“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”,

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”,

Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya.

(Trịnh Công Sơn – Biển Nhớ)

(Thư Do thái 4: 7-13)

Trần Ngọc Mười Hai

Ngày em đi, phải chăng là đi ra biển để đến nỗi biển vẫn nhớ? Nhớ đến độ, người viết nhạc họ Trịnh, lại cứ đong đưa những điệu nhạc phải nghe tiếp kẻo quên sót, như sau:

“Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ
Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn, bàn tay chắn gió mưa sang
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đêm mờ
Hồn lẽ nghiêng vai gọi buồn, nghe ngoài biển động buồn hơn.

Hôm nào em về, bàn tay buông lối ngõ
Đàn lên cung phím chờ sầu lên dây hoang vu”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Người viết nhạc đầy hồn thơ, thì viết thế. Chứ, người làm thơ đầy hồn nhạc, lại sẽ diễn-tả như sau:

“Mai tôi đi… chẳng có gì quan trọng,
Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,
Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,
Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…
Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng,
Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,
Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,
Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.
Khoảnh khắc cuối… Đâu còn gì tha thiết…
Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.
Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,
Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…
Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,
Để đi vào ranh giới của âm dương,
Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,
Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…
Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,
Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,
Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,
Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…
Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,
Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu,
Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.
Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống…
Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,
Đến trần truồng và đi vẫn tay không.
Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,
Nay rũ sạch… lên bờ, thuyền đến bến…
Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,
Nên xem như giải thoát một kiếp người,
Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,
Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…

Thơ và nhạc, mà lại nói về “cõi hết” cũng rất buồn. Dù bạn dù người “ra đi” có khyên bảo “xin đừng khóc”. Có khóc hay không, đời mình vẫn thế. Cũng vì vẫn như thế, nên có người viết lại đã vội vang đề nghị những lời như sau:

“Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong sân trường khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nữa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống.

Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

Ta vẫn biết khi ta ra đời ,ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.

Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .

Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.

Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt. Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rỗi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẻ. Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gỡ bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nữa.

Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghĩ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.

Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghĩ đến đồng tiền, đừng nghĩ đến giàu hay nghèo nữa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền. Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.

Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.

Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.

Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già. (Dodom ST sư tầm và chuyển cho mọi người đọc trên mạng)

Đọc trên mạng, hay đọc trong cuộc đời, vẫn có những điều mình chưa được biết trọn gói hay trọn vẹn. Đọc trên mạng hoặc đọc trên thư từ bạn bè gửi, lại cũng có những điều chỉ nói một nhưng hiểu nhiều. Cũng tựa hồ như chuyện nhà Đạo có những Tin vui mừng lâu nay tưởng chừng như đã quen quen, dù được “chia sẻ” mỗi Chúa nhật, suốt một đời, thế mà cứ tưởng như rất mới. Mới như câu chuyện được đề cập ở bên dưới:

“Cô bé và cậu bé là hàng xóm từ thuở nhỏ. Trò chơi thuở bé của hai đứa trẻ là chạy ra bờ sông nghịch, lấy đất nặn thành hình búp bê. Khi khuôn mặt cậu bé nhem nhuốc đầy buồn đất, cô bé sẽ khẽ dùng tay áo quẹt đi những vết bẩn trên mặt cậu. Và cậu bé sẽ nhoẻn miệng cười cảm ơn cô bé. Lúc đó, khuôn mặt của hai đứa trẻ trông còn đáng yêu hơn cả những con búp bê mà chúng nặn ra.

Cô bé vốn hay khóc nhè. Một con sâu nhỏ cũng có thể làm cô bé khóc thét vì sợ hãi. Những lúc đó, cậu bé sẽ dẫm chết con sâu, rồi làm ra vẻ người lớn dỗ dành cô bạn nhỏ.

Cô bé vẫn thút thít không ngừng. Cậu bé không biết nên làm thế nào, rút từ trong túi quần ra một đồng xu nhỏ mà khi đứng đợi cô bé đã nhặt được trên đường. Cậu bé đặt đồng xu nằm trong lòng bàn tay để trước mặt cô bé.

“Em xem này, đây là đồng xu anh nhặt được trên đường lúc nãy. Hai mặt của nó không giống nhau đâu. Bây giờ anh tung nó lên, nếu lúc rơi xuống nó vẫn là mặt này, thì em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia thì anh sẽ khóc cùng với em có được không?”.

Cô bé dụi mắt, nhìn đồng bạc sáng loáng trước mặt lạ lẫm hiếu kỳ, rồi ngước lên nhìn cậu bé gật đầu mếu máo. Cậu bé khẽ tung đồng xu vào không trung. Đồng xu lật mấy lần, rồi trở lại lòng bàn tay cậu bé. Cô bé tò mò vội gỡ những ngón tay bụ bẫm của cậu bé. Vẫn là mặt lúc nãy của đồng xu. Hai đứa trẻ nhoẻn miệng cười thật to. Cô bé không khóc nữa. Chúng chạy ra bờ sông nặn búp bê bằng đất.

Tuổi thơ của hai đứa trẻ trôi qua trên những cánh đồng bát ngát, những buổi đi bắt chuồn chuồn bên bờ ao và thả thuyền giấy trên con kênh nhỏ. Cả hai cùng bước vào tiểu học. Những lúc không có người bạn thời thơ ấu bên cạnh, cô bé vẫn thường bị những đứa bé trai cùng lớp trêu đùa bắt nạt. Cô bé khóc nhè cả quãng đường về nhà. Đợi đến khi cậu bé về, đồng tiền xu ngày trước lại xoay vòng trên không trung để quyết định tất cả. Hai đứa trẻ lại nhoẻn miệng cười rồi đi tìm trò chơi thuở bé.

Thời gian lại trôi nhanh qua những bài hát đồng dao thuở học trò. Hai đứa trẻ học lên trung học. Cậu bé cho dù ham chơi đến đâu cũng vẫn có thể tính ra những đáp số chính xác nhờ công thức được học. Thầy giáo luôn khen cậu là một học sinh thông minh.

Còn cô bé, cho dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hiểu được rằng, khi X và Y có quan hệ, Y và Z có quan hệ, thì X và Z nhất thiết phải có mối quan hệ nào đó. Sau mỗi lần trả bài kiểm tra, cô bé lại nằm bò ra bàn và khóc, nước mắt rơi ướt nhòe cả khung điểm kém. Cậu bé lại rút đồng xu từ trong túi ra và tung vào không trung. Vẫn quy định cũ. Cô bé không khóc nữa, ngoan ngoãn ngồi nghe cậu bé giảng giải những chỗ không hiểu, những công thức toán học, những định luật vật lý mà cô không nắm vững. Điểm số của cô không còn thấp dưới 5.

Thời gian lại trôi theo những tháng ngày bận rộn, những kỳ thi cuối cấp. Khoảng trời đại học mở ra trước mắt hai người bạn. Cuộc sống thời đại học an nhàn tự tại. Tuổi thanh xuân với những tình cảm lứa đôi ngây thơ trong sáng in dấu từng góc sân trường. Chàng trai và cô gái kết thành một đôi kim đồng ngọc nữ trong sự ngưỡng mộ của biết bao nhiêu người. Tình yêu chân thành và bình lặng trong từng khoảnh khắc. Cô gái vẫn hay mau nước mắt. Và chàng trai vẫn luôn giữ đồng xu thuở bé bên mình.

Trong một trận đấu bóng chuyền của trường, chàng trai tham gia cùng vài người bạn. Cô gái đứng trên hàng ghế khán giả, cầm áo khoác cho anh và không quên reo hò cổ vũ. Cuối trận đấu, chàng trai cảm thấy khá mệt, mồ hôi vã ra trên trán. Anh lảo đảo bước về phía khán đài. Mọi thứ trước mắt bất chợt trở nên mơ hồ như qua một làn khói ảo.

Khi còn chưa bước được tới trước mặt người yêu dấu, anh cảm thấy một luồng khí nóng trào qua lồng ngực. Rồi máu từ mũi chảy xuống. Chàng trai ngã xuống trước ánh mắt hốt hoảng của cô gái cùng sự ngạc nhiên của bao người đứng đó.

Bác sĩ cho biết chàng trai bị ung thư máu. Trái tim cô gái vốn nhỏ bé mềm yếu lại như vỡ ra từng mảnh. Khi lần đầu tiên đến thăm anh trong bệnh viện, khi lần đầu tiên nhìn khuôn mặt thân thương của anh nhợt nhạt mệt mỏi, cô không nén nổi xúc động, ôm lấy anh và òa khóc. Những giọt nước mắt rớt vội trên bờ môi anh, ấm áp và mặn chát.

Anh cố gắng với tay lấy từ dưới gối đồng xu mà năn nỉ mãi bác sĩ mới cho giữ lại.

-Em nhìn này, đây là cái gì?”.

Cô gái lấy tay quệt nước mắt, nhìn đồng xu thân thương. “Vẫn quy tắc cũ nhé. Nếu là mặt này, em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia, anh sẽ khóc cùng em có được không?”

Cô nhìn người con trai thân yêu đang nằm đó. Anh đang cố gắng dỗ dành cô. Bao năm rồi vẫn vậy, anh chưa từng dửng dưng trước giọt nước mắt của cô. Và cô cũng chưa từng lắc đầu mỗi khi anh lấy đồng xu nhỏ ra.

Chàng trai run rẩy tung đồng xu lên không trung. Đồng xu lại xoay vòng lóe sáng rồi rơi xuống lòng bàn tay anh. Vẫn là mặt “không được khóc nữa”. Chàng trai cố gắng mỉm cười kéo cô gái vào lòng dỗ dành như thời thơ ấu. Nước mắt anh chảy xuôi theo nụ cười.

Đám tang anh, mọi người đến dự trong bao đau buồn và tiếc nuối. Cô tiễn anh không một giọt nước mắt. Mọi người nghĩ cô thật cứng rắn. Nhưng họ không biết, trái tim cô đang vỡ vụn. Và nước mắt cô không thể rơi cho anh được nữa.

Ba mẹ anh gửi cho cô một chiếc hộp nhỏ nói là món quà cuối cùng của anh muốn dành tặng cô. Cô run rẩy mở chiếc hộp của anh. Bên trong là một tờ giấy nhỏ với dòng chữ: “Đừng khóc nữa người mà anh yêu suốt đời”, và một đồng tiền xu sáng bóng.

Đồng tiền xu quen thuộc đã theo hai người từ thời thơ ấu. Cô cầm đồng tiền lên, lần đầu tiên mới nhìn kỹ nó. Nước mắt cô chợt trào ra. Đồng tiền xu rơi xuống đất xoay vòng lóe sáng. Hai mặt của nó vốn dĩ không hề khác nhau…” (Lính thủy sưu tầm)

Sưu tầm chuyện ngắn, đâu cứ chỉ mỗi anh lính thủy còn làm việc ấy. Sưu tầm chuyện nhà Đạo, hẳn bạn và tôi, ta vẫn cứ sưu và cứ tầm, rồi ra sẽ nhận được quà tặng như lời dặn sau đây:

“Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng.

Thật vậy, nếu ông Giôsuê đã cho họ được yên nghỉ,

thì sau đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa.

Như thế, Dân Thiên Chúa còn có thể được nghỉ

như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy,

vì ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa,

thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công việc của mình,

như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người.

Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này,

kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã.

Lời Thiên Chúa là lời sống động,

hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi:

xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ;

lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.

Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa,

nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.”

(Thư Do thái 4: 7-13)

Hiểu thế rồi, bạn và tôi, ta cứ hiên ngang hát lời buồn nhưng không bực, có ca-từ như sau:

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về,
Chiều sương ướt đẫm cơn mê,
Trời cao níu bước sơn khê.
Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rũ buồn,
Đèn phố nghe mưa tủi hồn, nghe ngoài trời giăng mây luôn.
Ngày mai em đi, biển có bâng khuâng gọi thầm,
Ngày mưa tháng nắng còn buồn, bàn tay nghe ngóng tin sang.
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đèn vang,
Nửa bóng xuân qua ngập ngừng, nghe trời gió lộng mà thương”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Nghe trời lộng gió mà thương”. Vâng. Đúng thế. Hôm nay và mai ngày dù trời có lộng gió hay không, ta cứ thương. Thương, như lời người kể truyện ở bên dưới làm đoạn kết cho buổi phiếm luận, rất hôm nay.

“Truyện rằng:

Ngày lễ hội hôm ấy, hai người bạn thân gặp nhau sau một thời-gian xa cách, ít có dịp tâm sự đôi điều về nhân-sinh cuộc đời, vui buồn lẫn lộn. Trò chuyện một hồi lâu, chợ ngu72i này hỏi:

-À này, mối tình của cậu với “con nai vang ngơ ngác” khi xưa bây giờ ra sao?

-Hết rồi cậu ạ! Lâu lắm rồi, chẳng thấy “nai vang” nào còn ngơ ngác hết, mà chỉ là…

-Chỉ là làm sao?

-Chỉ là “muông thú quen gầm, ở Hà Đông thôi!

-Ấy chết! Sao lại là sư tử Hà Đông được?

-Chữ đó là do cậu nói đấy, chứ không phải của tớ đâu nhé. Liều mồm mà ăn nói, kẻo chết không kịp ngáp cho mà coi.

-Tớ chết từ lâu rồi, cậu ạ. Nưng, chỉ là chết trong lòng một chút ít, thôi…”

Chết trong lòng một ít hay rất nhiều, vẫn là sống như đang chết. Là, thứ chết rồi nhưng vẫn còn ngáp. Ngá ngáp, chứ chẳng chơi. Đó là cuộc đời, của bạn và của tôi, rất hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn luôn chết trong lòng một ít

Suốt nhiều ngày

Trong đời.

” Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”

” Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”

“Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy .
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay .
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Yn 1: 35-42

Mai Tá lược dịch.

Sóng âm thanh – nguồn hương thơm, như màu ru xô đẩy, nơi lời nguyện. Lời nguyện hôm nay, là nguyện và cầu theo ý Chúa, có lời mời. Ngài mời dân con nhà Đạo mỗi người mỗi cách, như đã ghi giữ trong trình thuật.

Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi giữ lời gọi mời Chúa gửi đến, với mọi người. Chúa gọi mời mọi người làm dân con đồ đệ, nay uỷ thác. Ngài uỷ thác, lối sống thân thương giùm giúp, bằng quà tặng rất trân quý.

Bài đọc 1, Chúa đã gọi mời người trẻ, tên Samuel, những ba lần. Còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm về gọi mời, nên Samuel cứ ngỡ tiếng Ngài gọi là tiếng từ thày mình, rất Êlya. Thế nên, Chúa gọi hai lần đầu Samuel đều đi ngủ. Cả hai lần đến với Elya, cứ hỏi han. Mãi lần ba, người thanh niên trẻ Samuel mới dám nghe lời thày mách bảo: “lần sau, hễ có ai gọi thì con nhớ thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”

Rồi từ đó, “Samuel đã lớn lên. Và, Đức Chúa ở với ông. Người không để rơi xuống đất một lời nào Người đã phán với ông” (1S 3: 19). Như thế là, anh vẫn tiếp tục lắng tai nghe rất cẩn trọng. Nghe những gì Đức Chúa nói với ông. Lắng nghe tiếng Người gọi mời. Và đổi lại, ông đã chuyển đến với mọi người, những gì mình đã nghe. Bởi, Lời Chúa không là Lời để ta giữ lại, cho riêng mình. Cũng giống như người tôi tớ lĩnh nhận đồng tiền vàng, rồi đem chôn.

