CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

LM VĨNH SANG, DCCT

Tôi có một người bác là cha Dòng, năm nay cụ đúng 100 tuổi và sắp kỷ niệm 75 năm nhận Thánh chức Linh Mục ngày 4 tháng 8, một biến cố khá quan trọng, một dấu ấn thật tuyệt vời cho một đời người.  Mọi người kính cẩn hồi hộp chờ đúng ngày mừng lễ, còn hơn nửa năm nữa thôi.  Mới hôm qua chúng tôi đến thăm, cụ đã quá già nhưng đầu óc còn rất minh mẫn, mắt cụ bỗng dưng bị mờ cách đây không lâu, nhưng tai thì vẫn thính lắm, con cháu nói chuyện cụ nghe và đoán được đứa nào ngay.  Cụ hỏi thăm người này, nhắc tới người kia, đôi lúc còn nói bông đùa với con cháu một cách dí dỏm.

Trong bữa ăn cụ ngồi ngay ngắn vào vị trí của mình, xướng kinh khá rõ cho cộng đoàn anh em cùng đọc.  Khi cụ ăn, người giúp việc bỏ từng món thức ăn vào tô cho cụ, tay phải cụ vẫn còn cầm thìa để tự xúc, chỉ có tay trái do bệnh khớp đã bị co quắp lại thì đặt yên trên mặt bàn.  Ăn xong, món cuối cùng là sữa chua thì phải có người đút để khỏi bị nhiễu.  Ngồi chơi với anh em một lúc rồi cụ đứng lên, làm dấu đọc kinh cám ơn và chống gậy đi một vòng Nhà Thờ trước khi về giường nghỉ.

Ngày nào cũng vậy, không bao giờ bỏ Lễ, các giờ kinh cộng đoàn và một giờ chầu Thánh Thể.  Tôi hỏi thầy giúp việc xem cụ có cần gì, thầy nói cụ chỉ nhắc và mong con cháu đến thăm cho vui.  Cụ trải qua một cuộc đời Linh Mục rất bình dị, chỉ vài năm làm cha xứ, phần lớn thời gian làm Linh Hướng và dạy ở Chủng Viện, xem xét cuộc đời không có gì đặc biệt trổi trang, chẳng ghi được dấu ấn nào để đời cho nhân loại, nếu có “nổi tiếng” thì cụ nổi tiếng là người cầu nguyện lâu giờ trong Nhà Nguyện và tha thiết với Mình Thánh Chúa.  Anh em Linh Mục và con cháu của cụ nói với nhau, đó là một đời Linh Mục thành công, thành công vì đi trọn con đường của mình trong khiêm tốn, trong sự khó nghèo và yêu mến…

Còn mẹ tôi thì năm nay cũng đã 95 tuổi, bà yếu mệt không di chuyển được, chỉ nằm với ngồi quanh quẩn trong nhà, sáng nào trời ấm áp, người giúp việc bỏ bà lên xe lăn đưa bà đến Nhà Thờ.  Đi ra ngoài gặp người này người kia bà vui vẻ hẳn lên, tuy vậy cũng có lúc ngồi ngủ trên xe lúc nào không biết.  Bà ngủ ban ngày gà gật, nhưng ban đêm lại thức trắng không ngủ tý nào.  Chính khi không ngủ, giữa đêm thanh vắng, bà sợ cô đơn rồi luôn miệng gọi con gọi cháu, lắm lúc phải đến hai người giúp bà ban đêm mới chịu nổi.

Con cháu đến thăm hay ngay cả người nuôi bà, bà cứ níu lấy và bảo đừng đi, ở lại đây với bà.  Cảm giác cô đơn và sợ hãi luôn quanh quẩn bên bà.  Khi tôi về thăm, khó có thể chào bà mà đi, vì bà khóc và muốn tôi ở lại với bà, bà luôn miệng nói: “Sao con bỏ mẹ mà đi?”  Tôi cố gắng kiên nhẫn giải thích cho bà hiểu về cuộc sống tu trì của tôi, không thể về thăm bà nhiều và cũng không thể qua đêm ngoài Tu Viện, bà nghe thì hiểu nhưng vẫn khóc và tay vẫn nắm chặt lấy tôi.  Làm con trong hoàn cảnh này thật khó xử, không đi không được, ở lại cũng chẳng xong.  Rồi một mai mẹ mất rồi sẽ chẳng bao giờ còn được cầm tay mẹ nữa…

Tôi chia sẻ về hai người già, một người là mẹ và một người là Linh Mục.  Không phải bác tôi không bị rơi vào cảm giác cô đơn, cần con cháu viếng thăm, nhưng cuộc sống nhà tu đã tách bác tôi ra khỏi cuộc giao tiếp cùng những mối dây tương quan ruột thịt gần gũi.  Bây giờ về già, bác không thể có con ruột để đòi chiều chuộng, để buộc phải năng viếng thăm.  Ông cụ bình tĩnh và chấp nhận khá nhẹ nhàng vì ông cụ đã tập sống và sống quen cùng sự cô đơn của đời tu.  Ông cụ đảm nhận đời độc thân của mình vì ông cụ trung thành trong quá khứ để có một hiện tại tiếp tục sự trung thành ấy với Chúa và chỉ còn Chúa.  Dĩ nhiên người lập gia đình là người buộc mình vào những tương quan gia đình cho đến chết.

Tôi tâm đắc và vui mừng khi thấy nhiều Hội Dòng quan tâm chăm sóc các thành viên già cả và đau yếu, những thành viên này họ đã cống hiến cuộc đời của họ cho sứ vụ, nay họ xứng đáng và cần được hưởng một sự chăm sóc đặc biệt của anh em mình.  Sao cho những ngày cuối của cuộc đời trôi qua trong hạnh phúc, bình an và yêu mến.

Một cơ sở tương đối đáp ứng cho cuộc sống an dưỡng, một không gian yên tĩnh để cầu nguyện và nghỉ ngơi, một cơ cấu y tế cần mẫn hiệu quả và một hệ thống dinh dưỡng khoa học và an toàn.  Thời khóa biểu được tổ chức khoa học và đan kín, ngoài những giờ nghỉ ngơi các cụ còn được sử dụng thời gian vào việc tập vật lý trị liệu, hàng tuần tiếp các đoàn thiện nguyện mang lại niềm vui và sự tươi trẻ.  Các giao tiếp xã hội sẽ giúp các cụ linh hoạt hơn và nghị lực hơn.  Ngôi Nhà Nguyện là con tim của cộng đoàn, một Nhà Nguyện ấm áp, mát mẻ, yên tĩnh và riêng biệt sẽ giúp các cụ hạnh phúc sống đời tông đồ mãnh liệt hơn.

LM VĨNH SANG, DCCT


****************************************

Lạy Chúa, chúng con không muốn bỏ rơi những ai đang sống trong cảnh cô đơn và chính vì thế chúng con đặt biệt cầu nguyện cho họ.
Chúng con cầu xin Chúa cho những người không được một ai để ý đến và họ phải đau khổ vì không được yêu thương.
Cho những ai đang sống giữa đám đông đô thị nhưng lại cảm thấy mình lạc lõng bơ vơ.
Cho những ai ao ước xây dựng một mái ấm gia đình mà không có khả năng thể hiện được ước mơ.
Cho những ai bị gia đình mình ruồng bỏ, không tìm được một ai để ký thác nỗi niềm tâm sự.
Cho những ai sau khi đã được vây bọc bằng một bầu khí nóng bỏng yêu thương cuối cùng lại kết thúc cuộc đời mình trong cô quạnh thê lương.
Cho những ai vì không chịu đựng nổi cô đơn của cuộc đời mình nên đã luống công đi tìm khuây khỏa.
Cho những ai không hiểu được rằng chính Chúa đang có mặt trong nỗi cô đơn của họ và đang ban tặng cho họ một tình bạn khích lệ ân cần.
Cho những ai tiếp nhận cô đơn như một ân sủng, ân sủng của một cuộc sống thân tình sâu đậm hơn trong Chúa.
Cho những ai tìm thấy trong cô đơn con đường giúp mình triển nở bằng một cuộc hiến mình hơn nữa cho tha nhân.
Cho những ai tự nguyện sống đời độc thân vui chịu sự cô đơn và biết kết hợp với sự cô đơn của Chúa nơi vườn Giệt và trên đồi cao khổ giá.  Amen!

Prière au coeur du monde, J. Galot, sj –

Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-02-07

haininh02072015.mp3

ba-622.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch (trái) và phóng viên Hải Ninh tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015.

RFA

Your browser does not support the audio element.

Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) vừa đưa một bản báo cáo về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam năm 2014. Theo đó, báo cáo cho biết Việt Nam vẫn kiểm soát chặt chẽ những người ủng hộ dân chủ, phê bình chính quyền và cùng nhiều vấn đề vi phạm nhân quyền khác. Nhân dịp này, đại diện của Human Rights Watch là ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức này, dành cho Đài Á Châu Tự Do cuộc phỏng vấn đặc biệt.

Ngăn cấm quyền tự do ngôn luận

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Thưa ông, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền vừa đưa ra một báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014. Vấn đề nào ông coi là nghiêm trọng nhất ở Việt Nam?

Brad Adams: Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ. Ý tưởng về nhà nước một đảng đáng lẽ phải vứt vào thùng rác từ lâu lắm rồi. Chúng tôi đề nghị chính quyền Việt Nam thực hiện tiến trình cải cách bằng việc tách chính phủ ra khỏi nhà nước, cho phép người dân những quyền tự do cơ bản, không bỏ tù người ta vì thể hiện quan điểm như là kêu gọi dân chủ, không lấy những luật hình sự như đạo luật hay 79 hay 88 để tống tù người ta vì có quan điểm chính trị khác biệt.

”  Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ.
-Brad Adams”

Cũng có một vấn đề nghiêm trọng về quyền lao động ở Việt Nam, công nhân nhà máy không được tụ tập tự do, họ không được đòi tăng lương hay đòi điều kiện làm việc tăng lên. Đây là một vấn đề lớn vì Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, họ phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra cũng có vấn đề lớn về đất đai ở Việt Nam với hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối chiếm đất. Một phần là vì đất không đủ cho dân số, hơn nữa đảng và quân đội xông vào chiếm hoặc giao đất sinh sống cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án.

Điều chúng tôi muốn thấy là chính phủ Việt Nam phải thừa nhận rằng đúng, chúng tôi có một số vấn đề bởi vì nước nào cũng có những vấn đề của họ và chúng tôi sẽ nghiêm túc giải quyết nó.

Hải Ninh: Theo tôi thấy thì dường như có một sự đối lập ở đây. Chính phủ Việt Nam khi ra thế giới thì luôn hứa rằng chúng tôi sẽ cải thiện tình hình dân chủ, thế nhưng mặt khác thì họ lại bắt nhiều nhà bất đồng chính kiến, hay không cho phép người ta thực hiện tự do tôn giáo và nhiều vấn đề khác nữa. Tại sao lại như vậy?

ba-400.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015. RFA PHOTO.

