Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

dongten.net

II.    NỘI DUNG

1.      Tánh và Thấy Tánh

a.      Tánh

Trước hết, “Tánh” (Tính) về mặt ngữ nghĩa là chỉ về cái bản thể, yếu lý, linh hồn, hoặc cái bẩm sinh ở con người [12], người Việt hay gọi là “Lương tâm”. Từ mà chính Huệ Năng hay dùng là “Bổn lai diện mục” tức là “Khuôn mặt ngàn đời” trước sau không thay đổi. Tánh “vốn tự đủ, chẳng lay động, chẳng sinh chẳng diệt”[13] nơi mỗi người nên cũng được gọi là “Tự Tánh”, “Chân Như”, hay “Phật Tánh”. Tánh thể hiện về mặt trí gọi là “Bát Nhã”, đó là “Trí Bát Nhã” hay “Trí Huệ”. Tánh là một ánh sáng phát xuất từ bên trong nội tâm nên gọi là“Ánh Sáng Tự Tâm”. Việc thấy Tánh cũng mở ra một nhãn quan mới gọi là mở “Con Mắt Trí Huệ”. “Tự Tánh” mặc dù với nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều chỉ về một Thực tại Siêu Việt đã có sẵn trong mỗi người từ muôn đời. Huệ Năng nhiều lần nhắc nhở đồ chúng và môn đồ của mình: “Tâm ta tự có Phật, Tự Phật là chơn Phật… Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa.”[14]

Thật ra, thực tại Tự Tánh là một Thực tại Siêu Việt, ta không thể dùng lời để diễn tả hết những sâu diệu của nó. Ta cũng không thể chỉ dựa vào câu chữ ở trên mà hiểu được hết, chỉ khi ta tự chứng nghiệm lấy thì ta sẽ hiểu phần nào về Tánh đó. Điều này cũng giống như việc mãi giải thích cho “Hạt muối”[15] về “Biển” là gì trong khi chỉ cần ra đến biển và ngụp lặng vào biển thì hy vọng đã hiểu được phần nào. Hơn nữa, ta không thể diễn đạt được hết ý nghĩa và đúng bản chất của Tánh bằng một khái niệm nào bằng mặt chữ, mà dù có định nghĩa là gì thì ta cũng chỉ là gọi tên đơn thuần hay nói về một thuộc tính của Tánh mà thôi. Vì thế, các triết gia Ấn thường diễn đạt Tánh theo lối phủ định: “neti neti” nghĩa là không phải như vậy mà cũng chẳng như thế kia.[16]

Tánh mà Huệ Năng muốn nhấn mạnh cũng theo một lối như thế khi Sư ra câu đố cho các đồ đệ của mình. Sư hỏi: “Ta có một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?”. Một môn đệ của sư là Thần Hội bèn ra nói: “Ấy là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”. Sư nói: “Đã nói với ngươi là chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật Tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi”.[17]

Từ những gì bàn ở trên cho ta thấy rằng, tự bản chất Phật giáo đã hướng về Tuyệt Đối Siêu Việt. Mặc dù không cho đó là một Đấng có Bản vị như nhiều tôn giáo khác nhưng Phật Giáo chính thống luôn tin Thực Tại Siêu Việt mà trước hết là hướng tìm Siêu Việt ngay trong tâm mình. Theo Huệ Năng, chỉ vì ta “mê loạn trong tư tưởng” nên không hiện thực được Ánh sáng Siêu Việt ấy ở trong ta, cần có sự hướng dẫn và khai ngộ của một bậc Thiền đức cho đến khi con Mắt huệ mở ra để ta có thể nhìn thấy Tự Tánh tinh tuyền của ta, điều đó gọi là Thấy Tánh”. [18]

b.      Thấy Tánh – Trí Bát Nhã [19]

“Thấy Tánh” chính là đối tượng mà phép hành Thiền nhắm đến. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được Tự Tâm, thấy được Bản Tánh, tức thành Phật đạo” [20].  Thấy Tánh trong Thiền cũng hay gọi là “Ngộ”, “Giác” hay “Giác Ngộ” (Budhi – Bồ đề) [21]. Thấy Tánh hay Giác ngộ có thể nói rằng đó là trạng thái thức tỉnh của tâm hồn nhận ra điều gì đó lớn lao, rất cụ thể từ bên trong, là sự hiểu biết cao thâm mà từ trước đến giờ chưa hề biết đến.[22] Sự hiểu biết này phải phát sinh từ sự nhận ra bản chất của Tự Tánh nơi tâm hồn mình. Chắc chắn cái biết đó không phải là cái biết thuần lý trí và lý thuyết nhưng là sự tự trực nghiệm thấy được, tự nhận ra được Chân lý cao sâu từ bên trong không thể diễn tả hết bằng lời nói.[23]

Nếu như Thấy Tánh là nhận ra và hiểu được diệu lý của Bổn thể mình thì đồng thời sự nhận biết đó cũng phản lại cái diệu lý đó lên vạn vật gọi là Trí Bát Nhã. Như thế, Thấy Tánh là đồng một thể Trí Bát Nhã. [24] Trí Bát Nhã nơi sự Giác ngộ không những là trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết phân biệt của vọng tưởng nhưng còn là thể nghiệm trạng thái “kiến chiếu muôn vật trong Một niệm”[25]. Cần “Một Niệm[26] mới có Giác, cái biết của Trí Bát Nhã (Trí Huệ) là thấy “tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại”. Đó là cái biết phát xuất từ bản chất của Tự Tánh, “Trí Bát Nhã đều từ Tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào do vậy không thể lấy ý thức hay lý trí để cho đó là Trí Bát Nhã”. [27] Vì lẽ đó, nhìn thấy Tánh không chỉ là giới hạn nơi con người mình nhưng là nhận ra Tánh bao hàm toàn thể vũ trụ, vốn tự do tự tại không bị giới hạn vào điều gì cả. Tánh này vốn đầy sinh lực sáng tạo, tự tri tự giác.

Tuy vậy, Huệ Năng còn nhấn mạnh đến việc tìm thấy Tánh ở trong nội tâm mình trước mà không phải ở ngoài. Theo Sư, nếu không thấy Tự Tánh nơi mình trước thì chẳng thể thấy Tánh đó nơi vạn vật, vạn vật đều có Phật Tánh nhưng do tâm hạnh con người tà hiểm nên chỉ thấy vạn vật chỉ là vạn vật thôi mà cái thấy đó cũng bị sai lệch, và ngay cả Phật trước mắt cũng chẳng coi ra gì huống gì là người thường và sự vật thấp hèn. Huệ Năng luôn nhấn mạnh ở điểm này: “Nếu tự chẳng Phật tâm, nơi nào tìm chân Phật?”[28] “Ngoài tâm đi tìm đạo, suốt đời chẳng thấy đạo”[29] Vì thế, Thiền mà chẳng Thấy Tánh thì chẳng phải Thiền của Huệ Năng cũng chẳng phải phát xuất từ Tâm Phật Thích Ca dưới cây Bồ đề. “Dù có nói tụng muôn ngàn kinh Phật, hay ngày đêm tu tập cốt lấy cái học rộng nghe nhiều làm pháp Phật mà không thấy Tánh Phật nơi mình thì cũng là không, uổng công phí sức cũng giống như nói đủ về các món ăn mà vẫn đói”[30]. Điều này cho thấy, “cái biết đích thật” phải phát xuất từ Tự Tánh trước, nếu không thì cái biết từ bên ngoài vào cũng trở nên vô nghĩa đối với đời sống mình, nhiều lúc lại trở nên điều chẳng lành khi ta quá tự mãn về sự hiểu biết thuần kiến thức của ta!

Ở đây, cũng cần lưu ý rằng việc thấy Tánh hay không là ở nơi kinh nghiệm mỗi người tự chứng ngộ lấy. Nếu không như thế ta sẽ dễ tự vướng mắc vào thế phân biệt “thấy” hay “không thấy”. Vấn đề bàn ở đây chỉ là nêu vấn đề để bàn luận để hiểu phần nào về việc “Thấy Tánh”. [31] Để hiểu hơn về cái Thấy Tự Tánh ta cần vượt qua “lý trí phân biệt” để đi vào “Nhất nguyên vô biệt” nơi Trí Bát Nhã.

2.      Trí Bát Nhã – Nhất Nguyên Vô Biệt

Tại sao việc thấy Tánh hay Trí Bát Nhã nơi việc Giác Ngộ lại liên quan mật thiết với việc loại trừ lý trí phân biệt? Như chúng ta đã nói, Tự Tánh vốn thanh tịnh không là cái hai hay cái nhiều, vạn vật cũng là cùng nhất thể với Tự Tánh nên cũng bình đẳng như nhau. Huệ Năng thường nhấn mạnh rất nhiều ở điểm này:

“Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị.”[32]

Ở nơi khác Sư cũng nói:

“Niệm niệm viên tròn sáng tỏ, tự thấy bản Tánh, thiện ác dù khác, Tánh vốn bất nhị, Tánh bất nhị gọi là thật Tánh, ở trong thật Tánh chẳng nghĩ thiện ác”[33].

Quả thế, mọi sự vạn vật có bị phân ra với những trạng thái đối nghịch là chỉ tồn tại nơi tâm trí ta mà thôi. Trí Bát Nhã loại trừ cái nhìn phân biệt là để có cái nhìn trọn vẹn về sự vật, không bị nghiêng lệch phiến diện, từ đó không làm nảy sinh trong tâm những ý tưởng “tham, sân, si” vốn thường hay nảy sinh từ lý trí phân biệt.

Thật ra, khi nói không phân biệt tốt xấu thiện ác là một điều khá nghịch lý đối với cái nhìn thường hằng của đa số nhưng quả thật nếu thật sự có được sự chiếu rọi của Tự Tánh ta sẽ nhận ra rằng dù là âm-dương, sinh-diệt, có-không, tốt-xấu, thiện-ác… vẫn chỉ là “Một” trong tiến trình không gian, thời gian thôi. Phần lớn ta chỉ thấy có một mặt trong một thời điểm nào đó hay chỉ thấy mặt trội lên ở một điểm nào đó nên mới phân biệt ra như vậy chứ chẳng phải sự vật là phân biệt rạch ròi. Nếu xét kỹ ta sẽ thấy rằng, trong những điều ta cho là tốt nhưng bên trong đã hàm chứa mầm mống xấu hay ngược lại. Cũng cùng một sự việc nhưng người này cho là tốt nhưng người khác lại cho là xấu, hay cũng cùng một người lúc này cho là xấu nhưng lúc khác lại cho là tốt. Vì thế, tất cả những trạng thái đối nghịch là cũng do ý kiến chủ quan của ta ở một không gian hay thời gian nào đó. Lý do là cái nhìn của ta còn bị hạn hẹp, chỉ là cái nhìn trước mắt, chủ quan, phiến diện. Ngược lại, cái nhìn của Trí Bát Nhã phải là cái nhìn vượt lên đối tượng, vượt lên cả không gian thời gian, nhìn mọi sự trong tổng thể của nó, và đơn thuần chỉ “nhìn nó như là nó là” không nghĩ ngợi phân biệt gì nữa.

Mặc dầu vậy, Thiền không đặt nặng việc “có hay không sự phân biệt” cho bằng tâm ta có “tác ý” hay không, để rồi gán ghép cho sự vật là xấu để tránh né (sân) hay cho là tốt quá đến nổi nảy sinh ham muốn chiếm đoạt (tham) và đam mê (si).[34] Sự vật tự bản chất không tốt mà cũng chẳng xấu, có như thế nào là do những ý nghĩ trong lòng ta mà thôi.  Điều này được Huệ Năng tóm kết trong một đoạn kệ như sau: “…Đại viên cảnh trí Tánh thanh tịnh, Bình đẳng Tánh trí tâm chẳng bệnh. Diệu quan sát trí chẳng tác ý.[35] Do vậy, muốn giữ tâm thể được thanh tịnh thì đối với các vấn đề thiện ác Huệ Năng khuyên chớ nên suy lường.[36]

Trong đời sống thực tế, vấn đề khó là: mặc dù phân biệt thì ta vẫn phân biệt nhưng làm sao để tâm ta không nảy sinh những ý tưởng phân biệt gây nên những tình cảm yêu ghét. Khi sinh lòng yêu ghét, ta chỉ lo tìm lợi cho mình và gây hại người xung quanh bất chấp việc “bán rẻ” phẩm giá, mạng sống mình và người khác. Đó chính là mầm mống của “Vô minh”, là “bể khổ” và phiền não của cõi trần. Vô minh là gì, lý trí phân biệt gây nên Vô minh như thế nào và tác hại của Vô minh gây ra đau khổ như thế nào, chúng ta cùng xem xét ở phần sau.

Lửa Mới

04/2014

Xin xem tiếp tục phần 2 vào kỳ tới:
Bản chất của Vô Minh và Vô Niệm

Xin tải sách “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng tại đây:

https://drive.google.com/file/d/0B4ObwVVeiXE-bU50R19MV1VNQVU/view?usp=sharing

CHÚ THÍCH

[1] x. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM, tr. 91.

[2] Thừa: nghĩa là Hành, Tối Thượng Thừa hay Phật Thừa là con đường hành đạo chính tông của Phật Giáo. Tam thừa: Đại Thừa, Trung Thừa, Tiểu thừa là con đường nhỏ hơn, đòi hỏi ít hơn so với Tối Thượng Thừa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.48+56. (Số trang của sách này dựa trên sách người viết tự in từ file điện tử).

[3] Nghĩa là “Tâm truyền Tâm” thay vì truyền bằng văn tự hay lời nói, Thiền quan niệm rằng: “Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự”. Do vậy “Được ý phải quên lời,.. được cá quên nơm,.. qua sông rồi phải bỏ bè.”.

  1. Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr. 42.

[4] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.123.

[5] Sẽ được giải thích sau.

[6] Điều chính yếu là Phật Pháp phải là Truyền từ Tâm Phật. Y Bát thật ra chỉ là vật để làm cho người ta tin, minh chứng cho chánh Pháp (Giáo lý) của người được truyền thừa từ Phật Thích Ca. Vì có sự tranh giành lẫn nhau nên Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn căn dặn Huệ Năng không nên truyền Y Bát nữa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất.

[7] Sẽ bàn ở phần sau.

[8] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.4.

[9] Cũng gọi là “Kiến Tánh” hay “Giác Ngộ Tánh”, sẽ giải thích rõ hơn ở phần sau.

[10] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.255.

[11] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[12] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr. 280, phụ chú 2.

[13] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.8-9.

[14] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[15] Xem thêm câu chuyện “Hạt muối và biển” trong sách Lẽ Sống.

[16] Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Cuốn II, Hưng Giáo Văn Đông XB, tr.62.

[17] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Đốn Tiệm thứ tám, tr.66.

[18] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.14.

[19] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.137-146.

[20] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.17.

[21] Chúng ta sẽ bàn nhiều về Giác Ngộ ở phần sau, ở đây chỉ xin sơ lược qua những khái niệm tổng quát.

[22] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.278.

[23] Ngộ hay Trí Bát Nhã: theo Triết Ấn đó là sự tỉnh giấc của cái biết thuộc Nội Trí (Budhi) so với cái biết của ngoại trí (Manas) là cái biết thuần lý trí. Xem: Hoành Sơn, sđd, tr.79.

[24] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[25] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.144.

[26] “Một niệm”: sẽ được bàn ở phần sau.

[27] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[28] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[29] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.23.

[30] Huyết Mạch Luận của Bồ Đề Đạt Ma: x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.258 & 280-81.

[31] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.65.

[32] sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[33] sđd, Phẩm Sám Hối thứ sáu, tr.39.

[34] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.63.

[35] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.51.

[36] sđd, Phẩm Pháp Hội thứ chín, tr.78.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu chính:

  1. Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.
  2. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM.

Tài liệu khác:

  1. Thích Thiên Ân, Triết học Zen, Tập I, Đông Phương xuất bản, 1966.
  2. Suzuki, Thiền và Phân tâm học, NXB. Phương Đông, (Như Hạnh dịch).
  3. Shunryu Suzuki, Thiền Tâm – Sơ Tâm, NXB. Phương Đông, (Nguyễn Duy Nhiên dịch).
  4. Đan Minh, Thiền Đến Phiền Đi, Phương Đông, (Thích Thiện Phước dịch).
  5. Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Hưng Giáo Văn Đông xuất bản, 1970-1974.
  6. Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết học Cương yếu.
  7. Lý Minh Tuấn, Triết lý chữ Hòa (Từ linh đạo Kitô Giáo đến các Linh đạo Đông Phương), Phương Đông.
  8. Thường Nhân, Thanh Tịnh Tâm – Tu thiền thực tập, NXB. Phương Đông.
  9. Anthony de Mello SJ, Một Phút Khôn Ngoan, Antôn Đuốc Sáng.
  10. Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước.

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)(phần 1)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 1)

dongten.net

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (2)

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy.

Bạn đọc thân mến,

Xin gửi đến những ai quan tâm đến Tâm linh như một phần quan trọng trong cuộc sống của mình một bài luận về Thiền Phật Giáo.

Hy vọng qua bài luận này bạn đọc sẽ hiểu sâu hơn về cốt tủy Phật Giáo khi bàn về “Giác ngộ Tự Tánh” qua tác phẩm “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng, kèm theo những giải nghĩa trong bộ “Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki. Ở phần phản tỉnh cá nhân, tôi sẽ bàn thêm mối tương quan giữa Thiền và Kitô giáo như một phần để đối thoại và hiểu nhau hơn trong đời sống tâm linh nói chung.

Chắc hẳn với chút nghiên cứu quá giới hạn không thể đáp ứng hết lời giải đáp cho mọi vấn đề và cũng xin lượng thứ nếu có điều gì không đồng với quan điểm đức tin nơi mỗi người. Do vậy, ước mong bạn đọc khi tham khảo bài này cần vượt qua những câu chữ, không nên chú trọng quá để lấy kiến thức hay để tranh luận. Nhưng cách nào đó là để hiểu hơn và rút tỉa những điều bổ ích liên quan đến đời sống nội tâm cá nhân mỗi người; từ đó cảm thấy vui, tôn trọng nhau hơn khi nhận ra rằng chúng ta dù khác nhau về văn hóa và cách tiếp cận Tâm linh nhưng vẫn đi trên một Đường Đạo.

