NƯỚC MỸ CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC NHỮNG GÌ TỪ ÂU CHÂU ?

NƯỚC MỸ CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC NHỮNG GÌ TỪ ÂU CHÂU ?

Bài ghi nhận của : Đoàn Thanh Liêm

Nhân đọc cuốn sách vừa mới xuất bản năm 2010 :

Europe’s  Promise (Sự Hứa hẹn của Âu châu)

Do tác giả Steven Hill biên soạn

Nhà Xuất bản University of California Press ấn hành.

*       *       *

Sau khi chiến tranh thứ hai kết thúc vào năm 1945, thì Âu châu đã kiệt quệ, hoang tàn đổ nát với hai cuộc đại chiến liên tiếp trong vòng có 30 năm, với hàng mấy chục triệu nhân mạng bị hủy diệt, nền kinh tế bị tan rã, xã hội điêu đứng tiêu điều. Trong khi đó thì nước Mỹ mỗi ngày thêm phồn thịnh, và ra tay hào phóng cứu giúp Âu châu phục hồi lại nền kinh tế. Cụ thể là kế hoạch Marshall đã cung cấp cho các nước Tây Âu một số ngân khoản lên đến 13 tỉ dollar trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1951. Nhờ vậy mà vào năm 1951, Âu châu đã lần lần phục hồi được một cách vững mạnh, với mức sản xuất của Tây Âu đã cao hơn 35% so với năm 1938 lúc trước khi xảy ra chiến tranh.

Nhưng vào năm 2010, tức là sau trên 6 thập niên, kể từ lúc hòa bình được lập lại năm 1945, thì Âu châu đã có những tiến bộ vượt mức về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, trong khi đó thì nước Mỹ dù vẫn còn là một siêu cường số một trên thế giới, lại có nhiều dấu hiệu suy thoái, lạc hậu với nhiều xáo trộn bất ổn trong xã hội, đặc biệt là bị suy thoái trầm trọng từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế khởi sự từ năm 2008 mới vừa đây. Vì thế mà người viết bài này mới phải đặt câu hỏi được ghi thành nhan đề của bài báo, sau khi được đọc một cuốn sách vừa mới xuất bản trong năm 2010 này. Đó là cuốn “Europe’s Promise” (Sự Hứa hẹn của Âu châu), do một tác giả lại là người Mỹ biên soạn. Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, tôi xin giới thiệu tóm tắt về tác giả nổi tiếng và tác phẩm rất có giá trị này.

* A – Tóm lược về cuốn sách “ Europe’s Promise”.

Cuốn sách dài trên 400 trang vừa được ra mắt vào năm 2010 do nhà xuất bản Đại học California ấn hành. Sách có một nhan đề phụ nữa là : “Why The European Way is The Best Hope in An Insecure Age?” (Tại sao đường lối phát triển của Âu châu lại là niềm Hy vọng tốt đẹp nhất trong thời đại bất trắc hiện nay?)

1/  Vài dòng sơ lược về tác giả

Tác giả Steven Hill năm nay 52 tuổi, là giám đốc Chương trình Cải cách Chính trị của New America Foundation. Ông đã từng viết bài cho hàng chục tờ báo và tạp chí lớn ở Mỹ, ở Anh quốc và ở nhiều nước khác tại Âu châu, ở Đài loan. Ông còn là tác giả của cuốn sách : “ 10 Steps to Repair American Democracy” (Mười Bước Để Sửa chữa lại Nền Dân chủ Hoa kỳ) xuất bản vào năm 2006.

Cuốn sách ông cho xuất bản năm 2002 với nhan đề “Fixing Elections : The Failure of America’s Winner Take All Politics” (Sửa lại lề lối bàu cử : Sự thất bại của chánh sách “Người thắng cuộc ăn hết” của nước Mỹ) được coi là một cuốn sách quan trọng nhất trình bày về nền dân chủ hiện nay tại nước Mỹ. Ông còn được mời đến dậy học tại nhiều nơi trên đất Mỹ và Âu châu, cũng như xuất hiện trên các chương trình phát thanh và truyền hình nổi tiếng trên thế giới.

Cuốn sách “ Sự Hứa hẹn của Âu châu” được dàn trải trong 7 phần với tất cả là 18 chương. Nội dung chính yếu được trình bày trong 370 trang, và phần Ghi chú chiếm đến trên 60 trang ở cuối sách. Tác giả đã tham khảo rất nhiều sách báo, mà các bài báo, đặc biệt là các trang điện tử mới nhất được trưng dẫn là vào giữa năm 2009. Ông còn thường xuyên đi qua Âu châu để phỏng vấn nhiều nhân vật, và quan sát những đổi thay tại lục địa này. Có thể nói đây là một công trình biên khảo rất công phu, nghiêm túc và khách quan với độ khả tín cao của một nhà nghiên cứu có tầm vóc lớn của nước Mỹ hiện nay.

2/ Mấy nét đại cương về cuốn sách.

Mở đầu, tác giả đã ghi như sau : Trong khi nước Mỹ vẫn còn bị xâu xé với chủ trương làm hạn chế vai trò cùa Nhà nước theo khẩu hiệu của Tổng thống Ronald Reagan đưa ra vào năm 1981 là “ Chánh quyền là một vấn đề” (Government is the problem), để mặc cho giới tư bản tài phiệt tha hồ thao túng, thì ở Âu châu người ta lại chủ trương khác hẳn lại rằng : “Chánh quyền là một phần của giải pháp” (Government is part of the solution), khiến cho Nhà nước có quyền tham dự vào việc hướng dẫn và điều tiết nền kinh tế quốc gia. Vì thế mà tác giả đã có thể nói “ nền kinh tế Âu châu là một thứ chế độ Tư bản Xã hội” (a version of Social Capitalism).

Khía cạnh đáng lưu ý nhất trong cách trình bày nơi cuốn sách này là : tác giả đã đưa ra chững con số thống kê khá đày đủ và chính xác để minh họa cho những nhận định của mình. Chứ đó không phải là những suy luận chủ quan, đày cảm tính như một số đông các người viết vốn có thành kiến sẵn về một lập trường nhất định nào.

Tiếp theo ông còn đưa ra những ưu điểm của Âu châu hơn hẳn bên nước Mỹ về nhiều phương diện, cụ thể như “chăm sóc y tế phổ cập toàn dân”, “hệ thống an sinh xã hội hào phóng”, “ giáo dục đại học gần như miễn phí”, “ công nhân được quyền rộng rãi tham gia điều hành xí nghiệp” v.v…

Các số liệu thống kê khá chính xác đã được tác giả viện dẫn để chứng minh rằng : “Người dân Âu châu hiện nay đang được hưởng thụ một cuộc sống bảo đảm an lành hơn hẳn người Mỹ, và xã hội Âu châu cũng bớt các hình thức bạo động hơn so với xã hội Mỹ”. Điển hình như : “ Số người Mỹ bị cầm tù quá đông lên đến trên 2,3 triệu, tức là chiếm đến 1% số người ở tuổi trưởng thành của nước Mỹ. Tỷ lệ 1% này cao gấp từ  7 đến 10 lần hơn tỷ lệ số người bị cầm tù của người dân tại Âu châu”.

3/ Một số chương điển hình.

  1. Chương 3 : Lợi điểm bí mật của Âu châu : Đó là Nền Dân chủ kinh tế (Economic Democracy). Đặc điểm của nền sản xuất kinh tế Âu châu dựa trên 3 cơ sở chính yếu : đó là sự quyết định chung (giữa giới chủ nhân và giới công nhân) (codetermination), ủy ban giám sát (supervisory boards) và hội đồng trong xưởng lao động (works councils).
  2. Chương 4 : Giá trị gia đình. Vì không phải chi tiêu nhiều cho ngân sách quốc phòng, nên Âu châu chăm sóc tốt hơn so với Hoa kỳ cho nhu cầu của các gia đình, trẻ em, người già. Tính ra Âu châu chi ra 9,200$ mỗi năm cho một đầu người, so với Hoa kỳ chỉ chi ra có 7,300$ mà thôi.
  3. Chương 8 : Sức khỏe trước đã (La Sante’ d’abord). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp hạng Hoa kỳ vào hạng thứ 72 trong số 191 quốc gia, thua cả Costa Rica và Dominica. Trong khi hầu hết các nước Âu châu đều được xếp vào loại hàng đầu. Trên 15% người Mỹ (47 triệu) không có bảo hiểm y tế. Trong khi tại Âu châu, thì mọi người đều được bảo đảm hoàn toàn đồng đều về y tế (universal health care).
  4. Chương 13 : Nền Dân chủ chính trị ở Âu châu (Political Democracy in Europe). Chế độ đa đảng ở Âu châu xem ra lại dễ đem lại sự đồng thuận (consensus) hơn là chế độ “độc quyền lưỡng đảng ở Hoa kỳ (two-party duopoly). Lối bỏ phiếu theo tỷ lệ (proportional voting) ở Âu châu khiến cho vị dân cử phải đáp ứng với nguyện vọng của người dân hơn là lối “được ăn cả ngã về không” (winner-take-all) của Hoa kỳ.
  5. Chương 17 : Phong trào Dân quyền Âu châu đang trổi dậy (A European Civil Rights Movement Arises). Dù chưa có một phong trào mạnh mẽ, sôi nổi như ở Mỹ từ thập niên 1950-60 của người Mỹ gốc Phi châu với một lãnh tụ lừng danh là Mục sư Martin Luther King, thì tại Âu châu hiện nay, nạn kỳ thị chủng tộc và tôn giáo cũng đã và đang bị kiềm hãm hạn chế rất nhiều.

Trong phần kết luận, tác giả đã nhắc lại câu hỏi của ông Matthias là một người dân Đức trong cuộc gặp gỡ tại vùng nghỉ mát ở nước Áo vào năm 2003 như sau : “ Tại sao một nước phồn thịnh sung túc như nước Mỹ mà lại không cung cấp đày đủ cho người dân có được một cuộc sống an lành, thoải mái vững vàng như người Âu châu chúng tôi đang được thụ hưởng hiện nay vậy? Tại sao? Tại sao vậy?”

** B – Những khác biệt giữa Âu châu với nước Mỹ.

Như ta đã biết, Liên Hiệp Âu châu (European Union EU) cũng chỉ mới được hoàn tất với đày đủ các cơ chế sinh hoạt cụ thể kể từ năm 2004. Số quốc gia thành viên hiện nay của EU là 27 nước, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, và Tổng sản lượng (GDP) là 20 ngàn tỷ dollar (trillion), con số này tương đương với tổng số GDP của Mỹ cộng với của Trung quốc (14 + 6 trillion). Trong khi đó thì nước Mỹ phải chi tiêu đến trên 4% GDP về quân sự, mà Âu châu thì chỉ phải chi chưa tới 2% GDP của mình. Do đó, mà Âu châu đã có thể chi tiêu đến 26% GDP cho phúc lợi xã hội, so với Mỹ chỉ chi tiêu được có 16%GDP cho mục này mà thôi. Kết quả là mỗi người dân Âu châu được thụ hưởng đến 36% nhiều hơn về phúc lợi xã hội so với người dân Mỹ.

Trong 2 trang 293 và 294, tác giả Steven Hill đã lập cả một bảng so sánh chi tiết về những khác biệt giữa Âu châu và Mỹ về nhiều phương diện chính trị, truyền thông, kinh tế, năng lượng và lao động. Vì bảng liệt kê này khá dài, nên người viết chỉ xin chọn lọc ra một vài điểm điển hình chính yếu mà thôi  :

1/ Về Kinh tế

  • Âu châu : Thực hiện sự Liên đới xã hội, đề cao giá trị gia đình và cộng đồng – Thực hiện sự đồng quyết định của giới chủ với giới công nhân (codetermination) – Tỷ lệ công nhân gia nhập nghiệp đoàn cao – Huấn luyện và tái huấn luyện dễ dàng cho công nhân – Thuế lợi tức cao, nhưng không phải trả thêm phụ khoản cho các dịch vụ xã hội.
  • Hoa kỳ  :  Quá thiên về cá nhân chủ nghĩa, xã hội đặt nặng về tư hữu – Ít có sự tham khảo giữa giới chủ nhân và công nhân, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp nặng về hệ cấp (hierarchical business structures) – Tỷ lệ công nhân gia nhập nghiệp đoàn thấp – Ít huấn luyện hoặc tái huấn luyện cho công nhân – Thuế lợi tức thấp, nhưng người dân phải trả thêm nhiều phụ khoản cho các dịch vụ xã hội.

2/  Về Lao động – Xã hội

  • Âu châu  : Chăm sóc y tế phổ quát cho mọi người – Cha mẹ được nghỉ lúc sinh con – Nghỉ thường niên cỡ 4-5 tuần lễ – Số giờ làm việc mỗi tuần ngắn hơn – Tiền hưu trí thoải mái hơn – Giáo dục đại học gần như miễn phí – Gia cư dễ dàng cho mọi người.
  • Hoa kỳ   :  Bảo hiểm y tế hạn chế, 47 triệu người không có bảo hiểm – Không bó buộc phải cho công nhân nghỉ lúc sinh con – Nghỉ thường niên chỉ có cỡ 2 tuần lễ – Số giờ làm việc trong tuần dài hơn – Khoản hưu trí nhỏ nhoi –  Chi phí cho giáo dục đại học mỗi ngày một tăng cao – Chi phí về gia cư mỗi ngày leo thang.

3/  Về Chính trị

  • Âu châu  :  Chi phí vận động tranh cử do công quỹ đài thọ – Thời lượng truyền thông miễn phí cho mọi đảng phái chính trị – Đa nguyên về chính trị, cử tri dễ dàng chọn lựa – Số cử tri ghi danh rộng rãi – Số cử tri đi bầu đông – Thượng nghị viện ít quyền hành hơn – Chánh sách ngoại giao dựa trên cơ sở đa nguyên.
  • Hoa kỳ   :  Chi phí vận động tranh cử do tư nhân đài thọ – Không có thời lượng truyền thông miễn phí, ứng cử viên phải trả chi phí rất cao về quảng cáo chính trị – Nhiều đơn vị và tiểu bang chỉ có độc đảng – 70 triệu cử tri không được ghi danh đi bầu – Số cử tri đi bầu rất thấp, có khi dưới 10% – Thượng nghị viện Mỹ có quyền hành ngang với Hạ nghị viện – Chánh sách ngoại giao dựa trên cơ sở đơn phương và “quyền được tấn công trước” (preemptive strikes).

*** C – Vậy thì nước Mỹ có thể học được những gì từ Âu châu?

Như đã trình bày ở trên, Âu châu có nhiều ưu điểm với những thành công vượt bậc, mà nước Mỹ cần phải học tập rút kinh nghiệm để noi theo. Cụ thể là tại Đại học Rutgers ở New Jersey, người ta đã tổ chức cả một khóa học lấy tên là “Bài học của Âu châu” và mời tác giả Steven Hill đến tham gia diễn giảng, trao đổi và thảo luận với các học viên.

Nhưng cũng không ít giới chính khách và thức giả khác thì lại cho rằng Âu châu cũng chẳng có gì xuất sắc đặc biệt để cho người Mỹ phải chắp tay, cúi đầu xin thọ giáo. Cái não trạng coi nước Mỹ là “trung tâm đầu não của thế giới” khởi sự từ những thập niên 1940-50, khi cả Âu châu phải cầu cứu đến người Mỹ trong hai cuộc thế chiến, và cả sau này để đối phó với hiểm họa cộng sản trong cuộc chiến tranh lạnh, thì nay vẫn còn sót lại trong nhiều tầng lớp dân chúng Mỹ. Như vậy, không thể nào mà dễ dàng thay đổi hay xóa bỏ ngay được cái thành kiến “tự coi mình là đỉnh cao trí tuệ” vốn đã ăn rễ lâu ngày trong đại khối quần chúng tại cường quốc này.

Vẫn biết rằng “Thuốc đắng thì mới đã tật”, mà “Lời thật thì hay mất lòng”, nhưng thiết nghĩ ta vẫn nên dựa theo những phân tích nghiên cứu rất công phu của tác giả cuốn sách “Europe’s Promise” này, để mà tạm thời đưa ra một vài đề xuất cụ thể như sau :

1/  Thứ nhất : Nước Mỹ cần phải kiên trì hơn trong việc kiến tạo cho bằng được một xã hội nhân bản và nhân ái hơn, với các định chế chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa đặt trọng tâm vào tình liên đới huynh đệ giữa mọi thành phần của dân tộc, vào lý tưởng công bằng xã hội và vào sự tôn trọng phẩm giá con người. Việc này đòi hỏi khu vực Xã hội Dân sự phải làm áp lực mạnh mẽ hơn đối với chánh quyền nhà nước, cũng như đối với khu vực thị trường kinh tế (marketplace), nhằm có sự thay đổi triệt để trong suy tư và hành động có tầm vóc tòan thể quốc gia.

Điển hình là không thể duy trì mãi sự ưu đãi đối với tầng lớp thiểu số những đại gia có 1% dân số mà chiếm giữ đến trên 50% thu nhập của tòan thể quốc gia. Và cũng không thể để cho giới chủ doanh nghiệp lại có thu nhập gấp cả trăm lần số lương của người công nhân, đó là điều bất công tham lam quá mức, đến độ mà vị giáo sư khả kính Peter Drucker đã phải giận dữ và lên tiếng chỉ trích gắt gao với sự kết án nghiêm khắc, khi ông khám phá ra cái tệ trạng lạm dụng thao túng này của giới tư bản tài phiệt ở nuớc Mỹ.

2/  Thứ hai  : Về phương diện đối ngọai, nước Mỹ phải có một thái độ khiêm tốn nhã nhặn hơn đối với mọi thành phần trong cộng đồng quốc tế. Cái lối hành xử trịch thượng, chuyên quyền độc đóan như một thứ ” đế quốc ỷ mạnh hiếp yếu”, “bất chấp đạo lý làm người”, như người Mỹ vẫn ra tay thực hiện từ trước đến nay, thì rõ rệt đó là cái điều tuyệt đối không thể chấp nhận, không thể dung thứ được nữa trong thời đại của thế kỷ XXI ngày nay.

3/   Thứ ba  : Nhà cầm quyền nước Mỹ phải thành khẩn tìm cách học hỏi ở Âu châu trong việc giảm bớt đáng kể cái gánh nặng quá mức về chi phí quân sự, để có thể dành thêm phần ngân sách cho các dịch vụ xã hội, giáo dục và văn hóa. Một cường quốc mà lại đang phải giam giữ một khối lượng lên đến hàng mấy triệu công dân của mình trong các nhà tù, gấp từ 7 đến 10 lần so với bên Âu châu, và lại để cho đến 47 triệu người không hề có bảo hiểm y tế, thì rõ ràng là chưa thể xứng đáng gọi là một quốc gia thực sự văn minh tiến bộ được.

Người viết rất tâm đắc với câu trích dẫn sau đây của tác giả lừng danh Alexis de Tocqueville đã viết trong cuốn sách đã trở thành kinh điển là “Democracy in America” xuất bản năm 1835, tức là cách nay đã 175 năm. Tocqueville đã ghi rằng : “ Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình”

Trên đây chỉ là một vài suy nghĩ sơ khởi phát xuất từ việc được đọc qua cuốn sách nhan đề “Sự hứa hẹn của Âu châu” của một thức giả người Mỹ đã dầy công tìm hiểu, nghiên cứu về sự tiến bộ  hiện nay tại châu lục này. Người viết xin mạo muội ghi ra mấy nét đại cương thô thiển như vậy, với ước mong nhận được sự chú ý của bạn đọc, và gây ra được một cuộc trao đổi chân tình và phấn khởi giữa những người cùng có sự quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của quê hương thứ hai của mình, cũng như đến sự an vui và thái hòa của mọi dân tộc trên thế giới ngày nay vậy./

Costa Mesa, Tiết Lập Đông Canh Dần 2010

Đòan Thanh Liêm

HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ

HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ

Trích EPHATA 635

9 giờ 30 tối, tôi rời khuôn viên Nhà Thờ trong khi vẫn còn đông người đang cầu nguyện trước hang đá Đức Mẹ. Đầu tôi nặng trĩu, tim tôi thắt lại, chân tôi bước mà không biết đi đâu nữa. Tôi đang muốn chạy trốn khỏi Nhà Thờ để khỏi nghe lời giảng của cha như đâm vào tim tôi đau xé, nhưng làm sao chạy trốn được… chính tôi ?

Tối nay, tôi nhớ mồn một những năm xa xưa ấy, những năm tôi đã nhúng tay vào tội ác mà trái tim không hề rung động, còn nếu có thì chắc chỉ thoáng qua trong một vài tích tắc mà thôi.

Ngày ấy tôi còn rất trẻ, sống bồng bột, kết hôn vội vàng và có đứa con đầu lòng rất sớm.

Chưa kịp chuẩn bị để làm mẹ, tôi thấy ngán ngẩm cảnh có con mà chỉ một mình nuôi con. Chồng tôi cùng một tuổi, cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, suốt ngày cứ đàn đúm bạn bè, nhậu nhẹt, chẳng thiết gì đến vợ con, lại còn đang ăn bám cha mẹ. Con gái tôi vừa đúng thôi nôi thì trời ơi, cả gia tài của tôi ( chỉ gồm những món nữ trang ngày cưới ) cũng theo nhau từ từ bay mất. Giận chồng không biết lo cho vợ con, tôi bồng con về nhà ngoại, kiếm việc làm để nuôi con.

Giá cứ như thế luôn thì tôi đã đỡ khổ ! Chẳng ngờ, chưa được bao lâu, anh ấy qua nhà tôi thề sống thề chết, năn nỉ cha mẹ tôi cho rước vợ con về. Nhưng rồi chứng nào tật nấy, càng ngày anh càng hư đốn. Lại một lần nữa, tôi ôm con trở về nhà cha mẹ ruột sau khi để lại lá đơn ly hôn với chồng tôi.

Một hôm đang làm việc, tôi cảm thấy chóng mặt, đi khám bệnh mới được bác sĩ cho hay là tôi đã có thai. Nghe như sét đánh ngang tai, tôi thẫn thờ như người mất hồn, không biết tính cách nào đây, nếu sinh thêm một đứa nữa thì đồng lương của tôi không sao lo nổi. Chẳng lẽ tôi lại mang thêm gánh nặng về cho cha mẹ ? Ông bà đã khổ vì tôi quá nhiều rồi. Chợt nhớ có cô bạn học đang làm nữ hộ sinh một bệnh viện phụ sản lớn, tôi đến thăm dò ý kiến. Đã quá quen với cảnh nạo hút thai hằng ngày, bạn tôi khuyên nên “điều hoà kinh nguyệt” ngay, sẽ không đau đâu, vì thai của tôi hãy còn nhỏ, còn hơn phải dây dưa với ông chồng vô trách nhiệm suốt đời.

Về nhà, tôi nằm liệt không dám cho ai biết. Nhìn con ngon giấc tôi ôm nó mà khóc. Thức trắng một đêm, sáng dậy tôi cáo bệnh nghỉ làm. Đưa con đến nhà trẻ xong, tôi đi lang thang trong công viên chỉ mong được yên tĩnh để suy nghĩ sáng suốt. Thả mình xuống chiếc ghế đá, tôi nhìn chung quanh thấy có nhiều cặp tình nhân đang tâm sự, chỉ có mình tôi là lạc loài.

Đầu óc tôi rối beng, cứ nghĩ tới cảnh phải tiếp tục sống với anh chồng mà ngao ngán. Nhưng còn những đứa con tôi… hay là tôi thử tha thứ cho anh ta lần nữa để những đứa con của mình được có bố có mẹ đầy đủ… Hết giải pháp này đến giải pháp khác, cách nào cũng không ổn, tôi lê bước chân vô hồn chẳng biết đi đâu.

Trên chiếc ghế đá nọ, đôi tình nhân vội quay mặt đi khi tôi vừa đến gần. Chuyện đó cũng là thường tình thôi, tôi bước qua họ nhưng chợt nghe bên tai có tiếng đàn ông sao quen quá. Tôi quay lại và kịp nhận ra đó chính là… chồng mình, còn cô gái nọ là người yêu cũ của anh ấy. Sững sờ và đau đớn, chân tôi như bị chôn xuống đất, toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Không nhớ mình đứng như thế bao lâu nữa, chỉ nhớ sau đó tôi đã chạy, chạy đến lúc té quỵ xuống là hết ! Rồi phải một hồi lâu, nghe chung quanh có tiếng nhiều người lao xao, tôi lơ mơ mở mắt ra và thấy những bộ đồng phục màu trắng. Họ là những y tá, bác sĩ đang lo cấp cứu cho tôi. Thấy tôi đã tỉnh hẳn, bác sĩ cho biết là tôi bị động thai, cần phải dưỡng thì mới giữ được.

Đang cơn chán ngán và gần như bất lực trước những đòn roi tới tấp của nghịch cảnh, tôi buột miệng nói không suy nghĩ: “Xin bác sĩ lấy cái thai ra dùm tôi !” Thoáng chút ngạc nhiên, bác sĩ hỏi lại tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn cương quyết phá bỏ. Sau đó tôi được đưa sang phòng nghỉ, tiếp nước biển cho khoẻ để chờ sẽ hút thai vì lúc đó huyết áp của tôi đang tụt rất thấp.

Tinh thần hoảng loạn, bên cạnh chẳng có ai thân thích, tôi đành phải gọi cô bạn học nhờ trợ giúp. Cô ấy đến gởi gấm tôi cho bác sĩ và an ủi, xoa dịu tôi nhưng vẫn không làm tôi bớt sợ hãi.

Thế rồi chuyện gì đến phải đến. Trèo lên chiếc giường nạo thai, ý muốn leo xuống cứ trở đi trở lại trong tôi nhưng không còn kịp nữa, bác sĩ đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cả rồi. Ông bảo tôi hãy nhắm mắt lại, thở đều và… sẽ nhanh thôi, không đau đâu. Nhưng chiếc que nạo inox cứ xoáy vào bên trong người tôi, tôi thét lên từng cơn “Đau ! Đau quá !” Mà nào người ta có chịu buông tha, người ta mặc kệ, cứ “vừa đánh vừa xoa” cho đến lúc cả cơ thể và tâm trí tôi rã rời thì hoàn tất.

Con tôi, trời ơi còn đâu ! Người ta đã xé nát thịt da con rồi ! Mẹ là người mẹ khốn nạn nhất trần đời. Con ơi ! Con ơi !

Sau trận ấy tôi suy kiệt cả tinh thần lẫn thể chất. Mẹ tôi vẫn túc trực bên giường bệnh, trong khi bà còn phải lo cho con gái nhỏ của tôi. Con tôi ngây thơ quá, nó cứ chạy đến ôm hôn tôi mà không biết gì về nỗi mất mát vừa xảy đến. Tôi xấu hổ thấy mình không xứng đáng làm mẹ nó nữa.

Ngày qua ngày, bé con đầu lòng của tôi lớn dần lên, nó đã đi học, vết thương trong lòng tôi cũng nguôi ngoai. Tôi sống khép kín, chỉ biết lao đầu vào công việc, các bạn nữ đồng nghiệp gọi tôi là “bà cụ non”, còn nam đồng nghiệp nhiều người cũng thích làm quen với tôi nhưng chỉ vài câu xã giao là họ đã thấy chán ngắt, hoặc có người đeo đuổi dai dẳng hơn thì rồi cũng đành bỏ cuộc khi đụng phải cái “mu rùa biết đi”.

Tôi dành hết thời giờ cho con, vui mừng vì nó rất ngoan và học giỏi…

Từ ngày tôi được ơn trở lại Đạo cho đến nay, được thấm nhuần Giáo Lý của Thiên Chúa là Tình Yêu, và khi yêu là người ta yêu đến cùng, dù có phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Tôi đã đi xưng tội và dành hết thời giờ rảnh rỗi giúp bất kỳ một ai khốn khổ mà tôi biết. Tôi đã từng theo nhóm Bảo Vệ Sự Sống vào tận các bệnh viện phụ sản lớn nhỏ để khuyên can các cô gái lỡ lầm khỏi sa vào cảnh nạo phá thai, góp phần vào việc giúp các em làm lại cuộc đời, nuôi con…

Thế nhưng, chưa bao giờ lương tâm tôi lại ray rứt và bị ṿ xé như tối nay. Trong Thánh Lễ, cha giảng đã nói đến thảm kịch phá thai hiện nay. Nghe những lời cảnh báo và kêu gọi hãy bảo vệ lấy Sự Sống là Quà Tặng vô giá của Thiên Chúa đã trao cho con người, tất cả trong tôi bừng tỉnh mọi ký ức tưởng đã chôn vùi sâu kín. Phải chăng tôi vẫn canh cánh bên lòng một món nợ không nguôi. Tôi nợ con tôi sự sống ư ? Hay tôi nợ Thiên Chúa một lần yêu ? Hay tôi nợ đời tôi một hạnh phúc ? Hạnh phúc Chúa ban đến đã bị tôi từ khước và gạt bỏ không thương tiếc.

“Bà… ba… bum… bum…”, tiếng bập bẹ của thằng Cu Tý làm tôi chợt tỉnh. Nó nhào tới ôm cứng lấy tôi và tì cái miệng bé xíu hôn lên khắp mặt tôi. Chao ôi ! Cháu ngoại tôi ! Cưng quá ! Căn nhà tôi lại vang tiếng cười của trẻ thơ sau bao năm vắng lặng. Mẹ nó đi làm suốt ngày gởi con cho tôi chăm sóc, ba nó lại còn ở phương xa, nhưng nó ngây thơ chẳng biết buồn. Đối với nó, tôi vừa là bố vừa là mẹ. Nó cứ bấu lấy tôi, tiếng bập bẹ đầu tiên của nó là “ba… bà” khiến tôi sướng run người.

Bây giờ hạnh phúc của tôi là nó. Tôi đau khi nó khóc và tôi khóc khi nó đau. Niềm hạnh phúc nhỏ bé lại trở về với tôi. Chắc chắn, Chúa nhân hậu từ bi và hay thương xót, Ngài không còn giận tôi nữa, Ngài đã tha thứ cho tôi từ lâu rồi. Còn con, con có tha cho mẹ không ?

Giờ con đang ở đâu ? Linh hồn con chơi vơi ở chốn nào ? Mẹ chỉ còn biết ăn năn sám hối và cầu nguyện. Nếu Chúa cho mẹ biết con đang ở đâu và bắt mẹ phải chịu những hình phạt nào để chuộc con về trong Vườn Chúa, mẹ cũng vui lòng nhận lãnh. Nhưng chính mẹ sao cứ phải chịu một hình phạt nặng nề là suốt đời cứ mang trong lòng một tội ác, một Món Nợ Tình Yêu không bao giờ trả được ?

Chắc là tôi đã khóc nên có chút nước gì đó mằn mặn ở môi. Tôi thấy Cu Tý mở to mắt nhìn tôi ngơ ngác, rồi nó mếu máo theo tôi. Ôm khuôn mặt thiên thần của nó trong đôi tay, tôi cứ tưởng tượng ra hình dáng đứa con mà tôi không bao giờ được thấy. Tôi khóc trong vui sướng.

Ôi Chúa ơi ! Tình Yêu Ngài thật lớn lao, con sẽ không bao giờ dám phí phạm nữa.

Và trong sâu thẳm, tôi được ơn Chúa cho cảm nhận được rằng con tôi nó đã tha thứ cho mẹ nó. Linh hồn nó chắc là vẫn hiện hữu thật gần gũi bên tôi dù tôi xác tín Chúa đã đón nó về Nhà Chúa ngay từ dạo ấy. Còn phần tôi, Món Nợ Tình Yêu tôi sẽ phải trang trải với cuộc đời không biết đến bao giờ mới thôi chẳng còn vấn vương ?

VTKT, Sàigòn

Tìm đâu an bình và hy vọng trong năm mới ???

Tìm đâu an bình và hy vọng trong năm mới ???

Chuacuuthe.com

VRNs (03.01.2015) – Gần cả thế kỷ nay, lễ Giáng sinh của người Ki-tô giáo đã trở thành ngày lễ quốc tế, ngày hội hoàn vũ, trở thành nét văn hóa của hầu hết mọi quốc gia và nét nhân bản của mọi xã hội, kể cả những quốc gia Hồi giáo hay cộng sản. Không ai không thấy hình ảnh lẫn âm thanh Giáng sinh đập vào mắt và lọt vào tai con người mỗi lần gần cuối năm dương lịch. Từ hình ảnh đặc trưng như hang đá Bê-lem (với cảnh Đức Giê-su sinh ra) tới hình ảnh ông già No-en cỡi xe nai phát quà, cây thông lung linh ngàn ánh sáng… Từ những bài thánh ca du dương bất hủ như Silent Night (lời Việt: Đêm Thánh Vô Cùng), Cao Cung Lên… tới những bài hát vui nhộn như Jingle Bells (Chuông Vang Vang), Drummer Boy (Chú Bé Đánh Trống) hay nhạc tình quyến rũ như Mùa Sao Sáng, Bóng Nhỏ Giáo Đường…

Nhưng có lẽ cái đánh động nhất của lễ Giáng sinh chính là những tâm tình mà nó gợi lên trong lòng nhân loại, như bình an, vui tươi, thân thiện, hòa hợp. Người ta hưu chiến, người ta làm hòa, người ta tặng quà, người ta ăn tiệc dịp Giáng Sinh. Đó là vì dù ít dù nhiều, nhân loại biết đấy là lễ kỷ niệm việc Thượng Đế trời cao xuống thế làm người để chia sẻ thân phận với con người, ban gởi bình an đến con người, gieo rắc tình thương giữa con người, kêu gào công lý cho con người và đồng thời mời gọi nhân loại cũng hãy làm cho nhau như thế. Hầu hết các xã hội văn minh dân chủ trên khắp trái đất đều đã và đang nỗ lực biến sứ điệp cao cả đó thành hiện thực bao nhiêu thế kỷ nay. Dù có định kiến thế nào đi nữa, ai ai cũng phải công nhận những quốc gia, đất nước chịu ảnh hưởng Ki-tô giáo (tại Mỹ châu, Âu châu, Úc châu) xét chung đều phát triển, đều thịnh vượng, đều nhân bản, đều tôn trọng con người.

Điều đáng buồn là tại những quốc gia đang gánh chịu chế độ Cộng sản (trong đó có Việt Nam chúng ta), đấy vẫn hoàn là những mơ ước thiết tha, những khát vọng cháy bỏng mà mỗi lần lễ Giáng sinh tới lại làm đau nhói con tim, nung đốt tâm hồn những ai còn quan tâm tới chân lý, công bình, tình thương và tự do, cho dẫu các âm thanh và hình ảnh No-en không hề thiếu ở mọi chốn phồn hoa đô hội tại những quốc gia cộng sản ấy (thậm chí đó còn là nơi mà phần lớn các sản phẩm liên quan tới Giáng sinh hiện bán khắp địa cầu được làm ra, đặc biệt Hoa lục).

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người chia sẻ thân phận của nhau, nghĩa là xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng, không có sự chênh lệch của cải và quyền lợi quá đáng. Nhưng tại VN chúng ta, đang có tình trạng một nhúm người thống trị lâu dài cả dân tộc, tức là đảng Cộng sản độc đoán cầm quyền hơn nửa thế kỷ nay. Nhờ nắm trong tay tất cả sức mạnh, đảng quyết định mình là sở hữu chủ (dưới danh nghĩa nhà nước) của mọi tài nguyên quốc gia, nhất là đất đai, người dân chỉ còn quyền sử dụng, khiến đại đa số lâm cảnh đói nghèo (thu nhập bình quân của người VN vào hạng thấp nhất thế giới là bằng chứng). Đang có tình trạng những kẻ giữ quyền chính trị giành lấy hầu hết mọi tự do (tự do thông tin và phát biểu kiểu độc quyền, tự do lập đảng và lập hội kiểu độc quyền…) để bắt toàn dân phải làm nô lệ đủ các mặt (lập đảng chính trị: bị cấm, lập hội dân sự: bị cản, thông tin trái lề: bị dọa, làm báo độc lập: bị tù! Các bloggers “nhập kho” gần đây như Nguyễn Hữu Vinh, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Đình Ngọc là những bằng chứng). Đang có tình trạng những kẻ sở hữu cơ ngơi hoành tráng, dinh thự xa hoa, nhà cửa ê hề (như phó thủ tướng đặc trách chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Tổng thanh tra săn lùng tham nhũng Trần Văn Truyền…) sống bên cạnh hàng triệu dân oan bị tước ruộng vườn, bị phá nhà cửa để phải kiếm sống trong lây lất và khiếu kiện trong vô vọng, thậm chí bị đốt túp lều cuối cùng như gia đình chị Nguyễn Thị Thúy ở Hải Phòng, bị xét xử cầm tù như vợ chồng chị Cấn Thị Thêu ở Dương Nội. Đang có tình trạng những cán bộ đảng viên cao cấp thu tóm mọi đặc quyền đặc lợi (qua các công ty quốc doanh, tập đoàn nhà nước, cơ quan chính phủ) khiến đa số còn lại lâm vào cảnh thiếu thốn khốn cùng.