Brad Adams: Tôi nghĩ rằng đảng sợ rằng nếu họ nới lỏng tay và cho phép những quyền tự do cơ bản như quyền được phát biểu ý kiến, thì họ sẽ mất quyền kiểm soát tình hình chính trị. Đây là điều hầu hết các đảng cộng sản nghĩ. Họ có thể đúng, tuy nhiên, điều đó cũng có thể tốt, bởi vì việc mất quyền kiểm soát chính trị có nghĩa là người dân được quyền thể hiện quan điểm và quan điểm của họ có ảnh hưởng tới chính sách. Một điều mà đảng cộng sản Việt Nam nên làm, đó là cho phép bầu cử toàn quốc một cách tự do, công bằng và toàn diện, giống như tất cả các quốc gia trong khu vực trừ Lào và Việt Nam.

Chúng ta cũng bắt đầu thấy chính phủ Việt Nam thay đổi vì áp lực từ dưới lên. Ngày càng nhiều những người bất đồng chính kiến dũng cảm, phần lớn là những người trẻ, những blogger, những người trong giới truyền thông, các nhà hoạt động. Họ dấn thân vào những nguy hiểm nghiêm trọng, vì anh không biết điều mà anh nói hôm nay có thể dẫn tới việc anh bị tống vào tù ngày mai. Họ chấp nhận nguy hiểm đó và họ ngày càng tăng cường đòi quyền lợi. Họ muốn tham gia vào việc lèo lái quốc gia trong tương lai, họ muốn tham gia vào chính quyền, họ muốn có tiếng nói, và điều đó là hoàn toàn bình thường.

Vì thế, tôi nghĩ rằng chính phủ và đảng cộng sản cần phải điều chỉnh, họ tìm cách có những điều chỉnh nhỏ thôi nhưng họ sẽ phải có những thay đổi lớn hơn.

Trấn áp các tổ chức xã hội dân sự

Hải Ninh: Hiện nay có nhiều tổ chức xã hội dân sự đứng ra cổ vũ các vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về các hoạt động của họ và liệu Human Rights Watch có thể làm gì để giúp đỡ họ?

” Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng.
-Brad Adams”

Brad Adams: Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng. Các nhóm hoạt động cỗ vũ các vấn đề khác chẳng hạn như quyền phụ nữ, môi trường hoặc những vấn đề không bị chính phủ coi là nhạy cảm, họ thường được phép hoạt động trong một thời gian lâu hơn. Nếu chính phủ thấy rằng họ hoạt động có chút chính trị hoá, họ sẽ bị trấn áp và những người tham gia sẽ bị bắt. Điều đó không chấp nhận được.

Vì thế, chúng tôi tìm cách giúp họ một cách cẩn trọng. Chúng tôi không muốn có ai đó bị tống vào tù bởi vì họ liên lạc với Human Rights Watch hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Chúng tôi hỗ trợ về tinh thần, kỹ thuật và thông tin, chúng tôi đưa các vụ việc ra quốc tế. Tuần này, tôi đã tới Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, sau đây tôi sẽ tới Lầu Năm Góc để bàn về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, và giúp truyền tải những quan ngại của người Việt Nam tới họ.

Chúng tôi có một trang web bằng tiếng Việt, và dịch tất cả các tài liệu của chúng tôi sang tiếng Việt. Những tài liệu này được đăng lại khắp nơi. Một điều rất thú vị ở đây là Facebook và mạng xã hội đang giúp lan truyền thông tin. Chính phủ Việt Nam không thể nào chặn những thông tin mà họ không thích nữa.

Hải Ninh: Human Rights Watch nhiều năm nay liên tục kêu gọi chính quyền Việt Nam tôn trọng quyền con người. Thế nhưng dường như chính quyền Việt Nam cố tình lờ đi. Họ cứ tiến một bước rồi lại lùi hai bước. Liệu Human Rights Watch có thể làm gì để thay đổi điều này?

Brad Adams: Điều tôi thấy ở đây là nếu cộng đồng đấu tranh về nhân quyền không tiến hành vận động cho những tù nhân bất đồng chính kiến, số người bị bắt còn nhiều hơn thế nữa. Chúng ta không biết còn những ai sẽ bị bắt nếu chúng tôi không làm việc của mình. Tôi đồng ý rằng khi chúng tôi vận động việc thả một tù nhân nhất định, dường như chính phủ Việt Nam lại bắt người khác thay thế. Điều rất đáng thất vọng bây giờ là họ đưa những tù nhân này ra nước ngoài sống lưu vong. Đó không phải là giải pháp hợp lý.

Họ còn dùng những tay côn đồ để đánh các nhà hoạt động, thay vì bắt bớ. Chính quyền Việt Nam nói với quốc tế rằng số lượng người bị bắt đã giảm xuống, mọi chuyện đã khá hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người bị bắt không thấp hơn, chúng tôi có con số chứng minh. Thêm vào đó, đánh người không tốt hơn là tống người ta vào tù và chúng ta bắt đầu thấy nó diễn ra và điều đó là hoàn toàn không thể chấp nhận được.

Về câu hỏi tầm ảnh hưởng của chúng tôi, chúng tôi đưa ra báo cáo về việc cảnh sát hành hung các nhà hoạt động vào năm ngoái, và thấy những sự phản ứng về chính sách ở cấp cao. Quốc hội Việt Nam đã tiến hành một cuộc điều trần ở uỷ ban tư pháp về việc cảnh sát đánh người, điều chưa từng xảy ra trước đó. Bộ trưởng Công an, phó bộ trưởng Công an, và các bộ trưởng khác phải đến và giải trình công khai trước quốc hội.

Tôi nghĩ sở dĩ điều  này diễn ra là vì chúng tôi chọn việc tập trung vào các báo cáo cảnh sát đánh người vì chúng tôi nghe được điều đó từ chính người dân Việt Nam, chúng tôi đọc được trên báo, người ta giận dữ về cách cảnh sát đối xử với người dân. Vì thế, chúng tôi tập trung vào các vấn đề mà chúng tôi nghĩ rằng chính phủ cũng nhận ra đó là một vấn nạn. Và dù họ không nói với chúng tôi rằng xin cảm ơn báo cáo của các vị, chúng tôi trân trọng việc các vị quan tâm tới các người Việt Nam được đối xử, và chúng tôi sẽ làm việc dựa trên các đề xuất của các vị, nhưng rõ ràng là họ có thay đổi. Tôi thấy có dấu hiệu rằng chính phủ Việt Nam nhận thấy họ không thể chỉ khư khư hoạt động trong vòng Việt Nam nữa và giả vờ rằng cả thế giới không tồn tại và rằng người dân Việt Nam chẳng biết gì cả.

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Cuối Năm Nói (Chơi) Về Chuyện Cuối Đời

Cuối Năm Nói (Chơi) Về Chuyện Cuối Đời

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Tố Hữu

Có bữa, đang ngồi hớt tóc, tôi chợt nhìn thấy vài đốm tóc trắng (li ti) chen lẫn với tóc đen trên chiếc khăn choàng. “Cái ông thợ cúp này làm biếng, không thay khăn mới, cũng không rũ sạch cái cũ nên nên mới còn sót lại tóc tai tùm lum của người khách trước – một khứa lão (mắc dịch) nào đó,” tôi nghĩ vậy.

Vài phút sau, tôi hốt hoảng nhận ra rằng: những vụn tóc đen, lấm tấm cùng với tóc trắng xuất hiện mỗi lúc một nhiều. Té ra, đó là tóc bạc của chính mình chớ còn “khứa lão” (mắc dịch) nào vô đó nữa!

Chèn ơi, vậy mà tui cứ tưởng là mình còn trẻ. Mái tóc của tôi, cách đây chưa lâu, chừng vài tuần hay vài năm gì đó, vẫn còn xanh (xanh) mà. Chớ tụi nó bạc hồi nào vậy, Trời? Sao kỳ cục vậy, mấy cha? Khi khổng, khi không cái tất cả chúng ta đều già cái rụp, và già (ngang) hết như vậy sao?

Mà tuổi già thì như chuối chín, càng chín nó càng mềm. Muốn cương cũng không được nữa, đành phải yên phận chịu (già) thôi.

– Ủa, mà già thì đã sao kìa? Làm gì mà nẫy giờ cứ chối đây đẩy, và cứ rẫy nẩy lên – như đỉa phải vôi – vậy cha nội?

– Ý, đừng có tưởng chuyện giỡn chơi à nha. Già thì lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và lôi thôi (luôn) cho đến chết. Coi: tuổi già đâu có khi nào chịu tới mình ên. Nó đi cặp kè với đủ thứ những chuyện (rất) bà rằn và lằng nhằng khác nữa: bệnh tật, chán chường, cô đơn, thiếu hụt…

Đã vậy, cuối năm, ông bạn Huy Phương kể chuyện (nghe) sao mà rầu muốn chết luôn:

“Trước ngày Giáng Sinh tôi có dịp vào viếng thăm một người bạn sắp qua đời trong một nursing home. Trên hành lang dẫn vào phòng người bạn, và ngay trước chỗ làm việc của nhân viên ở đây, tôi thấy nhiều ông bà cụ ngồi trên những chiếc xe lăn, nhìn những người qua lại. Các cô y tá đã sắp xếp cho các cụ ra ngồi trên hành lang đối điện với văn phòng làm việc, một phần để trông chừng các cụ, một phần cho các cụ đỡ buồn. Nhưng các cụ nhìn sự vật một cách dửng dưng, đôi mắt đờ đẫn, có người đã gục đầu xuống ngủ…”

Thiệt là ớn chè đậu!

Tui biết chắc là ông Huy Phương không đặt chuyện để hù em út nhưng, cùng lúc, tôi cũng biết rõ rằng cái cảnh “tầng đầu địa ngục” – vừa được mô tả – không phổ biến lắm ở Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại. Cách phân chia chia tuổi già, và những công trình nghiên cứu khoa học, ở hai quốc gia này, cho chúng ta những con số tương đối  khả tín và khả xác hơn – về vấn đề này.

Người ta chia ra tuổi già làm ba loại:

  • Chớm già (young – old) là nhóm lớn nhất, chiếm 70 %.
  • Già (old-old) 20 %, kém hơn năng động hơn lớp trên thấy rõ.
  • Già quá cỡ thợ mộc (oldest-old) chừng 10 %. Trong số này chỉ có 4 %  – chớ không phải là 20 %, như nhiều người vẫn nghĩ – đang sống ở nursing home hay bệnh viện (Palmore et al. 2005 Encyclopedia of ageism, Binghamton, NY: Haworth).

Như vậy, chính xác, chỉ có 4 % người già – thuộc nhóm cuối cùng – sống ở viện dưỡng lão thôi. Đa phần còn lại đều có cuộc sống bình thường trong cộng đồng. Nhưng khách quan mà nói thì sống ở đâu chăng nữa thì khi đời đã về chiều cũng khó mà vui.

Xã hội, rõ ràng, chưa bao giờ chuẩn bị chu đáo cho những công dân lão hạng để họ bước vào giai đoạn (hụt hẫng) còn lại của kiếp người. Đến  tuổi nghỉ hưu, chúng ta bỗng dưng trở nên một người nào khác, không còn vai trò gì rõ rệt nữa trên cuộc đời này. Và hoàn cảnh sống (rồi) cũng khác luôn, thời giờ thì dư mà tiền thì thường thiếu. Đôi khi, lơ ngơ không biết làm gì cho nó hết một ngày. Nói chi tới một tuần, một tháng, hay cả một (hay hai) … chục năm sắp tới!

Làm sao sống an vui và có ý nghĩa, cho những năm tháng còn lại, là một câu hỏi khó – đối với phần lớn những công dân lão hạng – ở những quốc gia phú túc. Những định chế xã hội hiện hữu không có câu trả lời, và cũng không có những chức năng hổ trợ, cho sự an lạc của tuổi già.