Lửa Mới

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (14)

Bài luận này sẽ gồm những phần chính như sau:

(1) Thiền Huệ Năng : Thiền là ”Thấy Tánh”.

(2) Bản chất của Vô Minh – Vô Niệm

(3) Bản chất của Giác ngộ Tự Tánh

Làm sao để Giác ngộ Tự Tánh?

(4) Tự độ và tha độ trong Phật Giáo (phản tỉnh cá nhân).

(5) Thiền dưới lăng kính Kitô giáo (phản tỉnh cá nhân).

Phụ lục: Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông.

(Xin click vào các con số trong ngoặc vuông [..] để xem chú thích ở phía dưới và click lại các con số ở chú thích để trở lại đọc tiếp.)

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (12)

GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH”
TRONG THIỀN  PHẬT GIÁO

(Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)

PHẦN I: THIỀN HUỆ NĂNG: THIỀN LÀ “THẤY TÁNH”

I.       LỜI MỞ ĐẦU

Dường như thời đại nào cũng vậy, cuộc sống được gắn liền với “cuộc truy tìm hạnh phúc” phát xuất từ khát khao thẳm sâu trong thâm tâm mỗi con người. Ai cũng muốn mình được hạnh phúc cách này cách khác dù là phải tìm đến cái chết. Dầu vậy, không có từ nào mà lại mông lung cho bằng hai chữ “hạnh phúc”. Hạnh phúc thật đa dạng nên mỗi người sẽ tự tìm cho mình những loại hạnh phúc khác nhau; đó có thể là tiền bạc, vật chất, danh vọng, địa vị, sắc đẹp… Có người chú ý đến những sở thích hay sở trường khả năng riêng của mình. Cũng có người cho rằng sức khỏe thể xác là quý hơn cả, có người lại hướng đến hạnh phúc trong đời sống trí thức, tinh thần hay tâm linh. Hạnh phúc như thế sẽ có nhiều thang bậc khác nhau nhưng phần lớn ai cũng cho rằng: điều họ đang tìm kiếm thì mới là hạnh phúc hơn cả!

Như vậy thì ai đúng ai sai, ai hạnh phúc hơn ai, ai mới là có hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đích thực là gì? Thật ra, hai chữ “hạnh phúc” không có một định nghĩa chung bằng câu chữ và không có một triết thuyết nào có thể diễn đạt hết con đường đạt đến hạnh phúc! Điều có thể xác định lại là: hạnh phúc thật hay không là tự ở nơi tâm hồn mỗi người cảm nhận.

Nhiều người tin rằng Thiền là một công cụ dẫn đến một công năng kỳ diệu cho cuộc sống và làm cho họ được giải thoát khỏi đau khổ và mang lại sự hạnh phúc đích thật.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (18)

DẪN VÀO THIỀN

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy. Thế nhưng, chắc hẳn đó phải là một thực tại tâm linh không phải ‘với tới’ chỉ bằng lý trí hay kiến thức luận lý. Dùng lý trí để nói về Thiền cũng là một thiển cận rồi! Khi tìm hiểu về Thiền, bài luận này chỉ muốn đụng chạm đến những khái niệm cơ bản và ngắm thử con đường mà Thiền muốn nhắm tới thôi. Còn Thiền thật sự là gì thì hãy để “Thiền” tự nói với mỗi người trong tâm hồn.

Dhyana hay Jhana (Thiền na / Thiền: dịch nghĩa là “tư duy tu”) bắt nguồn từ Ấn Độ, ở Nhật gọi là Zen, ở Trung Hoa gọi là Tịnh Lự. Nói đến Thiền ở Ấn Độ là nói đến phương pháp tu luyện cổ truyền có từ thuở ban sơ của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo sau đó. Dhyana hay Tịnh Lự là chỉ việc trầm tư về một Chân lý, một Triết lý hoặc một Đạo đến chỗ triệt ngộ, in sâu trong nội thức. Tu Thiền là phải đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt loạn động thì mới mong có sự giải thoát[1]. Phật Thích Ca cũng là một trong những người đi tìm sự giải thoát trong Thiền như thế.

Vì lẽ đó, có người khi nói đến “Thiền” là nghĩ ngay đến việc ngồi Thiền, ngồi làm sao để giữ mình trong tĩnh lặng, không còn bị chi phối bởi điều gì nữa. Cuộc sống xã hội điên đảo nên càng ngày càng có nhiều người đến với Thiền và họ hy vọng sẽ gặp được sự thinh lặng nội tâm và coi đó là niềm hạnh phúc thật sự. Cũng có người ngồi Thiền để gìn giữ sức khỏe trong việc luyện Thiên Khí Năng, Khí Công, Nhân Điện, Yoga… hay luyện một công phu phi thường nào đó có ích cho mình và giúp ích cho mọi người. Nhiều người khác cho Thiền là một thực tại tâm linh huyền bí nên họ sử dụng Thiền như một phương tiện để tu hành đạt chánh quả trong nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật Giáo. Nói cho cùng, “Thiền” được xem như là một phương tiện để đạt một mục đích hay công năng siêu vượt nào đó. Vì cách hành Thiền khác nhau nên mỗi người sẽ quan niệm khác nhau về Thiền. Không có một định nghĩa xác đáng cho tất cả vì Thiền cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Điểm nhắm chính là làm sao đạt được điều mỗi người mong muốn hay nhắm tới.

Trong giới hạn của bài luận này, người viết chỉ chú ý đến Thiền của Tổ Huệ Năng (637-713) thuộc Tông Phật Giáo Tối Thượng Thừa[2] ở Trung Hoa. Đây là tông phái Thiền được coi là “cốt tủy” của Phật Giáo vì được truyền từ Tâm của Phật Thích Ca (623-543 TCN) (gọi là Truyền Tâm Ấn[3]) khi Người đạt quả Giác Ngộ dưới gốc Bồ Đề. Huệ Năng là Tổ thứ 33 tính từ Phật Thích Ca, cũng là Tổ thứ 6 kể từ khi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (?-529) mang Thiền từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa (520). Huệ Năng được xem là Tổ khai sáng Thiền Trung Hoa. Mặc dù tinh thần Thiền tông vẫn là một nhưng hình thức Thiền của Huệ Năng lại hoàn toàn Trung Hoa vì được diễn đạt theo kinh nghiệm đặc nét riêng, đầy sáng tạo của tâm hồn thực tế con người Trung Hoa. Và cũng từ Huệ Năng, Thiền trở thành một Tông phái cực thịnh vào thời nhà Đường và các thời sau đó.[4]

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2015/01/L%E1%BB%A5c-T%E1%BB%95-Hu%E1%BB%87-N%C4%83ng.jpg

THIỀN HUỆ NĂNG

Huệ Năng (637-713) sinh ra trong một gia đình nghèo ít học làm nghề bán củi, cha mất sớm nên ông ở với mẹ. Một lần trong khi đi giao củi cho khách, Huệ Năng vô tình nghe một người tụng Kinh Kim Cương thì tự nhiên được khai ngộ[5]. Huệ Năng hỏi ra thì biết người đang tụng lấy Kinh này từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn (601-674); sau đó Huệ Năng tìm cách đến thọ giáo Ngũ Tổ. Qua cuộc đối đáp, Ngũ Tổ biết được Huệ Năng đã có căn cơ đi vào cốt tủy của Thiền Môn. Mặc dù suốt ngày chỉ lo việc giã gạo ở nhà sau nhưng Huệ Năng đã đi vào được tinh yếu của Thiền và đạt Đại Ngộ trước tất cả mọi người. Ngũ Tổ biết căn cơ của Huệ Năng nhưng không công khai cho mọi người biết điều đó. Về sau, Tổ chỉ âm thầm Truyền Y Bát (là vật làm tin[6]) cho Huệ Năng làm tổ thứ 6 của Thiền Tông. Huệ Năng trốn về phương Nam ẩn tích một thời gian lâu, sau đó lại ra thuyết về Pháp Đốn Ngộ Tự Tánh [7]. Có nhiều đồ đệ sau khi được Huệ Năng khai ngộ đã kế tục Pháp Đốn ngộ của sư. Cuộc đời và Pháp Đốn Giáo của sư Huệ Năng được một đệ tử là Thần Hội viết lại trong cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” [8]. Nội dung bài viết này phần lớn xoay quanh những ý chính trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh này, kèm theo những giải nghĩa trong bộ“Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (5)

Theo Huệ Năng, Thiền là “Thấy Tánh” [9]. Đó là hai chữ tinh yếu nhất trong dòng khai diễn của đạo Thiền. Thiền kết tinh tại đó, và “nhờ đó ta biết cố gắng của ta phải hướng về đâu, và bằng cách nào ta có thể hình dung nó trong tâm thức”. Thật ra, hai chữ này cũng đã được Bồ Đề Đạt Ma dùng đến, nhưng phải đến Huệ Năng mới “nắm trọn tinh nghĩa và in mạnh trọn vẹn ý nghĩa trong tâm thức người nghe cách dứt khoát không sao lầm lẫn được” so với các tông phái khác. [10] Yếu chỉ này lần đầu tiên được Huệ Năng tuyên xướng cho pháp sư Ấn Tông khi sư nói rằng: “Chỉ luận Thấy Tánh, chẳng luận Thiền định hay giải thoát.”[11]

“Tánh” hay còn gọi là “Thực tại Tự Tánh” nghĩa là gì? Tại sao Huệ Năng xem việc “Thấy Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là yếu chỉ của Thiền? Bằng cách nào để đạt đến sự Giác ngộ thực tại đó? Tất cả những gì bài luận này nhắm tới chỉ nhằm triển khai các khái niệm ấy. “Tự Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là một đề tài không dễ để luận bàn vì đó là một thực tại tâm linh. Trong giới hạn của mình, người viết cũng chỉ là một người nghiên cứu để trình bày lại những gì mình đọc được và cảm nhận được từ các tài liệu liên quan chứ không phải trên tư cách của một Thiền sư hay người đã chứng ngộ được điều gì!

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Các gia đình rất thân mến,

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi,

Tôi rất biết ơn về sự hiện diện của các bạn tại đây tối nay và vì chứng tá tình yêu các bạn dành cho Đức Giêsu và cho Giáo Hội. Tôi cảm ơn Đức Cha Reyes, Chủ Tịch Ủy Ban về Gia Đình và Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục, vì những lời chào mừng ngài thay mặt các bạn dành cho tôi. Và, một cách đặc biệt, tôi cảm ơn tất cả những ai đã trình bày chứng tá và đã chia sẻ đời sống đức tin của mình cho chúng tôi. Giáo Hội tại Philippines thật có phúc với nhiều phong trào tông đồ dành cho gia đình.

Kinh Thánh ít khi nói về thánh Giuse, nhưng cứ mỗi khi nhắc đến, chúng ta thường thấy Ngài luôn trong lúc nghỉ ngơi, như khi thiên thần mặc khải ý Chúa cho Ngài trong những giấc mơ. Trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không phải chỉ nằm nghỉ một lần, nhưng là hai lần. Tối nay, tôi muốn được nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả các bạn, ý tôi là nghỉ ngơi trong Chúa cùng với các gia đình và tôi nhớ gia đình của tôi, bố mẹ, ông và cố của tôi. Hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi với các ban và tôi muốn cùng suy tư với các bạn món quà gia đình.

Nhưng trước hết, tôi muốn nói một chút về giấc mơ… Mỗi người cha và người mẹ đều mơ về con của mình khi chúng còn trong dạ suốt chín tháng. Mơ về cuộc sống sau này của bé. Không thể có một gia đình không có những giấc mơ như thế. Khi bạn đánh mất khả năng mơ, bạn cũng đánh mất khả năng yêu và năng lực yêu này cũng mất. Tôi mời gọi các bạn, tối nay, khi xét mình, hãy tự vấn xem: “Tôi có mơ về con cái của tôi không? Tôi có mơ về tình yêu của người bạn đời không? Tôi có mơ về bố mẹ và gia đình không? Mơ và mơ trong một gia đình là điều rất quan trọng. Xin đừng đánh mất khả năng mơ theo cách này. Và bạn sẽ tìm ra được những giải pháp cho các vấn đề gia đình bạn dành thời gian để suy tư, suy nghĩ về chồng/vợ và chúng ta cùng mơ về những đặc tính tốt đẹp chúng ta có. Thậm chí đừng bao giờ đánh mất những điều mơ mộng khi còn hẹn hò.

Sự nghỉ ngơi của Giuse đã mặc phải ý Chúa cho ngài. Trong khoảnh khắc nghỉ ngơi với Chúa này, khi chúng ta tạm dừng những bổn phận và hoạt động hàng ngày, Chúa cũng nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta nơi bài đọc mà chúng ta vừa mới nghe, nơi lời cầu nguyện và chứng tá của chúng ta, và trong sự thinh lặng của con tim chúng ta. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều Chúa đang nói với chúng ta, đặc biệt là trong đoạn Tin Mừng tối nay. Có ba khía cạnh của đoạn này mà tôi muốn mời gọi các bạn cùng suy xét: nghỉ ngơi trong Chúa, thức dậy cùng với Giêsu và Maria, và trở thành một tiếng nói ngôn sứ.

Nghỉ ngơi trong Chúa. Nghỉ ngơi là điều rất cần thiết cho sức khỏe tâm trí và thể xác chúng ta, và thường rất khó có được vì rất nhiều nhu cầu đè nặng trên chúng ta. Nhưng nghỉ ngơi cũng là điều rất thiết yếu cho sức khỏe thiêng liêng để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và hiểu được điều Người muốn nói với chúng ta. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn để trở thành vị dưỡng phụ của Đức Giêsu và hiền phu của Maria. Là những người Kitô hữu, các bạn cũng được mời gọi, giống như thánh Giuse, để dành cho Giêsu một mái nhà. Các bạn xây dựng một mái ấm cho Ngài trong con tim, gia đình, giáo xứ và cộng đoàn của các bạn.

Để có thể nghe và đón nhận lời mời gọi của Chúa, xây dựng một mái nhà cho Giêsu, các bạn phải có khả năng nghỉ ngơi trong Chúa. Các bạn phải dành thời gian mỗi ngày để nghỉ ngơi trong Chúa để cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng các bạn có thể nói với tôi: Thưa Đức Thánh Cha, con muốn cầu nguyện, nhưng có nhiều việc phải làm quá! Con phải chăm sóc cho con cái; con phải làm việc nhà; con mệt mỏi đến độ thậm chí chẳng thể ngủ ngon được.” Điều này có thể đúng, nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện, chúng ta sẽ không biết được điều quan trọng nhất trên tất cả mọi sự là: thánh ý của Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta sẽ đạt được nhiều hiệu quả trong các hoạt động, trong những bận rộn với lời cầu nguyện của chúng ta.

Nghỉ ngơi trong lời cầu nguyện có tầm quan trọng rất đặc biệt đối với các gia đình. Chính nơi gia đình mà lần đầu tiên chúng ta học được cách cầu nguyện. Đừng quên điều đó, khi gia đình cầu nguyện cùng nhau, ở cùng nhau. Nơi đó, chúng ta đến để biết Chúa, để trở thành những người nam người nữ của đức tin, để thấy chính mình như là những thành viên của đại gia đình của Chúa, là Giáo Hội. Nơi gia đình, chúng ta học cách yêu, tha thứ, quảng đại và rộng mở, chứ không đóng kín và ích kỷ. Chúng ta học cách vượt lên trên những nhu cầu của riêng mình, để gặp gỡ những người khác và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ. Đó là lý do vì sao việc gia đình cùng cầu nguyện với nhau là điều rất quan trọng! Đó là lý do vì sao các gia đình rất quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội! Nghỉ ngơi trong Chúa chính là cầu nguyện, cả gia đình cùng với nhau.

Tôi xin mạn phép chia sẻ với các bạn một điều rất riêng tư vào tối nay. Tôi rất yêu mến thánh Giuse, vì ngài là một người có tinh thần thinh lặng rất mạnh mẽ, và trên bàn làm việc của tôi, tôi có hình của ngài đang ngủ. Dù là ngủ nhưng ngài vẫn luôn chăm lo cho Giáo Hội và ngài có thể làm thế, tại sao không? Khi tôi gặp phải một vấn đề hay khó khăn gì, tôi viết lên một mẫu giấy nhỏ và đặt nó dưới bức tượng để ngài có thể mơ về nó.

Phương diện thứ hai là thức dậy với Giêsu và Maria. Những khoảnh khắc quý giá để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng với Chúa trong cầu nguyện là những khoảnh khắc mà có lẽ chúng ta muốn kéo dài mãi. Nhưng như thánh Giuse, một khi chúng ta đã nghe được tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, chúng ta phải thức dậy và hành động trong gia đình, chúng ta phải thức dậy và hành động (x Rm 13,11). Đức tin không tách chúng ta ra khỏi thế giới, nhưng đưa chúng ta đi vào nó sâu hơn, điều này rất quan trọng. Chúng ta phải đi vào thế giới cách sâu xa nhưng với sức mạnh của lời cầu nguyện. Thực ra, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa ngự trị trên thế giới này.

Cũng như món quà Thánh Gia được trao phó cho Thánh Giuse, thì món quà gia đình và vị trí của nó trong kế hoạch của Thiên Chúa cũng được trao phó cho chúng ta. Thiên Thần Chúa đã mặc khải cho Giuse những mối nguy đang đe dọa Giêsu và Maria, buộc họ phải trốn sang Ai Cập và rồi sau đó định cư ở Nazaret. Cũng thế, trong thời đại của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy nhận ra những mối nguy đang đe dọa gia đình và mời gọi chúng ta hãy bảo vệ các gia đình khỏi những hiểm họa.

Hãy cẩn trọng với sự thực dân hóa của ý thức hệ mới. Có một ý thức hệ mà chúng ta phải cẩn trọng vì nó đang cố hủy hoại gia đình. Nó không được sinh ra từ giấc mơ mà chúng ta có từ Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện và từ sứ mạng mạng mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Nó đến từ bên ngoài. Đó là lý do vì sao tôi gọi là sự thực dân hóa. Chúng ta đừng đánh mất tự do để nhận lấy sứ mạng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Và cũng như người dân của chúng ta đã có thể nói “không” với thời kỳ thực dân hóa, thì các gia đình chúng ta phải phải khôn ngoan, và mạnh mẽ nói “không” với những kiểu ý tưởng thực dân hóa có thể hủy hoại gia đình này và xin thánh Giuse chuyển cầu để biết khi nào nói “vâng”, khi nào nói “không”.

Có rất nhiều áp lực trên đời sống gia đình ngày nay. Tại Philippines này, có vô số các gia đình vẫn còn chịu nhiều đau khổ từ thảm họa thiên tai. Hoàn cảnh kinh tế cũng khiến cho các gia đình phải xa cách nhau do phải di cư và tìm kiếm công việc, và những vấn đề tài chính đã khiến cho các chủ gia đình phải nỗ lực rất nhiều. Trong khi nhiều gia đình sống trong tình trạng quá nghèo, những người khác lại sống theo chủ nghĩa vật chất và có lối sống hủy hoại đời sống gia đình và những đòi hỏi cơ bản nhất của luân lý Kitô giáo. Đó là kiểu thực dân hóa ý thức hệ. Gia đình cũng bị đe dọa bởi những nỗ lực không ngừng của một số người muốn tái định nghĩa lại chính thể chế hôn nhân, bởi chủ nghĩa tương đối, bởi nền văn hóa phù du, bởi việc thiếu đi tinh thần mở ra với sự sống.

Tôi nghĩ đến Chân Phước Giáo Hoàng Phaolo VI trong những lúc có những thách đố về việc dân số gia tăng. Ngài biết những khó khăn, kinh nghiệm gia đình và đó là lý do vì sao trong Tông Huấn của mình, ngài đã bày tỏ lòng thương cảm cho những trường hợp cụ thể và ngài dạy các giáo sư cũng phải tỏ lòng thương cảm các đặc biệt. Ngài thấy được những thiếu sốt và khó khăn có thể gây ra cho gia đình trong tương lai. Giáo Hoàng Phaolo VI là người rất can đảm, ngài là một vị mục tử tốt lành, ngài đã cảnh báo chiên của mình về đàn sói đang đến và trên Thiên Đàng, ngài đang chúc lành cho chúng ta hôm nay.

Thế giới cần những gia đình tốt và mạnh mẽ để vượt qua những đe dọa này! Nước Philippines cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ nét đẹp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và trở thành một sự nâng đỡ và mẫu gương cho các gia đình khác. Mỗi một đe dọa cho gia đình là một đe dọa cho chính xã hội. Tương lai của nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II thường nói, hệ ở các gia đình (x Familiaris Consortio, 85). Vì thế, hãy bảo vệ gia đình của các bạn! Hãy nhìn thấy nơi các gia đình là gia sản to lớn nhất của đất nước và hãy luôn nuôi dưỡng các gia đình bằng lời cầu nguyện và ơn sủng của các bí tích. Các gia đình sẽ luôn có những thử thách của mình, các bạn đừng thêm vào thử thách cho các gia đình nữa! Thay vào đó, hãy trở thành những mẫu gương sống động của tình yêu, sự tha thứ và quan tâm. Hãy trở thành những đền thờ tôn trọng sự sống, loan báo sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Thật là một ơn lớn lao cho xã hội nếu mỗi gia đình Kitô hữu sống tròn đầy ơn gọi cao quý của mình! Vì thế, hãy thức dậy cùng với Đức Giêsu và Mẹ maria, và bước đi trên con đường Chúa đã vạch ra cho mỗi người các bạn.

Cuối cùng, Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta về bổn phận Kitô hữu của chúng ta trong việc trở thành tiếng nói ngôn sứ giữa cộng đoàn chúng ta. Thánh Giuse đã lắng nghe lời Thiên Sứ và đáp lại lời mời gọi của Chúa chăm lo cho Giêsu và Maria. Như thế, ngài đã đặt phần mình vào kế hoạch của Chúa, và trở nên một phúc lành không chỉ cho Thánh Gia, nhưng còn cho tất cả nhân loại. Cùng với Maria, thánh Giuse trở thành một kiểu mẫu cho trẻ Giêsu khi Người lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng (x. Lc 2,52). Khi các gia đình đưa các em nhỏ vào trong thế giới, giáo dục chúng trong đức tin và những giá trị vững chắc, và dạy bảo chúng đóng góp cho xã hội, chúng trở nên một phúc lành cho thế giới chúng ta. Gia đình có thể trở thành một phúc lành cho thế giới. Tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện và thiết thực qua cách chúng ta yêu và qua những việc tốt chúng ta làm. Chúng ta mở rộng nước của Đức Kitô trên thế giới này. Và khi làm như thế, chúng ta cho thấy mình đang sống trung tín với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Rửa Tội.

Trong suốt năm này, năm mà các giám mục của các bạn thiết lập là năm của người nghèo, tôi mời gọi các bạn, những gia đình, hãy đặc biệt lưu tâm đến lời mời gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là luôn sẵn sàng để vượt qua phạm vi gia đình mình và chăm lo cho những anh chị em đang thiếu thốn. Tôi xin các bạn hãy đặc biệt tỏ bày mối bận tâm dành cho những ai không có một gia đình của riêng mình, cách riêng là những người già cả và những trẻ em không cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy bị tách biệt, cô đơn và bỏ rơi, nhưng hãy giúp họ nhận biết rằng Chúa không bao giờ quên họ. Tôi rất cảm động sau thánh lễ sáng nay khi đi thăm một tổ ấm dành cho trẻ không có bố mẹ. Có bao nhiêu người trong Giáo Hội đã hoạt động để ngôi nhà này trở thành một tổ ấm, một gia đình? Đây là điều tôi có ý nói đến khi nói về ý nghĩa mang tính ngôn sứ của gia đình. Các bạn có thể nghèo về vật chất, nhưng các bạn có rất nhiều ơn để trao ban khi các bạn trao ban Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội của Người. Đừng che giấu đức tin của các bạn, đừng che giấu Đức Giêsu, nhưng hãy mang Người vào trong thế giới và trao ban chứng từ đời sống gia đình của các bạn!

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi, hãy biết rằng tôi luôn cầu nguyện cho các bạn! Hôm nay, tôi cầu nguyện cho các gia đình, tôi cầu xin Chúa tiếp tục giúp các bạn đào sâu tình yêu các bạn dành cho Ngài, và xin cho tình yêu này có thể được biểu lộ trong tình yêu các bạn dành cho nhau và cho Giáo Hội. Đừng quên là Đức Giêsu đang ngủ, đừng quên là thánh Giuse đang ngủ. Đừng quên sự bảo trợ của Thánh Giuse. Hãy luôn cầu nguyện và đem hoa trái lời cầu nguyện của các bạn vào trong thế giới để tất cả mọi người đều có thể biết Đức Giêsu Kitô và tình yêu nhân lành của Người. Xin các bạn cũng hãy cầu nguyện cho tôi, vì tôi thực sự cần những lời cầu nguyện của các bạn và luôn luôn tin vào những lời cầu nguyện ấy. Cảm ơn rất nhiều!”

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu


Vũ Van An

1/16/2015

Cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa Manila hôm nay, thứ Sáu, 16 tháng Giêng, Đức GH Phanxicô thúc giục người Công Giáo Phi Luật Tân trở thành các đại sứ của Chúa Kitô và thừa tác viên của hòa giải, bằng cách loan báo Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Nói với các giám mục, linh mục, tu sĩ và chủng sinh tụ tập tại Nhà Thờ Chính Tòa, Đức Giáo Hoàng nói rằng Giáo Hội tại Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô.

Giữa lúc người Phi Luật Tân chuẩn bị mừng 5 thế kỷ Giáo Hội du nhập vào quốc gia Á Châu này, Đức Giáo Hoàng nói rằng người Công Giáo phải xây dựng trên di sản quá khứ một xã hội được gây hứng bởi sứ điệp đức ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng để phục vụ ích chung.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức GH Phanxicô tại Nhà Thờ Chính Tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Manila

“Con có yêu mến Thầy không?… Hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy” (Ga 21:15-17). Lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô trong Tin Mừng hôm nay là những lời đầu tiên tôi thưa với anh chị em, các hiền huynh giám mục và linh mục, các tu sĩ nam nữ, và các chủng sinh trẻ trung. Những lời này nhắc ta nhớ tới một điều chủ yếu. Mọi thừa tác mục vụ đều phát sinh từ tình yêu. Mọi đời sống tận hiến đều là dấu chỉ tình yêu hòa giải của Chúa Kitô. Giống Thánh Têrêxa, trong tính đa dạng của ơn gọi, mỗi người chúng ta đều được mời gọi, cách nào đó, trở thành tình yêu giữa lòng Giáo Hội.

Tôi chào kính mọi anh chị em bằng một tâm tình âu yếm bao la. Và tôi xin anh chị em đem tình âu yếm này tới mọi anh chị em cao niên và bệnh hoạn của anh chị em, và tới mọi người không thể tham gia với chúng ta hôm nay. Giữa lúc Giáo Hội tại Phi Luật Tân hướng về lễ kỷ niệm 5 trăm năm truyền giảng Tin Mừng của nó, chúng ta cảm thấy biết ơn đối với di sản do không biết bao nhiêu giám mục, linh mục và tu sĩ của những thế hệ đã qua truyền lại. Họ lao nhọc không những để truyền giảng Tin Mừng và xây đắp Giáo Hội tại xứ sở này, mà còn tạo nên một xã hội được gợi hứng bởi sứ điệp bác ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng nhằm phục vụ ích chung. Ngày nay, anh chị em đang tiếp nối công trình yêu thương ấy. Giống như họ, anh em được mời gọi xây dựng những chiếc cầu, chăm nuôi đoàn chiên của Chúa Kitô, và chuẩn bị những con đường tươi mát cho Tin Mừng tại Á Châu vào lúc bình minh của một thời đại mới.

“Tình yêu Chúa Kitô thúc ép chúng ta” (2Cor 5:14). Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Thánh Phaolô dạy ta rằng tình yêu mà ta được mời gọi công bố là một tình yêu hòa giải, phát sinh từ trái tim Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi trở thành “các đại sứ của Chúa Kitô” (2Cor 5:20). Thừa tác vụ của chúng ta là thừa tác vụ hòa giải. Chúng ta công bố Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta công bố niềm vui của Tin Mừng. Vì Tin Mừng quả là lời hứa ơn thánh của Thiên Chúa, là sức mạnh duy nhất, một mình nó có thể đem lại sự toàn vẹn và lành lặn lại cho thế giới tan vỡ của chúng ta. Nó có thể gợi hứng cho việc xây dựng một trật tự xã hội thực sự công bằng và được cứu chuộc.

Trở thành đại sứ của Chúa Kitô, trước nhất, có nghĩa mời gọi mọi người tiến tới việc đích thân gặp gỡ một cách đổi mới với Chúa Giêsu (Niềm Vui Tin Mừng, số 3). Lời mời gọi này phải nằm ở cốt lõi việc anh chị em kỷ niệm công cuộc truyền giảng Tin Mừng tại Phi Luật Tân. Nhưng Tin Mừng cũng là lời mời gọi hồi tâm, tự vấn lương tâm ta, trong tư cách cá nhân và trong tư cách một dân tộc. Như các giám mục Phi Luật Tân đã rất đúng trong lời giảng dạy của mình, Giáo Hội Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô. Tin Mừng mời gọi các cá nhân Kitô hữu sống cuộc sống trung thực, liêm chính và quan tâm tới ích chung. Nhưng nó cũng kêu gọi các cộng đồng Kitô Giáo tạo ra “các qũy đạo liêm chính”, các hệ thống liên đới có thể mở rộng để bao gồm và biến cải xã hội bằng chứng tá tiên tri của mình.

Là các đại sứ của Chúa Kitô, chúng ta, các giám mục, các linh mục và các tu sĩ, phải là những người đầu tiên chào đón ơn hoà giải vào trái tim mình. Thánh Phaolô giải thích rõ ý nghĩa của điều này. Nó có nghĩa từ bỏ các lối nhìn phàm tục, để nhìn mọi sự cách mới mẻ dưới sự soi sáng của Chúa Kitô. Nó có nghĩa phải là những người đầu tiên biết xét lương tâm mình, biết thừa nhận các thiếu sót và tội lỗi của ta, và tiếp nhận con đường hồi tâm liên lỉ. Làm thế nào công bố được nét mới mẻ và sức mạnh giải thoát của Thánh Giá cho người khác, nếu chính chúng ta từ khước không để lời Chúa lay động sự tự mãn của ta, nỗi sợ thay đổi của ta, những thỏa hiệp ti tiện của ta với cung cách của thế gian này, nghĩa là “tính phàm trần thiêng liêng” của ta (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 93)?

Với chúng ta, các linh mục và người tận hiến, quay trở về với nét mới mẻ của Tin Mừng bao hàm hàng ngày phải gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Các thánh dạy ta rằng đây là nguồn của mọi nhiệt thành tông đồ! Đối với các tu sĩ, sống nét mới mẻ của Tin Mừng cũng có nghĩa là tìm ra như mới trong đời sống và việc tông đồ của cộng đoàn các sáng kiến để càng ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Chúa trong một tình yêu hoàn hảo. Đối với tất cả chúng ta, nó có nghĩa phải sống những cuộc sống phản ảnh được đức nghèo khó của Chúa Kitô; trọn cuộc đời của Người đã tập chú vào việc thực thi thánh ý Chúa Cha và phục vụ người khác. Dĩ nhiên, nguy cơ lớn lao đối với việc này là chủ nghĩa duy vật chất có thể len lỏi vào đời ta và xâm hại chứng tá ta đưa ra. Chỉ bằng cách trở nên nghèo, bằng cách tước bỏ tính tự mãn của ta, ta mới có thể đồng hóa với những người nhỏ bé nhất trong anh chị em mình. Ta sẽ nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới và nhờ đó, giải đáp được một cách trung thực và liêm chính thách đố của việc công bố tính triệt để của Tin Mừng trong một xã hội đã trở nên thoải mái với chính sách loại bỏ, phân cực và bất bình đẳng xã hội đầy tai tiếng.

Ở đây, tôi muốn ngỏ mấy lời đặc biệt với các linh mục, các tu sĩ và chủng sinh trẻ đang hiện diện giữa chúng ta. Cha yêu cầu các con chia sẻ niềm vui và niềm phấn khích trong tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội của các con với mọi người, nhất là với những người cùng trang lứa với các con. Hãy hiện diện với những người trẻ có thể đang bối rối và nản lòng, nhưng vẫn tiếp tục coi Giáo Hội là bằng hữu trên đường lữ thứ và là nguồn hy vọng. Các con hãy hiện diện với những người, vì phải sống giữa một xã hội trĩu nặng vì nghèo đói và thối nát, nên đã tan nát trong tinh thần, toan tính đầu hàng, bỏ trường, sống ngoài đường phố. Hãy loan báo vẻ đẹp và sự thật của sứ điệp Kitô Giáo cho một xã hội đang bị cám dỗ bởi những trình bày dối trá về tính dục, hôn nhân và gia đình. Như các con đã biết, các thực tại này mỗi ngày mỗi bị tấn công nhiều hơn bởi các lực lượng mạnh mẽ đe doạ làm méo mó kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tạo vật và phản bội chính các giá trị từng gây hứng và lên khuôn cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong nền văn hóa của các con.

Thực vậy, nền văn hóa Phi Luật Tân vốn được lên khuôn bởi óc tưởng tượng của đức tin . Người Phi Luật Tân ở khắp nơi vẫn nổi danh về tình yêu Chúa, lòng đạo đức sốt sắng của họ và lòng sùng kính đầy ấm áp của họ đối với Đức Mẹ và kinh mân côi của ngài. Di sản vĩ đại này chứa đựng một tiềm năng truyền giáo mạnh mẽ. Đó là cung cách nhân dân các con đã hội nhập văn hóa Tin Mừng và tiếp tục duy trì sứ điệp của nó (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 122). Trong các cố gắng chuẩn bị mừng 5 trăm năm của các con, hãy xây dựng trên nền tảng vững chắc này.

Chúa Kitô đã chết cho mọi người để, sau khi chết cho Người, chúng ta sẽ không còn sống cho chính mình nữa mà là cho Người (xem 2Cor 5:15). Các hiền huynh giám mục, các linh mục và tu sĩ thân yêu, tôi cầu xin Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, tiếp nhận cho tất cả anh chị em ơn nhiệt thành, để anh chị em dành chính anh chị em cho việc phục vụ anh chị em của mình cách vô vị kỷ. Bằng cách này, xin tình yêu hòa giải của Chúa Kitô càng ngày càng thấm sâu trọn vẹn hơn vào cơ cấu xã hội Phi Luật Tân và qua anh chị em, tới những vùng xa xôi nhất của thế giới.

Người Việt ‘đã sợ hãi từ lâu’

Người Việt ‘đã sợ hãi từ lâu’

Ông Menras Andre hay Hồ Cương Quyết trong buổi thảo luận hôm 15/01

Ông Menras André hay Hồ Cương Quyết, người mang hai quốc tịch Pháp – Việt, cho rằng việc người Việt Nam không xuống đường tuần hành tự do “không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, mà vì những nguy cơ trước một chế độ cảnh sát”.

Trả lời câu hỏi liệu người Việt do sợ hãi mà không lên tiếng trước bất công trong chương trình Bàn tròn thứ Năm hôm 15/01 về tự do ngôn luận sau vụ tấn công tòa báo Charlie Hebdo (xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg), ông André phân tích:

“Sự sợ hãi từ thời xưa, hồi trước năm 1975 ở Sài Gòn, tôi đã sống qua nó, tôi đã thấy nhiều người sợ hãi mà dám nói xấu về chế độ Nguyễn Văn Thiệu, là điều rất nguy hiểm.

“Mà bây giờ, dám “nói xấu” chế độ cộng sản này cũng rất nguy hiểm. Như đoạn trước tôi có nói rằng cái gen tự do của dân tộc Pháp đã mọc rễ ra sao, nhưng trong cái gen của dân tộc Việt Nam, sự sợ hãi không phải từ hôm qua, mà từ mấy thế kỷ rồi.”

Ông André nói từng chứng kiến tận mắt ‘côn đồ do chế độ thuê’ để đàn áp người biểu tình, và nhiều người bị ‘ném đá’, đẩy vào đồn công an trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Sài Gòn.

“Nếu người Việt Nam không xuống đường đi biểu tình thì không phải vì họ sợ, không phải vì họ hèn, không bao giờ, mà vì nguy cơ trước một chế độ cảnh sát, cảnh sát toàn diện.

“Người dân thường không có tổ chức, không có ai bảo vệ. Nên họ phải suy nghĩ rất kỹ trước khi đi, và có khi đi là liều, không phải chỉ cho riêng họ mà cho cả gia đình,” ông Hồ Cương Quyết nói.

Ông Nguyễn Văn Huy tham gia chương trình từ Paris cũng cho rằng, người Việt Nam phải chịu di sản lịch sử nặng nề về vấn đề tự do, và tâm lý phục tùng đã “ăn sâu vào trí óc người Việt”.

“Hơn nữa về văn hóa, ở Việt Nam cái gì cũng liên quan đến gia đình. Tôi cũng có một thời chống đối chế độ cộng sản sau năm 1975, tôi thấy cái giá mà gia đình phải trả rất cao.”

Nhà nghiên cứu về dân tộc học phân tích, gia đình chính là trở ngại đầu tiên khiến người Việt không đấu tranh, và do chính sách lý lịch của Việt Nam – được ông so sánh với chế độ ‘tam tộc’ của thời phong kiến. (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg).

“Nếu họ đấu tranh chống lại một chế độ bạo quyền thì gia đình họ sẽ phải trả cái giá đó, mà gia đình không phải chỉ là cá nhân tôi, cha mẹ tôi, hay con cháu của tôi mà cả những người thân thuộc của mình. Chính vì vậy mà họ rất sợ.

“Hành trình giành tự do cho con người phải được tập dượt thường xuyên. Tự do không phải tự nhiên mà có, đây là cuộc đấu tranh trường kỳ qua nhiều thế hệ,” ông Huy nói.

Bình luận về việc chính quyền Việt Nam lên án hành động tấn công tòa báo Charlie Hebdo ‘dã man’, nhưng vẫn đàn áp blogger từ trong nước, anh Nguyễn Tiến Trung nói:

“Dùng súng bắn người là dã man, nhưng tôi cho rằng, việc bắt những nhà văn, những người nói lên tiếng nói trung thực về đất nước mình, nói những gì mình thực sự nghĩ về tình hình đất nước chứ không phải nói xấu, nên cần phải có định chế tòa án độc lập xét xử.”

‘Không thể lật đổ’ tự do

Chuyên viên nghiên cứu của Viện nghiên cứu Đông Á ở Lyon nói ông và cả gia đình cũng xuống đường sau vụ tấn công Charlie Hebdo: “Khi tự do ngôn luận bị tấn công thì cần phải phát biểu ý kiến về điều đó.”

“Người Pháp muốn tập trung với nhau để lên tiếng rằng không thế phá vỡ tự do ngôn luận trên đất nước mình. Đó là giá trị văn hóa Pháp, một nét văn hóa Pháp mà không thể bị lật đổ,” ông Francois Guillemot nói thêm.

Theo giải thích của ông Guillemot, Charlie Hebdo là biểu tượng của phong trào 1968 của Pháp, là thế hệ “có ‎y’ kiến trào phúng mạnh mẽ về chính trị, chế nhạo hoặc chỉ trích mạnh mẽ những ‎y’ kiến bảo thủ. Với tôi, người Pháp xuống đường là dĩ nhiên. Nét trào phúng của Pháp bị tấn công quá dữ, người ta phải có phản ứng nào đó, tập trung với nhau để nói rằng mình không sợ hãi sự khủng bố đó.”

Tuy nhiên, trong số những người xuống đường ở Pháp không phải ai cũng đồng tình với cách châm biếm của Charlie Hebdo, nhà văn Thuận bình luận. “Nhưng họ hiểu rằng khủng bố đã đụng đến quyền tự do ngôn luận. Bảo vệ Charlie Hebdo lúc này cũng là bảo vệ chính họ.”

Và với người Pháp, tự do quan trọng như ‘ánh sáng’, ‘như oxy’, ông Hồ Cương Quyết nói, nhưng tự do của Pháp chỉ có thể có được qua lịch sử đấu tranh lâu dài, từ thời Cách mạng 1789 và từ đó đưa ra tuyên ngôn độc lập với ba tiêu chí quan trọng nhất: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.

Nhà dân tộc học Nguyễn Văn Huy, phụ trách trang ethongluan.org so sánh, “khi vừa qua Pháp năm 1983, sang được một đất nước tự do tôi rất mừng. Và tôi thấy quan trọng nhất trong tự do ở Pháp là tự do tư tưởng.

“Người ta dạy cho đứa trẻ từ lúc còn nhỏ quyền tự do phát biểu. Tức là nó có quyền nói lên những gì nó muốn, chứ không như ở Việt Nam mình là cha mẹ bảo sao con nghe vậy.

“Và tự do ăn sâu vào tâm hồn của người đó và dẫn dắt họ hành động theo một con đường, và ảnh hưởng suốt cuộc đời của họ.”

Hàng triệu người Pháp đã đổ xuống đường trong nhiều ngày để biểu lộ tinh thần bảo vệ tự do sau vụ Charlie Hebdo

Tự do với nhà văn Thuận, là điều “tối thượng”.

“Một nhà văn nếu không suy nghĩ tự do chắc chắn sẽ ‘tự kiểm duyệt’ và đó là cái tai hại nhất cho sáng tạo.”

Tuy nhiên, “tự do ngôn luận không phải là tự do muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói mà nó cũng có những giới hạn của nó. Chẳng hạn như nếu tự do đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến cộng dồng khác, ảnh hưởng đến những tập thể khác là phạm luật.”

Nhưng trong trường hợp Charlie Hebdo, bên cạnh phong trào ủng hộ Je suis Charlie, cũng có phong trào Je ne suis pas Charlie, với một số ý kiến cho rằng tòa báo đã khiêu khích hận thù qua những bức tranh biếm họa đấng Tiên tri của người Hồi giáo khiến hàng triệu người giận dữ.

Tác giả của nhiều tiểu thuyết tiếng Việt và tiếng Pháp bình luận, luật pháp nước Pháp là ‘vô thần’.

“Tội phỉ báng đã bị loại bỏ khỏi luật pháp từ năm 1881 nên đứng trước luật pháp Charlie Hebdo không phạm luật.

“Không phải chỉ đến bây giờ vì những bức tranh biếm họa của Charlie mới gây ra khủng bố ở Pháp. Khi nước Pháp ra lệnh cấm đội khăn chẳng hạn, nước Pháp cũng bị khủng bố rất nhiều tuy rằng họ đã phát hiện ra.

“Nhưng những người Hồi giáo cực đoan có tư tưởng sẵn sàng nã súng vào những người không cùng tư tưởng với họ, nên tôi nhắc lại, là cần phải có những nhà báo, những nhà báo dũng cảm như Charlie Hebdo.” (Xem video thảo luận qua YouTube: http://bit.ly/1y4iIucGoogle+ http://bit.ly/1B9Jfpg).

Người Hồi giáo ở Đức biểu tình với biểu ngữ: ‘Nhà Tiên tri Mohammed, xin đừng giận dữ, người Hồi giáo luôn bên ngài’

Trong thư viết cho BBC sau cuộc thảo luận, ông Guillemot giải thích, vụ khủng bố cho thấy hai thế giới quan khác nhau, “hai khái niệm về sự thiêng liêng”.

“Một thế giới của đạo Hồi hay nhà Tiên tri Mohammed không thể, dưới bất kỳ hình thức nào, bị xúc phạm.

“Một thế giới khác là của Pháp, khẳng định rằng chính tự do ngôn luận là thiêng liêng. Hai thế giới này không thể hiểu nhau, và hôm nay lại càng khó hiểu nhau nữa. Xung đột này đặt ra câu hỏi về vị trí của Pháp trong thế giới ngày càng bất ổn định vì tôn giáo.”

Quan sát từ Việt Nam, nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, người từng bị ngồi tù vì tội danh ‘Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ nhận xét:

“Với một chính thể cộng hòa chính danh, thì cần phải bảo vệ tự do cho người dân và hạn chế quyền của chính phủ, giới hạn quyền lực của nhà nước thì như vậy tự do của dân mới được đảm bảo.

“Từng cá nhân phải được phát triển thì khi đó một quốc gia, một dân tộc mới có thể phát triển tối đa tiềm năng của mình.

“Cho nên tôi phải vận động để có được tự do cho Việt Nam. Hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam đang độc quyền nhà nước mà quyền làm chủ mà chưa có thì chưa thể nói đến quyền tự do khác được.”

Phá đám tang, nghề mới thời sản mạt!

Phá đám tang, nghề mới thời sản mạt!

J.B Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội
dam-tang-1-622.jpg
Một đám tang bị phá vòng hoa. (hình minh họa)

Photo by J.B Nguyễn Hữu Vinh

Trên bình diện thế giới, có nhiều nghề nghiệp độc đáo và kỳ lạ được báo chí nói đến. Những nghề nghiệp đó, được công nhận tại một số quốc gia có đặc thù riêng của họ như nghề thử cần sa, nếm thử bia, thử socola hoặc đóng vai xác chết trên truyền hình… Thậm chí, ở Trung Quốc, một số thầy thuốc đang tuyển nhân viên cho nghề… ngửi rắm để chẩn đoán bệnh tật của bệnh nhân.

Một thời gian dài trong lịch sử, đất nước Việt Nam chúng ta chưa có nghề nào được liệt kê là những nghề độc đáo và kỳ lạ như các nghề nghiệp được báo chí nhắc đến ở trên. Gần đây, ở đất nước Việt Nam xuất hiện một nghề mới: Nghề phá đám tang.

Nghề mới xuất hiện

Có lẽ, ngay từ buổi đầu của nhà nước Việt Nam 1945, mọi người dân Việt Nam dù qua mấy ngàn năm dưới mọi thời đại từ phong kiến, đến thực dân, chẳng ai có thể nghĩ được rằng sẽ có một ngày nghề mới này lại xuất hiện trên đất nước Việt Nam.

Sở dĩ không ai có thể tưởng tượng được, bởi qua hàng ngàn năm văn hiến, người Việt Nam vốn được dạy dỗ rằng phải tôn trọng người chết cũng như người sống. Người dân Việt vốn được dạy dỗ rằng “Nghĩa tử là nghĩa tận” rằng “sống cậy nhà già cậy mồ”… để nhắc nhở người đời tôn trọng vong linh kẻ chết. Và thật là thất đức và tai ngược khi xâm phạm mồ mả, vong linh kẻ chết. Thái độ của người sống trước người chết, là thước đo nhân cách và đạo đức của chính họ.

Do vậy, khi nghề “Phá đám tang” được hình thành và phát triển ở Việt Nam, nhiều người không tin nếu không nhìn thấy tận mắt, không tưởng tượng được nếu suy đoán theo lý lẽ cuộc đời và đạo đức con người bình thường.

Nhưng, thực tế nó đã xảy ra và ngày càng nhiều dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi không nói thì ai cũng biết, nếu không có sự “lãnh đạo tuyệt đối của đảng”, thì đã là con người sinh ra cái đầu trên cổ, trái tim trong lồng ngực, có cho vàng cũng ít ai dám hành nghề này.

Một vài điển hình

Không chỉ đến hôm nay, nghề phá đám tang mới phát triển mà có lẽ từ cách đây hơn chục năm. Năm 2002 trong đám tang Trung tướng Trần Độ – một vị tướng đã suốt đời đi theo Đảng Cộng sản – đám tang đã rất nổi tiếng với những trò phá phách thể hiện sự “quang vinh” “vô địch” và “tài tình” của “Đảng ta”.

LetangongTranDo-400.jpg
Đám tang Trung tướng Trần Độ năm 2002.

Ở đám tang đó, đảng đã chỉ đạo ngang nhiên bỏ câu “Vô cùng thương tiếc”  có sẵn trước bức tường trong nhà tang lễ đặt thi hài người quá cố. Ở đám tang đó, tất cả những người đến viếng không được ghi chức danh Trung tướng của ông Trần Độ trên băng tang. Những vòng hoa đến viếng, kể cả của ông Võ Nguyên Giáp cũng không được viết chức danh của người viếng và của người chết như ý muốn. Thậm chí, ở đó người chết còn bị Vũ Mão, thay mặt Đảng, Quốc hội, Nhà nước đọc bản “Điếu văn kiểm điểm” trước khi được đưa đi chôn.

Thế rồi, những đám tang bị phá như vậy xuất hiện ngày càng nhiều từ đó đến nay và xuất hiện không chỉ một nơi, một cấp và mức độ tàn bạo, bất nhân thì cứ theo đà “Năm sau cao hơn năm trước”.

Đã có hàng đoàn hàng lũ Công an, Cảnh sát các loại đánh đập người đưa tang, cướp xác một người dân Cồn Dầu rồi đưa đi vứt vào một chỗ nào đó mà tang chủ không hề được biết để nhằm mục đích cướp đất nghĩa địa, làng mạc có từ háng trăm năm nay ở Cồn Dầu, Đà Nẵng.

Người ta chứng kiếm đám tang mà công an dày đặc, xe công an lạng lách, chèn ép người đi đưa tang nhằm gây tai nạn cho họ ở đám tang ông Trịnh Xuân Tùng, người bị tên Trung tá Công an đánh cho gãy cổ đến chết và được xử 4 năm tù.

Người ta chứng kiến những đám tang bị cướp giật băng rôn, bị xông vào ép tang chủ cho làm ban tổ chức, bị người lạ xông vào khống chế tang chủ như đám tang mẹ Phạm Thanh Nghiên ở Hải Phòng.

Người ta thấy một điều: Hầu như, những đám tang bị phá nhiều nhất, quyết liệt nhất, bất nhân nhất lại chính là những đám tang của những người đã từng góp phần máu xương, sức lực xây nên chế độ này.

Sau ông Trần Độ, một lão tướng với những chức vụ cao cấp trong hàng ngũ Cộng sản đã bị phá đám tang, Ông Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từng giữ nhiều chức vụ trong hệ thống chính trị này, nhưng khi chết đã được “sự quan tâm đến mức cao nhất” dù đám tang được tổ chức trong chùa. Các băng tang bị giật, bị phá và những người tham dự lễ tang bị làm khó dễ, những tên côn đồ  ngang nhiên phá đám tang trước mắt mọi người. Và hẳn nhiên ai cũng biết những tên côn đồ đó  đều thuộc về đảng CSVN.

Rồi đám tang ông Trần Lâm, một luật sư, từng là một “đồng chí cộng sản”. Nhưng đám tang đã bị giật băng tang và phá rối bởi đám mật vụ vô nhân tính.

Và mới đây nhất, hôm 12/1/2015, một người Cộng sản đã ra đi và đám tang tiếp tục bị phá phách: Bà Hoàng Thị Ái Hoát (phu nhân Nguyên uỷ viên trung ương đảng, nguyên bộ trưởng, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Liên Xô Nguyễn Hữu Khiếu).

Trong điếu văn đọc trong đám tang của bà, ông Bí thư đảng không ngần ngại nói rằng: Đồng chí Hoàng Thị Ái Hoát đã là một đảng viên cống hiến đến hơi thở cuối cùng với mấy chục năm tuổi đảng. Đồng chí đã để lại cho đất nước những người con trưởng thành được đào tạo, giáo dục tốt…

Thế nhưng, những lời lẽ đó vẫn có thể đọc trơn tru khi đám tang của “đồng chí” đã được các “đồng chí” tìm cách phá ngay từ đầu. Thậm chí, ngay trước linh cữu của “đồng chí” một “đồng chí” hóa trang ra giật phá các băng tang viếng “đồng chí” một cách trắng trợn thì chỉ có những người Cộng sản mới làm được.

Thế mới hiểu nghĩa tình và “đạo đức cách mạng” của những người Cộng sản với nhau ra sao.

Ngay từ khi bước vào cổng khu vực nhà tang lễ, bất cứ ai muốm mua vòng hoa, muốn ghi băng tang vào viếng đều được những người lạ mặt chỉ đạo được làm, được viết và được bán hay không. Nhiều bạn bè, tổ chức dân sự, hội đoàn muốn mua vòng hoa tang, viết băng tang đã không thể thực hiện được. Đơn giản chỉ là vì không ai nghĩ rằng “đảng ta” lại “đạo đức văn minh” đến mức đó.

DamtangConDaubipha-400.jpg
Đám tang ở Cồn Dầu bị phá. File photo.

Thậm chí, một số vòng hoa khi mang vào tận nhà tang lễ, một đám người không rõ là ai nhưng ai cũng biết là ai đã ngang nhiên xông vào giật phá các băng tang như chỗ không người, ngay trước linh cữu.

Một tên đã khá già, xông lại giật chiếc băng tang trước linh cữu “đồng chí” của hắn đang nằm đó. Khi bị chất vấn, hắn bảo “tôi là người của Ban Tổ chức”. Nhìn hành động của hắn, tôi không kìm được sự phẫn nội. Tôi nói với hắn: “Cỡ mày, chết thì chó nó không thèm đến tha đi chứ chưa cần nói đến chuyện viếng”. Đến khi về một người bạn nói rằng: Anh này trước đây, năm 2007 đã là thượng tá công an (?). Thế mới lạ, Ban tổ chức đám tang lại có cả công an?

Những kẻ hành nghề này, không cần nói, thì ai cũng biết họ là ai. Họ hành nghề đó cách lén lút hoặc ngang nhiên, họ hành nghề bằng cách bất chấp sự kiêng dè, húy kỵ… họ hành nghề say mê và tự tin về một sự bảo kê bằng thứ luật pháp dùng để trả thù và cấp bậc, lương thưởng, chức vụ…

Côn đồ điều hành nhà tang lễ Bộ Quốc phòng?

Những đám tang của ông Trần Độ, bà Hoàng Thị Ái Hoát được tổ chức tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội, đó là là nhà tang lễ của Bộ Quốc phòng.

Hẳn rằng, khi các gia tang nhắm chọn nơi này để tổ chức đám tang, ngoài sự thuận tiện, thì họ cũng còn chút nào đó yên tâm về một nhà tang lễ do Bộ Quốc phòng quản lý, sẽ được an toàn và người quá cố được yên tĩnh sớm siêu sinh tịnh độ sau khi từ giã cõi trần. Thế nhưng, ở đây lại khác.

Những kẻ không trang phục, không cấp hiệu, không dám xưng chức danh, mà nếu nhìn vào như một đám du thủ du thực đã điều hành nhà tang lễ Bộ Quốc Phòng này.

Bất chấp luân lý, luật pháp những người này ngang nhiên cướp, phá, giật xé những vòng hoa viếng, đánh người vô cớ ngay trước mặt hàng loạt sỹ quan, chiến sĩ quân đội đang làm nhiệm vụ ở đây. Nhưng tất cả họ đều bất lực.

Nhìn những hành động này, tôi nói với một sỹ quan cấp tá ở đây: “Tôi không rõ, đây là nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, tại sao đám côn đồ này lại ngang nhiên điều hành và hành động bất chấp luật pháp với người dân mà các sỹ quan không ai có ý kiến gì là sao. Tại sao Bộ Quốc phòng lại bất lực?” Anh ta trả lời: “Vâng, chúng tôi sẽ lưu ý vấn đề này”.

Gieo nhân để chờ gặt quả, trông mặt mà bắt hình dong

Trên một trang mạng của một dư luận viên giấu mặt, những hình ảnh bị cắt dán nhằm vu cáo những người đến viếng tang. Chẳng ai lạ gì trò hèn hạ đê tiện và rẻ tiền này xuất phát từ đâu. Nhưng, có một câu khá hay như sau: “Người xưa dạy “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Bởi thế, thái độ của con người trước cái chết, trước nỗi bất hạnh của người khác, luôn phản ảnh trình độ giáo dục và nền tảng đạo đức của con người ấy”.

Đọc câu này, tôi nghĩ rằng nếu mấy sỹ quan hôm nay phá tang lễ kia đọc được, chắc hẳn như bị một thùng nước đá vào đầu.

Và tôi chợt nhớ ra một điều: Thì ra, không phải họ không biết những điều sơ đẳng này. Hẳn rằng họ không thể không biết việc phá phách đám tang, xúc phạm người quá cố, mồ mả và những việc linh thiêng là điều tối kỵ trong đạo đức làm người. Điều tôi thắc mắc là không hiểu tại sao họ vẫn biết, và họ vẫn làm?

Thế rồi, đọc lại những thông tin về những sự việc đã qua, người ta mới thấy rằng, họ có một lý do để bao biện cho hành vi phản đạo đức và lương tri của mình, đó là: Lệnh trên.

Lệnh trên, là lý do mà ông Vũ Mão dùng để biện minh cho cái “điếu văn kể tội” trước tang lễ ông Trần Độ. Thậm chí, ông ta còn tự hào “Tôi là nghị sĩ đóng vai nghệ sĩ bất đắc dĩ” và coi như đó là lý do để biện minh cho hành động của mình.

Than ôi, ông Vũ Mão chẳng lẽ không biết rằng, dù là lệnh trên, dù là thể chế, dù là tập thể hay gì gì đi nữa ra lệnh cho ông thì ông vẫn nên nhớ rằng ông vẫn là một Con – Người. Ông vẫn có một khối óc riêng, một trái tim riêng để xem xét và đánh giá hành động của mình đúng, sai, phải, trái. Do đó, ông sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành động của mình.

Và hôm nay, hay ngày mai cũng vậy, những kẻ đã tự ngậm dầu vào miệng để thổi lửa, hẳn sẽ có ngày cháy ngay miệng mình.

Còn với một chế độ do đảng lãnh đạo tuyệt đối, mà khai sinh một nghề mới: “Nghề phá đám tang” thì xét theo chiều dọc lịch sử và chiều ngang thế giới, hẳn tự nó đã nói lên tầm vóc của đảng, nói lên sự “quang vinh, trí tuệ, khoa học và sáng suốt tài tình” ra sao.

Hà Nội, ngày 14/1/2015

J.B Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội

‘Chân dung quyền lực’ gây nhiễu loạn chính trường Việt Nam?

‘Chân dung quyền lực’ gây nhiễu loạn chính trường Việt Nam?

Tính tới tối 14/1, theo hệ thống đếm trên trang, tới nay, “Chân dung quyền lực” hiện đã có hơn 13 triệu người truy cập và đôi khi, cùng một thời điểm, có hàng nghìn người trên trang này.

Tính tới tối 14/1, theo hệ thống đếm trên trang, tới nay, “Chân dung quyền lực” hiện đã có hơn 13 triệu người truy cập và đôi khi, cùng một thời điểm, có hàng nghìn người trên trang này.

VOA Tiếng Việt

14.01.2015

Một tờ báo của Nhật Bản mới đăng tải bài viết dài về sự xuất hiện của trang blog “Chân dung quyền lực”, với nhận định rằng những lời đồn thổi trên mạng có thể gây bất ổn chính trị tại Việt Nam.

Tờ Nikkei Asian Review, thuộc sở hữu của một trong những tập đoàn truyền thông lớn nhất xứ sở mặt trời mọc, nêu chi tiết về các thông tin chưa được kiểm chứng xuất hiện trên trang blog mà họ cho là “bí ẩn”.

Tờ báo của Nhật dẫn nguồn từ “Chân dung quyền lực” nói rằng “có cáo buộc về việc Trưởng ban nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh bị một đối thủ chính trị đầu độc trong chuyến thăm Trung Quốc, và đối thủ này đã sẵn sàng cho một vị trí trong nội các sắp tới”.

Nikkei Asian Review sau đó cũng nói về việc các quan chức Việt Nam đã bác bỏ thông tin về chuyện ông Thanh bị hạ độc.

Tính tới tối 14/1, theo hệ thống đếm trên trang, tới nay, “Chân dung quyền lực” hiện đã có hơn 13 triệu người truy cập và đôi khi, cùng một thời điểm, có hàng nghìn người trên trang này.

Trả lời VOA Việt Ngữ, ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập ở Việt Nam, nhận định rằng trang blog “đăng tải thông tin về đường tơ kẽ tóc của một số quan chức này” đang “gây bất lợi cho nội bộ chính trị Việt Nam”.

” Người ta đặt câu hỏi là ai đứng sau ‘Chân dung quyền lực’ để có thể có được những thông tin đắt giá và chính xác đến như thế? Trước mắt, tôi cho đó là một sự hoang mang, bối rối và sau đó đâm ra hoài nghi, dẫn tới nghi ngờ, và những nghi ngờ đó lại phủ trùm lên tất cả và liên quan tới động cơ tranh giành, tranh đấu nội bộ lẫn nhau thì đó chính là một bi kịch, mà chúng ta gọi là bi kịch của sự mất đoàn kết trong cái thống nhất trong đảng hiện nay.

Ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo Độc lập ở Việt Nam.”

Ông nói: “Người ta đặt câu hỏi là ai đứng sau ‘Chân dung quyền lực’ để có thể có được những thông tin đắt giá và chính xác đến như thế? Trước mắt, tôi cho đó là một sự hoang mang, bối rối và sau đó đâm ra hoài nghi, dẫn tới nghi ngờ, và những nghi ngờ đó lại phủ trùm lên tất cả và liên quan tới động cơ tranh giành, tranh đấu nội bộ lẫn nhau thì đó chính là một bi kịch, mà chúng ta gọi là bi kịch của sự mất đoàn kết trong cái thống nhất trong đảng hiện nay”.

Dù chính phủ Việt Nam chưa chính thức lên tiếng bình luận về các thông tin do “Chân dung quyền lực” loan đi, nhưng báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, mới đây đã cho đăng tải bài viết trong đó ám chỉ tới trang blog này.

Bài viết trong mục “Bình luận – Phê phán” nói rằng “cứ mỗi khi Việt Nam sắp diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng là một số tổ chức, cá nhân lại ráo riết triển khai chiến dịch bịa đặt, vu cáo, tung tin thất thiệt”.

Bài báo có đoạn: “Các bài này được chế tạo như chính người trong cuộc viết, bịa đặt các chi tiết tinh vi với đủ loại âm mưu, thủ đoạn, cuộc chiến giữa các phe nhóm được dựng lên qua lập luận có vẻ có lý, kèm theo có mô tả chi tiết về thời gian, địa chỉ, các mối quan hệ, số tiền bạc, hình ảnh nhà cửa, xe cộ chụp ở đâu đó gán cho đối tượng cần bôi nhọ, kết hợp với vài ba loại giấy tờ mờ mờ ảo ảo, chữ ký loằng ngoằng không thể xác minh!”

Khi được hỏi vì sao trang web với những thông tin bị coi là “ngoài luồng” này lại thu hút được nhiều người đọc, blogger Huỳnh Ngọc Chênh, cựu phóng viên báo Thanh Niên, nói với VOA Việt Ngữ:

” Báo chí của nhà nước được đảng lãnh đạo và kiểm soát rất kỹ qua ban tư tưởng văn hóa trung ương cũng như các địa phương. Cho nên tất cả báo chí mà tôi gọi là lề đảng, thì đăng theo một chủ trương như vậy. Các thông tin này bị kiểm duyệt, và hầu như làm công tác tuyên truyền là chính. Vì thế, khi xuất hiện một trang như ‘Chân dung quyền lực’, đưa ra một số thông tin mà người ta có thể khả tin, thì nó tạo được niềm tin nơi người đọc, và vì vậy mà thu hút được số lượng người đọc rất lớn trong thời gian rất ngắn.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh nói.”

“Báo chí của nhà nước được đảng lãnh đạo và kiểm soát rất kỹ qua ban tư tưởng văn hóa trung ương cũng như các địa phương. Cho nên tất cả báo chí mà tôi gọi là lề đảng, thì đăng theo một chủ trương như vậy. Các thông tin này bị kiểm duyệt, và hầu như làm công tác tuyên truyền là chính. Vì thế, khi xuất hiện một trang như ‘Chân dung quyền lực’, đưa ra một số thông tin mà người ta có thể khả tin, thì nó tạo được niềm tin nơi người đọc, và vì vậy mà thu hút được số lượng người đọc rất lớn trong thời gian rất ngắn”.

Theo tờ Nikkei Asian Review, những thông tin trái chiều nhau cộng với sự im lặng của truyền thông trong nước về bệnh tình của ông Thanh trong một thời gian dài đã khiến người dân “đi tìm câu trả lời trên các trang blog bí hiểm”.

Trong khi đó, trả lời phỏng vấn VOA mới đây, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nhà quan sát tình hình chính sự ở trong nước, cũng cho rằng tin tức lan truyền trên các mạng xã hội đã khiến nhiều người dân tò mò về tình trạng sức khỏe của Trưởng ban Nội chính Trung ương.

Tin từ trong nước cho hay, hôm 13/1, một loạt các quan chức Việt Nam, trong đó có Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và trưởng ban tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa, đã tới thăm ông Nguyễn Bá Thanh tại nơi ông được điều trị tại Đà Nẵng.

Theo nhận định của tờ báo của Nhật, “không còn nghi ngờ gì nữa, các trang mạng xã hội như Facebook và các trang blog bí hiểm sẽ được dùng làm công cụ tranh giành quyền lực trước khi một bộ chính trị mới được lựa chọn”.

“Các trang này sẽ rò rỉ các thông tin về một số cá nhân nhất định, làm sao nhãng công chúng trước các vấn đề quốc gia cấp bách khác”, Nikkei Asian Review viết.

Phong trào “Tôi không thích đảng cộng sản Việt Nam”

Phong trào “Tôi không thích đảng cộng sản Việt Nam”

Chân Như, phóng viên RFA
2015-01-14

DDBT01142015.mp3

BACHONGQUYEN-622.jpg

Bạn Bạch Hồng Quyền, hưởng ứng Phong trào: Tôi không thích đảng cộng sản Việt Nam.

Citizen photo

Your browser does not support the audio element.

“Tôi không thích đảng CSVN” là tên của một phong trào vừa dấy lên trên cộng đồng mạng. Đây là một hình thức đấu tranh mới do những nhà đấu tranh dân chủ trẻ Việt Nam khởi xướng để phản kháng lại vụ việc chính phủ Việt Nam ra quyết định sẽ xử phạt nặng những ai nói xấu đảng và nhà nước. Để biết thêm về phong trào này, mời quý vị cùng đến với Diễn Đàn Bạn Trẻ kỳ này cùng với sự tham gia của 4 bạn khách mời Lã Viêt Dũng, Bạch Hồng Quyền, Anthony Lê, và Thúy Nga.

Muốn thể hiện quan điểm của mình

Chân Như: Xin chào các bạn, câu hỏi đầu tiên xin dành riêng cho anh Lã Việt Dũng. Để khởi xướng một phong trào, người ta cần phải có mục đích và phương hướng; Là một trong những người tham gia khởi xướng phong trào này, xin anh cho biết thêm chi tiết vì sao lại phát động chiến dịch này?

Lã Việt Dũng: Tôi muốn mọi người thể hiện thái độ quan điểm của mình. Nguyên nhân là hôm đấy tôi thấy trên VTV có một bài nói về việc chính quyền CSVN sẽ trừng trị, xử lý những người gọi là “nói xấu”. Tôi quan niệm rằng vấn đề không phải là chúng ta nói xấu hay tốt mà là nói đúng hay sai? Nếu nói xấu mà đúng thì chính quyền phải nên lắng nghe chứ không nên đe doạ như vậy. Tôi coi đấy là một thái độ mang tính đe doạ sự thật. Tôi nghĩ rằng vậy nếu chúng ta không thích, nhưng đấy là thật thì liệu đấy có phải là xấu không? Và liệu như vậy chính quyền có xử lý chúng ta hay không? Vì thế, tôi mạnh dạn tôi nêu quan điểm ấy trên mạng và tôi cũng muốn mọi người hưởng ứng để chứng tỏ rằng chúng ta không sợ những việc đe doạ như vậy.

” Tôi quan niệm rằng vấn đề không phải là chúng ta nói xấu hay tốt mà là nói đúng hay sai? Nếu nói xấu mà đúng thì chính quyền phải nên lắng nghe chứ không nên đe doạ như vậy.
-Lã Viêt Dũng”

Chân Như: Còn các bạn, lý do vì sao các bạn tham gia phong trào này?

Thúy Nga: Bản thân tôi thứ nhất tôi là nạn nhân. Thứ hai tôi là người đi đấu tranh trực tiếp để giúp đỡ những người gặp vấn nạn do ĐCSVN gây nên. Do đó, hằng ngày tôi thường phải tiếp xúc, thường phải chứng kiến những cảnh đảng viên của đảng CSVN họ đàn áp cũng như gây nên hoạn nạn cho người dân. Đó là lý do tôi không thích ĐCSVN.

Anthony Lê: Đơn giản là khi mình thấy trên internet có một số bạn nêu lên tiếng nói của mình “họ không thích đảng CS” thì riêng đối với bản thân tôi tôi thấy việc làm của họ là hợp lý hoàn toàn xác đáng thì tôi cũng hưởng ứng phong trào. Cụ thể đối với bản thân tôi thì tôi thấy ở trong thời kỳ chế độ CS này có quá nhiều vấn nạn. Vấn nạn được quan tâm nhất là vấn nạn về tham nhũng. Nên tôi nêu lên khẩu hiệu của tôi là “tôi không thích ĐCSVN” bởi vì có quá nhiều kẻ tham nhũng là đảng viên của ĐCS, và tôi nghĩ đây là quyền của tôi được phép nói lên điều tôi không thích.

Bạch Hồng Quyền: Em là một người đấu tranh cho nhân quyền và tự do ngôn luận ở Việt Nam. Những điều ĐCSVN làm cho quyền con người của em không được tôn trọng và tự do ngôn luận. Khi phát biểu một điều gì đó thì họ tìm cách trù dập hoặc đàn áp thì đấy là lý do em không thích ĐCSVN.

Chân Như: Có vẻ như từ “không thích” dùng để lên án một nhân vật hoặc một đảng nào đó ngoài đảng CSVN thì được chấp nhận và tán dương. Tuy nhiên, khi nói đến câu “Tôi không thích đảng CSVN” thì nó lại khiến cho một số thành phần ở Việt Nam xem đó là phản động, tại sao vậy? Anh Lã Việt Dũng có thể chia sẻ về vấn đề này?

GHETDCSVN-400.jpg

Các Bạn trẻ hưởng ứng Phong trào: Tôi không thích đảng cộng sản Việt Nam. Citizen photo.

Lã Việt Dũng: Tôi cho rằng từ bé đến lớn, lâu lắm rồi, chúng ta những người dân ở Việt Nam được dạy, được chỉ bảo với thói quen là phải tôn thờ ĐCS. Và như anh thấy tất cả những thông tin chỉ cần trái ý với họ thôi thì bị cho là nói xấu, và với nói xấu thì họ có thể dọa và bắt người ta. Họ không quan tâm đến sự thật mà chỉ quan tâm đến cái đấy là xấu hoặc tốt cho họ thôi. Đó là một phản xạ rất tự nhiên của con người VN khi sống dưới chế độ CS hiện tại. Các anh có thể nói tôi không thích Bắc Hàn, có thể không thích ông Obama; Nhưng nếu chúng anh nói tới tôi- không thích ĐCS thì khi đó nhiều người đặc biệt là DLV họ cho rằng đây là nói xấu chế độ. Thậm chí còn cho rằng “chúng mày đang âm mưu lật đổ chế độ” hay “đe dọa sự lãnh đạo của ĐCS” . Riêng tôi, tôi không cho là như vậy, tôi chỉ cho rằng đơn giản chúng tôi có quyền được phát biểu quan điểm thích hay không thích. Và khi chúng tôi đã không thích thì chúng tôi sẽ sẵn sàng nói ra và không sợ bất cứ gì cả.

Anthony Lê: Ở Việt Nam có câu “có yêu thì nói rằng yêu, có ghét thì nói rằng ghét” phải nói thẳng để mọi người cùng biết rõ. Bản thân tôi thì thấy luật pháp Việt Nam cũng không có một điều nào quy định vấn đề về quyền mình nói yêu, ghét cả. Vốn dĩ ở Việt Nam người dân có tâm lý sợ sệt, mà đặc biệt là sợ sệt với nhà cầm quyền, nên lắm lúc họ không có được dũng khí, không có được khả năng dám nói lên quan điểm của mình. Riêng với bản thân tôi tôi thấy một số anh chị em làm như vậy tôi thấy là điều tất nhiên mình có quyền nói lên chuyện đó, và tôi sẵn sàng nói lên tâm tư của mình. Mình không thích thì mình nói không thích, ghét thì nói ghét.

Tâm lý sợ nhà cầm quyền?

Chân Như: Như anh Lã Việt Dũng chia sẻ thì người dân ở Việt Nam từ bé đã bị chỉ bảo là phải tôn thờ đảng CSVN rồi, còn anh Anthonly thì cho rằng người dân vẫn có cái tâm lý sợ sệt nhà cầm quyền. Nếu như thế thì phải chăng Việt Nam sẽ khó có thể có sự thay đổi vì còn khá nhiều các bạn trẻ vẫn có lối suy nghĩ là phải yêu đảng vì không có đảng cộng sản thì người dân không có được cuộc sống như ngày hôm nay; Hoặc nếu muốn thay đổi thể chế liệu thể chế mới sẽ tốt đẹp hơn thế chế hiện tại vân vân. Nhận xét của mọi người?

Bạch Hồng Quyền: Theo em, giới trẻ hiện nay đã bị nhồi sọ từ thời đi học tiểu học cho đến trung học và đại học nên có suy nghĩ như vậy cũng không thể trách các bạn. Trong một chế độ nào đi nữa thì quyền tự do ngôn luận, quyền con người, hay bất cứ một quyền lợi nào của người dân được tôn trọng thì chế độ đó được người dân hưởng ứng và đồng thuận với chế độ đó; Chứ không phải suy nghĩ là chế độ khác lên sẽ tốt hơn hay như thế nào. Em chỉ suy nghĩ chính quyền nào tốt cho dân thì sẽ được người dân ủng hộ thôi.

Thúy Nga: Tôi thấy đất nước Việt Nam sẽ biến chuyển và ĐCSVN sẽ phải thay đổi. Những người trẻ tuổi kia thứ nhất là họ đã bị nhồi nhét ngay từ tiểu học trở lên cho tới bây giờ, và họ chưa ra ngoài đời, chưa va chạm đến quyền của họ, vì họ vẫn còn nằm trong cái sự bao bọc của gia đình, cũng giống như là của ĐCS họ mở ra một chút lợi lộc cho những bạn DLV hoặc những bạn trẻ chưa va chạm. Đến khi họ học xong, ra xã hội sẽ gặp những cảnh bất công xảy ra đến với chính bản thân họ thì lúc đấy sự thay đổi trong suy nghĩ của họ sẽ phải thay đổi. Ở đâu cũng vậy, ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh và khi quyền lợi của họ bị dính líu đến thì bản thân họ sẽ phải là người đứng lên đấu tranh đòi quyền căn bản của mình. Đó là lý do tôi tin tưởng vào xã hội Việt Nam sẽ có những sự thay đổi và ĐCS sẽ không thể nào duy trì được cái sự độc tài này nữa.

GHETDCSVN01-400.jpg

Các Bạn trẻ hưởng ứng Phong trào: Tôi không thích đảng cộng sản Việt Nam. Citizen photo.

Lã Việt Dũng: Tôi nghĩ rằng sự thay đổi của xã hội Việt Nam sẽ xuất phát từ hai chiều. Thứ nhất xuất phát từ chính người dân. Cái đó có thể sẽ chậm nhưng thật ra tôi nghĩ đây là ngọn lửa âm ỉ vì rất nhiều người không thích như chúng tôi nhưng họ không nói ra thôi. Họ sợ nhưng đến một lúc nào đó họ sẽ không sợ nữa. Nhưng cái mà tôi thấy rõ hơn nhiều khả năng thay đổi lớn hơn, theo tôi, sẽ phải thay đổi từ phía trên. Bởi phía trên của họ bây giờ loạn quá rồi. Họ có quá nhiều vấn đề mà thậm chí cả đấu đá nội bộ hay vấn đề tham nhũng, vấn đề lệ thuộc Trung Quốc cũng như vấn đề về điều hành quản lý đất nước họ quá yếu kém. Chính những việc đấy sẽ làm cho sự cai trị của họ, sẽ làm cho chế độ của họ bị thay đổi thôi. (Mặc dù họ cứ nói rằng họ là đạo đức là văn minh là sự lựa chọn của nhân dân.)

Anthony Lê: Tôi cũng có góc nhìn như anh Lã Việt Dũng. Thực tế, ngày nay, người dân Việt Nam họ cũng biết rõ được sự thật về mặt yếu kém của chế độ cộng sản và đâu đó trong những cuộc gặp gỡ bạn bè tôi cũng thường thấy họ rất không hài lòng và không ưa thể chế CS. Tất nhiên, họ còn cái tâm lý sợ sệt như mình có nói. Khi người dân bắt đầu ý thức được vấn đề yếu kém của chế độ cầm quyền hiện tại, càng ngày càng hiểu rõ bản chất thật của CS và với mong muốn là phải có một xã hội tốt hơn thì chắc chắn họ sẽ có những hành động biểu đạt. Tuy vậy, theo tôi, vấn đề xác thực nhất là từ nội bộ của chính quyền. Khi họ đã ý thức được họ theo chủ nghĩa này một cách mơ hồ và không đưa được xã hội phát triển, thì chính bản thân chế độ sẽ phải tự chuyển mình và tự thay đổi theo hướng dân chủ và văn minh.

Bất chấp mọi tình huống xấu xảy ra

Chân Như: Tại Việt Nam vốn không có tự do ngôn luận và không có nhân quyền nên khi hưởng ứng phong trào như thế này, các bạn có nghĩ là sẽ bị ảnh hưởng gì đến đời sống của mình không?

” Khi đã dấn thân đấu tranh cho quyền con người và tự do ngôn luận thì việc hưởng ứng phong trào này cho dù có đàn áp hay bắt bớ thì bất chấp mọi tình huống xấu xảy ra, mình sẵn sàng nhận lấy những cái xấu mà chính quyền này hoặc ĐCS này dành cho mình khi mình tham gia phong trào.
-Bạch Hồng Quyền”

Bạch Hồng Quyền: Khi đã dấn thân đấu tranh cho quyền con người và tự do ngôn luận thì việc hưởng ứng phong trào này cho dù có đàn áp hay bắt bớ thì bất chấp mọi tình huống xấu xảy ra, mình sẵn sàng nhận lấy những cái xấu mà chính quyền này hoặc ĐCS này dành cho mình khi mình tham gia phong trào.

Thúy Nga: Tôi có xem một bộ phim, có một người nói sẽ đấu tranh đến hơi thở cuối cùng để đến khi nào công lý được thực thi và tôi tin tôi cũng sẽ làm điều đó. Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào cũng có sự mất mát hy sinh và đây là cuộc đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận cũng như nhân phẩm, nhân quyền của mình phải được thực hiện, thì nếu có bị áp bức hay bị gì đó do nhà cầm quyền CS họ gây nên thì tôi cũng sẵn sàng đón nhận thôi. Đó chính là cái kinh nghiệm để cho tôi vươn lên đấu tranh cho mạnh mẽ hơn và tôi không những đòi quyền cho con người, tự do ngôn luận của bản thân mình mà còn đòi cho đời con đời cháu của mình nữa.

Lã Việt Dũng: Tất nhiên khi mình làm bất cứ một ý gì mà ngược ý chính quyền hay không thì sống trong chế độ này chắc anh cũng sẽ biết là sẽ chẳng nói trước được điều gì sẽ xảy ra bởi vì họ là một chế độ toàn trị và họ muốn mọi thứ phải theo ý họ. Thậm chí, bên Trung Quốc có phong trào chỉ tập luyện như Pháp Luân Công nhưng khi lúc lớn mạnh chính quyền thấy không kiểm soát được họ cũng dập. Hay như ở Việt Nam có rất nhiều các tôn giáo không muốn sự kiểm soát của chính quyền, họ theo ý của họ thì chính quyền cũng dập. Nên tôi phải khẳng định là theo quan điểm của tôi, tôi thấy rằng không có gì mình có thể nói chắc chắn là không sao cả. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta làm đúng với lương tâm, đúng với lẽ phải thì cũng vẫn nên mạnh dạn làm trong thời điểm này bởi vì nếu chúng ta không làm thì sẽ không bao giờ thay đổi được gì cả.

Anthony Lê: Riêng bản thân tôi với câu nói “tôi không thích ĐCSVN”, tôi hoàn toàn không có lo ngại gì về vấn đề bị nhà cầm quyền đối xử bất công với tôi hay có hành động gì tại vì cái này là cái quyền của tôi và tôi cảm nhận ra được vấn đề là chính bản thân người cộng sản họ cũng ý thức được vấn đề đó. Đây là quyền của tôi thích hay không tôi, có quyền phát biểu. Tất nhiên, sống trong xã hội này, như anh Lã Việt Dũng nói, có nhiều điều có thể xảy ra vì nếu như là những người có suy nghĩ thì họ phải công nhận câu nói của chúng tôi là đúng và họ phải chấp nhận câu nói này; Nhưng cũng có những con người cực đoan và có những thành phần xấu trong nội bộ ĐCS thì chưa biết chừng họ sẽ có những manh động hoặc có những hành vi mà mình khó lường được. Tất nhiên, tôi thiên về ý là tôi sẽ không có chuyện gì xảy ra khi tôi nói câu “tôi không thích ĐCSVN”.

Chân Như: Xin cám ơn bốn bạn khách mời đã dành thời gian cho chương trình kỳ này, cầu chúc luôn bình an. Chân Như cũng cám ơn quý thính giả đã lắng nghe, hẹn lại tuần sau. Mến chào.

Nguyễn Bá Thanh, gieo gì gặt nấy?

Nguyễn Bá Thanh, gieo gì gặt nấy?

Blog RFA

VietTuSaiGon

Khi một số phận vĩnh viễn rời bỏ cuộc đời, một cái chết ảm đạm ghé đến và người ta nhanh tay biến điều đó thành một vở tuồng với đầy đủ ý nghĩa khóc than, kể công, tung hê, truy điệu… E rằng cái chết ấy không còn là cái chết của con người nữa và số phận ấy nghiễm nhiên trở thành một loại bù nhìn, ma-nơ-canh của lịch sử với đầy đủ ý nghĩa tương ứng.

Vở tuồng?

Chuyện ông Nguyễn Bá Thanh trở về, nói rằng “Tao khỏe mà, có gì đâu!” với ông Thân Đức Nam (đây cũng là nhân vật đặc biệt bởi tên thật của ông ta là Thân Văn Thời, từng bị truy nã những năm 1980, sau đó người anh em chú bác ruột ông Thời là Thân Đức Nam chết, người nhà đi báo tử Thân Văn Thời chết và mọi thủ tục nhằm làm cho Thân Văn Thời đã biến khỏi mặt đất được hoàn tất, Thân Văn Thời nghiễm nhiên làm Thân Đức Nam, tồn tại và phát triển cho đến bây giờ, những bạn học cũ của Thời khi thấy Thời trên ti vi với tên Thân Đức Nam đều té ngửa vì bất ngờ…) nghe ra giống một vở tuồng. Bởi ngay cả nhân vật phát biểu ra câu nói ấy cũng là nhân vật “ảo”, thế mới hiểu là quyền biến của “đạo diễn” đáng kinh tởm chừng nào!

Hiện nay, có hai giả thuyết đặt ra: Ông Nguyễn Bá Thanh đã chết; Ông Nguyễn Bá Thanh vẫn còn sống và đang tiếp tục điều trị tại Đà Nẵng. Và, cả hai giả thuyết này đều liên quan đến một vấn đề tâm linh.

Ở giả thuyết thứ nhất, một số hình ảnh trên chuyên cơ Gulfstream III, số hiệu N183 – PA, chuyên cơ cứu thương đưa ông Nguyễn Bá Thanh về quê cho thấy những chuyên viên y tế người Mỹ không mặc đồng phục y tế và không có khẩu trang chống nhiễm. Hình ảnh phía sau lưng nhân viên người Mỹ trên máy bay là một chiếc hộp màu trắng…

Xin giải mã chỗ này, chiếc xe cứu thương chở ông Thanh cùng ê kíp y bác sĩ đã rời khỏi hiện trường trước đó vài phút và các y bác sĩ có đeo khẩu trang, mặc đồ cách ly người Mỹ cũng đã vào trong máy bay, nhường chỗ cho các nhân viên hộ lý, bảo vệ mặc đồng phục đen ra khuân vác các thứ hành lý của ông Thanh đưa vào xe chuyên chở hành lý màu đen như bức ảnh. Và hình ảnh giống như chiếc quan tài trắng là phần đế sau khi đã lấy đi tấm đệm của giường cứu thương, chiếc quan tài nào lại nhỏ xíu như thế? Ông Thanh to con, cũng ngang ngửa với tay nhân viên người Mỹ vận đồ đen đứng bên cửa sao quan tài chứa ông chỉ thấp bé chưa đến đầu gối của anh ta? Lại đặt chỏng chơ, không có chân đế?

Nhưng, ông Thanh là người được đa phần nhân dân Đà Nẵng yêu mến, bản chất bình dân, gần gũi với dân, tại sao không đưa ông ra cổng dân sự để ông được chứng kiến nhân dân nồng nhiệt chào đón mình vì đó cũng là liều thuốc tinh thần rất mạnh, khiến cho ông quyết tâm chống cự với cái chết, yên tâm điều trị để tiếp tục phục vụ nhân dân, thực hiện những công cuộc còn dang dở?

Cuộc đón chào đầy vẻ bí ẩn, đi ra bằng cổng quân sự và vào bệnh viện Đà Nẵng thì nguyên một khoa Ung Bướu được phong tỏa bằng cảnh sát 113, công an, chưa có người dân nào được đến thăm ông vì lý do “cách ly, chống nhiễm trùng”. Đó là chưa kể đến việc các giáo sư y khoa Hà Nội tuyên bố sẽ hội chẩn cho ông vào ngày 11 tháng 1. Tại sao lại ngày 11 tháng 1, trùng với ngày bế mạc hội nghị trung ương?

Ở giả thuyết ngược lại, ông Nguyễn Bá Thanh vẫn còn sống, đang khỏe mạnh và có hai người dân tình nguyện hiến tủy cho ông Thanh. Giả thuyết này chưa có cơ sở nào để tin là khả thể. Vì lẽ, khi nào ghép tủy xong, ông Thanh khỏe mạnh (hoặc không được như thế), người ta công bố người hiến tủy, ông Thanh cám ơn, gia đình và hội đồng y khoa xác nhận thì mới có thể tin rằng đó là sự thật.

Ngược lại, nếu sức khỏe ông Thanh vẫn và một ẩn số, thậm chí sự sống của ông cũng là một ẩn số thì việc công bố có 2 người (nghe dễ lọt tai!) hay hai ngàn người hiến tủy cho ông Thanh cũng là chuyện quá dễ dàng, đơn giản. Vì những người này cũng là ẩn số nốt! Hoặc là ca ghép tủy sẽ diễn ra vào ngày 20 tháng 1 hay ngày N nào đó, chờ sức khỏe ông Thanh phục hồi để đáp ứng ca ghép tủy thì ông qua đời… Lúc đó cũng không cần biết người hiến là ai vì họ chưa hiến cơ mà!

Chuyện tâm linh?

Chỉ có một điều rất lạ là ông Thanh và ông Tân đều lâm bạo bệnh vào mùa Đông, trùng với mùa các giáo dân Cồn Dầu bị đánh đập, hành hung, có người chết, người sống sót phải chạy trốn sang Thái Lan. Vào mùa Đông năm ngoái, ông Tân chết vì bệnh ung thư máu tại Đà Nẵng. Mùa Đông năm nay ông Thanh bị bệnh liên quan đến máu. Mà ông Tân là ai?

Xin thưa, ông Tân trước đây là một cán bộ ngành ngoại thương, khi ông Thanh lên làm chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, ông Tân thuyên chuyển sang ngành an ninh. Ông Tân là người ngồi chung ca-bin điều hành với ông Thanh trong vụ Cồn Dầu. Nghĩa là trong lúc vụ Cồn Dầu đang diễn ra, giáo dân bị đàn áp, ông Thanh ngồi ở ghế chỉ huy tối cao, ông Tân ngồi ở ghế phó chỉ huy để điều hành lực lượng cảnh sát 113 qua bộ đàm. Mọi diễn biến ở Cồn Dầu đều do bàn tay của hai ông này nhào nặn. Kết cục của vụ Cồn Dầu như thế nào, thiết nghĩ không cần bàn thêm. Nhưng cả hai ông tối cao trong vụ này đều thê thảm vào mùa Đông. Đó là một sự trùng lặp khó thể giải thích.

Đương nhiên, khi viết bài này, tôi vẫn quí cả hai ông Thanh và Tân, vì ông Tân là bạn cà phê “vong niên, vong xứ, biết tên nhưng không biết họ” của tôi, câu chuyện hai ông Thanh, Tân ngồi trong ca-bin điều hành vụ Cồn Dầu là do ông Tân kể với tôi trong chuyến đi chơi Sài Gòn của ông để thăm người em trai là ông Chu (hiện đang là Công tố viên của viện kiểm sát nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh), hai người, một sồn sồn, một trẻ ngồi cà phê bên bờ sông Sài Gòn, ông Tân đã nói: “Lúc đó, anh (ông Tân) và đồng chí Chủ tịch (ông Thanh) ngồi điều hành tại ca-bin, chính anh đã ra lệnh theo chỉ đạo của đồng chí Chủ tịch. Người Cồn Dầu họ đã nhận tiền đền bù lâu rồi nhưng sau đó họ bị yếu tố nước ngoài và một nhóm ở Hà Nội xúi giục nên làm thế… Họ sai!”.

Câu chuyện ngồi trên ca-bin điều hành của hai ông đã khép lại, cuộc đời của ông Tân cũng khép lại ngót nghét một năm rồi, cuộc đời ông Thanh vẫn còn là một ẩn số. Dường như giữa hai người và mùa Đông và Cồn Dầu có một mối tương ứng nhân quả. Bình sinh, ông Thanh và ông Tân là hai người đàn ông tốt, họ đối xử rất tốt với bằng hữu, bà con, cộng đồng. Nhưng vụ Cồn Dầu là vết chàm rất nặng trong cuộc đời họ. Thật đáng buồn khi nghĩ rằng đó là bài học cho những ai quan niệm rằng khi ta làm được việc tốt cho cộng đồng rộng lớn và chí hướng không cùng của mình, để đạt mục đích, ta có thể đạp lên một nhóm số phận nào đó…!

Qui luật bù trừ không được dùng trong tình huống này, hoàn toàn không được vì anh có thể làm giàu cho một thành phố hay một đất nước, điều đó rất tốt. Nhưng nếu không có anh đứng ra làm giàu, người ta vẫn có thể sống ngắt ngoải, tồn tại qua ngày đoạn tháng và sự sống của họ vẫn mang ý nghĩa trọn vẹn với cái nghèo khổ của nó. Trong khi đó, anh ngắt đi sự sống, sinh mệnh của một ai đó thì vĩnh viễn họ mất đi! Ông Thanh là một Phật tử, ông Tân cũng là một Phật tử. Chắc hai ông cũng mơ hồ nhận ra luật nhân quả trong cuộc đời mình. Và dù sao, cả hai người đều đáng thương trong một vở tuồng chế độ.

Và tại sao sức khỏe của ông Thanh lại trở thành vở tuồng biến tấu nhịp nhàng trong giai đoạn này? Có lẽ câu trả lời này chỉ có những đạo diễn của vở tuồng này mới trả lời chuẩn xác nhất (nếu họ chịu nói thật một lần!). Và đỉnh điểm tài năng của kẻ đạo diễn vở tuồng này là người ta khéo sắp xếp một nhân vật vừa thật vừa ảo, đầy quyền lực như Thân Đức Nam tường thuật câu nói của ông Nguyễn Bá Thanh: “Tao khỏe mà, có chi đâu!”. Bình sinh ông Thanh chỉ xưng “tui” với người chung quanh, chuyện ông xưng “tao” là chuyện chỉ có duy nhất lần này.

Ông Thanh phải vào vai trong vở tuồng mà ở đó ông được đón rước như một lãnh tụ tối cao với mọi thứ phương tiện hiện đại nhất, thông thoáng nhất trong lúc nhiều trẻ em, người lớn vẫn phải chen chúc, nằm ngủ vật vạ ngoài hiên bệnh viện để chầu chực từng viên thuốc. Làm như vậy khác nào trét dơ vào danh phận ông Thanh?!

Và phải chăng máu Cồn Dầu nay đang phải trả?

Nhà báo Việt Nam và khủng bố Tự do báo chí

Nhà báo Việt Nam và khủng bố Tự do báo chí

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-01-14

01142015-vn-journ-n-press-freed.mp3

Tự do báo chí, tự do ngôn luận

Tự do báo chí, tự do ngôn luận

RFA

Your browser does not support the audio element.

Câu chuyện của tờ báo Charlie Hebdo cùng hàng triệu người Pháp xuống đường biểu tình chống lại hành động dã man của bọn khủng bố đã làm những người quan tâm tới tự do báo chí một lần nữa đặt ra nhiều dấu hỏi cho cái quyền được xem là sức mạnh thứ tư này. Mặc Lâm tìm hiếu thêm về cái chết của những nhà báo Việt Nam điển hình là Từ Chung của tờ Chính Luận và Tú Rua của tờ Văn Nghệ Tiền Phong.

Tự do báo chí căn bản của thể chế dân chủ

Khi nhắc đến Charlie Hebdo là nhắc tới những bức tranh biếm họa trên tờ tạp chí của họ. Những biếm họa ấy làm khó chịu hàng triệu người mặc dù nó chỉ có chức năng giải tỏa phiền muộn của vài chục ngàn người đọc trong một khoảnh khắc nào đó. Tại sao Charlie Hebdo theo đuổi cái ít ỏi ấy mà bất cần sự tức giận, chống đối của hàng triệu người khác? Câu hỏi này vẫn là đề tài từ cả trăm năm qua khi báo chí thế giới xuất hiện những bức tranh biếm họa đầu tiên để từ đó tới nay những tác giả phiếm ấy vẫn được sự bảo vệ của những nước dân chủ trong cái quyền được hiến pháp quy định: Tự do báo chí.

Nhà báo khắp thế giới luôn là nạn nhân của các chế độ độc tài, quân phiệt, cộng sản ngay cả các tồ chức khủng bố. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam cũng từng có nhiều nhà báo nạn nhân bởi các thế lực, cá nhân tấn công, ám sát nhằm bịt tiếng nói của họ. Người bị giết đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam là nhà báo Từ Chung, Tổng thư ký nhật báo Chính Luận, tờ báo chống cộng nổi tiếng thời bấy giờ. Trưa ngày 30 tháng 12 năm 1965 hai đặc công cộng sản đã ám sát Từ Chung và hành động này đã được công khai tuyên dương trên mặt báo sau năm 1975.

Nhà báo khắp thế giới luôn là nạn nhân của các chế độ độc tài, quân phiệt, cộng sản ngay cả các tồ chức khủng bố

Nói về việc này nhà báo, nhà văn Uyên Thao, người thành lập tờ báo Sóng Thần rất nổi tiếng của Sài Gòn cho biết:

-Lúc đó tôi nghĩ tờ Chính Luận nó đề cập nhiều vấn đế liên hệ đến những đường lối chính trị phía cộng sản ở miền Bắc vì vậy nó mới xảy ra chuyện liệng lựu đạn nó tấn công tòa soạn Chính Luận rối sau đó là vụ ám sát anh Từ Chung. Đây là vụ coi như xảy ra với báo chí Việt Nam lần đầu tiên lúc đó.

Phản ứng của những người cầm bút chắc chắn không ai chấp nhận được chuyện đó hết còn mình bày tỏ ra sao thì phải nói không khí lúc đó nó không có điều kiện cho mình bày tỏ. Đất nước đang có những biến cố lớn, dồn dập thành ra chuyện một người bị khủng bố sát hại thì cũng giống như chuyện bom đạn giết bao nhiêu người khắp nơi cho nên ít có sự lưu tâm tới ,nói chung là của dư luận chứ còn đối với anh em cầm bút tất nhiên họ đều bất bình đối với chuyện đó.

Khủng bố giết hại nhà báo là tiêu diệt nền tự do ngôn luận

Mục tiêu ám sát nhà báo Từ Chung là mục tiêu chính trị và hành động khủng bố này trong một thời gian dài được xem là yêu nước, anh hùng. Tuy nhiên đối với nhà báo, họ là người mang tin tức đến cho người đọc do đó ám sát nhà báo đồng nghĩa với với bịt nguồn thông tin và tiêu diệt tự do báo chí.

Khủng bố đối với tin tức bất lợi cho cuộc chiến không loại trừ cả những cây bút viết phiếm luận mà mục tiêu của đa số người giữ mục này không giới hạn đối với cá nhân hay tổ chức nào. Trong hoàn cảnh nền chính trị xô bồ gần như mất kiểm soát của Sài Gòn lúc ấy xuất hiện một mục phiếm nổi tiếng của nhà văn Chu Tử trên báo Sống với cái tên Ao thả vịt. Trong cái ao đặc biệt ấy, những con vịt mà Chu Tử nhắm tới không thiếu một ai, kể cả người cộng sản. Giống như Từ Chung trước đó, 5 tháng sau Chu Tử cũng bị ám sát nhưng may mắn là ông thoát chết. Nhà báo Uyên Thao nhớ lại:

Đối với nhà báo, họ là người mang tin tức đến cho người đọc do đó ám sát nhà báo đồng nghĩa với với bịt nguồn thông tin và tiêu diệt tự do báo chí

-Toàn bộ hoàn cảnh miến Nam lúc đó mình có thể hình dung ra. Xã hội của mình là xã hội đang bị chiến tranh tàn phá. Coi như là nó không bình thường trong khi đó những người có trách nhiệm lo cho đất nước cũng có người lợi dụng tình thế hỗn loạn lo cho chuyện riêng của mình.

Chính vì vậy giới cầm bút chứ chẳng riêng gì ông Chu Tử khó chịu đối với việc người trách nhiệm lơ là đối với việc nước mà chỉ lo chuyện cá nhân, thành ra người ta cần phải bày tỏ thái độ đối với một số những cơ cấu, những viên chức của chính quyền miền Nam. Còn đối với cộng sản thì đương nhiên đối với những người có ý thức thì làm sao mà chấp nhận được cộng sản cho nên chuyện chống cộng sản là chuyện đương nhiên phải chống. Trường hợp anh Chu Tử lúc đó sau này chính người cộng sản họ nói rõ chính họ đã làm việc ấy.

Sau năm 1975, báo chí miền nam Việt Nam di tản sang Mỹ cùng hàng chục nước Tây phương khác. Trong thời gian đầu sự xuất hiện trở lại của các tờ báo trong cộng đồng người Việt là một món ăn tinh thần không thể thiếu. Vậy mà hàng loạt cuộc tàn sát nhà báo đã diễn ra do nhiều thế lực, cá nhân thực hiện khiến báo chí trở thành nạn nhân ngay trên mảnh đất được xem là tự do báo chí nhất hành tinh.

Mở đầu là nhà báo Đạm Phong, chủ nhiệm tuần báo Tự do tại Houston Texas. Ông bị bắn chết tại nhà riêng vào ngày 24 tháng 8 năm 1982. Nhà báo Hoài Điệp Tử, một cây viết nổi tiếng trước năm 1975 cũng bị hỏa thiêu đến chết tại nơi làm việc là tuần báo Mai tại Wesminster, California.

Nhưng vụ ám sát hai vợ chồng nhà báo Tú Rua của tờ Văn Nghệ Tiền Phong đã làm người Việt sững sờ. Văn Nghệ Tiền Phong là tờ báo có rất nhiều độc giả và mục được thường xuyên chú ý một cách thích thú là “Ngày lại ngày” của ký giả Lê Triết tức Tú Rua, ngòi bút trào phúng có giọng văn châm biếm khó kiếm.

Tối 22 tháng 9 năm 1990 Tú Rua cùng với vợ là bà Đặng Thị Trần Tuyết bị bắn chết tại bãi đậu xe trước nhà tại tiểu bang Virginia, nơi có tờ Văn Nghệ Tiền Phong mà ông cộng tác.

Nhà văn Sơn Tùng, người cùng làm việc với Tú Rua lúc ấy kể lại:

-Thời gian tôi cộng tác với Văn Nghệ Tiền Phong thì tôi thấy ngòi bút ông Triết viết trong mục “Ngày lại ngày” rất là sắc bén nhưng có thể nói đôi khi nó cay độc nữa thành ra bị va chạm khá nhiều. Lúc đó độc giả rất thích cái mục của ổng vì ổng chỉ trích rất thẳng thắn. Đôi khi tôi cũng có nói với ổng nhưng mà văn phong của ông Tú Rua như vậy mà nói ổng sửa lại thì nó cũng rất khó. Ông ấy viết thì đúng chứ không phải là không nhưng có cái là quá nặng.

Tự do báo chí là căn bản của thể chế dân chủ do đó nhà báo khắp nơi trên thế giới vẫn đang nổ lực xây dựng và gìn giữ nó. Khủng bố giết hại nhà báo là trực tiếp giết hại nền tự do không thể thiếu ấy của loài người

Tôi có thể nói ngay là hoàn toàn không có một thế lực nào mua chuộc ngòi bút của ông ấy được đâu. Có thể nói là ổng rất say mê, say mê cái mục của ổng vì được viết như vậy, vì cái đam mê của ông ấy thì đúng hơn. Cứ mỗi hai tuần một lần ổng đem bài tới lúc tôi làm việc ở tòa soạn. Ông đem bài tới đưa bài cho tôi thì ông ấy ngồi đọc cho tôi nghe rồi ổng bình luận này kia có vẻ thích thú lắm. Ông ấy đam mê cái công việc của ông ấy thì đúng hơn, ổng viết coi như rất nguy hiểm chứ không phải là không.

Lúc trước khi ông ấy chết ông viết một loạt bài đụng chạm rất nhiều và ông biết là nguy hiểm nhưng mà ổng không bỏ được.Ổng viết như quá đam mê thành ra đi đến hậu quả như vậy.

Nhà báo kỳ cựu Uyên Thao của tờ Sóng Thần chia sẻ về vấn đề tự do báo chí của Việt Nam trong thời gian chiến tranh, ông nói:

-Nếu mà nói vấn đề tự do báo chí thì có lẽ lúc nào cũng cần thiết cho đời sống bởi vì nó là điều kiện để bảo đảm cho tất cả mọi công việc tiến hành được tốt. Riêng vào lúc đó mình bị hạn chế do điều kiện của cuộc chiến nên có thể giới hạn trong một mức độ nào. Lúc đó mình vừa có tự do báo chí nhưng cũng có những giới hạn trật chìa. Giới hạn đó không nhằm cản trở những liên hệ đến yêu cầu của cuộc chiến mà nó chỉ là yêu cầu của một số cá nhân.

Nhìn lại hai biến cố đối với nhà báo Việt Nam lúc trước và các nhà báo Charlie Hebdo hiện nay, nhà văn Sơn Tùng cho biết:

-Cái giống nhau là sự bạo động chống lại người cầm bút. Vụ bên Pháp thì chức năng của họ là người cầm bút thì họ viết gì họ muốn. Tự do của người cầm bút bị giết vì bạo lực. Bên này cũng vậy ông Tú Rua ổng chỉ viết những gì ông ấy nghĩ là đúng. Ông ấy bênh vực những gì mà ông cho là đúng nên gây ra sự thù oán với những người bị ổng chỉ trích mặc dù ổng chỉ dùng ngòi bút thôi. Những người đó thay vì lên tiếng lại đi giết ổng, cái đó là cái tuyệt đối tôi thấy phải chống lại.

Tự do báo chí là căn bản của thể chế dân chủ do đó nhà báo khắp nơi trên thế giới vẫn đang nổ lực xây dựng và gìn giữ nó. Khủng bố giết hại nhà báo là trực tiếp giết hại nền tự do không thể thiếu ấy của loài người.

Một năm sau khi VN vào Hội đồng Nhân quyền: Tăng bắt bớ những người vô tội

Một năm sau khi VN vào Hội đồng Nhân quyền: Tăng bắt bớ những người vô tội

RFA

Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội

  • Quà Giáng sinh: bắt bớ người viết trung thực

“Cho đến thời điểm này, những  ngày cuối năm 2014, phải nói rằng còn rất nhiều tù nhân lương tâm đang phải chịu hành hạ, đày đọa, tra tấn đủ mọi kiểu. ..Và còn hằng lọat tù nhân khác mặc dù cho đến thời điểm này, nhà nứơc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết Công ứơc Chống Tra tấn với quốc tế rồi mà tình hình không có gì cải thiện hết. Đó là điều mà ai cũng thấy”.

Blogger Nguyễn Ngọc Già(được xác định là Nguyễn Đình Ngọc) đã xót xa về các tù nhân lương tâm cho đến những ngày cuối năm vẫn đang  bị giam cầm như vậy, trong bài trả lời phỏng vấn rfa.org ngày 22/12/2014. Về nhà văn Nguyễn Quang Lập mới bị bắt,  Nguyễn Ngọc Già cũng phản đối mạnh mẽ : “Điều gây xúc động lớn nhất đối với tôi, nguời theo dõi sát tình hình Việt Nam từ trước  đến nay, là chưa có một tù nhân lương tâm nào bị bắt vào lúc mà chính bản thân nguời đó đang bị ‘bán thân bất tọai’ như thế”.

Và rồi chỉ vài ngày sau, Nguyễn Ngọc Già đã bị bắt. Chính anh cũng phải nhập dòng nạn nhân vô tội bị chế độ độc tài VN  đày đọa trong tù.

Tỏ rõ sự bất chấp trước Hiến pháp quy định về quyền công dân, những cam kết quốc tế mà VN đã ký  và dư luận phản đối, bắt  Nguyễn Ngọc Già vào  ngày 27/12/2014, nhà chức trách đã chứng tỏ thêm thái độ “sắt máu” với những người bày tỏ chính kiến.

Một điều khiến người ta khâm phục và biết ơn  Nguyễn Ngọc Già là dù đã hình dung rất rõ ràng những hiểm nguy khi viết và nói lên sự thật, khi đứng về phía quyền lợi của đất nước và người dân VN nhưng anh vẫn tiếp tục con đường của mình và không hề nao núng trước đe dọa:

Hãy bỏ mặc những lời dèm xiểm và chọc ngoáy, nếu bạn viết từ óc và từ tim của chính bạn – viết cho dân oan, tù oan. Viết cho thế hệ trẻ và viết cho ngay chính người CS dưới mọi lớp áo hiểu rằng: Việt Nam này không của riêng ai. Chính vì thế người CS hãy dừng tay cướp đoạt của chúng tôi, của chúng ta và của tất cả người Việt Nam trên toàn cầu.

Người CS hãy dừng tay cướp đoạt tất cả mọi loại tài sản của người Việt Nam trước khi quá muộn! Ngược lại, họ sẽ phải trả giá. Không lâu nữa đâu – một niềm tin có căn cứ khoa học.”

Chính kiến rất rõ ràng nhưng Nguyễn Ngọc Già không vi phạm pháp luật. Trước sau, blogger này vẫn chủ trương cải thiện xã hội, thể chế bằng biện pháp ôn hòa, bất bạo động”:

“Hiện nay có khỏang 20 tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, nhưng tôi chưa nghĩ đến ‘đòan kết’ vì đòan kết là một chương trình khoa học, chứ không phải gọi lên ‘khơi khơi’, ai cũng gọi được vì sẽ trở nên ‘coi thường’ và hạ thấp chữ ‘đòan kết’. Mà trứơc tiên tôi cho rằng phải ‘liên kết’ 20 hội đòan đó. Có liên kết được một cách chặt chẽ thì tạo dần niềm tin lẫn nhau. Đó là điều mà 20 tổ chức xã hội dân sự đó nên nghĩ tới. Đứng kêu gọi đòan kết trong lúc này mà hãy liên kết chặt chẽ trong khoa học bằng những chương trình, mục tiêu công khai, ôn hòa, bất bạo động’…

Nhưng sự vô tội của công dân VN đã tỏ ra chẳng có giá trị gì trước bộ máy đàn áp nhân quyền và tự do ngôn luận của người dân VN.

  • Sự đổi giọng  và âm hưởng Cách mạng Văn hóa

Ngược với cam kết cải cách thể chế của nhà cầm quyền VN đưa ra vào tháng 1/2014, Giáng sinh 2014 và Năm mới 2015 đến trong tiếng gọi xé lòng của dân oan, trong những cuộc bắt bớ, khủng bố tăng cường những tù nhân lương tâm.

Có thể nói những ngày cuối năm 2014 đã in dấu những vết đen trong lịch sử  của nhà cầm quyền VN khi họ đã bất chấp thể diện của một chính thể khổng lồ lại đi  “bắt quả tang một nhà văn đang viết văn…”, giam cầm nhà văn  ôn hòa – blogger Nguyễn Quang Lập đã bị liệt nửa người, bị bệnh hiểm nghèo trong tù ngục.

Và nơi nơi tại VN ngày càng thêm nhiều cái chết tức tưởi của người dân mới bị bắt vào đồn công an mà theo chứng cứ hiển hiện và sự tố cáo của gia đình nạn nhân cùng nhiều luật sư thì đó là những cái chết do tra tấn, bức cung và nhục hình chứ không phải là tự sát. Chưa kể có rất nhiều án tử đã được tuyên một cách tàn nhẫn và oan trái do không đủ chứng cứ, do bức cung và nhục hình bởi quyền lợi của một ai đó trong bộ máy quyền lực hoặc do thành tích, hoặc do “nén bạc đâm toạc tờ giấy”…

Bên cạnh việc tăng cường bắt bớ các blogger, điều khiến người đọc ngỡ ngàng là trên  trang web mang  tên một số  vị  lãnh đạo cao nhất xưa nay vẫn giương cao khẩu hiệu “lắng nghe tiếng nói phản biện”, “chống tham nhũng”, “cải cách thể chế….”.. thì nay lại đăng những loạt bài mang tính đe dọa và lăng mạ những công dân trung thực,  vô tội, xưa nay có phát biểu hoặc viết ra những ý kiến phản biện cũng chỉ vì lợi ích của đất nước.

Những trang web này đã  nêu đích danh những blogger và trí thức bất đồng chính kiến  như Phạm Chí Dũng; Đinh Kim Phúc; Nguyễn Thị Từ Huy; Nguyễn Tường Thụy; Nguyễn Xuân Diện; Nguyễn Hồ Nhật Thành; Hà Sĩ Phu; Nguyên Ngọc; Nguyễn Quang A; Bùi Chát; Bùi Minh Quốc; Chu Hảo; Huỳnh Kim Báu; Phạm Đình Trọng; Phan Thị Hoàng Oanh…và một số người khác là  “có tư tưởng chống đối ngông cuồng”và  đe dọa sẽ bắt giam họ. Một loạt bài với những tiêu đề gây sốc: “Những kẻ phá hoại đội lốt nhà dân chủ sẽ sa lưới pháp luật”, “Hồi chuông cảnh tỉnh cho những kẻ mang tư tưởng phá hoại”, “Kẻ nối gót sẽ bị pháp luật trừng trị”…”Đập tan âm mưu đen tối chống phá Đảng và Nhà nước của các đối tượng chống đối”…

Và họ kết luận : “Đây là âm mưu hoạt động của các đối tượng và tổ chức chính trị phản động rất nguy hiểm đi từ bất bạo động đến công khai chống đối chính quyền và cuối cùng là thay đổi chế độ”.

Công dân chỉ phát biểu chính kiến của mình một cách ôn hòa, chống tham nhũng, bảo vệ chủ quyền đất nước, bênh vực dân oan, đề nghị cải cách thể chế theo kêu gọi của nhà cầm quyền, mà bị quy chụp, khủng bố đến mức ấy sao?!

Một điều khiến cho người ta không thể không sốc là giọng điệu nói trên bỗng mang hơi hướng quy chụp của thời Cải cách ruộng đất ở VN, giọng điệu Hồng vệ binh của thời Cách mạng văn hóa và Đại nhẩy vọt của Trung quốc những năm trước đây.

Tưởng đã xa lắm rồi, thời người ta thực hành những tội ác chống lại nhân loại. Thời điểm mù lòa của những người nhân danh quyền lợi của nhân dân để quy tội cho bất kỳ ai đó là địa chủ, là phản động …để khiến cho con phải đi đổ tội cho cha, vợ đấu tố chồng hòng sống sót. Cái thời những người đã từng nhịn ăn giúp cách mạng và thành lập những chi bộ cộng sản đầu tiên cũng bị đồng chí búa liểm của mình đổ tội và mang ra đập đầu phọt óc chết giữa ruộng mạ,  bất kể tòa án và công lý.

Tưởng như nghe trong không trung tiếng rên xiết chói óc của mấy chục triệu người chết dưới bàn tay của Mao và “bè lũ bốn tên”. Những cách chụp mũ, đổ tội cho bất kỳ ai đã là công cụ để hãm hại, tàn sát người trí thức, nhà văn và người dân Trung quốc. Những người này bị giết chết  bởi chính tay đồng bào đồng chí của mình và chết đói dưới thời Cách mạng Văn hóa và Đại nhẩy vọt…

Các nhà cầm quyền Việt Nam! Hãy tỉnh ngộ! Bởi vì nếu tiếp tục giọng điệu này trên những cách chỉ đạo và tuyên truyền của các vị, thì rất nguy hiểm. Không có gì để đảm bảo rằng cung cách này nếu đi tiếp thì sẽ không đẩy VN đến ngày tái diễn thảm họa huynh đệ tương tàn, một cuộc khủng bố và giết chóc giữa người VN với nhau như trong lịch sử đã từng diễn ra và kéo lùi lịch sử VN trở về thời Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm tàn bạo và mông muội.

Vì ai cũng biết rằng, quyền lực và tài sản vốn rất mong manh, lại càng mong manh hơn trong  không khí mông muội và huynh đệ tương tàn. Vệt chết của Cách mạng Văn hóa, Cải cách ruộng đất, Đại nhẩy vọt cho tới Khơ me Đỏ là những thí dụ còn tươi rói. Đó là một vệt đỏ khiến loài người ghê sợ và dùng đủ mọi cách để ngăn chặn. Các đồng chí trong vệt đỏ đó đã làm những gì với nhau và người dân của họ, là một thí dụ được tạc bởi núi xương sông máu.

Thời thế đã khác xưa rồi. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, loài người đã khôn ngoan hơn, biết vì nhau hơn và có những công cụ tốt hơn để tự vệ trước sự đàn áp dân chủ và nhân quyền./.

VTH

Ăn Mày, Ăn Bẩn & Ăn Cướp

Ăn Mày, Ăn Bẩn & Ăn Cướp

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

“Mục tiêu đến năm 2010 giải quyết cơ bản không còn người lang thang xin ăn ở TP.”

Nguyễn Văn Xê – Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH

Ngày 22 tháng 12 năm 2014, báo Tuổi Trẻ hân hoan đăng lời “kêu gọi người dân không cho tiền người ăn xin,” cùng với một kế hoạch rất hoành tráng và (xem chừng) quyết liệt của UBND TP.HCM:

“Kể từ ngày 28-12, TP.HCM sẽ bắt đầu đưa những người ăn xin, người sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định vào các cơ sở xã hội…

Trung tâm hỗ trợ xã hội được giao nhiệm vụ tăng cường khảo sát, phối hợp với các lực lượng công an, thanh niên xung phong, các đoàn thể… tập trung người lang thang về các cơ sở xã hội.

Đường dây nóng của trung tâm sẽ trực 24/24g để tiếp nhận thông tin về người lang thang trên địa bàn TP…

Người nào bị đưa vào Trung tâm hỗ trợ xã hội từ lần thứ hai trở lên thì trung tâm tiếp nhận nuôi dưỡng. Tại đây, các đối tượng được học văn hóa, học nghề và giới thiệu việc làm. Người nước ngoài lang thang xin ăn sẽ được đưa về nước theo quy định…

Việc giải quyết tình trạng người xin ăn lang thang phải được giải quyết theo hướng căn bản, thiết thực và bền vững.”

Mấy bữa sau, cũng báo Tuổi Trẻ buồn rầu cho biết: “Người ăn xin vẫn đầy đường Sài Gòn ngày đầu năm.”

Hình chụp tại góc đường 3-2 và đường Lý Thường Kiệt lúc 10g trưa 1-1-2015, bà cụ ngồi ngay giữa trời nắng nóng – Ảnh và chú thích: T.T.N.Đ

Đây không phải là lần đầu tiên “đám ăn mày” hay “tụi ăn xin” đã “làm phiền” công luận. Nhiều năm trước, chính xác là vào ngày 7 tháng 7 năm 2009, báo Pháp Luật cũng đã có lời kêu gọi (thiết tha) tương tự, cùng với nhiều kế hoạch quyết liệt không kém:

“Dự kiến từ tháng 7-2009, các quận, huyện phải đưa nội dung phát động không cho tiền người ăn xin sống lang thang nơi công cộng vào buổi họp tổ dân phố, khu phố.

Ông Nguyễn Văn Xê, Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH, cho rằng để giải quyết tình trạng lang thang xin ăn cần rà soát khu vực, tuyến đường trọng điểm, phân rõ trách nhiệm của quận, huyện, không để trách nhiệm chung chung như hiện nay. Có như thế mới mong thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 giải quyết cơ bản không còn người lang thang xin ăn ở TP.”

Về  “mục tiêu cơ bản” này (hồi đó) ở trong nước, đã có vị độc giả nhận xét như sau:

“Thôi nói thẳng ra là thế này. Mới đây, UBND TPHCM đã chỉ đạo tăng cường vận động nhân dân không cho tiền trực tiếp các ‘đối tượng’ lang thang, ăn xin trên đường phố. Mà cái chỉ đạo này thì thật ra có từ năm 2003 rồi. Nay thì quyết liệt làm lại…”

Không phải từ năm 2003 đâu mà trước nữa lâu lắm lận, theo lời của nhà báo Văn Lang:

40 năm qua, biết bao nhiêu lần họ mở chiến dịch “thu gom” mà đâu vẫn hoàn đấy, là vì nước nghèo thì ăn mày – ăn xin vẫn cứ tiếp tục sản sinh ra, đem “giấu” đi đâu cho hết?”

Những người vô gia cư ngủ ở trạm xe buýt ở Sài Gòn. Ảnh: Văn Lang/Người Việt

Sở dĩ cứ phải mở “chiến dịch thu gom” rồi “quyết liệt làm lại” hoài hoài chỉ vì cách “làm sạch” đường phố, theo kiểu “quét” hết ăn xin, của UBND TPHCM đã đi ngược … qui trình: đó là cách quét rác cầu thang bắt đầu từ bậc thấp nhất.

Tại sao cứ chăm chăm lo hốt đám ăn mày mà lại dung túng và bao che cho bọn ăn bẩn. Bọn này ăn tất tần tật. “Ăn của dân không từ một cái gì” nên mới đẩy không ít nạn nhân của chúng vào cảnh phải ăn mày.

Xin đan cử một thí dụ (ngay) trong địa bàn thành phố:

Ngày 8 tháng 8 năm 2010, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã nộp  đơn “tố cáo và yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự và đưa ra vành móng ngựa tên Lê Thanh Hải, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và đồng bọn do đã đập nhà, cướp đất ở của bà Dương Thị Kính, thân nhân của Ba Liệt sĩ, tại 255/6/27 Ngô Tất Tố, phường 22 quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.”

Đây là một lời tố cáo vô cùng nghiêm trọng nhưng người bị đưa ra trước vành móng ngựa lại không phải là ông UVBCT Lê Thanh Hải (và đồng bọn) mà lại là chính L.S. Cù Huy Hà Vũ với “tội tuyên truyền chống nhà nước,” cùng bản án bảy năm tù giam và ba năm quản chế.

Vụ Án Hai Bao Cao Xu Đã Qua Sử Dụng (theo như cách gọi của dân gian) chung cuộc đã trở thành một màn hài kịch vô duyên và lố bịch. Nó đã không cứu vãn được “thanh danh” cho ông Lê Thanh Hải (đã đành) mà còn khiến cho đương sự trông càng bẩn thỉu hơn.

Câu hỏi đặt ra là đã có bao nhiêu vụ cướp đất tương tự đã xẩy ra ở Sài Gòn, và có bao nhiêu người dân đã trở nên trắng tay rồi buộc phải ngửa tay ăn xin (hay ăn mày) sau những chuyện ăn bẩn như vậy của đám quan chức ở thành phố này?

Trên phạm vi toàn quốc thì có vô số những quan chức cũng đã ăn bẩn hay ăn cướp (giữa ban ngày) y như thế. Chỉ xin nhắc đến hai vị đang được công luận quan tâm (ông Trần Văn Truyền và ông Nguyễn Xuân Phúc) theo như thông tin đọc được trên trang Dân Luận:

“Ông Trần Văn Truyền sở hữu căn biệt thự cùng 4 căn nhà gỗ đặc biệt ở xứ tỉnh Bến Tre, rộng trên 16.000m2 ước tính 24 tỷ riêng tiền đất; 1 căn nhà 300m2 được cấp hồi làm bí thư tỉnh ủy; 1 nhà 200m2 trước cổng chùa Bạch Vân; 3 cơ ngơi ở khu đô thị 5 sao Phú Mỹ Hưng, TP Hồ Chí Minh, do người thân quản lí.

Nhà đất có liên quan đến ông Trần Văn Truyền ước tính trị giá chưa tới 100 tỷ… Còn khối bất động sản của Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc thì lại ở đẳng cấp quốc tế ước tính nhiều nghìn tỷ mà ông Truyền khó có thể so sánh:

Tài sản (tính theo bất động sản) của ông Trần Văn Truyền xem ra vẫn còn khiêm tốn lắm lắm so với khối bất động sản nhiều nghìn tỷ của Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc.

Dù sao thì ông Trần Văn Truyền cũng đã nghỉ hưu, mối họa ông để lại cho nhân dân cũng không lớn lắm nhưng còn ông Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc thì vẫn còn đang đương chức và có khả năng tiến xa hơn nữa … Đây mới là thực sự là nhân tố hút cạn máu Nhân dân …”

Cán bộ Đảng thi nhau “hút cạn máu” thiên hạ thì nhân dân, những kẻ sống trong “thiên đàng của bọn tham nhũng,” tránh sao được cảnh ăn mày?

Đó mới là chuyện ở bình diện cá nhân của một “bộ phận không nhỏ những cán bộ biến chất,” hay còn gọi (theo ngôn ngữ đương đại) là những “bầy sâu,” đang ngày đêm (ngoem ngoém) đục khoét tài sản quốc gia.

Ở bình diện thể chế thì những đường lối và chính sách cướp ngày của Đảng và Nhà Nước (CCRĐ, Hợp Tác Hoá Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Kiểm Kê Tài Sản, Đổi Tiền, Thu Hồi Đất Đai …) đã “sản xuất” ra vô số ăn xin. Đó là chưa kể không ít những chủ trương lớn (Kinh Tế Quốc Doanh Chủ Đạo, Vinashin, Bauxite…) không ngừng đưa cả đất nước và dân tộc đến mức bần cùng.

Hãy đọc qua vài tiêu đề trên cùng một tờ báo, báo Pháp Luật:

Gia cảnh cơ cực của hai cụ già 10 năm xích chân con

Đắng lòng gia cảnh thanh niên nhặt rác chết cóng

Rơi nước mắt cảnh mẹ già nuôi 3 con bị tâm thần

Cha già bươn chải nuôi 2 con tâm thần

Bên dưới những bài viết thương tâm này thường có đôi dòng viết phụ:

Mọi sự giúp đỡ của những tấm lòng hảo tâm xin gửi về địa chỉ:

– Cụ Nguyễn Văn Thân

Xóm 2, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Báo Đời sống & Pháp luật tại Miền Trung

Số 03, Đại lộ Lê Nin, TP Vinh – Nghệ An; ĐT/Fax: 038.8601010;

Số tài khoản: 0191012468008, Ngân hàng Bảo Việt Nghệ An, chủ tài khoản: Báo Đời sống & Pháp luật tại Miền Trung.

Mỗi tuần tôi nhận được qua bưu điện bốn tờ tuần báo: Sống (phát hành từ Westminster, California) Thời Báo (Cheektowaga, New York) Trẻ (Dallas, Texas) và Việt Tribune (San Jose, California). Trừ tờ cuối cùng, ba tờ còn lại đều có mục “Những Tấm Lòng Vàng” hay “Trang Tương Trợ” với tên tuổi, địa chỉ, và hình ảnh những đồng bào đang lâm trọng bệnh hay rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát – ở quê nhà – cùng với lời kêu gọi xin độc giả hảo tâm giúp đỡ.

Sống trong một đất nước không có mạng lưới an sinh xã hội để nâng đỡ những người neo đơn, thất thế, già yếu, bệnh tật .. thì người dân còn biết trông chờ và đâu – ngoài lòng hảo tâm của tha nhân. Chớ không ngửa tay xin thì biết làm sao khác.

Sự giúp đỡ không chỉ giới hạn ở mức độ cá nhân.  Thử “google” vài cụm từ, như  “giúp đỡ xây cầu” (chả hạn) trong vòng năm mươi giây sẽ thấy hơn chục ngàn “kết quả” – đại loại như:

Nhóm Việt kiều xây hơn 100 chiếc cầu cho quê hương

Bạn đọc Dân trí ủng hộ xây cầu Dân trí ở Quảng Bình gần 1,3 tỷ đồng

Độc giả VnExpress quyên góp xây cầu vượt sông Pôkô

Cầu treo ở Khánh Hòa. Ảnh Nguyễn Thành Chung. Nguồn: Dân Trí

Một cá nhân, một gia đình, hoặc ngay cả một tập thể người (đôi lúc) cũng cần đến sự trợ giúp khi hoạn nạn nhưng một quốc gia thì không thể theo đuổi chính sách sống nhờ vào lòng từ thiện, vào kiều hối, hay vay vốn ODA nước ngoài – mãi mãi – như vậy được.

Vậy mà đây lại là một trong những chủ trương và chính sách (lớn) của Đảng và Nhà Nước, theo như nhận định của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói ‘Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày’. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54%, nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD.”

Vừa mở mắt chào đời đã mang một đống nợ nần, rồi lớn lên trong một xứ sở “chuyên xin xỏ” thì thế hệ tương lai e (lại) cũng sẽ lâm vào cảnh ăn mày thôi – nếu chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại.