Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Có lẽ, một trong những đề tài được bàn tán sôi nổi những ngày gần đây trên các diễn đàn mạng xã hội gây chú ý là sức khỏe và tính mạng ông Nguyễn Bá Thanh – một quan chức cao cấp của Cộng sản Việt Nam đang tại vị ở một vị trí quyền lực.

Cũng có lẽ phải coi Nguyễn Bá Thanh như một hiện tượng trong thời kỳ sản mạt ngày nay. Ít khi có một nhân vật được nhiều người ưa nhưng cũng bị lắm kẻ ghét như Nguyễn Bá Thanh.

Khi lên voi và sự say máu quyền lực

Trong nhiều vị trí của mình, từ anh Chủ nhiệm HTX đến Chủ tịch, Bí thư Tỉnh ủy Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh đã ghi nhiều dấu ấn lên đất Đà Nẵng cho đến ngày ra Hà Nội nhận công việc ở Trung ương. Nếu ai có điều kiện đi qua các thành phố, các tỉnh của Việt Nam rồi ghé qua Đà Nẵng, hẳn phải thừa nhận điều này: Đà Nẵng là một trong những thành phố đẹp về quy hoạch và phát triển, nhiều mặt của đô thị được cải thiện hơn hẳn Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác.

Sự khác biệt của Đà Nẵng hẳn nhiên là do nhiều yếu tố, tuy nhiên người ta không thể không nhớ đến vai trò của một nhân vật gắn liền với Đà Nẵng một thời gian dài: Nguyễn Bá Thanh. Thậm chí, ở đó ông làm mưa, làm gió một thời và đã để lại những câu ca, đặc trưng: “Cắt nửa Hải Châu, cắt nửa Hành Sơn ta làm đô thị nhỏ. Chặt đôi Thanh Khê, bẻ đôi Thanh Khê ta làm khu đô thị mới, đưa em về, đưa em về Cẩm Lệ chiều nay… Để cùng cướp đất phân lô bán nền…” . Vì khi đó “Trời của Thanh, đất của Thanh, con chim trên cành là của Bá Thanh…”.

Chỉ nghe những câu ca dân gian nói trên, người ta cũng đã đủ thấy vai trò và dấu ấn Nguyễn Bá Thanh in đậm ra sao trên đất Đà Nẵng này. Trong thời gian ông ở Đà Nẵng, nhiều thay đổi tại Thành phố Đà Nẵng để lại dấu ấn trong lòng du khách qua đây.

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Những lời đồn đoán, những hình ảnh, hoạt động của Nguyễn Bá Thanh, có đặc tính chung của quan chức cộng sản: “Lám láo, báo cáo hay”, hoặc “nổ tung trời”… Người ta còn nhớ, trong một hội nghị, ông ta lên án mạnh mẽ việc “con ông cháu cha” trong bộ máy nhà nước ở một Công ty về đô thị ở Đà Nẵng, thì không lâu sau đó, em trai, con trai ông ta được đặt vào những vị trí chỉ dành cho “con ông cháu cha”. Người ta cũng nhớ, ông càng kêu gào to lớn bao nhiêu về chống tham nhũng, về sự trong sạch, dưỡng liêm, về tinh thần đảng viên cộng sản, thì những vụ án như Cầu Sông Hàn, ông ta bị tố ăn hối lộ hàng tỷ đồng. Rồi sau đó xảy ra vụ án Tướng Công an Trần Văn Thanh bị điều chuyển công tác khỏi Đà Nẵng và cuối cùng là nằm trên cáng với đầy đủ dây truyền dịch để ra Tòa trong một vụ án nổi tiếng dư luận – ông này là người ký quyết định bắt chủ thầu xây dựng, người bị tố đã hối lộ Nguyễn Bá Thanh qua vụ xây cầu.

Đó chỉ là một tảng băng nổi đáng chú ý trong hàng loạt các hoạt động của Nguyễn Bá Thanh thời kỳ “trị vì Đà Nẵng”.

Người ta cũng nhớ, ông ta đưa ra nhiều câu nói “để đời” mà ít người dám mạnh miệng như: “Không ít cán bộ có cái thói vừa ăn vừa phá, phá tàn canh nền kinh tế”. Hoặc ông tuyên bố: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”.

Dù vậy, thì ông vẫn có những nét khác biệt của riêng mình khó trộn lẫn vào đám quan chức Cộng sản. Đó là dám lăn lộn, dám đối mặt, và đối mặt với ngay cả sự bất nhân không thèm che đậy.

Người ta có thể nghe trên mạng những cuộc nói chuyện điện thoại của ông với những người bình thường gọi đến phỏng hỏi han, chất vấn. Người ta cũng thấy ông ta sẵn sàng rời bỏ tư cách “chính trị gia” hoặc quan chức cộng sản để ra sân đá bóng với thanh niên. Thậm chí, người ta còn thấy ông đến thăm hoặc đối thoại với chính nạn nhân của ông ta như vụ Cồn Dầu… Và tất cả, vẫn chỉ là sự áp đặt trắng trợn và những lời dối trá.

Cũng là một trong những đặc tính của quan chức cộng sản ở Nguyễn Bá Thanh, đó là bệnh “máu tham, hễ thấy hơi đồng là mê”. Điều này chúng tôi có kinh nghiệm với ông ta và bộ máy dưới quyền ông ta trong vụ Cồn Dầu. Ở đó, giáo dân Cồn Dầu và các làng xung quanh bỗng dưng bị đuổi ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình đã sống hàng trăm năm, để lấy đất cho một nhóm có tiền làm giàu trên chính mảnh đất bao đời của gia đình họ. Chính vì sự bất chấp pháp luật này, mà giáo dân Cồn Dầu đã kiên trì đấu tranh hàng mấy năm trời nhưng không thể có một quy định luật pháp nào khả dĩ để thuyết phục họ. Nhưng Nguyễn Bá Thanh vẫn thể hiện bằng được vai trò của một “ông Trời con” tại đây bất chấp luật pháp và lương tri. Ông dồn đuổi, đàn áp họ bằng những biện pháp bất nhân nhất có thể thấy: Trấn áp, bao vây, đánh đập, giết người, cướp xác, đào mồ mả… có lẽ không thiếu. Người dân Cồn Dầu còn cho chúng tôi biết, ông tuyên bố rằng: “Nếu không lấy được Cồn Dầu, ông ta sẽ nhảy sông Cẩm Lệ tự vẫn” để nói lên quyết tâm cướp đoạt đất Cồn Dầu.

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Hàng mấy ngàn con người ở Cồn Dầu đã tan cửa nát nhà, mất đất đai vườn ruộng, chạy bán sống bán chết khỏi quê hương, đất nước bởi bàn tay Nguyễn Bá Thanh và đồng bọn của ông ta. Hàng ngàn ngôi mộ bị đào bới, di chuyển, hàng loạt giáo dân, người dân bị đánh đập và đánh đập đến chết. Những điều đó, dù đã xảy ra nhiều nơi, nhưng có hệ thống và quy mô lớn lao, thì có lẽ Cồn Dầu là một trong những địa điểm còn được nhắc đến lâu dài.

Và, hình ảnh Nguyễn Bá Thanh đã gây dấu ấn cá nhân mình trong tội ác lớn lao tại đó.

Và, ở đó, khi người ta say máu quyền lực và bạc tiền, họ không nhận ra mình đã và đang gây tội ác ra sao.

Khi xuống chó và những bước suy vi

Có lẽ, Nguyễn Bá Thanh đã đúng khi nói đại ý rằng: Ông ta chỉ có thể bơi được ở Sông Hàn mà không thể bơi được ở Sông Hồng – Một cách bóng gió là chỉ có thể làm “trời con” ở Đà Nẵng mà không thể ngoi ra Trung ương. Thế nhưng, cuộc sống không phải khi nào cũng chiều theo ý người, hoặc nhiều khi sự kiềm chế tham vọng không phải khi nào cũng có thể chiến thắng.

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Trước hiện tượng đảng xuống cấp trầm trọng, mục ruỗng và bất lực, hèn nhược và không còn sinh khí, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư ĐCS muốn giành lại chút quyền lực cuối cùng cho đảng bằng cách dựng lại cái gọi là Ban Nội chính và gom về tay đảng. Để nhằm vừa đá bóng, lẫn thổi còi trong con bài quyền lực, Nguyễn Bá Thanh được điều động ra Trung ương với chức danh Trưởng ban Nội chính.

Ra Hà Nội, chân ướt, chân ráo chưa ngồi ấm chỗ, ông ta nổ ngay “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”. Câu nói này như một lời tuyên chiến mạnh mẽ với cả bộ máy tham nhũng khổng lồ đã ăn sâu thành nếp, đã kết thành bè, thành mảng trong hệ thống Cộng sản Việt Nam, làm nhiều kẻ giật mình.

Và hẳn nhiên, khi đụng chạm lợi ích phe nhóm, quyền lợi sinh tử của mình, thì đảng chẳng là gì và lý tưởng cũng vứt đi. Cũng từ đó, trong nội bộ nhân dân âm ỉ tin tức về những cuộc đấu đá nội bộ.

Có thể nói, việc Nguyễn Bá Thanh bị ngã ngựa ngay sau khi ra Hà Nội làm Trưởng Ban Nội chính Trung ương nhưng bị đánh trượt khỏi ghế Ủy viên Bộ Chính trị được sắp xếp theo ý đảng từ trước, là một dấu ấn khó phai về những cuộc “đấu tranh nội bộ” rất rõ nét của Đảng. Và như vậy, Sông Hồng không đủ chỗ cho Nguyễn Bá Thanh vùng vẫy thi bơi.

Thế rồi, Nguyễn Bá Thanh trở thành cái bóng, âm thầm cho đến ngày sang Mỹ chữa bệnh ung thư với muôn ngàn lời đồn đoán rằng bị suy tủy, bị đầu độc, bị trả thù, bị ám hại… và đi sang Mỹ chữa bệnh vào ngày 16/8/2014.

Và hôm nay, khi “nền y học tư bản giãy chết” bó tay sau gần nửa năm chữa bệnh với chi phí mỗi ngày hàng chục ngàn đola, ông đang chờ ngày trở về để hưởng nền y tế “Hoàn toàn Việt Nam”.

Những điều còn lại sau Nguyễn Bá Thanh

Khi cái chết là điều khó tránh đối với Nguyễn Bá Thanh, khi đó mới lộ ra một điều bao năm ông che đậy: Nguyễn Bá Thanh, một đảng viên Cộng sản theo Chủ nghĩa Mác – Lenin vô thần vô thánh, lại là một “phật tử” có pháp danh hẳn hoi. Thậm chí, một số người đã cầu an cho ông vượt qua cái chết. Như vậy, sức mạnh vật chất đã không thể cứu vớt được ông và giờ đây người ta hi vọng nương nhờ vào thần thánh.