Đây là chuyện riêng của từng cá nhân. Vị tha hay vị kỷ? Thủ cho nó chắc ăn hay xả láng, sáng về sớm là tùy ý mỗi người. Không có tổ chức, cũng không có cá nhân nào – kể cả vợ chồng con cái – có thể đóng góp gì nhiều, cho bất cứ ai, vào giai đoạn cuối cùng của kiếp nhân sinh.

Ở nước ta thì khác. Câu hỏi thiết thân của tuổi già không phải là sống ra sao mà làm sao để sống? Vấn đề, xem chừng, có vẻ giản dị hơn nhưng vẫn là một câu hỏi khó đối với rất nhiều người dân cao tuổi – ở Việt Nam.

Những định chế xã hội (cơ quan, ban ngành, đoàn thể, hội hè … thổ tả gì đó) thì có rất nhiều và cũng rất thừa. Chúng hoàn toàn vô can, cũng như vô trách nhiệm, với cuộc sống của những công dân lão hạng.

Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân là ba phạm trù luôn luôn đi liền, và gắn bó mật thiết với nhau, khi có nhu cầu tuyên truyền hay đóng góp. Đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong. Nhưng chuyện sống còn và an sinh của mỗi công dân – vào lúc cuối đời – lại là chuyện thuần túy có tính cá nhân. Đảng và Nhà Nước tuyệt đối không dính dáng gì (ráo) vào chuyện đời của Nhân Dân khi trăm họ đến giai đoạn sức cùng, lực kiệt.

Cách đây chưa lâu, báo chí trong nước đồng loạt đăng tin (Cụ ông gần trăm tuổi đạp xích lô) của phóng viên Văn Nguyễn:

98 tuổi, cụ Đặng Huyền vẫn được người dân quen gọi là cụ Huần, ngày ngày vẫn đạp xích lô chở khách kiếm sống. Cụ thường bắt đầu một ngày làm việc từ khi trời còn mù sương.Trong hội thi diễu hành xích lô ở Festival làng nghề truyền thống Huế 2007, cụ Huần được vinh danh là người lái xích lô có tuổi nghề nhiều nhất tại Huế.”

“Con trai duy nhất bỏ quê vào Nam làm ăn, hơn 30 năm nay mất liên lạc, giờ cuộc sống gia đình cụ chỉ biết nhờ vào đồng công đạp xích lô và sự đùm bọc của làng xóm…Ngoài kiếm tiền nuôi bản thân, cụ Huần còn nuôi cụ bà Trần Thị Lặc, 86 tuổi, thường xuyên đau ốm.”

Cụ Đặng Huyền. Nguồn:vnexpress

Kiểu “vinh danh” của những vị tổ chức Festival làng nghề truyền thống Huế 2007,  xem ra, hơi lạ. Phản hồi của độc giả Lê Thu Hiền, dưới bài báo thượng dẫn, cũng lạ lùng không kém:

“ Cụ Huần thực sự là người đáng khâm phục vì sức khỏe, sự bền bỉ và dẻo dai của mình. Cuộc sống thêm lần nữa được minh chứng rằng không cần sự giàu sang phú quý, nghèo mà vẫn bền bỉ lao động vẫn tạo ra cuộc sống có ý nghĩa, sức khỏe niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình.”

Cụ Phạm Đờn, một công dân Việt Nam lão hạng khác, lại ở vào một hoàn cảnh sống khác, kém “ý nghĩa” hơn. Bà cụ, xem chừng, đã không có khả năng tạo được “niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình” – theo như tường thuật của ký giả Hải Luận:

“Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Thị Đờn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày…   Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét… nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng.”

Cụ Phạm Đờn cũng không được đoàn thể, hay tổ chức nào, “vinh danh” hết trơn hết trọi. Lý do, có lẽ, vì “mò cua bắt ốc” không phải là loại hình lao động được coi là vinh quang – theo tiêu chuẩn văn hoá của dân làng Ba Đình, Hà Nội.

Cụ Phạm Đờn. Nguồn: Tuổi Trẻ Online

Ông Nguyễn Văn Thành, còn có tên gọi là Lão Thành – một người mù, đang bán vé số để làm kế sinh nhai – cũng rơi vào trường hợp (không nằm trong tiêu chuẩn được vinh danh) tương tự. Phóng viên Giang Uyên –  báo Bưu Điện Việt Nam – đã không quá lời khi dùng từ ngữ “quăng quật” để mô tả cuộc sống vất vả (ngoài sức tưởng tượng) của người đàn ông khuyết tật, xấu số này:

“… đến giờ tên tuổi của cụ cũng chỉ còn là ký ức… mỗi ngày ông vẫn phải tự đi kiếm ăn qua tấm vé số và cuộc sống ‘tự lập’ nơi đầu đường xó chợ… Dù đã già yếu lắm rồi nhưng ngày ngày lão Thành vẫn phải lê bước đi khắp nơi để bán vé số tự nuôi thân. Có những hôm lão ốm nằm một chỗ nhiều ngày liền. Bụng đói không chịu đựng nổi, lão lại lọ mọ dậy bước liêu xiêu ra đường tìm đến đại lý vé số lấy vé đem bán.”

Ông Nguyễn Văn Thành. Nguồn: ictnews.

Tương tự như hai bài phóng sự viết về cuộc đời của cụ Phạm Đờn và cụ Đặng Huần, bên dưới bài viết về ông Thành cũng có những dòng chữ cuối – chỉ dẫn cách giúp đỡ đương sự – như sau:

“Mọi sự hỗ trợ của cộng đồng, độc giả đối với trường hợp ông Nguyễn Văn Thành có thể chuyển đến tận tay ông trước cửa Trung tâm tư vấn pháp luật công đoàn, thuộc Liên đoàn lao động tỉnh Đồng Nai, địa chỉ số 14, Bùi Văn Hòa, phường Hòa Bình – TP Biên Hòa.”

Không thấy ông nhà báo gì đến sự hổ trợ của Đảng, Nhà Nước, hay những ban ngành hội hè vớ vẩn gì đó – của Mặt Trận Tổ Quốc. Trong cả ba bài phóng sự thượng dẫn cũng đều có không một chữ nào đề cập đến nguyên nhân, và trách nhiệm – của bất cứ ai – về những mảnh đời te tua và bầm dập của những công dân lão hạng kể trên. Cứ như thể họ là những người thuộc một quốc gia hay hành tinh nào khác, chứ không phải là những công dân của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Tôi chợt nghĩ: lỡ sáng mai bà Phạm Đờn hay ông Nguyễn Văn Thành khi mở mắt ra và (bỗng) thấy mình đang sống trong một cái nursing home ở California – giường êm nệm ấm, cơm bưng nước rót, cam tươi sữa hộp cạnh bên, cả đống y tá bác sĩ lăng xăng kế cận – mà không dưng muốn… rơi nước mắt! Hai vị dám tưởng là mình đã lên tới thiên đường dù thực sự là họ vừa lạc vào tầng đầu địa ngục, theo như cách nhìn của nhiều người đang sống ở những quốc gia không có Độc Lập -Tự Do – Hạnh Phúc – như ở Việt Nam.

Mai! Anh đã quen em một ngày,

“Mai! Anh đã quen em một ngày,”
“Anh đã yêu em một ngày
Một tình yêu quá không may ..”

(Quốc Dũng – Mai)

(Ga 11: 4)

Trần Ngọc Mười Hai

Đành rằng, khi viết lên ca-từ này, tác giả Quốc Dũng nói nhiều về bạn tình và tình bạn của mình với ca sĩ Phương Mai, cũng là thế.

Nhưng, (lại chữ nhưng với chữ không gì nữa đây!), nếu hiểu theo ý của nhạc sĩ Từ Công Phụng, thì “Mai” ở đây có thể là bất cứ ai, bất cứ người nào, cũng được.

Hôm nay, bầy tôi đây dám gọi bạn hiền linh-mục tên là Mai Đào Hiền, cựu tu-sinh “Giáo Hoàng Học Viện” năm nào, đã về với Chúa có tình người hôm 04/2/2015 đúng vào lúc thúc giục bạn và tôi ta nghĩ về ngày “Mai” tuy xa xôi nhưng rất gần với đời người, hôm nay.

Hôm nay nữa, bần đạo đây lại thấy bài hát trên đầy ý-nghĩa, nên cứ tiếp tục hát:

“Mai! Anh nhớ môi em miệng cười,

Anh nhớ môi em ngọt lời.

Dù lời yêu thương chưa nói.

Mai! Anh đã yêu em thật rồi.

Anh đã yêu em thật nhiều.

Một tình yêu quá cô lieu.

Mai! Em đã cho anh hẹn hò.

Nhưng đã cho anh đợi chờ.

Để rồi không đến bao giờ”…

(Quốc Dũng – bđd)

Thú thật với bạn đọc và các bạn chả-bao-giờ-đọc bài của bần đạo, rằng thì là: kể cũng lạ, đời mình và đời người có những chữ và những lời đầy ý-nghĩa, chứ không chỉ có một chữ/một nghĩa như tên gọi hoặc tên họ của ai đó, cũng rất “Mai”.

Cũng lại thú thật với bạn đang đọc ở đây, rằng: nghĩ về chữ “Mai” không chỉ là nghĩ về thời-gian, nơi chốn nhưng là với người mà mình đang đi tới. Mai, có thể là tên người. Cũng có thể, là thời-gian ở “thì” tương lai chứ không phải “thì” hiện-tại.

Cũng có thể, là: tình-trạng sao đó của con người trong tương-lai và cả hiện tại, cũng đều thế. Nói tóm lại, “Mai” sẽ là tất cả và có thể sẽ không là gì cả. Có là gì, cũng tùy lập-trường và thế-đứng hoặc tầm-nhìn của người nói và/hoặc người viết, mà thôi.

Thế nhưng, nếu hiểu “khổ đau”, “âu sầu” hoặc “sự chết vào mai ngày”, theo nghĩa thần-học trong Đạo thì: có thể , ta cũng nên hiểu theo ý thày dạy của bần đạo, là Lm Kevin O’Shea, CSsR ở Úc như sau:

“Khoa-học, lại cũng đòi tất cả những ai có trọng-trách giáo-huấn bản-thân con người mình, hãy đặt nặng mọi sự lên yếu-tố đặc-trưng tương-quan cảm-xúc nơi con “người” và chuyên-chở ý-nghĩa đã và vẫn tiến-hoá, rất như thế.

Nay ta hãy hướng về vũ-trụ vạn-vật chưa hoàn-tất. Thật ra thì, chả có gì gọi là khởi-đầu trọn-hảo, hết. Cũng chẳng có cái-gọi-là vườn Địa-đàng thời khởi-nguyên, nào hết. Xưa nay, chưa từng có tình-trạng vẹn toàn nguyên-thủy của vũ-trụ, hết. Nhưng, tương-lai vẫn mở rộng ra cho mọi sự.

Mọi người được mời gọi hãy dấn bước vào thể-thức hiện-hữu vẫn tiến-hoá, trổi vực. Vẫn có tương-lai-mai-ngày chưa từng xảy đến, vào thời trước. Ý của Chúa, là tập-hợp tạo-dựng ngày một mật-thiết hơn. Thiên-Chúa đích-thực là Đấng tốt-lành quyền-uy, Ngài không có chọn-lựa nào khác, ngoài việc thiết-dựng và tạo nên vũ-trụ vẫn tiến-hoá, chưa hoàn-tất.

Tiến-hoá, là sự việc phù-hợp với niềm nhung nhớ. Vẫn có thứ gì đó, như thể-loại luyến-lưu nơi giấc mơ tái-lập sự trọn-hảo trong quá-trình hình-dung nên sự việc. Vẫn còn đó thứ gì như: nỗi ám-ảnh về một quá-khứ đầy lý-tưởng.

Ta vẫn cần diễn-giải theo cung-cách khác hẳn về khổ-đau, âu sầu và nỗi chết. Đau-khổ nhiều nhất và lớn nhất, lại chẳng liên-quan gì đến những lỗi cùng tội. Phần lớn thứ đó, đều là nỗi bi-ai, vô tội.

Ta cần diễn-tiến từ ý-niệm về phạt-vạ hoặc trừng-trị, để đến với ý-niệm quà-tặng, khi nói đến khổ-đau, âu sầu, buồn bã. Đau-khổ, vẫn có đó không để giúp ta thích-ứng với hoàn-cảnh rày xảy đến. Đau-khổ, đến từ một chuyển-động nào đó tiếp-cận với chuyển-động khác, vẫn cứ thế. Nó đến, từ một nơi không ai trông ngóng hoặc đợi chờ, và cũng chẳng ai muốn tuỳ nghi thích-ứng với nó, hết.

Đau-khổ, lâu nay được nối-kết với con người mà thôi, cốt là để trách-cứ họ về khổ-đau như thế và cũng để đặt Chúa ra ngoài mọi trách-nhiệm của người từng tặng-trao điều gì. Nói gì thì nói, mọi loài thú đều biết khổ biết đau. Loài vật có tri-giác, do đó chúng biết thế nào là khổ-đau, và phúc hạnh.

Ta cần nhìn về phía con người đang trải dài cuộc sống, và tái định-hình nguồn-cội của chính mình. Con “người”, không trải dài đời mình vào quá-khứ, cũng chẳng thích-ứng/thích-nghi với hiện-tại, nhưng họ đang trải dài đời mình cho tương-lai-mai-ngày của họ.” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR “Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa”, nxb Hồng Đức sẽ cho in)

Hiểu “khổ đau”, “sầu buồn” và “sự chết” -trong mai ngày- phải hiểu như Lời Vàng do bậc hiển thánh đã từng viết:

“Nghe vậy, Đức Giêsu bảo:

“Bệnh này không đến nỗi chết đâu,

nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa:

qua bệnh này,

Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

(Ga 11: 4)

Nghe Chúa nói, có lẽ ta cũng nên hát tiếp những lời ca đầy ý-nghĩa, như sau:

“Chiều về nhạt nhòa trên khu phố mưa bay.

Lòng buồn thêm xót xa niềm cay.

Lời hẹn hò đầu tiên em đã quên đi,

Con đường rộng vắng như biệt ly ..”

(Quốc Dũng – bđd)

Hiểu chữ “Mai” hoặc tên “Mai” như thế rồi, ta sẽ hát tiếp:

“Mai! Anh đã xa em thật rồi.
Anh sẽ xa em trọn đời.
Dù lòng thương nhớ không nguôi.
Mai! Anh biết em trong một ngày.
Anh đã yêu trong một ngày.
Cho sầu đau đến bao ngày …
Đời mình còn dài trong năm tháng chua cay.
Còn tìm đâu thấy những ngày vui.
Chuyện tình mình tựa như cơn gió trôi đi,
Riêng lòng anh xót xa biệt ly”…

(Quốc Dũng – bđd)

Lại thú thật với bạn và với tôi, rằng: mỗi khi nghe tin bạn bè/người thân của tôi và của bạn đi dần vào cõi chết, bần đạo đây dù niềm tin vào Chúa luôn cần sự vui tươi và vững vàng, nhưng vẫn thấy nao nao một “nghĩa” buồn nào đó, rất khôn nguôi.

Nghĩ thế nên, bần đạo lại xin về với “lời bàn” từ bậc thày trích-dẫn ở trên để kể tiếp:

“Nói đến đây, xin cho phép tôi được mượn câu chuyện của một người mà tôi từng gặp và nghe kể, để san-sẻ với anh em đây, hầu minh-hoạ cho việc ta đang bàn. Chuyện ở đây, do vị tuyên-úy lo về linh-đạo ở bệnh-viện nọ, kể về sự việc xảy ra tại bệnh viện này.

Hôm đó, có bà mẹ trẻ mang-thai-gần-đến-ngày-lâm-bồn/ở-cữ, được chuyển gấp đến phòng cấp-cứu, vì ca này rất khó sinh. Sự thể là, nửa đêm hôm ấy, tự dưng tim của thai-nhi đột nhiên ngừng đập; và thai-nhi đã chết trong bụng mẹ chẳng biết vì lý-do gì. Vị linh-mục, khi ấy, không biết làm sao để an-ủi bà mẹ trẻ này cho phải phép. Nhưng Rachel, tên người mẹ trẻ đáng thương kia, vẫn khóc hàng giờ vì con chị nay đã chết mà chẳng ai cứu-vớt được. Chị khước-từ mọi ủi-an, bất kể từ đâu đến vì có an-ủi cho nhiều, thì con chị cũng đã không còn nữa.

Sau một hồi lâu, chị thốt lên một câu, đại ý bảo rằng: “Tôi chỉ muốn nói một điều, là: tôi không thể nào hình-dung được, là: tôi đã làm gì để Chúa bắt tôi phải chịu đau-khổ như thế này!” Khi ấy, linh-mục kia nói: “Không! Không phải thế đâu! Chị đâu đã làm gì xấu đến thế!” Nhưng, chị tiếp-tục phân-trần: “Điều, con muốn nói là: lâu nay con chưa làm điều gì thất-đức cả, mà sao Chúa trừng-phạt con tệ đến thế?”

Thế rồi, vị linh-mục như nhận được ơn lành-thánh hiếm có, mới nói: “Phải chăng, đó là điều mà chị hằng tin-tưởng? Chị nói thế, phải chăng có ý bảo: chính Chúa đã giết con chị, để trừng-phạt? Chị đáp: “Không! Ý con không như thế. Nhưng, phải có lý-do gì đó Chúa mới bắt con phải chịu như thế này, chứ?”

Về lý do hoặc lý-lẽ, cũng chẳng có lý-sự nào xứng-hợp với Chúa, hết. Chỉ một lý-lẽ xuất từ sự đau-đớn/khốn-khổ mà người mẹ trẻ kia phải chịu, khiến chị nổi-giận và khóc-than, thôi. Một thứ lý-lẽ hoặc lý-sự nằm đằng sau mọi sự, mà chị vẫn giấu kín.

Và đây, điểm chính-yếu tôi muốn nói, là: anh em mình nên dừng lại trong phút chốc để suy-tư/bàn-bạc, xem sao. Lý-do hoặc lý-lẽ, do sự việc mà người mẹ trẻ kia lâu nay tìm cách chôn kín khổ-đau cùng cảm-xúc không đúng của chị. Đến đây, tôi lại xin phép được trở về với trình-thuật ta đọc ở Tin Mừng thánh Gioan mà, với tôi, cũng na-ná giống thế.

Đó là, truyện-kể về cái chết của Lazarô, nhất là câu: “Nếu Thày có ở đây, thì em con đã không chết!” Và, cảnh Maria khóc sướt-mướt, qua đó bản tiếng Anh thường dịch là: “Ngài thấy xốn xang trong lòng không ít, và đã động lòng trắc-ẩn”. Bản Hy-Lạp viết mạnh hơn, khi đề-cập đến ý-nghĩ bảo rằng: Đức Giêsu tỏ ra giận-dữ và Ngài nổi cơn thịnh-nộ trong lòng”. Cơn thịnh-nộ trong lòng ư? Vâng. Đúng thế! Ngay Đức Giêsu cũng xử-sự đến như thế. Ngài nổi giận đến mức cuồng-nộ trước khi Ngài đi vào cõi chết.

Bởi, Ngài đến với thế-gian, là để mang lại sự sống cho người khác. Bản thân Ngài, cũng đã chấp-nhận nỗi chết rất khổ-nhục. Và, Ngài cũng đã khóc rất nhiều. Ngài khóc bằng nước mắt của sự căm-phẫn, nổi giận. Ngài xúc-động quá mức cũng giống như Maria, Martha và nhiều người khác. Ngài biết khá nhiều và khá đủ về những thứ hoặc những sự thuộc loài người như những sự việc mà ta tìm không ra cách diễn-giải, để người có mặt hôm đó hiểu được lý-do hoặc lý-sự này khác.

Đức Giêsu đã để cho những người có mặt hôm đó chôn kín các xúc-cảm của họ và của Ngài, nơi mộ phần. Ngài đặt-để các thương-tổn cũng như buồn-đau của họ vào mộ phần cùng với Lazarô. Và, những người có mặt hôm ấy, cũng đã lăn hòn đá-tảng-lấp-mồ khá nặng mà họ thấy và “khoá-chặt” anh ở trong đó.

Và nỗi buồn-đau, có thể sẽ ở tình-thế rất “khoá-chặt”, suốt ngày này tháng nọ. Mọi thương-tổn, được chôn-kín sẽ không động đậy; nhưng, vẫn ở tình-trạng đó mãi sau này. Và rồi, có thể là: mọi người cũng sẽ quên đi những chuyện tương-tự. Có thể là như thế. Nhưng, mãi mãi ở trong đó, vẫn có các thương-tổn từng được chôn-kín, mãi về sau.

Liền sau đó, Đức Giêsu đứng dậy rồi nói: “Hãy lăn đá-tảng lấp mồ đi nơi khác!” Câu này như có nghĩa: “Hãy để mọi thứ như thế, ra bên ngoài chốn mở ngỏ. Bởi, sự thể không tệ như anh em nghĩ đâu. Anh em vẫn có thể đối đầu với nó được. Nhưng, đừng để cho niềm thương-nhớ bị “khoá chặt” trong mộ phần. Hãy để nó sống-động trong cuộc sống của anh em, để rồi cùng với anh em sẽ sống mãi, rất vững mạnh.

Sự sống, lúc nào cũng lớn-lao hơn mọi thứ. Đừng “khoá-chặt” nỗi buồn-đau đằng sau hòn đá tảng lấp mồ. Nhưng, hãy mở rộng cửa lòng mình xuống tận phần đất ở bên dưới. Bởi, nơi đó nay đã khác. Và, ở đây nữa, các nhà thần-học hôm ấy cũng có mặt ở quanh đó nhưng vẫn đứng xa xa. Các ngài cố tìm cho ra lý lẽ và lý-sự của mọi việc nên vẫn hỏi những câu tương-tự như: sao lại như thế? Các ngài tuy có hỏi, nhưng lại tìm không ra thứ lý-lẽ nào cho phải phép, đúng ý mình.

