôn luôn quyện vào lịch sử dân tộc.

Hồn những kẻ đã nằm xuống nơi rừng núi, trong hầm sâu, nơi đồng ruộng, trong những trại giam, trong bụng cá, tại những đài tử sĩ đã bình địa vì thuộc bên này hay vẫn còn đó nhưng mốc meo không ai dòm ngó vì thuộc bên kia. Còn phải kể tới hồn những kẻ chưa sinh ra nhưng rồi đây sẽ phải gánh lấy gia tài đó…”

Cái đầu (bò) của một anh thường dân vớ vẩn như tôi khó có thể thể hình dung ra được (mai sau) “những kẻ chưa sinh ra nhưng rồi đây sẽ phải gánh lấy gia tài” của XHCN ra sao? Tôi chỉ có chút kỷ niệm (không vui) liên quan đến Marx và đứa con gái út của mình.

Khi cháu chừng mười hai hay mười ba gì đó, một hôm thay vì mua quà sáng cho cháu, tôi bảo nó xuống xe vào tiệm mua lấy  theo ý mình đi. Mấy phút sau, con bé đi ra tay không:

  • Con ghét người Việt Nam, con ghét người Việt Nam. I hate Vietnamese, I hate Vietnamese!

Mặt cháu đỏ bừng vì ngượng ngùng và tức giận khiến tôi ái ngại:

  • Chuyện gì vậy con?
  • Con đứng xếp hàng nhưng mấy người đến sau cứ chen lên trước nên con đợi mãi cũng chả đến lượt mình.

Cháu chào đời và lớn lên tại California nên không biết rằng những ông bà, cô dì, chú bác … khách hàng  trong tiệm giò chả này phần lớn (cũng y như chính bố nó) đều là những thuyền nhân. Họ đã bán tống bán tháo hết cả gia sản, bỏ của chạy lấy người, đâm xầm ra biển, xô đẩy chen lấn và sẵn sàng đạp lên nhau (nếu cần) chỉ để mong có thể dành được một chỗ trên một con thuyền ọp ẹp và mong manh nào đó. Người nhanh chân chưa chắc đã sống nhưng kẻ chậm chân thì chắc chết, chết chắc.

Kinh nghiệm hãi hùng này vẫn còn in đậm trong tâm trí và cách hành xử của rất nhiều người tị nạn C.S. nên cứ thấy đám đông là là họ chen liền, như một phản xạ tự nhiên, cho nó chắc ăn – dù chỉ để mua và cái bánh giò, hay mấy cân chả lụa. Cá nhân tôi, đôi lần, cũng đã “chen xe” trên freeway một cách hoàn toàn vô thức (và ngu xuẩn) tương tự.

Thiệt khó mà biết “xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản” thổ tả này nhưng ý thức được rằng “chúng ta không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam … có Mác” (chắc chắn) sẽ giúp cho dân tộc này dễ thông cảm và  bao dung với nhau hơn khi cùng chung tay xây dựng lại Việt Nam – trong tương lai gần.

THỜI ĐẠI MỚI

THỜI ĐẠI MỚI

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 638

Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi Đức Hồng Y được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành Công An và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp Lễ Phục Sinh 2003.

“Con đường Đức Tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận”, của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân Phước cho Đức Hồng Y FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt “sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh” xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4.6.1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp”, nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục “Chống phản động” nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận Giáo Hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp ? Tại sao một Linh Mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông Linh Mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép ?

Ngay việc của Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu Giáo Hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc Giáo Hội đó tổ chức ra một hội đoàn “Tu hội Hy Vọng” tại sao thành bất hợp pháp ? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam ?

Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, nghe Linh Mục Nguyễn Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha… Lần đầu tiên dự Thánh Lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức “Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi mọi đàng !” và việc “Anh chị em chúc bình an cho nhau”, cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…

Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng Nhà Thờ, và có giọng nói: “Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng Chủ Nhật nào tôi cũng dậy từ 5 giờ sáng đi Lễ Nhà Thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…

Tối 19.4.2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở Nhà Thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: “Lạy Chúa ! Hành trình đi đến Đức Tin của con có cả ơn soi, ơn gọi, và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng Đức Tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa !”

Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, mhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.

Nhìn lại và đổi mới

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, để nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.

Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm, ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng và lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.

Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” ( Mt 16, 25-26 ).

“Nếu con chỉ “giữ đạo” con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 650 ).

Sống Tin Mừng

Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”. Ðức Yêsu nói: “Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến” ( Mc 10, 28-30 ).

“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” ( Mc 16, 15 ). Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp Giáo Dân” ( Đường Hy Vọng, số 64 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

TIẾNG AI GỌI MỜI

TIẾNG AI GỌI MỜI

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 638

Trong mấy ngày qua tôi có dịp tiếp xúc với một chuyên viên về gỗ, anh còn rất trẻ nhưng lặn lội trong nghề gỗ “từ trong nôi”. Qua anh tôi học được nhiều điều, những tiến bộ trong công nghệ sấy và tẩm gỗ, tôi lạ lẫm và say mê nghe anh nói, kiến thức tôi có được khi ngồi trên ghế nhà trường từ hơn 40 năm trước về công nghệ gỗ bỗng bị anh bỏ xa tắp tít mù khơi. Tôi như bị choáng ngợp khi được anh mời vào thăm xưởng gỗ của anh, đi mỏi chân và khá mệt vì leo trèo qua các súc gỗ to vạm vỡ đường kính có đến trên dưới 2 mét. Cái lò sấy gỗ to đùng như một công xưởng lớn mà chúng ta chỉ thấy qua các hình ảnh ở các khu công nghiệp nước ngoài.

Anh giới thiệu với tôi về tính năng của một vài loại gỗ, tính cơ lý thể hiện qua độ dai, độ dòn, tính hóa học thể hiện qua khả năng chống mối mọt, tính cấu tạo thể hiện qua độ rỗng của thớ gỗ, và với các công cụ kỹ thuật anh đo độ ẩm trên từng súc gỗ đã sấy, kéo dài qua thời gian… Anh nói về Phượng tím Châu Phi, anh phân biệt Lim Lào, Lim Indonesia, Lim Châu Phi khác nhau thế nào, ảnh hưởng của núi lửa trên các tính năng của gỗ ra sao, tại sao Lim Châu Phi lại tốt hơn Lim Indonesia… Anh tiếp tục nói về các loại gỗ ưu việt từ rừng Amazone, Surinam, những chuyến hàng chuyển về từ những nơi xa lạ.

Ngồi nghe anh nói tôi bị cuốn hút vào một thế giới khoa học kỹ thuật đầy hấp dẫn, những tiếng trống bập bùng vang vang trong các cánh rừng Châu Phi, những cánh rừng Nam Mỹ bạt ngàn gỗ ẩn hiện trong mắt tôi. Những người anh em da đen. da đỏ cao lòng khòng nhảy múa trong trái tim tôi. Từ lâu rồi tôi biết về một con người, một người anh em của chúng tôi dấn thân và phục vụ trong những rừng già âm u ấy. Chân Phúc Phêrô Donders, DCCT.

Chân Phúc Phêrô Donders sinh tại Hà Lan năm 1809. Năm 1841 ngài thụ phong Linh Mục, ngay năm sau, 1842 ngài sang Surinam thuộc Nam Mỹ để thi hành sứ vụ. Từ công việc làm tuyên úy cho người da trắng, cảm thương tình trạng nô lệ của người da đỏ, ngài đứng về phía người bản địa rồi trở thành kẻ thù của chính người đồng hương da trắng. Công cuộc đấu tranh cho người da đỏ bị bóc lột đẩy ngài ngày một xa dần phố thị để đi mãi vào rừng sâu. Mười năm cuối đời ngài sống trong một khu rừng quy tụ những người bản địa bị bệnh phong cùi, ngài yêu thương phục vụ họ và ngài đã qua đời tại đó ngày 14 tháng 1 năm 1887, Batavia là địa danh cuối cùng trong đời ngài.

Phêrô Donders đã không chọn cho mình sự sung sướng, chăn êm nệm ấm, Phêrô Donders đã không tìm cho mình sự an toàn cá nhân và sự thăng tiến phẩm trật, nhưng Tin Mừng đã thôi thúc và đầy Phêrô Donders về phía người bị bóc lột, người bị coi khinh, người bị ruồng rẫy. Hẳn rằng ngài đã bị dằn vặt rất nhiều khi chọn lựa hướng dấn thân này, ngài phải vượt chính cá nhân mình và vượt qua cả những cản ngại của anh em cùng là Giáo Sĩ, vượt qua cả những âu lo, những ngăn cản “vì sự an toàn” của ngài và của anh em khác, vì công cuộc của Giáo Hội, vì sự nghiệp của người da trắng… Chắc hẳn ngài đã băn khoăn rất nhiều khi dã từ những sinh hoạt khá tiện nghi để đi dần vào rừng sâu, lang thang cùng những con người bị bách hại.

Phêrô Donders đã chọn Tin Mừng để dấn thân chứ không chọn công việc để hoạt động, và vì Tin Mừng gắn chặt với người nghèo, người bị bỏ rơi nên Donders không còn con đường nào khác ngoài con đường “theo chân” người bị bỏ rơi người nghèo mà sống. Thật cụ thể thiết thực, không lý thuyết xuông, không hô khẩu hiệu, không nói thuộc lòng những câu văn hoa mỹ để lòe bịp người nghe, ru ngủ người nghe, Donders dấn thân thức sự và chấp nhận thập giá trong cuộc đời mình.

uyến “xuất hành” của Donders vào rừng sâu là chuyến xuất hành theo chân chuyến “xuất hành” của An Phong vào Scala. Nhìn vào lịch sử của Dòng Chúa Cứu Thế, từng chuyến xuất hành về phía người nghèo được lập đi lập lại và tiếp nối nơi từng vị Thánh thích ứng với từng thời kỳ khác nhau, nhưng dù ở bất cứ thời kỳ nào, người nghèo và người bị bỏ rơi hơn cả vẫn luôn là điểm đến của những chuyến xuất hành mang tên An Phong.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

19.1.2015