Điều này, đặt ra những câu hỏi khó có ai trả lời nổi ngoài chính ông ta.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Khi hành xử trên đỉnh cao quyền lực của một “ông trời con”, xua tay chân ép dân, đánh đập đến chết người, tra tấn, đàn áp, đào mồ động mả của người dân, ông ta có nghĩ mình cũng có một “pháp danh”?

Khi chung tay với những nhóm lợi ích, cướp đất đai, tài sản, nhà cửa của dân lành, đẩy họ đến chốn thảm cảnh… ông có khi nào nghĩ rằng những đồng tiền có được từ đó, sẽ dành để trả cho những bệnh viện với mỗi ngày hàng chục ngàn đola và khi đã hết hàng triệu đola thì ra về trong thất vọng để chờ đợi trong vô vọng cái chết nặng nề đang đến với mình?

Có lẽ, những điều đó chỉ có ý nghĩa đối với người sống, nhất là những quan chức cộng sản còn lại đang tiếp tục say máu quyền lực và bạo tàn đối với đồng loại, đối với nhân dân.

Và những cái mả

H1

Thông thường, trên đời ai cũng có một con đường từ khi sinh ra với điểm cuối là cái chết. Cuối cùng, thì con đường đi của mỗi người đều đến một đích chung: Cái mả. Một nhân vật của Nam Cao đã nói rằng: “Có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là cụ lớn mả! Lão sống có đến hơn năm mươi năm rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sốt! Chỉ có cái mả, cái mả đất…?

Khi những ngôi mộ ở Cồn Dầu bị đập phá, bị cướp xác, đằng sau là những tin đồn, những sự cảnh báo. Nhưng chẳng ai thèm nghe.

Từng nghe, một viên tướng CS sau khi chết đã được đưa về quê, khu mộ được xây và sau khi đặt xác, phía trên đổ bằng xe bê tông tươi thành một khối bê tông khổng lồ cho chắc chắn, xung quanh xây hàng rào có người canh.

Chợt nhớ, trước khi chết, Tào Tháo buộc phải xây 72 cái mả giống nhau ở ngoại thành, không cho bất cứ ai biết cái nào có xác của ông ta thật. Việc này nhằm chống bị trả thù bằng việc đào bới mồ mả sau khi ông ta chết. Hẳn là ông ta đã biết thân phận mình và thái độ của người đời đối với ông ta ngay khi còn sống.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Chợt nghĩ, ngày mai lại có những ngôi mộ đổ nhiều lớp bê tông, lại có những ngôi mộ có người bảo vệ, lại có những con người chưa chết đã biết mình vẫn tiếp tục là tội nhân ngay cả khi không còn quyền lực, thậm chí đã đi “theo cụ Các mác, cụ Lenin”.

Thì ra: Đó là những cái chết, mà người chết biết trước rằng: “Chết chưa phải là đã hết”.

Những cái mả càng được làm chắc chắn, càng được canh gác cẩn mật, thì điều người đời hiểu rất rõ sau những hàng lính canh, bảo vệ hẳn là người nằm trong đó càng lắm nợ với đời và người chết nằm trong đó vẫn không hề được yên.

Lám sao có thể yên, khi chính họ đã gây cho lòng dân cuộn sóng và người đời phải nguyền rủa.

Chợt nhớ, bộ phim Tam Quốc diễn nghĩa, khi hình ảnh Tào Tháo hiện lên là khi có bài thơ sau đây:

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đâu
Bạc đầu ngọn sóng cuộn anh hùng
Thị phi, thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ, bỗng tay không…

(Tam Quốc diễn nghĩa).

Hà Nội, Ngày 7/1/2015

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.

Nguyễn Sinh Hùng

Tôi nhớ là mình có mua được tập truyện ngắn The Daring Young Man on the Flying Trapeze (Chàng Tuổi Trẻ Gan Dạ Trên Chiếc Đu Bay) của William Saroyan, do Kinh Thi xuất bản – và Huy Tưởng chuyển ngữ – vào Mùa Hè Đỏ Lửa, năm 1972. Mới đọc được vài chục trang thì bất ngờ nhận được lệnh tổng động viên nên tôi phải rời nhà.

Nhiều năm sau – sau thời gian ở quân trường, chiến trường, và vài ba cái trại cải tạo không còn nhớ được hết tên – tôi trở về nhưng không còn tìm thấy cuốn sách của William Saroyan đâu nữa. Sau cái biến động khiến cả chục triệu người buồn (vào tháng 4 năm 1975) thì nhiều bạn bè và thân nhân của tôi còn biến mất luôn, nói chi là sách vở.

Bữa rồi, tình cờ thấy Amazon có bán The Daring Young Man on the Flying Trapeze and Other Stories (với giá rất bèo) tôi đã định mua nhưng trù trừ chút xíu rồi thôi. Tuổi đời, cùng với  những cảnh sống hãi hùng mà mình đã chứng kiến, khiến tôi không còn thấy cái thái độ (tưng tưng) của chàng tuổi trẻ trên chiếc đu bay có gì là “gan dạ” nữa.

Thiếu gì người dân Việt can đảm hơn nhiều và đã cùng nhau đâm xầm ra biển cả bao la, bằng những chiếc thuyền gỗ mong manh. Kẻ ở lại cũng liều lĩnh không kém khi hàng ngày vẫn lò dò trên những cái cầu bấp bênh, và mục nát, đang treo (chênh vênh) khắp nước.

Cầu qua sông Mã, Lai Châu. Ảnh: Tuấn Nam

Cầu qua sông Chò, Khánh Hoà. Ảnh:Nguyễn Thành Chung

Nhưng có cầu, dù là cầu treo lắc lẻo – nói nào ngay – vẫn còn hơn không. Phải đu dây qua sông mới thiệt là rùng rợn.

Ảnh: HÀ BÌNH – TRUNG TÂN

Ảnh: Trùng Dương

Tôi đưa em sang sông không bằng xe hoa, cũng không bằng con thuyền mà bằng sợi dây cáp nhỏ xíu xiu (thế này) nhưng cả hai vẫn còn sống sót mới là chuyện lạ, chớ chúng ta đều bị trọng thương hay tử thương thì là “việc vẫn xẩy ra như cơm bữa” – theo như (nguyên văn) tường thuật của phóng viên Trùng Dương:

Không ít trường hợp người dân khi đang đu dây qua sông thì cáp bị đứt, tuột ròng rọc rơi xuống sông, suối tử vong, hoặc bị thương nặng…

Ngày 26/10, ông Nguyễn Chua (53 tuổi, trú thôn 6, xã Hòa Lễ, Krông Bông cùng em trai là Nguyễn Chát (47 tuổi) lắp ròng ròng chuyển phân qua hệ thống dây cáp treo tự chế qua sông Krông Ana.

Sau khi chuyển hết số bao phân qua sông, ông Chua lắp ròng rọc đu người qua đi làm. Qua gần hết bờ, chiếc ròng rọc bất ngờ tuột ốc, trật khỏi dây cáp khiến ông Chua rơi tự do từ độ cao hơn 5m xuống mép sông chết ngay tại chỗ.

Trước đó, vào ngày 15/8 cũng tại khúc sông này, vợ ông Chua là bà Trần Thị Tho (52 tuổi), trong lúc đu mình qua sông bằng cáp treo tự chế cũng bị tuột cáp rơi xuống mép sông bị đa chấn thương suýt mất mạng…

Việc dây cáp bị đứt hay tuột chân rơi xuống suối xảy ra như cơm bữa, người dân vẫn phải chấp nhận ‘đùa’ với tử thần bởi tình thế… không qua không được! Không đu…lấy gì mà ăn!

Sau hàng loạt những tai nạn do đu dây cáp treo qua sông xảy ra, các ngành chức năng tỉnh Đắk Lắk cũng đã có những khảo sát, tìm phương kế nhưng đến nay vẫn chưa có một phương án khả thi nào để chấm dứt tình trạng đu dây.”

Muốn qua sông thì phải bắc cầu thôi, chớ còn “phương kế” hay  “phương án khả thi” (mẹ rượt) nào khác nữa đâu – mấy cha? Bởi vậy, theo thông tin của Tuổi Trẻ Online: “…  trong phiên chất vấn chiều 18-11, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng ‘hứa’ trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ… Đây là một trong những lời hứa có mốc thời gian, có số liệu cụ thể ở 50 tỉnh trên cả nước mà Bộ trưởng Đinh La Thăng quả quyết: ‘Đã không hứa thì thôi, hứa rồi thì phải làm.”

Được lời như cởi tấm lòng! Cả nước đều mừng hết lớn luôn. Còn mừng hơn hồi năm 2010, khi nghe lời hứa hẹn (cũng có mốc thời gian) của một vị quan chức khác – ông Nguyễn Sinh Hùng : “Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.”

Năm 2015 đã đến nơi rồi nhưng (may quá) chưa thấy cái bóng dáng Vinashin (mới) này đâu cả. Thiệt là phước đức. Nếu không, sang năm, nợ công sẽ tăng gấp đôi là … giá chót.

Hứa hẹn là cái “bệnh” chung của giới lãnh đạo cộng sản, chứ không riêng chi hai ông Đinh La Thăng hay Nguyễn Sinh Hùng.

Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng vừa mới “hứa” xong: “Nợ xấu ngân hàng sẽ về mức bình thường trong năm tới.” Ông Trương Văn Sang cũng đâu chịu kém: “… đến năm 2000 xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu.”

Trước khi chuyển qua từ trần, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đâu có quên hứa hẹn: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”

Tiếc là thằng chả không nói rõ “xây dựng” cái gì nên chỉ những nơi các quan cách mạng làm việc, và nhà riêng của cán bộ là phình to quá cỡ thôi; còn nhà thương, trường học, hoặc cầu đường, và (tất tần tật) mọi thứ tiện nghi công ích khác thì không, và mỗi lúc một thêm xuống cấp.

Sau khi thắng giặc Mỹ xong, dân Việt lại được nghe người kế nhiệm ông Hồ  “ban” cho một lời hứa khác : “Mười năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh.”

Người kỳ vọng, và thất vọng, nhiều nhất vào lời hứa này (dám) là blogger Nguyễn Văn Tuấn. Nghe ổng tâm sự mà muốn ứa nước mắt luôn:

“Những năm sau thống nhất (tôi không thể dùng chữ ‘giải phóng’) ông Lê Duẩn nổi như cồn. Đi đâu cũng gặp hình của ông ấy lúc thì trên tivi, lúc thì qua báo chí, lúc thì qua đài phát thanh. Sau này tôi mới biết ông là một người nắm quyền uy gần như tuyệt đối thời đó. Mỗi lời nói của ông là một mệnh lệnh, một chỉ thị, chắc cũng chẳng khác với quyền uy của ông gì đó bên Bắc Hàn hiện nay.

Mãi đến bây giờ, nhắc đến tên ông là tôi rùng mình nhớ ngay đến thời bao cấp, hợp tác xã, và đặc biệt là thời ăn bo bo và thuốc xuyên tâm liên. Như một cơn ác mộng. Nói chung là một thời kinh hoàng.