Một lần nữa, ta hãy mượn tiếp một truyện-kể khác cũng từ vị linh-mục tuyên-úy bệnh-viện nói trên. Hôm ấy, vị linh-mục nói ở trên, đã đi thăm cụ bà trọng tuổi nọ ở bệnh-viện; cụ đang gặp chuyện bực-bội cách bất-thường, nhưng không phải chuyện đớn-đau/bệnh-tật mà cụ đang mắc phải. Nhưng, là sự việc: cụ vừa nghe tin con trai cụ bị ám sát, nay đã chết. Linh-mục hôm ấy yêu cầu cụ kể cho ông nghe đôi chút về người con của cụ. Thế là, tự dưng cụ bật lên thành tiếng khóc nức-nở đến nửa tiếng đồng-hồ, khi cụ kể về thời thơ-ấu an-lành của người con, cùng bạn bè và công việc anh đang làm, nhưng phần chính là cụ rất tự-hào về người con mà cụ từng thương-yêu hết mực.

Khi cụ kết thúc câu truyện về người con trai ấy, thì linh-mục thấy mình chẳng làm được gì cho cụ, ấy thế mà cụ vẫn bảo: “Cảm ơn Cha. Chắc cha cũng biết là tôi không cần phải kể về chuyện ấy nhiều đến thế?” Cụ đã thực-sự chôn-vùi nỗi nhớ của cụ nơi mộ-phần rồi. Và, cụ cũng đã lăn hòn đá-tảng-lấp-mồ đi nơi khác. Và, ký ức của cụ không còn bị chôn-kín ở nơi nào nữa. Cụ cũng biến nỗi nhớ về người con của mình, để nó nên thành-phần cuộc sống của cụ, rất thật sự”. (x. Lm Kevin O’Shea, Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa, chương 5, nxb Hồng Đức sẽ cho in)

Hiểu sự khác-biệt của hai bà mẹ về nỗi buồn đau mất con ở trên rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào truyện kể nhè nhẹ mà bạn đạo nọ vừa gửi để hỗ-trợ bần đạo, như sau:

Một Phật tử đến hỏi Ni sư Tenzin Palmo một câu hỏi rất thú vị:

-Đọc cuốn “Cave in the Snow”, con biết là Jetsuma đã suy nghĩ về cái chết từ khi còn rất bé, ở độ tuổi mà các con của con chỉ biết ăn ngủ, và chơi đùa mà thôi. Trong 12 năm ẩn-tu trên núi tuyết, Ni Sư nhiều lần đối-diện với hiểm-nguy. Có lần Ni Sư bị chôn sống nhiều ngày trong hang do trận bão tuyết nọ xảy ra và tưởng chừng không thể thoát khỏi lưỡi hái của Tử thần… Xin Ni Sư hoan-hỉ cho biết cảm-nghĩ của Ni Sư về Cái Chết.”

-Tôi may mắn sinh ra trong một gia-đình “lạ đời” ở Luân đôn! Cái chết không là điều cấm kỵ nhưng luôn được gia-đình bàn/cãi hàng ngày cách cởi mở. Trong khoảng đời ở trong hang trên núi tuyết, nhờ tu/tập mà tôi đã bình-tĩnh đối-phó mọi chuyện. Tôi bình-thản đón-nhận cái chết nếu nó xảy ra cho tôi vào thời-điểm ấy. Bây giờ, đôi khi tôi lại nghĩ: “A! Cái chết đến hả? Chắc là hứng-khởi lắm đây!

Cử-toạ cười ồ trước câu kết dí-dỏm, nửa đùa nửa thật của Ni Sư Tenzin Palmo.

Từ cuối phòng, cô trụ-trì mở lối cho một thính-giả đi lên phía trước Chánh điện. Anh trông tiều-tụy, da dẻ xám xanh và nét mặt lộ vẻ lo buồn. Anh chắp tay vái chào, ngồi xuống ngước nhìn Ni Sư, nghẹn ngào không nói nên lời. Cô trụ-trì đỡ lời:

-Anh bạn đây muốn xin ý-kiến Ni Sư về việc sửa soạn thế nào khi sắp lìa đời. Anh bị ung-thư phổi, đã qua giải-phãu, hóa-trị gần ba năm nay nhưng bệnh tình không thuyên-giảm, căn-bệnh nay đến thời kỳ cuối. Mạng sống của anh không còn bao lăm. Nay anh đến hỏi Ni Sư điều này cho biết, dù anh là người Công giáo.

Mọi người im lặng vì kinh-ngạc, chờ đợi ni sư trả lời. Ni sư xoay người đối diện với bệnh nhân với ánh mắt đầy thương-cảm, thế rồi Ni sư hỏi:

-Anh có muốn nói chuyện riêng với tôi không?”

Anh thưa:

-Dạ không cần. Tôi muốn Ni Sư trả lời cho trước mặt mọi người để ai cũng được lợi.

Lại một tràng pháo tay nổi lên tán thưởng sự can-đảm và độ lượng của anh.

Hướng về anh, Ni sư Tenzin Palmo chậm rãi nói từng tiếng:

-Ai rồi cũng phải chết. Có những em bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng nó đến với người khác chứ chưa đến lượt mình… mãi đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu chuẩn bị. Chết vì bệnh, là may mắn hơn vì có thời gian sửa-soạn cho sự ra đi, sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên nên làm, là: buông bỏ giận-hờn, oán-hận mà từ trước tới nay mình ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn mình muốn nói nhưng chưa có dịp hoặc còn ngần ngại.

3/ Hãy để lại di chúc về tài sản, ước muốn của mình. Cần phân-minh, công-bằng để thân-nhân không tranh-giành, cãi cọ trong thời gian ta mới vừa lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Chúa Mẹ nếu là người Công giáo, về Phật nếu là Phật tử. Nếu không tín ngưỡng, hãy hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân-nhân không nên than khóc níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ tạo quyến-luyến, khó-khăn cho người sắp ra đi. Điều nên làm, là: hãy nhắc-nhở kẻ hấp-hối nhớ những điều thiện/lành. Dù người ấy như đang hôn mê, không nói năng được, nhưng thân-nhân vẫn luôn nhắc-nhở, cầu nguyện vì tận phần thâm sâu, họ vẫn biết.

6/ Nếu thân-thể bị đau-đớn thì hãy dùng thuốc giảm đau. Người tu-tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu của cơn đau. Nhưng với người bình thường, đau-đớn quá sức sẽ làm họ bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không gây ảnh-hưởng đến thần-thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa, là: khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh ông bà, cha mẹ hay người quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ, mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”(Hiền Thuận viết theo ý Cư sĩ Minh Mẫn)

Hiểu được như trên về sự chết và nỗi khổ đau về cái chết của người thân thuộc nhữ vừa kể, nay xin bạn và tôi, ta cứ đầu cao/mắt sáng hát lên lời ca rất “tình” để kết thúc chuyện phiếm rất “loạn” ở đây, rằng:

“Mai! Anh đã yêu em thật rồi

Anh đã yêu em thật nhiều

Một tình yêu quá cô liêu ..

Mai! Em đã cho anh hẹn hò

Nhưng đã cho anh đợi chờ

Để rồi không đến bao giờ ..”

(Quốc Dũng – bđd)

Thật ra, có diễn-nghĩa thế nào đi nữa, thì “Mai” vẫn là Mai, tức: cái ngày-sau-hôm-nay chứ không phải hiện tại, đâu bạn ạ. Thật ra, có nói và hát thế nào đi nữa về cái “ngày-sau-hôm-nay đến bất ngờ với mọi người”, thì bạn và tôi, ta vẫn công nhận rằng: dù gì đi nữa, có buồn sầu/khổ đau hoặc chết chóc ngay hôm nay hoặc ngày nào đi nữa, tất cả vẫn là “ân-huệ” cho mình, và cho người.

Và, hỡi bạn và tôi, ta hãy nhớ đến những kỷ-niệm vui với người đã khuất, hơn là cứ buồn sầu, khổ đau, hoặc trách móc bất cứ ai, mãi nhé.

Trần Ngọc Mười Hai

Chợt có một chút suy tư

nhân cái chết của một bạn linh mục

mình quen biết cũng khá nhiều

dù chưa một lần tiếp xúc trực tiếp.

Thế rồi, trăng sáng lung linh,

“Thế rồi, trăng sáng lung linh,”

“Em mười sáu tuổi giận hờn vu vơ”.

(Dẫn nhập từ thơ Nguyễn Tất Nhiên )

Mc 1: 40-45

Mai Tá lược dịch

Diễn giải cho chính xác cụm từ Hy lạp trong Tin Mừng, ta biết thánh Máccô có ý nói đến phong thái “nổi giận” chứ không phải lòng “thương hại” của Đức Kitô. Ngoại trừ trích đoạn Tin Mừng thánh Gioan kể lại Đức Kitô “nổi đoá” thật sự khi Ngài bước vào đền thờ, mà thôi. Phần đông các dịch giả Sách thánh thường “lúng túng” khi liên-tưởng đến cảnh Đức Giêsu cũng “nổi giận”.

Tuy nhiên, Giêsu Đức Chúa có “nổi giận” đi nữa, điều đó cho thấy Ngài có cái nhìn thấu-đáo, cẩn-trọng nơi tâm-can của Ngài. Và, đây là thách thức lớn gửi đến chúng ta. Hẳn ai cũng rõ, giận dữ là trạng thái thường tình cho thấy có cái gì đó không ổn xảy ra trong cuộc sống chung đụng giữa người với người.

Giận-dữ là cảm xúc quan-trọng được thẩm-định, rất rõ nét. Nổi giận, mang tính trung-hòa trong giá-trị tu-đức của người đi Đạo. Trong cuộc sống thường nhật, tùy cách-thức ta giải-quyết các trường-hợp nóng giận, mọi người sẽ thấy ảnh-hưởng của bẩy thứ tình cảm Những “hỉ, nộ, ái, ố, ai, hoan, lạc” ở trong ta. Có người cứ ở lỳ mãi trong tư-thế nổi giận để rồi, kết cuộc sẽ bị “cháy” và “thấm đòn” vì có tính-khí ấy. Người khác, lại nhân cơ-hội này rút kinh-nghiệm tạo nghị-lực mà sửa-đổi những gì sai trái, vẫn chưa ổn.

Với xã hội Palestin vào thế kỷ đầu đời, bất cứ người nào có vấn đề ngoài da đều được tặng cho cái mũ chụp lên đầu bằng tên gọi “phung/cùi”, nghe kinh khiếp. Họ bị buộc phải sống bên lề xã-hội, xa làng mạc thị-thành vốn thân quen, vào độ trước. Bị bắt buộc như thế, họ không còn được cận-kề người đồng-hương, đồng chủng nữa. Mỗi lần cất bước đi đâu, làm việc gì đều phải báo-động, kêu to “Ô-uế! Ô-uế! Chúng tôi là phường ô-uế!”

Lại nữa, họ chẳng khi nào dám bén mảng đến chốn đông người dù đó có là đền thờ, chợ búa hoặc chồn dân gian bình thường ở đời. Người đời khinh bỉ họ như những kẻ bị Chúa chúc dữ, không thể kể tên trong danh-sách “Dân được chọn”. Bởi thế nên, cũng chẳng lạ gì khi thấy Đức Kitô tỏ dấu giận-dữ khi Ngài được bảo cho biết là: người bệnh phong cùi bị đối xử tệ bạc, bỏ rơi.

Mỗi lần gặp họ, là Ngài công-khai đối đầu với cả một hệ-thống quan-quyền dám cướp đi phẩm-cách cao quý của người mắc những dị-tật buồn, hẩm-hiu, lẻ bóng. Mặt khác, lề-luật trong Đạo cũng chẳng chùn tay do-dự khi tước đọat khỏi nơi họ mọi hy-vọng để sống còn. Sống cho ra người. Sống cho xứng đáng với tư-cách cao sang của kiếp người.

Phúc-âm hôm nay, đưa ra hai chi-tiết quan-trọng, cần được xem xét. Thứ nhất, về người phung cùi/ghẻ lở, dù mắc bệnh ngặt-nghèo khiến mọi người ghê tởm, anh vẫn can-đảm bước tới giáp mặt Đức Chúa để trình-bày nỗi niềm riêng và yêu-cầu Ngài chữa lành cho anh.

Ở đây, truyện kể ghi rõ Đức Giêsu đã đụng tay vào người anh; và rồi, mọi vết hằn trên da thịt đều tan- biến.

Về tình-huống đối đầu với luật-pháp, mọi điều-khoản trong lề-luật ở xã hội cũng như tôn-giáo nay đã bị bẻ gẫy. Thật ra, việc Đức Giêsu chữa lành cho người phong hủi không chỉ mang ý-nghĩa thách-thức đối-chọi với luật-pháp hoặc húy-kỵ các thói quen vẫn giữ ở xã-hội ngoài đời, thôi.

Hành-động của Đức Giêsu, còn thúc-giục người bệnh ra đi thực-hiện những gì luật đạo dạy anh làm. Có như thế, anh mới có thể về với đền thờ, với cộng-đoàn thân-yêu của mình.

Giải quyết khúc mắc căn-bản này, Đức Kitô cho thấy: Ngài quan-tâm đến công-tác hoán-cải cuộc đời của những người mà Ngài gặp trong hành-trình rao truyền ơn cứu-độ. Và Ngài đưa họ về với bộ luật cao-cả của Đức Chúa, đó là: lòng yêu-mến/xót-thương tất cả mọi người, kể cả những người bị bỏ rơi, lánh mặt.

Chi-tiết thứ hai mà trình-thuật nay đề cập, là nhận-định đúng mức các thách-đố đặt nơi cơn giận của chúng ta. Thách-thức đây, không chỉ liên-quan đến việc tranh-đấu cho quyền-lợi chính-đáng của mỗi người, cả khi người này phạm nhiều sai trái, lỗi luật. Thách-thức đây, còn mang nghĩa đấu-tranh cho phẩm-cách và quyền-hạn của người khác được mau chóng phục-hồi.

Đấu-tranh ấy, ngày nay, mang nhiều dạng-thức rất khác biệt, như: nỗ-lực chấm-dứt hành-vi tước-đoạt quyền làm người của các hài-nhi chưa mở mắt chào đời, quyết tranh-đấu chống lại mọi manh-tâm cướp đi quyền được sống của những người mắc bệnh nan y, gần kề cõi chết. Tranh-đấu cho thế-hệ mai ngày, bằng việc quan-tâm, chăm sóc địa cầu mình đang sống cũng rất cần.

Đồng thời, thách-thức và tranh-đấu còn có nghĩa đứng lên mà hành-động cho phải phép, quyết bênh-vực những người đang chung sống trong cùng mái ấm cơ ngơi với mình hoặc những người cùng xứ đạo cộng-đoàn, hoặc sở làm vẫn năng nổ hoặc những người cùng xóm quẩn quanh với mình, những người cùng tổ quốc thân yêu, cùng một thế-giới sinh-động, ở nơi đó vẫn còn nhiều đối-xử tệ-bạc, đầy tủi hổ. Ở nơi đó, vẫn còn nhiều người phong hủi vẫn bị liệt vào thành phần ô uế, phải tránh xa.

Cuối cùng, nếu hỏi rằng: sao ta cứ bận tâm với những nóng giận như thế?  Thì, xin thưa rằng, vì Chúa-nhật hôm nay, Đức Kitô lại đã đến với ta một lần nữa. Ngài đến công-khai khẳng-định rằng: dù ta có nghĩ mình tệ-lậu đến mức-độ nào đi nữa, dù người kia hoặc người nào khác có đối-xử với ta chẳng ra gì đi nữa, thì vẫn chẳng có gì tồi tệ ở trong ta lại không được Chúa quan-tâm, đến chữa lành.

Chẳng có gì khiến ta ra tuyệt-vọng, dù ngày mai đây đất trời lồng-lộng có ngả nghiêng, sụp đổ đi chăng nữa, cũng thế.

Cầu mong sao, Tiệc thánh hôm nay đem đến cho ta tình yêu nóng bỏng và lòng xót thương chữa lành của Đức Chúa để ta đấu tranh vì người khác, cho phẩm giá của người khác, người đồng lọai đang mang bệnh phung hủi, hiểm nghèo. Phẩm giá con người chính là quà tặng cao quý ta nhận được từ vị Chúa tể của Tình yêu thương, xót xa.

Cầu và mong sao, ta vẫn hy-vọng vào cơn giận rất thực của chính mình. Vì biết rằng, mọi buồn phiền, giận dữ ta đang gặp cũng sẽ thành như cơn giận chính-đáng Đức Kitô để lộ hôm trước. Để rồi, Ngài sẽ biến-đổi ta thành nhân-tố tốt lành khả dĩ lay-chuyển và kiến-tạo một Giáo-hội lành-mạnh và công-chính hơn. Và, thế-giới ta sống, sẽ công bình hơn bao giờ hết.

Nóng như thế, mới là nóng đích thực. Giận như thế, mới là giận tự-nhiên. Nóng giận rất chóng qua, để rồi sẽ đổi mới cuộc đời lâu nay còn nguội lạnh. Nguội và lạnh, như viên đá xanh trơ trẽn trước tình-yêu nóng-bỏng của Đức Chúa, vẫn tỏ lộ cho mỗi người và mọi người. Vậy thì, ta có nên gọi đây là cơn giận lành, được hay chăng?

Cảm-nghiệm tính lành-mạnh nơi cơn giận-dữ của Ngài, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, mà rằng:

“Thế rồi trăng sáng lung linh,

Em mười sáu tuổi, giận hờn vu vơ.

Sang năm mười bảy không ngờ,

Tình tôi nít nhỏ, ngồi mơ cũng thừa.

Tôi mười bảy tuổi buồn chưa,

Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Trúc Đào)

Tình của tôi hay ai đó, dù “nít nhỏ” vì dầm mưa hay lưa thưa tuổi mười sáu rất giận dỗi, vẫn là thứ tình không “vu vơ”, “không ngờ” hoặc “buồn chưa”, đâu đấy; nhưng vẫn là thứ tình của người thường có Chúa phù trợ, đỡ nâng, rất không buồn.

Lm Richard Leonard sj,

Mai Tá lược dịch

XIN ƠN KHÔNG BÁM VÍU VÀO CỦA CẢI VẬT CHẤT

XIN ƠN KHÔNG BÁM VÍU VÀO CỦA CẢI VẬT CHẤT

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Trên trời cao, ta thấy có những áng mây trôi lơ lửng.  Nhìn mây cuồn cuộn hàng hàng lớp lớp như thể điều gì kinh khủng lắm, nhưng chẳng ai có thể nắm được mây trong lòng bàn tay.  Mây chỉ là ảo ảnh trước mắt ta.  Mây chẳng bao giờ cố định.  Mây sẽ thay đổi hình dạng mình theo cơn gió.  Mây mỏng manh vô cùng, vì thấy đó rồi mất đó, có đó rồi chẳng thấy đâu.  Mây sẽ tan khi cơn gió đến.  Mây chỉ là kết quả của một cuộc hợp rồi tan.  Tuy mây đẹp và lôi cuốn, nhưng mây không bao giờ có thể là biểu tượng của sự vững bền.

Cuộc đời này, xét cho cùng, cũng giống hệt như mây.  Có biết bao điều trông thì lôi cuốn, sinh động, hấp dẫn, nhưng có bền lâu mãi đâu.  Những vinh hoa, danh dự, tiền tài chỉ như ảo giác.  Nhìn có vẻ đẹp nhưng rồi cũng sẽ tan hết.  Cớ sao ta cứ luôn hoài muốn bắt lấy?  Một chút thỏa mãn và niềm vui ta có đó liệu có nằm trong tay ta mãi không? C ó những con người điên cuồng bất chấp để chiếm hữu, nhưng rồi cũng buông tay khi bóng chiều của cuộc đời ập đến.  Cố gắng để người khác biết đến mình, yêu mến mình, nhưng liệu người ta có thần tượng mình mãi không?  Sắc đẹp, thời trang cũng bập bềnh theo nhịp sống.  Sẽ có lúc ta già đi, nét đẹp cũng lặng mất.  Cố chiếm giữ lòng người làm gì, để rồi sẽ nhận lấy hụt hẫng?  Cố chạy theo danh tiếng làm chi, để rồi suốt cuộc đời mất đi tự do vì chúng?

Trong Vườn Địa Đàng, trước khi con rắn xuất hiện, đối với bà Evà, trái cấm cũng bình thường như bao trái cây khác, chỉ có điều không được phép ăn theo lệnh của Thiên Chúa.  Nhưng khi con rắn thổi vào tai bà những lời dụ dỗ có phần lý thú, cái nhìn của bà về trái cấm bỗng dưng khác đi.  Bà thấy nó hấp dẫn, lôi cuốn.  Bà thấy nơi trái cấm ấy là cả một âm mưu đen tối của Thiên Chúa và một tham vọng hão huyền muốn trở thành thiên chúa.  Trái cấm khơi dậy trong lòng bà một nỗi sợ kiếp sống hữu hạn mà bà đang mang, một khao khát muốn trường sinh, muốn hiểu biết, muốn sở hữu cái tuyệt đối.  Kết cục cho cái tham vọng ngông cuồng ấy là một hố thẳm ngàn trượng vô đáy đang chờ bà.  Bà đã cố nắm lấy một điều ảo tưởng.  Ý định không thành tựu như bà tưởng, trái lại còn để lại trong bà một hậu họa  thảm khốc vô lường.

Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh tỉnh những người lắng nghe Ngài khi Ngài rao giảng, rằng ích gì khi an vui bởi mình lắm bạc tiền, kho lẫm đầy ứ.  Đêm nay, lỡ như thần chết đến kéo mình đi, những thứ kia để làm gì.  Cố gắng tích trữ chúng bằng mọi giá để làm chi, khi mình không còn hơi thở, không còn sự sống để tiếp tục vui hưởng chúng.  Chàng trai trẻ có lòng khao khát tìm Nước Chúa, khi nghe đến điều kiện là hãy về, bán hết của cải, cho người nghèo thì đã buồn sầu bỏ đi.  Tiền bạc mang đến cho anh ta nhiều cảm giác vui sướng hơn cây thập giá và cuộc đời lang bạt của Giêsu.  Vua Hêrôđê, Philatô, các thượng tế và kinh sư… một đời sống trong nhung lụa, bày hết mưu này chước nọ để hại người ngay, để cố giữ chút danh lợi và bạc tiền trong tay.  Rốt cuộc, tất cả cũng trở về với bụi tro.  Cái gì mau qua chỉ là hư ảo, cái gì vĩnh viễn mới là chân lý.

