Làm thế nào để VN đuổi kịp các nước Asian-6?

Làm thế nào để VN đuổi kịp các nước Asian-6?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-02-21

anhvu02212015.mp3

000_Del6394306-622.jpg

Ảnh minh họa chụp tại trung tâm thành phố Hà Nội hôm 17/02/2015.

AFP PHOTO / HOANG DINH Nam

Your browser does not support the audio element.

Nguy cơ tụt hậu?

Mùa xuân đến với nhiều tín hiệu tốt lành, tuy vậy nền kinh tế của đất nước vẫn không phát huy hết khả năng để phát triển mạnh mẽ ở mức có thể, ngược lại đang còn bị tụt hậu khá xa so với các nước láng giềng. Điều gì đã cản trở và cần phải làm thế nào để VN có thể đuổi kịp các nước Asian-6?

Khoảng cách về phát triển giữa VN với Asean-6 ngày càng tăng, trong lúc so với các nước Asean-4 thì ngày càng thu hẹp. Điều này cho thấy VN đang đứng trước nguy cơ tụt hậu.

Hiện tại, VN đang đứng sau 6 nước Asean tức là xếp thứ 7, sau các quốc gia như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Brunei và chỉ đứng trên Myanmar, Lào, Campuchia.

Trong một phiên họp của Chính phủ  gần đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đặt câu hỏi: “Sao lại cứ phải đứng sau 6 nước Asean? Chúng ta có đuổi kịp được Asean-6 không? Không có lý do gì chúng ta không cải thiện được để bằng Asean-6.”

Cái thứ nhất là phải triệt để xóa bỏ đường lối sai lầm của Đảng CSVN là: KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó có thể vạch ra các chính sách kinh tế thúc đẩy cho sự phát triển của khu vực KT Tư nhân trong nước và tạo điều kiện cho chúng hoạt động ngang ngửa, sòng phẳng và bình đẳng với các thành phần KT khác.
-TS Nguyễn Quang A

Điều gì đã cản trở sự phát triển của dân tộc, để đến hôm nay khiến người đứng đầu Chính phủ phải đặt câu hỏi trên?

Nói về những hạn chế được cho là cơ bản nhất đã khiến cho kinh tế VN không phát huy hết khả năng, để phát triển mạnh mẽ ở mức có thể.

Chuyên gia KT Bùi Kiến Thành, trong một lần trao đổi với RFA gần đây thấy rằng, tư duy lãnh đạo là nguyên nhân dẫn tới kinh tế VN trì trệ không phát triển được, theo ông lãnh đạo VN cần phải thay đổi tư duy một cách tích cực, nếu không muốn đất nước tụt hậu so với khu vực và thế giới. Ông nói:

“Bây giờ các vị lãnh đạo đi ra nước ngoài cũng vẫn nói  Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, yêu cầu Mỹ yêu cầu Châu Âu và khắp mọi nơi mà các vị đến, yêu cầu công nhận chúng tôi là nền kinh tế thị trường. Như vậy rõ ràng chúng ta muốn hội nhập vào nền kinh tế thị trường của thế giới. Nhưng mà tiếp theo câu đó nó có sự không ăn khớp, tức là doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vấn đề này tư duy chưa rõ ràng, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì làm gì có nền kinh tế thị trường được nữa?”

Nền kinh tế thị trường gắn với định hướng XHCN là biểu hiện sự ôm đồm không cần thiết của nhà nước. Đây là cái cần phải xóa bỏ ngay lập tức để tạo điều kiện cho nền KT của VN có thể cất cánh. TS. Nguyễn Quang A nhấn mạnh:

000_Hkg10147574-400.jpg

Ảnh minh họa chụp tại ngoại thành Hà Nội hôm 28/01/2015. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

“Cái thứ nhất là phải triệt để xóa bỏ đường lối sai lầm của Đảng CSVN là: KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó có thể vạch ra các chính sách kinh tế thúc đẩy cho sự phát triển của khu vực KT Tư nhân trong nước và tạo điều kiện cho chúng hoạt động ngang ngửa, sòng phẳng và bình đẳng với các thành phần KT khác. Chỉ có trên cơ sở đó thì nền KT của VN mới phát triển một cách bền vững.”

Những khó khăn đang phải đối mặt khiến Việt Nam ngày càng tỏ ra “hụt hơi” trong việc bắt kịp tốc độ phát triển của các nước trong khu vực, đặc biệt là Asean-6. Tuy nhiên, theo các chuyên gia cho biết nếu nỗ lực và có chính sách đúng, kinh tế Việt Nam vẫn chưa hết hy vọng sẽ cất cánh.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho rằng: “Các phân tích kinh tế gần đây cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được thành công như những nền kinh tế trong khu vực đã biến thành các nước công nghiệp mới – (NICs) một khi xây dựng được một thể chế hỗ trợ phát triển. Một trong những cơ sở tiền đề ấy là kinh tế Việt Nam vẫn có tiềm năng phát triển lớn”.

Trách nhiệm thuộc về ai?

Trả lời câu hỏi cần phải có các giải pháp quan trọng nào để tạo ra sự bứt phá của kinh tế VN để đuổi kịp các nước Asean–6 trong thời gian tới?

Trên thực tế Nhà nước vẫn có vai trò can thiệp trực tiếp quá lớn vào nền kinh tế, với tư cách là chủ đầu tư công và chủ sở hữu doanh nghiệp, trong khi Nhà nước lại chưa thực hiện tốt các chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế. Đây là một trong những điểm nghẽn đang làm thui chột tinh thần kinh doanh của không ít người dân. TS. Võ Đại Lược Viện Kinh tế và Chính trị thế giới nhận định:

“Cái gì thuộc quyền nhà nước quyết thì nhà nước quyết và cái đó có thể có tính pháp lệnh, còn cái gì thuộc về thị trường thì nhà nước không nên quyết, mà để thị trường định. Do vậy dù ông quyết thông qua các cái tín hiệu của thị trường, nếu can thiệp quá mạnh các tín hiệu của thị trường thì anh sẽ làm thị trường méo mó. Và do thế nó làm cho nên kinh tế phát triển kém hiệu quả.”

Cái gì thuộc quyền nhà nước quyết thì nhà nước quyết và cái đó có thể có tính pháp lệnh, còn cái gì thuộc về thị trường thì nhà nước không nên quyết, mà để thị trường định.
-TS Võ Đại Lược

Theo TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN cho biết: VN có đủ các điều kiện cần để thực hiện “cú nhảy vọt lịch sử” để rút ngắn khoảng cách phát triển, tiến kịp thế giới và Asean – 6. Cần định rõ lộ trình tận dụng thời cơ để tiến vượt bằng lộ trình công nghiệp hóa đến năm 2020 gồm 2 bước. Bước 1 ráo riết chuẩn bị các điều kiện và năng lực, chuẩn bị điều kiện cất cánh. Bước 2 bùng nổ phát triển, cất cánh và tăng tốc. Ông nói:

“Nếu chúng ta tạo ra sự ổn định, tạo ra niềm tin của các nhà đầu tư trong thị trường, thì có khi đặt mục tiêu tăng trưởng thấp nhưng tăng trưởng thực vẫn cứ cao, vì các nhà đầu tư tin cậy. Nhà nước định hướng, nhưng nhà nước có thể tác động đến bằng cách tạo ra các công cụ khuyến khích hay là kiềm chế để cho các nhà đầu tư hành động làm sao nó gần nhất với định hướng của mình.”

Chỉ có xây dựng khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa của VN lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng và bất cứ nhà nước nào cũng phải can thiệp vào thị trường bằng chính sách của mình. Do vậy, đừng lo ngại việc Nhà nước không kiểm soát được khu vực KT Tư nhân. TS. Nguyễn Quang A khẳng định:

“Nền Kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phải đóng vai trò trung tâm, dẫn dắt và vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Chỉ có nền kinh tế tư nhân nó mới có những động lực để thúc đẩy nền kinh tế chung phát triển. Kinh tế Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo trong một nền kinh tế được, nó chỉ giữ một vai trò có tính chất phù trợ nào đấy mà thôi. Tôi nghĩ biện pháp quan trọng nhất là phải xóa bỏ tất cả những cái ưu ái, trước hết là các ưu ái đối với DN Nhà nước, thậm chí cả những ưu ái đối với DN Đầu tư nước ngoài. Tôi không nghĩ các DN Tư nhân cần có sự hướng dẫn hay hỗ trợ của Nhà nước, tôi tin họ sẽ tự lo lấy của họ. Song cái quan trọng là phải để cho nó có một môi trường thông thoáng và không bị ai chèn ép.”

Nếu nhìn sang các nước láng giềng thì thấy thiên hạ đã đi nhanh hơn VN rất nhiều, lẽ dĩ nhiên nếu không tiến theo kịp thì lập tức VN sẽ tụt hậu và bị họ bỏ rơi. Trong lúc VN, là một đất nước có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, tài nguyên thiên nhiên giàu có, con người cần cù và chịu khó. Vậy tại sao đất nước vẫn cứ tụt hậu, chậm phát triển? Trách nhiệm này thuộc về ai?

Trước bàn thờ Tổ Tiên ngày Tết

Trước bàn thờ Tổ Tiên ngày Tết

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

A. Dâng hương

Theo luật tuần hoàn của vũ trụ, năm Giáp Ngọ âm lịch đi vào qúa khứ . Và năm mới Ất Mùi âm lịch đang về với đất trời cùng với lòng con người.

Chúng ta, những người con dân đất nước Việt Nam, dù sinh sống nơi đâu trên thế giới, đều đón mừng mùa xuân năm mới Ất Mùi với tâm hồn vui mừng rộn rã.

Đó là tập tục văn hóa đã khắc ghi trong dòng máu chúng ta. Và đó cũng là nếp sống đạo đức làm người trong tương quan với Đấng Tạo Hóa càn khôn, và với xã hội con người.

Đón mừng mùa Xuân năm mới, nhưng tâm hồn ta luôn hướng về cội nguồn Tổ tiên quê hương tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Trước bàn thờ Đấng Tạo Hóa càn khôn, và bàn thờ Tổ Tiên xin cùng thắp những nén nhang lòng yêu mến nhớ về cội nguồn của chúng ta.

Thành kính dâng lời tạ tổ tiên,

Đầu nơi cội mạch lập gia hiền.

Khơi nguồn tựa suối trôi liên lỉ,

Trổ rễ như cây mọc vững bền.

Đứng mũi chở che giông chẳng quản,

Chịu sào chèo chống bão không nghiêng.

Mãn phần an nghỉ về Thiên quốc,

Thắp nén trầm hương nhớ cửu huyền.

B. 12 cây nến nguyện cầu

1. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa Xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến tâm tình tạ ơn Đấng Tạo Hóa luôn hằng chúc phúc lành che chở cho đời sống chúng con thời gian năm cũ Giáp Ngọ vừa qua.

2. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa Xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng ái quốc cho quê hương tổ quốc, cho Tổ Tiên chúng con đã dầy công lao xây dựng, gìn giữ quê hương đất nước Việt Nam từ ngàn xưa.

3. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến chúc phúc lành cho dân tộc Việt Nam chúng con, trong mọi hoàn cảnh luôn đặt niềm tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa, Đấng là nguồn mạch mọi ân đức chúc phúc lành.

4. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng hiếu thảo biết ơn Ông Bà Cha Mẹ chúng con, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục đào tạo chúng con nên người ở đời.

5. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến gia đình. Xin cho các gia đình có được đời sống no cơm ấm áo, hòa thuận thương yêu nhau, phát triển tình nghĩa giữa các thành phần trong gia đình với nhau.

6. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm vui tuổi xuân xanh cho con em bạn trẻ chúng con. Xin cho họ sống khoẻ mạnh hồn xác, học hành tấn tới, thành công trong việc làm, cùng tin tưởng vào ngày mai.

7. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến tình yêu cho các người trẻ đang trên đường đi tìm xây dựng con đường đời sống, lòng hăng say mong muốn dấn thân phục vụ con người, nhận ra dấu chỉ tín hiệu của ý Chúa muốn cho đời sống họ hôm nay và ngày mai.

8. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến hòa bình cho những đất nước trên thế giới đang sống trong những biến chuyển chiến tranh có nhiều đe dọa xáo trộn, bị phân ly chia rẽ sống đời lưu lạc tỵ nạn, có được hòa bình công lý, đời sống an cư lạc nghiệp trở lại.

9. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm an ủi cho những người bị bệnh tật yếu đau, những người sống trong hoàn cảnh nghèo túng, trong thiên tai, nhận được sự trợ giúp tình người.

10. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng nhân đạo cho những người bị đối xử phân biệt ngược đãi bất công, cho những thai nhi bị phá hủy sự sống ngay từ cung lòng mẹ, được tôn trọng phẩm gía là con người do Thượng Đế tạo dựng nên.

11. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm hy vọng cho những người sống trong thất vọng cô đơn, cho những người bị bỏ rơi khinh miệt, cho những người bị vướng mắc vào hoàn cảnh tù đày bạc đãi, được tìm thấy ánh sáng tự do vươn lên cho đời sống.

12. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến sự sống nơi cõi vĩnh hằng

-cho những người đã dấn thân hy sinh tính mạng gìn giữ bảo vệ tổ quốc quê hương Việt Nam chúng con,

-cho Tổ Tiên , Ông bà, Cha mẹ, vợ hay chồng, con cháu, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo, những người thân yêu trong gia đình, mà nay đã về cùng Thiên Chúa.

– cho các Linh mục, các vị Tu sỹ nam nữ đã qua đời.

– cho các người đã bỏ mình trong chiến tranh loạn lạc, bị khủng bố, bị chết vì đói khát nghèo túng bệnh tật.

– cho những người đã sống làm ơn cho chúng con trong đời sống, mà nay tất cả đã khuất núi ra đi về đời sau.

Trước bàn thờ Chúa cùng theo làn khói ánh nến tỏa lan lung linh, chúng con chân nhận rằng:

Nhục thể ly trần lưu cát bụi,

Hồn thiêng thoát tục nhập thiên cung.“ Amen.

Mùng Một Tết Ất Mùi 2015

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

CẦU NGUYỆN ĐỂ VƯỢT QUA CÁM DỖ

CẦU NGUYỆN ĐỂ VƯỢT QUA CÁM DỖ

Tác giả: Huệ Minh

St 9, 8-15; 1 Pr 3, 18-22; Mc 1, 12-15

Ngày còn bé, chẳng được đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và vài vùng lân cận. Chính vì thế, chẳng biết được đường đèo trắc trở là gì ? Chỉ nghe ai đi về kể hay chỉ xem trên màn hình của TV.

Lớn lên một chút, có dịp đi hành hương La Vang để thăm Mẹ. Chính nhờ chuyến đi La Vang đó mà tận mắt thấy được nhiều đoạn đường quanh co và nguy hiểm. Có lẽ trắc trở nhất chính là đoạn đường đèo Hải Vân.

Khi đi qua đường đèo Hải Vân, đâu đó hai bên đường người ta lập những miếu thờ để thờ những nạn nhân không may mắn. Tai nạn xảy ra có thể bất cẩn từ phía người lái nhưng cũng có khi bất cẩn từ người thợ máy, kỹ thuật xe để làm cho chiếc xe không đủ an toàn khi leo đèo và nhất là khi xuống đèo. Chính vì sự chểnh mảng, thờ ơ hay cẩu thả đã để lại những tai nạn khôn lường và đáng tiếc.

Trên con đường đèo, dọc theo đường đèo, ta thấy rất nhiều bảng cảnh báo, nhiều bảng chú ý để cảnh báo người lưu thông nhằm tránh gây tai nạn đáng tiếc. Với mức độ nguy hiểm như vậy, dĩ nhiên những ai đi trên đèo đều hết sức cẩn thận, tỉnh cáo và đề cao cảnh giác đến mức tối đa.

Khi đi hành hương chung với nhau, với những người tâm linh theo đạo Công Giáo chắc có lẽ có thói quen lần chuỗi, cầu nguyện để cho mọi chuyện tốt đẹp khi lên đèo và tạ ơn Chúa và Mẹ sau khi đổ đèo được an toàn.

Thường là như vậy, khi bước lên xe, khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm người ta thường đọc kinh cầu nguyện, xin ơn bình an. Cũng thế, ta thấy rằng khi cuộc sống của ta đứng trước bờ vực của sự nguy hiểm ta cũng ra sức cầu nguyện và xin ơn.

Con người là như vậy để rồi ta thấy chính Chúa Giêsu cũng như thế khi gặp những khó thăn, thử  thách của cuộc đời.

Chúa Giêsu bước vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú. Nhưng, ta để ý, chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và rồi sau khi vào rồi thì có các Thiên Thần hầu hạ người.

Vấn đề lớn, vấn đề chính yếu đó chính là Thần Khí Chúa thúc đẩy, Thần Khí Chúa tác động và dĩ nhiên có ơn của Chúa Thánh Thần ở với Chúa Giêsu. Cùng theo đó, các Thiên Thần hầu hạ Chúa và điều đặc biệt hơn cả phát xuất tự nơi Chúa Giêsu đó chính là việc Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện.

Giữa những thử thách của cuộc đời, chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện thì khi đó ta kết hợp mật thiết với Chúa và khi đó ta mới vượt qua những cơn cám dỗ mà thôi. Chuyện dễ hiểu bởi lẽ trong ta luôn luôn có sự giằng co của con người xác thịt và con người Thần Linh.

Bản thân mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội ắt hẳn được Thiên Chúa ghi dấu ấn trong đời và có Chúa ở cùng. Cạnh đó, mỗi người đều có một vị thiên thần bản mệnh đi theo mình để giúp mình, định hướng sống cho mình và giúp cho mình vượt qua những cơn gian nan thử thách trong cuộc đời.

Trải qua dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy cầu nguyện, ăn chay, hãm mình hết sức cần thiết cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta. Như hơi thở của cuộc sống, cầu nguyện cũng như thế. Thân xác ta, nếu ta không khổ chế, ta không hãm mình thì ta sẽ dễ hưởng thụ để chu cấp những đòi hỏi cho thân xác này.

Cũng dễ hiểu vì lẽ con người là con người phàm xác thịt để rồi cứ bị giằng co của thân xác, đặc biệt với quyềm, danh, tình … Những thứ đó dường như nó giằng co, nó không chế con người. Nếu như con người không biết mình là ai, không biết được giới hạn của mình sẽ dễ đi vào con đường của hưởng thụ. Từ hưởng thụ đó, con người sẽ dễ buông mình để đi theo những cám dỗ của nó.

Lời thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa cất lên thật hay :

Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa;
xin dạy bảo con về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,
vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

Và như vậy, ta cứ mãi mãi chạy đến Chúa, xin Chúa hướng dẫn cuộc đời ta để ta luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Có như thế, ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ bên đời ta.

Huệ Minh

Chuyển đổi chế độ bằng cách ảo thuật

Chuyển đổi chế độ bằng cách ảo thuật

Chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2015) – Baotoquoc – Chế độ Xã hội chủ nghĩa

Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn quyết định đổi tên nước là Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đổi tên đảng Lao động Việt Nam thành đảng Cộng sản Việt Nam. Tuyên bố tiếp tục áp dụng chế độ Cộng sản theo như Hiến pháp của CSVN năm 1959. Hiến pháp này rập khuôn hiến pháp của Stalin và hiến pháp của Mao Trạch Đông.

Thực ra Chế độ Xã hội chủ nghĩa là một tên gọi khác của Chế độ Cộng sản. Thoạt ban đầu chữ “Cộng sản” là tên gọi của một chế độ tưởng tượng do 3 triết gia Saint Simon, Fourier và Robert Owen nghĩ ra vào đầu thế kỷ 19. Theo đó thì mọi của cải trong xã hội đều là của chung ( Cộng sản ), mọi người cùng làm và cùng hưởng.

Tuy nhiên sau đó Robert Owen dùng tài sản của gia đình mình phân phát cho nông dân nghèo cùng nhau tự quản lý, nhưng kết quả thất bại vì “cha chung không ai khóc”. Vì vậy người ta đặt cho chế độ Cộng sản của 3 triết gia là “Chế độ Cộng sản không tưởng”.

Đến giữa thế kỷ 19 triết gia Karl Marx sửa đổi Chế độ Cộng sản không tưởng thành “chế độ Cộng sản hiện thực”. Theo chế độ này thì xã hội được quản trị bởi một chính quyền. Đặc biệt chính quyền này toàn là do những người lao động nghèo điều hành. Những người lao động nghèo được gọi là giai cấp vô sản. Và giai cấp vô sản nằm trong một tổ chức chặt chẻ gọi là Đảng Cộng sản. Tổ chức này coi những người có học, những người giàu, những người có đất đai nhiều, có thế lực mạnh… là kẻ thù ( Trí, Phú, Địa Hào ).

Cuối thế kỷ 19, một triết gia Cộng sản khác là Friedrich Engels nghĩ ra một chế độ chuyển tiếp trước khi đi đến chế độ Cộng sản, ông ta đặt tên cho chế độ đó là “Chế độ Xã hội chủ nghĩa khoa học”.

Như vậy, khi CSVN áp dụng “Chủ nghĩa xã hội khoa học” vào năm 1959 thì Miền Bắc Việt Nam được lãnh đạo bởi ĐCSVN ( Điều 4 hiến pháp ). Đảng này sẽ làm chủ đất nước, còn người dân là lực lượng lao động làm ra của cải cho đất nước; nghĩa là người dân cũng giống như trâu cày ngựa kéo ( nô lệ ) của ông chủ CSVN.

Số của cải có sẵn trong nước và số của cải do lực lượng lao động ( người và thú vật ) làm ra sẽ được quản lý bởi các cán bộ của ĐCSVN. Những cán bộ này nằm trong một cơ chế quản lý gọi là “nhà nước”.

Như vậy theo như hiến pháp 1959 của nước CSVN thì mọi đất đai tài sản có trong nước là do Đảng làm chủ và Đảng quản lý. Đảng muốn sử dụng đất đai tài sản trong nước ra sao là tùy Đảng. Thường thì Đảng giao đất cho người dân sử dụng để sinh sống, phát cho người dân một tờ giấy gọi là “quyền sử dụng đất” ( sổ đỏ ); khi nào Đảng muốn lấy lại đất để làm việc khác, thí dụ như để giao cho một công ty ngoại quốc, thì gởi cho người dân đó một tờ giấy “thu hồi quyền sử dụng đất” hay nói gọn là “thu hồi đất”.

Cái lối quản lý tài sản như vậy cuối cùng đưa tới sụp đổ “chế độ Xã hội chủ nghĩa” vì hai nguyên lý cơ bản :

(1). Bất công : Của cải chung của toàn xã hội rơi vào tay một nhóm người và những người này phân phối quyền hưởng thụ tài sản cho cá nhân mình hay gia đình mình mà không có ai được quyền xoi mói hay can thiệp.

(2). Cha chung không ai khóc: tài sản chung giống như một cái kho chung do một nhóm người quản lý. Nhưng những người này chuyên môn đục khoét cái kho để tuồn của cải về cho gia đình mình. Hoặc là thay vì đem của cải cất vào kho thì đem thẳng về nhà mình. Rốt cuộc kho chung như cái thùng lủng đáy.

Hai nguyện lý cơ bản trên đây trái ngược với chế độ Tư sản ( Tư bản). Trong chế độ Tư sản thì của cải trong nước là của cải riêng của từng người dân. Mỗi người dân tự quản lý lấy tài sản của mình. Cho nên không có bất công và không hề thất thoát. Hễ dân giàu thì nước mạnh.

15022000

Chế độ “Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế thị trường”

Năm 1976 Mao Trạch Đông chết, năm 1978 Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền. Đến 1983 Đặng Tiểu Bình cho áp dụng chế độ Cộng sản cải cách, gọi là “Chế độ Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế kinh tế thị trường”.

Tại Việt Nam năm 1986 Lê Duẩn chết, Nguyễn Văn Linh lên nắm quyền. Mặc dầu không chuyển đổi chế độ như Đặng Tiểu Bình nhưng Nguyễn Văn Linh cũng cho dẹp bỏ một số quy định phi lý của cơ chế kinh tế Cộng sản và tuyên bố sẽ “đổi mới” chế độ.

Từ năm 1987 người Phó thủ tướng kinh tế của CSVN là Võ Văn Kiệt bắt đầu tìm cách tiếp xúc với thế giới tư bản. Ông nhờ người cố vấn kinh tế của ông là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh liên lạc với cựu Phó thủ tướng VNCH là Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo để vận động hành lang nối lại liên hệ Việt- Mỹ.

Đầu tháng 9 năm 1987 Tổng thống Mỹ Ronald Reagan cử người đại diện của ông là Tướng John Vessy đến Hà Nội. Sau 1 tuần làm việc, ngày 14-9-1987 Vessy ký với Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan một Hiệp ước giải quyết những gì còn tồn đọng sau chiến tranh Việt Mỹ.

Chủ yếu của Hiệp ước là Mỹ nới bỏ một phần lệnh cấm vận cho CSVN, bắt đầu cung cấp viện trợ nhân đạo cho CSVN nhưng không phải là viện trợ “Bồi thường chiến tranh” như đã ghi trong “Mật ước Nixon-Phạm Văn Đồng ký ngày 1-2-1973”. Ngoài ra còn có tìm kiếm người Mỹ mất tích, và đưa đi định cư tại Mỹ những nhân viên của VNCH đã từng bị giam trong tù cải tạo. ( Sưu tập báo chí của Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuyến, Lịch Sử Việt Nam 1975-2000, trang 83,84 ).

Sang năm 1988 ông Võ Văn Kiệt nối được đầu cầu giao lưu kinh tế với thế giới tư bản qua ông Võ Tá Hân, một thương gia tại Singapore ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc ). Trước đó ông Hân đang phụ trách quản trị trung tâm băng nhạc Asia thì nhận được lệnh đến Singapore với danh nghĩa “Chủ tịch hiệp hội thương mại Canada”.

Đến cuối năm 1989 chủ nghĩa Cộng sản đang trên đà sụp đổ. Tại Đông Đức, Tổng bí thư CSVN Nguyễn Văn Linh xin tiếp kiến Tổng bí thư Liên Xô Gorbachev nhưng ông này đối xử lạnh nhạt. Nguyễn Văn Linh trở về dẫn Đổ Mười và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc để gặp Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân. Cuộc gặp này được gọi là Hội nghị Thành Đô.

Sau hội nghị Thành Đô, CSVN học theo Đặng Tiểu Bình sửa lại hiến pháp, tuyên bố nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng thể chế “Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế kinh tế thị trường”.

Thực ra đây chỉ là một cách chơi chữ của Đặng Tiểu Bình : “xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là độc tài độc đảng (chuyên chính vô sản). Và “định hướng cơ chế kinh tế thị trường” có nghĩa là kinh tế tư bản. Vì vậy chế độ XHCNĐHCCTT tức là chế độ “Cộng sản” về cai trị nhưng “Tư bản” về kinh tế. Hoặc nói một cách bình dân là chế độ “Cộng sản lai tư bản”.

Chế độ Cộng sản lai tư bản vẫn giữ nguyên chuyên chính vô sản, nghĩa là ĐCS vẫn là chủ nhân ông của đất nước; quân đội và công an vẫn là công cụ bảo vệ chế độ, tức là được dùng để trấn áp dân chúng. Khi nào có đánh nhau với nước ngoài thì quân đội với nhân dân cùng nhau chống giặc, nhưng trong thời bình thì quân đội được dùng để chống lại sự nổi dậy của nhân dân.( Quân đội trung với Đảng chứ không phải trung với dân ).

Còn về kinh tế thì có sự đổi khác rõ rệt giữa “kinh tế Xã hội chủ nghĩa” và “kinh tế thị trường” : Kinh tế XHCN có 2 thành phần sở hữu là sở hữu nhà nước (quốc doanh) và sở hữu hợp tác xã, còn kinh tế thị trường có 5 thành phần sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân. Nghĩa là nhà nước làm chủ đất đai và tài sản lớn (công cộng) do cha ông để lại, còn người dân được quyền làm chủ tài sản nhỏ, tức là làm chủ những gì do công sức mình làm ra.

Thí dụ như có 1 công ruộng do một hộ nông dân cày cấy thì đương nhiên Đảng là chủ của công ruộng đó, còn người nông dân làm chủ tất cả sản phẩm được làm ra từ công ruộng đó. Đảng sẽ cấp cho người dân một quyển sổ màu đỏ gọi là “giao quyền sử dụng đất” (cho mượn). Khi nào Đảng muốn lấy lại công ruộng đó thì thông báo cho hộ nông dân biết là Đảng sẽ “thu hồi” miếng đất để làm chuyện khác. Điển hình của thí dụ này là vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Văn Giang, Hưng Yên. Hay vụ cưỡng chế thu hồi đất của ông Đoàn Văn Vươn tại Quảng Ninh.

*( Đa số người dân đã hiểu lầm khi nhận được quyển sổ đỏ, họ cứ đinh ninh rằng quyển sổ đỏ là sổ “chủ quyền” bởi vì miếng đất đó do cha ông họ đã làm sở hữu chủ từ nhiều đời. Sự thực cái quyền sở hữu chủ đó đã bị mất vào tay ĐCS khi ĐCS dùng súng chiếm được toàn Miền Bắc năm 1954 và toàn Miền Nam năm 1975; sau đó Đảng giao cho mỗi người dân quyển sổ đỏ như là giấy chứng nhận cho mượn đất để sinh sống.

Đến năm 1993 thì CSVN cho ra đời luật đất đai, cho phép người được giao đất (sổ đỏ) có quyền sang nhượng, thừa kế hay thế chấp “quyền sử dụng” đất đó nếu như Đảng không “thu hồi”. Vì vậy mà quyển sổ “sử dụng đất” có vẻ như là sổ “chủ quyền” ).

Chế độ “Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Mãi đến năm 2006 Nguyễn Tấn Dũng thống lĩnh quyền lực tại VN, ông ta vận động Trung ương ĐCSVN sửa đổi tên gọi của chế độ thành “Chế độ kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tức là chế độ tư bản về kinh tế nhưng không đa nguyên đa đảng. Hoặc nói một cách bình dân là “chế độ Tư bản lai Cộng sản”. Đến năm 2008 thì tên gọi này được viết thành Nghị quyết 21 của ĐCSVN.

Nghĩa là Nguyễn Tấn Dũng làm ảo thuật, hoán đổi vị trí của hai vế tên gọi của chế độ. Biến đổi từ chế độ “Cộng sản lai Tư bản” thành chế độ “Tư bản lai Cộng sản”. Nhưng thoạt đầu chỉ là hoán đổi tên gọi, rồi sau mới dần dần cải sửa chế độ đúng như tên gọi.

Tuy nhiên quá trình cải sửa chế độ của Nguyễn Tấn Dũng gặp nhiều rắc rối. Cơ bản là do ông ta muốn chơi cờ vua trên bàn cờ tướng.

Nguyên tắc đầu tiên của chế đô Tư bản ( tư hữu ) là tài sản trong xã hội do mỗi người dân làm chủ. Cho nên người dân có quyền sống chết với những gì do công sức của họ làm ra, từ đời cha tới đời con, đời cháu. Họ có toàn quyền sang nhượng, thừa kế hay thế chấp những tài sản đó.

Nguyên tắc thứ hai là người làm chủ có quyền sang nhượng tài sản của họ với những điều kiện hoàn toàn do họ muốn, và với giá cả hoàn toàn do họ ấn định. Họ có quyền sang nhượng cho bất cứ người nào trả giá cao nhất, bất kể là người trong nước hay người ngoài nước.

Nguyên tắc thứ ba là họ có quyền làm chủ bất kể số lượng tài sản to lớn đến bao nhiêu. Họ có quyền làm chủ hằng vạn mẫu ruộng, hằng ngàn căn nhà.

Nguyên tắc thứ tư là nếu tài sản đó cần cho nhu cầu chung của quốc gia thì nhà nước có thể trưng thu nhưng đền bù ngang giá thị trường hoặc trên giá thị trường.

Nguyên tắc thứ năm là mọi tài sản được đánh giá và trao đổi trên căn bản tự do cạnh tranh và chống độc quyền.

Nguyên tắc thứ sáu là chính quyền có bổn phận bảo vệ quyền làm chủ tài sản của mỗi người dân, chính quyền sẽ khuyến cáo hoặc can thiệp nếu tài sản của người dân có nguy cơ bị xâm phạm hoặc bị xâm phạm.

Nếu có đủ 6 nguyên tắc cơ bản trên đây thì mới có thể hội nhập với thị trường của kinh tế tư bản, thiếu một trong 6 nguyên tắc đó thì không thể nào vận hành kinh tế tư bản. Cho nên dầu cho Nguyễn Tấn Dũng có làm ảo thuật tài giỏi như thế nào đi nữa thì cũng không thể hoàn thiện được chế độ “Tư bản lai Cộng sản”.

Đầu năm 2014 Nguyễn Tấn Dũng đã hăng hái tuyên bố sẽ hoàn thiện chế độ Tư bản lai Cộng sản ( Kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa ). Nhưng đầu năm nay không thấy ông báo cáo thành quả của công cuộc hoàn thiện chế độ. Nghĩa là không thành công.

Sát thủ kinh tế

Sở dĩ NTD không thành công bởi vì ông ta không đạt được một nguyên tắc nào trong 6 nguyên tắc trên. Trong khi đó các nhà tư vấn quốc tế quốc tế đã vẽ ra cho NTD quá nhiều hướng tiến đầy lạc quan, nhưng chỉ là lạc quan ảo.

Sự thực những nhà tư vấn kinh tế ngoại quốc ( Sát thủ kinh tế ) không hề muốn CSVN chuyển đổi thành chế độ Tư bản. Bởi vì chỉ có chế độ XHCN thì đất đai tài sản trong nước mới thuộc về Đảng Cộng sản. Mà chỉ có ĐCS mới dám bán đất đai, tài nguyên quốc gia với giá bèo, ngang giá với của cải ăn trộm ăn cướp. Còn một khi đất đai là tài sản của người dân thì họ sẽ bán đúng theo giá thị trường. Nhưng nếu đúng theo giá thị trường thì các nước tư bản còn gì nữa đâu mà kiếm một vốn bốn lời ?

Nguyễn Tấn Dũng thành công như ngày nay là nhờ tư vấn của các sát thủ kinh tế. Nhưng nếu cứ theo các sát thủ kinh tế thì chế độ “Tư bản lai Cộng sản” sẽ không bao giờ hoàn thiện được. Rồi đây NTD sẽ tiếp tục thu hồi đất đai mà người dân đang sinh sống để giao cho các công ty ngoại quốc ( Thuê dài hạn 90 năm và tái ký hợp đồng, tức là bán ) cho tới khi nào không còn đất để bán mới thôi.

Như vậy càng ngày nước mắt của dân oan càng nhiều chứ không thể nào giải quyết hết bằng cách bày trò ảo thuật hứa hẹn “Đổi mới thể chế”, “Phát huy quyền làm chủ thực sự của người dân”, “Phát huy quyền sở hữu tài sản”, “Tạo mội trường cạnh tranh bình đẳng”, “Xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp”, “Thúc đẩy tập trung ruộng đất”, “Tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”,v.v … ( trích nguyên văn thông điệp đầu năm 2014 của Nguyễn Tấn Dũng ).

BÙI ANH TRINH

http://baotoquoc.com

Ngai vàng và tượng đồng

Ngai vàng và tượng đồng

Ngô Việt (Danlambao) – Thật tình mà nói thì khi nhìn cảnh “cung điện” của cựu TBT đảng CSVN, ông Nông Đức Mạnh, tôi không thấy có chút gì nể phục vì vẻ xa hoa của nó. Đã vậy tôi còn cảm thấy có chút buồn cười hài hước gì ở đây. Đồ vàng mã? Cảnh của sân khấu chèo, hay sân khấu ca nhạc, kiểu như sân khấu hài sớ táo quân, bày biện cảnh cung điện trên thiên đình mà chúng ta vẫn thấy trên TV mỗi dịp xuân về! Tất nhiên ông Nông Đức Manh, không phải là vua, thành ra ghế ngồi có dát vàng, chạm khắc đầu rồng thì nó cũng chỉ là cái ghế để ngồi, chứ nhất đinh nó không phải là ngai vàng để  “Mạnh Vương, ngự!”

Trước đây, chúng ta cũng được chứng kiến tư thất sang trọng của ông Lê Khả Phiêu, một cựu TBT tiền nhiệm của ông Nông Đức Mạnh. Ở đây không có “ngai vàng” nhưng có trống đồng, ngà voi, tượng đồng bán thân của ông Phiêu và có cả vườn rau sạch trồng trên sân thượng để cho ngài TBT và gia đình sử dụng, tránh nhiệm độc khi ăn phải rau dơ do người dân trồng bán ở bên ngoài.

Không hiểu quí ngài khi đúc tượng đồng của mình, xây dựng cung điện hoành tráng như là của vua chúa thật sự để làm gì? Để dân chúng tôi khi nhìn thấy những thứ đó để nhớ đến các ngài chăng? Không bao giờ! người dân sẽ nhớ đến các ngài qua những công việc mà các ngài để lại cho dân cho nước.

Khi nhắc đến ngài TBT Lê Khả Phiêu, chắc chắn người dân Việt Nam sẽ nhắc đến gần một ngàn cây số vuông đất biên giới phía bắc mà Việt Nam đã cắt để nhượng cho Trung cộng, để họ không lộ chuyện bí mật chuyện đời tư của ngài! Xa hơn chút nữa, khi nhắc đến ngài, người dân Huế, sẽ nhớ đến Trung đoàn trưởng Lê Khả Phiêu, chỉ huy chiếm đóng thành phố Huế trong tết Mậu Thân mà kết quả là hơn 5000 người dân Huế thiệt mạng trong những ngày tết thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.

Còn ngài Nông Đức Mạnh thì sao? Ôi ngài nổi tiếng với câu nói: “Chúng ta phải biết nuôi con gì trồng cây gì để đời sống người nông dân giàu lên…!” Cây gì con gì của ngài nói, đến nay vẫn còn là những ẩn số… Đời sống của người dân ngày càng đi xuống và đời sống của các ngài càng ngày giàu sang! Nhớ đến ngài Nông Đức Mạnh là phải nhắc đến chủ trương lớn của đảng CSVN và nhà nước CHXHCNVN: dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Giờ này thì dự án này đã là thứ gân gà khó nuốt rồi đó, mặc dù mới đây ông Nguyễn Tấn Dũng có lên gân bảo dự án đã có lãi (?). Tin mấy ngài là bán thóc giống mà ăn. Quan trong hơn nữa, một khi những hồ bùn đỏ vỡ ụp, làm ô nhiễm cả một vùng đất nước rộng lớn thì lúc đó dù còn sống hay đã chết rồi quí ngài vẫn không chạy thoát khỏi sự trừng trị của người dân.

Người Việt nam mình có câu: Nghĩa tử nghĩa tận. Nhưng cũng có câu: Cọp chết để da người ta chết để tiếng. Các ngài dù gì thì cũng là những con người của lịch sử, ít nhiều hậu thế sau này sẽ nhắc đến. Họ nhắc chuyện tốt hay xấu là do công việc các ngài làm khi còn sống nhất là lúc đương chức. Người Việt Nam hôm nay nhắc Trần Hưng Đạo thì cũng nhắc Trần Ích Tắc, nhắc Vua Quang Trung thì cũng nhắc Lê Chiêu Thống. Lịch sử sẽ phán xét các ngài một cách công bằng không vì cái tượng đồng hay một chiếc ghế giả ngai vàng.

Ngô Việt

danlambaovn.blogspot.com

Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Chuacuuthe.com

VRNs (21.02.2015) – Sài Gòn – Nói thật, trước giờ tôi rất ít khi xem phim Việt Nam vì hầu như nội dung của các bộ phim đều nhạt nhách, đôi khi hết sức vô duyên và tình tiết thì khiên cưỡng. Lợi ích có được chăng cũng chỉ là giúp người ta giải trí chứ ít để lại ấn tượng gì để mà suy gẫm…

Trong dòng phim Hài mùa Tết 2015 có lẽ đã có sự khác biệt khi “TRÚNG SỐ” được công chiếu và ít nhiều đọng lại trong tôi đôi điều trăn trở…

Bộ phim gây được ấn tượng sâu sắc với tôi cũng chỉ bởi vì nó gióng lên được một thông điệp, nó khái quát gần như đầy đủ bộ mặt thật và văn hóa sống của con người Việt Nam dưới chế độ thiên đường XHCN. Bây giờ sống tốt được xem là ngu, chân tình – thật thà là ngốc, gian dối, tham lam, lừa đảo là điều hết sức bình thường… Chỉ có điều bất thường là hầu như người ta xem những người dám sống tốt là những người bất bình thường!

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Tôi chưa thấy ở nơi đâu mà giá trị “Tốt” được đánh đồng là “Ngu” và quả thật là rất đúng như ở xã hội Việt Nam hiện nay. Bạn có thừa nhận với tôi không: ở cái xứ sở này người tốt và việc tốt đang được xem như một điều lạ lùng và hiếm thấy. Nó khiến người ta phải ca ngợi, tôn vinh, nhắc nhở nó trên báo đài như một tấm gương, như bài học luân lý… mặc dù xét ở nhiều góc độ, cái được xem là người tốt, việc tốt ở Việt Nam cũng chỉ là điều hiển nhiên, là thứ văn hóa giao tế cộng đồng bình thường, là những nguyên tắc cơ bản được mặc định ở các xã hội khác trên toàn thế giới…

Bạn có bao giờ đặt câu hỏi và lý giải tại sao xã hội Việt Nam ngày nay lại tràn lan những sự việc suy đồi và đạo đức con người đang xuống cấp, tha hóa đến mức trầm trọng? Tôi không phải là giáo sư, tiến sĩ để có thể lý giải bằng thứ triết học cao siêu, uyên bác… Tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng Cha mẹ sống thế nào thì con cái thế ấy. Bản chất Chính quyền ra sao thì nảy sinh bản chất người dân như vậy! Bạn không thể đòi hỏi một xã hội lành mạnh và phát triển khi chính bộ phận điều hành xã hội đó chưa bao giờ được lành mạnh và sâu bệnh từ gốc đến ngọn.

Chế độ tại VN đã được hình thành và xây dựng với niềm tự hào là “cướp chính quyền” bằng sự khẳng định và tư liệu chính thống; Một đất nước với sách giáo khoa là những trang lịch sử ngụy tạo, xóa bỏ sự thật, che dấu sự giả dối! Một bộ máy với cơ chế và những con người luôn đặt lợi ích bản thân lên trên lợi ích đất nước và nhân dân… thì làm sao xây dựng được một xã hội biết nói không với giả dối? Biết tự trọng để nhìn nhận lỗi lầm? Biết quay lưng với sự gian tham? Biết giúp đỡ, lên tiếng phản đối bất công và gìn giữ sự thật, công bằng? Dám làm điều tốt mà không sợ nhầm lẫn và không bị xem là ngớ ngẩn khác lạ…

Với một chính thể và bộ máy điều hành như vậy thì Người dân biết dựa vào đâu để cùng xây dựng và vun đắp những giá trị luân lý? Biết dùng tấm gương tốt nào để học tập và noi theo? Thể chế và lãnh đạo toàn thể hiện điều xấu xa thì dân làm theo cũng là điều hiển nhiên!
Tốt và ngu bây giờ như nhau có đồng nhất không? Giống như Xứ sở này là thiên đường nhưng đang lao nhanh xuống địa ngục vậy? Y chang!

Bạch Cúc

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Tác Giả : Tạ Duy Anh

Xahoi – Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam.


Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi …Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ ngày một phình to?

Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30 % công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng 800.000. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor…Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland…

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng ( 2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều.

Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 5 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giả phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 1500 buổi, với khoảng 9000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai hoạ của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại công kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách vào nhà nghỉ với chính đồng nghiệp của mình. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì shoping tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày…

Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ đến tuổi là đến. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng…đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách…biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ. Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

RFA

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Thơ Nguyễn Bính hay hơn ở những sáng tác trước năm 1945, tức là khi ông chưa sáng tác theo phương pháp hiện thực XHCN, chưa có tính đảng. Đây cũng là nét chung của các nhà thơ trong phong trào thơ mới như Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Chế Lan Viên…

Trong giai đoạn này thì thời kỳ 1936-1940 là thời kỳ rực rỡ nhất của thơ Nguyễn Bính, trong đó thành công hơn cả là mảng mùa xuân – làng quê – tình yêu. Sau đó thì đuối dần.

Khi chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, chia đều cho100 tác giả, mỗi tác giả 1 bài thì với Nguyễn Bính, người ta chọn bài “Những bóng người trên sân ga”. Không ai phủ nhận đấy là một bài thơ hay nhưng nếu được quyền, tôi sẽ chọn bài “Mưa xuân”. Khi giới thiệu 8 bài thơ của Nguyễn Bính vào “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh không lấy bài này cũng như “Những bóng người trên sân ga”

MƯA XUÂN

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.*

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

(* Có bản chép “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, hoặc “lỡ làng”)

Đã có nhiều bài bình về bài thơ này, mỗi người cảm thụ một vẻ, nhưng cũng có những phần giao thoa.

Mùa xuân trong bài thơ có mưa bụi, có hoa xoan, có hội chèo. Ba nét ấy là những nét chấm phá nói về mùa xuân ở làng quê. Bức tranh làng quê sống động hẳn qua ngòi bút của ông. Cách dùng chữ của ông thật tài tình. Mùa xuân đẹp đến hạt mưa cũng bay phơi phới, như nỗi lòng con gái dậy thì, đầy nhựa sống và xúc cảm. Tác giả đã thổi hồn vào hạt mưa thật đẹp. Chữ phơi phới nhiều người dùng, nhưng dùng làm tính từ kèm theo mưa xuân thì chỉ Nguyễn Bính.

Qua hình ảnh “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy, ta biết bối cảnh trong bài thơ là vào tháng Ba. Lúc này, ở làng quê đang tiếp tục mùa lễ hội. Trong các lễ hội thường có diễn chèo, diễn tuồng, gọi chung là đi xem hát, chứ không nói là xem chèo hay xem tuồng (hát bội). Hát ở đây không phải là chương trình ca nhạc như bây giờ. Đó là các gánh hát tư nhân thường diễn các tích chèo, tuồng cổ. Các đôi trai gái đang yêu vụng nhớ thầm thường mượn những nơi hội hè, phiên chợ để tìm cơ hội gặp nhau. Nhưng cũng chỉ là lúc mới thương thương nhớ nhớ mơ hồ thôi, chứ khi họ đã thuộc về nhau rồi thì chẳng dại gì đem nhau ra những nơi ấy. Họ có bờ ao, gốc cây riêng của họ.

Cô gái trong bài thơ cũng thế. Lý do là đi xem hát nhưng là để mong gặp chàng trai đấy thôi chứ thiết gì xem. Đi chơi cần tiết trời đẹp. Nhưng vì trời đang mưa nên cô phải thử:

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh.

Và cô nghĩ mưa nhưng nhẹ để cho rằng “Thế nào anh ấy chả sang xem”. Cũng qua câu này, ta biết đây không phải là cuộc hẹn mà cô gái phỏng đoán, là hy vọng đấy thôi. Nhưng cũng đáng trách chàng trai là trước đó có hứa, có hẹn gì đấy nhưng không cụ thể, theo kiểu sẽ thế này, sẽ thế nọ.

Cô gái ở đây là con nhà bình dân làn nghề canh cửi, có khuôn phép. Cô đang độ xuân thì, còn trong trắng, ví như “cây lụa trắng” mà quyền bán là của người mẹ. Ấy thế nhưng không thể đóng khao khát yêu đương của cô vào một cái khuôn nào đó:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Hai chữ “hình như” và “có lẽ” đặt vào tâm trạng cô gái lúc này là rất chính xác. Cắt nghĩa ra thì nó không mang tính khẳng định nhưng ai cũng biết má cô bừng đỏ thật, cô đang nghĩ đến người yêu thật, chứ không phải “hình như” hay “có lẽ”. Cô vừa muốn thừa nhận lại vừa sợ người khác biết, thậm chí muốn dối lòng mình nên chỉ lấp lửng như vậy thôi. Nó còn nói lên tâm trạng phân tâm, nên đi hay không đi.

Cuối cùng thì cô đã bị tình cảm lấn át:

Em xin phép mẹ vội vàng đi.

Tác giả tả cảnh, tả tình thật tuyệt vời. Người và cảnh hòa quyện đến độ con đê, hạt mưa, hoa xoan cũng biết vui, biết buồn.

Sau khi “chờ mãi anh sang anh chẳng sang”, cô gái “lầm lụi trên đường về”. Có một sự trách nhẹ ở đây:

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

Ai đã từng một lần mong gặp người yêu mà không được sẽ thấu hiểu hơn tâm trạng cô gái lúc này. Nguyễn Bính diễn tả tâm lý cô gái khi đi và khi về rất tinh tế. Ông sử dụng thủ pháp tương phản rất hiệu quả. Đây là điều cơ bản tạo nên sự thành công của bài thơ.

Hãy đọc lại những cặp câu tương phản sau:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Mưa bụi nên em không ướt áo/ Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Thôn đoài cách có một thôi đê/ Có ngắn gì đâu một dải đê

Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay/ Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày

Tình cảm của cô gái đã rõ, còn chàng trai đối với cô gái như thế nào? Chàng được nhắc đến hai lần:

… hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Và:

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang.

Có thể nói anh chàng này rất khả nghi, còn tình cảm cô gái rất mãnh liệt. Mặc dù việc không gặp được người yêu làm cho “cả mùa xuân cũng bẽ bàng” nhưng cô gái vẫn tha thiết, mòn mỏi, hy vọng.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

Và với cả sự trách nhẹ của cô đã nhắc trên đây nữa, ta thấy ở cô một tấm lòng bao dung, trong sáng và cao đẹp.

Khi yêu, thường là người con trai chủ động hơn người con gái. Nói như thế, không phải là tình yêu của con trai mãnh liệt hơn. Cô gái ở đây chỉ có một hành động duy nhất là sang hội chèo xem có gặp người ta không, rồi về, thế thôi. Nếu như chàng trai cũng sang xem hát, chắc là cô sẽ không hỏi trước, không tỏ ra vồn vã. Đó là sự kín đáo của con gái, nhất là con gái nhà quê. Nhưng ai bảo là cô không khao khát yêu đương.

Kể ra, bài thơ có thể thay nhân vật cô gái bằng chàng trai. Như vậy có vẻ hợp với lẽ thường hơn. Nhưng nếu thế, có lẽ bài thơ kém hay đi nhiều. Chợt nhớ Huy Thục, ít nhất đã có 2 lần đổi ngôi anh thành ngôi em khi phổ nhạc. Đó là bài “Đợi” của Vũ Quần Phương, “Trăng khuyết” của Phi Tuyết Ba, và cái sự có vẻ trái khoáy ấy làm cho bài hát thành công hơn hẳn:

Anh ngỏ lời yêu em => Em ngỏ lời yêu anh

Anh đứng trên cầu đợi em => Em đứng trên cầu đợi anh.

Trở lại bài “Mưa xuân”. Bài thơ được bố cục rất chặt chẽ. Ta không thể thay đổi vị trí các câu, các khổ thơ cho nhau, cũng không thể bỏ đi hay thêm vào một khổ thơ nào. Từ ngữ được huy động đầy dụng ý, không có một chữ nào khiên cưỡng. Khó có thể thò bút chữa đi một chữ mà không làm suy giảm giá trị của bài thơ. “Những bóng người trên sân ga” cũng được bố cục rất chặt chẽ nhưng ở “Mưa xuân”, ý và chữ nghĩa hay hơn, đẹp hơn. Có thể nói, “Mưa xuân” là một bài thơ toàn bích.

Nguyễn Bính không cố đi tìm những từ lạ, lối diễn đạt lạ. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ bình dân nhưng với ngòi bút tài hoa, ông đã để lại cho đời nhiều bài thơ xuất sắc, trong đó “Mưa xuân” – một bài thơ tình tuyệt đẹp là ví dụ điển hình.

Tháng 2/2013

Tháng 2/2015

NTT

.benmonguyenbinh

Tác giả bài viết bên mộ Nguyễn Bính

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

Lễ Mồng Hai Tết tại Gx. Kim Long, Huế

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em, 

Thiên Chúa đã dành điều răn thứ tư trong 10 điều răn để dạy chúng ta về lòng thảo hiếu. Và Giáo Hội Việt Nam dành Ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ. Chính Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã nhắc việc “thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử[1]. Còn thánh Phaolô trong bài đọc II dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này[2]. Việc cử hành đức thảo hiếu của chúng ta hôm nay có hai phần rõ rệt: một là kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời, hai là quan tâm đến Ông Bà Cha Mẹ đang còn sống.

1) Trước hết, việc kính nhớ nhắc chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đã qua đời có những người nhờ đời sống thánh thiện đã được đưa thẳng lên Thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa; nhưng cũng có những người vì thân phận yếu đuối của con người nay đang được thanh luyện trong luyện ngục. Các đấng đang ở trong luyện ngục may mắn không làm chi thêm tội, chỉ phải lo đền trả theo lẽ công bằng cho đến đồng xu cuối cùng[3], và các ngài cũng chẳng làm được chi thêm công phúc cho mình, chỉ trông nhờ vào lời cầu bàu của các thánh trên trời và sự giúp đỡ của chúng ta là con cháu của các ngài đang còn sống, nên tích cực cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời là bổn phận đức ái và thảo hiếu không thể thiếu. Giáo Lý dạy chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta trong luyện ngục phải trải qua những khổ đau dữ dội chẳng khác gì trong hoả ngục, chỉ khác là đau khổ trong luyện ngục có thời hạn và còn hy vọng được nhìn thấy Chúa, còn đau khổ trong hoả ngục là vô tận vì sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt Chúa nữa.

Chúng ta không chỉ nhớ đến các đấng đã sinh thành dưỡng dục mình nên người về phần xác, mà còn phải nhớ đến các đấng sinh thành nuôi dưỡng cùng đào tạo chúng ta trong đức tin và đời sống làm con Chúa nữa, như các linh mục, tu sĩ đã chăm sóc mục vụ cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ đến các ân nhân và mọi người đã chết, nhất là các linh hồn không được ai nhớ đến để cầu nguyện cho, dù lắm khi người thân của họ còn sống đầy dẫy ra đó, quen gọi là các linh hồn mồ côi. Chúng ta cũng không được quên những người mình có liên đới trách nhiệm, những người vì sự thiếu sót, lầm lỗi hay gương mù gương xấu của chúng ta mà giờ đây đang phải đau khổ trong lửa luyện ngục để cầu nguyện cho họ và đền tội chúng ta theo lẽ công bằng. Việc làm này không những lợi ích cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta và các linh hồn mà còn cho chính cuộc sống đời đời của chúng ta nữa, vì nó nhắc nhở chúng ta thức tỉnh nhìn lại cuộc sống của chính bản thân mình, nhất là trong Mùa Chay thánh vừa khởi đầu, sẽ phải đến trước toà phán xét trả lời Thiên Chúa về tất cả những gì chúng ta đã làm khi còn sống. Cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi so với cuộc sống đời đời, nhưng chính cuộc sống ngắn ngủi này lại quyết định số phận vô tận đằng sau cái chết và mời gọi chúng ta thức tỉnh ngay từ lúc này, thu xếp mọi sự ổn thỏa trước lúc phải ra đi, kẻo muộn mất chăng.

2) Bổn phận thứ hai của chúng ta là phải quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, không được viện bất cứ lý lẽ gì để chước miễn bổn phận thảo hiếu này, kể cả những việc làm liên quan đến chính Chúa, như Chúa Giêsu nghiêm khắc quở trách các biệt phái và các kinh sư “là lấy tập tục của người phàm mà bỏ qua Lời Chúa” chúng ta vừa nghe trong bài Phúc âm hôm nay. Chúng ta phải lo phụng dưỡng Ông Bà Cha Mẹ, sớm viếng tối thăm, thuốc thang khi đau ốm, đỡ đần miếng cơm miếng cháo… đừng để khi Ông Bà Cha Mẹ mất đi rồi hối hận muốn làm gì bù đắp cũng không còn được nữa, và còn bị người đời mỉa mai “khi sống con chẳng cho ăn, khi chết làm văn tế ruồi!” hay “một mẹ nuôi được mười con, mà mười con không nuôi nổi một mẹ!”
Ngoài ra, còn phải biết cộng tác giúp đỡ Ông Bà Cha Mẹ trong công việc thường ngày nữa. Kẻ nào quên bổn phận thảo hiếu sẽ không lớn lên thành người được. Câu chuyện đôi bàn tay của mẹ sau đây nói lên điều đó: Một thanh niên kia học hành đỗ đạt nộp đơn vào chức vụ quản trị một công ty lớn. Anh đã qua được các buổi phỏng vấn, và nay đến lượt ông giám đốc trực tiếp phỏng vấn lần cuối để quyết định nhận hay không nhận. Ông xem xét hồ sơ của anh thấy tất cả đều rất tốt, vì năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học, anh cũng đều xuất sắc, vượt bực. Ông hỏi:
– Anh đã được học bỗng nào?

– Thưa, không ạ.

– Thế cha anh trả học phí cho anh à?

– Cha tôi chết khi tôi vừa mới một tuổi. Chính mẹ tôi mới là người trả học phí và lo mọi chuyện cho tôi.

– Mẹ anh làm việc gì, ở đâu ?

– Thưa mẹ tôi giặt áo quần cho các tiệm giặt.

Viên giám đốc bảo người thanh niên đưa đôi bàn tay cho ông xem. Anh đưa ra hai bàn tay mịn màng rất đẹp. Ông hỏi:

– Có bao giờ anh giúp mẹ giặt giũ áo quần không?”

– Chưa bao giờ cả, bởi mẹ luôn bảo tôi phải lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi nhiều.

– Tôi có một yêu cầu: Hôm nay về nhà, anh hãy rửa đôi tay mẹ anh và ngày mai anh đến gặp tôi.

Người thanh niên cảm thấy anh có thể làm rất tốt công việc quá dễ dàng này, nên khi vừa về đến nhà, anh liền thưa với mẹ xin được rửa đôi bàn tay của mẹ. Mẹ anh cảm thấy rất ngạc nhiên, nhưng rồi cũng đưa đôi bàn tay cho con trai. Chàng từ từ rửa đôi bàn tay của mẹ. Nước mắt anh bỗng tuôn ràn rụa, bởi đây là lần đầu tiên anh khám phá ra rằng đôi tay nhăn nheo của mẹ đầy những vết chai cứng, sần sùi. Những vết sần này làm bà đau buốt khi đụng tới. Lần đầu tiên trong đời, anh nhận thức được rằng chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này của mẹ đã giúp anh có cái ăn cái mặc, tiền tiêu và trả học phí trong suốt nhiều năm qua. Những vết chai trên đôi bàn tay của mẹ là cái giá phải trả cho những xuất sắc trong học tập, và cho cả tương lai sẽ tới của anh nữa. Sau khi rửa và lau sạch đôi tay của mẹ, anh lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại. Tối hôm đó, hai mẹ con mới chuyện trò thật lâu với nhau. Sáng hôm sau, anh tới gặp ông giám đốc. Ông để ý thấy những giọt nước mắt lưng tròng trên đôi mắt anh và hỏi:

– Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã cảm nhận được hôm qua ở nhà không?

– Tôi đã rửa và lau sạch đôi tay của mẹ tôi như ông yêu cầu, và tôi đã giặt hết phần áo quần còn lại mà hàng ngày mẹ tôi phải làm.

– Thế cảm tưởng của anh như thế nào?

– Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn. Nếu không có mẹ, tôi không thể có được như ngày hôm nay. Qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức rằng thật là khó khăn và gian khổ để hoàn tất một công việc. Nay tôi càng biết rõ hơn sự quan trọng và giá trị của quan hệ gia đình.

– Ðây mới là những gì tôi tìm nơi người quản trị công ty. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của người khác và sẵn lòng giúp đỡ người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của người khác để hoàn thành nhiệm vụ, một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất trong cuộc đời mình. Anh là người được tuyển dụng. Tôi rất vui.

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em,

Xin cho việc kính nhớ và cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã khuất càng thôi thúc chúng ta hết lòng quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, hết lòng hiếu thảo phụng dưỡng, an ủi nâng đỡ các ngài, để các ngài được an vui hạnh phúc trong chuỗi ngày còn lại với chúng ta nơi dương thế, đợi ngày về an hưởng hạnh phúc trong Nhà Cha trên trời. Amen.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

[1] Mt 15, 1-6.

[2] Ep 6, 1-3.

[3] x. Lc 12, 59.

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

Nguyễn Tường Thụy

RFA

“Xuân này con không về” là sáng tác của bộ ba nhạc sĩ Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân, vào khoảng năm 1960. Ca khúc này, Duy Khánh thể hiện thành công nhất.

Thời chiến tranh, Miền Bắc không bao giờ có những bài hát kiểu này (được gọi là nhạc vàng). Nhạc vàng, và cả những bài thuộc dòng nhạc xanh (nhạc tiền chiến) bị cấm cho đến khi hết chiến tranh mới được phổ biến. Còn nhạc đỏ là phục vụ cho cách mạng (cộng sản). Tuy nhiên, sự phân loại xanh, đỏ, vàng cũng chỉ là tương đối.

Nghe “Xuân này con không về” mà người lính muốn bỏ trận địa. Nhưng Việt Nam Cộng Hòa vẫn chấp nhận dòng nhạc này. Ca khúc thường được phát trên sóng phát thanh miền Nam Việt Nam vào mỗi dịp xuân sang cho đến năm 1975.

Có thể VNCH tự tin, có thể không nhận ra tác động tâm lý của dòng nhạc này, có thể vì nhân bản. Dù sao thì đấy là một trong những điểm yếu (không nói là sai lầm) của VNCH trong chiến tranh nhưng tôi tin họ không bao giờ ân hận.

Thực ra, dòng nhạc này không có tội. Nhạc sĩ sáng tác bằng cảm xúc thật của mình nên không thể gọi là nhạc tâm lý chiến. Nó phản ánh rất trung thực cảm xúc, tâm trạng con người. Ở đây là những người lính. Nội dung bài hát không nói đến các vấn đề chính trị lớn lao. Khác với các ca khúc thiên về căm hờn, giục giã, xung trận dành cho người lính miền Bắc, tâm lý người lính ở đây nặng về gia đình, quê hương, chiến hữu… nói chung là các trạng thái tình cảm của con người. Không có chuyện lên gân, lên cốt theo kiểu con không về vì nhiệm vụ, vì lời kêu gọi của quốc gia, dân tộc.

Giai điệu hay, ca từ cảm động lại được thể hiện bằng giọng ca tuyệt vời của Duy Khánh, bài hát đã đi sâu vào lòng người qua nhiều thế hệ. Mỗi độ Tết đến, Xuân về, nghe lại ca khúc này, lòng người không khỏi rưng rưng.

Chỉ tiếc câu cuối, những lần hát sau được sửa là “Mẹ thương con xin đợi ngày mai”. Việc sửa này nó mang cái gì đó khiên cưỡng, mòn xáo. Còn bản cũ, điệp khúc “Mẹ ơi con xuân này vắng nhà” kéo dài, nghe càng lắng sâu, càng thêm da diết.

httpv://www.youtube.com/watch?v=D2qSGfyISHc#t=164

Nhân đây, xin giới thiệu thêm một clip thể hiện bài hát này của Đỗ Thị Minh Hạnh – một tù nhân lương tâm mới được trả tự do Tháng 6/2014. Xin lưu ý, Minh Hạnh không phải là ca sĩ chuyên nghiệp hay nghiệp dư mà chỉ là cô gái hay ca hát. Clip vừa được thực hiện ngày 27 âm lịch vừa rồi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=9QuBrGk0Ijc

Tết Ất Mùi (2015)

Nguyễn Tường Thụy

Cá Hồi Đỏ

Cá Hồi Đỏ

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.

Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN, chi nhánh TP HCM

Trang Câu Lạc Bộ Kỹ Thuật Việt Kiều đăng tải một bài viết (“Cuộc Di Cư Lớn Nhất Của Cá Hồi Đỏ Trong 100 Năm”) khá thú vị. Xin ghi lại toàn văn:

Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh British Columbia của Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên: cuộc di cư khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế kỷ trở lại đây.

Dự kiến, khoảng từ 6-8 triệu con cá hồi đỏ sẽ di cư tới sông Adams thuộc khu vực Shuswap của tỉnh British Columbia trong năm nay và đây được xem là cuộc di cư lớn nhất của cá hồi đỏ kể từ năm 1913.

Cá hồi đỏ là một trong các loại cá sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt. Cá hồi đỏ thường đẻ trứng trong vùng nước nông trên sông Adams vào tháng 10 hàng năm. Sau khi phát triển trong vùng nước ngọt khoảng 1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và sống ở đó khoảng 3 năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.

Loài cá hồi khi di chuyển định hướng bằng mùi. Mỗi con cá nhớ đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di chuyển qua đại dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó một cách hoàn toàn bản năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.

Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ không ăn và chuyển sang màu đỏ sáng.

Cá hồi có khả năng bơi ngược sông, vượt qua các dòng nước chảy xiết trong hành trình dài gần 500km từ biển tới sông Adams. Sau khi đã trở về nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và chết. Trứng sau đó nở ra con non và con non lại hành trình ra biển.

Hiện tượng di cư bí ẩn của cá hồi luôn thu hút sự quan tâm của du khách đến với sông Adams. Tại công viên Roderick Haig-Brown cạnh sông Adams – địa điểm quan sát cá hồi đẻ trứng tốt nhất, bầu không khí tại khu vực vốn yên tĩnh này đã trở nên nhộn nhịp giống lễ hội đường phố.

Brian Riddell, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Quỹ cá hồi Thái Bình Dương, gọi cuộc di cư khổng lồ lần này là “điều bất ngờ thú vị” khi số cá hồi đỏ di cư nhiều gấp đôi so với dự đoán trước đó.

Nguồn ảnh: ovsclub.com.vn

Cá hồi Dại Tây Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.

Bản năng về nguồn của cá hồi, tất nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.

Xét về số lượng, mức sản xuất của người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học hỏi.

Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời “tha phương cầu thực.”

Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” đuợc từ trường của lòng đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê nhà – tức sông xưa bến cũ – và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh nở.

Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới di động. Màng luới này chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào…hộp !

Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu “đem con bỏ chợ,” để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp, và mang bán.

Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có kẻ  bắt chước. Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học theo cách làm ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cá.

Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là vài triệu người dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự, trong số mấy triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả – tối thiểu – cũng phải một phần ba đã vong mạng.

Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.

Ảnh: wikipedia

Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị Quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội. Đám dân “trôi sông lạc chợ” này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài, cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.

Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á – cũng mang số phận y như  vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa. Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông – khi phần đất này còn thuộc Anh – Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ Kim mỗi đầu nguời để Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay ngược đãi !

Số người Việt may mắn hơn, hiện đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây Dương – giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt Kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu trăm Mỹ Kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô La, hay nhiều hơn nữa.

“Lượng kiều hối nhiều khả năng đạt 12 tỷ USD năm 2014,” theo như tin loan của  Đài Tiếng Nói Việt Nam –  nghe được vào hôm 30 tháng 11 năm 2014. Cùng thời điểm này, Nguyễn Hoàng Minh, (Phó Giám đốc NHNN – chi nhánh TP HCM) cho biết:“Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.”

Hà Nội có lý do để hãnh diện về thành quả này – thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu – về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nuớc những con nguời cùng quẫn và sôi xục bất mãn, rồi “thu về” những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang.

Thiệt khoẻ !

Bạn đã làm gì cho các Linh Mục?

Bạn đã làm gì cho các Linh Mục?

Năm Thánh cầu nguyện “Xin ơn thánh hóa cho các linh mục” đã được khởi đầu như đỉnh cao nhất trong đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Quả thật, đây là một đỉnh cao của toàn Giáo Hội, khi đã được nâng lên hàng Năm Thánh cầu nguyện. Rất trang trọng và thật thiêng liêng. Đó đây, đã có giáo xứ làm “slide show” và cả treo những hình ảnh rất lớn và sinh động về Thánh Gioan Vianney, quan thầy các linh mục, ngay trước tiền đường nhà thờ giáo xứ. Tuy nhiên, không ai ngây thơ cho rằng, chỉ cần cầu nguyện trong Năm Thánh, còn trước và sau NămThánh thì không cần cầu nguyện gì nữa.

Nhưng cầu nguyện, không chỉ là đọc kinh suông trơn tuột qua môi miệng, hoặc chỉ là những mơ ước “chay” dâng lên Chúa. Thánh Giacôbê đã dạy một điều quen thuộc: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, cũng thế, cầu nguyện thiếu việc làm thì cầu nguyện ấy chưa hoàn hảo, tất nhiên, không đẹp lòng Chúa.

Hành động đúng luôn phải khởi đi từ những suy nghĩ đúng, suy nghĩ đúng phải bắt đầu bằng những hiểu biết đúng.

Từ thánh giá đời linh mục…

Trong ngày lễ mở tay hay trong nhiều bài suy niệm hoặc giảng thuyết đó đây, người linh mục thường được nghe những lời có cánh đại khái như:

Từ bụi tro, Chúa đã nâng con lên hàng khanh tướng. Chúa đã chọn con trong muôn người ….

Những lời tuyệt vời ấy không sai, khi nói về tình yêu Thiên Chúa đối với tạo vật của mình. Nhưng cách nào đó, các lời ấy, chỉ nói  đến toàn hoa hồng mà chưa nói đến các gai nhọn của hoa hồng là những thập giá của đời linh mục.

Quả thật, quá nhiều gian nan thách đố và cả những cô đơn trống vắng trong đời linh mục.

– Linh mục là người làm dâu của trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm, bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi linh mục phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người khác nhau.

– Người ta thường nói: “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Câu nói này có thể cũng không sai với đời linh mục. Bao lâu người linh mục còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng trọng. Một khi đau yếu già nua, là gánh nặng, là cái gai thì cần nhổ đi.

Nói như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, vì thực tế đã có quá nhiều chuyện khiến ta phải đau lòng. Giáo dân thường hay quên mất công ơn người linh mục đã làm, chỉ nhìn thấy khuyết điểm để lớn tiếng.

– Người ta dễ nhớ đến một điều sai, nhưng lại hay quên trăm điều đúng mà người linh mục đã làm. Nói về một số linh mục lạm dụng tình dục bên trời Tây đang gây ồn ào trên thế giới, Qua một bài viết, Đức Giám mục Nguyễn Soạn đã nói về điều ấy rằng : Trong cánh rừng, cả  trăm ngàn cây vẫn đang vươn lên sinh động, nhưng khi chỉ có một cây gãy đổ, thì tiếng vang và ầm ào ấy sẽ rất lớn. Ngài không bênh vực biện hộ, nhưng đã chỉ ra một tâm lý thông thường.

– Người linh mục phải là một người khác giữa trăm ngàn người khác. Ngài thiếu và không thể có cái mọi người đã có và đang có thừa. Chiều muộn, Thánh Lễ đã xong, mọi người đã ra về, giáo đường mênh mông, trên Thánh Giá Chúa vẫn thinh lặng. Đêm xuống, nhà xứ im lìm vắng vẻ quạnh hiu. Nỗi cô đơn rất “người” .

Những cô đơn ấy càng đậm đặc hơn khi bệnh tật đau yếu. Miếng cơm, viên thuốc, ngụm nước và những chăm sóc theo dõi, làm sao có thể được ân cần như ý, như những người gần gũi máu thịt gắn bó của một gia đình ngoài “thế gian ” thường tình. Lại là một cô đơn khác, rất “người”.

Khi về hưu, mắt lòa chân run, muốn về ở với con cháu trông nom, thì cũng cần phải có một số vốn nào đó, tiền còn thì tình còn, tiền hết thì tình cảm cũng ra đi. Lúc ấy, ngài sẽ là gánh nặng rất đau đớn cùng với nỗi cô đơn gậm nhấm buồn phiền như bóng đêm. Lại thêm một cô đơn khác nữa, cũng rất “người”.

Ngay cả khi đã về một nhà hưu nào đó, nỗi cô đơn kia vẫn là một ám ảnh thấm thía, làm nặng thêm những cô đơn trông vắng trong khoảng trời riêng, cũng lại thật “người”.

Cái khoảng trống giữa khi làm việc và lúc về hưu  không nhỏ. Khi tại chức làm việc thì “còn duyên”, còn nhiều kẻ cần thiết đón đưa. Khi về hưu, lúc đã “hết duyên” thì thui thủi “đi sớm về trưa một mình”.

Toàn là những nỗi cô đơn, luôn luôn rất “người”.

Cuối cùng, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói ra, sau khi dâng Thánh lễ mở tay, 5 năm, 10 năm hoặc một thời gian nào đó, người linh mục ngày càng giảm dần cái sốt sắng ban đầu, tính thánh thiêng trong Thánh lễ cũng giảm dần, để biến thành những thói quen nhàm, không còn là DÂNG LỄ, nhưng chỉ là LÀM LỄ với những cử chỉ máy móc hình thức qua lần chiếu lệ. Điều này sẽ thật là tệ hại, và cũng là thánh giá cho chính mình và mọi giáo hữu con chiên. Ngài rất sợ, không muốn điều này chút nào, nhưng đã xảy ra, như thực tế vẫn đang xảy ra, đó đây nhiều lắm.

…đến những cái bẫy nơi giáo dân

Giáo dân Việt nam, là những người người luôn yêu kính các linh mục rất đặc biệt, nên không ai can đảm dám “giăng bẫy” linh mục.

Tuy nhiên, những suy nghĩ và cách cư xử của họ đã trở thành những cái bẫy, tuy vô tâm vô tình nhưng lại thật hiệu quả. Rất nhiều linh mục đã sập những chiếc bẫy ngọt ngào, êm dịu và đầy thú vị này. Kẻ giăng bẫy thì nhiệt tình và rất chân thành. Kẻ lọt bẫy cũng thường được vui lòng thoải mái.

– Thực vậy, để tốt nghiệp và có thể hành nghề, một bác sĩ cần 7 năm học tập và thực nghiệm. Dù thế, vị ấy cũng chỉ tốt nghiệp một khoa nào đó riêng biệt, nếu muốn thực hiện thêm khoa nào khác, phải học thêm lên cao, mất rất nhiều năm. Chưa nói đến cái TÂM và Y đức cần phải được mài dũa, thao luyện và sọi rọi qua từng ca bệnh mỗi ngày.

Người linh mục, như trường hợp bình thường, cũng chỉ được học tập và đào tạo trong 6, 7 năm với các môn chuyên biệt về “đạo”, thêm một thời gian nữa đi giúp xứ, để khi ra trường đạt yêu cầu. Đang khi môi trường “đời” luôn mênh mông muôn mầu và đổi thay hàng ngày đến chóng mặt.

Thực tế là như vậy, nhưng không biết từ lúc nào, người giáo dân vẫn coi linh mục luôn là người thông suốt mọi sự, nhất là khi biết các ngài đã được học những môn ghê gớm xa xôi như Thần học, Triết học…

Khởi đi từ suy nghĩ và quan niệm như thế nơi giáo dân, nên linh mục, vị lãnh đạo tinh thần, đã được mời kiêm nhiệm các chức vụ trong nhiều lãnh vực khác nhau, nhiều khi chẳng hợp với chuyên môn và thiếu hẳn kinh nghiệm của các vị ấy như: luật pháp, kinh tế, tâm lý, xã hội…

Từ một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Kỹ sư kiêm đốc công các công trình xây dựng, quân sư về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói linh mục còn phải đảm nhận những chức vụ “ phần đời” nọ kia khác.

Người giáo dân quen nhìn linh mục như một kẻ thông suốt mọi sự, “nhiều ơn Chúa”, độ tin cậy cao hơn hẳn mọi người, nên khi mời và được ngài nhận lời thì quả là một vinh dự hiếm có.

Nhưng thực tế nhiều trường hợp đã minh chứng rằng, đó chỉ là những cái bẫy ngọt ngào làm người linh mục sụp hố khi bị thua lỗ, hỏng chuyện và thất bại đau đớn, điều ấy đơn giản, vì đó không phải là các chuyên môn của các Ngài.

– Kính trọng linh mục là điều quý và phải có, nhưng các cử chỉ quá khúm núm là điều rất nguy hiểm, vì nó dễ làm cho các linh mục quên đi thân phận bụi tro, cục đất của mình, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Từ cục đất Chúa đã nắn thành tượng bụt, nhưng qua cách cư xử trọng kính quá khúm núm đến mất tự nhiên của giáo dân, đôi khi, người linh mục lại có ảo tưởng rằng mình là ông bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó, trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán, độc diễn ….

Trọng kính theo cái kiểu: “Con xin phép lạy cha ạ”, người nói thì chân thành nhiệt tình, người nghe cũng thấy được vuốt ve êm tai dễ chịu, nhưng đó chính là một cái cái bẫy khác dễ làm mất dần căn tính dẫn đến vong thân đáng tiếc.

***

Như ngọn nến phải bị đốt tan chảy, tiêu hao thì mới cho ánh sáng; cũng thế, người linh mục đang tan chảy từng giờ cho các giáo dân của mình. Ngọn nến kia có thể là lung linh đẹp đẽ, nhưng đôi khi cũng leo lét gây nhiều lo âu. Song, dù lung linh hoặc leo lét thì xin đừng quên, ngọn nến ấy cũng đã cho ta ít nhiều ánh sáng, dù nhiều khi ánh sáng ấy chưa được như lòng mong ước.  Và ngọn nến ấy đang tàn dần, như chính chúng ta cũng đang tàn dần theo từng giờ khắc.

“Bạc là dân, bất nhân là lính”, câu nói ấy không phải lúc nào cũng đúng và đúng với tất cả mọi người. Xin đừng BẠC, xin đừng BẤT NHÂN với ngọn nến đã ít nhiều soi sáng cho mình, cho gia đình mình trong xứ đạo trong thời gian nào đó.

Thân phận con người là mỏng dòn hạn chế, điều này ai cũng biết.

Đừng bắt ai là Thiên Thần, đang khi chính mình vẫn chỉ là NGƯỜI, để xét nét phê bình hoặc chê bai cao giọng.

Quan hệ giữa giáo dân và người linh mục không phải lúc nào cũng êm trôi xuôi chảy, đã có nhiều trục trặc trở ngại thật buồn.

Nhưng tất cả những ai đã từng xúc phạm cách này cách khác với người linh mục, sau đó, đều thấy hối tiếc không vui và rất lấy làm xấu hổ.

Một vị thức giả đã nói: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”. Một câu nói đầy minh triết bao dung của một tâm hồn cao đẹp. Câu nói ấy cũng có thể đổi thành:

“Đừng hỏi linh mục đã làm gì cho bạn, mà hãy hỏi rằng, bạn đã làm gì cho người linh mục hôm nay”.

Cụ thể rằng, bạn đã đi thăm những linh mục hưu dưỡng chưa, và được mấy lần? Bạn có băn khoăn và nghĩ gì về một ngọn nến đã hoặc đang soi sáng trong xứ đạo của mình.

Chỉ mới nghĩ vậy thôi, đã có người phải rơi nước mắt.

Xin được dùng câu nói in đậm trên kia để thay cho phần kết bài này, và đây cũng là dịp may để nói với chính mình trước hết.

Xuân Thái

Anh chị Thụ Mai gởi