Trong cái thời kinh hoàng đó chợt loé lên một tia hi vọng. Tôi nhớ hoài cái tia hi vọng đó trong một buổi tối ngồi xem tivi trắng đen. Trong một bài diễn văn dài lắm, nhưng có câu tôi nhớ mãi (có lẽ đến cuối đời): 10 năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh…”

Thành ra, tôi đón nhận lời hứa ‘10 năm sẽ có tủ lạnh’ của ông Lê Duẩn như ruộng khô mong chờ cơn mưa hạ. Dĩ nhiên là chỉ là ước mơ âm thầm thôi, chứ nói ra thì cả nhà mắng cho là ‘đồ ngu tiền đâu mà mua thứ đó’. Đêm về nằm ngủ tôi vẫn mơ cái tủ lạnh trong nhà …

Mãi đến năm 1992 làng tôi mới có điện về. Mà, lúc đó làng tôi cũng chỉ có vài gia đình có điện thôi. Phải 2 năm sau có điện, ba má tôi mới đám mua cái tủ lạnh dưới ‘sức ép’ của đứa em gái…

Vậy mà cho đến nay, dù điện đã về gần 100% làng, nhưng số gia đình có tủ lạnh tôi đoán là chưa đầy 1/5. Tôi có con số đó vì chỉ đếm những nhà bà con chòm xóm ven sông mà tôi quen biết. Nhà nào cũng có tivi và radio, nhưng tủ lạnh thì vẫn là một thứ gì khá xa xỉ mà không phải ai cũng có khả năng mua một cái.

Lí do chính là người dân không có tiền để mua. Đời sống nông dân ngày nay khổ còn hơn thời trước 1975. Đầu mùa lúa là phải vay ngân hàng hay tư nhân để mua phân bón, thuốc trừ sâu cho mùa vụ. Khi gặt lúa xong thì bị cái tập đoàn VINAFOOD (có khi được xem là một tập đoàn phản dân hại nước) và con buôn ép giá.

Người nghèo thì phải bán lúa với giá bèo để có tiền trả nợ. Như tôi từng phản ảnh giá lúa còn thấp hơn cả giá ốc bưu vàng! Trả nợ xong thì chỉ còn vài triệu vừa đủ sống. Mùa vụ kế tiếp, chu trình “vay nợ – làm ruộng – bán giá bèo – trả nợ” lại tiếp diễn. Cuộc sống nhứ thế thì lấy tiền đâu để mua tủ lạnh?

Từ ngày ông Lê Duẩn hứa ‘10 năm nữa mỗi gia đình sẽ có tủ lạnh’ đến nay đã gần 40 năm. Thế giới đã bước vào thể kỉ 21 gần 15 năm. Trong khi nông dân bên Thái Lan chạy xe hơi Toyota đi chợ và nhà nào cũng có tủ lạnh, thì nông dân Việt Nam vẫn còn mơ một chiếc xe Honda và cái tủ lạnh.”

Nếu kết luận rằng bác Lê Duẩn là “một thằng cha nổ sảng” thì cái vụ nổ này cũng chưa đến nỗi nào, so với mấy nhiều vụ (vang trời) khác nữa – sau này:

  • TTXVN: “… đến năm 2010 (sẽ) xóa hết hộ đói, cơ bản không còn hộ nghèo!”
  • Qua tới thập niên 2030 hay 2040 thì viễn tượng mới thực là huy hoàng, theo như lời của  TS. Nguyễn Xuân Kiên, Viện Trưởng Viện Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội Việt Nam và Đông Nam Á: “Với tiềm năng sẵn có của các doanh nghiệp hiện nay, chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Ảnh & chú thích: Tiêu Phong

Nói tóm lại, theo lời của ông cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết “là chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế.” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 năm rồi) cũng “cất cao” không kém:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong khi bạn bè quốc tế đang “ngưỡng mộ” tùm lum, và “ngưỡng mộ” quá trời, quá đất (như vậy) mà ông Bộ Trưởng Giao Thông nước ta vẫn chỉ đưa ra một lời hứa hẹn vô cùng khiêm tốn: “Trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ…”

Nghe thiệt thấy thương hết sức!

Tuy ông Đinh La Thăng đã nhũn nhặn (thấy rõ) nhưng dư luận, xem ra, vẫn còn có điều tiếng eo xèo và nghi ngại: Tiền đâu mà xây? Thằng chả chỉ hứa (đại) cho đã miệng và cho qua chuyện vậy thôi.

Cho dù thiệt vậy chăng nữa thì cũng đã chết ai đâu? Bác Hồ, bác Hùng, bác Duẩn đều hứa (lèo) ráo trọi thì tại sao chú Thăng lại phải giữ lời cà? Hơn nữa, thử nghĩ lại coi: chớ hai phần ba thế kỷ qua dânViệt sống bằng cái gì, ngoài những lời hứa hẹn!

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

 

 

 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “ Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của  Ni sư Tenzin Palmo như sau:

Ni sư Tenzin Palmo

Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:

“ Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho  người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.

Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.

3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.

Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.

Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.

6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa là:

“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”

Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.

Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.

Hiền Thuận

Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết  sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn  ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?

Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.

Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:

“ Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”

Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày .Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.

Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn,  tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.

Chúa Giê –su đã dặn các môn đệ rằng:

“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”

ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy , chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp : “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”

*Ai  tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)

* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa   (Roma 14: 7-8)

* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh  em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.  (Roma 6: 8-11)

* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. ( 1 Cor 15: câu 19,20)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tiểu sử: ni sư Tenzin_Palmo

Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Mộc Thường

Alexander Litvinenko, 43 tuổi, là cựu điệp viên KGB của Nga. Ông đã trốn khỏi Nga và tị nạn chính trị tại Anh Quốc, sống ở London. Ông ta bị đầu độc ngày 1 và chết ngày 23 tháng 11 năm 2006 tại London. Nồng độc chất phóng xạ trong cơ thể ông ta quá cao đến nỗi ông chết sau 23 ngày kể từ ngày bị đầu độc. Liều gây chết trung bình (LD50) của Polonium-210 là khoảng 50 nano gram. Trong khi đó, người ta tìm thấy trong cơ thể của Litvinenko chứa nồng độ cao hơn gấp 200 lần.

clip_image002

Alexander Litvinenko trước khi bị đầu độc (© AP).

clip_image004

Alexander Litvinenko trong bệnh viện sau khi bị đầu độc năm 2006 (©AFP/Getty Images)

Norberto Andrade là người đã đem trà cho cựu điệp viên của Nga, Alexander Litvinenko tại quán bar trong khách sạn (Millennium Hotel) ở London, nơi cựu điệp viên này bị đầu độc. Norberto Andrade cho rằng chất phóng xạ đã được phun vào trong cốc trà của cựu điệp viên. Cách đầu độc này, sau đó được khẳng định nhờ vào các bằng chứng từ cơ quan điều tra. Cơ quan này đã tìm thấy chất phóng xạ Polonium-210 trên bức tranh được treo ngay trên chỗ ngồi của Litvinenko. Ngoài ra chất phóng xạ còn được tìm thấy trên mặt bàn, trên ghế ngồi và trên sàn nhà. Khi dọn dẹp bàn, Andrade cũng phát hiện phần còn lại của tách trà của Litvinenko có màu lạ.

Thủ phạm vụ đầu độc đầu tiên trên thế giới bằng Polonium-210 này vẫn không có nguồn tin nào chính thức khẳng định. Một cách không chính thức, cơ quan điều tra của Anh tuyên bố biết ai là thủ phạm. Nghi can trực tiếp được cho là hai cựu điệp viên KGB : Andrei Lugovoy và Dmitry Kovtun. Hai người này đã gặp Litvinenko tại Millennium Hotel ở London ngay trong ngày mà Litveniko bị đầu độc. Trước khi chết, Litvinenko cho rằng vụ đầu độc này liên quan đến Mr. Putin.

Mộc Thường

References

http://en.wikipedia.org/wiki/Poisoning_of_Alexander_Litvinenko

http://www.cbsnews.com/news/who-killed-alexander-litvinenko/

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2745023/Russia-REFUSES-public-inquiry-death-poisoned-spy-Alexander-Litvinenko.html

http://www.telegraph.co.uk/news/uknews/1557492/Litvinenko-waiter-recounts-polonium-poisoning.html

http://www.mailonsunday.co.uk/news/article-418652/Why-I-believe-Putin-wanted-dead-.html

http://www.theguardian.com/world/2014/dec/09/russian-tv-company-hires-man-accused-murdering-alexander-litvinenko

http://www.3rd1000.com/elements/Polonium.htm#Overview

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2247486/Alexander-Litvinenko-Poisoned-Russian-spy-working-British-AND-Spanish-intelligence-says-wife.html

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Trần Ngọc Mười Hai

Chuacuuthe.com

VRNs (07.01.2015) – Sydney, Úc Đại Lợi

“Rồi mai đây tôi sẽ chết

“Trên đường về nơi cõi hết.

Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?”

(Phạm Duy – Những gì sẽ đem theo về cõi chết)


(2Cr 4: 10-12)

Viết và hát về nỗi chết, hỏi rằng có ai viết nhạc hay hơn Phạm Duy, không? Nói về sự chết và chuẩn bị cho cái chết của mình, có vị nào trong Đạo làm và nói hay bằng thiền-sư Tây Tạng Songya Rinpoche? Tuy nói thế, bần đạo đây vẫn thấy có mẫu số chung nào đó giữa hai vị trên, đặc biệt hơn cả là ở câu hát bên dưới:

“Rồi mai đây tôi hoá kiếp.
Trong lòng còn bao luyến tiếc,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được tiền tài, hay danh vọng.
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp, hay rượu nồng.
Tôi không đem theo với tôi được lầu vang, hay gác tía.
Tôi không đem theo với tôi được mộng giầu sang, phú quý.
Tôi xin đem theo với tôi một nụ cười, không nghi ngại.
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời.
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc đời đang bước tới.
Tương lai vui hay tối thui cũng là nhờ anh lớn thôi…

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
(Phạm Duy – bđd)

Nghe hát thế, chắc có lẽ người nghe cũng thấy được điểm nổi bật, rất như thế. Còn, giả như bạn và tôi, ta được nghe chính miệng Thiền-sư Tây Tạng là ngài Songya Ripoche đến Sydney ngày 30/11/2014, đã bảo rằng:

“Phần đông người trên thế-giới ngày nay hoặc sống trong phủ-nhận cái chết, hoặc sợ hãi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở. Nhiều người tin rằng: nhắc đến cái chết thì cũng gần như là mong nó xảy đến cho mình.

Nhiều người khác nhìn cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô một cách thiếu suy-nghĩ, tưởng chừng như vì một lý-do bí-ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm-thắm mà không có gì phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thày của Tây Tạng: Người ta thường khinh-suất về sự chết và cứ nghĩ “Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự-nhiên quá mà. Tôi thì khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lý-thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn-giản….