Có chuyện ngụ ngôn kể rằng một con gà kia phát hiện ra một kho lúa.  Nó đi lòng vòng tìm cách vào. Cuối cùng nó phát hiện có một cái lỗ nhỏ là lối đi duy nhất có thể giúp nó tiến vào trong.  Nhưng cái lỗ ấy nhỏ quá.  Thế là nó quyết định nhịn ăn để thân hình nó ốm bớt.  Khi đã ốm đủ, nó cố gắng len mình qua cái lỗ và chui được vào trong.  Nó tha hồ ăn thóc ăn lúa.  Ăn nhiều đến độ, nó trở nên béo phì.  Nó nghĩ đến việc chui ra khỏi cái lỗ để tận hưởng cuộc sống bên ngoài, thoáng hơn, mát hơn.  Thế nhưng, nó quá mập nên không thể ra được.  Nhưng nó cũng không thể ở kho lúa này mãi.  Thế nên, nó lại quyết định nhịn ăn để có thể ốm đi mà chui ra.  Sau một khoảng thời gian dài, nó cũng chui ra được. Quay đầu lại nhìn kho lúa, nó thầm nhủ: trước khi ta vào, ta ốm nhom; sau khi ta ra, ta cũng chẳng hơn gì, cũng chỉ như thế thôi.

Vâng, áng mây đẹp lắm nhưng chỉ nên ngồi đó ngắm thôi.  Hãy thưởng thức những hình thù mây tạo dáng.  Hãy chỉ xem nó như một trò chơi của tự nhiên.  Đừng cố nắm bắt mây làm gì, đừng cố níu giữ nó làm gì, vì rốt cuộc ta có được chi đâu.  Áng mây trời nhắc nhở chúng ta về thân phận mong manh của mình, về cái vô thường của mọi sự trên trần gian.  Rồi sẽ qua đi hết, rồi sẽ chẳng còn gì.  Tất cả trước mắt ta chỉ là ảnh ảo, là tạm bợ.  Đừng bám víu vào chúng, đừng cho rằng chúng là vĩnh cửu, đừng để cuộc sống mình cậy dựa hoàn toàn vào chúng.

Có bao giờ các bạn tự hỏi: đâu là chân lý của đời tôi?  Đâu là cái mà tôi cần cố để nắm bắt?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

05.02.2015

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.

Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).

Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.

Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.

Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.

Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.

Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.

Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.

Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.

Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền.

Kiếp khổ

Kiếp khổ

TRẦM THIÊN THU

Chuacưuthe.com

VRNs (06.02.2015) – Sài Gòn – Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định : “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.

150205008

Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!

Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6 :5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.

Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.

Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!

Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.

Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).

Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.

Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!

Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.

Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.

Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!

Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.

Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.

Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

Mặc Lâm – RFA
2015-02-06

senator-ngo

Nghị sĩ Ngô Thanh Hải

RFA photo

Mặc Lâm: Thưa TNS Ngô Thanh Hải, xin ông cho biết mục đích mà ông soạn thảo Dự luật S-219 ban đầu có tên là Tháng Tư đen, sau đổi lại là “Ngày hành trình tới tự do” nhằm nói lên điểu gì thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Đó là dự luật để tưởng nhớ tới hơn hai triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi với tư cách là tị nạn, là thuyền nhân. Thứ hai là để tưởng nhớ 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả hoặc là bị cướp, bị bão hay điều gì đó. Thứ ba nữa dự luật này nhằm cám ơn chính phủ Canada đã nhận một trăm hai chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 rồi sau này lên tới 300 ngàn người. Đồng thời cũng là cám ơn chính phủ Canada đã mở rộng vòng tay để đón nhận thuyền nhân tỵ nạn của chúng ta tại đây. Thứ tư nữa là cám ơn chính phủ, nhân dân Canada đã sponsor từ cá nhân, nhà thờ đến các cơ quan thiện nguyện đã bảo trợ giúp đỡ cho chúng ta. Thứ năm là Canada là một quốc gia mà trong thập niên đó, cuối 70 đầu 80 thì Canada là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nhận người tỵ nạn do đó mà Cao Ủy Tỵ Nạn (UNHCR) Canada đã trao giải Nansen cho Canada. Đạo luật này dựa trên 5 điều đó thôi.

Mặc Lâm: Thưa, ông là một dân cử gốc Việt tại Canada với chức vụ Thượng Nghị Sĩ liên bang, đời sống của người Việt nam hôm nay vừa đúng 40 năm kỷ niệm ngày ra đi của họ thì ông thấy có sự thành tựu nào đáng kể nơi xứ tạm dung mà bây giờ đã trở thành quê hương thứ hai của họ hay không?

TNS Ngô Thanh Hải: Thưa bây giờ thì mình thấy rằng cộng đồngViệt Nam mình tại Canada sau 40 năm thì phát triển rất mạnh. Tôi thấy Việt Nam mình đóng góp

” … tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế…

TNS Ngô Thanh Hải”

cho xứ sở, xã hội Canada rất nhiều, chính phủ Canada cũng đã công nhận sự đóng góp của người Việt tại đây và họ đã để ý rất nhiều chẳng hạn như cách đây ba năm chính phủ Canada của Đảng Bảo thủ đã nhận hết những người tỵ nạn tại Phi Luật Tân còn lại, khoảng hai trăm mấy chục người đã nhận rồi và đồng thời mới đây cũng hai năm rồi chính phủ đã chính thức chấp nhận tất cả người Việt tỵ nạn còn lại tại Thái Lan và Cao Miên (Campuchia). Trong tháng vừa rối bốn mươi mấy gần năm chục người tỵ nạn tại Thái đã qua tới Canada. Hy vọng cuối năm nay hết một trăm mấy chục người đó sẽ đến Canada để chấm dứt giai đoạn chót của người tỵ nạn chúng ta đã ra đi hơn mấy chục năm nay.

Mặc Lâm: Thưa ông nhìn chung vấn đề người Việt tỵ nạn khắp nơi được chính phủ Canada mở rộng vòng tay để đón họ và ông là người đại diện cho người Việt ở đó ông có cảm thấy sự thành tựu của họ trên lĩnh vực kinh tế, kiến thức hay khoa học thì lĩnh vực nào thành công nhất thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Cộng đồng của mình thì anh thấy chẳng hạn như tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế mà cộng đồng người Việt mình cũng đã đứng ra để nhận lãnh nếu kể ra thì hai trăm mười mấy người bên Phi Luật Tân và một trăm mấy chục người bên Thái và Cao Miên. Chính cộng đồng bỏ tiền ra đóng góp mua vé máy bay, bảo hiểm sức khỏe cho khoảng 400 người tỵ nạn cuối cùng của cái lớp đã bỏ đi từ 75 tới giờ.

Không những như thế mà cộng đồng còn đứng ra bảo lãnh những người đó qua để mà tiếp tay với chính phủ đã từng làm cho chúng ta nên bây giờ phải đáp lại bằng cách yễm trợ và bảo trợ người Việt Nam tỵ nạn còn lại của chúng ta. Đa số những người này bị kẹt từ hai tới ba mươi năm ở Phi và Thái Lan.

Mặc Lâm: Vâng, thưa ông bên cạnh những thành tựu nhất định đó thì chắc chắn bất cứ một cộng đồng nào cũng đều có những trở ngại khó khăn. Ông có thể cho biết cộng đồng Việt Nam tại Canada thì những trở ngại khó khăn ấy cụ thể là gì?

TNS Ngô Thanh Hải: Tôi thấy thì những trở ngại của cộng đồng không có gì lắm bởi vì đa số thế hệ thứ nhất cũng đã thành công rồi còn thế hệ thứ hai, thứ ba thế hệ con cháu chúng ta đã hội nhập vào xã hội Canada từ nhỏ cho tới lớn. Thành ra theo tôi nghĩ, tôi không biết chỗ nào khác nhưng riêng Canada này thì những trở ngại của cộng đồng nếu mà có thì cũng nho nhỏ thôi, chẳng hạn như con cái của chúng ta lớn lên thì vấn đề tiếng Việt của mình nó hơi khó khăn. Trường học dù có mở lớp tiếng Việt dạy cho con em của chúng ta nhưng chắc con em mình nó đã thấm nhuần xã hội Canada nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt thành ra đó là cái mà tôi lo ngại nhất. Tôi hy vọng văn hóa Việt Nam mình sẽ tồn tại tới thế hệ thứ ba, thứ tư và ngay cả về sau này nữa. Đó là điểu mà tôi lo ngại thôi chứ ngoài ra thì tôi thấy cộng đồng người Việt riêng tại Canada thành công rất nhiều. Trở ngại thì văn hóa và tiếng mẹ đẻ của con em chúng ta lớn lên ở đây thì nó hơi khó khăn trong vấn để đó

Mặc Lâm: Xin cám ơn TNS Ngô Thanh Hải.

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2015) – Sydney, Úc – Tác giả bài được trích sau đây mang ra những nhận xét chân thực về nét sinh hoạt của người Việt hiện nay, mà phần chính là những nhận xét về ngưòi Việt trong nước, nhưng thiếu một điều. Đó là nguyên nhân nào mà người Việt lại có những cách cư xử không đáng tự hào như vậy? Ai là người chịu  trách nhiệm cho sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm, cách sống, phong thái sống, và sự lãnh cảm của đa số dân chúng đối với chính họ, với người khác, dân tộc khác?

Chúng ta vẫn còn cảm phục đối với những bà mẹ Việt hy sinh mạng sống để cho con ăn học, vẫn còn cảm phục những người tranh đấu cho tự do dân chủ của người dân, và khi người dân có phương tiện để phát triển về tri thức (trong khi CSVN đã và đang thực hiện nền giáo dục và chính sách ngu dân), thì từ từ, nền tự hào về dân tộc Việt sẽ trở lại.

Một dân tộc không có nền giáo dục hướng thượng và nhân bản thì không có phương tiện cần thiết để nâng cao “nhân phẩm của dân tộc ấy”. Còn là người Việt, chúng ta không thể không tiếp tay đóng góp vào sự phát triển tri thức của dân tộc, dù chỉ là sự đóng góp nhỏ nhoi, dù chỉ giúp một người hiểu được chính sách ngu dân của CSVN, và tìm cách thoát khỏi sự kìm kẹp trí não đó.

15020300

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình.

Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lý do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc?

Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt.

Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực

Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau:

“Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”.

Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh.

Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả.

Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!

Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị.

Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội các đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào.

Thất bại về kinh tế

Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng.

Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tạp đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác.

Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.

VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế?

Giáo dục và khoa học làng nhàng

Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ.

Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger(3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau:

“Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.”

Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền.

Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được.

Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ.

Xã hội bất an

Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an. Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần!

Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%).

Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!

Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế?

Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội.

Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến!

Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng

Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị mệt và đển buổi trưa thì uể oải, và ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Tình trạng ô nhiễm này đã tồn tại hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn nữa, nhưng cho đến nay chính quyền vẫn chưa thấy có biện pháp gì để giải quyết.

Còn ở thành phố lớn (như Sài Gòn và Hà Nội) thì cũng chẳng có gì đáng tự hào. Môi trường sống và sinh hoạt ở thành phố có thể nói là rất xấu. Vi khuẩn, vi trùng, mầm móng bệnh tật gần như ở mọi ngóc ngách. Chỉ cần một trận mưa là thành phố bị ngập nước kinh hoàng. Kiến trúc nhà cửa thì lố nhố, trồi ra, thụt ào, chẳng ra cái thể thống gì. Những con hẻm ngóc ngách và ngoằn ngoèo, nhỏ xíu và dơ bẩn thấy phát ghê. Những con hẻm ở phố cổ Hà Nội phải nói là một nỗi ám ảnh kinh hoàng, giống như địa ngục trần gian. Hẻm ở Sài Gòn thì khá hơn Hà Nội một chút, nhờ thông thoáng hơn, nhưng vẫn thể hiện cái nét hỗn độn, vô trật tự của cái gọi là “thành phố”. Đường xá thì xe gắn máy và xe bốn bánh chạy loạn xa như chẳng có luật lệ gì, cực kì nguy hiểm cho người đi bộ. Còn đường dành cho người đi bộ thì bị chiếm dụng hết. Chẳng có thành phố nào, mới hay cũ, ở VN có thể nói là đáng tự hào cả.

Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào.

Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế

Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó?

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế.

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ.

Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12).

Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật.

Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng.

Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai.

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nguoi-viet.com

Lê Diễn Đức

Trong Hội Nghị Cán Bộ toàn quốc về công tác tổ chức xây dựng đảng diễn ra tại Hà Nội vào sáng 29 tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) than “sốt cả ruột” vì nạn chạy chức, chạy quyền.

“Tôi cứ nghe bao nhiêu tỷ để vào chức nọ chức kia mà sốt cả ruột! Nếu có chúng ta phải tìm có ở đâu chứ để râm ran thế này mà không có thì oan…,” ông Trọng nói.

Quả thật, hoặc sống xa hoa ở trên cao, quan liêu quá mức, hoặc vừa mù vừa điếc, hoặc giả vờ, nên ông tổng bí thư mới “tâm tư” ngớ ngẩn như thế!

Nạn chạy chức, chạy quyền, theo tờ Thanh Niên Online ngày 29 tháng 1 năm 2015, được xếp thứ hai sau tệ nạn tham nhũng và là một trong những “vấn đề gây bức xúc dư luận nhất hiện nay.”

Nạn chạy chức, chạy quyền thực sự không phải mới xuất hiện gần đầy mà đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam, tăng dần lên tỉ lệ thuận với tệ nạn tham nhũng và tỉ lệ nghịch với sự xuống cấp đạo đức xã hội.

Cho rằng “không có lửa sao có khói,” tờ Người Lao Động trong ngày 30 tháng 1, 2015 viết rằng, “Từ lâu công luận đã lên tiếng về các đường dây tiêu cực, như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu, chạy dự án, chạy kinh phí…”

Chạy chức, chạy quyền cũng trở thành đề tài nóng trong các kỳ họp của Quốc Hội. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (khóa 13), Chủ Tịch Hội Đồng Dân Tộc Ksor Phước cũng nhìn nhận phản ánh dư luận về vấn đề chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy ghế. Các kết luận thanh tra đều cho rằng có hiện tượng “chạy” song không phổ biến, nhưng đáng lo ngại và cần loại trừ.

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2012 tờ Dân Luật ghi lại ý kiến của bạn đọc về tình trạng “chạy” này trước phát biểu của Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Thái Bình rằng ông có nghe nói “chạy việc” tốn nhiều tiền của.

Bạn Quỳnh Anh viết:

“Tôi nghĩ bộ trưởng nói la, ‘Tôi có nghe chạy việc tốn nhiều tiền…’ thì chắc là một lời nói không thật, vì chuyện đó ai mà chẳng rõ như ban ngày. Vấn đề là bộ trưởng nhìn nhận và giải quyết như thế nào thôi.”

Bạn Nguyễn Hiệp:

“Bộ trưởng Nội Vụ chả lẽ không biết chuyện chạy tiền để có việc sao? Nếu phải thi công chức thì 50% là phải chạy tiền, còn 40% là ‘con ông cháu cha’ nên không phải chạy, chỉ khoảng 10% là thi bằng khả năng.”

Vào ngày 10 tháng 11 năm 2003, bộ trưởng Công An lúc bấy giờ, ông Lê Hồng Anh, trả phỏng vấn tờ Việt Báo, Trung Tâm Báo Chí và Hợp Tác Truyền Thông Quốc Tế của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, đã khẳng định, “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền.”

“Đúng là hiện nay có một thế lực ngầm, đường dây ngầm để chạy dự án, chạy chức, chạy tội. Đường dây này tồn tại lâu rồi, có điều là làm chưa ra được thôi nhưng có khi nó nằm ngay trong bộ máy nhà nước. Theo tôi nó vẫn tồn tại. Có những dự án này, dự án kia ngoài kế hoạch mà nó vẫn chạy được, tất nhiên không phải tất cả các dự án ngoài kế hoạch và ngoài qui hoạch đều thế, nhưng rõ ràng là có. Có những dự án chả có yêu cầu nhưng vẫn thấy chạy được,” ông Lê Hồng Anh nói. [2]

Có lẽ cũng đã đủ các dữ kiện để nói với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rằng, chạy chức chạy quyền là hoàn toàn có thực, như đinh đóng cột! Dối trá là bản chất các vị, những người đã tạo nên và làm băng hoại kỷ cương, chuẩn mực của xã hội Việt Nam.

Hiện tượng chạy chức chạy quyền là hành vi tham nhũng của những người có chức có quyền. Cả guồng máy vận hành của ĐCSVN là hang ổ của tham nhũng, chức vụ càng cao càng có cơ hội đục khoét của công nhiều hơn. Người ta ra giá chức vụ như một món hàng. Cuộc mua bán được thực hiện kín đáo, tinh vi trong bóng tối, tại nhà riêng, qua các trung gian thân cận hay vợ, con trong gia đình, nên rất khó có bằng chứng.

Trần Văn Thuyết với biệt danh “Thuyết Buôn Vua” trong vụ án Năm Cam là bằng chứng của việc mua bán các chức vụ cao nhất không còn là những giao dịch bình thường mà trở thành tội phạm, ân oán của xã hội đen.

Nguyễn Thế Thảo, hiện là chủ tịch Hà Nội, trong một lần gặp gỡ với bạn bè cùng học ở Ba Lan đã tiết lộ ông ta phải mua cái ghế “chủ tịch” mất gần 40 tỷ. Một người khác (xin được giấu tên), bạn học cũ của tôi, vụ trưởng của Quốc Hội, cho hay, trong nội các của Nguyễn Tấn Dũng, giá cao nhất (50 tỷ) thuộc về bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, cơ quan đảm trách nhiều dự án đầu tư công lớn nhất.

Dịch vụ mua quan bán chức tuân thủ đúng nguyên tắc cạnh tranh của thị trường: Nếu không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền.

Ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành Ủy Hà Nội, từng phát biểu, “500 ngàn đô la không hạ gục được sự liêm khiết của người lãnh đạo đó thì một triệu đô la. Nếu một triệu đôla không đủ mạnh để hạ gục thì nhiều đô la hơn nữa… Bức thành trì liêm khiết của con người cũng có lúc bền vững hơn dãy Trường Sơn nhưng nhiều khi chỉ yếu như tờ giấy bị thấm nước.” [3]

Mua quan bán chức được xem như một khoản đầu tư lấy lãi nhanh nhất. Vì thế đã có rất nhiều sai phạm xảy ra nhưng ít có ai chịu trách nhiệm, xin từ chức. Xả lũ đập thủy điện vô lối gây ra cái chết cho hàng chục người hay tiêm nhầm vác xin làm nhiều trẻ em tử vong, là những ví dụ gần. Cái ghế đã mua rồi, còn phải thu hồi vốn và kiếm lãi đã!

Vì lẽ không thể bỗng dưng bốc một anh nhà quê vô học đặt vào chức vụ cao, tiêu chuẩn học vị trở thành chất xúc tác cho các thương vụ. Hoặc khi đã có một chức vụ kha khá, ước mơ một vị trí cao hơn để có nhiều quyền lực hơn, cơ chế đòi hỏi phải có trình độ học vấn.

“Thế là một cuộc chạy đua để có bằng cấp bằng mọi giá. Bằng cấp càng cao, thì khả năng càng được cất nhắc ở vị trí cao. Không chỉ bằng cấp trong nước mà còn bằng cấp quốc tế rởm với giá 17 ngàn đôla và học trong 6 tháng.” [3]

Ông Phạm Minh Hạc, giáo sư của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, trong bài “Cán bộ xài bằng giả để kiếm cái ghế” nói (bee.net.vn):

“Tôi còn nhớ năm 2001, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động phong trào thanh tra bằng giả, đưa nó thành chủ trương của ngành. Đến năm 2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10 ngàn bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu tập trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ cấp cơ quan trung ương.”

Tại cuộc họp của Hội Đồng Quốc Gia về giáo dục và phát triển nhân lực, ông Phạm Vũ Luận, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã nói, “Người học giả, bằng giả, học thật nhưng chất lượng giả chỉ có thể chui vào hệ thống công chức nhà nước, không vào được doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài.”

Tờ Đất Việt ngày 21 tháng 1 năm 2015 viết:

“Vì bằng giả mà dẫn đến lương tâm giả, nhân cách giả. Và rốt cục sản phẩm của những kẻ ấy làm ra là đường sá cầu cống vừa khánh thành đã hỏng, cầu vừa đi đã sập, đường trên cao chưa làm xong đã mấy lần gây họa chết người.

“Tại Hội Nghị Tổng Kết Công Tác Tư Pháp của Bộ Tư Pháp, bộ này cho biết trong 10 tháng của năm 2014, đã có đến 9,017 văn bản pháp luật vi hiến, trái pháp luật, chiếm 22% tổng số các văn bản đã ban hành.”

“Một con số thật đáng hãi hùng, cứ 10 văn bản pháp luật ban ra thì có đến hơn 2 văn bản vi hiến hoặc trái với các điều khoản đã được quy định trong luật pháp. Thử hỏi có nền tư pháp nào hoạt động với sai sót nhiều đến thế chăng?” [4]

Một lực lượng động đảo những kẻ cơ hội, giả trá và bất tín trong bộ máy quản lý xã hội của ĐCSVN là hệ quả tất yếu của hệ thống chính trị độc quyền không do dân lựa chọn qua bầu cử tự do.

Độc quyền kéo theo đặc quyền, đặc lợi và lạm quyền như là một đặc tính tự nhiên. Những người lãnh đạo nhà nước từ trung ương tới địa phương thao túng và dung dưỡng các tệ nạn, biến tài sản công cộng thành nguồn thu bất chính.

Dân chúng ai ai cũng biết nhưng chỉ bất lực kêu ca và cam phận “sống chung với lũ.” Đó là bi kịch của Việt Nam!

Chú thích:

[1]: http://danluat.thuvienphapluat.vn/chay-viec-chay-chuc-chay-quyen-73026.aspx
[2]: Trong bài “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền” – Tuổi Trẻ.
[3]: Trong bài “Chạy” chức để… đóng góp nhiều hơn? – Vietnamnet.vn.
[4]:
http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/bang-gia-9000-van-ban-sai-10-lan-vo-ong-nuoc-3227745/

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28

Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).

Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)

Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.

Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.

Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này :

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.

Vì sao thế ? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.

Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.

Linh mục chủ tế hỏi ta  Ðể sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Ðể khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?

Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa : Thưa từ bỏ.

Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là “thủ lãnh thế gian này” (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.

Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.

Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.

Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.

Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.

Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.

Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!”

Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”.

Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).

Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài : “Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ” (1Ga 3,8).

Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.

Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.

Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.

Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.

Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.

Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói : “Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm”. Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.

Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc … là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.

Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.

Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay : Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.

Huệ Minh

Tác giả: Huệ Minh