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người kiến tạo bình an cho nhau, nghĩa là tạo cho nhau một cuộc sống không tranh chấp, không giành giật, không khắc khoải, không hãi sợ. Nhưng tại Việt Nam, một chế độ độc tài đã và đang được thực thi, được áp đặt bằng âm mưu đoạt ghế, cướp quyền, bằng biện pháp cưỡng bức, hăm dọa, bằng chính sách gieo bất an, tạo bất hòa, bằng chủ trương dựng kẻ thù, gây chia rẽ. Đảng thống trị và nhà cầm quyền luôn nặn ra những con ngoáo ộp “thế lực thù địch” cho dân phải luôn đề phòng, cảnh giác và hãi sợ. Ngoài ra, người dân không thấy được công lý che chở, luật pháp bảo vệ. Công lý nếu có chỉ là thứ công lý tiền bạc, công lý côn đồ, nghĩa là công lý trò hề (như một minh họa mới đây trên bìa 2 cuốn sách “Bộ luật Dân sự” và “Bộ luật Hình sự” năm 2014 với “văn bản hướng dẫn thi hành”). Luật pháp nếu có chỉ là thứ luật pháp bao che quan chức chính quyền, nhân sự chế độ (tham nhũng đại bự Trần Văn Truyền chỉ bị cảnh cáo, công an giết người chỉ phải ngồi tù vài năm), là thứ luật pháp trừng trị dân đen khốc liệt (giới làm nông đòi đất đai, giới đối kháng đòi dân chủ, giới tín đồ đòi quyền hành đạo). Đủ thứ hăm dọa từ chính trị áp bức, từ quyền lực bạo hành, từ bộ máy sách nhiễu, từ kinh tế suy thoái, từ xã hội nhiễu nhương, từ môi trường ô nhiễm, từ đạo đức băng hoại, thậm chí từ ngoại thù xâm lược. Ai mà không ngán ngẩm về cái đảng thống trị bất lương và bất tài, về bộ máy cầm quyền tham nhũng và bóc lột, tàn ác và gian dối; không băn khoăn vì đồng tiền ngày càng mất giá, vì trộm cướp như rươi hoành hành, vì thức ăn nước uống nhiễm độc; không khắc khoải vì đất nước bị ngoại xâm Bắc phương ngoạm dần, vì kẻ thù truyền kiếp rình chực ngoài cửa. Người dân lo âu về hiện tại lẫn về tương lai, cho bản thân lẫn cho con cháu. Con người mỗi sáng mở mắt không biết hôm nay mình có được an toàn trong thể xác (thực phẩm phải chăng gây ung thư?), an toàn trong sinh hoạt (tai nạn giao thông phải chăng chực chờ?), an toàn trong mối tương giao xã hội (công an cảnh sát phải chăng mời vào đồn? viên chức hành chánh phải chăng giở trò sách nhiễu?)

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người thể hiện tình yêu đối với nhau, nghĩa là thương người như thể thương thân, sống với nhau tương thân tương ái như anh em một nhà. Nhưng có dễ thực hiện điều đó chăng tại VN chúng ta, nơi hiện hoành hành một chủ nghĩa vô thần phi nhân, duy vật hưởng thụ, một chế độ cai trị mất hẳn tính người và tình người, một cơ chế xã hội ít chú trọng và đề cao các giá trị nhân bản, một nền giáo dục đầu độc trí não hơn giải phóng tâm hồn. Trước gương sống chỉ biết vinh thân phì gia của giới hành quyền đủ mọi cấp bậc, hầu như thiên hạ sống dửng dưng với thân phận của nhau, vô cảm với nỗi khổ của nhau, chủ trương triết lý “mặc kệ nó”, thậm chí bàng quan với vận mệnh của dân tộc và sự an nguy của giống nòi. Thử hỏi những cuộc xuống đường chống ngoại xâm có bao người tham dự? Thử hỏi những cuộc biểu tình đòi các nhân quyền cơ bản có mấy khi được tổ chức? Hay nếu có thì phải chăng sẽ được khuyến khích bởi các lãnh đạo chính trị và lãnh đạo tinh thần? Rất nhiều con người chỉ biết sống trong giành giật và chà đạp, trong lường gạt và dối trá, không thấy hạnh phúc đích thực của mình chính là tạo hạnh phúc cho kẻ khác, không ý thức được ích lợi cho toàn xã hội cũng là ích lợi cho mỗi cá nhân. Tiếng “xin lỗi” và “cảm ơn” ngày càng vắng bóng. Sự tự phát cứu giúp kẻ lâm nạn trên đường ngày một hiếm hoi. Lắm người nghèo về cơm áo, về văn hóa, về tình thương, nhất là về nhân phẩm đang bị bỏ lơ, quên hẳn bên lề cuộc đời.

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người thực thi công lý cho nhau, nghĩa là trả cho ai nấy cái thuộc về họ, từ các nhân quyền đến các dân quyền. Nhưng tại VN chúng ta, công lý đang bị coi thường, lãng quên, thậm chí bị trấn áp, tiêu diệt. Chữ “công lý” không hề nằm trên giấy trong các văn bản pháp luật (duy nhất một lần trong hiến pháp), không hề nằm trên miệng nơi các thừa hành pháp luật. Người ta không xét xử nhân danh công lý mà chỉ nhân danh nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ý thức công lý cũng mai một dần nơi vô số con người. Hàng triệu thai nhi không có quyền được chào đời làm người (Việt Nam luôn chiếm hàng đầu về nạn phá thai); hàng triệu trẻ em không có được một mái ấm học đường (vì học phí quá đắt, vì cơ sở quá tệ), một nền giáo dục nhân bản (vì chủ trương nặn đúc thần dân cho đảng); hàng triệu thanh niên không được tạo khả năng và ban cơ hội để vững bước vào đời (vì giáo dục từ chương, vì bằng cấp dổm giả, vì “bằng đỏ” cũng thua “bằng vàng”); hàng triệu nông dân bị tước đoạt ruộng vườn và phương tiện sinh nhai (thu hồi kiểu cướp bóc tàn bạo, đền bù kiểu để chết dần mòn); hàng triệu công nhân bị bóc lột tiền lương, phải lao động trong những điều kiện hết sức vô nhân đạo, chịu sự kiểm soát và khống chế của những công đoàn không phải của họ, do họ và vì họ; hàng triệu tín hữu bị trấn áp niềm tin, bị tước đoạt quyền tự do hành đạo (chức sắc lẫn giáo đồ hoặc bị sách nhiễu, hoặc bị hành hung, hoặc phải ngồi tù; cơ sở tôn giáo hoặc bị phá phách hoặc bị cướp đoạt; cộng đồng Tin lành Mennonite trong những tháng gần đây là ví dụ tiêu biểu); hàng ngàn hàng vạn công dân yêu nước bị sách nhiễu cuộc sống, bị bao vây kinh tế, bị cầm tù oan ức; hàng ngàn hàng vạn tù nhân đang bị tước cả những nhân quyền tối thiểu trong những lao ngục đọa đày, thậm chí có những nạn nhân vô tội phải lãnh án oan tử hình. Bằng chứng là Hàn Đức Long (Bắc Giang), Nguyễn Văn Chưởng (Hải Dương), Hồ Duy Hải (Long An).

Sứ điệp ngày Giáng sinh còn được nhân loại kéo dài tới đầu năm dương lịch, vì ngày mồng một tháng Giêng được gọi là Ngày Hòa bình Thế giới. Nhưng với những biến cố chính trị gần đây tại VN, như việc Chủ tịch chính hiệp Trung Quốc Du Chính Thanh qua rà soát lại nhân sự thân Tàu trong đại hội đảng lần thứ 12 tới, việc thiết lập cơ quan tuyên truyền và hang ổ tình báo mang tên viện Khổng Tử, việc cả bộ trưởng công an lẫn quốc phòng quyết tâm “kiểm soát thông tin”, “ngăn chặn phát tán các tài liệu xuyên tạc trên mạng Internet nhằm đả kích, bôi nhọ lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ” trong năm tới mà thực chất là tiêu diệt tự do ngôn luận của công dân, phải chăng dân Việt sẽ có hòa bình trên quê hương, trong cuộc sống hay phải tiếp tục sống trong bất an tâm hồn và mất hy vọng?

BAN BIÊN TẬP

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 210 (01-01-2015)

“Anh nằm xuống…”

“Anh nằm xuống…”

Chuacuuthe.com

VRNs (03.01.2015) – Phan Thiết – “Em nào mà gặp Soeur này, chắc chắn sẽ xin đi tu thôi”. Người bạn cùng đi với chúng tôi thốt lên như vậy. Hẳn tôi không nghĩ như thế nhưng một ngày làm việc với nhau, người Nữ Tu này đã để lại nơi tôi nhiều cung bậc cảm xúc.

Người bạn cùng đi với chúng tôi nói tiếp: “Con đã rất quen với các cơ sở từ thiện, đến nhiều nơi, gặp nhiều người, con muốn nói đến sự quen thuộc, nhưng Soeur này để lại trong con nhiều ấn tượng mạnh mẽ, quả thật diệu kỳ”.

Đúng vậy, với các “thành tích”: nuôi các chị em mang thai ngoài ý muốn, nuôi các cháu cô nhi, quy tụ nâng đỡ người già neo đơn, kẻ nghèo khó, mỗi ngày phục vụ 300 tô cháo ở bệnh viện, chôn cất các thai nhi bị phá bỏ… là những hình thức bác ái quen thuộc. Khó khăn có, gian lao có, thách thức có, nhất là công viêc Bảo Vệ Sự Sống những năm khởi đầu khi hiếm có nơi nào làm. Nhưng những khó khăn ấy nhờ ơn Chúa, với thời gian và lòng quảng đại của nhiều người, sẽ không đến nỗi là những ngăn trở hiểm nguy cho lắm đối với chị. Trong sứ mạng của chị, chị cũng đã vượt qua.

Nhưng rồi, cách đây vài năm, qua thông tin của dân chúng, chị biết có vài ngôi mộ vùi dập thân xác những người vượt biển chết trôi dạt vào bờ. Người ta bắt đầu cần đất bờ biển để làm du lịch. Không ai là thân nhân của những người xấu số, chị đứng ra nhận rồi cải táng về nghĩa trang Giáo Xứ, ngày ngày thăm viếng, đốt một nén nhang cho ấm áp hương hồn. Tin này truyền đi trong dân chúng quanh vùng. Và thế là một ngày “duyên nợ” lại đến.

Người ta dẫn chị đến một ngọn đồi với cái tên thật thơ mộng, “Đồi hoa sim”. Hàng trăm ngôi mộ đất hoàng tàn của những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa. Những trận đánh khốc liệt của những ngày tháng tư năm 75, cuộc tan hàng vội vã bỏ lại phía sau những anh em đồng đội đã gục ngã… Rồi thất trận ly tán bốn phương, những ngôi mộ đất rơi vào quên lãng, âm thầm lặng lẽ u buồn theo năm tháng…

Rồi lại một nghĩa trang khác của một trại lính, cũng vậy, lác đác vài chục ngôi mộ, trại lính năm xưa chỉ còn là cỏ dại, cô quạnh với những cành sim khô khốc…

Rồi lại một trại tù cải tạo, người ta phát hiện ra vài ngôi mộ năm chơ vơ giữa đồng cát. Trại tù đã giải thể, bỏ lại cánh đồng vắng những kẻ chết rũ tù chẳng biết tự bao giờ !

Chị đã bật khóc nhiều lần khi kể lại cho chúng tôi nghe. Chị dẫn chúng tôi đến từng ngôi mộ, kể lể chi tiết, rằng khi đào lên bên trong còn những gì. Thật khó, hơn 400 ngôi mộ vô danh, chị ghi lại lý lịch từng ngôi mộ, cái này xác còn cuốn trong Poncho, cái này đôi giầy còn nguyên vẹn, cái này có răng vàng, cái này còn cái đinh niken ở ống chân… May mắn có tất cả 74 ngôi mộ bên dưới còn giữ được chiếc thẻ bài của người lính.

Với các chi tiết có được, chị ghi chép cẩn thận và bày tỏ với chúng tôi nỗi trăn trở làm cách nào đây để thân nhân từng người lính này biết được nơi an nghỉ của họ, làm cách nào để những con người đã nằm xuống có ngày nhận được những nén nhang từ tay người thân của mình cắm trên phần mộ… Chị không mong ước gì hơn và hoàn toàn không có một mục đích nào khác ngoài việc quy tập anh em, cầu kinh khấn nguyện và cùng anh em ngóng đợi người thân…

Tôi đi dọc theo những hàng mộ xây dựng thẳng tắp ngay ngắn, xin lỗi chị, dưới con mắt của người biết chút ít về nghệ thuật kiến trúc, tôi thấy việc xây dựng mộ khá thô vụng xét về kiểu dáng, về chất liệu cũng như mầu sắc, nhưng tôi khâm phục chị và các cộng tác viên vô cùng. Làm sao một phụ nữ mỏng manh bình dị như thế, một Nữ Tu lẽ ra bằng lòng với câu kinh tiếng kệ trong bốn bức tường Tu Viện, chị lại xông pha sương gió làm gì, nhận lấy những gian lao khốn khó làm gì, đối đầu với bao rủi ro hiểm nguy đến từ một chế độ quá nhiều ác cảm và phân biệt đối xử làm gì, và bởi đâu chị lại kiên trì âm thầm thực hiện được một công việc quá to lớn như vậy ? Cánh đàn ông chúng tôi có thể biết làm đấy, nhưng có dám làm, có dám chịu trách nhiệm ? Người ta chỉ bằng lòng dừng lại với việc “cầu cho các linh hồn mồ côi”, thế thôi, chớ có dại làm gì ảnh hưởng đến các hoạt động mục vụ khác, thậm chí có khi người ta còn nại đến… vì lợi ích Dân Chúa ! Thật buồn…

Thấy tôi ngạc nhiên về những cành hoa tươi cắm đều trên các phần mộ, chị giải thích: “Có một vị ân nhân ở Đà Lạt, đôi ba ngày lại gởi xuống một giỏ hoa tươi, chúng con chỉ việc nhặt nhạnh rồi cắm vào các ngôi mộ, nhang thì chúng con thắp mỗi ngày”. Vùng giáp biển nên gió thổi rất mạnh, một cái giếng được đào bên rìa nghĩa trang, cứ vài ngày thì các ngôi mộ được bơm nước rửa sạch bụi bặm. Một bức tường cao được xây dựng để ngăn trâu bò len vào giẫm đạp. Lại có hai người thường xuyên ngoài nghĩa trang đến để dọn dẹp quang quẻ sạch sẽ cũng như tiếp tục chôn cất các thai nhi.

Một ngày làm việc trôi qua với nhiều cảm xúc, chúng tôi quây quần quanh nhau để lắng đọng tâm hồn cùng với lời cầu kinh cho những người đã nằm xuống, ráng chiều đã rực lên, gió hoàng hôn đã bắt đầu những cơn quần quật. Mọi người lặng thinh với không gian và với chính mình. Trên đường về không ai bảo ai, lòng như trùng xuống ngậm ngùi, chạnh nhớ một bài hát của Trịnh:

“Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây,
Đã vui chơi trong cuộc đời này,
Đã bay cao trong vòm trời đầy,
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai,
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi !

May quá, ở nghĩa trang này, không chỉ có chim trời và hoa dại, mà vẫn luôn có đó một chị Nữ Tu ân cần tận tụy và những con người tốt bụng chăm sóc gần gũi các anh…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

26.12.2014

Trung Quốc 2015: Địa ốc tuột dốc

Trung Quốc 2015: Địa ốc tuột dốc

Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2014-12-31

DDKT12312014.mp3

thuong-hai-622

Các tòa nhà cao tầng tại Thượng Hải, Trung Quốc, ngày 08 tháng 9 năm 2014 (ảnh minh họa).

AFP

Your browser does not support the audio element.

Ngày nay, thế giới đã công nhận rằng đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc không thể khả quan như xưa. Nhưng bên dưới tình trạng suy trầm trì trệ ấy còn có nhiều vấn đề khác nữa mà người ta cần nhìn ra. Diễn đàn Kinh tế sẽ khởi đầu cho năm 2015 qua việc phân tích những vấn đề này. Xin quý vị theo dõi phần trao đổi với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Chiến dịch bài trừ buôn lậu nông sản

Vũ Hoàng: Xin kính chào tái ngộ ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau loạt tổng kết cho 2014 và dự báo cho năm mới, kỳ này xin đề nghị ông phân tích cho tình hình kinh tế Trung Quốc trong năm 2015. Theo giới quan sát quốc tế thì kinh tế Trung Quốc khó đạt chỉ tiêu tăng trưởng khoảng 7% cho năm 2015, nhưng ngoài ra, xứ này còn có những vấn đề gì khác nữa?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, chúng ta nên đọc vài tin nhỏ mà kém vui vì chúng liên hệ đến kinh tế Việt Nam. Hôm 30, tại Việt Nam, Trung tâm Tư vấn của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vừa ra một báo cáo có tính khuyến nghị, rằng Việt Nam cần giới hạn dần và chấm dứt việc trao đổi qua biên giới với Trung Quốc để chỉ còn cơ chế xuất nhập khẩu thông thường mà thôi. Việc mua bán qua biên giới, hay mậu biên hoặc xuất nhập khẩu tiểu ngạch, là hiện tượng quá phổ biến, gây thất thu về thuế khóa và đào sâu tình trạng nhập siêu quá nặng của kinh tế Việt Nam với Trung Quốc. Trong năm qua, số nhập siêu này lên tới gần 30 tỷ đô la, tăng gần 22% so với năm ngoái.

Trước đó hai ngày, tờ The Wall Street Journal bên Mỹ lại có cái tin mang tính chất bổ sung. Đó là nạn nhập lậu khá phổ biến tại Trung Quốc. Nhưng chuyện ly kỳ họ nói tới không là nhập lậu các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng mà là nhập gạo từ Việt Nam. Con số gây giật mình là số gạo lậu từ ta bán cho Tầu trong 11 tháng đầu năm lên ít nhất là một triệu 200 nghìn tấn, bằng một phần tư của số gạo tiêu thụ tại Hoa Kỳ. Việt Nam đứng đầu trong các nước bán gạo cho Tầu và cung cấp hơn phân nửa số gạo nhập khẩu chính thức vào xứ láng giềng này. Vì giá gạo bên Tầu quá cao, lên tới khoảng 643 đô la một tấn so với giá 498 đô la của Việt Nam, nên trong luồng giao dịch gọi là mậu biên này mới có tình trạng buôn lậu.

” Diện tích canh tác của Trung Quốc chỉ bằng một phần ba của bình quân thế giới, bây giờ số đất hiếm hoi ấy lại thiếu nước cho canh tác, rồi còn bị ô nhiễm vì quy cách sản xuất vô trách nhiệm, nên việc nhập khẩu lương thực còn kéo dài mãi mãi.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa”

Những tin đó từ Việt Nam và bên Mỹ xác nhận điều mà Cục Hải quan Toàn quốc nhắc đền từ đầu tháng 11. Đó là thi hành quyết định của Hội nghị Ban chấp hành kỳ bốn vừa qua, Quốc vụ viện là Hội đồng Bộ trưởng của Trung Quốc phát động chiến dịch bài trừ buôn lậu nông sản và ma túy gọi là Lục Phong, làm gió xanh lục.

Vũ Hoàng: Ông nghĩ thế nào về những vấn đề rất ly kỳ này, thí dụ như Việt Nam là nước bán gạo nhiều nhất cho Trung Quốc mà lại còn bán lậu nữa?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Những tin ấy thấy hơi buồn, buồn nhất là cho người Việt trong cuộc là nông gia. Xứ này nằm dưới chế độ kiểm soát rất khắc nghiệt vậy mà vẫn để xảy ra nạn buôn lậu thì hiển nhiên là các cấp chính quyền địa phương không làm tròm nhiệm vụ, có khi còn trực tiếp nhúng tay vào nghề buôn lậu nữa. Nhân loại đã bước qua năm thứ 15 của thế kỷ 21 rồi mà hai quốc gia tự xưng xã hội chủ nghĩa lại còn hiện tượng lạc hậu đó. Việt Nam hiện dư gạo, nông dân vẫn là nạn nhân vì không hưởng kết quả lao động của mình với giá gạo quá thấp, lại còn buôn lậu qua một xứ đói ăn, khát dầu và thiếu nước mà lại có hành vi áp bức với quốc gia mình.

Chuyện ấy khiến ta nhớ đến một vấn đề khác. Tháng Tư vừa qua, hai bộ Bảo vệ Môi sinh và Tài nguyên Quốc thổ của Bắc Kinh cho biết là một phần năm diện tích đất đai bị nhiễm độc vì hóa chất từ công nghiệp khiến hàng năm họ mất 12 triệu tấn hoa màu, và 30% sản lượng gạo của họ có độ chì cao hơn mức an toàn cho sức khoẻ. Một ví dụ khác là từ nhiều năm rồi, tỉnh Hồ Nam cố khắc phục tình trạng ruộng lúa bị nhiễm chất cadmium mà không xong vì thiếu nước. Và hậu quả là gạo tại Quảng Đông bên cạnh nước ta bị nhiễm cadmium chính là gạo từ Hồ Nam.

Chúng ta biết diện tích canh tác của Trung Quốc chỉ bằng một phần ba của bình quân thế giới, bây giờ số đất hiếm hoi ấy lại thiếu nước cho canh tác, rồi còn bị ô nhiễm vì quy cách sản xuất vô trách nhiệm, nên việc nhập khẩu lương thực còn kéo dài mãi mãi. Mà lương thực là sản phẩm còn sinh tử hơn dầu khí nên tất nhiên họ có tư tưởng cướp đất để trồng gạo bên cạnh một quốc gia như Việt Nam mà lãnh đạo có thói quen là cái gì cũng bán, kể cả bán nước.

Đường phố Bắc Kinh, tháng Giêng năm 2014

Viễn ảnh 2015 của kinh tế TQ

Vũ Hoàng: Trở lại viễn ảnh 2015 của kinh tế Trung Quốc thì giới quan sát nhận định thế nào?

Đường phố Bắc Kinh, tháng Giêng năm 2014

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói chung, người ta cho là kinh tế Trung Quốc sẽ bị suy trầm và giảm phát, với đà tăng trưởng không thể là 7%, có khi chỉ 5% mà thôi. Tuy nhiên, từ chuyện đất đai sang nhà cửa thì tôi nghĩ là ta nên tìm hiểu về một quyết định mới của Quốc vụ viện Bắc Kinh.

Hôm 22 vừa qua, họ vừa ra một thông tư sơ khởi để sẽ bắt đầu áp dụng từ đầu Tháng Ba này. Đó là các chính quyền địa phương từ cấp quận huyện trở lên phải lập ra hệ thống kiểm kê và đăng ký mọi loại tài sản gia cư, địa ốc và quyền sử dụng đất trên toàn quốc.

Vũ Hoàng: Thưa ông, vì sao ông lại cho quyết định này là quan trọng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Việc các địa phương phải lập hệ thống kiểm tra tài sản địa ốc bằng điện tử lẫn ghi trên số sẽ mất nhiều năm mới hoàn thành nhưng trước mắt thì khiến giá nhà tại nhiều nơi sút giảm hơn nữa ngay năm nay. Điều ấy lập tức ảnh hưởng đến sản lượng kinh tế năm 2015.

Nhìn về căn bản thì quyết định này còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Đây là trận đánh lâu dài về ngân sách giữa chính quyền trung ương và các địa phương, lồng trong chiến dịch diệt trừ tham nhũng ở cấp địa phương, và sẽ giới hạn được nạn cướp đất của dân để đầu cơ và thổi lên bong bóng.

Vũ Hoàng: Xin ông lần lượt trình bày cho thính giả của chúng ta những ý nghĩa quả thật là nghiêm trọng mà rắc rối này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết là về bối cảnh thì như diễn đàn của chúng ta đã trình bày từ mấy năm trước, chính sách quản lý đất đai và cấp phát tín dụng để kích thích kinh tế đã dẫn đến hai chuyện. Thứ nhất, các chính quyền địa phương lợi dụng quyền quản lý để ban phát lợi lộc cho tay chân khiến dân oán hận. Lý do là họ thu được 40% ngân sách chi dụng là nhờ số đất thật ra lại rất ít hỏi đó. Thứ hai, chính sách kích thích kinh tế bằng tín dụng ào ạt lại trút tiền vào các doanh nghiệp nhà nước ở trung ương và địa phương và chạy vào túi các đại gia có quan hệ với đảng viên cán bộ. Rồi tiền quá dư thừa với lãi suất rẻ mới thổi lên nạn đầu cơ địa ốc và trái bóng đầu cơ bị bể từ mấy năm nay. Hậu quả là ngoài mấy thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải hay Quảng Châu, Nam Kinh, tại tất cả các thành phố khác giá nhà đều sụt và các tay đầu cơ có thể phá sản, ngân hàng mất nợ và ngành xây cất bị khủng hoảng, công nhân mất việc.

Trong bối cảnh ấy, chính quyền trung ương bèn ra chỉ thị thành lập hệ thống kiểm tra này để vừa nắm vững tình hình thật, vừa tránh nạn địa phương lạm quyền rồi báo cáo sai lên trên và từ đó có hy vọng đẩy lui nạn đầu cơ trên thị trường gia cư.

Trận đánh về ngân sách

Vũ Hoàng: Hồi nãy ông có nói đến trận đánh về ngân sách giữa trung ương với địa phương, vì sao lại có tình trạng này?

” Năm nay trung ương mới lập ra sắc thuế thổ trạch sẽ áp dụng năm tới. Loại thuế đánh trên tài sản địa ốc này nhắm vào việc giải trừ đầu cơ và đồng thời cho địa phương một nguồn thu rõ rệt hơn. Nhưng muốn vậy thì phải có hệ thống kiểm tra tài sản địa ốc.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa”

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Hệ thống ngân sách của Trung Quốc được thiết lập từ 20 năm trước nay đã bị lỗi thời, khi số thu và chi của trung ương và các địa phương đã có thay đổi. Vắn tắt cho dễ nhớ thì trung ương và địa phương thu được bằng nhau, nhưng các khoản chi của địa phương lại tăng mạnh, từ phân nửa của số tổng chi mấy chục năm trước nay đã lên tới khoảng 85%. Khi ấy, họ làm sao giải quyết được nhu cầu chi dụng? Họ cướp đất và bán đất và lập ra cả ngàn công ty mệnh danh là đầu tư để đi vay tiền bừa phứa từ các ngân hàng của nhà nước tại địa phương và đang chất lên một núi nợ rất cao, bên trong có nhiều nợ xấu sẽ mất. Cho đến nay, chưa ai tính được các khoản nợ này là bao nhiêu và bao giờ thì vỡ nợ.

Vì vậy, sau nhiều năm xoay trở, năm nay trung ương mới lập ra sắc thuế thổ trạch sẽ áp dụng năm tới. Loại thuế đánh trên tài sản địa ốc này nhắm vào việc giải trừ đầu cơ và đồng thời cho địa phương một nguồn thu rõ rệt hơn. Nhưng muốn vậy thì phải có hệ thống kiểm tra tài sản địa ốc.

Vũ Hoàng: Hồi nãy, ông có nói đến việc địa phương thiếu tiền chi dụng cho ngân sách nên mới lập ra những công ty đầu tư tại địa phương để hút tiền từ các ngân hàng của nhà nước tại địa phương và chất lên một núi nợ sẽ sụp đổ. Thế Bắc Kinh giải quyết vấn đề này như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Để giải quyết chuyện này, từ ba năm truớc, lãnh đạo Bắc Kinh cho thử nghiệm trên 10 thí điểm thể thức trái phiếu địa phương, là các địa phương được vay tiền khi phát hành tờ công khố phiếu của từng địa phương để huy động tiền trong dân gian. Năm 2015 này, họ sẽ thống nhất áp dụng việc đó để các địa phương có tiền trả nợ, tránh nạn cướp đất và tạo cơ hội khác cho giới đầu tư. Nhưng muốn có một thị trường trái phiếu địa phương và đồng thời ban hành sắc thuế thổ trạch thì trước hết người ta cần có một hệ thống sổ sách phân minh và đáng tin cậy. Đấy là ý nghĩa của việc thành lập hệ thống kiểm tra tài sản gia cư địa ốc vừa mới ban hành.

Qua ngần ấy chuyện, ta thấy ra nhiều vấn đề chằng chịt và phức tạp của hệ thống công quyền thiếu dân chủ và chẳng áp dụng thế chế liên bang trên một đất nước quá rộng.

Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, liệu chính quyền Trung Quốc có thành công hay chăng khi một lúc phải giải quyết ít ra ba bốn vấn đề là chi thu ngân sách, tránh nạn đầu cơ và cướp đất và tránh nạn sụp đổ tài chính nếu các công ty đầu tư ở địa phương bị vỡ nợ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Năm nay họ mới có quyết định thành lập các cơ chế giải quyết nên phải mất nhiều năm nữa thì mới thấy kết quả. Một trong những kết quả tích cực là sau này, nông gia sẽ có đất canh tác mà khỏi bị nhà nước cướp mất và từ đó hy vọng khai thác theo lối văn minh hiện đại và lành mạnh hơn để kiếm ra nông sản cho thị trường nội địa.

Nhưng trước mắt thì những biện pháp ấy sẽ làm giá nhà suy sụp hơn nữa trong năm nay. Ngoài ra, ta không thể quên là chính sách mới sẽ xâm phạm quyền lợi của cường hào ác bá địa phương cùng các doanh gia đã mặc tình khai thác thị trường địa ốc cho lợi ích riêng dưới sự bao che của thân tộc trong đảng. Vì vậy, các thành phần này sẽ ra sức phá hoại chính sách mới. Đấy là lý do vì sao mình nên nghĩ đến chiến dịch diệt trừ tham nhũng. Mục tiêu vẫn là đánh tan các thế lực kinh tế chính trị thường cấu kết với nhau để trục lợi và còn thách đố chính quyền trung ương. Năm nay, ngoài nạn suy sụp kinh tế, chúng ta còn chứng kiến nhiều trận đánh ly kỳ ấy.

Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông Nghĩa trong chương trình phát thanh cho một đầu năm dương lịch sẽ hứa hẹn nhiều sóng gió.

Đức Giáo Hoàng xúc động trước cái chết thương tâm của một linh mục Mễ Tây Cơ

Đức Giáo Hoàng xúc động trước cái chết thương tâm của một linh mục Mễ Tây Cơ

Đặng Tự Do

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ nỗi buồn sâu xa và mạnh mẽ lên án “bạo lực không thể biện minh được” của bọn mua bán ma túy tại Mễ Tây Cơ sau cái chết của cha Gregorio López Gorostieta, là vị linh mục đã bị bắt cóc chỉ vài giờ sau một bài giảng nẩy lửa của ngài chống bọn tội phạm có tổ chức tại bang Guerrero.

Cha Gregorio Lopez, 39 tuổi đã cử hành thánh lễ cuối cùng trong đời ngài là thánh lễ Chúa Nhật thứ Tư Mùa Vọng hôm 21 tháng 12. Trong thánh lễ, ngài lên tiếng kêu gọi sự hoán cải của bọn tội phạm có tổ chức trong vùng, là những kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của 43 sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Iguala hôm 26 tháng 9.

Sau thánh lễ, bọn mua bán ma túy trong vùng đã chặn đầu xe của ngài và kéo ngài ra khỏi xe đưa đi mất.

Trong một nỗ lực để cứu ngài, vào đêm Giáng Sinh một nhóm linh mục và tín hữu Công Giáo đã tổ chức những cuộc tuần hành tại các thành phố trong bang Guerrero. Đức Giám Mục bản quyền của giáo phận Ciudad Altamirano, nơi cha Gregorio là một giáo sư trong một chủng viện, đã đưa ra một bức thư ngỏ bày tỏ ý muốn sẵn sàng thương thuyết với bọn bắt cóc.

Ngày 26 tháng 12, người ta tìm thấy xác ngài tại thành phố Tlapehuala, bang Guerrero.

Trong điện văn được Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, ký thay mặt ngài gởi đến giáo phận Altamirano, Đức Thánh Cha Phanxicô khích lệ tất cả các linh mục, các thừa sai tiếp tục sứ mạng của mình bất chấp những khó khăn, theo gương Thầy chí thánh.

Cha Gregorio Lopez là linh mục thứ tư bị giết trong vùng này trong năm 2014.

Hôm 23 tháng 12, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc nhận định rằng Mễ Tây Cơ là quốc gia nguy hiểm nhất cho các linh mục. Trong 24 năm qua, tức là từ năm 1990 đến năm 2014, 47 cuộc tấn công nhắm vào hàng giáo sĩ đã diễn ra gây tử vong cho 1 Hồng Y, 34 linh mục, 1 phó tế, 3 nữ tu, 5 giáo dân và 1 nhà báo Công Giáo. Tình trạng tồi tệ nhất đã xảy ra dưới thời tổng thống Enrique Peña Nieto.

Chỉ tính riêng trong năm 2014, bốn linh mục đã bị sát hại. Trong một cuộc tấn công, một giáo dân đi cùng với một linh mục đã bị giết. Vị linh mục sống sót mặc dù những kẻ tấn công đã bắn nhiều phát về phía ngài. Trước đó, ngài đã thoát nạn trong một âm mưu bắt cóc không thành. Trong 12 tháng qua, hai linh mục thuộc Tổng Giáo Phận Acapulco, ở Guerrero đã bị giết. Một linh mục của giáo phận Atlacomulco, bang Mexico, cũng bị giết chết trong một vụ cướp gây ra ở nhà thờ nơi ngài thi hành mục vụ. Cha Gregorio Lopez thuộc giáo phận Altamirano là nạn nhân thứ tư.

Điều đáng kinh hoàng hơn là cho đến nay chưa một tên sát thủ nào phạm vào tội ác giết hại hàng giáo sĩ Công Giáo tại Mễ Tây Cơ bị bắt và bị pháp luật trừng trị.

HOÀ BÌNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT

HOÀ BÌNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình An dưới thế cho loài người Chúa thương”

Sau ngày 30-04-1975, khi tiếng súng ngừng hẳn, hai miền Nam Bắc thống nhất, hoà bình về trên quê hương Việt Nam, ai cũng nghĩ từ đây chiến tranh, hận thù chém giết không còn, mọi người sẽ được sống trong cảnh “thái bình thịnh trị”. Thế nhưng thực tế không phải như thế. Thời gian gần đây người dân luôn sống trong nơm nớp lo âu. Những băng đảng giang hồ thanh toán nhau bằng súng đạn giữa ban ngày trong thành phố như trong phim xã hội đen mà dân lành dễ bị “tai bay vạ gió”. Những cuộc chém giết lạnh lùng để đòi nợ, để trả thù, để dằn mặt không chút xót thương, đôi khi nạn nhân lại là những người hoàn toàn vô tội bị chết oan. Chỉ vì tranh chấp nhà cửa ruộng đất, vì ghen tuông, vì đồng tiền mà chồng đốt chết vợ, con chém chết cha, cháu đánh chết bà. Chạy xe thì lo gặp tai nạn vì bị rớt xuống những “hố tử thần”, vì những tài xế xay xỉn chạy ẩu, vì gặp đám quái xế “đi bão”. Trời mưa thì sợ chết vì rò rỉ điện, vì cây rớt, vì sụp hố. Trong nhà ngoài phố đâu đâu cũng thấy chiến tranh, hận thù, chết chóc.

Báo Pháp Luật số Chúa Nhật 05-12-2010 bắt đầu đăng loạt bài chuyên đề điểm nóng “Huyết Án Trong Sân Trường” :

  • Giữa tháng 11-2010, một nhóm học sinh lớp 10 trường THPT Lê Thị Hồng Gấm (Q.3) đang trên đường đi học về thì bị một nhóm thanh niện khác chận lại, dùng lưỡi lê đâm chết tại chỗ em Đặng Hoàng Tiến (15 tuổi) ngay gần khu vực cổng trường. Hung thủ là học sinh trường Nam Sài Gòn, khai đâm chết Tiến là do xích mích chuyện tình ái.
  • Cách đây một năm, tại trường THCS Tân Bình, do tranh dành bạn gái, một học sinh lớp 8 tên Lê Công Hoàng đã đánh nhau và dùng dao thủ sẵn đâm Minh gục ngay giữa sân trường. Hoàng tiếp tục đâm trọng thương 2 học sinh khác vào can ngăn trước sự chứng kiến của hàng trăm học sinh, giáo viên, giám thị…

– Chiều 06-12, anh Nguyễn Đức Lộc (28 tuổi) cùng bạn là Châu Đoàn Vũ (26 tuổi) đi dự tiệc sinh nhật bạn ở tỉnh Bình Dương, khi chạy xe máy đến ấp Bình Đường 2, xã An Bình, huyện Dĩ An thì va chạm với nhóm “choai choai” đi đường dẫn đến đánh nhau. Hậu quả, Lộc bị chém chết tại chỗ, Vũ bị thương nặng (Báo  Thanh Niên 08-12-2010).

– Trần thị Bích Trâm (23 tuổi, Kiên Giang) bị công an huyện Nhà Bè bắt giữ để làm rõ hành vi giết người. Do mâu thuẫn gia đình, Trâm dùng dao đâm chết chồng là anh Nguyễn Thành Công (24 tuổi) tại nhà trọ xã Phước Kiểng, Huyện Nhà Bè (Báo Tuổi Trẻ 10-12-2010).

Bao lâu nay hoà bình vẫn luôn là khát vọng thâm sâu nhất của nhân loại. Ai cũng mong mỏi hoà bình, nhưng dường như con người chẳng bao giờ được sống trong an bình, lúc nào cũng lo sợ chiến tranh và bạo lực. Hegel đã phải chua xót nhận xét rằng : “Lịch sử nhân loại là một núi sọ hay một thung lũng đầy xương khô. Những thời kỳ hạnh phúc chỉ là những trang giấy trắng!” Hòa bình ơi!

Từ Việt Nam nhìn ra thế giới, ta thấy nhận xét của Hegel quả không sai. Trong thế kỷ 20, hai cuộc thế chiến đã tiêu diệt hơn 50 triệu sinh mạng. Năm 1945, trái bom nguyên tử đầu tiên thả xuống Hiroshima chỉ trong vài phút đã tàn sát hàng trăm ngàn thường dân vô tội. Sau thế chiến II, hơn 20 triệu người đã bị chết thảm khốc trong 150 cuộc chiến. Những cuộc chiến ngày càng bùng nổ với mức độ tàn phá ghê gớm và thảm khốc hơn bởi những vũ khí tinh vi hủy diệt hàng loạt do chính con người chế tạo ra để… hủy diệt con người!

Tổ chức Liên Hiệp Quốc ra đời với nỗ lực xây dựng nền hòa bình trên hành tinh này với lời cam kết: “Chúng tôi, các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc kiên quyết tránh cho các dân tộc thảm họa chiến tranh”. Thế nhưng từ đó đến nay, súng vẫn nổ, đạn vẫn rơi, và máu vẫn chảy. Thế giới đang lo sợ cuộc chiến tranh nguyên tử giữa hai miền Nam Bắc Triều Tiên mà hậu quả thật khôn lường. Hiểm họa chiến tranh hạt nhân luôn ám ảnh và đe dọa sự sống còn của nhân loại. Hòa Bình  ơi!