Khi nhìn kỹ cách-thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kũbler Ross đã chứng-minh: với một tình-yêu vô-điều-kiện và một thái-độ có nhận-thức thì cơn hấp-hối có thể trở thành một kinh-nghiệm an lành, chuyển-hoá…

Nếu bây giờ không chịu chấp-nhận cái chết trong lúc đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết và sau khi chết. Hậu-quả sẽ là, ta tàn-phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới…” (xem Sogyal Rinpoche, Tạng Thư Sinh Tử, nxb Văn hoá Thông tin 2008, tr. 25, 29, 34)

Nghe Thiền-sư Rinpoche nói về việc chuẩn bị cho cái chết ngay khi còn sống, người Đạo Chúa cũng nghĩ nhiều về sự thể giống như thế. Sự thể, được Tin Mừng nhắc nhở nhiều lần, như:

“Thầy bảo thật anh em:

trong số người có mặt ở đây,

có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết

trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

(Mt 16: 28)

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;

còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,

thì sẽ tìm thấy được.”

(Mc 10: 33)

Với thánh Phaolô, cái chết không quan trọng bằng sự sống lại, trở nên công chính:

“Chúng ta sẽ được kể là công chính,

vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu,

Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết;

Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta

và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại,

để chúng ta được nên công chính.”

(Rm 4: 24)

Cuối cùng thì, chết vẫn không đáng sợ bằng sự thể được thánh-nhân quyết như sau:

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?

Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?

Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết,

bị coi như bầy cừu để sát sinh.”
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.

(Rm 8: 35-37)

Và nhất là đoạn viết cho cộng-đoàn Corinthô có đoạn đã nhấn mạnh:

“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.

Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.

Như thế,

sự chết hoạt-động nơi chúng tôi,

còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.”

(2 Cor 4: 10-12)

Giống như các vị theo tôn-giáo khác, người Đạo Chúa vẫn luôn giữ thái-độ coi thường sự chết vì nhiều lẽ. Trước nhất, vì biết rằng mình luôn kết-hợp với Chúa trong mọi việc. Và thứ đến, là vì mình luôn ở trong tư-thế chuẩn bị chết, tức: về với Chúa trong vinh-quang chói ngời ở cạnh Ngài.

Nhiều Dòng tu khắc kỷ ở Đạo Chúa, lại cũng luôn chuẩn-bị cho cái chết đang trờ đến, nên vẫn tâm-nguyện bằng những tâm tình trước khi đi ngủ, vẫn cứ nhủ:

“Lạy Chúa tôi,

Tôi biết thật tôi sẽ chết.

Có khi đêm nay tôi vào giường nằm nghỉ

mà chẳng còn trỗi-dậy nữa.

Cho nên Chúa đã bảo tôi vào giường nằm nghỉ như là vào mồ chết vậy.…”

Chính vì thế, nhiều người Đạo Chúa vẫn hiên-ngang hát lên lời ca đầy phấn-chấn, rằng:

“Khi Chúa thương gọi tôi về,

lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ!

Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát…”

Ngàn dân tung hô: tôi thật vinh phúc!

(Lm Kim Long – Ngày Về)

Ở ngoài đời, những người chịu ảnh-hưởng từ nền văn minh Đạo Chúa, cũng có những lập-trường coi nhẹ cái chết, như nhà văn Montaigne của Pháp đã từng viết:

“Để chiến thắng Thần Chết, chúng ta hãy áp-dụng một phương-cách ngược lối thông-thường, hãy xem cái chết chẳng có gì kỳ lạ. Ta vẫn tiếp xúc với nó, quen thuộc  với nó; hãy để tâm-trí thường-xuyên đến cái chết hơn bất kỳ điều gì khác… Ta không biết khi nào thì cái chết sẽ đến với ta, vì vậy, hãy chờ sẵn để đón cái chết ở khắp nơi. Tụ tập cái chết chính là tụ tập sự tự-do. Một người biết cách để chết thì sẽ không bao giờ trở-thành nô lệ.” (sđd tr. 36)

Ngoài các triết-gia ra, triết-học Đông Phương cũng có vị như Trang Tử, lại cũng nói:

“Con người sinh ra vốn mang theo sự đau khổ. Càng già, con người càng ngơ ngẩn, vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh khỏi càng thêm mãnh-liệt. Thật vô-cùng cay đắng. Con người sống để theo đuổi những gì luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao-khát sống còn trong tương-lai làm cho ta không thể sống trong hiện tại…” (bđd tr. 39)

Vậy, có người đưa ra vấn-nạn vẫn cứ hỏi: Nếu vậy, ta phải làm sao? Làm sao nghĩa là làm thế nào để đi vào hiện-thực? Đây là điều thật khó nói. Bởi, trên thực tế, có ai dám tập-tành việc chết đi ngay bây giờ? Thôi thì, ai hỏi thì cứ hỏi, ở đây bạn và tôi, ta cứ nghe xem thiên hạ nói với nhau như thế nào, về việc ấy. Trước nhất, là thiền-sư Songya Rinpoche có thể tóm tắt như sau:

“Điều duy nhất, ta thực sự có được là hiện tại.

Hãy tự hỏi: Tôi có nhớ vào mọi lúc rằng tôi đang chết hay không, bởi thế nên hãy đối xử với mọi chúng sinh với lòng từ bi trong mọi lúc…” (sđd tr. 540

Và, giải-pháp do ngài Songya Rinpoche đề ra để giải quyết sự-việc ở đây, có thể tóm gọn như sau:

“-chấp-nhận cái chết (sđd tr. 56-57);

-Quan-tâm đến việc giúp đỡ người khác, coi đó như tầm quan-trọng của yêu thương;

­-Ít quan-tâm đến những đeo đuổi vật-chất;

-Tin-tưởng vào chiều-hướng tâm-linh và ý-nghĩa của cuộc đời;

-Thay-đổi trong tính sâu-xa của con tim (sđd tr. 59);

-Làm việc với đổi thay (sđd tr. 65);

-Thông-điệp của sự Vô Thường: trong cái chết có niềm hy vọng (68), gặp-gỡ Kitô-giáo và Phật-giáo… (sđd 68)

Và, các điều khác cần chú-trọng như: bản-chất của Tâm (tr.75-87), luyện tâm (tr.99), Thiền-định để nhận rõ chân tâm (tr.101), luyện-tập chánh-niệm (tr. 104), sự thanh-bình tự-nhiên. Có 3 phương-pháp thiền: 1-dùng một đối tượng, 2-nhẩm đọc câu thần chú, 3-canh chừng hơi thở. Đồng thời thực-hiện 3 phương trong 1 là: Tâm trong thiền-định, tĩnh-lặng vĩnh-cửu và sự cân bằng tinh-tế (xem tiếp sách đã dẫn từ trang 128 trở đi)

Theo-dõi câu chuyện “thực-tập cái chết khi còn sống” của thiền-sư Songya Rinpoche, bần đạo lại nhớ đến đoạn viết của đấng bậc thày dạy là Lm Kevin O’Shea CSsR, khi cha giáo nói về “Cứu-Chuộc thế-gian qua các đạo trên trần-thế”, có đoạn nói rất rõ về “cái chết dần mòn”, như sau:

Về “cái chết dần mòn”, nhiều người cố tìm cho ra những gì liên-quan đến kinh-nghiệm thường thấy ở các đạo, nơi trần-thế. Với chúng ta, là những người sống ở trời Tây, thường hay bắt đầu bằng các phương-án liên-quan giữa Đạo Hồi và Đạo Chúa: ta đang sống, tức là: ta đối-đầu/trực-diện với những gì tuyệt-đối, theo cách này cách khác. Rồi từ đó, ta làm nhẹ bớt tuyệt-đối ấy thành một thứ tử-tế, tựa hồ như người nhà Phật vẫn đang làm, mãi đến hôm nay. Và rồi, ta lại đi từ ngạc-nhiên này đến ngỡ ngàng khác bằng với xuất-hiện của sự việc “ngất-trí” vượt thoát mọi sự mà đi vào thể-loại vô ngã/vô thường kiểu Ấn-giáo. Chính nơi này, ta được gặp Đấng đã trỗi dậy khỏi mọi kinh-nghiệm giống như thế và khi ấy, ta thấy mình “trở-nên-một” với Ngài, và trong Ngài.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, On Cứu Chuộc: Kinh nghiệm như thế giống thứ gì? www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 30/10/2014)

Và, cha giáo O’Shea CSsR, đã kết-luận bài viết về “cái chết dần mòn” bằng câu sau đây:

“Ta đang đối-đầu/trực-diện với thứ gì đó cũng khá mới. Trông nó có hình-thù như một đường biến-thiên còn giấu kín. Nó đòi hỏi toàn-bộ định-nghĩa mới về thiên nhiên. Nó cũng đòi ta nhìn vào thiên-nhiên như điệu múa nhảy và là bản giao-hưởng khúc nữa, cũng nên.

Ở đây, xin nói thêm rằng: rất nhiều ví-dụ cụ-thể về lập-luận về cái chết theo đường-lối khác hẳn. Và, nó mở rộng cửa cho giòng chảy tự-do về hành-xử nhẹ nhàng, tử-tế. Trên thực tế, ta có thể nhìn vào quan-hệ đại-kết hoặc tương-quan chủng-tộc, giới-tính và/hoặc các tương-quan chủ/nô, thày-thợ cùng quan-hệ lãnh-đạo/bằng-hữu, cũng như siêu-nhiên/tự-nhiên, và về cái chết nữa.

Thế nên, có thể nói tắt một lời, rằng: một khi đã chết đi, ta lại sẽ khám phá ra thực-tại mới, giống như thế…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Xem thế thì, ta đã khám-phá ra sự sống mới-mẻ, rất hợp lẽ. Tư-tưởng ta có được ở đây vốn dĩ rút từ tư-tưởng của học-giả Xavier Sallantin. Thuận lẽ phải, theo tôi hiểu là phương-cách thức-thời do kinh-nghiệm tự diễn-bày như sự việc đầy ý-nghĩa, đối với ta.

Đi vào cuộc đời trần-thế, chắc bạn và tôi cũng khám-phá ra những điều thực-tiễn để hiện thực “cái chết dần mòn” này rồi thì phải?

Để minh-hoạ cho câu chuyện ta bàn hôm nay, vừa qua, bần đạo có người bạn thân học cùng lớp, nghe bần đạo nói sẽ viết về việc dọn mình chết lành, anh liền gửi cho bần đạo câu truyện kể để minh-hoạ như sau:

“Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

– Không được. – Thần Chết lắc đầu.

– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?

– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:

– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:

Xin hãy ghi nhớ:

“Bao nhiều tiền bạc cũng không

mua nổi một ngày”.

(trích câu truyện do anh bạn họ Phạm kể và gửi qua mạng nối kết, rất thông tin)

Nghe kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết thúc câu chuyện chết-sống/sống-chết bằng lời ca do nhạc sĩ Phạm Duy viết ở trên, rằng:

“Tôi không đem theo với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được tượng đồng, bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được tuổi vàng trong cõi sống,
Tôi xin đem theo với tôi một cuộc tình không quen thuộc,
Ðôi uyên ương xin mến thương không khó nhọc hay ngượng ngùng.
Trong đêm thâu ôm ấp nhau bên cột đèn hay khóm trúc,
Không ai ngăn hay lấy cũng vì phạm thuần phong mỹ tục…

Rồi mai đây tôi sẽ chết.
Trên đường về nơi cõi hết.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Rồi mai đây tôi hoá kiếp,
Trong lòng còn bao luyến tiếc.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được nhiều điều tôi mong đợi,
Tôi không đem theo với tôi danh với lợi ra ngoài đời.
Tôi không đem theo với tôi được cả buồn vui mấy nỗi,
Tôi không đem theo với tôi, và để lại cho thế giới.
Tôi xin dâng cho thế gian một vài điều tôi công nhận.
Tôi xin dâng cho thế gian ôi số phận sinh làm người.
Thương cho em chưa thoát thai trong cuộc đời chưa hết chuyến,
Tôi xin dâng cho cái quên của một người sẽ tái duyên.

(Phạm Duy – bđd)

Và cứ thế, tôi và bạn, ta lại hát nốt câu kết để làm nền như sau:

“Rồi may đây tôi sẽ chết, trên đường về nơi cõi Niết
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu !
Rồi mai đây tôi hoá kiếp, trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu
(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên ngang sống đến ngày cuối chót của đời mình, mà không còn lo lắng hoặc luyến tiếc điều gì, dù có chết. Chết mai sau, hay chết bây giờ cũng vẫn được. Và cũng chấp nhận cho người và cho mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Đang đi dần vào cõi chết

Đã thấy mau hơn bao giờ.

Ảo tưởng dân chủ

Ảo tưởng dân chủ

Nguyễn Hưng Quốc

01.01.2015

Trong bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of the Communist Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12 năm 2014, Michael J. Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ tự do”.

Rất nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do” mà quên bẵng đi mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party state).

Cách đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn ngữ, văn hoá và chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị sang Việt Nam nghiên cứu trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên đã từng du lịch sang Việt Nam. Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại Việt Nam, tất cả đều cho Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền. Nó hoàn toàn khác với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc mà họ từng biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng không gợi lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng không gặp dấu hiệu nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm của bản thân tôi, một nhà giáo và một người cầm bút tuyệt đối không tham gia chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất ngạc nhiên. Và thú nhận: đó là điều họ không hề biết.

Thật ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả những người ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa. Họ chỉ đến Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng. Họ không thấy được bản chất của chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc không phải ít, cũng cho là Việt Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều người, hầu hết thuộc thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch hoặc thường trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không còn độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay trong lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân chúng có thể thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các tiệm cà phê hay quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba, giới hạn trong phạm vi chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính chất thiếu dân chủ ấy vừa rất ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn từ Trung Quốc.

Tôi cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những người ngoại quốc đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ sự mê hoặc trước ảo tưởng dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo nên để đánh lừa mọi người.

Để thoát khỏi sự lừa dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn thường dùng trước đây, phân biệt bản chất và hiện tượng. Hiện tượng: ở Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản chất: đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về hiện tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy nhiên, về bản chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng miệng; hai, nếu viết, người ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê phán giới lãnh đạo. Trước, có ba điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau này, những khu vực cấm kỵ ấy dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh? Người ta có thể khó chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng sản? Dường như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì cũng có đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.

Để đánh giá một chế độ cần nhìn vào cơ chế. Cơ chế ấy, ở Việt Nam, vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu tố quan trọng nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt Nam hoàn toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí mật. Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung Quốc, người dân vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì với Trung Quốc trong hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách, nếu có, họ đang theo đuổi để bảo vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân chủ, đặc biệt dân chủ trong lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ bắt bớ dân chúng cũng như các biện pháp trừng phạt những người dân dám lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật trên báo chí, người ta cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ.

Trong bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá khắc nghiệt như Bắc Triều Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với thời kỳ tiền-dân chủ (pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên trước đây. Với cái nhìn như thế, ông hy vọng những năm tháng chúng ta đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng của chế độ cộng sản.

Trong lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo tưởng, chúng ta cũng nên biết một sự thật: Không có chế độ độc tài nào tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây phương, tự do không bao giờ miễn phí (freedom ain’t free). Tự do bao giờ cũng là kết quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao giờ cũng từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là cái quyền căn bản của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.

Khi dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối cùng (last days) có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên .

Người già kiếm cơm giữa Sài Gòn

Người già kiếm cơm giữa Sài Gòn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-01-02

nguoi-gia-622.jpg

Một Cụ Bà bán bánh tráng tại Sài Gòn, ảnh minh họa.

RFA PHOTO

Your browser does not support the audio element.

Mùa Đông giá lạnh, đối với người già, người nghèo thiếu ăn thiếu mặc, cái lạnh là nô lệ trung thành của thần chết, nó có thể đến trói tay trói chân người già cho thần chết dễ bề vung lưỡi hái. Với người già lây lất kiếm sống giữa đất Sài Gòn, mùa Đông càng ghê gớm hơn nhiều bởi ngoài cái lạnh của thời tiết, cái lạnh trong tâm hồn vốn buồn tủi lâu năm của họ sẽ làm khổ họ gấp bội lần. Cái lạnh khiến cho họ thấy cô đơn, đôi khi tự đặt câu hỏi: Bao giờ mình chết? Và khi mình chết đi, lấy gì để chôn, ai chôn mình đây?

Ăn xin không nỡ, buôn bán cũng không xong

Bà Hạt, 75 tuổi, quê Mộ Đức, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn bán vé số và bưng bê cho quán ăn gần hai mươi năm nay, tâm sự:

” Bảy mươi mấy tuổi mà còn đi bán vé số. Ngày thì kiếm được khoảng mười, hai mươi ngàn bạc, đôi khi được tám ngàn. Ăn uống thì ăn quán ăn đường bữa đôi ba ngàn bạc, chứ không có khi mô ăn được năm ngàn, mười ngàn đâu.
-Bà Hạt”

“Bảy mươi mấy tuổi mà còn đi bán vé số. Ngày thì kiếm được khoảng mười, hai mươi ngàn bạc, đôi khi được tám ngàn. Ăn uống thì ăn quán ăn đường bữa đôi ba ngàn bạc, chứ không có khi mô ăn được năm ngàn, mười ngàn đâu. Tùy bán vé số có lời không nữa, cứ đi liên miên rứa đó, ngày mô đau ốm thì ở nhà, huyết áp lên thì xỉu lên té xuống vậy đó.”

Bà Hạt cho biết thêm là hiện nay, ở thành phố có rất nhiều người già bằng tuổi của bà và có người lớn tuổi hơn phải đi bươn bả kiếm sống hằng này bằng nhiều công việc, từ bán vé số, bán trái cây, đậu phộng rang, đậu phộng luộc, lượm ve chai, lượm bao nilon, rửa chén bát thuê cho đến đi ăn xin… Họ sống lây lất qua ngày đoạn tháng, không biết đâu là nhà.

Phần đông trong số họ không có con cái ở quê nhà, lưu lạc xuôi dần về phương Nam và tìm cách để tồn tại bằng nhiều công việc. Cũng có người từng có nhà cửa đàng hoàng nhưng sau tháng Tư năm 1975, do nhiều thay đổi, nhà cửa của họ không còn nữa, con cái thì người đi vượt biên bỏ mạng giữa biển, người vào trại cải tạo không trở về, cuối cùng, không còn người thân, không còn nhà cửa, họ lăn lộn giữa cuộc đời mà tồn tại.

Như trường hợp một người bạn già của bà Hạt, ngay cả cái tên bà này cũng không thể nhớ rõ, nói câu trước câu sau quên, hơn 80 tuổi nhưng không có thẻ chứng minh nhân dân, không nhà cửa, tối ngủ gầm cầu, ngày đi ăn xin, được bữa nào nhờ bữa đó, có ngày đói rát ruột. Tuổi già của người bạn già nhiều khi làm cho bà Hạt rơi nước mắt. Nhưng cũng nghèo khổ giống nhau, bà chẳng giúp được gì ngoài gói mì tôm, ổ bánh mì nguội.

nguoi-gia-400.jpg

Một Cụ Bà bán vé số tại Sài Gòn, ảnh minh họa. RFA PHOTO.

Bà Hạt nghẹn ngào nói rằng sống ở thành phố Sài Gòn, có khi ăn xin dễ thở hơn là buôn bán,  nhưng với tính cách của mình, bà không thể ăn xin. Ví dụ như khi bà mời vé số, có nhiều người lắc đầu từ chối mua vé số nhưng lại sẵn lòng rút tiền ra cho bà hai ngàn đồng hoặc năm ngàn đồng. Đương nhiên là bà từ chối, không lấy. Người cho tiền xin lỗi bà và giải thích rằng họ rất thương những người nghèo, muốn giúp một chút đỉnh dù là nhỏ nhoi nhưng không thể giúp theo kiểu cho người nghèo hai ngàn đồng khi phải nộp cho nhà nước tám ngàn đồng. Bởi họ thừa biết trong mỗi tấm vé số có giá 10 ngàn đồng, người bán vé số chỉ kiếm được hai ngàn đồng tiền hoa hồng.

Chính vì không muốn cầu may để rồi nộp tiền cho một hệ thống tham nhũng mập mạp nên nhiều người không chấp nhận mua vé số nhưng lại sẵn sàng bỏ ra số tiền ngang với một tấm vé để tặng cho người bán già yếu, nghèo khổ, đó là phong cách của người Sài Gòn. Nhưng rất tiếc, bà Hạt không quen nhận tiền theo cách đó nên đời bà vẫn thiếu đói. Nếu làm ăn xin, bà lại e rằng mình lấy mất một phần của bố thí của nhiều người già ăn xin khác có sức khỏe kém hơn bà rất nhiều. Hơn nữa, sống ở Sài Gòn hiện tại, muốn ăn xin cũng rất khó.

Người ăn xin không có đất sống

Một em bé người gốc Quảng Nam, cha mẹ mất sớm, cách đây hơn 10 năm, bà nội phải bế em chạy trốn lực lượng săn bắt ăn xin ở Đà Nẵng để vào Sài Gòn tiếp tục lây lất kiếm ăn, cho biết:

“Chạy bữa trưa mất bữa tối, áo quần rách hết không có mà mang. Cha mẹ mất hết không biết nhờ ai. Họ cho bữa, lâu lâu mỗi người cho vài lon gạo về nấu ăn, để dành nấu ăn. Với nấu ít thôi vì nấu ra không có chi ăn, ăn không hết.”

” Chạy bữa trưa mất bữa tối, áo quần rách hết không có mà mang. Cha mẹ mất hết không biết nhờ ai. Họ cho bữa, lâu lâu mỗi người cho vài lon gạo về nấu ăn, để dành nấu ăn. Với nấu ít thôi vì nấu ra không có chi ăn, ăn không hết.
-Một em bé người gốc Quảng Nam”

Theo em bé này, thời gian gần đây, việc ăn xin hết sức khó khăn bởi lượng người giả tàn tật để xin ăn tăng vọt, làm cho người ta mất hết thiện cảm với người ăn xin. Mà những kẻ giả khổ đi ăn xin lại có chương trình, bài bản để làm người khác động lòng thương, khi hành nghề xong, họ có nhà cửa để trở về, khỏi bị dân phòng, công an hỏi thăm.

Trong khi đó, những người nghèo xin ăn chân chính như bà cháu cậu lại bị người ta hất hủi, dân phòng rượt, công an có thể bắt nhốt bất kì giờ nào. Hơn nữa, sắp tới đây, thành phố có luật mới, sẽ bắt tất cả những người lang thang ăn xin như bà cháu của cậu đưa vào trại giáo dưỡng hoặc trại tế bần và trung tâm bảo trợ xã hội để ở đó suốt ngày, đi làm, đến giờ lại được đánh kẻng về ăn cơm.

Với cậu bé này, không có gì đáng sợ hơn chuyện này. Điều này làm cậu nghĩ đến những người bắt chó trộm, họ sẽ có đất sống tại Sài Gòn trong đợt này. Cũng giống như tại thành phố Đà Nẵng trước đây, những người bắt trộm chó vốn dễ gặp nguy hiểm, dễ bị đánh chuyển hẳn sang nghề săn bắt người ăn xin để nhận thưởng. Chỉ trong vòng hai tuần, thu nhập của họ đạt đến con số vài chục triệu đồng nhờ vào săn bắt người ăn xin.

Lúc đó, mức thưởng của thành phố Đ0à nẵng cho việc phát hiện và tố giác một người ăn xin bằng một cú điện thoại đến lực lượng thanh niên xung kích hoặc công an sẽ là 250 ngàn đồng. Có người mỗi ngày săn được hàng chục, thậm chí vài chục người ăn xin, ngoài ra, họ còn tổ chức đường dây dụ người ăn xin vào thành phố Đà Nẵng để săn hoặc cho tiền, gài thế những người mù bán chổi để săn.

Sắp tới đây, Sài Gòn có lệnh bắt người ăn xin đưa vào trung tâm bảo trợ xã hội, cậu bé này lại linh cảm thấy rằng sắp tới đây, sẽ có một đội ngũ bắt chó trộm đổi nghề, chuyển sang săn bắt người ăn xin ở Sài Gòn để nhận thưởng. Rồi đây cuộc đời cậu chẳng biết sẽ trôi dạt về đâu.

Mùa Đông, bao giờ cũng là mùa lạnh, đặc biệt, nó rất lạnh khi tâm hồn con người trở nên lãnh cảm với nỗi đau đồng loại.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Giải trí tuổi già

Giải trí tuổi già

Trích Giáo Sĩ Việt Nam số 239

Giải trí là làm những việc nhẹ nhàng nào đó để đầu óc thư dãn, cơ thể bớt mệt mỏi, tinh thần được thêm phần thoải mái, vui vẻ.

Đây là một phần trong các hoạt động của đời sống, đặc biệt là với quý vị tuổi cao. Lý do là ở tuổi này các bác đã về hưu, sau một thời gian dài gây dựng gia đình, phục vụ cộng đồng, xã hội, các bác sẽ có nhiều thì giờ rảnh rỗi. Các bác cần tham gia vào một thú tiêu khiển nào đó để khỏi rơi vào cảnh “Ngồi buồn mà trách ông Xanh” hoặc “nhàn cư vi bất thiện” cũng như để duy trì tình trạng sức khỏe tinh thần và thể chất lành mạnh.

Con cháu nên đặc biệt lưu tâm tới vấn đề này, vì cha mẹ già thường hay trở lại tâm trạng của một đứa bé, hành động bất thường, vui đấy buồn đấy, đôi khi hơi cứng đầu, không chịu nghe ý kiến người khác. Con cháu cũng nên để ý rằng không phải già là không còn các thú tiêu khiển lành mạnh.

Trước đấy các cụ ta vẫn nói về hưu là thời kỳ quy ẩn, vui thú điền viên. Các cụ thư giãn với công việc trồng hoa, nuôi chim, làm cây cảnh hoặc “ngao du sơn thủy” thăm viếng bạn bè, quyến thuộc gần xa. Các cụ gặp nhau đánh cờ giao lưu, trà dư tửu hậu, bàn chuyện năm châu bốn bể.

Ngày nay lại còn nhiều thú tiêu khiển khác mà quý bác có thể làm, như là:

– Tiểu công nghệ tạo ra các sản phẩm nhỏ bé nhờ bàn tay khéo léo kinh nghiệm của các bác, như đồ chơi trẻ em, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ… Các đồ chơi này có thể là nguồn lợi tức thêm cho ngân sách gia đình hoặc mang bán để gây quỹ từ thiện, giúp người nghèo khó. Hiện nay, có nhiều lớp hướng dẫn để các bác làm công việc này.

– Học vẽ, sử dụng máy vi tính, học chơi một nhạc khí nào đó hoặc tham gia nhóm ca hát tại cơ sở tôn giáo, tổ chức nhân dân. Ở tuổi cao, sử dụng máy vi tính giúp ta tìm đọc nhiều loại sách quý mà không cần tới thư viện, hiểu biết diễn biến nhiều sự việc xảy ra khắp nơi trên thế giới, giúp ta liên lạc với bạn bè qua những lá thư điện tử.

– Tập luyện dưỡng sinh với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng có chung mục đích là thư giãn tâm hồn, tập trung tư tưởng, giữ tâm thân an lạc, loại bỏ nhiễu ý đồng thời cũng áp dụng các cử động để tăng cường sức mạnh cơ bắp, uyển chuyển trơn tru xương khớp.

– Khiêu vũ, múa đôi cũng đang được nhiều bác ưa thích, vừa để thư giãn tâm hồn trong điệu nhạc và cũng dẻo dai đôi chân, uyển chuyển thân hình, giảm béo, hạ huyết áp, đường huyết, cholesterol.

– Tham gia các công tác từ thiện giúp đỡ người có nhu cầu, thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện hoặc các vị lão niên khác chẳng may kém sức khỏe đang sống tại nhà người già, viện dưỡng lão.

– Tổ chức tham quan di tích lịch sử, phong cảnh quê hương hoặc du lịch xứ lạ để biết thêm phong tục tập quán đất nước quê người.

– Tình nguyện tại trường học để truyền đạt kinh nghiệm đời sống, việc làm cho con cháu cũng như kể lại nguồn gốc lịch sử tiền nhân, duy trì văn hóa, truyền thống hào hùng dân tộc.

– Làm vườn, trồng cây cảnh, vun tưới mấy luống rau thơm cũng là thú tiêu khiển thanh nhã, thoải mái mà lại tạo thêm phong cảnh đẹp mắt cho ngôi nhà mà đôi vợ chồng già đang ở.

– Người có tâm hồn văn học nghệ sĩ thì làm thơ, viết sách, học đàn học hát ca vui ngày tháng với bạn bè, quyến thuộc. Phát minh karaoke vào cuối thế kỷ vừa qua đã giúp con người giao lưu với con người một cách cởi mở, vui nhộn qua việc vô tư “hát cho nhau nghe” dù hay dù dở, miễn là cùng vui.

– Rồi lại còn đi câu cá, đánh cờ, chơi domino, ô chữ và nhiều thú vui nhẹ nhàng bổ ích khác.

Một giải trí mà ngày nay nhiều lão niên cũng hay tham dự là lui tới các sòng bài, casino.

Mấy bác lý luận là tới các sòng bài là có cơ hội gặp gỡ người này người khác hàn huyên cho vui, đồng thời cũng kéo máy tập tay, chơi bài luyện mắt, ăn uống tự do không tốn tiền và coi văn nghệ “chùa”. Đây cũng là giải trí tốt, nếu khách làng chơi giới hạn được thời gian chơi, số tiền sẽ mất, không đam mê cay cú “thua me gỡ bài cào” đến nỗi rơi vào tình trạng mà cổ nhân thường nhắc nhở là “Cờ bạc là bác thằng Bần”.

Tuổi già trí óc thường cũng hay sáo trộn, nhớ trước quên sau, ù lì trì trệ. Nếu không năng dùng tới các chức năng cơ thể thì e rằng sẽ rơi vào tình trạng “thối lui”, cô lập rồi buồn phiền, gắt gỏng, biếng ăn mất ngủ, sức khỏe suy dần. Cho nên, hãy lấp đầy khoảng trống thời gian với các sinh hoạt trò chơi hữu ích để tránh nhàm chán mà lại có lợi cho sức khỏe.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com

Thời cái tốt được gọi là “cực đoan”

Thời cái tốt được gọi là “cực đoan”

Chuacuuthe.com

VRNs (05.01.2015) – Sài Gòn – Cách đây đã lâu, một bác sĩ bạn tôi nói sự thật về một biến cố thì một người bạn khác, mang danh luật sư, phán liền một câu: “Anh ta cực đoan quá”. Tôi nói lại ngay: “Trong xã hội này, người tốt và cương trực thường được gọi là cực đoan”.

Cực đoan là gì? Sự vật có hai đầu được gọi là đoan, lưỡng đoan. Cực đoan là hai đầu tận cùng của vật thể. Từ này được dùng với nghĩa quá khích, quá mức bình thường, hết sức, cực độ. Hiểu như thế, cực đoan thường không tốt và hàm ý chê trách.

Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội ngày nay, những ai can đảm bênh vực cái tốt, lên án cái gian xảo, điêu ngoa, tàn ác thì bị gán cho từ cực đoan. Trong một xã hội mà ai cũng nói dối và giáo dục đề cao sự giả dối, thì những người bảo vệ sự thật được gọi là “cực đoan”. Học sinh đi thi mà không quay cóp thì bạn bè cho là cực đoan.

Khi nhìn vào toàn cảnh rộng lớn hơn là xã hội có nhiều tầng lớp, nhiều hạng người với những quan điểm và mục tiêu khác biệt, người ta nhìn thấy sự khác biệt, thậm chí là đối lập hoàn toàn. Trong cái mớ bòng bong rối ren như thế, người ta có thể tạm chia xã hội thành ba nhóm: nhóm 1 lên án cái ác và nhiệt tâm rao giảng chân thiện mỹ, nhóm 2 ủng hộ cái ác và lên án điều thiện. Và khi nhóm 1 loan truyền điều tốt đẹp, thì đồng thời họ phải lên án cái xấu. Khi đó có một nhóm thứ 3 gồm những người muốn sống yên thân, không quan tâm đến xã hội, gọi nhóm 1 là cực đoan.

Tại sao thế? Câu trả lời cũng dễ tìm thấy. Tâm lý con người thường muốn sống yên ổn, không ai đụng chạm gì đến mình. Hơn nữa, trong một xã hội mà từ thông tin, quảng cáo cho đến giáo dục đều nhắm đến việc đào tạo những con người chỉ nghe mà không phê phán, chỉ theo mà không tìm hiểu, chỉ chấp nhận mà không được hỏi, thì rõ ràng những tìm hiểu, đặt câu hỏi hay phê phán đều bị coi là quá đáng, là cực đoan.

150104011

Thế nhưng, có ba điều cần lưu ý.

Thứ nhất, giữa màu đen màu trắng thì có màu xám, giữa màu xanh dương và màu vàng có màu xanh lá cây, nhưng giữa sự thật và sự giả trá, giữa cái thiện và cái ác, không có trung gian. Một là chọn cái tốt, cái thiện, hai là theo cái gian, cái xấu, không có chuyện đứng giữa. Cho nên bạn thà chấp nhận bị gọi là cực đoan chứ không thể “ba phải”. Và như thế, dùng từ cực đoan ở đây là sai, phải gọi là “cực thiện” mới đúng với ý nghĩa và bản chất sự việc.

Thứ hai, khi một người nhảy xuống hồ nước để bơi, anh ta dù muốn lặn xuống đáy cũng khó khăn lắm, mà thường anh ta lơ lửng rồi trồi lên mặt nước. Điều này phần nào nói lên sự thật này: con người có bản năng hướng lên, dù có lơ lửng rồi cũng bay lên cao. Chỉ có những ai theo đuổi chủ thuyết đè nén con người mới đẩy con người xuống tận đáy nước. Ai lên cao thì bị gọi là cực đoan. Trong tình huống này, nếu anh không “cực đoan”, anh sẽ bị nhấn chìm!

Điều thứ ba là điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết ngắn này. Tất cả các tôn giáo đều đề cao cái thiện. Riêng Hội Thánh Chúa Kitô được Chúa thiết lập không chỉ để dạy cho con người làm lành lánh dữ. Không chỉ như thế. Hội Thánh là một cộng đoàn người được chọn để rao giảng mầu nhiệm Thập Giá và Vương Quốc, để làm chứng cho Vương Quốc chân lý, tình yêu, công bằng và liên đới, và góp phần làm cho Vương Quốc của Cha “trị đến”.

Hiểu như thế, Hội Thánh không đứng ngoài các vấn đề trần thế. Hội Thánh cũng không thể trung dung, nửa vời, thỏa hiệp để đổi lấy cái dễ dãi bên ngoài. Hội Thánh và con cái mình phải lên tiếng trước cái ác. Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy:

Học thuyết xã hội này cũng bao gồm cả nghĩa vụ phải tố cáo mỗi khi tội có mặt: tội bất công và tội bạo lực, cách này hay cách khác, đang lan tràn qua xã hội và thâm nhập vào xã hội. Nhờ biết tố cáo, học thuyết xã hội trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị xâm phạm, nhất là các quyền lợi của người nghèo, người yếu kém (Hiến chế Gaudium et Spes).

Người đời có thể dở dở ương ương nửa ấm nửa nguội để tìm chỗ đứng an thân, nhưng người Công Giáo, từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ, không ai có quyền đó. Không ai được tránh cái “thái cực” tốt cả. Chúa Giêsu bảo nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn, còn dở dở ương ương sẽ bị mửa ra.

Tôi đã nghe có vị linh mục nói “phải yêu thương”. Nhưng yêu là yêu ai? Anh yêu người có quyền, anh biếu xén cho họ thì dễ quá. Nhưng khi yêu kiểu ấy, anh lỗi bác ái với người nghèo, người cô thân cô thế. Giáo lý Công giáo dạy yêu thương. Chính xác. Nhưng là yêu thương mọi người, chứ không chỉ yêu người quyền thế.

Giáo lý còn dạy công bằng, dạy xả thân cho sự thật, dạy đề cao người cô thân khốn quẫn. Ngồi trong phòng máy lạnh, anh viết bài suy niệm yêu thương thì dễ hơn bạn anh đang xông vào chỗ người chết đói chết khát để cho họ miếng cơm manh áo. Cả hai đều cực đoan vì ở hai thái cực. Nếu phải chọn, tôi chọn cực thứ hai, viết bài, rao giảng và chia sẻ giữa đám dân nghèo chứ không phải chỉ ngồi viết trong phòng máy lạnh.

Như thế, nếu hiểu cực đoan đúng ý nghĩa là tận một đầu sự vật, thì có hai cực đoan: tốt, thiện hảo và xấu, tàn ác. Chúng ta phải chọn thái cực thứ nhất, làm điều tốt, cổ vũ công lý hòa bình và lên án bất công.

Nhưng có lẽ từ nay những ai muốn nói đến những người xả thân vì sự thật, hết lòng vì công lý, lên án cái xấu, thì đừng dùng từ cực đoan nữa, mà thay vào đó là từ “dấn thân”, vừa đúng nghĩa mà vừa diễn tả hết sự thật.

Bài viết này cũng xin như một lời tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã ban cho chúng con những vị mục tử dám nói lên tiếng nói công lý hòa bình trong thời đại chúng con đang sống. Chúng con xin cám ơn Cha Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế hai nhiệm kỳ vừa qua cùng với Hội Đồng Quản Trị, đã hết lòng đứng về phía sự thật, công lý và người nghèo. Xin Chúa chúc lành cho Cha Giám Tỉnh và quý Cha quý Thầy.

Chúng con cầu chúc Cha Tân Giám Tỉnh và quý Cha quý Thầy trong Hội Đồng mới tràn đầy hồng ân Chúa trong sứ vụ Chúa giao giữa thời đại còn rất nhiều ngổn ngang phía trước.

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

Bàn Tay của Người Vợ.

Bàn Tay của Người Vợ.

Tôi vắt óc nhưng không tài nào nhớ nổi lần cuối cùng mình nắm đôi tay ấy là khi nào… Có lẽ là trong tuần trăng mật cách nay đã mười tám năm.
Trước đây, nếu có ai nói rằng, cuộc đời con người ta có thể thay đổi vì một chuyện tình cờ thì tôi chẳng bao giờ tin, cho đến khi điều đó xảy ra với chính mình.
Đúng vào ngày này năm ngoái, sau cuộc họp giao ban buổi sáng, công ty tôi tổ chức chúc mừng chị em nhân ngày của một nửa thế giới. Hôm đó, chẳng hẹn mà tất cả chị em đều chưng diện rất đẹp.
Trong khi sếp phát biểu chúc mừng, tôi đảo mắt ngắm nhìn mấy chục bông hoa đang tỏa hương thơm ngát trong phòng. Ôi chao, sao em nào cũng đẹp, cũng trẻ, cũng duyên dáng với áo váy điệu đàng.
Ánh mắt tôi vô tình chạm vào đôi bàn tay của cô thư ký hành chính ngồi đối diện. Tôi ngạc nhiên. Sao trên đời này lại có đôi bàn tay xinh đẹp như thế nhỉ? Những ngón tay búp măng trắng nuột nà kia hẳn là mềm mại, ấm áp lắm. Tôi tưởng tượng, nếu được chạm vào đôi tay ấy một lần thì… có chết cũng cam lòng.
Để dằn nén “tư tưởng” hư hỏng đang trỗi dậy mãnh liệt trong lòng, tôi rê mắt sang những đôi tay khác. Trời ạ, thì ra không chỉ có một đôi bàn tay của cô thư ký hành chính mà đôi tay của chị trưởng phòng kế toán, của cô phó phòng kinh doanh, của em giám đốc tiếp thị… thảy đều trắng ngần, thon thả.
Tôi chưa bao giờ nhìn ngắm kỹ những đôi bàn tay phụ nữ như thế. Quả thật cái đẹp luôn có sức cuốn hút, làm cho người ta có thể nảy sinh rất nhiều ước ao, khát thèm…
Cả buổi sáng hôm đó, tôi thành kẻ tương tư. Trong đầu tôi cứ mơ hồ, lãng đãng về sự xinh tươi, quyến rũ của những người phụ nữ có đôi bàn tay ngọc ngà.
Cảm giác ấy chỉ mất đi khi tôi về đến nhà. Vừa trông thấy tôi, bà xã đã giục:“ Anh rửa mặt, thay đồ đi rồi ăn cơm kẻo nguội.”.
Bàn ăn đã dọn sẵn. Hai thằng con tôi đang chờ ba mẹ. Mùi thức ăn bốc lên thơm phức. Mấy khứa cá thu chiên vàng, dĩa rau luộc xanh mướt, chén nước mắm tỏi ớt đỏ đỏ xanh xanh, tô canh khổ qua nấu cá thác lác thơm lừng hành tiêu… khiến bụng tôi sôi sùng sục. Tôi hít một hơi thật đầy và đưa tay đỡ chén cơm từ tay vợ.
Ăn một hơi 3 chén cơm, tôi buông đũa. Trong khi cái cảm giác no đủ của gia đình trào dâng trong lòng khiến tôi cực kỳ khoan khoái và chẳng còn tơ tưởng đến bất kỳ thứ gì khác trên đời thì bất ngờ, ánh mắt tôi chạm đúng vào đôi bàn tay của vợ đang thong thả gọt xoài.
Tôi há hốc đến không nói thành lời. Đôi tay của vợ tôi rám nắng và lấm chấm đồi mồi. Những ngón tay trên bàn tay ấy gầy guộc, nhăn nheo và suông đuồn đuột chứ không múp míp, búp măng như những bàn tay mà tôi được chiêm ngưỡng sáng nay.
Tôi vắt óc nhưng không tài nào nhớ nổi lần cuối cùng mình nắm đôi tay ấy là khi nào… Có lẽ là trong tuần trăng mật cách nay mười tám năm. Ừ, đúng là đã 18 năm rồi, tôi chưa một lần nắm bàn tay ấy!
“ Đưa đây anh gọt cho.”- tôi nhẹ nhàng bảo vợ. Vợ tôi khẽ chau mày:“ Anh sao vậy? Ở công ty có chuyện gì à?”. Tôi lắc đầu:“ Không có. Em đưa đây cho anh.”.
Rồi tôi lọng cọng gọt mãi mới xong quả xoài nhưng chỗ lồi, chỗ lõm nhìn chẳng muốn ăn. Tôi cắt miếng to nhất đưa cho vợ:“ Em ăn đi.”. Vợ tôi trố mắt không nói nên lời.
Tôi không nói cho bà xã biết trong đầu tôi đang nghĩ gì, nhưng tối hôm ấy tôi đã cầm mãi đôi tay gầy guộc, thô ráp của vợ. Đôi tay ấy đã cho cha con tôi những bữa cơm ngon, những bộ quần áo thơm tho sạch sẽ; đã sắp xếp nhà cửa tươm tất gọn gàng để tôi hãnh diện mỗi khi có bạn bè, người quen đến nhà… Đôi tay ấy dẫu không đẹp đẽ, sang trọng, quyến rũ, nhưng đối với cha con tôi, đó là đôi tay vàng.
Và điều quan trọng nhất là kể từ ngày 8-3 năm ngoái, 3 người đàn ông chúng tôi đã chính thức bước vào căn bếp của gia đình với vai trò là những người trong cuộc.
Xin cảm ơn những bàn tay đẹp của những người phụ nữ đẹp. Chính chúng đã giúp tôi nhận ra, có những bàn tay không đẹp, nhưng đó lại là bàn tay vàng.

Phúc An

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Giáo hạt Cách Tâm Phát Diệm: Thánh lễ tạ ơn nhân dịp kỷ niệm hôn phối

Giáo hạt Cách Tâm Phát Diệm: Thánh lễ tạ ơn nhân dịp kỷ niệm hôn phối

LM. Nguyễn Hồng Phúc

Ngày lễ Thánh Gia thất, quan thầy Chương trình TTHNGĐ giáo phận Phát Diệm đã diễn ra hết sức tốt đẹp, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng đã về chủ sự thánh lễ vào ngày 28/12/2014 tại giáo xứ Cách Tâm đúng theo chương trình đã định. Cùng Đồng tế với Đức Cha có cha trưởng ban mục vụ gia đình của giáo phận, các cha linh nguyền và các cha trong giáo hạt Cách Tâm. Thánh lễ quy tụ khoảng trên 1000 giáo dân, trong đó hầu hết là các anh chị Song nguyền. Đặc biệt trong Thánh lễ này có 63 cặp gia đình kỷ niệm thành hôn được Đức Cha chúc phúc và trao bằng kỷ niệm. Trong đó gồm có 5 cặp Ngọc khánh, 23 cặp Kim khánh, 27 cặp tròn 40 năm và 45 năm, 8 cặp Ngân khánh hôn phối.

Trước thánh lễ, Đức Cha đã dành thời gian 30 phút để huấn dụ, ngài đồng cảm với quý anh chị Song nguyền trong đời sống yêu thương giữa các gia đình, ngài tạ ơn về thời gian quý giá như ngọc, như vàng, như bạc với các gia đình kỷ niệm thành hôn. Không chỉ đánh giá ơn gọi cao quý của hôn nhân, Đức Cha Giuse còn phân tích những hoa trái trong gia đình kiến tạo nên hạnh phúc của cả nhiều thế hệ. Ngược lại, những đổ vỡ trong gia đình gây tổn thương cho Giáo Hội và xã hội biết bao! Ngài kết thúc huấn từ bằng những câu chuyện dí dỏm, những phương pháp giản dị đời thường nhằm gắn kết những bất đồng đổ vỡ. Đức Cha hướng gia đình vượt trên những khó khăn để xây dựng đời sống hôn nhân bền vững. Những ví dụ thực tế mà sâu sắc như quả chanh chua không ai ăn trực tiếp được nhưng biết cách pha loãng và thêm chút đường dịu ngọt sẽ thành một ly nước chanh ngọt mát trong cuộc đời, mẻ kia chua không ai ăn được nhưng pha chế thành giấm hay nấu canh chua sẽ là món ăn ngon bổ trong cuộc sống…

Đoàn rước gồm có quý anh chị Song nguyền và các gia đình kỷ niệm thành hôn rước đoàn chủ sự tiến lên lễ đài. Đây là linh đài La Vang Cách Tâm vừa hoàn thành dịp tháng 5/2014.

Linh đài rộng 200m2 đủ cho vài trăm linh mục cùng đồng tế. Dưới chân Mẹ La Vang, khung cảnh uy nghiêm và thiêng thánh của buổi lễ đã được hiện lên.

Trước thánh lễ, cha Tổng linh nguyền đã đọc thư email của cha Sáng lập chúc mừng Giáng Sinh và Năm mới tới quý cha và quý anh chị Song nguyền, ai cũng vui mừng và xúc động.

Cha Tổng linh nguyền cũng giới thiệu lên Đức Cha sơ lược về Chương trình TTHNGĐ tại Phát Diệm: … “ Chương trình TTHNGĐ giáo phận Phát Diệm chúng con, từ khóa đầu tiên do cha sáng lập Phêrô Chu Quang Minh mở tại Phát Diệm đến nay đã được 9 năm. Ban đầu chỉ mới hình thành Liên hợp gia Phát Diệm gồm 130 cặp gia đình, ngày nay đã phát triển thành 15 liên hợp gia với tổng số là 750 cặp gia đình. Những gia đình thường xuyên sinh hoạt liên gia và liên hợp gia, trên thực tế vào khoảng 282 và đều có mặt trong thánh lễ Quan thầy hôm nay. Bản thân con số chưa nói lên điều gì, nhưng thiện chí của mỗi gia đình khi tham gia vào chương trình đều tâm niệm giữ gìn hạnh phúc gia đình bền vững, hoạt động Tông đồ song đôi trong giáo xứ và trong chương trình. Cộng tác với mọi người trong phụng sự tin yêu để cùng nhau xây dựng Nước Chúa muôn đời. Nền tảng thực hành là Khiêm nhường biết lỗi, nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi và tha lỗi. Phương pháp thực hành là khiêm nhường nói ra một yếu đuối để sửa chữa và thay đổi đời sống, nhằm đạt tới mục đích yêu thương và gần gũi bằng việc làm trong gia đình. Xét theo linh đạo thì đây là chương trình đơn giản nhất nhưng đó lại chính là đoàn sủng của chương trình. Trong suốt những năm qua, chúng con luôn nhận được sự quan tâm, khích lệ và giáo huấn của Đức Cha, đặc biệt trong năm Phúc Âm hóa đời sống gia đình vừa qua. Chính sự quan tâm này đã thúc đẩy chúng con luôn cố gắng để không phụ tình thương của Đức Cha và hơn nữa, không phụ tình thương hải hà của Thánh Gia”.

Thánh lễ cử hành dưới bầu trời se lạnh, không mưa, không nắng nhưng lộng gió như trong một không gian đầy ắp Thánh Thần. Đức Cha đề cao vai trò gia đình trong bài giảng lễ vì chính Chúa Giêsu cũng đã sinh xuống trong một gia đình để thánh hóa gia đình trở nên thánh. Ngài mời gọi các gia đình hãy noi gương Thánh Gia để xây dựng gia đình hạnh phúc. Cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng thuận vợ thuận chồng nhưng nhiều khi đầy những cay đắng, đau khổ. Để có đời sống hạnh phúc, mỗi người phải tôn trọng luật Chúa, tôn trọng lẫn nhau, hãy đặt tình yêu vào đời sống hôn nhân.

Cuối thánh lễ, anh Giuse Lê Văn Hoàng, chủ nguyền chương trình TTHNGĐ Phát Diệm đã thay mặt anh chị em Song nguyền và các gia đình kỷ niệm thành hôn lên cám ơn. Trong đó có nội dung chính:

“…Đối với chúng con là những người sống trong ơn gọi hôn nhân, nay tham gia vào chương trình TTHNGĐ, chúng con lắng nghe và thấm sâu lời kêu gọi của Thư Chung HĐGMVN đã kêu gọi: “Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, thờ phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia. Hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia đình trở thành lời kinh sống động. Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên đây là đòi hỏi quan trọng trong đời sống gia đình Công Giáo. Vì thế, cùng với việc siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết xin anh chị em duy trì giờ kinh chung trong gia đình, và cố gắng đưa Lời Chúa vào giờ kinh này”(Thư chung HĐGMVN năm 2013 số 6,1).

Đúng như thư HĐGMVN đã nhận định: “Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện”. Mặt khác, chúng con cũng nhận thức rằng bối cảnh phức tạp của xã hội hiện nay đang làm lung lay nền tảng đạo đức và luân lý của các gia đình, nhiều gia đình mất phương hướng. Nền văn hóa mới toàn cầu đang nổi dậy cho cá nhân chủ nghĩa. Những lối sống và cách suy nghĩ nặc mùi thực dụng tục hóa đang là mối đe dọa cho gia đình. Những mâu thuẫn, tranh chấp đã xua đuổi con người ra khỏi mái ấm gia đình của mình. Các phương tiện truyền thông xã hội và những chính sách cưỡng bức, hạn chế sinh sản đang gây ảnh hưởng trên các giá trị gia đình. Việc gia tăng các gia đình đổ vỡ và những gia đình ly hôn là dấu hiệu cho thấy tình trạng rạn nứt trong gia đình và những nguy cơ khác cực kỳ nghiêm trọng đang làm xói mòn tình yêu hôn nhân. Tình yêu hôn nhân chân thật hiện đang biến mất tới mức báo động. Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận định: “Nếu các trái tim bị phân tán thành hàng ngàn mảnh, thì không dễ tạo được hòa bình đích thực trong xã hội” (Tông huấn Evangelii Gaudium số 229).

Từ những nhận định trên, chúng con càng thấy cần thiết và đúng đắn khi chúng con đã được tham gia chương trình TTHNGĐ để giữ gìn gia đình bền vững theo mẫu gương Thánh Gia. Chương trình là một trong những phương thế Chúa dùng để giúp các gia đình vượt qua được thách đố thời đại. Phương thế của CT/TTHNGGĐ đơn giản là vợ chồng khiêm nhường XIN LỖI và CẢM ƠN mỗi tuần ít là hai lần trước nghỉ đêm. Hàng ngày và trong các giờ sinh hoạt chung, chúng con luôn đọc Kinh Hôn Nhân Gia Đình để

“Xin cho gia đình chúng con:

– Biết CẢM THÔNG và SỐNG theo Lời Chúa.

– Biết LẮNG NGHE và KÍNH TRỌNG NHAU lúc vui cũng như khi buồn.

– Biết NHẪN NHỤC và HÒA GIẢI, khi tính tình và cách cư xử khác nhau.

– Biết HIẾU NGHĨA và CHUNG THỦY, từ trong gia đình cho tới ngoài xã hội.

– Biết lấy GƯƠNG LÀNH mà dưỡng dục con cái.

Kính xin Đức Cha, quý cha tiếp tục cầu nguyện cho chương trình TTHNGĐ và anh chị em Song nguyền chúng con được vững vàng tiến bước trong ơn Chúa và thăng tiến theo đúng đoàn sủng của Chương trình”.

Sau thánh lễ, Đức Cha còn chụp ảnh lưu niệm với anh chị em Song nguyền chung theo từng giáo hạt và riêng cho từng gia đình kỷ niệm thành hôn. Tiệc mừng đã phải muộn lại mãi sau giờ Ngọ, nhưng không ai than phiền vì niềm vui đã tràn đầy cõi lòng. Tạ ơn thánh Gia đã ban cho chúng con một ngày Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Giữa mùa đông lạnh giá nhưng mọi người ra về vẫn thấy lòng mình ấm áp mãi tình Chúa và tình người.

Lm Phêrô Hồng Phúc.

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối. Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa. Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc. Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt