Phép Thánh Thể

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá


4. Chiếc Bánh Thứ Tư

Sức mạnh độc nhất của tôi:

Phép Thánh Thể

Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?

Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:

– Ông có bị bịnh đường ruột không?

– Có.

– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!

Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).

Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.

Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.

Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…

Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.

Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.

Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.

Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).

Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

Sống Vui Từng Ngày, Bon Chen Gì Nữa

Sống Vui Từng Ngày, Bon Chen Gì Nữa

Ngậm ngùi bởi tiếc nuối tuổi trẻ đã trôi qua lúc nào không hay ! Ngậm ngùi phải chi hồi đó thế này thế khác… Hình như ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú ! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

Từ ngày có “thế giới phẳng”, ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp ! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa ! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75 ! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải….nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không ? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi,không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đầu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại, mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”. Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chỉnh cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua.

Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả ! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút.Nhưng muốn vậy, phải… chuyển đổi cách thở.

Thở ư ? Đúng vậy! Một bác sĩ có thể biết rất nhiều về bộ máy hô hấp, về cơ thể học, sinh lý học, bệnh lý học của bộ máy hô hấp nhưng chưa chắc đã biết thở !

Sưu tầm

Anh chị Thụ Mai gởi

Sống để mà Yêu !

Sống để mà Yêu !

Có khoảnh khắc nào trong cuộc đời mà chúng ta dừng lại và tự hỏi mình rằng: “Ta sống để làm gì?”. Bao nhiêu năm trời bôn ba, xuôi ngược, chạy đua với thời cuộc, lo toan từng miếng cơm manh áo, để rồi giờ đây nhìn lại, ta được gì? Nhà cao, chức trọng? Tiền tài, danh vọng? Đó là những ai nhiều phước đức. Thất bại, bẽ bàng, chia ly, tan vỡ? Buồn nhiều cho những số phận hẩm hiu…

Có khoảnh khắc nào trong cuộc đời, mà chúng ta dừng lại và tự hỏi mình rằng: “Ta yêu để làm gì?”. Bao nhiêu năm trời lao đao lận đận, chạy đuổi theo tiếng gọi của trái tim, để rồi giờ đây nhìn lại, ta được gì? Vợ đẹp, con ngoan? Mái nhà đầm ấm? Đó là những ai nhiều phước đức. Nửa đêm thức giấc, nhìn quanh một mình? Buồn nhiều cho duyên kiếp đìu hiu…

Cuộc đời này có mấy ai dám bảo rằng, tôi sống mà chưa từng bao giờ yêu? Con mới chào đời, Mẹ đã yêu con. Khi bắt đầu cất tiếng khóc, con yêu bầu sữa Mẹ. Ba yêu tiếng bi bô khi con tập nói. Bà yêu đôi chân chập chững lúc cháu tập đi. Cu Tèo yêu chiếc diều giấy mỗi chiều lộng gió. Bé Tí yêu cô búp bê bằng gỗ chẳng muốn rời.

Trưởng thành hơn, tuổi trẻ thường yêu tiền, yêu sự nghiệp, yêu công danh, yêu vật chất. Chữ Yêu của tuổi trẻ gần như đồng nghĩa với yêu đời, bởi vì cuộc sống ở lứa tuổi này, đa số thường rất dễ yêu. Có thất bại, chán nản đi nữa, thanh niên thường cho rằng, mình còn nhiều thời gian để làm lại, và vì thế cuộc đời nào mất cái vẻ đáng yêu?

Bước vào tuổi trung niên, con người thường bắt đầu nhận ra được chân lý cuộc đời, qua mái tóc lắc rắc muối tiêu, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, với đủ vị đời ngọt bùi cay đắng. Có khóc, có cười, có đau, có sướng. Thế nhưng con người vẫn tiếp tục sống để mà yêu, yêu nửa đoạn đường đời vẫn còn trước mặt.

Qua tuổi xế chiều, người già vẫn yêu. Yêu kỷ niệm, yêu nét dễ thương của “ngày xưa hoàng thị”. Có người yêu quá khứ huy hoàng; có kẻ yêu mối tình xưa chưa một lần dám tỏ. Và cũng chính vì chữ yêu, mà người ta bám lấy cuộc sống, vì dầu gì, người già cũng vẫn có trái tim…

Không phải ai cũng may mắn trong cuộc sống tình yêu. Đâu phải dễ dàng cứ lớn lên rồi gặp người mình yêu; lại có phước được chung sống với người yêu mình; và lại còn có duyên bên nhau tới ngày răng long đầu bạc…

Con người cần tình yêu để mà sống, nhưng con người không có tình yêu vẫn phải sống. Ta sống vì đã mang thân xác con người. Ta sống vì bổn phận với người thân. Ta sống vì con người sinh ra, sinh mạng là quý báu. Cho nên ta sống để mà yêu, và ta yêu để có được niềm vui trong cuộc sống.

Bao nhiêu năm qua, nhiều người đã cố gắng đi tìm định nghĩa chung của hai chữ tình yêu. Nhưng hỡi ôi….

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

Thế thì làm sao mới đúng nghĩa là Tình Yêu?

Có người nói: “Tình yêu chẳng có gì là khó hiểu”. Như khi đói được ăn thì thấy sướng; như lúc khát được uống thật là vui. Yêu là lâng lâng, là một cảm giác tuyệt vời mà ai yêu thời khắc biết…

Có kẻ bảo: “Tình yêu chẳng làm sao hiểu nổi”. Yêu ai yêu cả đường đi. Yêu làm con người ta mù quáng. Yêu thì trái ấu cũng tròn. Yêu khiến người thông minh cũng thành kẻ ngu si…

Tình yêu ngay chính nó cũng đã có rất nhiều mâu thuẫn. Ta yêu nhưng ta lại không biết làm sao yêu cho đúng với sự mong chờ ở nơi người ta yêu. Và cả chính người yêu ta, cũng không biết yêu ta đúng như ý mà ta mong muốn được yêu. Người ta hay nói con người có duyên lắm mới gặp được nhau. Và có phước lắm hai kẻ yêu nhau mới được sống đời mãi mãi. Còn bằng không, thì dẫu có muốn yêu cũng không được. Hay có được mà trái tim vẫn chẳng chịu yêu…

Và tình yêu đôi khi lại rắn mắc. Người ta bảo: “Theo tình, tình chạy. Bỏ tình, tình theo”. Ba người yêu nhau thì sẽ thành trò chơi cút bắt. Ba kẻ trốn tìm cứ mãi lẩn trốn loanh quanh…

Còn với những ai đã từng một lần dang dở, hay vẫn đang tìm kiếm nửa kia của đời mình, xin đừng vội nản. Vì nếu ta không được Yêu để mà Sống, thì ta hãy nên Sống để mà Yêu…

Tình yêu không chỉ giới hạn trong tình yêu trai gái. Thế giới bao la. Tình yêu cũng vậy. Ta yêu cha, yêu mẹ, yêu chị, yêu em. Ta yêu bạn yêu bè, yêu cỏ cây hoa lá. Yêu tiếng cười giòn của em bé không quen biết. Yêu cái miệng móm mém của cụ già đã rụng hết răng. Và ta yêu rất nhiều thứ chung quanh ta nữa.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay quên nói ba tiếng “I love You” với một người thân nào đó của mình. Phải chăng vì ta bận rộn? Hay là ta cho rằng chuyện đó không cần thiết mấy mà phải quan tâm. Khi yêu, người ta thường hay nghĩ rằng “người ấy” luôn luôn đủ thông minh để hiểu hết tất cả những gì mình làm, những gì mình nghĩ.

Khi yêu, người ta thường hay cho rằng, lời nói ngọt ngào cũng không quan trọng là bao. Miễn sao chúng ta hiểu ý nhau là đủ rồi. Vậy thì… bao nhiêu là đủ?

Tình yêu của bạn, bất kể là dành cho người yêu, người thân, người bạn, hay những người chung quanh, đôi khi hãy nên nói thành lời, đôi khi nên là những phút giây bên người ấy. Khi yêu, ta phải nên biểu đạt tình cảm của mình bằng mọi phương cách. Đối với nhiều người, phương pháp biểu đạt qua lời nói và hành động hàng ngày, là dễ dàng và cụ thể nhất.

Hãy nói lên lời yêu thương trong tim bạn, đến những người mà bạn đang yêu mến xung quanh mình.

Em ơi nghe chăng Tình yêu,
Tình yêu hát ở trong lòng
Như Xuân đang sang mênh mang
Như con tim yêu thương nồng cháy…

Hãy Sống để mà Yêu, Yêu thật nhiều và Yêu cho đúng ý người ta…

Nhân ngày lễ Tình yêu, xin cho tôi được một lần nữa – Sống để mà Yêu, qua lời nói chân thành nhất:

Tôi yêu bạn, yêu đời và yêu cả người dưng…

Hoàng Thanh.

Anh chị Thụ Mai gởi

Tết Chúa

Tết Chúa

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

VRNs (15.02.2015) – Sài Gòn

Giã từ Năm Cũ, sám hối lỗi lầm, quyết tâm trở về với Chúa Trời nhân hậu;

Chào đón Tân Niên, canh tân đời sống, thành thật tín thác nơi Lòng Chúa Xót Thương.

150215002

Thời gian cứ ngắn dần, mùa Đông lui bước để nhường chỗ cho mùa Xuân. Đó là quy luật muôn thuở.

Dân tộc nào cũng có ngày Tết riêng. Dù muốn dù không, dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, tất cả đều cảm thấy cõi lòng rạo rực, nô nức, dù ít hay nhiều, dù chỉ là vô thức hoặc không muốn. Ngoại tại khả dĩ tác động nội tại.

Thời gian là của Chúa. Thời gian không thuộc quyền của chúng ta, nhưng chúng ta được Chúa cho phép quản lý thời gian của mình. Đó là trách nhiệm. Ai cũng có mỗi ngày 24 giờ, không hơn 1 giây, không kém 1 giây. Dùng thời gian đó làm điều tốt hay xấu là quyền của mỗi người. Nén-thời-gian Ngài đã trao và cho chúng ta hoàn toàn tự do sử dụng.

Chúa rất muốn chúng ta vui. Dân tộc nào cũn có cách vui Xuân đặc trưng. Có nhiều cách ăn tết, thế nên mỗi người đón tết cũng rất khác nhau. Có người chỉ cần một cành mai, có người muốn nếm miếng bánh chưng, có người thích ăn một miếng mứt, có người ưa ăn một miếng dưa, có người khoái sắm chiếc áo mới, có người dành thời gian đọc sách báo, nghiên cứu, hoặc làm từ thiện,… Thế nhưng có người lại cố gắng thể hiện bề ngoài cho ra vẻ tết nhất để hợp với “đẳng cấp” của mình. Mỗi người mỗi kiểu, mỗi người có quan niệm riêng và phong cách riêng.

Tết nhau cũng đa dạng, tùy theo “thần tài” nhà mình, do đó mà lễ vật cũng mỗi người mỗi vẻ, mức “nặng” và “nhẹ” cũng rất khác nhau. Các “ông to, bà lớn” rất vui khi được “bề dưới” thể hiện bản lĩnh “biết điều” sao cho đúng mức. Người nghèo cũng rất vui khi được các nhà hảo tâm tặng vài kg gạo, túi đường hoặc bịch mứt. Giá trị vật chất khác nhau, nhưng giá trị tinh thần có thể giống nhau về niềm vui mà lại không giống nhau về “ý nghĩa”. Nhiêu khê quá!

Có người nói “tết là chết trong lòng”, thật cũng hợp lý lắm!

Với con người là thế. Người ta lo tết nhau những thứ có giá trị “thực tế”, làm đẹp lòng nhau bằng vật chất. Người ta cân-đo-đong-đếm giá trị tinh thần bằng chính giá trị vật chất, người nghèo không “chết trong lòng” sao được!

Về tinh thần thì sao? Có lẽ người ta không chú trọng nhiều đến việc xin lỗi nhau, dù ai cũng có lỗi, mà Tết là dịp để gặp gỡ nhau. Dù không nói ra, nhưng chính sự gặp nhau đó ngầm hiểu là tha thứ cho nhau. Chính sự giao hòa và lòng tha thứ mới là “quà tết” giá trị nhất.

Còn với Chúa thì sao? Thực sự chúng ta chỉ là những tội đồ vô cùng khốn nạn, hoàn toàn bất túc và bất trác, nhận rất nhiều mà chẳng có gì xứng đáng để tết Chúa, như Tv 115 nói: “Con biết lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con?”, thế nên chúng ta chỉ biết tiếp tục làm như Tv 115 dạy: “Con sẽ dâng Chén Cứu Độ và con sẽ kêu cầu Thánh Danh Chúa chí tôn”. Vả lại, chính Chúa cũng xác định: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13), Ngài cho chúng ta tất cả: “Tôi đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” (Ga 10:10). Thế nên Ngài không đòi hỏi gì ở chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta đối xử tốt với nhau, và Ngài coi đó là làm cho chính Ngài.

Chúa không cần chúng ta tết Chúa, nhưng Ngài muốn chúng ta tết tha nhân bằng chính tấm lòng chân thành nhất: YÊU THƯƠNG NHAU. Chúa Giêsu gọi đó là Điều Răn Mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Đó là “dấu hiệu” chứng tỏ ai là nhân chứng đức tin: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Chúa Giêsu nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17).

Chúa Giêsu thường nhắc đi nhắc lại: “Hãy yêu thương nhau”. Điều đó cho thấy Luật yêu cực kỳ quan trọng trong cuộc sống người Công giáo nói riêng. Và đó mới là Quà Tết đẹp lòng Chúa nhất. Chính món quà đó là những thứ Chúa muốn, nhưng không để lợi ích cho Ngài, mà là để lợi ích cho chính chúng ta và tha nhân. Tất nhiên, Quà tết đó sẽ thắm sắc màu Tin Cậy Mến:

Đầu Xuân con dâng lễ

Tết Thiên Chúa chí nhân

Quà Tết con chia sẻ

Là yêu thương tha nhân

Món quà yêu thương là Quà Tết quý giá, nhưng Quà Tết thánh đức nhất lại không gì bằng chính Con Thiên Chúa:

Bánh, rượu con dâng tiến

Xin Thiên Chúa chúc lành

Hóa thành Mình Máu Chúa

Hồn con đón Chúa Xuân

Chúa cũng sẽ rất vui chúc lành nếu chúng ta không chỉ giao hòa với Ngài mà còn cầu nguyện cho đất nước yêu dấu, tổ quốc thân thương, nơi mình đang sinh sống, với tâm tình cảm tạ:

Xuân mới đầy Ơn Thánh

Đức Chúa ban muôn người

Tình đồng loại thắm nở

Khắp nước Việt nơi nơi

Và dâng cho Chúa tất cả những nỗi niềm, lo toan, mơ ước, dự tính,… trong năm mới:

Đầu Xuân con dâng Chúa

Những mơ ước tin yêu

Rạng rỡ như hoa nở

Người luôn yêu thương nhau

Quà Tết dành cho Chúa còn là món quà “vâng lời”, như Đức Mẹ đã “xin vâng” (Lc 1:38), là thực hiện những điều Ngài dạy qua Kinh thánh:

– “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).

– “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).

– “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9:13), vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).

– “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4:29).

– Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái (Rm 13:8).

Và còn rất nhiều “món quà” khác chúng ta phải tết Chúa hôm nay và suốt cuộc đời này…

Lạy Chúa Xuân vĩnh hằng, chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (Lc 17:10), chúng con thành tâm xin lỗi Chúa, xin Ngài thương xót mà tha thứ tội lỗi cho chúng con. Xin cảm tạ Chúa về mọi ơn lành Ngài đã ban cho chúng con trong năm qua, và xin thương xót mà chúc lành cho năm mới của chúng con. Xin giúp chúng con biết sống vuông tròn Ý Ngài trong từng hơi thở của chúng con, luôn thể hiện yêu thương và khiêm nhường ngay từ trong ý nghĩ, đúng như Con Chúa đã truyền dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Không ngăn cản bất cứ ai về Việt Nam?

Không ngăn cản bất cứ ai về Việt Nam?

Mặc Lâm – RFA
2015-02-13

maclam02132015.mp3

nguyen-hung-quoc

GS. Nguyễn Hưng Quốc, Australia

Courtesy of vi-wikipedia.com

Your browser does not support the audio element.

Thứ trưởng Vũ Hồng Nam trong cuộc họp báo mang tên “Xuân Quê Hương” vào ngày 30 tháng 1 chào đón kiều bào đã nói rằng theo Nghị quyết 36 của Bộ chính trị thì đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu cao cả, cuối cùng của toàn dân tộc Việt Nam.

Ông Thứ trưởng còn nói đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì Bộ Ngoại giao có chính sách hàn gắn, đoàn kết dân tộc với những người còn có ý kiến khác, còn có những hoạt động chống đối, lời nói xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã tiếp cận những kiều bào còn định kiến, cử các đoàn chuyên viên gặp gỡ, trao đổi với đại diện kiều bào ở các nước, có những chính sách cởi mở hơn nữa để vận động họ trở về…

Đối chiếu với tuyên bố này, thực tế có những bức tranh hoàn toàn khác đang gây ẩn ức từ việc công an cửa khẩu nhận được chỉ thị cấm hàng trăm người nhập cảnh mỗi năm theo danh sách mà họ gọi là thành phần chống đối. Trong các thành phần chống đối ấy công an không loại trừ các trí thức, chuyên gia, hay những người làm từ thiện mà hoạt động của họ hoàn toàn không có một sự chống đối nguy hiểm nào.

Trường hợp thứ nhất là chuyên gia an ninh mạng Hoàng Ngọc Diêu, anh bị nhà nước cấm cửa không cho vào Việt Nam mặc dù được mời tham dự một hội thảo chuyên đề về an ninh mạng vào cái tết năm 2012, anh Hoàng Ngọc Diêu cho biết thêm chi tiết như sau:

“Khoảng tháng 1 đầu năm 2012 tôi được mời về Việt Nam do một nhóm chuyên bảo mật an toàn thông tin của Việt Nam mời về dự cuộc hội thảo được gọi là “Tetcon” (Viết tắt của Tết Conference, do được tổ chức vào ngày gần Tết) mình nhận được giấy mời đàng hoàng, được đài thọ mọi thứ, coi như cái event đó nó được Ủy ban nhân dân thành phố chấp thuận đầy đủ hết rồi.

Ngày hôm đó mình chỉ lên máy bay, về tới nơi thì hải quan của phi trường Tân sơn nhất họ giữ lại, họ lôi vô trong phòng nói chuyện trên trời dưới đất họ tìm cách trì hoãn thời gian. Lúc đó mình chưa có hiểu rõ là mình không được vô Việt Nam mình chỉ nghĩ họ muốn biết mình về Việt Nam làm gì thôi không ngờ họ kéo dài ba bốn tiếng đồng hồ cuối cùng họ nói: thôi bây giờ anh ra máy bay, họ tống cổ lên chuyến bay kế tiếp bay ngược lại Úc!”

hoang-ngoc-dieu

Ông Hoàng Ngọc Diêu – Ảnh từ goctroikhac.wordpress.com

Trường hợp thứ hai là Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc giảng dạy tại đại học Victoria thành phố Melbourne nước Úc. Giáo sư bị công an cửa khẩu từ chối không cho nhập cảnh hai lần, lần đầu tiên vào năm 2005 khi ông dẫn 14 sinh viên người Úc về Việt Nam để làm một cuộc du khảo vì các sinh viên này đã theo học tiếng Việt ở Úc và cuộc đi này nhằm góp phần mở mang kiến thức văn hóa Việt Nam cho các bạn sinh viên. Trong khi tất cả các sinh viên không có vấn đề gì thì chính bản thân người dẫn đầu lại bị chặn và không cho phép vào Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc bị buộc phải lên máy bay quay về Úc ngay sau đó.

Ba năm sau vào năm 2009 Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc được mời thuyết trình trong một hội thảo quốc tế về vấn đề giảng dạy ngôn ngữ do trường đại học Hà Nội và một trường đại học tại Úc đồng tổ chức. Ông được mời, được Việt Nam cấp Visa nhưng khi tới phi trường Nội Bài ở Hà Nội thì lại không được phép nhập cảnh.

Trở về Úc, Giáo sư hỏi đại sứ Việt Nam tại Úc và Bộ Ngoại giao Việt Nam tại sao lại có chuyện như vậy thì Bộ Ngoại giao không trả lời chỉ có đại sứ Việt Nam tại Úc trả lời là họ không biết.

Trường hợp thứ ba là của cô MiVan Lovstrom, vào tháng 10 năm 2011 cô cũng bị cấm nhập cảnh khi cùng hai người bạn Na Uy đi với cô vào Việt Nam mang quà tặng cho trẻ khuyết tật. Chỉ mình cô bị cấm vào và phải quay về Thái Lan mà không một lời giải thích. MiVan cho biết:

“Lúc đó thì họ nói là tạm thời MiVan không được nhập cảnh, MiVan có hỏi lý do thì không được trả lời lý do như thế nào. Sau đó MiVan hỏi nữa thì tòa đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nói là chắc MiVan đi tới những vùng nhạy cảm họ cũng nói rằng ở Việt Nam muốn làm từ thiện thì phải qua Mặt trận tổ quốc hay Đoàn thanh niên.

MiVan cảm thấy nó không hợp lý vì vẫn không có câu trả lời thỏa đáng và lúc hỏi khi nào mới trở vào được thì vẫn không có câu trả lời rõ ràng. MiVan cảm thấy chuyện của mình làm là mang một chút nguồn vui tới những người kém may mắn hơn vì vậy MiVan mong được sự thông cảm đối với việc của mình.”

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc là một nhà phê bình lý luận văn học có tiếng ở hải ngoại. Ông là một trí thức hiếm hoi ở nước ngoài dấn thân lặn lội trong việc nghiên cứu văn học Việt Nam nhưng bắt đầu từ hai chuyến cấm nhập cảnh đó người theo dõi thấy chủ đề và cách viết của ông thay đổi một cách rõ ràng. Ông không viết về văn học nữa mà tập trung các bài phân tích chế độ cộng sản Việt Nam một cách sắc sảo mà trước đó ông chưa bao giờ làm. Khi được hỏi có phải sự thay đổi lớn lao này phát sinh từ hai chuyến về Việt Nam hay không ông nói:

“Tôi nghĩ là có anh ạ. Thật ra không phải tôi không quan tâm đến chính trị thế nhưng từ lúc vượt biên, lúc cầm bút vào cuối năm 1985 cho đến khoảng năm 2008 thì hầu như hoàn toàn tôi không viết về chính trị mà chỉ viết về văn học thôi. Không phải vì mình không băn khoăn, không suy nghĩ về chính trị nhưng có hai lý do: Lý do thứ nhất tôi muốn tập trung vào lĩnh vực văn học thôi vì tôi nghĩ đó là sở trường của mình, thứ hai, chuyện chính trị tôi nghĩ có thể có nhiều người khác có khả năng hơn mình họ có thể làm được và làm một cách xuất sắc hơn mình.

Thế nhưng sau khi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam lần thứ hai thì tôi bị shock, rồi chính cái shock ấy tôi mới nghĩ rằng là mình muốn tránh né chuyện chính trị cũng không được. Ngay bản thân tôi hồi trước chỉ tập trung vào phê bình văn học, tậy trung vào nghiên cứu nhưng cuối cùng vẫn bị áp lực của chính trị buộc mình không được đặt chân vào ngay chính quê hương của mình để thăm gia đình, bạn bè cho nên thật ra mà nói tôi rất shocked.”

Cò lẽ sự ẩn ức của Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc không phải từ cá nhân ông, nhưng việc cấm nhập cảnh giống như mảnh vải đen che mắt của ông bị lột bỏ để ánh sáng tri thức soi rọi vào một góc tối mà trước đó ông không để ý, giáo sư chia sẻ:

” … có thể nói thế này, chính cái việc bị trục xuất ra khỏi Việt Nam nó làm như một cái cú shock về phương diện tâm lý và từ phương diện tâm lý như vậy nó thay đổi cả về phương diện nhận thức và cuối cùng tôi viết về chính trị một điều mà trước đó tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ nghĩ tới.

GS. Nguyễn Hưng Quốc “

“Ngay cả khi mình sống ở hải ngoại mà mình còn chịu sự tác động của những quyết định độc tài độc đoán như vậy huống hồ gì những người trong nước họ hoàn toàn lệ thuộc vào các quyết định của chính phủ. Họ có thể sợ những công an trong khu vực ra đường thì sợ cảnh sát…cả đời họ sợ hãi bởi vậy cho nên tôi nghĩ nếu trong hoàn cảnh như vậy mà mình tiếp tục viết vể văn học nghệ thuật thì tự nhiên mình cảm thấy có gì nó hơi hờ hững quá, nó không phải cho nên tôi bắt đầu viết vể chính trị.

Thoạt đầu tôi định viết ít thôi, mỗi tuần viết trên blog của đài VOA thì tôi định mỗi tuần tôi viết hai bài vể văn học, một bài về ngôn ngữ học hoặc giáo dục và một bài vể chính trị nhưng mà càng đọc, theo dõi tình hình chính trị Việt Nam thì càng cảm thấy khó chịu, bức bối nó đòi viết bởi vậy dần dần về sau này thì gần như tôi viết hoàn toàn về vấn đề chính trị. Gần đây tôi có mở một trang Facebook thì ở trong đó tôi cũng viết về chính trị cho nên có thể nói thế này, chính cái việc bị trục xuất ra khỏi Việt Nam nó làm như một cái cú shock về phương diện tâm lý và từ phương diện tâm lý như vậy nó thay đổi cả về phương diện nhận thức và cuối cùng tôi viết về chính trị một điều mà trước đó tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ nghĩ tới”

Trong buổi họp báo vào trước Tết, Thứ trưởng Vũ Hồng Nam khẳng định với báo chí rằng “Việt Nam có chủ trương rõ ràng, đất mẹ Việt Nam mở rộng cánh tay đón tất cả những người con trở về, không phân biệt thành phần quá khứ, miễn là không chống lại đất nước, không chống lại nhân dân. Đây là một thông điệp rõ ràng của Đảng, Nhà nước chúng ta.”

Rất tiếc thông điệp này, ít nhất theo những người bị cấm nhập cảnh vô cớ, chỉ có thể là thông điệp phát đi từ Bộ Ngoại giao, làm theo nội dung của nghị quyết 36 chứ Bộ Công an hoàn toàn không chia sẻ. Những cái nhìn quá nhạy cảm của Cục Đối ngoại thuộc Bộ Công an không phân biệt nổi đâu là sự chống đối nguy hiểm đến chế độ và đâu là các hoạt động thuần túy nghề nghiệp đã đẩy những người có tâm với đất nước trở thành đối đầu một cách kiên trì để từ đó mọi giải thích chỉ được đánh giá là tuyên truyền không hơn không kém.

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.”

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.”
“Ta dối gian nhau, nên nát nụ hôn đầu.
Tình đi từng bước, đi từng bước trên đầu gió.
Gieo xuống lòng nhau, ôi từng hạt thương đau”.

(Phạm Duy – Tình Sầu Du Tử Lê)

(2Cor 9: 1, 2, 3)

Trần Ngọc Mười Hai

Hôm nay, ngồi nặn óc tìm lời nhạc ở đây đó làm nguồn hứng viết “Phiếm”, bần đạo đây phải thú thật một điều, rằng: lời ca trên rất phù hợp với tâm trạng của bần đạo, vào lúc này, hơn bao giờ hết.

Này nhé, trong chuyến du-lịch nước Tây Tạng đầu năm nay 2015, bần đạo cũng “từng bước, đi từng bước” rất dọ dẫm ở độ cao lên đến 6,000m, chỉ để hướng về núi Everest chụp một tấm hình kỷ-niệm chứng tỏ mình đã có mặt ở nơi này. Nghĩ thế rồi, nay bần đạo lại nghe hát tiếp, những lời rằng:

“Người một phương, ta cũng một phương.
Phố cao ngày thấp, nên nắng mưa trùng trùng.
Mắt có sâu, để nhốt trời giông tố.
Ta là hồn câm, cho mưa bão lên.
Người ở đây, ta cũng ở đây.
Lòng không như mặt, mà lòng lệ tràn đầy.
Chân đi theo gió, sầu ba hướng.
Tay với một trời, trời mưa bay.”
(Phạm Duy – bđd)

Quả thật là thế. Đứng ở độ cao 6,000m tại xứ miền được mệnh danh là “Nóc nhà của thế giới”, thì: lại thấy mây trời chậm trôi rất gần kề, ra như thể: chỉ cần với tay lên cao, là ta nắm được chúng ngay thôi.

Và, không chỉ thế. Bần đạo đây, lại dám lên cao/xuống thấp rất từng chập, để cảm-nhận được cái hay/cái đẹp nơi lập-trường của người Tạng, không chỉ mỗi chuyện hành-hương lòng vòng rất nhiều giờ quanh lâu đài Potolas, như thế thôi.

Người Tạng đi như thế, không chỉ mỗi nhà đạo đức hoặc các thày dạy gọi là “Rinpochê” hoặc Đức “Đạt Lai Lạt ma” mới biết làm, mà: tất cả quần chúng từ vua quan, lãnh chúa đến thứ dân, lớp du-mục ít khi học hoặc đám nông dân bình thường ít bày tỏ tư-tưởng này nọ, vẫn cứ làm.

Người Tạng hành-hương Kora, không chỉ để chứng-tỏ cho người khác biết: mình cũng hành-hương/hương hành nhiều tình tiết; nhưng, còn để tưởng nhớ đến bậc thày dạy dỗ, đồng hành với mình, trong cuộc sống.

Đồng hành đây, không mang nghĩa cùng tiếp bước “quân-hành/dân chạy” vào chốn mông lung, nguyện cầu, siêu thoát. Nhưng, là để tuyên dương/trân trọng bậc đàn anh đi trước vẫn làm gương cho mình về đường lối sống nhẹ nhàng, an vui, bình-dị.

Quả thật, người Tạng vẫn chấp-nhận làm dân “bị trị”, sống hiền-hoà tuân-giữ luật-pháp và “hoằng pháp” của nhà Phật theo kiểu Tây Tạng. Nhưng, nói chung thì: người Tạng đã làm gương cho nhiều sắc tộc và dân nước khác, bằng việc gìn-giữ môi-trường-sống ở nguồn nước sinh sống của thế-giới.

Họ làm thế, có thể, cũng vì cảm-kích với lời thơ/ý nhạc của nghệ sĩ “già” mà họ từng nghe như sau:

“Người đã vì ta, tan ước mơ.
Phấn son chưa ngát, thịt da ngà.
Môi non đã lỡ, tình đau đớn.
Mộng vữa theo trời, hoa phượng xưa.
Người chôn đời, mà ta đắng cay.
Cây im lá, và khói sương bay.
Chim treo mỏ, cóng trơ xuơng mục.
Sống đã chẳng cùng, chết sao hay.

Người ở đâu, ôi người ở đâu?
Cỏ xanh còn áp má, những đêm sầu.
Dế giun còn tiếc, mùa ân ái.
Từng phiến trời, mang bao vết thương …”

(Phạm Duy – bđd)

Tâm trạng người Tạng và của những người “bị trị” những 55 năm trời, vẫn bất khuất; và đó còn là tâm-trạng của người Do-thái khi xưa được kể ở Lời vàng nơi Kinh Sách, rất như sau:

Về việc phục vụ các người trong dân thánh,

tôi có viết cho anh em thì kể cũng bằng thừa,

vì tôi biết lòng hăng hái của anh em…

(2Cor 9: 1-2a)

Và:

“Nhiệt tình của anh em đã khích lệ rất nhiều người”…

(2Cor 9: 3)

Lời vàng ở trên, cốt minh-hoạ một điều là: niềm tin của con người vào thần thánh, và tình thương-yêu rất mực, vẫn là niềm tin và tình thương-yêu chính con người mình nữa. Hôm nay, lại có thêm câu hỏi đặt ra hôm trước, vẫn bảo rằng: niềm tin đây, có là niềm tin chân-phương bất chấp mọi hoàn-cảnh và sự đời hay không?

Bần đạo đây, mỗi khi lai rai viết phiếm, thường không dám đi thẳng vào câu trả lời, nhưng chỉ đưa ra một vài sự việc hoặc sự kiện liên-quan đến sinh-hoạt sống của mình và của người, mà thôi.

Về sinh-hoạt của bần đạo, thì: chỉ lai rai phiếm “loạn xạ” đôi ba kinh nghiệm ở đời, nhân chuyến du-lịch qua xứ Tạng đầu năm 2015 thôi. Khi về, cũng đã viết lên được đôi giòng tư-tưởng về chuyện hành-hương của người Tạng, miền cực Bắc xa xôi, chốn ấy.

Mới đây, trên đường về với cộng-đoàn họ đạo nhỏ ở Sydney, bần đạo lại bắt chụp một giòng chảy khác từ vị lãnh-đạo Tổng giáo phận Sydney, những bảo rằng:

“Gm Anthony Fisher, OP đã từng nói sau ngày nhậm chức Tổng giám mục Sydney rằng: Hội-thánh ta sẽ không có chính-nghĩa, nếu cứ bai-bải chối cãi hoặc che-đậy mãi các  chuyện xấu của mình. Và, ai là nạn-nhân các vụ xách-nhiễu tình-dục phải đưa ra ánh-sáng, cách nào sớm nhất. Cụ thể là, hôm 18/9/2014 ở Sydney, Gm Anthony Fisher có nói: “Hội-thánh Chúa ở Úc phải tự-kiểm và để quần chúng phê-bình kiểm-điểm mình nữa. Bản thân tôi hy vọng rằng: bằng vào động-thái tách-bạch và khiêm-hạ như thế, Giáo-hội sẽ nảy-sinh ra tình-huống xót thương và ái-ngại đầy linh-đạo. Đặc biệt hơn, giới trẻ của ta, nay không chỉ là tương-lai Giáo-hội mà thôi, nhưng sẽ là và còn là thành-phần quan-trọng trong Giáo-hội, ngay lúc này.” (Gm Anthony Fisher, OP trả lời phóng viên AAP hôm 18/9/2014)

Trước đó 2 ngày, Đức Phanxicô cũng nhắc đến niềm hy-vọng của Giáo hội, bằng những lời lẽ rất thật như sau:

“Khi Chúa ghé thăm dân Ngài, Chúa đã tạo hy-vọng cho con người. Vâng. Bao giờ cũng thế. Từ xưa đến nay, Giáo-hội vẫn có nhiều bậc thày giảng dạy suốt giòng-chảy lịch sử. Nhưng, nếu các bậc thày ấy lại không gieo vãi hạt-giống hy-vọng, thì lời rao giảng của các ngài cũng trở-thành hư-luống. Những lời như thế chỉ là hư ảo, thôi.” (trích chia-sẻ Tin Mừng của Đức Phanxicô tại thánh đường Santa Maria hôm 16/9/2014).

Về với phiếm đạo lâu nay, bần đạo quyết tìm đến lời vàng của các bậc vĩ nhân hiển thánh ở đây đó, để tạo giòng chảy đầy những phiếm, mỗi khi cần. Bất chợt, bần đạo gặp được bài quan-điểm của một cây viết trẻ chuyên lo cho tờ The Australian Catholics rất hay như mọi ngày. Và, trong số báo The Australian Catholics mùa Giáng Sinh 2014 vừa rồi, khi bàn về “niềm tin và sự sống”, tác giả Michael McVeigh cũng đã viết:

Các bạn cũng như tôi, ta học được nhiều thứ từ các câu-lạc-bộ bóng bầu-dục luôn đấu-tranh giành lấy cho mình, nhiều thắng-lợi. Bạn cũng như tôi, ta đấu-tranh học đòi thưởng-thức mùi vị chiến-thắng dù nhỏ nhoi, còn hơn chỉ biết ghi những bàn thắng và thắng ở trận đấu.

Thêm vào đó, ta vẫn thầm-phục/cảm-kích những vị từng đấu-tranh giành lại cho mình động-thái lướt-thắng mọi hạn-chế, rất dễ nhận. Phần lớn thời-gian sống ở đời, ta học được cảm-giác khá lạ-kỳ khi nếm mùi thất bại, đó lại là hy-vọng cần có để tiến tới. Hy-vọng ấy, có  thể, sẽ hằn in trên giấy trắng mực đen và cả trên sân cỏ, hoặc có khi lại cũng bị quăng/ném đi nơi khác bằng những cú đá khởi đầu trận hoặc bằng bàn thắng vào phút cuối quyết tạo vinh-quang cho người chiến-thắng cả trận đấu. Và, ở các trận đấu tiếp theo đó, hoặc mùa bóng kéo dài ở năm sau, thì niềm hy-vọng sống động vẫn hiện-diện nơi mọi người, trong đời.

Điểm chính-yếu của niềm hy-vọng là ở chỗ: mức-độ tuyệt-vọng càng sâu, ta càng có nhiều sức để cảm-nhận và tùy thuộc vào nó, nhiều hơn nữa. Điều làm cho hy-vọng trở-thành quà-tặng lớn-lao từ Thiên-Chúa còn ở điểm: nó không nhắm vào người thắng trận cho bằng vào người thua cuộc, bại trận vẫn thấy đầy trên thế-giới.

Hy vọng rằng, là chủ-đề mà bạn và tôi thấy rõ ở trang kế-tiếp số báo này, kỳ thực là ‘điều tốt đẹp’ trong đời. Là, quà-tặng quí giá từ Chúa, gửi đến ta.” (x. Michael McVeigh, The Australian Catholics số Giáng Sinh 2014, tr. 5)

Người trẻ nào đó, nếu cậy nhờ bần-đạo diễn-tả thêm tư-tưởng của biên-tập-viên nói trên bằng lời-lẽ rất “tiếng Việt”, thì bần đạo đây xin diễn và tả bằng ý/lời của các cụ khi xưa vẫn cứ bảo: “Thất bại là mẹ thành công!” thôi.

Và, nếu có bạn trẻ nào khác lại cứ hỏi: chuyến tham-quan nước Tạng vừa qua, có đem lại cho bần đạo niềm hưng-phấn nào đó không? thì bần đạo đây lại xin nói theo và nói dựa một bạn viết khác cũng trên tờ The Australian Catholics số Giáng Sinh 2014 thêm một chuyện, theo dạng “Thư gửi diễn viên điện-ảnh Robin Williams” như sau:

“Robin thân mến,

Tôi thật rất buồn, khi hay tin bạn qua đời cách đột ngột, vào tháng 8/2014 vừa qua. Nhiều năm về trước, khi suy tính nên mời ai gọi ai đến dự tiệc do mình tổ-chức, tôi thường nghĩ đến bạn và ghi tên bạn lên đầu danh-sách khách mời của tôi.

Tôi quen tưởng-tượng rằng: nhiều lần, bạn cũng có dịp ngồi cạnh thi-hào lừng-danh thế giới là William Shakespeare, đến độ hai người đều đã hiểu rõ tâm-trạng nhau khi diễn-xuất hoặc diễn-đạt tính hài-hước, lập-dị và chộn-rộn đầy tính người, như cuộc đời.

Có lần, tôi còn tưởng tượng rằng: ngay tổng thống Nga Vladimir Putin cũng đã ngồi chung thân mật với bạn, tựa như thế. Tưởng tượng vậy, chỉ để xem bạn tuy kề-cận, nhưng chẳng ai biết là bạn có dám cười vào mặt ông ta không. Thật ra thì, theo kinh-nghiệm của riêng mình, tôi không thấy có gì lạ khi phải ngồi cạnh một người chẳng có tính hài-hước bao giờ hết.

Lúc bạn sinh thì, người hâm-mộ tài-nghệ của bạn gia tăng cũng rất nhiều, lại đã tung lên mạng một chi-tiết về thời-gian mình phải giáp mặt bạn bè hoặc đồng-nghiệp sừng sỏ, cứ tìm mình để hỏi những câu đại để như: sao tôi chẳng bao giờ thấy bộ mặt nghiêm-nghị của bạn bao giờ thế? Thoạt khi ấy, tôi thấy bạn trả lời  rất rõ, không sai một chữ: “Tôi cũng tự-hỏi: ông cũng thế, sao ông chẳng bao giờ có tính hài-hước vậy thế?” Theo tôi thì, cả hai câu hỏi cũng đều quan-trọng như nhau. Bởi, tất cả có hỏi han gì cũng chỉ để mọi người hiểu được rằng: đời người, vẫn có nhiều kiểu vui tươi/hài hước được các nghệ-sĩ hài như bạn đây mang đến cho mọi người. Cuối cùng thì, ai cũng có cảm giác rất buồn khi thấy ít khi nào bạn mang lại niềm vui cho chính mình, hết.

Có lần bọn trẻ nhà tôi say mê xem phim truyện Peter Pan, nhưng cứ quên bẵng nhiều chuyện rồi buột miệng nói chữ “Hook” nổi tiếng do bạn đặt ra. Bạn cũng còn biến-đổi bản-tính ác độc, bẩn thỉu của con người thành chuyện cười để cho vui một cách rất thành công. Giả như ta có thể cười thầm trong bụng khi gặp tay côn-đồ nào đó rất hung-ác, thì thế giới này sẽ thôi không trở thành chốn sống đầy đe-doạ nữa. Và theo tôi, giới trẻ ngày nay vẫn cần đến thứ quà tặng trời cho mà bạn vẫn trao tặng mọi người.

Tôi rất thích xem các phim do bạn đóng vai chính mang tên là “Mrs Doubtfire”, từ năm 1993 cứ chiếu đi chiếu lại suốt trên truyền hình, ở đây. Phim này diễn tả tâm-trạng của một người cha thương-yêu con mình đến buồn cười. Và, khi nhân vật chính trong phim là Daniel quyết ly-dị vợ để xem sự-thể trong nhà mình sẽ ra sao, anh bạn bèn trá-hình làm chị giúp trong nhà, để mỗi ngày còn được nhìn lũ con trong căn nhà mình từng sống. Ý của anh bạn, là cố tránh không cho người nào trong nhà biết chuyện mình giả-dạng làm chị giúp việc, để làm trò cười mua vui cho thiên hạ, mà thôi. Nhưng, bên cạnh đó, lại có yếu-tố rất cảm-động. Và, đó cũng là chủ-đích đóng giả vai người nào đó, cốt đánh bật tâm-tính tốt đẹp của người cha trong nhà tên Daniel, trong truyện. Truyện phim, đã gửi đi khắp thế-giới một thông-điệp mang ý-nghĩa thật rõ nét. Thông-điệp đó có nói: đôi lúc sống ở đời, người người cũng nên thay-đổi tận gốc rễ, nếu quả tình mình muốn duy-trì những gì cần thấy rõ nguyên hình, ngọn ngành như thế. Và, Daniel có lần nói: chìa khoá giúp cho hôn-nhân gia-đình được vui tươi, tốt-đẹp, chính là nụ cười…

Robin thân mến,

Tôi đây vẫn muốn sẻ san với bạn một yếu-tố từng cho thấy rõ rằng: niềm tin nơi Thiên Chúa cũng từng làm nhiều điều cho riêng tôi, giống như thế. Niềm tin vào Chúa, đã giúp tôi thấy được một thế-giới theo đường-lối ít rõ ràng như thể nó vẫn đem tôi ra khỏi con đường mòn trở thành ngõ hẻm rất chật hẹp do tầm nhìn của mình về sự sống. Tôi vẫn thường tin tưởng rằng: cuộc sống của mọi người là câu chuyện hài-hước rất buổn cười do Thiên Chúa kể để gia-đình nhân-loại được vui, mà thôi. Điều này đâu có nghĩa là ta phải đối xử với nhau sao cho nhẹ nhàng, êm ái. Ngược lại, cũng như bạn từng cố gắng diễn-hài theo mức độ tuyệt-hảo nhất, cuộc sống của ta luôn phải là chuổi ngày ta sống quyết giúp mọi người tìm được sự khôn ngoan hiểu đời, cho thấu. Mỗi thế thôi.

Chào bạn,

Michael McGirr

Viết tứ Úc.

Cũng thế, trong khi “nhoài người” trên bàn phím ví-tính để kiếm tìm giòng tư-tưởng hay-ho và kỳ lạ có mang ý-nghĩa của niềm hy-vọng cần có trong đời mình, bần đạo đây bắt gặp đôi tâm-tình đầy cảm tính của Anthony Trần viết về một cảm-nghiệm còn rớt lại đến bây giờ khi xem phim “Doctor Zhivago” vào dạo đó.

Nói khác đi, thì: vào lúc trích dẫn bài ‘Đi Tây – du ký viết cho riêng mình”, Anthony Trần cũng nhớ đến tâm-tình tràn ngập khi lưu lại ở nhà khách Château Richeux vùng Cancale, nước Pháp năm 2010. Và dư-âm của bài hát “Hỡi Người Tình Lara” cất lên trong đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 17/11/2014 vẫn còn đọng lắng nơi tâm-tưởng mãi đến hôm nay, như sau:

“Riêng tôi, lúc lên phòng nghỉ ngơi thì lòng lại không khỏi nhớ đến bộ nến thắp soi trên bàn ăn của nhà hàng.  Nằm trằn trọc giữa canh khuya trong căn phòng tịch mịch, soi lại những thước phim từ quá khứ chầm chậm quay về, tôi bồi hồi nhớ lại hình ảnh những cây đèn cầy trong phim Bác sĩ Zhivago tôi đã xem từ thuở hoa niên, hàng mấy chục năm về trước.

Trước khi bộ phim kết thúc, tôi không bao giờ quên được cảnh bác sĩ Zhivago thắp lên hàng bạch lạp trong gian phòng lạnh lẽo cho người tình Lara kiều diễm, để rồi hai người sẽ mãi mãi cách xa nhau từ đó.  Nhìn những ngọn nến vẫn cháy như nhau, nhưng tâm sự người thắp nến biến đổi theo từng ánh nến.  Lúc thì muốn ‘thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt’, lúc thì muốn ‘le lói suốt trăm năm’.

Sự dằn vặt lựa chọn giữa cái ‘phút chốc’ và cái ‘trăm năm’ ấy chính là tấn bi kịch của một cuộc tình, và của cả một đời người.  Lúc ấy, nhạc phim “Hỡi người tình Lara” đột nhiên trỗi lên ray rứt trên màn ảnh, chiếu cảnh tuyết rơi phủ đầy chiếc xe ngựa đưa người yêu Lara xa khuất dần giữa trời đông bão tuyết.  Hình ảnh cuối cùng còn lưu lại là những ngọn nến cháy trên bàn, tàn tạ với thời gian.

Bộ phim đã khiến tôi tìm đọc cuốn tiểu thuyết của nhà văn Boris Pasternak đã được Nguyễn Hữu Hiệu chuyển dịch ra tiếng Việt vào năm 1973 với nhan đề “Vĩnh biệt tình em”.  So sánh tiểu thuyết với bộ phim, tôi vẫn thích bộ phim hơn, chỉ vì dịch giả đã bỏ hẳn những đoạn miêu tả ngọn nến đẹp não nùng như trong phim.  Có lẽ nhờ vào tài diễn xuất của tài tử Omar Sharif trong vai bác sĩ Zhivago, Julie Christie trong vai nàng Lara, và nhất là nhạc nền của Maurice Jarra.  Xem đi xem lại nhiều lần, tôi cố đoán xem ngọn nến cháy ấy tượng trưng cho điều gì.  Tình yêu vĩnh cửu?  Niềm hy vọng tràn trề?  Hay đấy chỉ là đôi mắt ráo hoảnh của Thượng Ðế?  Có phải Ngài thấy hết, biết hết nhưng Ngài vẫn im lặng, vô cảm như ngọn nến cháy trên bàn kia chăng?

Cuối cùng, tôi đã hiểu ra rằng tại sao vị bác sĩ đa tình và nàng Lara xinh đẹp kia, tuy chia tay nhau mà họ vẫn còn yêu nhau thắm thiết.  Ðó là nhờ họ đã biết thắp cho nhau những ngọn nến cháy mãi trong tim, để giúp nhau vượt qua những đêm đông của một đời người.  Với mỗi người chúng ta, dù cho cuộc sống có đầy chông gai khó khăn đi nữa, vẫn phải cố gắng phấn đấu vươn lên.  Vẫn phải sống vì chính bản thân mình, vì gia đình và vì xã hội loài người.  Hình ảnh ngọn nến bé nhỏ cháy trên bàn giữa cơn bão tuyết, chính là ngọn nến hy-vọng khích lệ cho chúng ta hãy sống cho có ích, dẫu kiếp đời còn lắm gian truân, thử thách.”

Phiếm Đạo hôm nay, lại có truyện kể để đọc cho vui và cũng để minh-hoạ cho những điều mình viết về hy-vọng cần có trong đời, bần đạo lại bắt gặp thêm một truyện kể lại để san sẻ với bạn đọc, cho hết ý.

Thật ra thì, phiếm-Đạo-giữa-đời không chỉ là tìm về với những lý-luận cứng ngắc về thần-học hay tu-đức, mà còn để phiếm lai rai hầu chuyện mọi người bằng truyện kể nhẹ như sau:

“Một nghệ sĩ xiếc tài danh đã tham gia một cuộc biểu diễn khó khăn nguy hiểm chưa từng thấy. Anh là nghệ sĩ thăng bằng chuyên đi trên dây.

Lần này, người ta căng ngang hai sườn núi đá một sợi giây thép. Phía dưới là vực thẳm. Lòng vực lởm chởm những đá tai mèo nhọn hoắt như cắm chông. Người biểu diễn phải đi từ sườn núi bên này sang sườn núi bên kia trên sợi dây thép.

Nghệ sĩ đã bước tới một đầu dây, ngước mắt nhìn sang phía đầu giây bên kia, chừng như ước lượng mục tiêu. Sau đó, anh giơ ngang hai cánh tay để lấy thăng bằng. Bàn chân đã đặt trên dây. Và rồi từng bước ngắn, từng bước ngắn một, anh đi trên dây, dần dần cách xa bờ núi.

– Tôi xin biểu diễn một lần nữa. Lần này tôi sẽ trói chặt hai tay lại và đi trên dây!

Nghệ sĩ tuyên bố cách thức đi trên dây với tòan thể khán giả. Thật lạ kỳ, chúng ta ai cũng hiểu rằng, đi trên dây cần phải dang hai tay để lấy thăng bằng, nhưng nghệ sĩ đã tuyên bố trói tay lại để không cần giữ thăng bằng bởi hai tay. Dây căng cao nhường kia. Vực thẳm với những mũi đá tai mèo nhọn hoắt đâm lên tua tủa. Trói tay lại, không cần lấy thăng bằng đi qua dây thì ai tin được! Nhưng vì nóng lòng muốn biết kết quả, cho nên khán giả đã đồng thanh gào lên:

-Hoan hô! Chúng tôi tin nghệ sĩ! Anh là người đại tài!

Chờ tiếng reo hò lắng xuống, nghệ sĩ dùng một sợi dây, nhờ người buộc chặt hai tay quặt ra sau lưng. Anh bước tới đầu dây, lặp lại những bước đi thận trọng như lần trước. Cuối cùng anh đã bước qua vực thẳm với hai tay trói chặt. Anh đã biểu diễn lần thứ hai thành công một cách không ai có thể ngờ được. Tiếng trầm trồ thán phục, tiếng vỗ tay cổ vũ lại vang lên.

Chợt tiếng loa lại vang lên và tiếng vỗ tay im bặt. Mọi người chú ý nghe nghệ sĩ nói:

-Tôi xin biểu diễn lần thứ ba. Lần này tôi cũng trói chặt hai tay, nhưng dùng vải đen bịt mắt và đi qua dây vượt sang sườn núi bên kia. Xin hỏi mọi người có tin tưởng rằng tôi sẽ làm được hay không?

Một rừng cánh tay giơ lên và tiếng trả lời:

-Chúng tôi tin anh! Chúng tôi tin anh! Anh là người đại tài. Nhất định anh sẽ làm được!
Sau những câu trả lời như hô khẩu hiệu của khán giả ở hai bên sườn núi là tiếng vỗ tay như pháo nổ.

Nghệ sĩ rút trong người một tấm khăn đen, nhờ người trói tay, bít mắt mình và dẫn tới đầu dây.

Cả không gian như lắng xuống. Không một tiếng động, không một tiếng nói. Mọi người như nín thở dõi theo từng bước chân nghệ sĩ đặt trên dây. Một bước, hai bước,… thận trọng và ổn định, cuối cùng anh cũng bước sang tới sườn núi bên kia. Anh đã thành công vượt trên mọi sự tưởng tượng của mọi người, không còn một lời nào đủ sức ngợi ca khả năng tài tình của người nghệ sĩ.

Cuộc biểu diễn có vẻ như còn chưa kết thúc. Người ta thấy nghệ sĩ chen lẫn vào đám đông, rồi trở ra với một chú bé con chừng năm tuổi đang chễm chệ trên vai. Chú bé xinh xắn bụ bẫm, một bàn tay xinh xắn ôm lấy trán nghệ sĩ, một tay giơ cao vẫy vẫy, miệng nở nụ cười tươi như hoa. Có vẻ như chú bé đã quen tiếp xúc với đám đông và muốn cùng mọi người chia sẻ những niềm vui. Tiếng hoan hô lại vang dậy. Rồi tiếng loa lại vang lên:

-Thưa quý vị! Đây là con trai yêu quý của tôi. Tôi sẽ kiệu con trai tôi trên vai để hai cha con cùng biểu diễn đi trên dây. Lần này tôi cũng trói chặt hai tay không cần giữ thăng bằng. Cũng dùng vải đen bịt mắt. Quý vị có tin rằng chúng tôi sẽ thành công hay không ?

-Tin tưởng! Tin tưởng!

Mọi người lại hô vang và cùng vỗ tay rầm rộ.

-Có tin tưởng thật không?

-Tin tưởng! Anh là một người đại tài! Nhất định anh sẽ thành công! – Mọi người đồng thanh trả lời.

-Xin hỏi lại một lần nữa. Mọi người có thật sự tin tưởng hay không?

-Thật sự tin tưởng! Chúng tôi tuyệt đối tin tưởng vào anh! Anh là một người đại tài.

Chúng tôi thực sự tin chắc anh sẽ thành công.

Tất cả mọi người đều đồng thanh trả lời và rồi tiếng vỗ tay lại vang lên hai bên sườn núi. Tiếng reo hò, cổ vũ, tiếng vỗ tay vang lên cùng với tiếng vọng của vách núi tưởng chừng không dứt, đến nỗi những đàn chim trong rừng cây trên hai dãy núi đều vụt bay lên, tán loạn như muốn trốn chạy.

Cuộc biểu diễn có một không hai trên đời còn chưa bắt đầu thì tiếng vỗ tay, tiếng reo hò cổ vũ lại nổi lên tưởng chừng như không dứt.

Tiếng loa lại vang lên làm cho mọi tiếng reo hò ngừng bặt:

-Tốt lắm! Mọi người đều đã thực sự tin tưởng tôi. Xin chân thành cám ơn.

Nghệ sĩ đặt chú bé xuống đất và nói tiếp:

-Bây giờ xin đổi một cháu bé khác, con của một ai đó trong các quý vị. Vậy ai bằng lòng cho tôi mượn một cháu bé, trai hay gái cũng được. Chúng tôi xin hứa nhất định sẽ thành công. Xin hỏi ai bằng lòng cho tôi mượn một cháu bé?

Lúc này cả núi rừng đều im bặt, chẳng thấy một ai dám hô lên lời tin tưởng nữa.” (Theo Triết Lý Cuộc Đời của Nguyễn Đình Cửu)

Thành ra, triết-lý đời người vẫn cứ lặp đi lặp lại niềm hy-vọng cần thiết để người người sống vui, sống khoẻ, sống thoải mái hầu tiến về phía trước, rất hăng say.

Cũng tựa như người nghệ sĩ hôm nào vẫn hát những ca-từ sau đây:

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.
Ta dối gian nhau, nên nát nụ hôn đầu.
Tình đi từng bước, đi từng bước trên đầu gió.
Gieo xuống lòng nhau, ôi từng hạt thương đau”.

(Phạm Duy – bđd)

Ca-từ đây, tuy mang chút “thương đau” của nghệ-sĩ nào đó từng cảm-nghiệm, nhưng cũng là giòng chảy dấy lên niềm hy-vọng gửi đến cho đời. Và cho người.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng từng thấm đậm

Hạt thương đau như thế

Nhưng vẫn thấy đời mình và đời người

đầy niềm vui hy vọng gửi đến với mọi người.

“Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

“Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

“Hóng mát cho lòng được thoả thuê.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 1: 12-15

Mai Tá lược dịch

“Sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Vào chốn hoang vu/sa mạc, làm gì có chuyện “hóng mát, cho lòng được thoả thuê”! Thế nhưng, đi vào tuần đầu Mùa Chay, lại sẽ thấy thi-ca cũng như Phụng-vụ Đạo CHúa, vẫn cứ nhủ: “Bên Em, mỗi lúc trên đường cái”, còn có những cảnh tình, tựa như: “Anh thường gửi gắm mối tình quê.”

Tình quê ở nhà Đạo hôm nay, lại sẽ thấy ở nơi nơi, người người như đi vào chốn hoang vu/sa mạc này nọ, người người vẫn có sứ vụ rất khẩn cấp để có thể sống đời an vui, trầm lắng, chốn nợ đời.

Trình thuật Tin Mừng Marcô, ta nghe kể là Yêsu Đức Chúa đã trầm mình trong chốn hoang vu xa vắng, những bốn mươi ngày. Cả vào năm cuối cuộc đời trần thế, khi chấp nhận xả thân chịu chết cho nhân lọai, Ngài đã bước ra khỏi chốn thị thành, để vào nơi gian khổ ở đó có cái chết trơ trọi đang đợi Ngài trên khổ giá, nơi đồi cao, chốn vắng, một Gôngôtha sừng sững, rất khô cằn đến tận cùng mặt đất. Và, ở cả hai nơi, Yêsu Đức Chúa đều bị thách thức, gạ gẫm nhưng đã trỗi dậy: dậy lên trong yêu thương; vùng lên với chiến thắng.

Với Tin Mừng thánh Mar-cô, ta không thấy tác giả đề cập đến những gạ gẫm của Satan nơi hoang vu xa vắng một cách đậm nét. Nhưng, với thánh sử Lu-ca và Mat-thêu, hố sâu thiếu xót và cách biệt ấy đã được khỏa lấp, bù trừ. Và, thánh Mar-cô kể rằng: quần chúng nhiễu nhương dám hỗn xược khích bác, gạ gẫm Đức Chúa, dụ Ngài hãy rời bỏ thập giá trèo xuống, tự cứu lấy mình khỏi thứ “diệu đế” cuối cùng, đày đọa.

Nơi hoang địa đầu đời, Yêsu Đức Chúa được thần sứ phù trợ, đã ra khỏi tình huống suy sụp và Ngài đã trỗi dậy bằng câu tuyên sấm để đời rằng: “Nước Chúa đã gần kề”.  Tại đồi hoang vào phút cuối, Ngài đã được môn đệ, bạn hữu đỡ nâng để đi hết đọan đường gian khổ, hầu làm chứng cho Nước Trời mà Ngài hằng tuyên bố.

Rõ ràng, trong các trình thuật vừa kể, đồng hoang cỏ cháy và cơn gạ gẫm, khuyến dụ vẫn cứ đuổi đeo Yêsu Đức Chúa dọc suốt hành trình ở với trần gian. Đây là điểm son then chốt đã ủi an đoàn con thân thương vốn đã khổ đau, sầu thảm. Phần đông chúng ta có lẽ chẳng cần ra ngoài, tìm nơi hoang vu địa đạo để cảm nghiệm tình huống sầu khổ, đớn đau có những khích bác, khuyến dụ. Càng sống trong tình huống cụ thể, ta càng gặp nhiều cơn khích bác, gạ gẫm dẫn đưa ta đến nơi đổ vỡ, thất vọng.

Xét kỹ bản văn Kinh thánh, các truyện thần thoại, cũng như văn chương, nghệ thuật, phim ảnh trình chiếu, có hai yếu tố đã xuất hiện, thật rõ nét. Trước nhất, ai cũng thấy rằng: sa mạc hoang vắng có thể là nơi khuyến dụ điêu tàn, nhưng tiêu vong đã khiến nhiều đại anh hùng khi xưa cất bước lãng du mà không thấy có ngày trở về.

Thứ đến, theo truyền thống thiết thực, hành trình vào chốn vẫy gọi của nơi quạnh hiu, sa vắng đầy cát nóng với những gian truân nhưng cũng đã tạo nhiều thoả thuê, thoải mái vì ở nơi đó ta vẫn đón nhận nhiều mặc khải cũng như cải biến hoặc vui sướng, giải khuây. Cả hai yếu tố trên không nhất thiết đối chọi, xung khắc tiêu diệt lẫn nhau; nhưng đã bổ túc nhau một cách hài hòa.

Lấy trường hợp của Đức Chúa làm mẫu mực, ta thấy không nhất thiết phải buông xuôi, bỏ cuộc trước một gạ gẫm cho rằng chốn hoang vu sa mạc chỉ gồm những mất mát khổ đau, mà thôi. Mặc dầu là thế, ta vẫn cần tìm ra con đường thân thương đầy thuyết phục hầu có thể trỗi dậy, cất cao đầu lên mà thưởng ngọan những kinh nghiệm quý báu, tích tụ.

Điều quan trọng, là: ở nơi sa mạc rất riêng của mỗi người, không phải mọi gạ gẫm, khuyến dụ đều mang sắc mầu tội lỗi. Khi bị gạ gẫm, khuyến dụ không có nghĩa là ta đang thực hiện điều xấu do người nào xúi giục, bảo ban. Gạ gẫm là những quyến rũ, được tô vẽ cho thêm mầu rực sáng nhằm thúc đẩy người bị dẫn dụ có những quyết định nghiêng hẳn về mặt xấu.

Trên thực tế, rất nhiều điểm đã phát giác ra trong đời sống tu đức của các thánh, là: các ngài càng gần gũi với Đức Chúa của tình yêu bao nhiêu, thì những gạ gẫm, khuyến dụ đủ mọi lọai hình càng gia tăng bấy nhiêu. Tuy nhiên, có điều may là chúng ta vẫn được giáo huấn để biết cách đối phó với những tình huống gay go.

Cứ sự thường, gạ gẫm khuyến dụ thường có bối cảnh và huyền sử riêng. Các tình huống như thế chỉ xảy đến khi ta có cảm giác xa vắng, lạnh lẽo, dễ tổn thương. Và, các tình huống cám dỗ thường đánh mạnh vào yếu điểm của con người rất hay để lộ sơ hở trong cá tính rất thực của mình.

Muốn chống lại những tình huống như thế, cần đề cao cảnh giác về các mô hình kiểu mẫu của chúng, tức gạ gẫm, khuyến dụ thường dối gạt, đưa ta vào chốn mê hồn trận để ta tin tưởng rằng hành vi, thói tật mà ta say mê cũng “không đến nỗi quá tệ, chẳng tội lỗi gì đâu”, “chỉ một lần, thôi mà..”, hoặc “cũng chỉ là lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi”…

Mặt khác, gạ gẫm, dẫn dụ còn có khả năng nhận ra các hiểm nguy hiện có trong đời mình hầu đánh vào điểm yếu của mỗi người, khiến ta trở tay không kịp. Mệt mỏi, chán chường, giận dữ, rượu chè, ma túy, mất cảnh giác, thiếu khả năng đối thọai cảm thông và niềm tự tin quá thấp, vv.. đều là thực tế phũ phàng đưa ta đến tình trạng dễ phơi bày bộc lộ, hay bị tổn thương hơn lúc bình thường.

Mùa chay năm nay, khi quyết tâm theo Chúa đi vào chốn hoang vu, xa vắng đầy ý nghĩa này, ta hãy làm những gì khả dĩ giúp mình trỗi dậy từ những tự ti, yếu mềm, thiếu trông cậy, thiếu tin tưởng… ngõ hầu ta có thể đối phó với cơn giận dữ, chán mệt. Hãy tự kiểm điểm xem, trong thời gian qua, ta có làm việc quá hăng say chẳng kể sống chết, hoặc có ăn uống quá độ chẳng hề cữ kiêng, tạo công ích. Hãy hạ quyết tâm sẽ bớt đi cho nhau những tình huống gây trầm tư, khổ não, hoặc cãi vã, đấu tranh, giành giựt.

Ngược lại, cương quyết thực hiện phương cách tốt đẹp nhất để đảm bảo rằng chúng ta sẽ trỗi dậy, rời khỏi chốn hoang vu, xa vắng hầu biến cải cuộc đời, cho tốt đẹp hơn. Ta sẽ không trầm mình trong chốn khổ đau, không tạo ra hoang địa, phân rẽ gửi đến cho nhau nữa.

Vào nơi hoang vu, xa vắng không phải để lòng mình được chay kiêng, tâm được tịnh mà thôi; nhưng, còn để ta trỗi dậy hòa nhập với cộng đồng người thân cũng một tâm trạng. Cộng đoàn đang ngóng chờ ta quay lại từng giây từng phút. Và, đấy chính là ý nghĩa của mùa sám hối, phục thiện. Hối cải những gì đã sơ xuất. Hồi phục những gì rất thiện. Thiện đây là tình thân thương không chỉ với Chúa, với Mẹ mà cả với người anh em cùng nhà, xa ngõ.

Cầu Chúa cho ta thực hiện cuộc sống trỗi dậy và dâng trào. Mong an bình sẽ lại đến với ta, với muôn người. Và, mọi người.

Trong nguyện cầu Chúa giúp ta thực hiện cuộc sống như thế, ta hãy cùng nhau ngâm lại lời thơ, rằng:

“Từ gió xuân đi, gió hạ về,

Anh thường gửi gắm mối tình quê.

Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

Hóng mát cho lòng được thoả thuê.”

(Hàn Mặc Tử – Âm Thầm)

Vâng. Quả cò thế. Trong đời người, mỗi lần có gío xu6an đi, gió hạ về, thiết tưởng cũng cứ nên gửi gắm “mối tình quê” đến với mọi người, ở mọi nơi, dù nơi đó có là chốn hoang vu, sa mạc rất cuộc đời, ở mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Ngày tình yêu thánh

Ngày tình yêu thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (14.02.2015) – Sài Gòn – Ngày 14 tháng Hai hằng năm là Valentine’s Day – Ngày Tình Yêu hoặc Ngày Tình Nhân. Ngày này dành cho những người hẹn hò yêu đương với nhau. Nhưng ngày này nhắc nhở bạn về tình yêu tâm linh, tình yêu bạn dành cho Chúa Giêsu. Như vậy, Valentine’s Day phải là Ngày Tình Yêu Thánh đối với các Kitô hữu chúng ta.

150214001

Thánh nữ “bông hoa nhỏ” Têrêsa đã gọi Chúa Giêsu là Đức Tình Quân. Mỗi chúng ta đều có cuộc “hôn nhân mầu nhiệm” với Chúa Giêsu. Tại sao chúng ta phải yêu mến Ngài? Đây là 10 lý do xác định Chúa Giêsu là người yêu của bạn:

  1. NGÀI TRỢ GIÚP BẠN

“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:16-18). Chúa Giêsu không bỏ mặc bạn một mình, Ngài giúp đỡ bạn qua Chúa Thánh Thần, Đấng giữ bạn đi trên đường ngay nẻo chính.

  1. NGÀI BAN SỨC MẠNH

“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:13). Thánh Phaolô biết rằng ngài có sức mạnh nhờ Chúa Giêsu hoàn tất công việc của thánh nhân. Ơn Chúa đủ cho chúng ta, chỉ cần chúng ta mở lòng ra đón nhận!

  1. NGÀI THEO ĐUỔI BẠN

“Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Chúa Giêsu theo đuổi chúng ta mọi nơi, muốn chúng ta là con cái Thiên Chúa và được trường sinh trong Vương Quốc của Thiên Chúa.

  1. NGÀI CHIẾN THẮNG TỬ THẦN CHO BẠN

“Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10). Chúa Giêsu chết trên Thập Giá để ban sự sống dồi dào cho bạn. Ngài ghét tội lỗi, bệnh tật và bất công, ghét đến nỗi làm cho ách của chúng ta trở nên thoải mái và gánh nặng của chúng ta trở nên nhẹ nhàng.

  1. NGÀI CẦU NGUYỆN CHO BẠN

“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:20-21). Bạn là phần lớn trong đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài luôn luôn là Đấng trung gian biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.

  1. NGÀI CỨU ĐỘ BẠN

“Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Chúa Giêsu cứu bạn thoát khỏi thung lũng tử thần và sự hủy diệt. Ngài đưa bạn vào Vương Quốc của Thiên Chúa bằng lòng thương xót của Ngài.

  1. NGÀI TUYỂN CHỌN BẠN

“Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:9). Chúng ta được tuyển chọn để làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu giáo dưỡng chúng ta suốt hành trình tâm linh và đưa chúng ta càng ngày càng lên cao.

  1. NGÀI BÊNH VỰC BẠN

“Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:33-34). Chúa Giêsu là Đấng bảo vệ và biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.

  1. NGÀI CHUẨN BỊ CHỖ Ở CHO BẠN

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14:2). Chúa Giêsu không để chúng ta mồ côi, Ngài về trời chuẩn bị chỗ ở cho chúng ta, rồi Ngài sẽ trở lại để đón chúng ta về với Chúa Cha.

10. NGÀI YÊU THƯƠNG BẠN

“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8). Đời đời Chúa Giêsu yêu thương bạn vô hạn, không chỉ trong ngày Valentine, mà Ngài làm cho bạn vui sống suốt 365 ngày.

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

Sứ mạng của người Việt tử tế

Sứ mạng của người Việt tử tế

Chuacuuthe.com

VRNs (13.02.2015) – California, USA – Thế nào là Người Việt Tử Tế?

Tử Tế có vài nghĩa chính: [a] có những gì phải có để được coi trọng; [b] hành động tinh-mật, rành rõi, cẩn mẫn, kỹ càng [Đào Duy Anh, Hán-Việt Từ-Điển]; [c] có lòng tốt trong cách đối xử đứng đắn, nhân đạo với nhau.

Vậy, ngay hai chữ “tử tế” tự nó có thể quy tụ những thành tố kết lực để định nghĩa Người Việt Tử Tế [NVTT]:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

150212001

Chúng ta cần khẳng định ngay, Người Việt Tử Tế không thể là người cộng sản, vì căn bản của người cộng sản đi ngược lại với tất cả các kết tố của NVTT. Hơn nữa cũng không thể chờ mong người cộng sản “biến hoá” thành NVTT, ngoại trừ trường hợp họ thực sự, thực tâm thoái đảng và bỏ hẳn lối sống và tư duy cộng sản.

Nhưng đồng thời, không phải bất cứ ai cứ “chống cộng” đương nhiên là NVTT. Giả thử người chống CSVN lại [a] ngoi theo chủ nghĩa phát-xít, độc tài quân phiệt hay [b] hùa theo đường lối khủng bố của bá đạo Cực-Hồi [ISIS/Islamic State of Iraq and Syria], hay [c] vẫn quen mui áp dụng thủ đoạn tố khổ, chụp mũ, vu khống của CSVN, thì rõ rệt, chống cộng như thế cũng chả hơn gì, vì vẫn đắm đuối trong vòng luẩn quẩn của tội ác triệt hạ đời sống và phẩm giá con người.

Trước đây, người Việt Quốc Gia đã có công mở đường tới ý niệm dân chủ tự do, trọng pháp, trọng nhân. Nhưng trong một giai đoạn quá ngắn và nhiều trở ngại binh đao bất ổn, người Quốc Gia qua hai nền Cộng Hoà đã không kịp vẹn toàn sứ mạng giao phó. Danh hiệu và chức năng “Quốc Gia” chỉ là hình ảnh ngón tay chỉ dẫn tới “Dân Chủ Tự Do Chân Chính Nhân Bản”, nếu ngón tay đó thực sự là một “mẫu mực” thẳng thắn, nghiêm chỉnh, nhân từ, chính đáng, đích thực dẫn đường tới “con người tử tế, chân chính”.

Nên ngón tay chưa phải là cái “đích tìm kiếm” hay ngưng lại tại đó. Chất Người Tử Tế Chân Chính của ý niệm “Quốc Gia/không Cộng Sản” mới là cứu cánh của cuộc hành trình tìm lẽ sống, lẽ phải.

Vậy, người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại thế giới tư do tân tiến đã thực hiện được những gì, sau 40 năm sinh sống thoải mái với đầy đủ phương tiện an cư lập nghiệp, an sinh xã hội, với đầy đủ thời gian [gấp 2 lần nền Cộng Hoà 1 và 2] để hội nhập nền dân chủ chân chính trọng pháp, trọng nhân?

Người viết vẫn tin rằng, sau 40 năm hấp thụ nền nếp dân chủ tự do nhân bản nơi tá túc; sau 40 năm học hỏi kiến thức cởi mở, đa nguyên, đa dạng; sau 40 năm kinh nghiệm làm người Việt tự do, tử tế, tự tin, biết rõ quyền hành và trách nhiệm của mình, đa số công dân Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đều cởi mở, thông minh và can trường hơn so với quá khứ đen tối trước đây.

Nhưng trong giai đoạn “chuyển tiếp” khá dài này, vẫn còn sót một thiểu số người Quốc Gia cực đoan, độc diễn với những thành tích không mấy rõ rệt, dẫm chân tại chỗ, tự mãn, không cần mở mang trí tuệ, bổ túc nhân cách; cùng không cần trau dồi kiến thức về mặt pháp lý và công lý nhân quyền, nên dễ trở thành độc đoán, độc tài, vô hình chung đã đi ngược lại với sứ mạng và đường lối Dân Chủ Tự Do Nhân Bản Chân Chính mà Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thực sự muốn tìm kiếm và hoàn tất.

Người Việt Tử Tế Là Mẫu Số Chung

Trong 40 năm qua trên mặt công luân, qua báo sách, truyền thông trên mạng, người Việt chúng ta đã bỏ quá nhiều công sức “Chống Cộng”. Đó là điều cần để bác bỏ, khai trừ một căn bệnh văn hoá ý thức hệ điên cuồng, ác liệt, phá hoại nhân phẩm và đời sống con người hơn 80 năm qua tại Việt Nam. Nhưng nỗ lực kêu đau, gào thét, mắng chủi này chưa đủ, vì khiếm khuyết đường lối “Vượt Cộng”, “Chữa Cộng”.

Nếu chỉ chuẩn bệnh và hô hào thật to đó là bệnh “Cộng Sản” mà không tìm cách giúp con bệnh “thoát bệnh”, giúp đương sự khoẻ mạnh lại thì vô hình chung người “chống cộng xuông” chưa phải là một “lương y” hoàn tất trách nhiệm cứu người bị CSVN ám hại. Một lương y, một y sĩ giỏi phải cấp tốc cho đơn thuốc điều trị bệnh và chỉ dẫn những biện pháp cần thiết triệt bệnh và ngăn bệnh.

Nếu chúng ta muốn xóa đói giảm nghèo ngay trong gia đình chúng ta, thì:

* Hãy bớt thì giờ kêu gào, than thân trách phận hẩm hiu, đói nghèo;

* mà lập tức học hỏi; tìm hiểu thế nào là sung túc, là an khang, thịnh vượng; là hãnh diện gia đình, là hạnh phúc con người biết sống ra sống, biết ăn, biết mặc;

* và từ đó tìm cách giải đáp nhu cầu, chu toàn cấp bách giải pháp sinh sống căn bản/tạo nghiệp/đầu tư nhân sự/phát triển toàn diện /trao đổi/tích lũy cho tương lai v.v.

Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại, những vị cựu tù nhân chính trị/tù nhân lương tâm, những thành phần tranh đấu, bất đồng chính kiến trong nước đều có thể đảm nhận nghiệp vụ “lương y”, [a] một mặt xác định rõ thế nào là căn bệnh “cộng sản”, nhưng lập tức [b] phải điều nghiên, thử thách, phổ biến thuốc men và phương pháp trị bệnh, ngừa “bệnh cộng sản”.

Người Việt Tử Tế tại Hải ngoại và trong nước là hiện sinh của giới “lương y” chữa bệnh cộng sản, khi đối xử với mình và tha nhân, khi quản trị việc công cũng như tư nghiệp với những nhận định và tiêu chuẩn như sau:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

Chỉ những Công Dân Người Việt Tử Tế, những đồng bào, đồng hương “Chúng Ta” khi nghiêm nghị, cẩn mẫn, biết rõ quyền thế và trách nhiệm của mình; biết rõ gốc gác & sứ mạng nhân từ của chính mình; biết rõ cách sinh sống thuận hoà, khiêm tốn, quân bình mới thực sử đảm nhận cuộc sống đầy đủ ý nghĩa ngày hôm nay; đóng góp phúc lợi cho tương lai dân tộc, cho con cháu chúng ta.

Chúng ta hãy đặt trọng tâm vào giai đoạn Làm Người Tốt. Đó là một thứ Đạo-Việt “tân-ước” hay cập nhật thành một Cách-Sống nhân bản tự tin, nhân chủ và dân chủ; thành trạm tới của Người Việt Tử Tế, cái bến tạm dung, nhưng toàn mỹ, toàn bích, an lành, khả chấp và khả thi.

Đó sẽ là Không Gian Tử Tế, mở và bao dung, không quá khích, không miệt thị, không kỳ thị. Tất cả Người Việt chúng ta không cần làm thánh, làm siêu nhân; nhất là không cần làm “hung thần”, hung tướng, mà chỉ cần hoàn tất đúng và đủ vị thế của những con người tử tế, chân chính, mạch lạc; từ bi và hùng dũng. Thế đã là đủ.

Vậy chúng ta hãy níu kèo lại chúng ta theo hướng đi đó, từng bước ngắn, gọn, rõ rệt, chân thật, công minh. Không dối lòng. Không dối mình. Không dối người. Không dối đời.

Và trước tiên không thể tự bôi nhọ minh, bôi nhọ tha nhân, bôi nhọ cuộc đời còn lại hay sắp tới.

Chúng ta đều trách nhiệm như nhau, hay ít ra sẽ phải “đối mặt” với ngần ấy hậu quả, ngần ấy vận mệnh, ngay trong cuộc sống tập thể hay quan niệm sống từng người, dù chúng ta nhập cuộc hay không nhập cuộc cũng vậy. Điển hình, chúng ta đã một lần mất nước. Biết thế nào là mất tất cả, dù muốn, dù không.

Nhưng xin đừng mất nốt dân tộc chúng ta.

Vậy, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống! Ít ra khi nhắm mắt sẽ không tiếc nuối đã bỏ lỡ cơ hội làm Người Việt Tử Tế.

Trân Trọng.

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM

(Trích bài Từ Quốc Hận 30 Tháng Tư Tới Sứ Mạng Chân Chính Của Người Việt Tử Tế)

TU TẠI GIA

TU TẠI GIA

Chuyện phiếm của Gã Siêu

Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này:

Có ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới nói:

– Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?

Nhà Truyền Giáo nói:

– Hai anh dành cho tôi vào trước được không?

Anh tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc:

– Chúng tôi xin nhường ngài vào trước.

Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu:

– Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên đàng trước.

Chúa ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha

Con giảng giáo dân ngủ gật gà

Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng

Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.

Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân:

– Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó.

Bác nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:

– Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm.

Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười:

– Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết.

Cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Xe đò chuyên chở khách đi xa

Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà

Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!

Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!

Anh tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa:

– Bẩm ngài, con được phép vào chưa?

Thánh Phêrô gật đầu và  nói:

– Con hãy vào trình diện Chúa đi.

Bác nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu:

– Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo!

Chúa nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán:

– Con quả thực có công lớn.

Rồi Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra:

– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay

Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!

Suốt bốn mươi năm con chịu nổi

Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.

Từ hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường:

– Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu…dòng.

Là con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng.

Tuy nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực hiện lý tưởng đời tu của mình.

Vì thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Các cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương được.

Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.

Ngoài ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.

Trước hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành và giúp đở lẫn nhau.

Hiện nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này?

Theo gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy, thánh nữ Têrêsa đã bảo:  Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc đời.

Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau. Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói: Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy.

Hy sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau. Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu. Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc dễ dàng.

Chuyện rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa đã gửi vào cuộc đời của ông ta.

Tiếp đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

Sống trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá thai.

Cùng với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động, nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn.

Tuy nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền, nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm, được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi.

Mặc dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa, nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết.

Ngoài ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ.

Làm sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền về nuôi sống chúng ta và gia đình.

Bởi đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần khuyên nhủ:

– Dạy con, con chớ quên lời,

Yêu cha mến mẹ suốt đời không quen.

Cũng trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết:

– Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Thuở xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng.

Ngày kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản:

– Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

– Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư?

– Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

– Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư?

– Thế thì Phật chết rồi sao?

– Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không?

– Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát mong.

– Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào:

– Ôi Đức Phật yêu quí của con.

Sau cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Người ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng ta càng phải yêu thương nhau hơn.

Hơn thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc,  được sinh ra bởi cùng một cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa lạ.

Tuy nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa.

– Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.

Nếu anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh.

Ông bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ:

– Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn  nhau. Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để không một ai có thể  chèn ép, bóc lột các con được.

Hình ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ, cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở lẫn nhau, bởi vì :

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Để kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.

Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp:

– Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à.

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Đôi lời: Bài báo: Bàn về “thị trường sao và vạch” là một trong những bài viết trên báo Người Cao Tuổi bị cho rằng đã vi phạm điều 258, tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức công dân”. Bài viết đã bị gỡ bỏ khỏi các trang mạng. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng lại bài viết này. Kính mời độc giả.

Lê Quang Tạo

1-4-2014

H1

Tuần qua nhiều báo đăng tin “Công an lên tướng, Quân đội cũng lên tướng”. Là một cựu chiến binh có 42 năm quân ngũ, có đôi điều tâm tư tản mạn (cũng là của nhiều đồng đội) về đề tài “Sao và Vạch”. Đây là một việc rất nhạy cảm, mà ít khi công khai.

Nhiều cán bộ lão thành, lão tướng qua hai cuộc chiến oanh liệt (chống Pháp và chống Mỹ) cứ phàn nàn rằng: Tướng phải ra tướng chứ bây giờ tướng nhiều quá!

Thật vậy: Nhớ lại kháng chiến 9 năm đánh Pháp, khi cuộc chiến sang giai đoạn mở các chiến dịch tấn công, Quân đội được tăng cường mọi mặt thì Bác Hồ, Chủ tịch nước mới phong hàm tướng cho một số chỉ huy chủ chốt: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình, các Thiếu tướng chỉ đếm trên đầu ngón tay – đó là năm 1948. Rồi 10 năm sau, khi các tướng cầm quân thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ 1954, Quân đội tiến lên chính quy và thiết lập chế độ quân hàm trong toàn quân (từ Binh nhì đến Đại tướng). Bác Hồ phong thêm một đại tướng (đồng chí Nguyễn Chí Thanh), 2 thượng tướng, 4 trung tướng và hơn chục thiếu tướng. Quân đội bước vào giai đoạn ác liệt nhất: Kháng chiến chống Mỹ ở cả 2 miền, các tướng, tá của ta xung trận cùng toàn quân… cho đến hơn 10 năm sau (1974) mới có đợt phong tướng cho một số đồng chí. Rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất… việc phong hàm tướng phải 4 năm mới có một lần. Các cụ vẫn tâm đắc: “Quân hùng, tướng mạnh, bách chiến bách thắng”.

Nhưng rồi những năm sau 2000, việc phong tướng cứ đều đều hằng năm, mỗi lần vài chục tướng, có năm 2 lần phong tướng; trần quân hàm tướng nới rộng, thậm chí giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp cũng mang hàm tướng? Khi mà đất nước hoà bình, ổn định!

Tướng đã nhiều thì tá càng nhiều. Tôi nhớ rất rõ: Những năm 60, 70 (thế kỉ XX) khi chiến tranh chống Mỹ cả hai miền nóng bỏng thì Huyện đội trưởng mới mang hàm Thượng uý (thậm chí Trung uý), Tỉnh đội trưởng là Thiếu tá, Trung tá. Có một số sĩ quan thiếu tá, trung tá là sư đoàn trưởng trong chiến trường đánh đâu thắng đó, ở đâu cũng được nhân dân giúp đỡ. Bây giờ thời bình thì Phó Chỉ huy Quân sự huyện đều Thượng tá, Chỉ huy trưởng: Đại tá. Có Tiểu đoàn trưởng cũng Đại tá(!). Việc xây dựng “biểu biên chế tổ chức lực lượng” hằng năm do Tổng Tham mưu trưởng kí ban hành (Cục Quân lực làm tham mưu), đi kèm là trần quân hàm cho các cấp… Từ đó đẻ ra chuyện “chạy trần quân hàm” rồi “mượn” trần cũng xảy ra không thiếu!

Dư luận âm ỉ chuyện “Tướng chạy” là có thật. Bạn tôi tâm sự rằng: “Lúc ấy mình cũng ráng hết sức để đầu tư lên tướng… nhưng rồi hụt hơi, thua “thầu” nên chấp nhận lỗ nặng, còn tay ấy đủ lực và lên tướng nên chỉ sau 1, 2 năm thu hồi đủ vốn rồi lãi… được cả danh, cả kinh tế! Vốn là bao nhiêu cũng tuỳ vị trí!

Cách đây một tuần, Trung Quốc đã bắt giam Thượng tướng Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương với tội danh: Tướng bán quân hàm. Ông này còn là đồng minh thân cận của Chu Vĩnh Khang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an cũng đang bị điều tra và vừa bị bắt một số người ruột thịt… Sự thật ấy đáng để suy ngẫm.

Cách đây hơn 50 năm, sau khi Quân đội xây dựng chế độ quân hàm, thì Công an cũng chính quy hoá. Đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn mang hàm Thiếu tướng, các Thứ trưởng như Lê Quốc Thân cũng có hàm Thiếu tướng (thời kì làm Bộ trưởng là Trung tướng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị). Bây giờ Lực lượng Công an có hàng trăm tướng, có cả nữ tướng, ngành quản lí trại giam có hàm đến Trung tướng. Cứ mở ti-vi chương trình ANTV là thấy đỏ rực quân hàm tướng. Thực tế ấy có cần không? Càng nhiều Tổng Cục ắt càng nhiều tướng. Bây giờ đất nước yên bình mà Phó trưởng Công an huyện cũng hàm Đại tá… Trưởng Công an các phường ở TP lớn hầu hết là Đại tá, có Giám đốc Công an thành phố hàm Trung tướng. Trong một địa bàn thành phố: Có Giám đốc Công an lại có Giám đốc Sở Cảnh sát PCCC. Tổ chức lực lượng Cảnh sát PCCC thì to ra, sẽ có thêm nhiều tướng, nhiều tá, nhưng hiệu quả nhiều vụ chữa cháy lớn ở các chợ, cây xăng lại bị kêu là: chậm trễ, thiếu nước, kém hiệu quả… Đầu tư cho người lính, lực lượng trực tiếp mới là xây dựng lực lượng hiệu quả. Tổ chức xây dựng lực lượng phù hợp yêu cầu nhiệm vụ là chuyện đương nhiên, nhưng từ các Cục, Vụ mà đẩy lên thành các Tổng Cục hàng loạt, quá nhiều… thực chất là thêm ghế tướng mà thôi.

Thế kỉ XX, đi ra đường hễ gặp các chiến sĩ áo vàng, Cảnh sát Giao thông, điều khiển trật tự rất nhã nhặn, quân hàm đều là hạ sĩ, thượng sĩ. Bây giờ trên mọi chặng đường đều nhìn thấy các trung tá, thượng tá cầm gậy chỉ huy giao thông?

Nhắc lại chuyện bán quân hàm, tôi mạnh dạn nói thật: “Thị trường” này bây giờ khá lộ liễu nếu không nói là nhức nhối. Tất nhiên việc rao giá không bao giờ thành văn mà là thoả thuận ngầm, càng không dễ gì giao dịch thành công vì đối tác phải rất kín để an toàn.

Quân hàm theo lương, lương của lực lượng vũ trang hoàn toàn lấy từ ngân sách nhà nước, là thuế của dân công sức, mồ hôi nước mắt người dân lao động. Quân đội và Công an được Đảng, Nhà nước rất ưu tiên xây dựng chính quy, hiện đại, tinh binh, tinh cán đáp ứng mọi tình huống xảy ra nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh, đừng chạy theo sự hào nhoáng, oai vệ mà thực lực, nội dung lại không tương xứng, đạo đức lại sa sút. Tốn kém xói mòn thì uy cũng lung lay. Chân dung người lính, người Công an phải luôn luôn là hình ảnh đẹp, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đương đầu mọi gian khổ… càng không phải là cấp tướng, cấp tá mang xe biển đỏ… đi kinh doanh kiếm lời, người lính làm kinh tế nhưng chỉ trong giới hạn đặc thù, không thể thị trường hoá người lính.

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Đây là hai lá thư có hiệu lực thức tỉnh nhất đối với tuổi trẻ Việt Nam, đập mạnh vào lương tri của con người. (Các) tác giả đã phơi bày những sự thật đau lòng không phải bằng thái độ chỉ trích hay dạy bảo mà bằng những lời lẽ rất thuyết phục, thấm đậm tình người.

Hai lá thư này cần được đưa vào sách giáo khoa về công dân giáo dục và rất thích hợp để trích dẫn trong các bài viết về lịch sử và văn hóa dân tộc.

Lê Xuân Khoa

Cùng các bạn:

Tôi đồng ý với GS Lê Xuân Khoa, thầy học sử địa 60 năm trước hồi trung học của tôi, là bài viết của Châu Sa và Tiểu My phải được đưa vào “Quốc Văn Giáo Khoa Thư thế kỷ 21” mà GS Phạm Toàn cùng bạn hữu đang soạn thảo (không cần tiền tỷ của Bộ Giáo dục – Đào tạo). Tôi cũng đề nghị chúng phải được lên trang mạng BauxiteVN mà GS Nguyễn Huệ Chi và GS Vũ Cao Đàm đang hướng về “nâng cao dân trí” vì thần tượng Võ Nguyên Giáp cũng đã chết theo ngài và theo thông tin của Đèn Cù.

Để đóng góp vào “nâng cao dân trí”, tôi đề nghị ta bỏ bớt lý luận tháp ngà, không chỉ ăn mày gương quá khứ của Phan Châu Trinh, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi…, mà nên đi vào đời sống của nhân loại, của Việt Nam thế kỷ 21. Tôi đề nghị, và nhiều người trong nước đang hưởng ứng, là ta tổ chức một quyển sách luân lưu hằng năm, phổ biến trên Internet nhưng cũng chọn lựa in ra và bán rất rẻ, về đề tài Thế Nào Là Hạnh Phúc Việt Nam? Phải cổ động rất nhiều người tham dự, như Reader’s Digest, bằng hình thức có giải thưởng khuyến khích (bài được lựa đăng) và giải thưởng vàng, bạc, đồng hằng năm.

Tôi đã tình nguyện cống hiến hết hết tài sản làm việc này, vì con cháu tại Mỹ không giàu nhưng may đã biết tự lập và rất ủng hộ tôi dùng tài sản còn lại để làm việc thực tế thay vì chỉ nói. Rất mong các bạn tiếp tay.

Phùng Liên Đoàn, 75 tuổi

· Chương Trình II: Nâng cao dân trí bằng cách viết “thế nào là hạnh phúc?”

Lịch sử nhân loại ghi nhận nhiều anh hùng trong chiến tranh nhưng nhớ ơn nhiều nhất những vĩ nhân đã đem hạnh phúc tới cho người dân mà tránh đổ máu. Hầu hết những khái niệm đẹp đẽ như “giải phóng, đoàn kết, nhân ái, công bình, dân chủ…” đều có cứu cánh cuối cùng là hạnh phúc; nghĩa là, giúp người dân cảm thấy sung sướng trong cuộc sống. Ngày nay Liên Hiệp Quốc định nghĩa “có hạnh phúc” là có bảy yếu tố: (1) an ninh thực phẩm, (2) an ninh sức khỏe, (3) an ninh kinh tế, (4) an ninh cá nhân, (5) an ninh cộng đồng, (6) an ninh môi trường, và (7) an ninh cơ chế.

Chương trình II sẽ nâng cao dân trí bằng cách tổ chức một chương trình thi đua viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về hạnh phúc một cách lâu dài nhưng có kết quả hằng năm. Chúng ta sẽ duy trì một mạng lưới để mọi người, nhất là học sinh và sinh viên, viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về 7 yếu tố trên, qua những ví dụ thực tế trong cuộc sống. Mỗi bài phải hạn chế khoảng 2000 chữ, phải hết sức gẫy gọn, không mắc lỗi văn phạm, và phải có hai tiết mục cuối cùng. Đó là, “bài này có thể áp dụng tại Việt Nam như thế nào?” và “phần đọc thêm”. Bài viết không cần phải nguyên tác, có thể ghi lại hoặc dịch từ những tài liệu có sẵn của nhân loại, bởi vì “bắt chước” là căn bản của giáo dục. Mỗi năm sẽ có 7 giải thưởng cho 7 bài hay nhất về hạnh phúc. Mỗi năm sẽ gom các bài viết thành một quyển sách, in ra bán rẻ, để học sinh và công dân có thể dùng làm tài liệu đọc hằng ngày.

Nếu có nhiều người viết/làm và nhiều người đọc/thực hành, thì chẳng bao lâu dân trí sẽ nâng cao, và các lãnh đạo tương lai sẽ biết phải làm sao cho người dân có được hạnh phúc.

Chương trình này nâng cao dân trí bằng cách thực hành chứ không phải chỉ nói trừu tượng.

Quí vị nào hoặc quí hội nào muốn cộng hưởng một trong hai chương trình trên thì xin liên lạc với Phùng Liên Đoàn tại dlp.vasfcesr@gmail.com.

***

VIỆT NAM – NHÀ GIÀU VÀ NHỮNG ĐỨA CON CHƯA NGOAN

Robbey – Vô tình đọc được bài viết về văn hóa con người Việt Nam, từ góc nhìn của một bạn du học sinh Nhật trong friendlist của mình. Cũng biết rằng đây là chủ đề nhạy cảm và nhiều bạn dễ nhảy chồm lên ném đá sau khi đọc vài đoạn, nhưng mình thấy nhiều ý kiến của bạn ấy đáng để chúng ta suy ngẫm, nên mình sẽ chia sẻ lại ở đây cho cả nhà cùng đọc. Nhật Bản là một quốc gia đáng học hỏi, cá nhân mình cũng mong muốn Việt Nam sớm phát triển được như họ. Cái gì mình không tốt thì phải đối diện và khắc phục, thế thôi!

Tôi hiện đang là một du học sinh Nhật có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt “Sự thật mất lòng”. Nhưng không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Nhưng, “Trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất.” Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “Có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Nhưng thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Nhưng, thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày. Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; Người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy bird đã không phải chết yểu đau đớn; Người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; Người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; Người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa. Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy sao?

Nguồn: https://www.facebook.com/robbeypage/photos/a.10152554252840206.952189.129440445205/10153952283630206/?type=1&theater

****

Thư hồi đáp: Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy !

Tiểu My

Bạn thân mến,

Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.

Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu “sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”, “thuốc đắng đả tật”.

Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”

Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tình của một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.

Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc . Nhưng chúng tôi thiếu một thứ.

Đó là Tự Do, Dân Chủ.

Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người đã từng nhận được đĩa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Hai mươi Năm nội chiến từng ngày

Gia tài của mẹ để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nhẹ hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng tác, tự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.

Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày

Gia tài của mẹ, để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”

Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc ,một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.

Tại sao người Việt tham vặt ?

Vì họ đã từng đói kinh khủng.Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình người. Vì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức.

Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.

Tôi cũng xin nhắc cho bạn , năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiều phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.

Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính , hạ tắc loạn”.

Khi chấm dứt chiến tranh, người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bac, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào .

Thật là nhục nhã, thật là đau lòng.

Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giử gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở Việt Nam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.

Đúng vậy! Nhưng Tự Do , Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.

Còn chúng tôi? Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.

Ngày trước nước Việt là của Vua , có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp, rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.

Ruộng của cha ông để lại đã từng trở thành của của hợp tác xã, rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.

Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giữ.

Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí.

Biết làm sao được khi chúng tôi được dạy để trở thành công cụ chứ không được dạy để làm người.

Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịch sử, văn chương.

Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV, trên đường phố.

Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn . Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt , bẻ nát cả hoa lẫn cành , chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.

Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi hầu như đang lạc lối, thiếu người dẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương , đau khổ.

Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.

Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc , ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.

Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.

Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cặp với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mẹ tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.

Bạn ơi. Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì :

“trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.

Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai.

Thân ái.

Tiểu My

http://t-van.net/?p=16839