Hoà bình vẫn là mơ ước ngoài tầm tay với, vì nỗ lực của các quốc gia giải quyết những tranh chấp và xung đột bằng đối thoại và bất bạo động dường như phải lùi bước trước bạo lực và lý lẽ của kẻ mạnh. Hoà Bình ơi!

Giáo Hội Công Giáo cũng miệt mài tìm kiếm nền hòa bình đích thực cho nhân loại. Năm 1920, Đức Bênêdictô XV ban hành thông điệp “Hoà Bình của Thiên Chúa” (Pacem Dei). Từ năm 1939 đến 1957, qua các Sứ Điệp Giáng Sinh, Đức Piô XII luôn kêu mời các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới hãy kiến tạo một nền hòa bình đích thực trên hành tinh này và cùng nhau xây dựng một thế giới liên đới công bằng. Năm 1963, Đức Gioan XXIII ra thông điệp “Hoà Bình Trên Thế Giới” gởi đến tất cả những người thành tâm thiện chí trên thế giới để kêu gọi các quốc gia xây dựng một nền hoà bình chống lại chiến tranh. Năm 1967, Đức Phaolô VI thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng “Công Lý và Hòa Bình”, và từ năm 1968, lập ra ngày “Hoà Bình Thế Giới” cử hành vào ngày mồng một tháng giêng hàng năm. Đức Gioan Phaolô II đã tổ chức những buổi “cầu nguyện liên tôn” cho hòa  bình tại Assisi và đưa ra sáng kiến “Ăn Chay vì Hoà Bình”. Năm 1986, ăn chay để kêu gọi giải trừ vũ khí nguyên tử. Năm 1993 và 1994, ăn chay cho hòa bình tại Bosnia. Năm 2001, ăn chay để cầu nguyện cho hòa bình thế giới sau biến cố 11-9 tại Hoa Kỳ.

Muốn có được nền hòa bình đích thực, con người không chỉ dừng lại ở việc chấm dứt chiến tranh, giải trừ quân bị, thực thi công lý, nhưng còn phải đi xa hơn, vươn tới tận nguồn của bình an là tình yêu thương, được thể hiện qua tấm lòng biết xót thương nhau như Chúa đã dạy: “Phúc cho ai biết xót thương người thì sẽ được Chúa xót thương”.

Hai quốc gia không gây hấn nhau, không xâm phạm chủ quyền của nhau, nhưng không quan hệ với nhau, không giúp đỡ nhau thì mới dừng lại ở mức thực thi công lý. Tôi không làm thiệt hại gì ai, không lỗi đức công bằng với ai, nhưng tôi cũng chẳng quan tâm đến ai, “sống chết mặc bay” thì tôi vẫn còn phải đấm ngực vì “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và …những điều thiếu sót”!

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã diễn tả mối tương quan giữa lòng thương xót và công lý như sau: “Lòng thương xót đích thực là suối nguồn sâu xa nhất làm phát sinh công lý. Nếu công lý tự nó là thích hợp cho việc phân xử giữa người với người liên quan tới sự phân phối của cải vật chất một cách công bằng, thì tình yêu và chỉ có tình yêu, bao gồm tình yêu khoan dung mà ta gọi là lòng thương xót, mới có thể trả con người về lại với chính mình. Lòng thương xót Kitô giáo là hiện thân hoàn toàn nhất của sự bình đẳng giữa người với người, và do đó cũng là hiện thân hoàn toàn nhất của công lý vì trong lãnh vực riêng của nó, công lý cũng nhắm tới cùng một kết quả như thế. Tuy nhiên sự bình đẳng do công lý mang lại chỉ giới hạn ở lãnh vực của cải vật chất bên ngoài, còn tình yêu và lòng thương xót lại giúp con người có thể gặp gỡ nhau nơi giá trị cao cả là chính con người, với phẩm giá riêng của mỗi người“.

Trong sứ điệp “Ngày Hòa Bình Thế Giới” năm 1998, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nhắc đến mối tương quan giữa công lý và lòng xót thương : “Công lý vừa là một nhân đức luân lý vừa là một khái niệm pháp lý. Ðôi khi công lý được biểu thị như một người mắt bít kín; thật ra, nhiệm vụ riêng của nó là sáng suốt và tỉnh táo để bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, khuyến kích một sự chia sẻ đồng đều các trách nhiệm và phúc lợi. Công lý phục hồi chứ không phá hủy, đưa tới hòa giải thay vì phục thù. Xét cho kỹ, ở trong chiều sâu của nó, công lý bén rễ trong tình yêu mà lòng thương xót là một biểu hiện có ý nghĩa nhất. Vì thế, công lý tách khỏi tình khoan dung sẽ trở thành lạnh lùng và độc ác“.

Đúng như thế, khi “công lý tách khỏi lòng thương xót sẽ trở thành lạnh lùng và độc ác” và có nguy cơ châm ngòi cho những cuộc chiến. Những bữa tiệc buffet linh đình cả trăm đô, những lễ đài nguy nga hàng trăm triệu, những lễ hội, những buổi trình diễn, diễn nguyện với sân khấu lộng lẫy hoàng tráng tiêu tốn bạc tỉ, những món quà lưu niệm cho lễ hội được tính bằng vàng… Tất cả sự hoang phí đó được biện minh là để “vinh danh Chúa”, “phục vụ nhân dân”, lo cho lợi ích chung, là của ân nhân tự nguyện đóng góp, đâu có bóc lột của ai, đâu có vi phạm công lý. Trong khi đó những người dân nghèo thấp cổ bé họng chỉ được đứng vòng ngoài nhìn những lễ hội một cách thòm thèm mà xót xa cho sự tốn kém lãng phí. Những nạn nhân lũ lụt bởi “thiên tai” hay “nhân tai” đang mòn mỏi trông chờ từng gói mì, lon gạo, bịch quần áo cũ mà vẫn chưa có.

Nếu bớt đi những chi phí không cần thiết mang nặng tính khoa trương nặng hình thức trong những lễ hội đạo cũng như đời để làm công việc bác ái, để xây những trường học, bệnh viện, mái ấm cho trẻ mồ côi, người khuyết tật, già neo đơn, để làm những cây cầu cho vùng nông thôn, để giúp học bổng cho các sinh viên học sinh hiếu học. Nếu làm được như vậy thì những lễ hội mới mang được ý nghĩa đích thực, mới để lại dấu ấn cho người tham dự lẫn người không được mời tham dự! Bằng không, người tổ chức và người tham dự lễ hội đã trở thành “lạnh lùng-vô cảm” vì đã tách “công lý” khỏi “lòng thương xót”. Không đóng góp chia sẻ vật chất, thậm chí cũng không chia sẻ mất mát tinh thần, không dành ra ít phút tưởng niệm, tưởng nhớ những nạn nhân lũ lụt, mà vẫn nhởn nhơ vui chơi ăn uống ca hát nhảy múa trong những lễ hội thì “lòng xót thương” quả là món hàng quý hiếm trong thời đại này.

Tôi không đụng chạm ai, cũng đừng ai đụng đến tôi. Tôi không làm thiệt hại ai mà cũng chẳng giúp đỡ ai. Tiền của tôi muốn làm gì tôi làm. Tôi phải lo cho anh em tôi, gia đình tôi, hội đoàn tôi, nhà thờ tôi, giáo xứ tôi. Cũng đúng thôi! Thế nhưng còn đồng bào tôi, giáo hội tôi thì ai lo? Đồng bào và giáo hội đó cũng là của tôi mà? “Công lý tách khỏi lòng thương xót sẽ trở thành lạnh lùng và độc ác”! Thánh Gioan Phaolô II đã nhận định thật chính xác và chua xót.

Thượng Hội Đồng các Giám Mục về “Công Lý Trong Thế Giới Hôm Nay” đã xác quyết: “Không thể tách rời công lý và tình yêu Kitô giáo đối với tha nhân. Bởi vì tình yêu bao hàm một đòi hỏi tuyệt đối về công lý, nghĩa là việc nhìn nhận phẩm giá và những quyền lợi của tha nhân; đồng thời công lý chỉ đạt tới sự viên mãn nội tại trong tình yêu. Với xác tín rằng mỗi người đích thực là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình và anh em của Ðức Kitô, người Kitô hữu nhìn thấy trong mỗi người hình ảnh của Thiên Chúa, và yêu sách tuyệt đối về công lý cũng như về tình yêu là chính yêu sách của Thiên Chúa“.

Chính vì tin tưởng vào xác quyết đó mà có một giáo xứ ở thành phố khi mừng kỷ niệm 50 năm thành lập, cha xứ đã kêu gọi giáo dân trong xứ đóng góp để xây dựng một ngôi nhà nguyện cho anh em dân tộc ở vùng sâu vùng xa thay vì làm cuốn “kỷ yếu” hay tổ chức lễ lạc ăn uống tiệc tùng tốn kém. Chính vì “nhìn thấy trong mỗi người hình ảnh của Thiên Chúa” mà hàng ngàn người tham dự thánh lễ và giờ cầu nguyện lòng thương xót mỗi chiều đã chắt chiu hàng tuần để chuyển hàng trăm tấn gạo đến cho đồng bào lũ lụt Miền Trung, tặng quà Noel, quà Tết cho bệnh nhân trại phong, người khuyết tật, và hàng ngàn học bổng cho sinh viên học sinh nghèo hiếu học. Chính vì thấy “yêu sách tuyệt đối về công lý cũng như về tình yêu là chính yêu sách của Thiên Chúa” cho nên một vài xứ đạo đã có những phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí, mái ấm cho người già neo đơn, thăm viếng và chia sẻ với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong cũng như ngoài giáo xứ, nhất là nơi vùng sâu vùng xa. Ước mong những đốm lửa này được lan rộng hơn nữa

Chúa Kitô được Isaia loan báo là “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta. Một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai. Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẻ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận…” (Is 9, 5-6).

Đức Kitô, vị thủ lãnh có đầy “dũng mãnh” và “quyền bính trên vai” nhưng không thống trị, áp bức người dân bằng quyền lực, bằng lý lẽ của kẻ mạnh. Vị thủ lãnh ấy không phải là “ông vua con một cõi” muốn gì là giáo dân phải vâng phục, phải chấp hành, bất chấp điều ấy có hợp tình hợp lý hay không. Trái lại vị thủ lãnh đó “đã chào đời để cứu ta”, đã đối xử với người dân như “người Cha muôn thuở” chứ không như vua chúa quan liêu hống hách với bề tôi. Đó là vị “thủ lãnh hoà bình” chứ không phải thủ lãnh chỉ lo củng cố địa vị ngai vàng của mình, đi gây hấn, gây ảnh hưởng, gây thù chuốc oán, gây tang thương chết chóc cho dân lành.

Vị thủ lãnh hoà bình đó “là bình an của chúng ta” và “đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Nhờ thập gía, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập gía, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,14-16). Chính vị thủ lãnh hoà bình đó đã giao hòa loài người với Thiên Chúa “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,19-20).

Bình an chỉ có được khi ta biết xót thương người vì cảm nghiệm chính ta luôn được Chúa xót thương, dù ta có tội lỗi yếu hèn thế nào đi chăng nữa. Bình an chỉ có được từ lòng xót thương. Thương người như thể thương thân. Thương xót con người trầm luân trong đau khổ mà tôi không chất thêm khổ đau cho họ nữa. Tôi tập nhường nhịn, tha thứ, không chấp nhất, không xô xát, to tiếng, chen lấn giành giật. Tâm tôi có được bình an khi không còn bị xao động bởi những ham muốn, háo danh, ganh tỵ, ghen ghét, muốn hơn người. Làm sao tôi có được bình an khi chung quanh tôi còn bao người đau khổ cùng cực? Làm sao xã hội gọi là bình an khi người ta vẫn sống dửng dưng vô cảm trước khổ đau của đồng loại, khi tiêu tốn lãng phí trong những lễ hội mà không chạnh lòng nghĩ tới đồng bào mình đang sống trong cảnh màn trời chiếu nước ? Chính lòng xót thương thúc đẩy tôi dấn thân đi chia sẻ, làm việc bác ái, vun đắp an vui, giúp con người sống hòa bình với chính mình và với tha nhân.

Muốn có hòa bình đích thực thì lời “Kinh Hoà Bình” của Thánh Phanxicô Assisi, Nhật Ký Lòng Thương Xót của thánh nữ Faustina, giáo huấn của Ðức Kitô, và đặc biệt là “Bài Giảng Trên Núi” phải trở thành kim chỉ nam, thành hiến chương cho cuộc sống của những người đi xây dựng hoà bình theo chân vị “thủ lãnh hoà bình” là Đức Kitô :

“Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc cho ai khát khao nên công chính,vì họ sẽ được Thiên Chúa cho mãn nguyện.

Phúc cho ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính,vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,3-10).

Muốn “thiên hạ bình” thì trước tiên “thân phải tu”. Tu tập để có lòng thương xót, có từ tâm. “Tình yêu và chỉ có tình yêu, bao gồm tình yêu khoan dung mà ta gọi là lòng thương xót, mới có thể trả con người về lại với chính mình.”

Không có Tình Yêu và Lòng Thương Xót thì bao giờ mới có Hòa Bình ?

Tác giả: Lm. Jos Trần Đình Long sss

“Ai đứng phía sau trang “Chân Dung Quyền Lực”

“Ai đứng phía sau trang “Chân Dung Quyền Lực”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-01-02

cdql-622.jpg

Hình chụp trang mạng Chân Dung Quyền Lực.

Screen capture

Thời gian trước Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 người ta thấy xuất hiện một trang mạng có tên Chân Dung Quyền Lực với hàng trăm bài viết hình ảnh về các nhân vật cao cấp nhất trong chính phủ và đảng Cộng sản Việt Nam. Hầu hết các bài viết đều vạch ra những bí mật mà bên ngoài không biết và đặc biệt nhất là những hình ảnh khó tìm thấy ở bắt cứ đâu về các nhân vật mà nó nhắm tới.

Cách hành văn như báo cáo nội bộ?

Theo một nhà báo kỳ cựu giữ mục an ninh nội chính không muốn nêu tên có nhận xét rằng văn phong của Chân Dung Quyền Lực là cách hành văn của báo cáo nội bộ mà người bên ngoài khó bắt chước hay giả mạo. Thứ đến, các văn kiện, tài liệu đưa lên cũng rất trùng khớp với hình thức những văn bản hiện nay. Cạnh đó trang Chân Dung Quyền Lực có thể được xem là được tổ chức rất bài bản, nó được sắp xếp khoa học và bài nào cũng có trọng tâm đánh người được nhắc tới theo một trình tự chuyên nghiệp.

Hình ảnh dồi dào mà nó trích dẫn không thể có từ một nhà báo nước ngoài ngay cả những cơ quan tình báo. Chỉ có công an bảo vệ chính trị mới có khả năng này và từ nút thắt ấy, giới thạo tin lần mở ra thủ lĩnh thật sự của Chân Dung Quyền Lực là ai là điều không khó.

Trang mạng này của ai lập ra thì không ai dám khẳng định nhưng khi nhìn vào cách mà nó điều hành thì không khó lắm để đưa ra những suy đoán hợp lý. Ông Đặng Xương Hùng cựu lãnh sự Việt Nam tại Geneve, Thụy Sĩ cho biết nhận xét qua kinh nghiệm mà ông có được trong khi giữ vai trò của một nhà ngoại giao:

” Tuy có nhng đu đá, nhng xì xm và nhng thông tin truyn đt li cho nhau cũng có thường xuyên nhưng đ đáng tin cy ca nhng trang này đến đâu thì tôi không dám khng đnh nhưng rõ ràng nó là mt nét mi trong đu tranh quyn lc ca các nhà lãnh đo.
ng Xương Hùng”

“Cái này với tôi là một câu hỏi khó bời vì trước đây chuyện đấu đá nó vẫn có nhưng không xuất hiện những trang ngấm ngầm tự hiểu, muốn hiều thế nào thì hiểu thí dụ như trang Nguyễn Tấn Dũng hay trang Chân dung quyền lực mới đây. Nó chỉ xuất hiện trong những năm gần đây thôi chứ trước Đại hội XI tình hình nó không có những hiện tượng này. Tuy có những đấu đá, những xì xầm và những thông tin truyền đạt lại cho nhau cũng có thường xuyên nhưng độ đáng tin cậy của những trang này đến đâu thì tôi không dám khẳng định nhưng rõ ràng nó là một nét mới trong đấu tranh quyền lực của các nhà lãnh đạo mà nó nổi lên nhất là cái sự đi không trong hàng của ông Nguyễn Tấn Dũng.”

Từ nhận xét “không đi trong hàng” tới gần như khẳng định đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người nổi bật nhất trong bốn người cầm quyền hiện nay. Ông Đặng Xương Hùng cho biết:

“Ông Nguyễn Tấn Dũng có thể trong một chừng mực nhất định đã có những phát biểu hầu như chỉ nhằm có lợi cho bản thân ông, có lợi cho tư thế của ông ấy thôi chứ còn những phát biểu đó có thể ông ấy không chấp hành trong một chiều hướng nào đó của chủ trương chung. Tuy nó vẫn nằm trong chính sách nhưng mà nó có những thứ đặc biệt trong cách nhìn. Tôi cảm nhận rằng ông Nguyễn Tấn Dũng ông ấy không đi theo hàng lối mà từ trước đến nay kỷ luật ấy trong đảng là rõ rệt, các cá nhân đêu phải đi torng hàng lối để không bị loại ra.

Cái chuyện ông Nguyễn Tấn Dũng không đi theo hàng và việc xuất hiện những trang như trang Nguyễn Tấn Dũng rồi Chân Dung Quyền Lực thì hiện tượng này làm cho tôi cảm thấy trong cuộc đấu đá này ông Nguyễn Tấn Dũng ở vào thế mạnh nhất bởi vì so với các lực lượng, với các cá nhân khác thì họ chỉ có chức vụ chứ không có quyền lực nhất là có cái thứ để mà cho các nhân vật khác để đổi lại sự trung thành và đổi lấy sự đứng cùng với ông Nguyễn Tấn Dũng.”

Ông Nguyễn Bá Thanh có bị đầu độc?

Trên YouTube loan tải một video clip cho thấy cách đây hai năm, nói chuyện trước 4.500 cán bộ tại thành phố Đà Nẵng ngày 8 tháng 4 năm 2012 trước khi Nghị quyết trung ương 4 khóa 11 diễn ra ông Nguyễn Bá Thanh đã vẽ chân dung của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mà không một chút sợ hãi nào, ông nói:

nguyen-ba-thanh-305.jpg

Ông Nguyn Bá Thanh, trưởng ban ni chính Trung ương.

“Ông tưởng ông ngon lắm. Ông tưởng họ kính nể họ chấp tay họ bái phục ông cho nên đừng có vội cứ nhìn cái mặt tốt của mình, chỉ thấy bên ngoài thôi chứ còn nhiều vấn đề lắm. Họ làm sai là từ chức chứ mình làm sai rồi cứ nhơn nhơn tỉnh queo coi như không có vấn đề gì. Cách chức thì ảnh chịu thôi chứ biểu ảnh từ chức thì ảnh không từ! Ảnh nói có bao nhiêu người phải từ đâu mà tôi từ? Có lòng tự trọng lắm đấy. Họ làm sai thì từ chức còn mình làm sai thì cùng lắm kiểm điểm rút kinh nghiệm. Cho nên không có cái dây nào nó dài hơn cái dây kinh nghiệm.”

Như dọn đường cải đổi nhân sự trong Đảng trước khi Nghị quyết trung ương 4 khóa 11 diễn ra 6 tháng sau đó, ông Thanh cho 4.500 đại biểu tại thành phố Đà Nẵng một thông tin quan trọng là lần này khác với những lần trước trong vấn đề xử lý các lãnh đạo không chịu từ chức hay không chấp nhận khuyết điểm của mình:

“Như vậy là suốt 5 nhiệm kỳ, kéo dài 25 năm một chặng đường mà Hàn Quốc dư sức chuyển mình từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Suốt 5 nhiệm kỳ kéo dài 25 năm vần đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được đề cập và hết sức quyết liệt hô hào thì rất mạnh nhưng mà như tôi nói càng xây càng ra nhiều nghị quyết thì tình hình nó càng ngày càng xấu thêm yếu kém và phức tạp hơn.

Nhưng bây giờ nó có điểm mới ở chỗ này. Lần này mới ở chỗ giải pháp tổ chức thực hiện. Báo cáo các đồng chí các lần trước là làm chung chung rứa thôi. Toàn đảng đưa ra rồi làm. Còn lần này không làm theo cái cách đó nữa đâu. Lần này khác là làm từ trên làm xuống chứ không làm dưới làm lên nữa đó là cái mới.

Cái thứ hai không phải chỉ tự phê bình và phê bình đâu mà có gợi ý góp ý trước khi phê bình. Khác đấy chứ không phải để tự anh nói ra cái chi rồi tôi nghe đâu. Gợi ý ra để anh kiểm điểm và làm từ trên xuống chứ không làm đồng loạt. Bắt đầu từ Tồng bí thư, bắt đầu từ Ủy viên Bộ chính trị, Ủy viên Ban bí thư rồi tới từng anh Ủy viên Ban chấp hành trung ương chứ không có kiểm điểm tràn lan. Anh không nhân, anh không thấy thì sẽ có người chỉ ra cho anh chứ không giống mấy lần trước đâu lần này khác. Tôi thì tôi tin rằng nó sẽ có chuyển biến.”

Nhưng kết quả sau đó ai cũng biết là không có một chuyển biến nào cụ thể. Chiều ngày 15 tháng 10 năm 2012 Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng chỉ dám có một câu thông báo về biệt danh người bị kiểm điểm là đồng chí X, tất cả đâu vẫn hoàn đấy.

Thế nhưng đồng chí X không chấp nhận thua cuộc cho là thua trên danh nghĩa đối với địch thủ của ông và lần này trang Chân Dung Quyền Lực xuất hiện trước Hội nghị Trung ương 12 để thông báo cho các địch thủ như Quan Làm Báo, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Sinh Hùng biết rằng trò chơi quyền lực vẫn còn diễn ra và diễn ra không khoan nhượng nữa là khác. Mặc dù trang này có bài viết với tất cả các khuôn mặt cao cấp trong bộ chính trị nhưng phần viết về ông Dũng rất nhẹ nhàng, hời hợt thậm chí bênh vực một cách khéo léo.

Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được tập trung với hình ảnh tài liệu cho thấy ông này là sâu dân mọt nước với tài sản trong và ngoài nước hàng ngàn tỷ và kể cả có dính tới việc ám sát ông Nguyễn Bá Thanh bằng chất độc phóng xạ ARS.

Theo Chân Dung Quyền Lực thì ông Phúc đã từng dùng quyền Phó Trưởng ban thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng để ra lệnh cho Thanh tra Chính phủ công khai kết quả thanh tra đất đai Đà Nẵng nhằm triệt hạ uy tín, bít đường vào Bộ Chính trị của ông Nguyễn Bá Thanh.

Chân Dung Quyền Lực cho biết sự liên hệ mật thiết của ông Phúc đối với đại gia Hoa kiều Đặng Văn Thành người gắn bó rất chặt với lãnh sự quán Trung Quốc tại Sài Gòn và không ngoại trừ khả năng ông Phúc nhờ ông Thành liên lạc với Bắc Kinh thực hiện vụ đầu độc này.

Chân Dung Quyền Lực có hình ảnh từ Viện ung tư tại Seattle của Mỹ, nơi được canh gác nghiêm nhặt cho thấy ông Nguyễn Bá Thanh trong những giây phút cuối cùng sau khi nhiễm độc. Nó cũng thông báo cho biết là ông Thanh sẽ được chở từ Mỹ về Đà Nẵng vào ngày hôm nay, 2 tháng 1 năm 2015.

Nhưng tại sao trang của Thủ tướng Dũng lại đánh ông Phúc bằng cách chứng minh ông Phó thủ tướng giết hại ông Nguyễn Bá Thanh người từng tuyên bố những câu mạnh mẽ về sự tham nhũng của ông Dũng?

Cách giải thích hợp lý nhất là ông Thanh không còn nguy hiểm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngay cả khi ông trở thành nguyên Thủ tướng. Ông Phúc mới là người sẽ tranh chức này với những người mà ông Dũng âm thầm cơ cấu trong Hội nghị Trung ương 12 và ông Thanh được sử dụng để buộc tội ông Phúc.

Dù sao thì mọi sự cũng chỉ là giả thiết mà giả thiết thì luôn có đúng có sai. Cái chung của giới quan sát chính trường Việt Nam là cùng đồng ý rằng điều mà Chân Dung Quyền Lực chứng tỏ và được mọi người đồng tình đó là từ trang này, người dân biết rõ hơn những khuôn mặt quyền lực đang cai trị Việt Nam và những gì đang âm thầm xảy ra trước kỳ họp lần thứ 12 sắp tới.

Thưa quý vị liên quan đến thông tin mà trang Chân Dung Quyền Lực loan tải, trong một bài mới nhất trên tờ Lao Động hôm nay đưa tin rằng một lãnh đạo sân bay Đà Nẵng thừa nhận, hôm nay 2.1.2015, công tác bảo vệ an ninh sân bay Đà Nẵng đã được tăng cường mạnh và thắt chặt các biện pháp kiểm soát trước thông tin lan truyền trên mạng rằng, hôm nay ông Nguyễn Bá Thanh sẽ về nước chữa bệnh qua đường sân bay Đà Nẵng.

Nguồn tin trên cho biết: “Việc ông Thanh về Việt Nam chữa bệnh qua đường sân bay Đà Nẵng, ông cũng chỉ được nghe qua các kênh thông tin không chính thức được tung lên mạng Internet. Cho đến thời điểm này, ông chưa có thông tin gì cụ thể về lịch bay về chuyến bay đưa Trưởng ban Nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh về Việt Nam qua sân bay Đà Nẵng. Tuy vậy sân bay cũng đã tăng cường lực lượng an ninh và bảo vệ mạnh hơn, để bảo vệ an toàn hoạt động của sân bay.

Phóng viên Không biên giới đòi trả tự do cho blogger Nguyễn Đình Ngọc

Phóng viên Không biên giới đòi trả tự do cho blogger Nguyễn Đình Ngọc

RFI

Thụy My

media

Trong thông cáo đề ngày 31/12/2014, tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) có trụ sở tại Paris đã đòi hỏi chính quyền Việt Nam « trả tự do lập tức » cho blogger Nguyễn Đình Ngọc, bị bắt ngày 27/12 tại nhà ở Saigon vì các « hành vi bất hợp pháp ».

Thông cáo nhắc lại, được biết chủ yếu với bút danh Nguyễn Ngọc Già, blogger 48 tuổi này thường xuyên viết bài cho các blog và trang thông tin độc lập như Dân Làm Báo, Dân Luận, hay cho đài Châu Á Tự Do. Các bài viết của Nguyễn Đình Ngọc đả kích chính quyền và chính sách trấn áp các nhà ly khai. Trong bài viết hôm 10/12 trên blog Dân Làm Báo, ông Ngọc cho biết hộp thư điện tử và tài khoản Facebook của mình đã bị tin tặc xâm nhập.

Bà Lucie Morillon, giám đốc chương trình của RSF tuyên bố : « Vụ bắt giữ mới này nằm trong khuôn khổ chính sách trấn áp của đảng cầm quyền ở Việt Nam, nhằm dập tắt mọi tiếng nói chỉ trích. Chúng tôi khuyến khích chính quyền trả tự do lập tức cho blogger Nguyễn Đình Ngọc, cũng như tất cả các blogger đang bị cầm tù mà tội phạm duy nhất chỉ là muốn thông tin một cách tự do cho đồng bào mình ».

Nguyễn Đình Ngọc là blogger thứ ba bị bắt trong những tuần lễ gần đây, sau ông Hồng Lê Thọ hôm 29/11 và ông Nguyễn Quang Lập hôm 6/12. Theo RSF, song song đó công an còn tấn công nhà báo độc lập Trương Minh Đức hồi đầu tháng 11, và cuối tháng 12 lại theo dõi chặt chẽ một số nhà báo, blogger khác trong đó có « anh hùng thông tin » Phạm Chí Dũng, mà RSF cho rằng có thể có liên quan đến chuyến thăm Việt Nam của Du Chính Thanh.

Phóng viên Không biên giới nhắc nhở, hiện có 29 blogger đang bị giam giữ vì các tội danh khác nhau như « lạm dụng tự do dân chủ », « nổi dậy », « tuyên truyền chống Nhà nước » hoặc « âm mưu lật đổ chế độ », và Việt Nam hiện đứng 174/180 trong bảng xếp hạng về tự do báo chí của tổ chức này.

Soi đường cho dân ngoại

Soi đường cho dân ngoại

Chuacuuthe.com

VRNs (01.01.2015) – Sài Gòn

Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

(Lc. 2, 12)

150101001

Chúa đến làm người,

làm ánh sáng để chiếu tỏa vinh quang trên dân Ngài.

Chúa đến làm người,

để ánh sáng soi đường cho dân ngoại.

Chúa sinh ta làm người,

Để ca tụng vinh quang Chúa muôn đời,

Chúa gọi ta làm người,

Để làm ánh sáng chiếu soi cho muôn dân.

Hãy quý yêu sự sống,

hãy trân trọng ánh sáng,

để làm chứng tình yêu.

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR.

Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc

Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc

Lưu Hiểu Ba

Người Trung Quốc đang đẩy mạnh sự trỗi dậy của một siêu cường. Sự đi lên của nền kinh tế dẫn tới sự đi lên văn hóa, với túi tiền to mang đi rải khắp toàn cầu kèm theo việc xuất khẩu sức mạnh mềm. Trong nước thì sau khi người ta tiếp tục cơn sốt đọc kinh thư, thờ Khổng Tử, thờ Nho Giáo, bây giờ CCTV qua chương trình “Bách gia giảng đường” khơi ra cơn sốt đọc lại các tác phẩm của Khổng Tử nhằm phục hồi lại hệ thống đạo đức truyền thống; ở hải ngoại, Trung Cộng bỏ ra khoản tiền khổng lồ xây dựng hệ thống các học viện Khổng Tử nhằm quảng bá sức mạnh mềm ra thế giới. Tâm lí muốn làm bá chủ thiên hạ sau khi bị đè nén hơn trăm năm nay lại được dịp phát tiết ra ngoài, Khổng thánh nhân ở trong nước lẫn hải ngoại hợp lại làm một trận tuyến, cơn sốt Khổng Tử càng lúc càng nóng.

clip_image002

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Đằng sau cơn sốt này, tôi không cho rằng đó là sự phục hưng của văn hóa truyền thống, mà là làm sống lại truyền thống sung bái thánh nhân, là một phần trong kế hoạch nhằm đẩy mạnh làn sóng dân tộc cực đoan trong nước. Nguyên nhân là từ sau vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989, nhà nước một mặt chống lại xu hướng tự do hóa và chống “diễn biến hòa bình”, một mặt khác thì châm ngòi, chổng mông thổi bùng lên làn sóng dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã trở thành một trong những rường cột chính của chính quyền Trung Cộng về mặt ý thức hệ, phối hợp với “ngày hội của tầng lớp trung lưu” đã đẩy chủ nghĩa dân tộc dâng cao một cách tràn lan. Ví dụ, trong đoạn kết của “Khổng Tử đại điển tế văn” ở liên hoan văn hóa quốc tế Khúc Phụ năm 2005 có viết như sau: “Tiểu khang sơ thành, đại đồng tại mộng. Hân phùng thịnh hội, cường quốc uy phong” tạm dịch là “Việc xây dựng xã hội trung lưu bước đầu có thành quả, giấc mộng thế giới đại đồng đang được nuôi dưỡng. Vui mừng hân hoan vì gặp thời thế, thể hiện được uy phong nước lớn”. Đây chính là bản hợp tấu điển hình của chủ nghĩa dân tộc cực đoan với bản phúc âm của thời thịnh vượng.

clip_image003

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Trong năm vừa rồi, việc quảng bá văn hóa truyền thống trên chương trình “Bách gia giảng đường” của CCTV đã tạo nên “cơn sốt Vu Đan” trên toàn quốc. Một mặt thì CCTV đã thành công trong việc đem Khổng Tử biến thành một món hàng thương mại thời thượng có sức hút cao (dùng theo từ ngữ của Lỗ Tấn là Modern Khổng Tử), cũng giống như việc đem Mao Trạch Đông biến thành một món hàng thương mại thời thượng mấy năm trước đây. Những sách vở, thư tịch có liên quan tới Khổng Tử đã trở thành những món hàng bán rất chạy, trên khắp cả nước cũng rộ lên phong trào mở ra những lớp học văn hóa truyền thống với lợi nhuận cao chót vót (tỉ như các “lớp quốc học” ở Đại học Thanh Hoa thu học phí là 26000 RMB/ học viên, Đại học Phúc Đán thu 38000 RMB/ học viên, những lớp dạy cho trẻ con lại càng có giá ở trên trời).

Một mặt khác thì Vu Đan đã trở thành hiện tượng với việc bán những lời giảng về Khổng Tử trên cơ sở sự kết hợp giữa lời của cổ nhân với ca từ của dòng nhạc thị trường hiện nay, cô ta diễn giải những lời của Khổng Tử một cách tùy tiện và nông cạn, như đang bơm một liều doping tinh thần cho việc thông tục hóa cơn sốt “phục hưng Nho Giáo”. Theo như những tinh hoa trong sự lý giải về Khổng Tử ở “Luận ngữ tâm đắc” của Vu Đan mà nói, ai ai cũng có thể có một tâm thái sống thoải mái cho dù có gặp chuyện gì đi nữa, chỉ cần không ôm hận trong lòng mà hãy bao dung yêu thương, biết thuận theo hoàn cảnh thì có thể chuyển nguy thành an, tìm được hạnh phúc.

Trong cơn sốt học tập theo Khổng Tử đang tăng nhiệt từng ngày thì giáo sư Lý Linh của Đại học Bắc Kinh xuất bản cuốn “Chó nhà có tang: tôi đọc Luận ngữ” với sự khảo cứu nghiêm túc về Khổng Tử, đã bóc tách những thứ huyễn hoặc và trả lại một Khổng Tử chân thực. Ông ở trong lời mở đầu có viết về thái độ của bản thân khi đọc Luận ngữ: “Sách của tôi được viết theo góc nhìn của bản thân tôi, tôi cũng không dựa theo người khác theo kiểu “quan một cũng ừ, quan tư cũng vậy”. Tôi cũng mặc xác cái gì là nhị thánh nhân, tam thánh nhân rao giảng cái gì. Cũng mặc kệ đại sư, tiểu sư nói cái gì, chỉ cần là không phải nguyên tác, tôi đều bỏ qua một bên. Tôi đọc “Luận ngữ” là tìm tới cái nguyên bản của nó. Muốn biết Khổng Tử nghĩ như thế nào thì phải xem nguyên bản. Tất cả những kết luận của tôi đề là từ những lời nói từ bản thân Khổng Tử, không tranh cãi cùng với giới trí thức, cũng không bợ đỡ, vỗ mông ngựa của đại đa số người đọc. “Sau khi đọc sách của Khổng Tử, không nên nâng bi, cũng không nên dìm hàng, nói một cách kĩ càng thì ông ta là một Don Quixote”.

Với thái độ thực sự cầu thị, không sung bái thánh nhân cũng không mị dân như vậy. Lý Linh đã phá thủng bức màn che của chủ nghĩa sùng bái đức thánh Khổng trong hơn 2000 năm qua. Ông viết: “Trong cuốn sách này, tôi muốn nói với mọi người rằng Khổng Tử không phải là thánh nhân. Khổng Tử mà đời đời nay các hoàng đế tôn sùng, phong thánh không phải là Khổng Tử thật, đó là một “Khổng tử do người ta tạo nên” mà thôi. Khổng Tử thật sống ngoài đời thực không phải là một vị thánh, cũng không phải là vương hầu gì cả, càng không đáng để nói tới cái gì mà “nội thánh ngoại vương” cả. “Khổng Tử chỉ là một con người, một người có xuất thân bần tiện, lại là tiêu chuẩn lập thân dựng sự nghiệp của giới quý tộc thời cổ đại (chân thiên tử); một người yêu chuộng tìm tòi những gì từ cổ xưa, học hành chăm chỉ, không nản chí, không mệt mỏi truyền đạt văn hóa truyền thống của người xưa và một người khích lệ học trò học tập kinh sách cổ; một người có đạo đức lẫn học vấn lại là một người không có chức có quyền, dám phê phán đám quý tộc đương thời; một người lang bạt tứ xứ du thuyết, lao tâm thay cho kẻ cai trị, liều mình khuyến dụ tầng lớp cai trị cải tà quy chính; một người nhiệt tình, ước mơ khôi phục xã hội theo lối cai trị của nhà Chu để thiên hạ thái bình; một người luôn bị giằng xé, hoang mang vô lực khi du thuyết tới rã bọt mép mà không ai nghe, nay đây mai đó không nhà cửa, giống hành trạng của một con chó vô chủ, lang bạt. Đó mới là Khổng Tử thật.”

Những nhận xét của Lý Linh về “Luận ngữ” trên phương diện khảo chứng hay là giải thích đều hơn xa những hiểu biết hời hợt nông cạn của Vu Đan. Càng quan trọng hơn, với tư cách là một phần tử trí thức đương đại, góc nhìn của ông có nhiều sự đồng cảm sâu sắc đối với một phần tử trí thức từ hơn 2000 năm trước là Khổng Tử. Lý Linh viết: “Khổng Tử tự nhận mình chính là một con chó nhà có tang. Ông ta tuyệt vọng với chính tổ quốc của mình, cùng đám đồ đệ phiêu bạt khắp nơi, gặp gỡ với tất cả đám chư hầu nhưng lại không có chút thành tựu nào, cuối cùng ông ta cũng quay về cố hương. Vào những năm cuối đời, sống trong cô độc và đau thương. Con chết, học trò yêu của ông cũng chết đã làm ông khóc cạn nước mắt. Ông đã nói tới sự đau thương của Kỳ Lân vốn ám chỉ ông ấy. Ông đã chết ở nhà mình nhưng ông lại không cảm thấy nơi nào là nhà cả. Cho dù tư tưởng của ông đúng hay sai thì chúng ta cũng có thể qua đó nhìn thấy được vận mệnh thu nhỏ của giới tri thức đương thời”.

clip_image005

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Cuốn sách bình luận về chó nhà có tang của Lý Linh ra mắt, đã phê phán cơn sốt học tập khổng tử và cơn sốt học lại giá trị truyền thống giống như việc ném một tảng đá lớn vào mặt nước hồ đang lên, gGây nên những cơn sóng phản đối dữ dội từ những kẻ bảo vệ đạo Nho. Bọn họ hợp công xúm vào chửi bới, nhục mạ Lý Linh tới nỗi nước miếng văn tung tóe khắp bốn phía. Ông bị tố cáo là người phao tin đồn nhảm về ngày tận thế, bị gọi là “phẫn thanh”, nhiều người chưa đọc qua sách của ông còn mạnh miệng cho đó là rác rưởi. Tất cả những chuyện này là do Lý Linh đã đặt tên cho cuốn sách bàn về Khổng Tử với cái tên “chó nhà có tang” . Từ đây có thể thấy được sự sùng bái của tầng lớp nhà nho mới đối với “Khổng thánh nhân” đã tới mức không ai có thể chạm tới. Chỉ tiếc là trong tay đám nhà nho mới nổi này trong tay không có bao nhiêu quyền thế, nếu không thì xã hội lại quay về cái thời đại “mở mồm ra mỗi câu đều là chân lý, một câu của lãnh tụ bằng ngàn vạn câu của kẻ khác” (thời Mao với tệ sùng bái cá nhân).

Lý Linh là một nhà lịch sử học nghiêm túc, ông đọc “Luận ngữ” không phải xem sách của thánh hiền, mà là để nghiên cứu lịch sử; từ lịch sử ông tìm ra một Khổng Tử không phải là thánh nhân mà là một phần tử trí thức không có nhà để quay về. Giống như trong lời tự bạch của tác giả: “Tôi đem “Luận Ngữ” để làm nghiên cứu lịch sử chứ không phải là công cụ để tôn sùng. “Thực ra cái mà Lý Linh nói trong “chó nhà có tang” là trả lại sự thật khi cho thấy tầng lớp trí thức sống trong nỗi bất an tinh thần triền mien khi không được sử dụng trong thời Xuân Thu. Ông đã đem chó nhà có tang biến thành chó lang thang không nhà, “bất cứ kẻ nào ôm hoài bão, trong đời thực không tìm được nơi chốn cho tinh thần của mình, đều là chó nhà có tang”. “Theo góc nhìn của tôi, dùng “mất đi quê hương tinh thần” để đánh giá Khổng Tử là hơi quá đề cao ông ta rồi. Trên thực tế thì Khổng Tử du thuyết thiên hạ không phải là để tìm kiếm quê hương tinh thần mà là để tìm một nơi cho ông ta thể hiện quyền lực của mình. Ông ta một lòng muốn làm quân sư cho các bậc đế vương mà không được, là một con chó lang thang không tìm được nơi chốn. Nếu như lúc đó có bậc đế vương nào dùng ông ta thì có lẽ ông đã sớm trở thành con chó gác cửa rồi.

Người đưa ra cái tên gọi “chó nhà có tang” để dành cho Khổng Tử cũng không phải là Lý Linh, mà cổ nhân từ xưa đã đánh giá như vậy. Bản thân Khổng Tử cũng tự nhận xét mình như vậy. Đi du thuyết khắp thiên hạ mong kiếm được chức quan, đến năm hơn 40 tuổi mà vẫn không có thành quả nào, lúc thất vọng tới cực độ, ông ta nói “Ta cùng đường rồi! Trong thiên hạ không có chỗ dung thân”. Chính từ việc này mà sau này hậu thế mới đánh giá ông ta là con chó nhà có tang. Nhưng đối với đám nhà nho vệ đạo đương thời mà nói, việc Khổng Tử tự nhận mình là chó nhà có tang chính là lời dặn dò của thánh nhân, bao hàm trong đó là bao nhiêu lời lẽ huyền diệu để trị quốc và giáo dục quốc nhân; mà Lý Linh gọi Khổng thánh nhân của họ là con chó nhà có tang chính là đại nghịch bất đạo, là một thứ rác rưởi không đáng để đọc. Thậm chí còn có những nhà nho phẫn nộ nói “Thầy Lý Linh điên rồi!”.

Bất kể cho bao nhiêu lời lẽ lăng mạ Lý Linh của đám nhà nho mới vì cuốn “Chó nhà có tang” thì tôi vẫn cho rằng cuốn sách mà ông viết, nhất là đoạn văn mở đầu rất chân thực mà xuất sắc, đã hơn hẳn rất nhiều những thứ nói về Khổng Tử của đám nhà nho mới như Tưởng Khánh… vậy nên có một số học giả nổi tiếng đánh giá rất cao cuốn sách này.

Nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Tư trong bài viết “Tính khả thi của nhân nghĩa – bình luận về cuốn “Chó nhà có tang – tôi đọc Luận ngữ” của Lý Linh” có viết: “Tôi cho rằng Lý Linh đã làm một nghiên cứu tốt, không kể sau này chúng ta xây dựng nền văn hóa như thế nào, đều phải dựa trên những phiên bản thật đáng tin cậy. Với phiên bản Lý Linh thì tôi cho rằng nó còn lợi hại hơn cả của Chu Hy.”

Giáo sư Tiền Lý Quần ở khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh trong bài viết “Phải làm gì với truyền thống từ Khổng Tử cho tới Lỗ Tấn – đọc “Chó nhà có tang – tôi đọc Luận ngữ” của Lý Linh” có nói: “Dưới góc nhìn của tôi, Lý Linh với tâm thế nghiên cứu từ trái tim tới trái tim và sự đồng cảm sâu sắc chính là đặc điểm lớn nhất của ông khi nói về “Luận ngữ”, cũng là một cống hiến của ông. Kết quả của quá trình này chính là tìm ra một Khổng Tử “là chó nhà có tang”… khi tôi đọc từ này, cảm giác có một chút châm biếm trong đó, nhưng càng có một cảm giác suy tư, một sự bi thương bao hàm ở bên trong.”

Trong một cuộc phỏng vấn ông Lưu Mộng Khê, giám đốc trung tâm nghiên cứu văn hóa Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu nghệ thuật Trung Quốc đã tán dương Lý Linh đã có nghiên cứu công phu với lập luận vững chắc về Luận ngữ, đã trừ bỏ đi những thần thoại hóa cũng như tinh thần phê phán.

Giáo sư Tần Huy của Đại học Thanh Hoa trong bài viết “Luận ngữ – con đường trở thành kinh điển” đăng trên báo “Phương Nam cuối tuần” số ngày 12/07/2007 có đoạn viết: “Ngày nay có một bộ phận muốn đem “Luận ngữ” trở thành “Nho gia thánh kinh”, cũng giống như việc mấy mươi năm trước đem cuốn “Bản ghi chép những lời nói của Mao Chủ tịch (tức Mao tuyển) mỏng dính trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa Mác. Ngày nay cuốn “Luận ngữ” cũng đang là món hàng bán chạy của Nho gia, so với việc tung hứng “Mao tuyển” thì kết quả thế nào? Là quảng bá hay là dẫm lên chủ nghĩa Mác?”

Với một Trung Hoa vốn có truyền thống sùng bái thánh nhân từ lâu, tự cổ chí kim trong mắt các nhà nho vệ đạo thì Khổng Tử là một thánh nhân không cần phải có chút hoài nghi bàn cãi nào cả, là người thầy đời đời của các đế vương, là đấng chí tôn với danh hiệu “Tố Vương”, là người mà mọi đế vương đều phải bái lạy với cái tên “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương”. Với Khang Hữu Vi (1858-1927, lãnh tụ phái duy tân ở Trung Quốc cuối thế kỷ 19) và giáo hội Khổng Giáo của ông ta thì Khổng Tử được tôn là giáo chủ vừa được tôn là thần thánh đầy quyền uy, ngày nay được tầng lớp nhà nho mới tôn làm biểu tượng văn hóa mới của Trung Hoa. Mỗi lời nói của Khổng Tử đều là những lời vàng trị nước cứu dân huyền diệu thâm thúy, cũng là đường lối tu thân dưỡng tính với mọi người. Lối bốc thơm phét lác nhất, ở thời cổ đại thì có câu “nửa bộ Luận ngữ cũng có thể trị được cả thiên hạ”. Ngày nay lại có thuyết “đạo lý của đức thánh Khổng trước quản cả 5000 năm, sau này cũng quản thêm 5000 năm nữa”. Lại có thuyết “không đọc sách Khổng Tử, không làm người nổi”. Đám học giả Nho Giáo đương thời còn không tiếc công sức bày ra tin vịt : vào năm 1988 có 75 người từng đoạt giải Nobel trên khắp thế giới tề tựu tại Pais, cùng bầu chọn Khổng Tử là nhà tư tưởng số một thế giới. Vãi quá!!!

Đối diện với những kẻ sùng bái thần thánh đã tẩu hỏa nhập ma như thế này, tôi chỉ muốn hỏi các nhà nho đương đại một câu phàm tục: “Trong mắt các vị thì Khổng Tử là thánh nhân, vậy lúc ngài đánh rắm thì có nhẹ nhàng êm đềm, mùi vị thơm ngát không? Những kẻ sùng bái thánh nhân đã mê muội tới mức không còn phân biệt nổi sự khác biệt giữa những câu nói hàng ngày và những lời đại nhân đại nghĩa nữa. Họ mang những câu nói thường ngày trong Luận ngữ trở thành những lời dạy tinh diệu của thánh nhân. Ví dụ trong Luận ngữ phần mở đầu: “子曰: 学而时习之,不亦悅乎?有朋自远方来,不亦乐乎?” “Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” “Khổng tử nói: Học thì phải luyện tập, chẳng vui lắm sao? Có bạn hữu nơi xa đến thăm, chẳng mừng lắm sao?” Đây là những câu trong đời sống hàng ngày, có gì gọi là lời lẽ huyền diệu thâm ảo trong đó? Để mà lãng phí cả hơn 2000 năm với bao nhiêu trí tuệ để tìm hiểu, giải thích. Cho đến tận bây giờ còn đi giải thích sao? Giống như Chu Tác Nhân trong “Luận ngữ tiểu kí” đã nói: “Những cái Luận ngữ nói đa phần là đạo lý để con người tập làm người, hòa nhập vào xã hội… có thể giúp cho người đi sau có được những kinh nghiệm, nhưng không bao giờ được xem đó là những đạo lý kinh thiên nghĩa địa không bao giờ thay đổi giáo điều cả, càng không được xem đó là tinh hoa triết học chính trị có thể trị quốc bình thiên hạ được cả”. G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức (được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức) cũng chỉ xem Luận ngữ như một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức mà thôi.

clip_image006

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Nếu như nói rằng vận mệnh của Khổng Tử trong thời Xuân Thu, giống như một con chó nhà có tang không đạt được tí quyền lực nào phải ngủ vùi thì chính Hán Vũ Đế với quyết định độc tôn Nho gia đã biến Khổng Lão Nhị thành Khổng Phu Tử, biến một bộ xương khô của chó nhà có tang thành con chó giữ cửa bảo vệ hoàng quyền cho chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Do Nho Giáo có lợi cho sự thống trị của giới cầm quyền, do nên địa vị của con chó giữ cửa cũng được tính là vững chắc, ngồi một mạch hơn 2000 năm. Được giới đọc sách tôn làm thần tượng, tung hô lên tận mây xanh, thậm chí làm bức tượng dát vàng trong tổ miếu hoàng gia. Đó cũng là lúc mà những trí thức và tư tưởng gia Trung Quốc khác rơi xuống địa ngục, biến thành nô tỳ của quyền lực. Giống như sử gia Tư Mã Thiên sau khi bị Hán Vũ Đế hoạn đã bi thống thốt lên: “Cha ta không lập công lao gì cũng được hoàng thượng ban cho phẫu phù và đan thư miễn tội. Chức quan quản lí sử sách và xem thiên văn, lịch pháp, cũng giống bọn thầy cúng tế trong cung, vốn là để hoàng thượng vui đùa, giống như bọn nhạc sư trong cung vậy, là nghề nghiệp mà ngay cả người thế tục cũng còn coi thường”.

Cho tới tận khi các cường quốc phương Tây mở ra cánh cửa Trung Quốc ra, thì những chế độ và hình thái ý thức truyền thống nhanh chóng bị vứt bỏ và suy vong. Các mạng Tân Hợi 1911 đã kết thúc thời đại phong kiến chuyên chế tập quyền, Nho gia cũng mất đi chỗ dựa chính trị. Từ đây chó giữ cửa lại quay lại làm chó nhà có tang. Cho dù cũng có một Viên Thế Khải cũng định mộng tưởng xưng đế với vở kịch tôn Khổng Giáo làm đầu, nhưng cũng chỉ là vở kịch ồn ào sớm chốc tan thành mây khói, bởi vì sự sụp đổ của chế độ phong kiến truyền thống và hình thái ý thức cũ là không thể tránh khỏi.

Theo tôi thì khi mất đi chỗ dựa quyền lực là một bất hạnh cho tầng lớp Nho gia truyền thống, từ con chó giữ cửa cho hoàng quyền lại quay về làm con chó lang thang. Tuy nhiên đối với quá trình chuyển hóa từ người đọc sách để trở thành tầng lớp trí thức mà nói thì đó lại là một vận may lớn cho giới trí thức Trung Quốc. Bởi vì khi không còn được nâng đỡ bởi quyền lực chuyên chế, cho dù là bị ép buộc hay tự nguyện thì họ càng có cơ hội nuôi dưỡng hình thành tinh thần phê phán độc lập. Điều đáng tiếc là số phận làm con chó lang thang của giới trí thức Trung Quốc chỉ kéo dài có nửa thế kỷ mà thôi. Với sự nắm quyền của chính quyền chuyên chế cộng sản ở Trung Hoa Đại Lục, giới trí thức đến làm chó lang thang còn không được. Đại bộ phận bị đàn áp, truy đuổi, đánh đập thành những con chó rơi xuống mương, một số may mắn hơn thì trở thành con chó giữ cửa trong chính quyền Mao Trạch Đông. Ví như Quách Mạt Nhược, ông ta thời Dân Quốc còn dám chửi cả Tưởng Giới Thạch, thế mà từ sau 1949 thì lại thành con chi chi trong tay Mao.

clip_image008

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Khổng Tử trong lịch sử cận đại, hiện đại của Trung Quốc có một số phận hết sức quỷ dị bất thường, trước sau có hai phong trào “đánh đổ miếu nhà họ Khổng”. Lần đầu là phong trào Ngũ Tứ vào năm 1919, lần sau là phong trào phê Lâm phê Khổng vào năm 1974. Sau sự kiện 4/6/1989 thì giới trí thức Trung Quốc diễn ra phong trào tránh tiếp thu cái mới, họ xem hai phong trào Ngũ Tứ và phê Lâm phê Khổng đều là phản truyền thống và chối bỏ chúng, tuy nhiên thực tế thì hai phong trào này hoàn toàn khác nhau.

Đầu tiên, hai phong trào này có người phát động phong trào hoàn toàn khác nhau. Cuộc vận động Ngũ Tứ là được tiến hành từ dưới lên với sự vận động tự phát của văn hóa xã hội, nhất là đa phần người khởi xướng là tầng lớp trí thức mới hình thành, bọn họ tiếp thu những giá trị quan mới, tư duy mới, cách làm mới từ phương Tây, họ dùng những giá trị của Phương Tây để bàn thảo ngược trở lại những nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc tụt hậu xa như thế. Bọn họ bất mãn với phái Dương Vụ cho rằng chỉ có sự tụt hậu về kĩ thuật cũng như phái Duy Tân với quan điểm chênh lệch về thể chế tụt hậu, họ cho rằng sự tụt hậu này do văn hóa gây ra. Ngược lại thì phong trào phê Lâm phê Khổng đượct tiến hành từ trên xuống nhằm khống chế các phong trào chính trị trong chế độ độc tài chuyên quyền. Nhất là người phát động ra nó là Mao không những dùng nó để nắm chắc tuyệt đối quyền lực, mà còn dùng tư tưởng Mao Trạch Đông đưa lên vị trí độc tôn thay thế tất cả những luồng tư tưởng khác, cho dù chúng đến từ bên ngoài hay từ chính nội tại Trung Quốc trước đây.

Thứ hai, trong hai cuộc vận động này thì tính chất phản Khổng cũng không giống nhau. Phong trào Ngũ Tứ với tầng lớp trí thức mới hình thành muốn đánh đổ miếu nhà họ Khổng, phát động một cuộc cách mạng văn hóa, đối tượng không phải là Khổng Tử thời Tiên Tần với âm thanh của trăm nhà đua tiếng, mà là Khổng Thánh Nhân đã độc tôn Nho học kể từ thời Hán Vũ Đế, muốn đánh đổ học thuyết độc quyền của con chó canh cửa cho hoàng quyền. Trong khi đó Mao Trạch Đông phát động phong trào “phê Lâm phê Khổng” lại không hề có tí gì gọi là động cơ cải cách văn hóa gì cả, mà hoàn toàn là một cuộc chiến tranh giành quyền lực chính trị. Ông ta đem việc đánh đổ Khổng Tử làm công cụ tranh giành chính trị trong nội bộ đảng. Ngoài việc triệt hạ triệt để Lâm Bưu, còn để cảnh cáo “nhà nho lớn trong nội bộ đảng” là Chu Ân Lai.

Nói một cách khác, hai cuộc vận động này về bản chất có sự khác biệt nhau rõ rệt: giai cấp trí thức mới trong tay không có tí quyền lực nào và lại quyền uy tuyệt đối trong tay như thời Tần Thủy Hoàng; cuộc vận động cách mạng tự phát và bàn tay khống chế phong trào cách mạng; cách mạng để tìm một lối thoát cho văn hóa Trung Hoa và một phong trào cách mạng để củng cố quyền lực tuyệt đối.

Cho nên đến nay, tôi vẫn tán thành chủ trương từ thời phong trào vận động Ngũ Tứ “đánh đổ miếu nhà họ Khổng” nhưng tôi cũng kiên quyết phản đối phong trào chính trị đánh đổ Khổng Tử trong thời kỳ Văn Cách.

Trong bài văn “Khổng Phu Tử ở Trung Quốc hiện đại” Lỗ Tấn có gọi Khổng Tử là Modern Khổng Tử, cũng là phê phán thói sùng bái thánh nhân trong chế độ phong kiến tập quyền truyền thống Trung Quốc. Ông viết: “Khổng Phu Tử ở Trung Quốc là kẻ được quyền thế nâng đỡ dậy, là thánh nhân của đám người cầm quyền hay đám đang muốn lên nắm quyền, giữa họ và dân chúng bình thường không có một chút quan hệ nào.” Với tôi mà nói, truyền thống tôn sùng thánh nhân ở Trung Quốc có thế nói là công trình văn hóa giả mạo lớn nhất từ trước tới nay, được các hoàng đế từ bao đời nay cùng đám văn nhân dưới trướng nhất tề dựng lên. Lại được đám đế vương cùng các nhà nho phong thánh cho Khổng Tử, một Khổng Tử đã sớm không còn là Khổng Tử thật, thậm chí còn được xem là món hàng giả mạo kém chất lượng nhất từ trước tới nay.

clip_image009

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Kỳ thật, nếu chậm rãi đọc kỹ các tác phẩm của những triết gia thời Tiên Tần thì có thể thấy, học thuyết của thánh nhân Khổng Tử cũng chỉ là những lời rao giảng đạo đức bình thường nhất. So với Trang Tử thì Khổng Tử không có được cái tính nhẹ nhàng siêu thoát, phiêu diêu cũng như trí tưởng tượng kỳ vĩ đẹp đẽ, ngôn ngữ cũng không trôi chảy thanh thoát, một trí tuệ triết học và văn học chưa thoát tục. Càng không thể có chuyện nhắc nhở ý thức thanh tỉnh để thoát khỏi bi kịch của nhân loại. So với Mạnh Tử thì Khổng Tử thiếu mất cái khí độ của trang nam tử, khoáng đạt mà hoành tráng, lại càng thiếu thái độ tự tôn trước quyền lực, thiếu mất sự quan tâm, coi trọng dân chúng “Lấy dân làm đầu, xã tắc làm thứ, quân vương xếp cuối cùng”. So sánh với Hàn Phi Tử, Khổng Từ là kẻ hư ngụy, xảo trá, không có được cái tính thẳng thắn, tài hoa châm biếm sắc bén như vậy. So với Mặc Tử thì Khổng Tử không có một hệ thống tư tưởng đạo đức nào hướng tới sự bình đẳng của người dân và đám sỹ tốt, không có một lối logic cụ thể nào. Tất cả những gì Khổng Tử nói đều thể hiện sự thiếu sót một trí tuệ lớn mà chỉ có những lối tư duy khôn vặt, lại toàn hướng tới danh lợi công trạng, hết sức gian xảo, lại thiếu mất tính thẩm mỹ và sâu sắc của triết học, cũng không có cái nhân cách cao quý và bụng dạ khoáng đạt. Ông ta đi khắp thiên hạ để mong tìm được chức quan, sau khi thất bại không được gì bèn trở thành giáo chủ đi rao giảng đạo đức, cái đạo người thầy tốt, dạy người không mệ mỏi của ông ta là xuất phán từ nhân cách con người cuồng vọng và thiển cận. Cái đạo “thịnh thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn – thời thịnh trị thì dấn thân với đời, thời loạn lạc thì lùi về quy ẩn” chính là điển hình của chủ nghĩa cơ hội, thể hiện sự vô trách nhiệm.

Càng đáng buồn hơn là Khổng Tử với tinh thần hết sức giảo hoạt, vô trách nhiệm và hết sức hám danh lợi này lại trở thành nền tảng, hình mẫu cho cả dân tộc Trung Hoa trong mấy nghìn năm qua. Dân tộc nào thì sẽ có thánh nhân đó, thánh nhân như thế nào thì sẽ nhào nặn ra dân tộc đó, đây chính là căn nguyên nô tính của người Trung Quốc bắt đầu từ đây, di sản văn hóa này từ khi sinh ra đã truyền lại cho đám con cháu tới tận ngày nay.

Ý nghĩa của Lý Linh khi bàn về Luận ngữ, một là nhắm đến những phần tử dân tộc chủ nghĩa cực đoan đang trỗi dậy. Cuốn sách này tuy là một tác phẩm nghiêm cứu học thuật nhằm trả lại chân diện cho Khổng Tử, bóc tách những điều giả dối hư ảo mà đời đời các nhà nho đã thần thánh hóa, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của ông tới hiện thực xã hội thông qua những nghi vấn trực tiếp về cơn sốt học tập kinh sách cổ, sùng bái Khổng Tử, gián tiếp nghi ngờ cái gọi là “sự trỗi dậy của nước lớn”. Khổng Tử trong con mắt Lý Linh chỉ là “một con chó nhà có tang không tim được ngôi nhà tinh thần trong thế giới thực” mà thôi, ông phê phán lũ nhà nho rởm đời đem Khổng Tử biến thành cứu tinh của nhân loại. Giống như lời tự bạch của tác giả: “Giương cao ngọn cờ Khổng Tử đem ra khắp thế giới ư, tôi không quan tâm” “Khổng Tử không thể cứu rỗi được Trung Quốc, cũng không thể cứu cả thế giới”.

Thứ hai là phê phán truyền thống bợ đỡ quyền lực của giới trí thức Trung Quốc, hiện tại đám nhà nho mới đang câu kết với chính quyền, bọn họ muốn độc tôn Khổng học, hô hào Nho Giáo, lại không chú trọng tới ảnh hưởng của Nho Giáo trong việc xây dựng lại hệ thống đạo đức vốn đã tan rã từ lâu, mà chỉ chăm chăm vào bốn công năng chính trị của Nho Giáo là “tu tề trị bình (tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ), để thực hiện vương đạo là hợp nhất tôn giáo và chính trị; bọn họ muốn đẩy cho Khổng Tử cái địa vị “Đế vương sư” hay “Quốc sư”, hô hào đem Nho giáo trở thành Quốc giáo, họ hi vọng chính phủ có những chính sách đặc biệt để hỗ trợ nền quốc học, thực tế thì đám nhà nho này đang muốn làm quân sư của chính quyền đương đại, muốn được như Platon với quyền lực nằm trong tay nhà hiền triết vĩ đại. Thế là đám nhà Nho này nhào nặn lại Khổng Tử giống như thời Hán Vũ Đế, muốn một lần nữa thực hiện mô hình “Vứt bỏ tư tưởng trăm nhà, độc tôn Nho gia”, hết sức hà hơi tiếp sức cho hình thái ý thức hóa kiểu Khổng Tử, muốn đưa một người bình thường biến thành thần thánh kiểu truyền thống.

Lý Linh cho rằng, trong lịch sử Trung Quốc thì đám thành phần trí thức với nhiều tư tưởng kiểu Utopia chỉ thực sự hữu dụng khi trở thành một bộ phận độc lập với quyền lực và trở thành lực lượng đối lập với chức năng phê phán. Một khi những phần tử này nắm quyền lực trong tay thì lại trở thành mối nguy hiểm của quốc gia, thậm chí là thảm họa. Lý Linh viết: “Tầng lớp trí thức với đầu óc nhanh nhạy, tầm mắt sáng, họ chuyên chế hơn bất cứ ai. Nếu như trong tay họ có thanh kiếm thì những người mất mạng đầu tiên chính là những trí thức khác.” Nguyên nhân vì giới trí thức Trung Quốc đều rất cuồng vọng, tự cho bản thân là “có trí tuệ nhất, có đạo đức nhất, có lí tưởng nhất”. Tự cho phép bản thân “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” . “Có thể cứu cả thiên hạ thoát khỏi cái họa binh đao thiên tai, xây dựng thiên đường nơi hạ giới. “Nho gia đời Tống là Trương Tải có bốn câu nói: “Vì trời đất xây dựng tấm lòng, vì dân chúng lập mệnh, vì đức thánh nhân tiếp tục học tập, vì nghìn vạn thế hệ sau tạo dựng thái bình.” Đến tận ngày nay vẫn còn rất nhiều phần tử trí thức Trung Quốc khắc cốt ghi tâm điều này, cho thấy truyền thống cuồng vọng của tầng lớp sỹ phu Trung Quốc còn thâm căn cố đế.

Từ những cơ sở này, Lý Linh muốn cảnh cáo tới tầng lớp trí thức Trung Quốc đương đại hãy rút ra bài học từ những giáo huấn lịch sử trên, cần phải biết giữ khoảng cách với nhà cầm quyền, từ bỏ dã tâm “Đế vương sư”, chấm dứt việc chính trị hóa mớ kinh sách cổ điển, cần phải duy trì tính độc lập của kiến thức, tư tưởng và học thuật, kích thích tính sáng tạo của giới trí thức. Như trong lời mở đầu, Lý Linh có nói: “Đọc Luận ngữ thì tâm tình phải ôn hòa, một khi đã chính trị hóa, đạo đức hóa, tôn giáo hóa thì không còn là nó nguyên bản. Chúng ta cần tìm là một Khổng Tử thật, nhất là trong một thế giới mà lễ giáo băng hoại”. Nếu không thì giới trí thức Trung Quốc ngày nay sẽ giống như tầng lớp trí thức ngày xưa, không thể thoát khỏi vận mệnh cam tâm làm con chó săn cho kẻ khác. Sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ khi không còn được sự sủng ái thì lại giống như con chó nhà có tang, khi được coi trọng thì lại giống con chó giữ cửa trúng xổ số vậy.

Tôi cho rằng bi kịch lớn nhất mà nền văn hóa Trung Quốc gặp phải không phải là việc Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn sống các nhà nho, mà là việc Hán Vũ Đế thi hành “cấm cửa trăm nhà đua tiếng, độc tôn Nho giáo”, sau khi được Đổng Trọng Thư sửa đổi học thuyết Nho gia, đã đưa một hệ thống được xây dựng dựa trên bạo lực của chế độ phong kiến chuyên chế miêu tả thành thiên đạo, “Thiên bất biến đạo diệc bất biến – Trời không đổi thì đạo lý cũng không thay đổi” đã trở thành lý luận căn bản nhằm hợp pháp hóa thể chế phong kiến tập quyền chuyên chế, cung cấp cho chế độ hoàng quyền ở nhân gian một vũ trụ luận tồn tại vĩnh hằng, khoác một tấm áo nhân nghĩa mềm mại lên tấm thân trần truồng của thể chế chuyên chế. Tất nhiên đám đế vương đã nhận ra tác dụng mị dân lừa bịp của tấm áo khoác ngoài này, dần dần xác lập nên hình thái ý thức độc nhất của giới quan chức, trở thành “con đường truyền thống” của đám học trò với mong ước an thân lập mệnh, cũng chính là truyền thống làm thế nào để biến thành “hảo nô tài” . Chính như Mao Trạch Đông đã có câu nói định vị giới trí thức: “Khi da không còn, long báo vào đâu? – Khi giới cầm quyền không còn, lũ trí thức dựa vào cái gì đây ? “

Đối với giới trí thức Trung Quốc đương đại, việc quan trọng đầu tiên cần làm không phải là bảo vệ một nền văn hóa sùng bái thánh nhân truyền thống dưới sự nâng đỡ của thể chế độc tài cầm quyền, mà là thoát khỏi vị trí phục dịch cho quyền lực, kế thừa truyền thống mới từ phong trào Ngũ Tứ: “Tự do về tư tưởng, độc lập về nhân cách”.

Nguồn: FB Hu Zi (1)Hu Zi (2)

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tác giả: Phùng văn Phụng

Nhân đi tham dự Thánh lễ tạ ơn của anh Dương và chị Trâm mừng 25 năm thành hôn, tôi có cảm nghiệm rằng vợ chồng sống với nhau được 25 năm, 30 năm hay 50 năm hay hơn nữa không phải dễ nhất là thời đại ngày nay thường nghĩ đến cá nhân nhiều hơn, một chút bực mình, dễ gây tự ái, rồi không nhường nhịn nhau được, đành chia tay, chưa kể một trong hai người vợ hay chồng ra đi sớm vì bịnh hoạn, tai nạn v.v. . .

Chia sẻ trong Thánh lễ tạ ơn này đa số người đến tham dự đều công nhận vì “cái tôi” của mình,  tự ái quá lớn của mình, làm cho gia đình xào xáo, bất an, tích lũy lâu dần đưa đến tình trạng ly thân, ly dị.

Tôi đã có nghe Đức Cha Khảm nói chuyện, có hai vợ chồng đến thăm Cha than thở rằng “Con nói thật với Cha con giàu lắm chủ 4, 5 tiệm ăn. Không hiểu sao mỗi lần ngồi ăn cơm là vợ chồng con cứ cải nhau.”

Cha hỏi: Con cải nhau vì vấn đề gì?

Dạ, con cải nhau vì vấn đề tiền.”

Linh mục Nguyễn tầm Thường cũng có kể chuyện:

Hai  vợ chồng ở Việt Nam nhà nghèo, đi vùng kinh tế mới, có hai con còn nhỏ. Chỉ độc nhất có một chiếc xe đạp, đi đâu cũng đèo nhau, còn chở thêm hai con mà sao họ sống thật hạnh phúc.

Nhưng khi vượt biên đi được qua Mỹ, nhờ hai vợ chồng đều học giỏi, trình độ Đại học ở Việt nam, nên khi đi qua đây hai vợ chồng hội nhập vào xã hôi Mỹ rất nhanh và làm ăn trở nên giàu có. Mỗi người có xe BMW, Mercedes riêng đều là giám đốc, nhưng hai vợ chồng không chịu được nhau vì người nào cũng quá giỏi. Sau đó, họ đành phải thôi nhau. Tại sao?

Có vài người không chịu nổi bà vợ thứ nhất vì hay cằn nhằn thích chỉ huy mọi chuyện. Ông chồng lái xe nhưng bà vợ ngồi bên cạnh lại điều khiển, chỉ huy ông chồng. Không chịu nổi hoàn cảnh ” bị chỉ huy” mọi chuyện lớn nhỏ như vậy, anh bỏ vợ này và kiếm người vợ khác. Nhưng rồi mặc dầu người vợ sau này rất phục tùng chồng, nhưng anh vẫn không hài lòng. Rồi lại thay đổi tìm người mới và anh nêu lý do là “không hợp nhau”.

Mới đây, gặp lại người khách hàng cũ, hai vợ chồng qua đây theo diện HO, mặc dầu trên dưới 70 tuổi rồi, nhưng người vợ cho biết: “ Tôi đã ly thân rồi, sống với con trai chứ không còn sống với ông chồng tôi nữa”. Tôi thắc mắc tại sao vậy? Nếu không qua Mỹ sống ở Việt Nam, dầu nghèo nhưng có bà con thân nhân, gần gũi chia sẻ ngọt bùi, thì tình trạng ly thân, ly dị có bớt chăng? Lúc nghèo khổ cùng nhau chia sẻ, sao khi khá giả dư ăn, dư mặc lai chia tay?

Trong khi tuổi già vợ chồng lại rất cần nhau để săn sóc, lo lắng cho nhau nhất là khi đau ốm. Lời thề lúc thành hôn: “Giữ lòng chung thủy với anh(em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu để yêu thương và tôn trọng anh (em) mọi ngày suốt đời anh(em).” hai vợ chồng đã quên hết rồi chăng? Tại sao vậy?

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập “Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình” có khuyến khích, nên thường xuyên đọc kinh Hôn Nhân Gia Đình, trong đó có câu:

Gia đình chúng con sóng gió ba đào. Xin ban ơn CAN ĐẢM và KIÊN TRÌ của Chúa Thánh Linh.

Gia đình chúng con trẻ già xung khắc, xin ban ơn QUẢNG ĐẠI và THỨ THA để chúng con AN VUI CHẤP NHẬN LẪN NHAU”

Nếu đọc kinh này thường xuyên mỗi tối, nhờ ơn Chúa, chắc chắn gia đình sẽ được bền vững hơn.

Tôi cứ hay suy nghĩ lan man, phải chăng con người đến tuổi già thường có hai khuynh hướng?:

*  Hướng thượng : làm việc thiện, đi nhà thờ, giúp cho tha nhân mưu cầu hạnh phúc cho người khác để lo phần hồn sau này khi mình ra đi, vì trên 60 hay trên 70 tổi thì đâu biết ngày giờ nào mình ra đi. Nếu tin có đời sau thường ráng tu thân, tích đức nhiều hơn, cầu nguyện Chúa nhiều hơn , cố gắng làm nhiều việc thiện hơn nữa.

*  Hướng hạ: Biết mình sắp ra đi, quỹ thời gian còn ngắn quá, con người dễ sống vội, sống gấp rút. Ăn chơi cho thỏa mãn, vì sợ già rồi làm sao còn ăn chơi được nữa. Nhiều người thích ăn uống, nhậu nhẹt nhiều hơn vì sợ không còn thì giờ ăn nhậu được nữa hay tìm kiếm người yêu mới trước khi đi về lòng đất.

Thánh Phao lô viết: ” Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.” 1Cor 13 (4-7)

Làm sao đem thực hành, áp dụng  những điều thánh Phao lô hướng dẫn tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả vì tương lai con cháu bỏ “cái tôi” của mình đi có lẽ mọi sự đều giải quyết ổn thỏa được chăng?

Tin tức mới nhất từ báo Người-việt,  ở Edmonton (Canada) hôm thứ hai (29-12) sáng thứ ba (30-12-2014) vừa qua, tổng cộng 9 người Việt thiệt mạng bao gồm hung thủ.  Cảnh Sát Trưởng Knecht nói : “có vẻ đây là sự xung đột trong gia đình chứ không liên quan đến băng đảng thanh toán nhau.” Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada , vượt qua nửa vòng trái đất, đến một nước văn minh, cuộc sống trở nên sung túc gấp mấy lần còn ở quê nhà, tại sao lại giết người thân kể cả trẻ con rổi tự tử. Tại sao vậy?

Đọc trong trang Web của Dòng Chúa Cứu Thế ngày 28-12 -2014 có hai bài viết:

Điều gì xác định một gia đình?

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình Trong bài này, Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT viết:

Thể hiện vẻ đẹp gia đình qua đời sống chung thủy để chống lại khuynh hướng coi hôn nhân như hình thức thỏa mãn tình cảm đơn thuần và có thể thay đổi tùy ý; thể hiện vẻ đẹp hôn nhân qua việc đón nhận con cái Chúa ban như là những quà tặng cao quý của sự sống; trân trọng và chăm sóc người già như di sản của đức tin và được thụ hưởng đức tin từ những chứng nhân sống động ấy; đón nhận và thăng hoa đời sống nghèo trong gia đình bằng việc tuân giữ và thi hành thánh ý Chúa. Sống được tất cả điều này chính là chúng ta tôn vinh ngày lễ Thánh Gia hôm nay.”

Đời sống tâm linh rất là quan trọng.

Giữ được bình an, vui tươi trong gia đình là ưu tiên, là mong muốn của mọi người, mọi gia đình để sống được hạnh phúc.

Nguyễn Hiến Lê nhà văn nổi tiếng trước năm 1975 đã viết trong hồi ký của ông như sau: “Đề cao  nếp sống giản dị, đừng để hình hài làm hại cái tâm, đời sống vât chất thì nên dưới mức trung bình, đời sống tinh thần thì trên mức ấy”. Đời sống tinh thần là gì? Đó chính là đời sống nghiêng về chữ tâm, nghĩ đến phần linh hồn, đời sống tâm linh, ưu tiên cho linh hồn hướng thượng của mình. Có nghĩa là linh hồn mình luôn luôn dành cho Chúa và vì Chúa, mà kính Chúa thì phải yêu người, giúp đỡ cho tha nhân, nhờ thế đời sống chúng ta sẽ thấy vui hơn, hạnh phúc, bình an hơn vì luôn luôn có Chúa ở cùng, mà sau này, khi chết còn được hưởng hạnh phúc đời đời nữa.

Có phải chũ Tâm là quan trọng, là hàng đầu để chúng ta sống, đối xử với nhau từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội nên Nguyễn Du mới viết:

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài ?

12 giờ Đêm Giao thừa

cuối năm, 31-12-2014

đầu năm 01-01-2015

Tác giả: Phùng văn Phụng