Và vì thế, mỗi lần Lời Chúa nói, mọi người cần lắng nghe. Lắng nghe, là: để tai ra mà nghe. Là, thông hiểu. Là, chấp nhận và đồng hoá như của mình. Để rồi, san sẻ với người khác bằng lời lẽ và hành vi. Thành thử, ví thử Chúa gọi ta hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ta có sẵn sàng để lắng tai, không?

Trình thuật nay cũng nói về một gọi mời. Gọi mời, là lời gọi đến hai lần. Lời gọi hôm nay, là về hai người đã trở thành đồ đệ của Gio-an Tẩy Giả. Thánh nhân chỉ cho họ thấy Đức Giê-su rồi bảo: “Này, là Chiên Thiên Chúa!” Thánh Gio-an biết: vai trò thủ lĩnh của ông chỉ ngắn hạn, và tạm thời. Và, ông tập trung nhấn mạnh đến vai trò chỉ đạo của Đức Chúa. ”Chiên Thiên Chúa”, là danh xưng mà thánh Gio-an thánh sử tặng cho Đức Giê-su, ngay chương đầu. Chương này, thánh nhân nối kết Chúa vào với lịch sử cứu độ, dân Do Thái. Và thánh nhân nói: Chúa hy sinh cả cuộc sống vì Ngài thương yêu chúng ta.

Đồ đệ Chúa, thoạt nghe lời gọi mời, chẳng tỏ bày một ngạc nhiên, nhưng đã bước theo Chúa. Thấy thế, Chúa quay lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Câu hỏi này, Chúa cũng đang gửi đến mỗi người, ngày hôm nay. Thông thường, ta cứ nghĩ mình là người hỏi Chúa:“Ngài tìm ai thế?” Không phải vậy. Ở đây, Chúa chỉ muốn hỏi: ta muốn điều gì? Trả lời câu Chúa hỏi, không phải để trả lời Ngài, mà cốt ý làm lợi cho ta. Câu trả lời, sẽ cho ta biết: đâu là ưu tiên một, ta có thực sự dành cho Chúa. Cho mọi người chung quanh?

Hỏi, là để biết xem ta thực sự muốn cho cuộc sống mình ra như thế nào? Muốn Chúa làm gì cho ta? Và đây chính là câu hỏi không dễ gì có câu trả lời, ngay tức khắc. Trả lời Ngài, có thể cũng chỉ lớt phớt, rất thoáng qua. Nhưng câu trả lời sẽ cho thấy, ta ra như thế nào. Và, đây là câu hỏi buộc ta phải phản hồi, theo từng giai đoạn, trong cuộc sống. Tuỳ hoàn cảnh.

Và, trả lời của đồ đệ cho câu hỏi “anh tìm gì?” là thế nào? Chưa có trả lời, nhưng đồ đệ Chúa, lại cứ hỏi: Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Hỏi như thế, có nghĩa: “Thưa Thầy, Thầy ở nơi nào để con tìm đến? Chúng con đi đâu mới tìm ra được Thầy? Trong cuộc sống, chúng con làm thế nào để giáp mặt cùng Thầy?” Thật phúc thay, nếu ngày nay mọi người chúng ta cũng có câu trả lời như thế,.

Và câu đáp trả của Chúa, vẫn là: “Hãy đến mà xem.” Đến mà xem, trước tiên không phải là một hiểu biết về Đức Kitô và biết được nơi Ngài lưu lại. Cũng không là vấn đề truyền thông tin tức. Cũng chẳng phải là chuyện có liên quan đến mọi ý nghĩa thần học, tín lý hoặc tu đức. Cũng chẳng phải là vấn đề phải có chuyên môn về giáo huấn và luật lệ của Hội thánh: nhóm Pharisêu thuộc mọi thời đại đều rất giỏi chuyện này.

Hiểu biết Chúa, là vấn đề của kinh nghiệm. Người người đều có thể hiểu và biết Giáo lý mới của Hội thánh, dầy những 700 trang. Và, có khi còn thuộc lòng nhiều đoạn. Nhưng vẫn chưa biết Chúa. Biết Chúa, theo nghĩa của trình thuật hôm nay, là biết đi tìm, gặp gỡ và đáp trả sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài, trong cuộc sống.

Biết đến Chúa, là dám lao mình tìm hiểu giáo huấn của Ngài. Tìm và hiểu, cả vào khi xem ra mình cứ phải đối đầu với những người khác nghĩ. Là, yêu thương không điều kiện. Là, thứ tha, đưa má kia cho người tát. Là, vác thập giá nặng theo sau Đức Chúa. Là, chịu đựng mọi sỉ vả, chê bai và hành hình. Hãy đến mà xem, chính là theo chân bước vào con đường Chúa đã đi. Không có cách nào khác.

Hai đồ đệ được nói đến trong trình thuật, đều đã chấp nhận lời gọi mời. Các ngài đã thực sự ra đi và lưu lại nơi Chúa từng, dừng chân vào cuối ngày. Và, kết quả của quyết tâm lưu lại với Chúa, sẽ ra sao? Một trong hai đồ đệ ấy, là thánh Anrê, không chỉ quyết tâm theo Chúa mà thôi, nhưng còn là người rao giảng Tin Mừng, không xa Chúa. Chính thánh nhân là người đã đến kể với anh em mình : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia!” Cũng từ đó, Simôn đã trở thành Phêrô, một đồ đệ rất gần gủi. Một lĩnh tụ của cộng đoàn mới.

Cũng nên nhớ, thánh Phêrô, dù đảm trách vai trò quan trọng trong tương lai, lúc đầu vẫn không là người được Chúa đích danh, trực tiếp gọi mời. Mà, qua người em của thánh nhân. Và, chuyện như thế vẫn xảy đến rất nhiều lần ngày hôm nay. Mọi người chúng ta, kể cả các thánh, đều do người khác, những người yếu kém hơn mình, dẫn đưa đến Chúa. Như ta, hôm nay, cũng đều do người nào khác đem đến với Chúa.

 

Bởi thế nên, cũng hãy hỏi:

*Chúa đang gọi ta hôm nay, bây giờ để làm gì? Và, ta có thực sự để tai mà lắng nghe những điều Ngài muốn nói với tôi, không?

*Có ai đang chờ người như ta để nhờ dẫn dắt, đến cùng Chúa, không?

Và, ai là người đang đợi chờ lời gọi mời rất vang vọng: “Hãy đến mà xem”?

Hỏi, tức đã trả lời. Và, câu trả lời của ta, có là câu đáp trả rất tích cực?

Trong tự vấn, ta cứ hiên ngang cất tiếng hát lên để khẳng định một quyết tâm, hát rằng:

“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù

Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu

Lửa âm u ai đốt từ lâu

Miền quê tôi khan tiếng kêu gào

Lời tôi ca như nước nhiệm mầu

Thành mưa rơi cho dứt niềm đau”

(Phạm Duy – Tiếng hát to)

Cứ hát to. Hát, cho thêm ý. “Thêm nguồn hương thơm”của cuộc đời. Cuộc đời, nay đã thấy “Lên bốc lên và ân huệ dường bay.” Thấy “khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng” . Ánh sáng nhiệm mầu, nơi gọi mời, của Đức Chúa.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch.

Chân dung Quyền lực

Chân dung Quyền lực

Nguyễn Hưng Quốc

13.01.2015

Trong mấy tuần vừa qua, sự kiện thu hút sự chú ý của các cư dân mạng và những người quan tâm đến sinh hoạt chính  trị Việt Nam nói chung nhiều nhất có lẽ là sự xuất hiện của trang blog mang tên “Chân Dung Quyền Lực”. Trên mạng lưới internet, từ facebook đến blog, ở đâu người ta cũng xôn xao bàn tán về Chân Dung Quyền Lực (CDQL). Ảnh hưởng của CDQL lớn đến độ nhà cầm quyền Việt Nam, hết người này đến người khác, phải lên tiếng cảnh cáo mọi người không được nói xấu giới lãnh đạo, gây chia rẽ trong nội bộ đảng và làm suy yếu chế độ.

Giống trang Quan Làm Báo trước đây, nội dung chính của trang CDQL là nhằm vạch trần tệ nạn tham nhũng của giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, trang CDQL khác trang Quan Làm Báo ở nhiều điểm.

Thứ nhất, nó chuyên nghiệp hơn. Trang Quan Làm Báo được trình bày một cách khá nhếch nhác, cách hành văn cũng khá luộm thuộm. CDQL, ngược lại, có hình thức khá đẹp và đặc biệt, được viết với một văn phong rõ ràng mạch lạc, không khác một cán bộ tuyên huấn có tay nghề cao.

Thứ hai, về nội dung, Quan Làm Báo tập trung vào mâu thuẫn giữa chính quyền và nhóm “tài phiệt” tại Việt Nam; CDQL tập trung vào nạn tham nhũng của các thành viên trong Bộ chính trị, tức những người có quyền lực cao nhất nước.

Thứ ba, về sức thuyết phục, Quan Làm Báo rất ít có bằng chứng để hỗ trợ sự lên án của mình, CDQL, ngược lại, nói đến đâu trưng bằng chứng ra đến đó. Các bằng chứng ấy bao gồm: giấy kê khai tài sản, nhà cửa với địa chỉ và hình ảnh rõ ràng, hình ảnh chụp với thân nhân hoặc bạn bè. Khó biết những bằng chứng ấy chính xác đến độ nào. Nhưng nó gợi lên ấn tượng là chúng có thật.

Thứ tư, về nguồn tin, cả Quan Làm Báo lẫn CDQL đều gợi ấn tượng là nó đến từ bên trong: Quan Làm Báo biết trước Bầu Kiên bị bắt; CDQL loan báo chính xác ngày giờ ông Nguyễn Bá Thanh được chở về Việt Nam, trong khi hầu hết giới chức tại Việt Nam, kể cả những người trong uỷ ban bảo vệ sức khoẻ của Trung ương cũng như giới lãnh đạo tại Đà Nẵng đều mù tịt. Sự chính xác này khiến dư luận nói chung càng tin những gì được viết trên CDQL là những lời tố cáo từ trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, phần lớn các bài viết trên CDQL đều có hình ảnh cụ thể và rõ ràng của những người được đề cập. Ngoài gia đình hoặc những giới chức có thẩm quyền lớn, ai có thể có những bức ảnh ấy?

Tất cả những đặc điểm vừa nêu đều dẫn đến một kết luận: Trang CDQL là nơi giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay dùng để tố giác và hạ uy tín của nhau trong cuộc chạy đua vào Bộ chính trị cũng như các chức vụ cáo nhất trong hệ thống đảng (Tổng bí thư) và nhà nước (Chủ tịch nước và Thủ tướng).

Nhưng kết luận ấy lại dẫn đến một nghi vấn khác: Ai là người đứng sau trang CDQL?

Để trả lời câu hỏi ấy, có thể phân tích nội dung trên trang CDQL.

Về đối tượng được đề cập, tính đến Chủ nhật 11 tháng 1 năm 2015, trên trang CDQL có khá nhiều người được mang ra mổ xẻ. Nhiều nhất là Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc 27 bài; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang 20 bài, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng 18 bài, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng 8 bài, Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh 7 bài (tất cả đều liên hệ đến tình trạng bệnh hoạn của ông), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 5 bài,  Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị 4 bài, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh và Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, mỗi người  2 bài , Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng, Thường trực Bí thư Trung ương đảng Lê Hồng Anh và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng Tô Huy Rứa mỗi người một bài.

Về sự đánh giá, có thể chia thành hai nhóm. Một, nhóm bị đả kích kịch liệt, chủ yếu vì tội tham nhũng hoặc bất tài, vô đức; và hai, nhóm được khen ngợi. Thật ra, cái gọi là được khen ngợi ấy không thể gọi được là nhóm bởi ở đó chỉ có một người duy nhất: Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Tấn Dũng được khen là một “hình ảnh độc tôn” trên sân khấu chính trị Việt Nam, người đầy tài năng và quyền lực, hơn nữa, có triển vọng trở thành vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam thời hậu cộng sản.

Nhìn vào nội dung như trên, người ta dễ có ấn tượng chính Nguyễn Tấn Dũng hoặc đàn em của Nguyễn Tấn Dũng đứng đằng sau trang CDQL. Thú thực, tôi không tin lắm. Thứ nhất, Nguyễn Tấn Dũng không vụng về đến độ ra tay một cách lộ liễu để ai cũng có thể thấy được như vậy. Ở cương vị của ông, ai cũng thấy, đó là điều cực kỳ nguy hiểm. Thứ hai, nếu là Nguyễn Tấn Dũng, đối tượng bị ông đả kích kịch liệt nhất sẽ là ba đối thủ nặng ký nhất trong guồng máy đảng và nhà nước: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Sinh Hùng, những người ngang tầm và có khả năng giành giựt chiếc ghế Tổng bí thư mà dư luận đồn đoán là ông sẽ nhắm tới sau khi làm Thủ tướng hết hai nhiệm kỳ. Trên trang CDQL, cả ba người này đều bị phê phán gay gắt, nhưng đối tượng bị kết án nặng nề nhất lại là một người khác, hiện đang giữ chức phó Thủ tướng: Nguyễn Xuân Phúc. Cho dù Nguyễn Tấn Dũng đang có tham vọng gì trong kỳ đại hội đảng sang năm, Nguyễn Xuân Phúc cũng không phải là đối thủ của ông. Ông không cần phải ra tay như vậy. Cái giá phải trả quá lớn trong khi kết quả lại không được gì. Thứ ba, vấn đề được phanh phui nhiều nhất trong các bài viết đả kích từ Trương Tấn Sang đến Nguyễn Sinh Hùng, Phùng Quang Thanh và Nguyễn Xuân Phúc đều là vấn đề kinh tế với những khối tài sản kếch xù của họ cũng như của anh chị em hay con cháu họ. Tôi nghĩ đây là một đề tài mà Nguyễn Tấn Dũng không dại gì xới lên bởi nó sẽ gây tác dụng ngược: về phương diện này, có lẽ không ai trong guồng máy chính quyền Việt Nam có mức giàu có như ông và con cái của ông cả.

Vậy thì là ai?

Tôi lóe ra ý nghĩ: Nguyễn Bá Thanh (hoặc đàn em của ông) chăng? Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới biết rõ tình trạng bệnh hoạn của ông đến vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới biết rõ các chi tiết liên quan đến lịch trình chuyến về Việt Nam từ bệnh viện Mỹ của ông đến vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương với chức năng tìm kiếm dấu vết tham nhũng, mới nắm rõ hồ sơ về gia sản của các cán bộ đến như vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới căm ghét Nguyễn Xuân Phúc, hai người vốn là đồng hương nhưng lại là đối thủ với nhau trong một thời gian dài, đến như vậy. Và chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới ra tay một cách khốc liệt như vậy vì, thật ra, ông không có gì để mất cả: Với tình trạng bệnh hoạn như vậy, nếu còn sống sót, sự nghiệp chính trị của ông coi như đã kết thúc, ông không hy vọng gì giữ được chiếc ghế trong Trung ương đảng, đừng nói gì là Bộ chính trị.

Dĩ nhiên, xin nhấn mạnh, đây là phỏng đoán. Chỉ là phỏng đoán.

Điều quan trọng hơn, bất kể người nào đứng sau trang CDQL và họ nhắm đến bất cứ một mục tiêu gì, những sự phanh phui về tệ nạn tham nhũng của những cán bộ lãnh đạo cao nhất trong hệ thống đảng và nhà nước như vậy cũng là những tài liệu cực quý, lần đầu tiên dân chúng mới được biết một cách cụ thể. Trong trận đấu đá này, có người thắng kẻ bại, nhưng kẻ bại cuối cùng chắc chắn vẫn là đảng Cộng sản: Dưới mắt dân chúng, họ hiện nguyên hình là những tên tham nhũng vơ vét tài sản của đất nước để làm giàu cho bản thân và họ hàng.

Đó mới là điều đáng để chúng ta quan tâm.

 

Người Việt nghĩ nhỏ, khó làm việc lớn?

Người Việt nghĩ nhỏ, khó làm việc lớn?

Nguyễn Lễ

bbcvietnamese.com

Cầu Nhật Tân là niềm tư hào của người dân Hà Nội

Hà Nội có cây cầu mới. Phải nói là đẹp và hoành tráng nhất từ trước đến nay. Năm trụ cầu vươn lên sừng sững giữa trời tượng trưng cho năm cửa ô hay năm cánh hoa đào của làng đào Nhật Tân ngay dưới chân cầu.

Đừng nói chi người dân gốc Hà thành, nếu tôi có mặt ở Hà Nội lúc này tôi cũng muốn đứng giữa cầu để ghi lại khoảnh khắc mình được chứng kiến một lần thủ đô thay da đổi thịt.

Thế nhưng, cầu đã thông, xe đã chạy, đi bộ thì cấm thì chụp làm sao đây? Chỉ có nước chạy xe lên cầu rồi dừng lại mà chụp.

Y như rằng, chỉ một hai ngày sau báo chí đã la ầm lên về ‘những hình ảnh xấu trên cây cầu đẹp’.

Họ tường thuật những chiếc xe dựng chình ình giữa cầu, nam thanh nữ tú làm dáng giữa dòng xe đang chạy hay dải lan can phân cách cheo leo là thế cũng bị trèo lên để lấy góc ảnh ‘độc’.

Trước đó mấy ngày, báo chí còn đưa tin cầu Phú Mỹ trên sông Sài Gòn người dân dàn hàng xem pháo hoa mừng năm mới mặc kệ dòng xe bị chặn ngang giữa đường.

Cũng may chưa có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Có lẽ cánh tài xế ở Việt Nam đã không còn lạ gì tập quán của dân mình.

Người Việt ‘tùy tiện’

Những câu chuyện người Việt ‘tùy tiện’, ‘vô kỷ luật’ hay ‘thiếu ý thức’ như thế nhan nhản trên báo chí mà chúng ta chắc cũng không còn lạ gì.

Ở Việt Nam kẹt xe rất thường xảy ra

Ở Việt Nam kẹt xe thì ai mà không chen? Ai cũng chen mình có muốn không chen cũng không được.

Dĩ nhiên đã kẹt thì càng chen lại càng kẹt. Nguyên tắc phải nhường mới đi được. Nhưng người Việt chỉ muốn đi chứ không muốn nhường. Ai cũng tìm khoảng trống mà lách thì không những không thoát được mà còn làm cho mình và mọi người chùm nhum cả nút.

Nhiều người đi bộ cầu vượt trước mắt đó nhưng không leo sợ cực chẳng thà phang ngang bất chấp tính mạng.

Chợ búa hàng rong thì phải ra lòng đường mới được. Người đi làm về tiện là tấp vào mua giữa đường giữa sá có kẹt xe tắc đường gì cũng kệ.

Rác rến ngoài đường tiện đâu vứt đó. Cực thân đi tìm thùng rác. Chẳng thà để nhếch nhác và mất công người khác quét dọn.

Nhà trên kênh rạch thì cứ thẳng tay ném hết xuống sông cho khỏe để rồi chính môi trường sống của mình bị hủy hoại.

Xem phim nghe nhạc thì mua băng chép đĩa lậu. Đỡ tiền thiệt nhưng giết chết luôn người vắt tim óc sáng tạo để rồi lần sau không còn cái mà coi.

Trộm chó hoành hoành gây náo loạn từ thôn quê đến thành thị thậm chí mất mạng người chỉ vì có nhiều người thích ăn thịt thú cưng của người khác nhưng không muốn mất người bạn trung thành của mình.

Người Việt rất tùy tiện trên đường phố?

Đánh bắt thì tận diệt từ tôm cá, chim chóc thậm chí cho đến côn trùng rắn rít cũng không tha. Ngay miền Tây ‘chim trời cá nước’ mà giờ đây trong tự nhiên nhiều thứ đã cạn kiệt. Ăn một lúc rồi treo miệng cả đời.

Làm ăn buôn bán thì chụp giựt. Hám một chút lợi không đáng mà mất chữ Tín với khách hàng. Đã không giữ khách lâu dài thì chớ mà còn đuổi khách một đi không trở lại. Rốt cuộc tự mình đoản hậu giống như các nhà hàng chặt chém ở Vũng Tàu phải ‘canh me’ chộp từng ‘con mồi’.

Còn những người bỏ hóa chất vào hàng hóa thực phẩm ăn được đồng một đồng hai mà không biết là mình đã làm thiệt hại không biết bao nhiêu đồng cho người khác và xã hội khiến người ta mang bệnh mang tật cả đời.

Tâm lý đố kị

Những trường hợp kể trên người ta đã ham nhỏ bỏ lớn, được một mà mất hai, thấy cái trước mắt mà không nghĩ đến cái lâu dài. Nói cách khác họ có cái nhìn hạn hẹp.

‘Nghĩ nhỏ’ như thế không những gây hại cho mình, cho người, cho đời mà còn dễ bị kẻ khác lợi dụng. Mọi thua thiệt mình lãnh đủ.

Cho nên thương lái Trung Quốc đi thu mua đỉa, móng trâu hay lá trà các thứ có trách họ thì cũng buồn cho dân Việt quá dễ dụ.

Nguyễn Hà Đông có bị người khác ghen ghét với thành công ‘Flappy Bird’?

Và cũng chính vì nghĩ nhỏ nên nhiều người Việt thấy cái tôi quá lớn lấn át cái lớn thành ra nhỏ.

Người Việt rất thấm thía thói ‘dìm hàng’ nhau của dân mình. Thậm chí, có người còn ví xã hội Việt Nam như một rổ cua đồng – con nào leo lên sẽ bị con khác kéo xuống.

Cái tôi thì ai mà không có? Mỗi con người từ khi sinh ra đã là một thế giới và ai cũng muốn mình là trung tâm hơn tất cả mọi người. Lẽ thường ai cũng bị tổn thương khi thấy người khác hơn mình và sẽ có cảm giác dễ chịu khi chỉ trích để dìm người khác xuống và nâng mình lên.

Thế nhưng, người dân ở các nước phát triển biết quý trọng nhân tài thì ngoài cái tôi của bản thân người ta còn nghĩ đến lợi ích chung của xã hội mà người tài đem lại. Cho nên, sự ganh tỵ, đố kỵ nếu có cũng không thành cố tật như người Việt.

Nghĩ nhỏ thì nước nào cũng có nhưng để trở thành vết hằn trong tính cách dân tộc thì ắt hẳn nó bắt nguồn từ nếp sống và văn hóa của dân tộc đó.

Trong khi các người Hoa ở hải ngoại tạo thành một khối kết dính bền chặt bên trong không bung ra bên ngoài không phá vào được thì người Việt lại có tiếng là rời rạc, bất hợp tác, phân rã và triệt hạ lẫn nhau.

Đồng ý ganh tỵ là một cảm giác rất con người nhưng nếu nghĩ lớn hơn thì sẽ thấy ai thành tựu đều là nhờ khả năng và công sức của họ. Ghen ghét với họ tức là đã cho là mình không bằng họ và năng lượng để ghen ghét đó nên dành để phấn đấu được như họ. Suy cho cùng họ làm được cũng là đóng góp cho xã hội mà mình cũng có lợi ích trong đó.

Nghĩ nhỏ thì nước nào cũng có nhưng để trở thành vết hằn trong tính cách dân tộc thì ắt hẳn nó bắt nguồn từ nếp sống và văn hóa của dân tộc đó.

Người Việt gốc là nông nghiệp. Cuộc sống gắn chặt với ruộng vườn, thôn xóm, bờ đê, lũy tre không như phương Tây xuất thân du mục hoặc gắn bó với sóng biển, theo vó ngựa đi khắp nơi, hay theo cánh buồm vươn ra đại dương khám phá thế giới.

Không gian sinh tồn cố định đã đóng đinh tư duy người Việt. Họ có khuynh hướng ổn định, yên bình, không xáo trộn và tư duy lợi ích chỉ cần vụ mùa bội thu dư cơm đủ gạo. Người Hoa có truyền thống thương buôn nên tư duy lợi ích của họ không giới hạn – có một muốn được hai còn lòng tham không đáy.

Họ muốn có lớn, được nhiều thì cái lợi nhỏ không thể che khuất tầm nhìn của họ. Lã Bất Vi từ 2.300 năm trước đã biết buôn vua bán chúa đoạt thiên hạ. Nói đâu xa, người Hoa trong Chợ Lớn làm ăn rất coi trọng chữ tín nên nắm trong tay kinh tế thương mại cả một vùng.

Vai trò lãnh đạo

Cá nhân nghĩ nhỏ thì gây hại cho bản thân và người xung quanh còn lãnh đạo nghĩ nhỏ thì tác hại khôn lường đến tương lai đất nước, vận mệnh dân tộc.

Chủ tịch Sang nói ‘lợi ích đất nước, dân tộc là trên hết’

Người Việt nghĩ nhỏ nên tư duy cục bộ, địa phương, bè phái – lo vun vén cho bản thân, gia đình, dòng họ và quê hương mình. Vấn đề là ở chế độ một đảng cầm quyền thì Đảng có vì mình trước hết hay không?

Trong nền chính trị mà một điều cũng Đảng, hai điều cũng Đảng thì bài viết đầu năm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nghe lạ tai với câu ‘lợi ích đất nước, dân tộc trên hết’.

Không biết khi nói như thế ông Sang có đại diện cho Đảng không chứ người đại diện Đảng là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì nói rất khác.

Tổng bí thư nói phải ‘bảo vệ chủ quyền nhưng cũng phải giữ bằng được cho Đảng lãnh đạo’. Tuy nhiên ông không nói rõ giữa hai cái đó thì cái nào quan trọng hơn và nếu không thể đảm bảo hai cái cùng một lúc thì giữ cái nào? Trước đó ông cũng có nói là Đảng quyết ‘không chia sẻ quân đội với bất cứ ai’ cho nên không rõ Đảng quyết nắm quân đội như vậy là để bảo vệ chủ quyền đất nước hay bảo vệ Đảng?

Mới đây, Tổng bí thư cũng nói tại Đại hội Thanh niên rằng con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng đang dẫn dắt đất nước là ‘con đường chưa có tiền lệ’ nên còn nhiều thách thức.

Ở đây tôi không hiểu tại sao đa phần các nước đã có con đường phát triển mà thực tế đã chứng minh làm cho dân giàu nước mạnh thì tại sao Việt Nam không đi mà đâm đầu vào con đường chông gai, tương lai mờ mịt mà trăm năm nữa cũng chưa tới?

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tiếng phải bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng

Nói đó là ý nguyện của người dân thì cũng không đúng vì bản thân Đảng còn chưa hình dung được chủ nghĩa xã hội hình hài thế nào thì người dân biết gì mà lựa với chọn?

Cần xác định giữa chủ nghĩa xã hội và lợi ích quốc gia cái nào lớn cái nào nhỏ. Nếu đi lên chủ nghĩa xã hội mà dân tộc thịnh vượng, đất nước hùng cường thì không nói làm gì. Còn nếu con đường đó gây chia rẽ dân tộc và kìm hãm đất nước thì tại sao nhất quyết phải đi theo?

Đơn cử thì mô hình kinh tế quốc doanh tàn phá bao nhiêu nguồn lực của đất nước nếu là nước khác thì người ta đã bỏ từ đời nào rồi chứ không như Việt Nam không bỏ được vì nếu bỏ thì còn gì là kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Cũng vậy, trong quá khứ nếu Đảng không đặt nặng đấu tranh giai cấp thì đã không bị che mờ mắt không còn thấy lợi ích của đất nước đâu nữa.

Chẳng hạn Đảng sẽ cân nhắc hơn khi quyết định đẩy dân tộc vào lò lửa chiến tranh, hy sinh xương máu hàng triệu đồng bào cả hai miền, làm hao tổn bao nhiêu nguyên khí, làm đất nước thụt lùi bao nhiêu năm để chiến đấu cho hai phe ý thức hệ còn người ta đứng sau cấp vũ khí tiền bạc cho dân mình đánh nhau.

Chẳng hạn Đảng sẽ tỉnh táo thấy chủ quyền lãnh thổ quan trọng hơn là ý thức hệ, không vì ‘tình hữu nghị’ mà sập bẫy Trung Quốc trong vụ công thư năm 1958 để bây giờ phải xử lý hết sức khó khăn.

Chẳng hạn sau chiến thắng năm 1975 Đảng sẽ nghĩ đến tương lai dân tộc không vì cái kiêu hãnh giai cấp mà đẩy hàng triệu người dân miền Nam vào các trại cải tạo, các khu kinh tế mới thậm chí mất mạng trên biển khơi để hận thù hằn sâu trong lòng dân tộc đến tận bây giờ.

Ông Đặng Tiểu Bình có đường lối ngoại giao thực dụng

Rõ ràng cùng là Đảng Cộng sản nhưng người Trung Quốc họ nghĩ lớn hơn. Họ đặt lợi ích quốc gia là tối thượng còn ý thức hệ chỉ là con bài để lợi dụng Việt Nam mà thôi.

Chính vì vậy họ mới gài bẫy Việt Nam hồi năm 1958 để hỗ trợ cho tham vọng Biển Đông của họ về sau. Và kể từ chủ trương ‘mèo trắng mèo đen’ thì họ đã từ bỏ con đường kinh tế xã hội chủ nghĩa. Giờ đây với ‘Trung Hoa mộng’ họ đang mơ trở lại thời kỳ mà Trung Quốc đúng nghĩa là quốc gia trung tâm thế giới. ‘Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc’ chỉ còn là cái vỏ cho Đảng của họ cầm quyền mà thôi.

Trong hoàn cảnh như vậy nếu Đảng ở Việt Nam vẫn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích dân tộc, vẫn còn mơ hồ con đường chủ nghĩa xã hội, tức là vẫn chỉ thấy cái nhỏ mà không nghĩ được cái lớn, thì Việt Nam sẽ mãi là một dân tộc nhược tiểu, đất nước không bứt phá được và sẽ luôn bị người ta hiếp đáp.

Tấm gương lịch sử

Tấm gương người xưa vẫn còn chói rạng. Thái hậu Dương Vân Nga hy sinh ngai vàng của con trao quyền lực cho người có tài cứu nước. Đức Vua Trần Nhân Tông sau khi thắng giặc Nguyên-Mông bỏ qua chuyện cũ lấy lượng bao dung mà hòa giải dân tộc.

Và tổ tiên người Việt cũng không ít những người nghĩ lớn. Đức Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là nghĩ ‘đến muôn đời’. Danh thần Nguyễn Trãi đã dạy ‘trồng cây Đức để con ăn’.

Quan chức thời nay chỉ thấy tiền tài vật chất. Nhiều người chỉ vơ vét thật nhiều chứ biết đâu ‘trồng cây Đức’ mới là đại kế cho con cháu về sau.

Của cải tích trữ như núi ngồi ăn cũng lở, tiền tài gom góp chết có mang theo được không? Quan trọng là có khả năng thì phấn đấu làm lợi cho dân cho nước để lập công đức cho đời. Chứ còn vì lòng tham của bản thân mà đục khoét phá hoại thì hưởng thụ được bao nhiêu để bị muôn người chửi rủa.

Vấn đề là nếu con người ta thấy hại thì ai mà làm. Nhưng vì họ không nhìn ra hại để tránh mà chỉ thấy lợi nên ham.

Và nếu nghĩ nhỏ đã thấm vào máu của người Việt rồi thì khó sửa lắm. Có điều nếu dân trí người dân nâng cao thì tầm nhìn của họ cũng mở rộng hơn. Cho nên mong chờ các thế hệ sau trong điều kiện giáo dục tốt hơn sẽ nghĩ lớn hơn người đi trước.

Điều tối quan trọng là người lãnh đạo phải nghĩ lớn hơn, phải thoát ra khỏi sự ràng buộc về tư tưởng để lấy lợi ích của dân của nước làm trọng. Từ đó mới thấy được cái gì có lợi cho dân thì làm và cái gì có hại thì quyết phải tránh.

Thế kỷ kết liễu độc tài (RFA)

Thế kỷ kết liễu độc tài  (RFA)

tuankhanh

Những ngày của đầu năm 2015, tin tức về cái chết của Fidel Castro, nhà lãnh đạo cộng sản khét tiếng của Châu Mỹ Latin đang được lan truyền khắp nơi. Có thể đó chỉ là tin đồn. Có thể ông ta đã chết nhưng đảng cộng sản Cuba đang chọn tìm một thời điểm thích hợp để công bố, như số phận của nhiều nhà lãnh đạo cộng sản khác. Cũng có thể tin đồn đó chỉ là cách phản ánh một tâm thức chán ghét của của đám đông về nhân vật này. Nhưng điều quan trọng hơn, với những gì đang diễn ra ở Cuba, thì ý nghĩa tồn tại thể chất của nhà độc tài cộng sản 88 tuổi không còn quan trọng: Trong mắt loài người văn minh, Fidel Castro kể như đã chết.

Cũng giống như nhiều lãnh tụ cộng sản háo danh khác, Fidel Castro cũng thích nhảy múa cùng những huyền thoại của mình, để ông được “sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Một trong những huyền thoại hay được sách vở Cuba tuyên truyền rầm rộ là ông đã phá vỡ được đến 638 vụ ám sát của CIA Mỹ tổ chức nhằm vào ông. Những vụ ám sát được công bố qua các phương thức như bỏ thuốc độc, nổ xì-gà… rất ư là 007. Với theo nhiều tài liệu phân tích của các sử gia, thì đa số là do các tổ chức Cuba phản kháng lưu vong tìm cách thực hiện. Nhưng điều đáng nói nhất, thì người dân Cuba ít được phép nhắc đến, đó là Fidel Castro đã cai trị dân tộc mình bằng máu và nước mắt hơn nửa thế kỷ.

Không chỉ riêng ở Cuba, mà ngay ở Việt Nam, các giáo viên dạy sử cũng được nhận lệnh gia công cho các huyền thoại này. Trong một giờ dạy về lịch sử quốc tế, tôi còn nhớ mình phải học thuộc lòng rằng Cuba như chỉ sinh ra từ Fidel Castro và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy dạy sử, mà tôi tin chắc rằng ông ta chưa bao giờ được một lần đặt chân đến Cuba, đã say mê thuyết phục những đứa học trò trung học chúng tôi rằng nơi đó là thiên đường, và Fidel là một kỳ nhân của thế gian khi cải tạo đất nước này sang hình thái xã hội chủ nghĩa.

Ở thiên đường đó, mà tôi cũng từng mơ màng trong suốt nhiều năm, có những điều thật trớ trêu. Hơn một triệu người dân Cuba không chấp nhận cộng sản, chọn cách ra đi đã hàng năm gửi về cho thân nhân của họ hơn 1 tỷ USD kiều hối, tương đương với 35% ngoại tệ thu về hàng năm của cả nước, giúp nền kinh tế này thoi thóp sống. Nơi quốc gia này, nhân viên nhà nước làm việc cho chính phủ, chỉ có được mức lương trung bình khoảng 15 USD/tháng nhưng phí điện thoại di động là 40 USD/ tháng. Tôi không có dịp gặp lại người thầy của mình để hỏi lại cảm giác của ông về những tin tức như năm 2014, người dân Cuba mới bắt đầu được đi du lịch nước ngoài mà không còn cần phải làm bản trả lời thẩm vấn nộp cho công an địa phương. Hoặc chỉ để nhìn lại ông, khi chìa cho ông bản tin chính báo chí Việt Nam đăng tải, rằng các phát minh của thế kỷ 20 như tivi màu, internet… người dân Cuba chỉ được chạm đến trong thế kỷ 21.

Năm 1961, sau một thời gian làm cách mạng lật đổ chế độ thân Mỹ của tổng thống Fulgencio Batista, Fidel Castro tuyên bố mình đi theo chủ nghĩa cộng sản, đưa đất nước này vào bóng đêm tăm tối của chế độ độc tài toàn trị. Dù được ca ngợi là thành tựu ở một vài lãnh vực như y khoa, kiểm soát tội phạm… nhưng đất nước Cuba cũng được nhắc đến về cuộc sống rên siết trong vòng vây của chế độ cộng sản. Một chế độ mà chính chủ tịch mới, ông Raul Castro đã phải thú nhận trước quốc hội vào tháng 4/2011, rằng « Hoặc là chúng ta sửa đổi, hoặc như thế là hết. Chúng ta không còn có thể đi men theo bờ vực thẳm, chúng ta sẽ chìm đắm, và cùng chìm theo ta là nỗ lực của bao nhiêu thế hệ ».

Triều đại bàn tay sắt của Fidel Castro vẫn còn được được mô tả trong bản báo cáo về nhân quyền năm 2009, qua lời của Rodolfo Bartelemí Coba, một nhà tranh đấu cho quyền con người, rằng “Chúng ta sống 24 giờ một ngày, mà vốn đã được chuẩn bị sẵn sàng để bị giam giữ”. 10 ngày sau lời phát biểu này, ông Rodolfo cũng đã bị bắt đi mất tích.

Sự tàn bạo của chính quyền cộng sản Cuba, thông qua Lực Lượng Vũ Trang Cách Mạng (FAR) là đề tài kinh hoàng của những người vượt thoát khỏi Cuba. Theo hồ sơ của Hiệp hội Đồng hương Mỹ-Cuba (Cuban American National Foundation) thì từ sau khi Fidel Castro cầm quyền, đã có khoảng 12.000 đối lập chính trị bị bắn, chôn sống hoặc tra tấn đến chết. Nhưng các tài liệu ngoài tiếng Tây Ban Nha thì cho biết số lượng những nạn nhân này có thể lên đến 17.000 người, chỉ tính riêng từ năm 1959 đến 1990.

Một bản tin về chuyện ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận với Cuba vào 17/12/2014 vừa rồi, cũng như tin tức chủ tịch Raul Castro ký trả tự do cho 35 nhà đối lập trong danh sách 100 người được quốc tế đề nghị (8/1/2015), số người đào thoát khỏi Cuba vẫn tăng đến 117%. Dù tự do và thay đổi đang ở ngay trước mặt nhưng người dân Cuba đã không còn kiên nhẫn để chờ đợi nữa. Họ làm mọi cách để chạm vào tự do ngay khi hàng rào kẽm gai vừa lỏng lẻo chứ không còn kiên nhẫn và cam chịu để chờ đến khi hàng rào đó sụp đổ. Không thể đợi Fidel chết và chế độ cộng sản Cuba sụp đổ trên bản đồ chính trị, người dân muốn tiễn đưa ngay cơn ác mộng của đời mình bằng hành động cụ thể nhất.

Khác với các nhân vật như đại tá Gaddafi hay tổng thống Mubarak, các nhà lãnh đạo cộng sản vẫn hay lên tiếng tố cáo sự tư hữu xa hoa của chế độ phương Tây, bày tỏ cuộc sống khiêm tốn của mình. Nhưng khi mọi thứ được phơi bày, người dân mới té ngửa khi biết rằng mọi thứ đều là dối trá. Chính các nhà lãnh đạo cộng sản là kẻ tham nhũng ghê sợ nhất, xa hoa nhất trên tấm lưng còng của tổ quốc mình. Theo tiết lộ từ cuốn La Vie Cachée de Fidel Castro (tạm dịch: Cuộc đời bí ẩn của Fidel), một nhân viên cận vệ của Fidel Castro kể rằng nhà lãnh tụ này chưa bao giờ từ bỏ lối sống tiện nghi tư bản mà ông ta vẫn hay lên truyền hình nguyền rủa nó. Juan Reinaldo Sánchez, người đã làm cận vệ riêng cho Fidel trong suốt 17 năm, sau đó đào thoát qua Mỹ, tiết lộ rằng dân cả nước Cuba không thể nào hình dung nổi cuộc sống sang trọng phung phí của Fidel. Thậm chí Fidel Castro còn quy hoạch một hòn đảo nhỏ thành của riêng cho mình, đảo Cato Piedra, nằm ở phía nam của Vịnh con Heo. Juan nói rằng nơi đó được Fidel Castro xây dựng như một vườn địa đàng, đầy những trại nuôi rùa biển và cá heo.

Thế kỷ 20 và 21 đã chứng kiến nhiều cuộc kết liễu độc tài. Từ Stalin đến Mao Trạch Đông… rồi Kim Chính Nhật đến Gaddafi… giờ thì đã rất gần với Fidel Castro, nhân vật bạo chúa được khoác áo người hùng trong vai diễn của lịch sử cộng sản thế giới. Như một quy luật không thể thay đổi: bất cứ chế độc tài nào rồi cũng phải ra đi, dù đi nhanh hay đi chậm. Thế kỷ như đang kết liễu những nhà độc tài, những nhà nước độc tài núp bóng vì nhân dân, vì tổ quốc. Những người như tôi cũng có dịp để kết liễu những bài học lịch sử nhồi sọ của mình, để ghi vào đó, một trang sử mới bằng tên của những người yêu nước Cuba đã chết cho quê hương của họ được tự do.

Bốn mươi năm và bao nhiêu năm nữa?

Bốn mươi năm và bao nhiêu năm nữa?

VietTuSaiGon

RFA

Bốn mươi năm, những vong linh mồ xiêu nấm lạc, không người nhang khói, bị bêu riếu bằng cái tên “mả ngụy” và người ta đã dày xéo không thương tiếc! Nghĩa trang Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở nhiều nơi đã thành khách sạn, công ty, dấu xưa chẳng còn gì.

Bốn mươi năm, những vong linh lang bạc kì hồ, không chốn nương náu bởi lòng người lạnh nhạt và người ta mãi say sưa trong cái gọi là chiến thắng, đạp lên tất cả mọi giá trị của đối phương, kể cả giá trị làm người và giá trị làm ma!

Bốn mươi năm, tượng đài bị đập phá, công trình, di tích bị đập phá, sách bị đốt, người bị nhốt, những bộ não thi đậu thủ khoa đại học lại bị vất ra đường để bán cà rem, bán bánh mì, những bộ não đỏ tuy không có chữ nào, học lớp ba lớp bốn trường làng lại được dán lên đó cái bằng tiến sĩ, bằng cao học… để lãnh đạo đất nước!

Bốn mươi năm, khoảng thời gian đủ để vài thế hệ sinh ra, lớn lên, nhận lãnh một nền giáo dục mà đến khi trường thành, sự sợ hãi, tính dối trá, giảo hoạt, lòng ích kỉ và thù hận đã chi phối toàn bộ hành vi hằng ngày, chuyển hóa thành bản chất đeo đẳng bởi giáo dục nhà trường và tương tác xã hội.

Bốn mươi năm, dường như lòng thù hận chưa bao giờ được xóa bỏ bởi chính sách phân biệt lý lịch trong các cơ quan nhà nước cũng như tính ưu tiên cho những con cháu của đảng viên Cộng sản, dẫn đến hàng loạt bất công, phi lý và những người có ý thức xậy dựng tương lai cá nhân, xã hội phải rơi vào chỗ cô thế, bị khủng bố tinh thần bằng mọi giá.

Bốn mươi năm, mỗi dịp lễ hội, Tết, nhà cầm quyền Cộng sản vẫn không bao giờ quên mở những bài hát mà nội dung của nó ca ngợi đảng Cộng sản, đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào chỗ giặc bán nước, “ngụy quân”, “ngụy quyền”.

Bốn mươi năm, đất nước không có chiến tranh Nam – Bắc nhưng số người chết bởi chiến tranh Campuchia, chiến tranh biên giới Việt – Trung nhiều gấp ba lần số người chết trong hai mươi năm chiến tranh Nam – Bắc, không có bắn nhau trong nội địa Việt Nam nhưng người Trung Quốc ngang nhiên bắn giết bộ đội Việt Nam trên biển, mặc dù vậy, đảng Cộng sản Việt Nam và đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn giao hảo với nhau, vẫn anh em “bốn tốt mười sáu vàng”.

Bốn mươi năm không có Tây, Mỹ nào xâm lược nhưng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam vẫn tiếp tục nhỏ lại, các cột mốc biên giới Việt – Trung vẫn tiếp tục dời lệch về phía Việt Nam, biển đảo tiếp tục mất dưới bàn tay Trung Cộng.

Bốn mươi năm “sống và làm việc noi gương bác Hồ vĩ đại”, người cán bộ Cộng sản đã tàn phá thiên nhiên, mọi nguồn tài nguyên cạn kiệt, đất đai hẹp dần, quyền sở hữu đất của người dân vẫn chưa có và tiếng kêu oan từ nhân dân mất đất vẫn kêu thấu trời xanh, chỉ có nhà cầm quyền là không nghe thấy.

Bốn mươi năm, những trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên yêu nước đã xuống đường biểu tình chống Trung Cộng và bị lực lượng công an Việt Cộng đàn áp, đánh đập, bắt bớ và dập tắt bằng mọi giá. Thậm chí có cán bộ công an đã hù dọa sẽ biến những cuộc biểu tình thành một “Thiên An Môn tại Việt Nam” hoặc chửi thề “tự do lài cái con c.!” với những người biểu tình.

Bốn mươi năm, hệ thống nhà nước trở thành bộ máy tham nhũng khổng lồ và chạy rất nhịp nhàng trong cơ chế quyền lực phe nhóm của nó. Người dân trở thành thứ nô lệ gián tiếp nộp thuế để nuôi cái bộ máy tham nhũng, cái hệ thống quyền lực này.

Bốn mươi năm, người dân quen sống trong sợ hãi, kìm kẹp và vô hình trung trở thành một thứ đảng viên Cộng sản không chính thức, lấy sự bợ đỡ quyền lực đảng, quyền lực nhà cầm quyền địa phương, quyền lực công an làm chỗ dựa mà tồn tại. Một ông hàng phở, một bà hàng xén sẵn sàng bỏ ra những đồng bạc ki cóp của mình để đút lót cho quan lại địa phương để được ưu tiên một việc gì đó, kể cả ưu tiên cứu trợ lũ lụt, phục hồi nhà cửa hư hỏng sau thiên tai.

Điều đáng sợ nhất của thế giới tiến bộ và điều mà người Cộng sản mong mỏi nhất cũng đã đến, đó là sự tê liệt trong các tế bào xã hội, sự khiếp nhược cũng như sự dốt nát trong văn hóa ứng xử của người dân. Điều này vốn là một thứ gì đó quá đáng sợ với thế giới tiến bộ nhưng lại là thành tựu của kẻ độc tài, chỉ có một mặt bằng dân trí ngu đần, sợ sệt và tê liệt mới đảm bảo ngôi vị lâu dài của kẻ độc tài.

Và một khi mà phần đông, nói khác là đại đa số nhân dân thỏa hiệp, sợ sệt, đội trên đạp dưới để tồn tại, liệu đảng Cộng sản đã thành công thực sự? Không, điều đó hoàn toàn không phải là một sự thành công của đảng Cộng sản mặc dù họ muốn thế!

Tham vọng của đảng Cộng sản là tham vọng độc tài, độc tôn lãnh đạo đất nước. Nhưng với một đất nước què quặt, kém tiến bộ, thiếu văn hóa, liệu họ sẽ nói dối và đứng trên đôi nạn thế giá đến bao giờ trước công luận quốc tế, trước những yêu cầu của thế giới tiến bộ?

Chắc chắn, người Cộng sản phải trả giá về việc này bất luận như thế nào. Bởi lẽ, sau bốn mươi năm, người ta có mù cũng dễ dàng nhận ra tuy về mặt địa lý không phân biệt Nam – Bắc, không có đường ranh giới vĩ tuyến 17 nhưng về mặt tâm thức, sự phân biệt Nam – Bắc bởi do phân chia quyền lực, những đặc quyền đặc lợi cũng như sự khác biệt giữa văn hóa Cộng sản nằm lòng miền Bắc với văn hóa Tư Bản trứng nước miền Nam đã đẩy hai lối sống về hai phía.

Điều này không nằm trong mong muốn của nhân dân nhưng đó là sự tiếp nhận thụ động cũng như cơ chế phản kháng rất tự động của con người trong tiến trình trưởng thành của mỗi người. Sự sai lầm lớn nhất của đảng Cộng sản sau bốn mươi năm chiếm cả hai miền Việt Nam chính là sự phân biệt đối xử, phân chia đặc quyền đặc lợi cho phe nhóm trong nội bộ đảng và nói láo quá lâu, xem thường sự hiểu biết của nhân dân.

Chắc chắn, người Cộng sản cũng như chính thể Cộng sản phải trả giá cho điều này, khó mà trốn vào đâu được. Bởi bốn mươi năm, con số đủ trưởng thành cho một đứa trẻ từ lúc lọt lòng mẹ cho đến nay cũng như đủ trưởng thành cho một xã hội mặc dù tính cách của xã hội đó có lệch lạc cỡ nào thì sự thật vẫn đập vào mắt thiên hạ. Chính sự thật sẽ cất lên tiếng nói của nó! Đó là tài sản có được sau bốn mươi năm! Và bao nhiêu năm nữa?

Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc?

Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc?

Nguoi-viet.com


Ngô Nhân Dụng

Thứ Hai đầu tuần này có hai cuộc họp quan trọng, một ở nước ta, một ở Mỹ, bàn về tương lai Việt Nam trong năm năm tới. Trong cả hai hội nghị, không ai đưa cây đinh ốc vào chương trình nghị sự, thật đáng tiếc.

Câu chuyện cái đinh ốc bùng lên trong nước từ Tháng Chín. Báo chí đăng tin công ty Samsung điện tử thú nhận cơ xưởng ráp máy điện thoại của họ ở Bắc Ninh không tìm ra xí nghiệp nào của người Việt Nam có thể cung cấp những cây đinh xoắn trôn ốc, còn gọi là ốc vít.

Tại sao nhân dân ta anh hùng vẫn chưa làm được cái đinh ốc, sau 70 năm tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, và sau 30 năm đổi mới kinh tế cho nó giống xã hội tư bản thời hoang sơ? Trong hai cuộc hội nghị ở Boston và Hà Nội không ai trả lời cho câu hỏi đó.

Cuộc hội thảo, tổ chức tại Ðại Học Harvard ngày 5 Tháng Giêng năm 2015, bàn về “Các chính sách cho kinh tế Việt Nam trong năm năm tới.” Chương trình buổi sáng dành cho các chính sách gọi là vĩ mô, tức là những vấn đề lớn lao cho toàn thể kinh tế quốc dân như lạm phát, tiền tệ, thất nghiệp, vân vân. Giữa các chuyện to lớn đó, những cái đinh ốc nhỏ bé không thể chen chân vào được. Buổi chiều, các chuyên gia lại dành thời giờ tìm hiểu xem họ đang nghiên cứu những cái gì về kinh tế Việt Nam. Những cây đinh ốc chắc chắn không có cơ hội nào xuất hiện!

Trong cùng ngày Thứ Hai, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản khai mạc, trễ một tháng. Hội nghị này sẽ bỏ phiếu tín nhiệm cho các nhà lãnh đạo mà họ bầu ra từ đại hội trước; đồng thời sẽ bàn về “công tác nhân sự” đại hội thứ 12 năm 2016, tức là xem ai còn, ai mất, ai sẽ ngồi vào cái ghế nào. Trước ngày họp, dân lên mạng ở Việt Nam đã được chứng kiến cuộc đấu đá công khai giữa các phe trong đám Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang. Chủ yếu là phao tin đồn, chửi rủa, phe này bới móc phe khác. Khi họ vào họp, chắc chắn không ai nghĩ tới câu chuyện Samsung không dùng được những cái đinh ốc làm ở Việt Nam.

Câu chuyện hãng Samsung và những cây đinh ốc đáng chú ý vì trong năm 2013 Samsung ở Việt Nam (Samsung Electronics Vietnam, hay SEV) đã xuất cảng số điện thoại di động trị giá 23.9 tỷ đôla, gần bằng một phần năm (18%) tổng số tiền cả nước thu được nhờ xuất khẩu. Trong số hơn 400 triệu máy điện thoại di động mà Samsung bán ra trên thế giới thì số máy từ các nhà máy ở Bắc Ninh, Thái Nguyên chiếm 35% – trong tương lai sẽ tăng lên 50%. Ðể lắp ráp hơn 140 triệu cái máy đó, Samsung phải dùng các bộ phận, gọi là linh kiện, trị giá các bộ phận này lên tới gần 20 tỷ (19.8 tỷ) đô la. Tất nhiên, những bộ phận đắt tiền nhất do chính Samsung làm ra ở nước họ, Nam Hàn. Nhưng còn rất nhiều thứ bộ phận họ có thể mua ở các nước khác, rẻ hơn là làm tại Hàn Quốc. Nếu Samsung mang tất cả các bộ phận từ Nam Hàn qua thì nền kinh tế địa phương sẽ bất lợi. Chính phủ nước nào cũng yêu cầu các công ty ngoại quốc phải đặt mua nhiều hàng “bản xứ” để giúp các xí nghiệp địa phương. Nếu các xí nghiệp Việt Nam có cơ hội cung cấp một số bộ phận cho Samsung thì họ sẽ tạo thêm công việc làm cho công nhân Việt Nam.

Vậy người Việt Nam đã bán cho Samsung được những thứ gì?

Bộ Công Nghiệp, Thương Mại trong chính phủ đã trình làng một bản danh sách dài liệt kê 144 thứ bộ phận do các công ty ở Việt Nam cung cấp cho SEV; thí dụ pin điện, núm nghe đặt vào tai, USB chứa dữ liệu, giấy cách nhiệt, vân vân. Trong đó, 91 món dùng để ráp máy điện thoại Galaxy S4, 53 món cho loại “độc bản” (tablet) đường chéo 7 đốt (7 inches). Riêng hãng Samsung cho biết họ sẽ tăng số bộ phận đặt mua tại Việt Nam lên 170 món.

Nhưng rốt cuộc, có 67 doanh nghiệp cung cấp các linh kiện cho SEV; đại đa số là các doanh nghiệp của người Ðại Hàn, Nhật Bản, Singapore, Mã Lai. Chỉ có bốn doanh nghiệp Việt Nam cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho SEV, mà việc chính của họ là làm bao bì, in ấn.

Ông Shim Won Hwan, tổng giám đốc Samsung ở Việt Nam mới nói tại một hội thảo tại Hà Nội vào tháng Chín vừa qua, rằng “không doanh nghiệp Việt Nam nào ‘nắm bắt’ được cơ hội, họ chỉ cung ứng được nng sản phẩm in ấn, bao bì!” Còn những thứ “cao cấp” như cái đinh ốc vít, người Việt Nam làm không được theo tiêu chuẩn của Samsung! Họ cũng không kiếm mua được những bộ phận “sạc” điện cho cell phone do người Việt Nam làm.

Giáo Sư Nguyễn Mại, chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Ðầu tư Nước ngoài (VAFIE) xác nhận đây là tình trạng chung. Ông nói rằng các doanh nghiệp nước ta không thể cung cấp những món giản dị, rẻ tiền như bộ phận sạc pin, đinh ốc vít cho các doanh nghiệp vốn ngoại quốc. Ông Vũ Tiến Lộc, chủ tịch Phòng Thương Mại Công Nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết thêm rằng trước đây các công ty Nhật làm việc tại như Canon, Sony, cũng chỉ đặt mua bao bì của người Việt, những thứ khác không mua được hàng đúng tiêu chuẩn! Nghĩa là khi xuất khẩu một món hàng của Canon, Sony hay Samsung, trong một trăm đồng đô la thu vào thì người Việt Nam, kinh tế Việt Nam chỉ thực sự lãnh được một đồng hay hai đồng mà thôi. Ðó là tiền công lắp ráp và cung cấp bao bì. Ngay trong giá bán các thứ bao bì cũng vẫn có một phần phải trả lại cho nước ngoài, vì mình mua các chất làm giấy, làm plastic, mua mực tốt đủ tiêu chuẩn, vân vân. Ðó là hình ảnh một nền công nghiệp ăn mày. Bao giờ các doanh nghiệp nước ta còn chưa làm nổi cây đinh ốc thì cả nước vẫn còn đi ăn mày như thế.

Ông Vũ Tiến Lộc giải thích “nguyên nhân sâu xa là môi trường kinh doanh tại Việt Nam chưa thực sự bình đẳng.” Môi trường như thế nào mà không bình đẳng? Ông Lộc nêu một thí dụ: “nhiều doanh nghiệp không nhất thiết đầu tư vào công nghệ, quản trị nhưng vẫn cạnh tranh được nhờ vào mối quan hệ.” Nói rõ hơn là như thế này: Có doanh nghiệp tư nhân cố đổ thêm tiền bạc, thời giờ cải thiện kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị cho hiệu quả hơn, nhưng vẫn thua các doanh nghiệp chẳng làm gì cả. Chỉ vì những anh không làm gì cả đó hoặc là của nhà nước, hoặc do các cán bộ, đảng viên cộng sản cầm đầu, họ có “quan hệ” cho nên khi cần vay tiền là có tiền, vay với lãi suất thấp, khi cần thì xin giấy phép gì cũng nhanh, mua bán gì cũng dễ. Còn các xí nghiệp tư nhân cái gì gặp cũng khó, cũng chậm, bị hoạnh họe đủ thứ.

Vì vậy, Giáo Sư Tạ Lợi, Ðại học Kinh tế Quốc dân, nhận xét rằng “doanh nghiệp và cơ quan chức năng (tức các đấng cán bộ ngồi bàn giấy) vẫn như hai bánh xe răng cưa chạy hai hướng khác nhau.” Một người lãnh đạo công ty Ðiện Tử và Dịch Vụ Công Nghiệp Sài Gòn (Sagel) cho biết ngày xưa Sagel từng đầu tư để sản xuất một số hàng xuất khẩu; nhưng “việc xin giấy phép phải mất 3 năm, khi mình xin giấy phép xong, khởi sự đầu tư thì trên thế giới nhiều sản phẩm đã thay đổi, công nghệ đã khác trước rồi.” Có người thú nhận trong một cuộc hội thảo, “Giờ công nghệ ta thua Campuchia, họ làm được ô tô, ta có làm được đâu?”

Tất nhiên, nếu chưa ráp được cái ô tô thì có thể làm ra được những cái đinh ốc để ráp ô tô. Nếu không thì lại chỉ ráp bằng những thứ bộ phận được chế tạo ở Nam Hàn, Nhật Bản, Ðài Loan, Singapore, Mã Lai, Indonesia, Campuchia, vân vân. Nghĩa là suốt đời làm những công việc lương thấp nhất thế giới, thứ lương bổng ăn mày!

Tại sao Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản không bàn gì về những cái đinh ốc? Bởi vì mối lo lắng của họ không phải là chuyện người Việt Nam có làm ra nổi cái đinh ốc hay không. Không phải là các xí nghiệp Việt Nam làm ra được cái gì! Quanh năm, suốt tháng, cả ngày, suốt 24 giờ, họ chỉ lo làm sao bảo vệ quyền hành và lợi lộc cho bản thân và cho phe đảng. Họ sinh ra dưới một chế độ như vậy, được đào tạo như vậy. Trong tất cả các nước độc tài, cộng sản hay không cộng sản, hệ thống thăng tiến xã hội đều theo nền nếp đó. Những cuộc đấu đá trên mạng gần đây cho thấy, những phe Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang không một anh nào trình bày cho mọi người thấy phe mình có những chính sách nào tốt hơn phe bên kia. Bởi vì phe nào cũng vậy, họ không coi chuyện nước Việt Nam có sản xuất được đinh ốc là chuyện quan trọng. Ít nhất, không có thứ tự ưu tiên bằng vấn đề họ có còn giữ được địa vị và của cải hay không! Họ chỉ đem nhau ra chửi, bên này chửi bên kia tham nhũng hơn mình. Một phe tố cáo Trần Văn Truyền nhà cao cửa rộng thì phe bên kia tố giác Nguyễn Xuân Phúc còn nhiều nhà cửa hơn. Vì vậy, Hội nghị Trung Ương Ðảng chắc chắn không có thời giờ bàn chuyện những cái đinh ốc.

Còn quý vị kinh tế gia, khoa học gia họp tại Boston, họ cũng không bàn đến những cái đinh ốc nhưng vì lý do khác. Họ chỉ bàn các vấn đề lớn, gọi là kinh tế vĩ mô mà thôi. Việc sản xuất đinh ốc chắc chắn là chuyện nhỏ, kinh tế học gọi là vi mô. Lý do, không phải vì thân phận những cái đinh ốc quá nhỏ! Lý do chính là việc sản xuất và phân bố hàng hóa, dù nhỏ như cây đinh ốc, lớn như cái máy bay, đều thuộc phạm vi nghiên cứu kinh tế vi mô.

Môn kinh tế học vi mô khảo sát cơ cấu vận động xem các doanh nghiệp làm ăn theo những quy luật nào, cạnh tranh, trao đổi với nhau ra sao. Nếu sống trong môi trường theo đúng quy luật tự do cạnh tranh, trong khung cảnh pháp lý có luật pháp rõ ràng, công khai và công bằng, thì các tự nhiên doanh nghiệp phải chạy đua với nhau chế ra những thứ hàng tốt nhất với giá thành rẻ nhất. Còn trong khung cảnh kinh tế bao cấp xã hội chủ nghĩa thì các doanh nghiệp không được khích lệ một cách tự nhiên để làm ăn như vậy. Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước không cần cải thiện về kỹ thuật hay quản trị hữu hiệu, cũng vẫn thăng quan tiến chức. Họ chỉ cần đứng trong phe đang lên là vững chân. Cho nên, như ông Trần Việt Thanh, thứ trưởng Bộ Khoa Học Công Nghiệp công nhận, “phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đang dùng các kỹ thuật lạc hậu đi sau thế giới trung bình 2 đến 3 thế hệ.” Cũng vậy, không ai lo cải thiện năng suất lao động, cải tổ phương pháp quản lý. Vì chúng ta đã biết, cha chung thì không ai khóc!

Từ thập niên 1990, người ta đã nhận thấy một khuyết điểm của việc cải tổ kinh tế các nước cựu Cộng Sản là chỉ chú trọng các vấn đề vĩ mô. Bởi vì phần lớn các chuyên gia kinh tế được dùng ở ở Liên Xô cũ và Ðông Âu đều chuyên học ngành kinh tế vĩ mô. Rất hiếm người đào tạo trong ngành quản lý, ít người có kinh nghiệm về điều khiển các xí nghiệp thật sự, từ sản xuất đến tiếp thị. Thất bại ban đầu của những kế hoạch cải tổ kinh tế là do hành vi của các doanh nghiệp, phản ứng của họ không giống các thói quen trong kinh tế thị trường thực sự. Họ vẫn theo thói quen thời “bao cấp” chứ không hành động theo lối thị trường. Các chính sách vĩ mô trở thành vô hiệu vì cơ cấu vi mô chưa được cải tổ.

Câu chuyện hãng Samsung và những cây đinh ốc cho thấy trở ngại lớn nhất khiến kinh tế nước ta không tiến được là do một đảng chiếm độc quyền cả về chính trị lẫn kinh tế suốt 70 năm qua.

Cuối cùng, muốn vực dậy kinh tế Việt Nam trong năm, mười năm tới vấn đề quan trọng nhất không phải là những chính sách vĩ mô như tiền tệ, lạm phát, kích cung hay kích cầu. Quan trọng nhất là chấm dứt tình trạng độc quyền nắm cả nền kinh tế của một nhóm người gian tham và dốt nát. Muốn vậy, trước hết phải chấm dứt độc quyền cai trị của đảng cộng sản Việt Nam. Chấm dứt chế độ Cộng Sản rồi mới hy vọng sau ba năm, năm năm, có doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu sản xuất được những cái đinh ốc đúng với tiêu chuẩn của Samsung, Canon hay Sony!

Trung Quốc bắt giữ 680 nghi can tham nhũng trốn ra nước ngoài

Trung Quốc bắt giữ 680 nghi can tham nhũng trốn ra nước ngoài

Chuacuuthe.com

VRNs (09.01.2015) -Sài Gòn- Hãng tin Reuters dẫn thông tin từ Bộ Công an Trung Hoa cho biết, có 680 trường hợp tình nghi hối lộ và các tội phạm kinh tế đã bị bắt giữ, trong một chiến dịch chống tham nhũng nhằm vào các nghi phạm đã trốn ra nước ngoài.

Con số này nhiều gấp 4,5 lần số quan chức bị bắt vì tham nhũng trong năm 2013.

Chính phủ đã phát động “chiến Dịch Săn Cáo” từ năm ngoái nhằm mục đích săn lùng các quan chức và doanh nhân đã bỏ trốn ra nước ngoài  cùng với các tài sản bất chính của họ.

“Đây là một thắng lợi to lớn với  kết quả đáng ghi nhận,” quan chức Bộ Công An cho biết. Trong tổng số 680 nghi phạm bị bắt giữ, 117 người đã nằm trong hồ sơ nghi vấn từ hơn một thập kỷ qua, 390 nghi phạm đã tự về nước đầu thú.

Tổ chức Tài Chính Toàn Cầu có trụ sở tại Washington cũng cho biết hơn 1,008 tỉ Mỹ kim đã bị luồn ra khỏi Trung Hoa một cách bất hợp pháp từ năm 2002- 2011.

Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát động chiến dịch chống tham nhũng từ khi ông nhậm  chức vào năm 2013,  nhưng việc điều tra và thu hồi tài sản bất hợp pháp từ nước ngoài đã gặp rất nhiều khó khăn vì Trung Hoa không có hiệp ước đẫn độ với Hoa Kỳ và Canada. Đây là 2 điểm đến phổ biến của các nghi phạm kinh tế.

Các phương tiện truyền thông Trung Hoa cho biết nước này đang thỏa thuận ký kết hiệp ước dẫn độ với Hoa Kỳ nhằm thu hồi nguồn tài sản bất chính từ các quan chức tham ô.

Tuy nhiên các nước phương Tây vẫn còn ngần ngại trong việc ký kết hiệp ước dẫn độ với Trung Hoa. Tính toàn vẹn của hệ thống tư pháp và tình trạng đối xử các tù nhân là nguyên nhân của các lo ngại này. Các nhóm nhân quyền cho biết tình trạng tra tấn  và bản án tử hình rất phổ biến trong các trường hợp tham nhũng.

Bách Hợp

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

Tác giả: Uwe Siemon-Netto

(http://www.legion.org/magazine/217890/wrong-side-won)

Người dịch: Trần Văn Minh

01-12-2013

clip_image002

Một phụ nữ Việt đang than khóc bên cạnh xác chồng, được tìm thấy trong số 47 người khác tại một ngôi mộ tập thể gần Huế. Ảnh Corbis

Vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, Ralph White đã tìm cách gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng bị từ chối vì mắt bị chấn thương khi chơi tennis trước đó. Tuy nhiên, khi cuộc chiến đầy biến động gần tới hồi kết thúc hồi tháng 4 năm 1975, ông White khi ấy 27 tuổi, đang ở Sài Gòn, đã làm đúng với phương châm người lính thủy quân lục chiến “luôn luôn trung thành” – chỉ với phương cách dân sự.

Bằng cách khuyến dụ, thuyết phục và khéo léo qua mặt các thủ tục hành chánh, White đã tìm được một phương cách tuyệt vời để cứu thoát 112 nhân viên Việt Nam của Ngân hàng Chase National Bank và những người gia đình của họ: ông chỉ đơn giản nhận bảo trợ tất cả những người đó, trước sự chứng kiến của các thẩm phán Mỹ đang làm nhiệm vụ khẩn cấp tại sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Trong khi đối mặt với thất bại sắp xảy ra của đồng minh Hoa Kỳ là người Việt ở miền Nam, người công dân Mỹ này đã đạt được một chiến thắng tuy nhỏ bé nhưng thật nổi bật.

Bốn ngày sau đó, vào ngày 30 tháng 4, xe tăng T-54 của Liên Xô đã hoàn tất cuộc chinh phục của cộng sản đối với miền Nam Việt Nam bằng cách cán qua cổng rào của dinh tổng thống ở Sài Gòn. Ở bên trong, Tổng thống miền Nam, Việt Nam là ông Dương Văn Minh (Big Minh) đề nghị chuyển giao quyền hành. Đại tá Bắc Việt Bùi Tín trả lời: “Không có chuyện chuyển giao quyền lực… Ông không thể chuyển giao cái mà ông không có”.

Đối với tôi, một người Đức, những lời này nghe có vẻ giống các điều khoản của Đồng Minh áp đặt lên đất nước chúng tôi năm 1945, khi tôi còn là một đứa trẻ: đầu hàng vô điều kiện. Sự trớ trêu là trong khi vào cuối Đệ Nhị Thế chiến, một chính phủ rõ ràng là độc ác đã bị buộc phải đầu hàng theo cách này, điều trái ngược lại xảy ra 30 năm sau ở Sài Gòn: một chế độ độc tài toàn trị với các đặc điểm vô nhân đạo đến tận cùng uy hiếp một đối thủ nhân đạo hơn nhiều – mặc dù có những khuyết điểm – vào tình thế đầu hàng vô điều kiện, và được thế giới hoan hô.

Sau thời gian tường thuật về Việt Nam cho một nhà xuất bản lớn nhất của Tây Đức trong khoảng thời gian 5 năm, tôi kết luận rằng: kẻ xấu đã thắng. Không có lý do gì để vui mừng. Tuy nhiên, khi Tổng thống Gerald Ford tuyên bố tại Đại học Tulane ở New Orleans rằng chiến tranh Việt Nam “đã chấm dứt, ít nhất là đối với Hoa Kỳ”, một tuần trước khi miền Nam, Việt Nam cuối cùng đã bị tiêu diệt, ông đã nhận được sự hoan hô nồng nhiệt.

Đáng lẽ ra các phản ứng này nên được kềm lại trước số phận tăm tối của số lượng lớn những người Việt bị chuyển giao. Đối với họ, hành trình tử nạn thực sự chỉ mới bắt đầu với chiến thắng của cộng sản. Khoảng từ 200.000 tới 400.000 người đã bị chết chìm trong khi chạy trốn khỏi đất nước của họ trên những chiếc thuyền đánh cá và thuyền chắp vá tạm bợ, theo Cao ủy LHQ về người tị nạn. Khoảng 65.000 người đã bị hành quyết. Một triệu người bị đẩy vào các trại tập trung, ở đó, 165.000 người bị tra tấn hay bị bỏ đói đến chết. Trong số những người bị giết gồm có 30.000 người trong danh sách tình báo viên của CIA bị sót lại tại tòa đại sứ, theo tường trình của National Review.

Tính theo tỷ lệ, Ralph White thành công vượt trội so với chính phủ Hoa Kỳ: anh đã đem được tất cả người của mình ra, như đã dự tính khi anh tình nguyện chuyển từ Bangkok đến Sài Gòn để làm quyền tổng giám đốc cho chi nhánh Chase ở Việt Nam hai tuần trước khi Sài Gòn thất thủ. Trong báo cáo với cấp trên của mình tại Chase sau này, ông viết rằng “việc duy trì mối liên lạc giữa ngân hàng Mỹ và tòa đại sứ để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong kế hoạch di tản” là “mục đích duy nhất” cho sứ mạng của anh.

“Đọc lại báo cáo của mình làm cho tôi khá tự hào về người đàn ông 27 tuổi này,” Ông White, người bây giờ là một nhà văn ở Litchfield, Connecticut cho biết.

Gần bốn thập niên sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, tôi gặp một câu chuyện cảm động về một công dân Mỹ dũng cảm và trung thành với những giá trị của mình như bất cứ người lính nghiêm chỉnh nào. Patricia Palermo là một cô gái tiếp viên hàng không tóc vàng của hãng máy bay Pan Am từ Nebraska, tình nguyện làm tiếp viên trưởng cho các chuyến bay liên tục từ Guam đến Sài Gòn, đưa “những chàng trai trẻ má hồng và tinh thần phấn khởi” ra mặt trận, như cô nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn gần đây. “Khi tôi thấy họ một lần nữa 12 tháng sau đó, họ trông giống như những người đàn ông 50 tuổi. Nhiều người bị thương và tàn phế, một số bị đánh thuốc mê. Họ không được phép lên máy bay cho đến khi sau những ‘người trở về’ khác đã được xếp vào khoang hàng hóa – những người nằm trong quan tài kẽm”.

Palermo hiện đang sống ở New York, cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng bà bị tác động tình cảm dữ dội về các chuyến bay này đến nỗi bà đã loại ra khỏi tâm trí của mình cho đến năm 1980, khi bà xem trên truyền hình về tường thuật trực tiếp cuộc diễu hành đầu tiên vinh danh các cựu chiến binh Việt Nam. “Tôi lập tức lao ra khỏi nhà và cùng tham gia”, bà nhớ lại.

Phần đáng ghi nhớ nhất trong sự nghiệp hàng không của mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi Pan Am đem ít nhất 2.000 trẻ sơ sinh, hầu hết là người Mỹ gốc Á đang chờ được nhận làm con nuôi ở Hoa Kỳ, ra khỏi Sài Gòn. “Chúng tôi không được phép rời khỏi máy bay vì hỏa lực địch, nhưng chúng tôi có thể thấy một số bà mẹ tuyệt vọng ném con em của họ qua hàng rào tại Tân Sơn Nhất để được phi hành đoàn chúng tôi đưa đến nơi an toàn. Tôi nhớ một ai đó đưa cho tôi hai em bé giấu trong một cái giỏ. Một lần tôi đếm được hơn 400 trẻ sơ sinh trên chiếc máy bay Boeing 747 của chúng tôi. Trẻ sơ sinh ở khắp mọi nơi, ngay cả trong các ngăn để hành lý phía trên chỗ ngồi, và chúng nó rất yên lặng, luôn luôn yên lặng…. “

Tôi đã chứng kiến sự sụp đổ của Sài Gòn trên truyền hình trong căn chung cư của tôi ở Paris với nỗi đau buồn và tức giận vô cùng. Tôi ngạc nhiên trước việc thi hành hoàn hảo Chiến dịch Gió lốc, đã di tản 1.373 người Mỹ cuối cùng, cộng với 5.595 người Việt Nam và người các nước khác, chủ yếu bằng máy bay trực thăng từ một bãi đáp trên nóc nhà của văn phòng tùy viên quân sự ở Tòa Đại sứ Mỹ ngày 29 và 30 tháng 4. Tôi đã ở đó bảy năm trước trong dịp Tết Mậu Thân và theo dõi từ bên kia đường cuộc tấn công bị đánh bại của cộng sản vào Tòa Đại sứ. Bây giờ họ sắp sửa chiến thắng; vì thế tôi đau buồn.

Tuy nhiên, cơn giận của tôi chủ yếu hướng về các sinh viên và trí thức, những người cổ vũ chiến thắng của cộng sản là một hành động giải phóng. Họ hành xử như thế ở khắp mọi nơi: bên kia sông Seine ở Bờ trái; ở đất nước của tôi, Tây Đức; và ở Hoa Kỳ. Chứng kiến một biển cờ Việt Cộng màu xanh đỏ trên TV làm cho tôi cảm thấy muốn mửa, bởi vì đối với tôi, những màu sắc này tiêu biểu cho các vụ thảm sát tàn khốc mà tôi đã chứng kiến ở Việt Nam.

Chẳng hạn như, một đêm ở Tây Nguyên, tôi đã tình cờ gặp những xác chết bị chặt chân tay của một ông xã trưởng, vợ ông và 12 đứa con của họ, tất cả đã bị các tay sai cộng sản tra tấn. Theo như những người dân làng nói với tôi, gia đình đó đã bị giết chết bởi vì ông xã trưởng vẫn trung thành với chính quyền Sài Gòn. Đó là vào năm 1965. Trong năm 1967 là năm bầu cử, Việt Cộng đã thi hành ít nhất 100.000 hành vi khủng bố như thế chống lại dân thường để ngăn cản họ không đi bỏ phiếu.

Khi xướng ngôn viên Pháp thông báo sự kết thúc của miền Nam Việt Nam, tự nhiên tôi với lấy một cuốn sách nằm trên bàn cạnh giường ngủ của tôi ở khách sạn Continental Palace ở Sài Gòn và tôi mang theo tới Paris: “Hai nước Việt Nam”. Tôi đã từng gặp tác giả cuốn sách, nhà khoa học chính trị Pháp Bernard B. Fall, nhiều lần ở Sài Gòn và Washington trước khi ông bị giết bởi một quả mìn Việt Cộng. Đối với tôi, ông là một trong những chuyên gia sắc bén nhất về Đông Dương. Một đoạn trong cuốn sách của ông đã ám ảnh tôi từ đó đến giờ. Fall trích lời một chiến lược gia chủ yếu của Bắc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã qua đời ngày 4 tháng 10 [năm 2013] ở tuổi 102, nói với các chính ủy của một trong những sư đoàn của ông: “Kẻ thù (có nghĩa là phương Tây) … không có… các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài”.

Giáp chưa bao giờ nghi ngờ khả năng quân sự của Mỹ, nhưng tin rằng ông đã tìm thấy gót chân Asin của hệ thống dân chủ, như Fall giải thích: “Trong tất cả các khả năng, Giáp kết luận, công luận trong các nền dân chủ sẽ đòi hỏi chấm dứt sự ‘đổ máu vô ích’, hay cơ quan lập pháp của họ sẽ yêu cầu được biết trong bao lâu nữa họ sẽ phải bỏ phiếu gia tăng không ngừng tín dụng khi không có một chiến thắng rõ ràng trước mặt. Đây là những điều luôn luôn bắt ép các nhà lãnh đạo quân sự của các quân đội dân chủ phải hứa hẹn một kết thúc nhanh chóng cho cuộc chiến – để ‘đưa các chàng trai về nhà vào dịp Giáng sinh’ – hoặc buộc các chính trị gia dân chủ phải đồng ý với hầu hết các loại thỏa hiệp nhục nhã, thay vì chấp nhận ý tưởng về chiến dịch chống du kích bán thường trực”.

Phải chăng sự thể thảm khốc này nảy sinh từ thất bại của Washington trong việc đáp trả, như đã hứa, “với lực lượng quân sự đáng kể” đối với bất kỳ vi phạm nào của Bắc Việt trong việc thi hành Hiệp Định Paris 1973, tôi tự hỏi? Hiệp định đã cho phép Hà Nội giữ lại 80.000 quân chính quy ở miền Nam, nhưng không có gì xảy ra khi con số đó tăng lên đến 200.000. Khi thảm kịch Việt Nam diễn ra quá tàn khốc, tôi cũng tự hỏi làm thế nào chúng tôi trong giới truyền thông, bao gồm đại đa số trong chúng tôi không đứng về phía Việt Cộng (một cách công khai hay âm thầm), đã không làm cho độc giả của chúng tôi nhận ra những bằng chứng không thể chối cãi nhất, rằng hầu hết người dân miền Nam không bao giờ ủng hộ cộng sản: từ đầu, chúng tôi, các phóng viên, đã nhìn thấy họ chạy trốn Việt Cộng.

Họ chạy trốn không phải vượt qua sông Bến Hải vào Bắc Việt, cũng không vào cái gọi là vùng giải phóng – “giải phóng” bởi những người cộng sản. Cho đến cuối cùng, những người tị nạn đổ xô về phần thu hẹp của đất nước dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn; 2 triệu người đổ vào thành phố Đà Nẵng. Những con đường về Sài Gòn đã quá đông đúc với những gia đình chạy trốn đến nỗi làm chậm lại bước tiến quân của Bắc Việt, và khi mọi chuyện lắng dịu, “thuyền nhân” không những ra đi từ phía Nam với số lượng khổng lồ mà còn từ các cửa khẩu phía Bắc. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có một cuộc di cư hàng loạt khỏi đất nước như vậy – không phải trong những ngày dưới quyền Trung Hoa, Pháp hay Mỹ. Và điều này được cho là giải phóng? Bằng cách nào đó, lúc đó tôi nghi ngờ và bây giờ đã tin, lối lập luận đó là một trong những thiệt hại của chiến tranh Việt Nam. Và cũng như sự trung thực trí thức.

Một hình ảnh lóe sáng trên màn hình TV ở Paris đã ghi khắc trong tôi nhiều thập niên vì đã đâm sâu vào suy tư của tôi. Hình ảnh cho thấy Phó Tổng thống Miền Nam Nguyễn Cao Kỳ đang cầm lái chiếc trực thăng UH-1A (Huey) hạ cánh trên boong của hàng không mẫu hạm USS Midway. Tôi đã được biết ông Kỳ khá rõ và thích ông. Đúng thế, ông là tướng lãnh hào nhoáng của Không lực Việt Nam, một con công như nhiều nhà quân sự trong suốt lịch sử. Nhưng ông không phải là anh hề quanh co như thường được mô tả.

Sáu năm trước, tháng 5 năm 1969, Kỳ và tôi đã đi du lịch với nhau từ Paris đến vào Sài Gòn, nơi tôi làm phóng sự về các cuộc đàm phán hòa bình của Việt Nam và ông dẫn đầu đoàn đại biểu Sài Gòn. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi lủng củng một cách bất thường, có lẽ bởi vì cả hai chúng tôi biết rằng mọi chuyện đã không diễn ra tốt đẹp ở Paris cho phía của ông; rõ ràng là một nhận thức sai lầm ở Hoa Kỳ và các nơi khác về Tết Mậu Thân năm 1968 đã phá vỡ ý chí của Mỹ để mang cuộc xung đột này đến một kết luận chiến thắng.

“Nhưng chúng tôi đã thắng vào dịp Tết!” Kỳ nổi giận. “Tại sao người Mỹ nghĩ khác đi?”

Tôi trả lời: “Tôi biết, thưa Thiếu tướng, tôi ở Huế trong thời gian ông giành chiến thắng. Nhưng công chúng tại Hoa Kỳ và Âu châu đã nhận được thông tin khác nhau”.

Tại Huế, tôi đã đứng bên mép một ngôi mộ tập thể, chứa thi thể của ít nhất 1.000 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị những người cộng sản tàn sát. Một nhóm truyền hình Mỹ lảng vảng quanh hiện trường một cách vô định. “Tại sao bạn không quay phim cảnh này?” Đồng nghiệp của tôi, Peter Braestrup, báo The Washington Post, hỏi họ. Người quay phim của họ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để tuyên truyền chống cộng sản”.

Tôi đã nói với Kỳ điều này, và ông ta đã không bình luận. Ông ta biết tôi biết rằng chiến thắng quân sự của Mỹ và VNCH vào dịp Tết đã bị biến thành một thất bại chính trị khi Walter Cronkite tuyên bố chiến tranh không thể thắng trên CBS trong một chuyến thăm ngắn sau Tết. Điều này trái ngược hẳn với những gì nhiều người trong chúng tôi, phóng viên chiến trường, đã chứng kiến và tường thuật từ Huế. “Nếu tôi mất Cronkite, tôi mất Trung Mỹ”, Tổng thống Lyndon B. Johnson được cho là đã nói như thế. Tôi chia sẻ cảm giác mất mát của Tổng thống và không bao giờ tha thứ thần tượng Cronkite về hành động bất cẩn báo chí của ông.

Ông Kỳ nhìn chằm chằm vào cánh cửa dẫn đến buồng lái của chiếc máy bay Air France.

“Tại sao ông cứ nhìn vào đó?” Tôi hỏi ông.

“Tôi chỉ muốn trở lại làm một phi công,” ông nói khẽ.

Cuộc chạy thoát của ông đến Midway bằng chiếc Huey đánh dấu sự nghiệp bay của ông kết thúc.

Một vài năm trước đây, tôi dạy một lớp báo chí cao cấp tại Đại học Concordia, Irvine, California. Chúng tôi tập trung vào cộng đồng tị nạn người Việt lớn mạnh và thành công tại Quận Cam. Sinh viên Kellie Kotraba, bây giờ là một nhà báo thành công ở Missouri, đã xem qua nghiên cứu của một nhóm gồm tám nhà nghiên cứu nổi tiếng dẫn đầu bởi bác sĩ tâm thần Richard F. Mollica của đại học Harvard, có tiêu đề “Sự bất thường cơ cấu não bộ và di chứng sức khỏe tâm thần nơi những cựu tù nhân chính trị miền Nam Việt Nam, những người đã sống sót sau chấn thương đầu và tra tấn”.

Nghiên cứu, được Hiệp hội Y khoa Mỹ công bố, cho thấy hàng ngàn tù nhân chính trị trước đây hiện đang sống tại Hoa Kỳ vẫn phải chịu đựng nặng nề từ hậu quả của tra tấn gây ra cho họ trong thời gian bị giam cầm nhiều thập niên trước đây. “Phải trên 100.000 người như họ,” Mollica nói với Kotraba, người sau đó đã yêu cầu Tòa Đại sứ Việt Nam tại Washington bình luận. Cô nhận được một lời từ chối qua điện thư từ tùy viên báo chí của Tòa Đại sứ, Tùng Phạm, với lời lẽ: “Thông tin nói rằng các tù nhân của trại cải tạo (sic) đã (sic) bị tra tấn là hoàn toàn không đúng sự thật”.

Chuyện này chẳng có gì lạ. Đáng ngạc nhiên hơn là một thực tế rằng các nghiên cứu của Mollica ít được chú ý trong giới truyền thông Mỹ khi nghiên cứu được công bố năm 2009, và khi tôi cung cấp những câu chuyện hấp dẫn của Kotraba cho nhiều nhà xuất bản, các biên tập viên của họ không mấy thích thú.

Tôi tự hỏi: tại sao các biên tập viên Mỹ làm ngơ trước thông tin về sự khổ đau ở quy mô lớn như vậy đang xảy ra, hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam? Có một sự tương đồng mạnh mẽ giữa những gì đã xảy ra ở một số trong 300 ngục tù cộng sản ở Việt Nam với các trại tập trung ở vùng chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Âu châu. Tôi vừa đọc xong một bản dịch tiếng Pháp về trường hợp của Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ, một linh mục Công giáo hiện đang sống ở New Zealand, về 13 năm của cha trong điều kiện giam giữ của cộng sản, 2.020 ngày cha trải qua trong cùm sắt – gây ra những vết thương mưng mủ với giòi bọ nảy nở.

Trong “Je dois vivre” (“Tôi phải sống”), Lễ mô tả chi tiết khủng khiếp như thế nào về bạn tù Đặng Văn Tiếp, một cựu đại úy quân đội VNCH và là thành viên của Quốc hội, đã bị giết chết trong sự vui mừng của đám đông quan chức cộng sản và vợ con họ hò hét đầy phấn khích. Ông bị bắt buộc phải uống một lượng lớn nước. Sau đó, tù nhân tay sai Bùi Đình Thi, cai tù tàn bạo nhất trong trại tù Thanh Cẩm, nhảy lên bụng của Tiệp cho đến khi nổ tung và ruột đổ ra ngoài. Tiệp chết.

Thi từng là một đại úy trong quân đội VNCH. Kẻ bị giam cầm tại Thanh Cam gọi ông là “Kapo”, một thuật ngữ được sử dụng cho những “kẻ được tin dùng” trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Giống như một số cựu Kapo Đức Quốc xã, ông đã tới Hoa Kỳ. Ông đã bị phát hiện tại Garden Grove, California, bị bắt giữ và bị trục xuất. Theo tin tức sau cùng, ông sống ở quần đảo Marshall.

Trong cuốn sách của mình, Lễ mô tả các nỗi ám ảnh thường xuyên của ông, trong đó gồm đau bụng dữ dội. Nỗi ám ảnh là một triệu chứng mà nhiều cựu chiến binh Mỹ biết quá rõ. Khi tôi làm việc với vai trò tuyên úy tập sự trong số những người này tại các trung tâm y tế Cựu Chiến binh ở St. Cloud, Minnesota, Tôi đã gặp một người làm bánh từ St. Paul, ông có cơn ác mộng cứ tái diễn. Mỗi ngày, ông mơ màng về một sự kiện gần Đà Nẵng. Ông đang ngồi ở ghế sau của một chiếc xe tải quân sự và thấy một cậu bé kéo chốt một quả lựu đạn, sẵn sàng liệng vào xe tải, có lẽ sẽ giết chết toàn bộ tiểu đội.

Người lính đã giết đứa trẻ. Nhưng rồi, đêm đêm, ông nhìn thấy khuôn mặt méo mó của cậu bé đã chết. “Đứa bé ấy khoảng 8 tuổi,” người cựu chiến binh nói, “bây giờ tôi có con sinh đôi và trong giấc mơ của tôi, khuôn mặt của đứa trẻ khoác lên hình ảnh con tôi”. Đây là một trong những câu chuyện buồn nhất tôi được nghe trong thời gian tập sự của tôi, đó là một phần của giáo dục thần học mà tôi đã bắt đầu vào khoảng giữa đời, có lẽ để trả lời cho những kinh nghiệm làm phóng viên ở Việt Nam.

Nhưng có điều gì đó tồi tệ hơn mà tôi tìm thấy trong số những cựu chiến binh Việt Nam: hầu hết mỗi thành viên của ba nhóm chăm sóc mục vụ mà tôi hướng dẫn, cùng với một nhà tâm lý học, đã bị xem là một kẻ sát hại trẻ em trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi từ giã chiến tranh. Một người thậm chí còn được yêu cầu không trở lại nhà thờ cho đến khi tóc của ông mọc trở lại, và xin xuất hiện trong bộ quần áo dân sự.

Hầu hết những người trong nhóm của tôi tin vào Thiên Chúa, nhưng nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ ở Việt Nam. Vì vậy, họ đã “quẳng Chúa đi”, theo kiểu họ gọi. Tôi đã viết một luận án thần học cho các cựu chiến binh Việt Nam với tựa đề “Sự tha thứ của Chúa”, nhắc nhở họ về cái nhìn sâu sắc của nhà thần học tử đạo người Đức Dietrich Bonhoeffer. Ông nói rằng loài người được kêu gọi để “chịu đau khổ với Chúa trong một thế giới vô thần”, mà trong trường hợp của họ hàm ý Chúa đang đau khổ với họ và luôn hiện diện với họ trong đau khổ – cả ở Việt Nam và sau khi họ trở về. Vì vậy, Chúa không bỏ rơi họ nhưng là người cùng chịu đau khổ với họ. Nhiều người trong số bệnh nhân tìm thấy ý nghĩ này hấp dẫn.

Cho đến hôm nay, tôi nghe các cựu chiến binh Việt Nam hỏi: “Phải chăng sự hy sinh của chúng ta vô ích?” Là một phóng viên chiến trường lớn tuổi, tôi không thể trả lời câu hỏi này một cách sáng tỏ. Nhưng là một nhà thần học tôi có câu trả lời. Trong bài tiểu luận nổi tiếng, “Ngay cả binh lính cũng có thể được giải thoát”, Martin Luther so sánh công việc của binh sĩ với bác sĩ giải phẫu, có thể phải cắt bỏ chân tay của bệnh nhân để cứu các phần còn lại của cơ thể. Thông thường bệnh nhân chết trong vài ngày hoặc vài tháng sau khi phẫu thuật. Nhưng liệu điều này có nghĩa là ca giải phẫu vô ích?

Là một phóng viên chiến trường, tôi thấy đại đa số các binh sĩ Mỹ và Việt Nam tận tình với công việc phục vụ người khác. Kẻ xấu đã thắng; điều này là sự thật. Là một nhà thần học, tôi phải nói thêm: con người không phải là chủ thể của lịch sử, và lịch sử luôn luôn rộng mở cho tương lai. Có thể sẽ mất nhiều thập niên nữa cho đến khi chúng ta nhìn thấy sự hy sinh của những người lính ở Việt Nam (thời xưa) đơm hoa kết trái và chế độ cộng sản biến mất, như các chế độ độc tài khác đã từng biến mất trong quá khứ. Có lẽ tới khi đó, thế giới sẽ khám phá ra rằng máu của người Mỹ và các đồng minh đổ ra ở Việt Nam trở thành hạt giống của một chiến thắng đặc biệt hơn chiến thắng mà họ đã bị từ chối ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tác phẩm mới nhất của Uwe Siemon-Netto là “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam”.

https://anhbasam.wordpress.com/2015/01/07/3257-ke-xau-da-thang-trong-cuoc-chien-viet-nam/

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Photo: paraflyer

Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút? Câu trả lời là: LƯỜI!

Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi.

Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa.

Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!

Lười vận động, tập thể dục

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4h sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.

Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.

Lười học

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.

Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.

Lười làm

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.

Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.

Lười suy nghĩ

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.

Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.

Lười tranh đấu

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.

Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.

Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?

Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu… Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói:

“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.”

Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.

Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!

Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.

Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.

Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!

Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai. Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hi sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.

Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hi vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của tử chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…

(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.)

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-01-07

hoaai01072015.mp3

dasua3-622.jpg

Bố mẹ và con gái của Anh Nguyễn Văn Chưởng kêu oan cho Anh.

Một kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên vừa được phổ biến rộng rãi trong và ngoài nước, kêu gọi người Việt khắp nơi cùng tham gia.

Góp tiếng nói cứu mạng người

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của nhiều tổ chức dân sự độc lập trong nước đồng ký tên lần đầu tiên được công bố trong bối cảnh dư luận xôn xao về 2 án tử hình của tử tù Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Dương và tử tù Hồ Duy Hải ở Long An. Theo thông tin từ gia đình và luật sư cho biết đây là 2 vụ án oan sai. Cả 2 tử tù bị giam 7, 8 năm trong tù và gia đình đã khiếu kiện trong ngần ấy năm nhưng không được giải quyết. Những ngày cuối năm 2014 và đầu năm 2015, hình ảnh kêu oan ngưng thi hành án tử hình của người thân gia đình 2 tử tù được truyền đi khắp các trang mạng xã hội với kỳ vọng công luận cùng góp một tiếng nói để cứu một mạng người.

Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu.
-LM Phan Văn Lợi

Kháng thư ra đời không những kêu gọi các cơ quan chức năng có thẩm quyền xét xử lại 2 án tử hình này mà còn lên tiếng về việc chính quyền Hà Nội vẫn áp dụng án lệnh tử hình tại Việt Nam. Linh mục Phan Văn Lợi, một trong những người khởi xướng cho biết nguyên nhân hình thành của kháng thư:

“Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu, đặc biệt sau năm 1975 với việc đã tử hình rất nhiều người trong quân dân cán chính VNCH bị đưa vào trong các trại cải tạo, cũng như là những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị đã bị xử bắn và từ năm 1975 cho đến hôm nay có rất nhiều tù nhân hình sự có án tử chịu hành hình… Chính đó là một vấn đề làm nhức nhối lương tâm của con người và là một thách thức trước nền văn minh nhân loại cho nên chúng tôi nghĩ rằng cần phải lên tiếng để yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phải học theo văn minh của loài người hủy bỏ án tử hình”.

Việt Nam có trên 500 tử tù

ho-duy-hai-622

Hồ Duy Hải trước tòa (trên) và bà Nguyễn Thị Loan mẹ của tử tù Hồ Duy Hải (hình phía dưới).

Theo số liệu của Tổ chức Ân xá Quốc tế, Việt Nam có trên 500 tù nhân bị kêu án tử hình vào thời điểm cuối năm 2012. Và theo thống kê của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam thì hiện tại con số này lên đến hơn 700 tử tù. Trong năm 2014, khoảng 50 tù nhân đã bị hành hình. Thế nhưng con số những tử tội xấu số bị thiệt mạng do oan sai như Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Chưởng là bao nhiêu thì vẫn còn là ẩn số.

Cựu tù nhân lương tâm-Nguyễn Bắc Truyển, thành viên của Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, ký tên trong “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” chia sẻ rằng trong thời gian thụ án tù ông gặp rất nhiều người bị án oan sai do bị ép cung, bị đánh đập, bị tra tấn để làm sao cho bản kết luận điều tra của công an được lô-gíc theo sự mớm cung. Do không chịu nổi sự bức cung trong trại giam nên nhiều người phải khai nhận theo sự hướng dẫn của công an.

Đại diện các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên trong kháng thư cho rằng vì án tử hình tước đi quyền căn bản được sống của con người nên việc tiến tới bãi bỏ án tử hình là xu hướng tiến bộ chung của thế giới. Họ cho rằng Việt Nam có tăng án tử hình nhiều hơn thì cũng không hạn chế được vấn đề tội phạm. Dù án tử hình ở con số cao nhưng các vụ án nghiêm trọng vẫn xảy ra, tội ác không được ngăn chặn. Ông Nguyễn Bắc Truyển chia sẻ thêm quan điểm của mình trong việc lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam nên bãi bỏ án tử hình:

Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân.
-Ông Nguyễn Bắc Truyển

“Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân. Nếu chúng ta làm được điều đó thì mới giải quyết được phần gốc và phần căn bản chứ còn nếu như chỉ đem những người phạm tội nghiêm trọng giết người rồi tử hình thì không giải quyết được phần gốc mà chỉ giải quyết phần ngọn. Con người ta thì vẫn do không được giáo dục, không được trang bị một tấm lòng nhân bản thì họ tiếp tục dễ dẫn đến hành vi giết người. Tôi cho rằng cái gốc căn bản vẫn là giáo dục”.

Hằng năm, các hội nghị quốc tế ủng hộ bãi bỏ án tử hình còn tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới do Tổ chức Ân xá Quốc tế cùng các tổ chức nhân quyền chủ trì. Tổ chức Ân xá Quốc tế vẫn kêu gọi chính quyền Hà Nội ân xá các án lệnh tử hình dù trong thời gian qua Việt Nam đã cải thiện cách thức thi hành án bằng phương pháp nhân đạo hơn là tiêm thuốc độc đối với tử tù thay vì xử bắn. Trường hợp mới nhất được ghi nhận là Viện KSND Tối cao của Việt Nam cho phép lập tổ liên ngành xem xét lại vụ án tử tù Hồ Duy Hải để làm rõ có bị kết án oan sai hay không.

Hiện Hoa Kỳ và Việt Nam nằm trong danh sách 58 quốc gia trên thế giới còn đang áp dụng án tử hình. Tuy nhiên, số liệu này ở Hòa Kỳ đang ở mức thấp trong vòng 20 năm qua. Năm 2014 chỉ có 35 người bị hành quyết ở 7 tiểu bang của Mỹ. Vào ngày 31/12/2014, Thống đốc tiểu bang Maryland, là người đang cân nhắc ra tranh cử Tổng thống năm 2016, ông Martin O’Malley tuyên bố sẽ giảm án tử hình đối với 4 tử tội thành án chung thân trước khi kết thúc 2 nhiệm kỳ vào tháng tới.

Tại Việt Nam, một trong những lời tuyên bố chính yếu trong kháng thư của các tổ chức dân sự độc lập vừa công bố nêu rõ “yêu cầu các cơ quan hữu trách Việt Nam ngưng ngay việc thi hành mọi án tử đã tuyên, bỏ ngay một số tội tử hình như buôn bán ma túy, in tiền giả (trong số 22 tội) và sớm sửa đổi Bộ luật Hình sự để án ‘tử hình’ hoàn toàn bị bãi bỏ”. Qua một cuộc trao đổi giữa Hòa Ái với TS. Xã hội học Trịnh Hòa Bình liên quan đến án tử hình ở Việt Nam hồi tháng 6/2013, ông cho rằng sớm hay muộn thì VN cũng sẽ theo xu hướng chung sẽ bỏ án tử hình nhưng chắc chắn không phải ngay lập tức. Câu hỏi đặt ra trong thời điểm này là Chính phủ Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào khi “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” được đặt trên bàn nghị sự?

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-01-07

01072015-pric-gas-down-unstab-up.mp3

Một tram xăng của Petrolimex ở Saigon

Một trạm xăng của Petrolimex ở Saigon

RFA

Your browser does not support the audio element.

Sài Gòn với hàng triệu xe máy túa ra đường mỗi sớm mai và ùn ùn kéo về nhà mỗi chiều tối, tắt đường, kẹt xe, ngập nước, khói bụi… tất cả những hiện tượng này làm nên bộ mặt Sài Gòn mỗi ngày và giá xăng trước đây tăng vọt đã khiến cho lưu lượng xe trên đường phố giảm đáng kể. Tuy nhiên, vài tuần trở lại đây, khi giá xăng giảm, vấn đề giao thông Sài Gòn lại một lần nữa đối mặt với hàng loạt khó khăn, rối rắm. Đặc biệt, khi giá xăng và giá gas giảm ngay trước thềm năm mới 2015 đã khiến cho Sài Gòn rơi vào cơn phấn khích tai hại trong giới lao động phổ thông.

Niềm vui ảo…

Một người tên Hội, sống tại quận 1, Sài Gòn, cho biết:“Mình thì không đi đâu ra ngoài. Nói chung là người Việt Nam mình thì phù du, bèo bọt, không thiết tha lắm!”

Theo ông Hội, Tết dương lịch 2015 ở Sài Gòn có thể nói là một cái Tết hoành tráng nếu nhìn từ bên ngoài. Lượng người kéo ra đường đón Tết cũng như các chương trình pháo hoa, sân khấu biểu diễn đón Tết diễn ra ở khắp mọi nơi trong thành phố với mật độ khá dày. Đương nhiên là người dân có nhiều lý do để vui, vì chí ít thì cũng từ tháng Giêng năm 2015, họ bớt đi gánh nặng về chi phí xăng, gas và hy vọng một ngày nào đó, giá điện cũng xuống thấp, xem như đời sống tạm ổn.

Người dân kéo nhiều ra đường đón Tết vì ít nhất, trong quĩ tiết kiệm của họ cũng dư ra một khoản nhỏ tiền bù giá xăng, gas trước đây, bây giờ họ dành để đón Tết. Đó là về mặt hình thức, vẻ bề ngoài. Nhưng thật sự, những cuộc vui tại Sài Gòn hiện nay có vẻ hình tướng và bất ổn, mối nguy rình rập nhiều hơn là sự ổn định lâu dài.

Dẫn chứng cho luận điểm vừa nêu, ông Hội nói rằng ông theo dõi, trước đây một năm, người dân nước Nga cũng đón Tết rất vui vẻ, hoành tráng và rầm rộ. Nhưng sau đó một năm, mọi sự thay đổi hoàn toàn, ngay cả cái ăn cũng thiếu hụt. Nước Nga rơi vào tình trạng như hiện nay bởi chính phủ Nga, nhà nước Nga đã tự tin thái quá hay nói cách khác là tự mãn trên những giá trị ảo. Bởi họ không đoán được những động thái chính trị của họ về Crime, Ukraina vô tình đã chạm đến ngưỡng chịu đựng của phương Tây và những đòn chí tử giáng vào nước Nga đang khởi động.

Trong lúc nước Nga tự tin về sức mạnh quân sự, tiềm năng vũ khí của mình thì họ quên mất rằng sức mạnh kinh tế đảm bảo dân sống và duy trì nền công nghiệp vũ khí lại nằm trong ngành dầu khí. Khi dầu khí rớt giá thì mọi tai biến dồn lên đầu cả dân tộc Nga.

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng - giá gas giảm, lương tăng..

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng – giá gas giảm, lương tăng..RFA

Bối cảnh Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng, cũng có dạng chính phủ quyền lực tập trung giống như Nga tuy khác nhau về thể chế chính trị, cũng dựa vào tiềm năng kinh tế dầu khí, điện lực, tài nguyên. Hiện tại, sau khi giá dầu bị rớt, công nghiệp khai thác dầu thô của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, cộng thêm hai mỏ vàng Bồng Miêu và Phước Sơn ở Quảng Nam có nguy cơ đóng cửa vì nợ thuế, các mỏ quặng khai thác Bauxite cũng hoạt động cầm chừng và chưa sinh ra lợi tức.

Trong khi đó, kinh tế biển Việt Nam bị cạn kiệt trong ba năm trở lại đây bởi sự mất an ninh trên biển Đông, ngư dân bỏ nghề vì không có vùng đánh bắt, tài nguyên rừng cũng cạn kiệt, ngành thủy điện gặp nhiều trục trặc bởi công nghệ lạc hậu và sự tàn phá môi trường kéo theo… Tất cả những tín hiệu trên giống như một chỉ dấu không tốt cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới. Đặc biệt là sự trượt giá không đúng lúc của đồng tiền Việt Nam hiện tại càng tỏ ra nguy hiểm hơn trong tương lai.

Tăng mức lương tối thiểu – tín hiệu vui?

Một người tên Thuận, nhân viên công ty chứng khoán Sài Gòn, chia sẻ:“Khi mà tỷ giá tăng thì mặt hàng sẽ kéo lên tăng. Ăn thua lương của mình được chừng nào. Coi như tăng lương tối thiểu lương lên đi, như khi thu nhập được năm triệu giờ lên sáu triệu, thì mục đích là để dễ sống thôi!”

Theo ông Thuận, động thái tăng mức lương tối thiểu cho cán bộ công chức cũng là một tín hiệu nối tiếp của việc trượt giá đồng tiền. Ông Thuận khẳng định rằng nếu như từ nay cho đến cuối năm 2015, đồng tiền Việt không bị tụt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện xem như ổn định. Ngược lại, nếu như đồng Việt tiếp tục trượt giá thì việc xăng, gas hạ giá tại Việt Nam chỉ có tính chất tạm thời bởi đồng Việt lúc đó lại rớt giá và giá gas, xăng phải căn cứ theo mức giá quốc tế. Việc tăng lương chỉ có tính chất đắp đổi vào khoảng rớt của đồng tiền Việt. Đời sống người lao động vẫn không có gì thay đổi nếu không nói là xấu đi.

Cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn

Một người tên Thuận

Và cũng theo ông Thuận dự đoán, vấn đề đời sống của người dân từ nay cho đến Tết Nguyên Đán sẽ tương đối vui, tuy tai nạn giao thông xãy ra nhiều hơn bởi lượng xe lưu thông tăng vọt… Nhưng bù vào đó, người ta sẽ vui vì sắp được tăng lương, vui vì hàng hóa chưa tăng giá, vui vì gánh nặng chi phí hàng ngày nhẹ bớt, thoải mái hơn.

Nhưng cũng theo ông Thuận, những cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn.

Ông Thuận đưa ra kết luận: Một nền kinh tế ổn định, vững chãi phải là nền kinh tế có đặc trưng rõ nét, hoặc là nền công nghiệp sản xuất, hoặc là công nghiệp dịch vụ. Nếu không có được hai đặc trưng này thì đương nhiên nền kinh tế đó chỉ dựa vào tài nguyên và nông nghiệp. Nhưng với Việt Nam, có vẻ như nông nghiệp quá lạc hậu, bất cập, tài nguyên đã cạn kiệt. Nếu năm tới, đồng Việt Nam rớt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện sẽ khó mà lường trước được.

Dù sao đi nữa, một cái Tết cũng đang chờ, và nếu vui được thì hãy cứ vui mà sống. Vì niềm vui là thứ cần thiết nhất để tạo ra sức mạnh mới cho tương lai. Ông Thuận đã nói như thế trước khi chia tay với chúng tôi.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.