Chút ánh sáng cho cuộc đời,

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”,
Cất tiếng hát cho một Người.
Có mắt biếc soi nụ cười.
Tươi như cánh hoa tình ái.

(Nhạc: Les amoureux qui passent – Lời: Nam Lộc – Một thời để yêu)

Trần Ngọc Mười Hai

(Gv 7: 13-15)

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”, là thời để yêu sao? Có chắc thế không, hỡi bạn già tên Nam Lộc? Sao tôi đây, hát cũng nhiều lời lẽ của bạn vẫn từng viết, hoặc trích-dịch, mà vẫn cứ thấy cuộc lại ra khác, như câu hát tiếp theo do bạn diễn-tả:

“Đã biết nói yêu một lần
Sẽ thấy đớn đau thật gần
Sẽ thấy nắng phai nhạt dần
Khi vương vấn trong tình yêu.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Thôi thì, cứ coi là thế đi. Thôi thì, cứ coi như hành-xử của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa mới đây, đối với Giáo-triều La Mã, cũng hệt thế.  Thôi thì, cũng cứ hát như thế để rồi ta lại thêm vào đó lý-do khiến mình hát nó vào lúc này, để làm nền. Như câu tiếp, còn đáng kinh khiếp hơn:

“Đời là một thời để yêu
Yêu trong bóng đêm lẻ loi
Yêu cho bao nỗi đắng cay
Yêu cho quên từng ngày tháng

Tình là một lần được mơ
Mơ trong bóng đêm lẻ loi
Có những chiếc lá úa rơi
Rồi chơi vơi vào trời tối ..”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Phải thế không? “Tình là một lần được mơ? Mơ trong bóng đêm lẻ loi”? Mơ sao được, khi tình còn đó rất thực, chứ chẳng phải là giấc mơ hay giấc mộng gì ráo trọi.

Phải thế không? Khi chính đấng chủ quản Giáo Hội ở Rôma, lại đã dám dùng dao nhọn mổ xẻ để dứt bỏ khối u của căn bệnh? Mơ thế nào đây, khi chính miệng Đức Giáo chủ lại nói ra lời lẽ rất đáng khiếp sợ, tương tự như:

“Giáo-triều được kêu gọi cải-tiến, luôn cải-tiến và tăng-trưởng trong hiệp-thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng Giáo triều cũng như mỗi thân thể con người cũng có thể bị bệnh, hoạt-động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây, tôi muốn liệt-kê vài căn-bệnh có thể xảy ra, là những bệnh của Giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của Giáo-triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa-mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn-bị lãnh-nhận bí-tích Hoà-giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh…” (x. Mười Lăm Căn Bệnh của Giáo triều Rôma cần chữa trị www.chuacuathe.com 22/12/2014 ở “các mục chính”

15 căn bệnh của Giáo triều đã được kể. Con dao mổ xẻ đã và sẽ được dùng đến để làm công việc của vị chữa lành, trong Hội thánh. Vấn-đề ở đây hôm nay, không là: kể đi kể lại những bệnh-tật của Giáo-triều hay cá nhân nào ở trong đó, để rồi sẽ bị dứt bỏ, như từng thấy hôm trước qua sự việc “Đức Phanxicô cách chức tư lệnh vệ-binh Thụy Sỹ” (x. www.bbc.co.uk.anzeigen 22/12/2014)

15 căn-bệnh nói ở đây, không chỉ là bệnh của Giáo-triều La Mã, như mọi người từng biết đến. Nhưng, (lại chữ “nhưng” rất đáng sợ) vấn-đề cần cứu xét ở đây, là câu kết thúc của Đức Phanxicô, về căn-bệnh ấy, như sau:

“Căn bệnh và cơn cám dỗ ấy cũng là nguy-cơ của mỗi Kitô-hữu, mỗi giáo-xứ, cộng-đoàn, dòng tu, các phong-trào Giáo-hội trên bình diện cá-nhân và cộng-đoàn. Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân-lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này…” (xem thêm Trần Đức Anh OP, tin Vatican 22/12/2014 đọc vào những ngày rong chơi ở Tibet & Nepal cuối năm 2014)

Điều cần bàn ở đây, là ta cứ “phiếm” thêm cho rộng đường dư-luận để rồi đi đến một kết-cuộc khá tốt đẹp, trong đời người.

Điều, mà bạn và tôi, ta cứ muốn bàn và cứ thế mà làm vào lúc này, là nhìn vào những chuyện vui tươi, tích cực có giòng chảy thi-ca, âm-nhạc để gợi hứng cho một cuộc sống đầy lạc quan hơn.

Nghĩ thế rồi, xin mời bạn và mời tôi, ta hát tiếp những câu ca đầy ý-nghĩa, rất như sau:

“Có biết đắng cay một lần

Mới tiếc nuối ân tình này

Mới biết nhớ mong từng ngày

Như khi thấy nhau lần cuối


Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..


Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Nói thế rồi, bần đạo nay xin “phiếm” tiếp về những chuyện xảy ra trong đời mình/đời người, như sau:

Bần đạo có người anh rể cũng họ Phạm tên đệm có chữ Duy nhưng tên gọi lại Cử, Phạm Duy Cử hẳn hòi, chứ không không phải Duy Cường, Duy Quang hoặc Duy Nhượng rất nổi cộm xưa nay… Giáng Sinh 2014 vừa rồi, anh viết cho bần đạo những giòng chữ “để đời” về tình hình và tâm tính của người cao niên, như thế này:

Tôi và chị của chú vẫn bình thường, rất rảnh việc nên hay tranh cãi (không phải là cãi nhau đâu) về đủ mọi thứ việc thời sự, quốc nội, quốc ngoại, chuyện ngày nay/ngày xưa. Ai cũng muốn thắng. Phán bảo như cha cố, là bệnh của người già. Tôi có đi hỏi các bạn già của tôi về chuyện này, thì mọi người cho biết đây là bệnh rất hay lây, nhà nào cũng bị không biết bên đó có bị vậy hay không?” – và hình như các bà đều thắng cả mà mấy ông bạn tôi cũng y hệt như thế.” (Trích thư viết tay của người anh rể họ Phạm trong gia đình họ Trần, hôm 24/12/2014 đang ở Mỹ)

Rất đúng là như thế, phải không hỡi bạn và tôi? Nay, hãy đi vào đời, sẽ  được nghe những truyện kể rất dễ nể, nhưng ít được nghe. Vậy thì, xin mời bạn mời tôi, ta cứ thử nghe xem rồi suy nghĩ về câu chuyện cũng thoáng chốc như sau:

“Tôi ngồi cùng người bạn trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice, Ý, thành phố của ánh sáng và nước.

Khi chúng tôi thưởng thức cà phê, một người đàn ông bước vào và ngồi xuống chiếc bàn trống bên cạnh chúng tôi. Anh gọi người phục vụ và nói:

– Hai ly cà phê, một ly trên bức tường kia.

Chúng tôi khá quan tâm khi nghe gọi thức uống như thế và quan sát thấy người đàn ông được phục vụ một ly cà phê nhưng trả tiền cho 2 ly. Khi anh đi khỏi, người phục vụ dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Trong lúc chúng tôi còn ngồi đó, hai người đàn ông khác vào quán và gọi 3 ly cà phê, 2 ly trên bàn và 1 ly trên tường. Họ uống 2 ly cà phê nhưng trả tiền cho 3 ly và rời đi. Lần này cũng vậy, người phục vụ làm tương tự, anh dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Có điều gì đó làm chúng tôi thấy lạ và khó hiểu. Chúng tôi uống hết cà phê, trả tiền rồi rời đi. Vài ngày sau, chúng tôi có dịp quay lại quán cà phê này. Trong lúc chúng tôi đang thưởng thức cà phê, một người đàn ông ăn mặc tồi tàn bước vào. Khi anh ngồi xuống ghế, anh nhìn lên tường và nói:

– Một ly cà phê trên tường.

Người phục vụ mang cà phê đến cho anh với sự tôn trọng như thường lệ. Người đàn ông uống cà phê và đi khỏi mà không trả tiền. Chúng tôi ngạc nhiên chứng kiến tất cả sự việc, lúc người phục vụ tháo một mảnh giấy trên tường và bỏ nó vào thùng rác.

Giờ thì chúng tôi không còn ngạc nhiên nữa – sự việc đã rất rõ ràng. Sự tôn trọng tuyệt vời dành cho người nghèo được thể hiện bởi các cư dân ở thị trấn này đã làm đôi mắt chúng tôi đẫm lệ. Hãy suy ngẫm những điều người đàn ông này mong muốn. Anh bước vào quán cà phê mà không phải hạ thấp lòng tự trọng… Anh không cần xin một ly cà phê miễn phí… không cần hỏi hay biết về người đang cho anh ly cà phê này… anh chỉ nhìn vào bức tường, gọi thức uống, thưởng thức ly cà phê của mình và rời khỏi quán. Một ý nghĩ thật sự đẹp. Có lẽ đây là bức tường đẹp nhất mà bạn từng nhìn thấy. (truyện kể rút từ điên thư trên mạng năm 2015)

Kể như thế, là kể về những sự-kiện xảy ra trong đời, với mọi người. Tiếp đến là những đoạn ngắn cũng được kể trên mạng do bạn bè chuyền cho nhau trong lúc “trà dư tửu hậu” rất một “thời để yêu và để…cãi” như truyện kể ở bên dưới:

Một ông nhà binh nhanh chân phát biểu truớc:

– Các ông có biết không?  mỗi cuối tuần tôi chở vợ đi chợ, tôi đẩy xe theo sau bà.  Mua đầy xe, tôi hỏi bả “Về chưa?”  Bả nói ông chở cho tôi lại chợ khác mua một chai nước mắm.  Tôi hỏi  “Sao bà không mua ở đây luôn.”  Bả nói:  “Ở đây nước mắm tới $2.99, còn chợ kia chỉ có $2.88”. Từ chợ nầy đến chợ kia lái xe 45 phút, bả quên tính tiền xăng. Tôi với bả bắt đầu… cãi.

Ông nhà binh chen vô:

– Còn tôi, khi lái xe, tôi quẹo tay phải, bả nói sao ông không quẹo tay trái. Tôi chạy nhanh, bả kêu tôi chạy chậm lại. Tôi chạy chậm, bả nói ông chạy như rùa bò. Tôi nói: “để tôi order hãng xe Toyota chế cho bà xe có 2 tay lái, để bà khỏi lái xe bằng miệng”.  Và, thế là cãi nhau.

Ông nhà bếp lắc đầu và kể chuyện ông nghe đuợc như sau:
– Có ông kia lái xe chở bà vợ ngoài xa lộ,chạy nhanh, bị cảnh sát quay đèn chận lại.  Cảnh sát hỏi “Ông có biết lỗi gì không?”  ông chồng chưa kịp trả lời, bà vợ tươm tướp la lên!  “Tôi đã nói ông rồi, ông chạy bạt mạng 7, 8 chục miles có ngày bị phạt mà ông không chịu nghe.”
Ông chồng  giận dữ la bà vợ:
– Để tôi lo, bà im cái mồm bà lại đi.
Không ngờ ông Cảnh Sát này là người Việt, nghe được tiếng Việt, hỏi bà vợ:
– Bộ ông chồng bà ở nhà cũng nạt nộ bà như vậy phải không?
Bà vợ liền trả lời:
– Đâu có.  Bữa nào ổng uống rượu say, ổng mới la như vậy.

Ông chồng nhận 1 ticket vượt tốc độ và 1 ticket uống rượu lái xe. Thế là vợ chồng lại cãi nhau.

Ông nhà binh nghe nói nãy giờ nhảy vô:
– Bà ngoại con Tép của tôi cũng không thua ai.
Bả nói với tui: “Sao tôi thấy ông ở Mỹ mấy chục năm rồi mà không hội nhập đuợc gì hết.”
Tôi tức quá:
– Bà không thấy tôi hội nhập sao? Ai cao máu, tôi cũng cao máu, ai cao mỡ, tôi cũng cao mỡ, ai tiểu đường, tôi cũng tiểu đường, tôi còn hơn nguời ta cái thấp khớp nữa.  Bà còn muốn tôi hội nhập gì nữa?
– Bà ngoại còn  nói: “Ý tôi muốn nói là ông không biết galant như nguời Mỹ, mở cửa xe cho vợ, mua bó hoa tặng vợ ngày Birthday, ngày Valentine.” …
– Trời ơi! Tôi cũng  muốn mở cửa xe cho bà lắm chứ, nhưng sợ người ta nhìn vào, người ta nói: “Thân bà một đống, cọp ăn 3 ngày không hết, bộ bà đó bị bịnh bại liệt gì mà không mở cửa xe được”. Còn birthday của bà, tôi mua cho bà 1 bó rau muống, 1 bó hành, 1 bó ngò, bà còn muốn gì nữa.

Thế là ông bà ngoại của con Tép bắt đầu cãi.

Ông nhà văn nãy giờ ngồi trầm ngâm,cuời mím chi, chậm rãi kể:
– Có một ông chồng đi sau xe chở quan tài của vợ đưa ra nghĩa trang. Ông bạn đi gần bên thấy ông này sao cái miệng nhép nhép như đọc kinh. Ông bạn tò mò đến gần hơn, thì nghe ông này không phải đọc kinh, mà ông ấy đang hát. Ông bạn hỏi: “Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát?”
Ông chồng trả lời:

– Từ ngày cuới bả đến giờ, chỉ có hôm nay tôi đi chung với bả mà không cãi nhau”

Ông nhà bếp chen vô một chuyện khác.Ông kể năm rồi, ông phải mổ van tim. Bà vợ ngồi kế bên than:  “Ông ơi, ông chết tôi chết theo”

Ông hoảng hồn: “Thôi bà ơi, để tôi đi một mình cho thanh thản, khỏi phải đi chung, khỏi phải cãi với bà.” (lại vẫn trích những câu truyện vụn vặt trên mạng)

Kể gì thì kể. Truyện gì cũng kể và cũng cứ kệ. Bạn và tôi ta cứ bàn và cứ kể cho nhau những chuyện vui buồn trong ngoài nhà Đạo, để còn sống. Sống vui tươi, mạnh-mẽ đời hôn-nhân vợ-chồng, cũng nên thêm đôi điều từ nhà mô-phạm nọ ở Úc rất như sau:

“Ngày nay, khi lấy nhau, người ta lại cứ chịu áp-lực từ nhiều phía. Với nền văn-hoá chú-trọng nhiều vào sự chất đầy cho bản thân mình được nhiều thứ, những thứ đòi có sự đồng-đều cho mọi người và mọi nhà, thì khó có thể duy-trì tình thương-yêu được sống sót. Thành thử ra, mọi kỳ-vọng trước đây ở hôn-nhân cũng đổi thay đã rất nhiều. Và từ đó, mỗi bên mỗi phía trong các cặp phối-ngẫu ở nhiều nơi, nay khác biệt nhiều về những trông mong và kỳ vọng cho chính mình. Kỳ vọng, có được sự quân-bình tinh-tế giữa sự phụ-thuộc và độc-lập. Giữa cả việc chăm lo săn sóc cho người phối ngẫu phiá bên kia, lẫn việc người kia phải lo phải chăm cho chính mình, phía bên này. Những kỳ vọng về nhu-cầu riêng rẽ lẫn rất chung của cả hai. Thành thử, trong hôn-nhân luôn có sự dè chừng và căn dặn: đừng phá bỏ con tàu chuyên chở hai chúng mình là hai người đồng hội đồng thuyền, suốt cả đời. Bởi, nếu bạn làm vậy thì một trong hai chúng ta sẽ bị chìm. Thật cũng không đáng để làm thế”. (xem thêm Margie Ulbrick, Keeping Love Alive, The Majellan Family October-December 2014, tr. 13-15)

Mỗi lần nhắc đến “một thời để yêu và để ghét, có…cãi vã”, bần đạo đây lại nhớ Sách Giảng Viên ở Cựu Ước, có những đoạn và những câu nói rất rõ về lập trường tư-tưởng còn sớm sủa, chưa ai nghĩ. Những lời tương-tự còn hằn in trong tâm trí của mỗi người.

Nhưng, giở sách này ra đọc, bần đọc lại cứ dán mắt vào những câu, như sau:

Hãy ngắm xem việc Thiên Chúa làm :
Người đã bẻ cong, nào ai uốn thẳng được ?
Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng.
Ngày bị rủi ro, hãy gẫm mà xem :
Ngày nào cũng do Thiên Chúa làm nên,
vì thế con người không thể khám phá
những gì sẽ xảy ra sau khi mình nhắm mắt xuôi tay.
Xét lại quan điểm truyền thống về sự thưởng phạt
Trong đời phù du, tôi đã thấy hết cả:
có người công chính bị tiêu vong dù sống công chính,
có kẻ gian ác lại sống lâu dù làm điều ác.

(Gv 7: 13-15)

Thế mới biết, như câu đầu tiên dẫn vào Sách này, lại thấy nói:

“Đây lời ông Côhelét, vị vua ngự ở Giêrusalem, đã từng nói:

“Phù vân, quả là phù vân.

Tất cả chỉ là phù vân.

Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả

dưới ánh nắng mặt trời?

Thế hệ này đi, thế hệ kia đến,

nhưng trái đất mãi mãi trường tồn.5

Mặt trời mọc rồi lặn;

mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên.”

(Gv 1- 1-4)

Thế mới biết, cả đến trời trăng, tinh tú hùng-hổ là thế, cũng đều phù-vân, chóng qua.

Thế mới hay, có là gì đi nữa, rồi cũng hết và cũng chóng qua/giả dối, thế mới tỏ. Bởi, có là gì đi nữa, rồi thì cái “gì” đó cũng qua đi, như con người và cuộc đời. Vậy thì, tội gì mà không nghĩ và hát những lời hay ho, ý-nhị như tác giả trên từng mời hát những lời như thế:

Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Hát thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ thế mà hãnh-tiến, hiên ngang mà sống mãi. Sống như những người từng hãnh-diện về cuộc sống của chính mình, trong giản đơn, hài hoà, đầy sức sống. Sống thế rồi, ta và người lại sẽ hiên ngang cùng đứng lên cùng người khác sống vui, sống mạnh, sống rất vững trong Đạo/ngoài đời cũng vui tươi, đáng sống cả một đời.

Bần đạo đây chắc chắn một điều là: dù có “một thời để yêu và để…cãi”, thì giờ phút cuối vẫn cứ như câu kết trong bài hát:

“Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn quan-niệm là như thế.

Mãi trong đời.

Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,

Tin Mừng Ga 3: 14-21

Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.

“Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,”

“Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng,

Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Mùa Chay hôm nay, nhà thơ thấy chơi vơi trên chín từng mây, đầy khí hậu. Trời linh thiêng, ánh sáng tan vào hư lãng, đổi sắc mầu. Tan, là để kêu gọi dân con rày cải hối.

Trình thuật thánh Gioan hôm nay, kêu gọi mọi người hãy cải hối. Hối cải, trong tuân giữ mọi điều răn. Điều răn hôm nay, Thầy Chí Thánh chú trọng đến tình thương đặc biệt, rất đặc biệt:“Thương yêu Thầy, sẽ được Cha của Thầy yêu mến.” (Ga 3: 21).

Trình thuật, nay cũng đề cập một lúc hai chủ đề: hăng say cải hối/ yêu mến giữ giới răn. Ở bình diện cao hơn, thánh Gio-an có nói: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngài trở nên nhân-tố cứu độ của Chúa Cha. Ngài cứu độ, không phải duy nhất cho phạm nhân nào đó, từng nên tội. Mà, toàn bộ tình huống đầy lỗi phạm, của thế trần. Chúa nhật hôm nay, còn là Chúa nhật Hồng, nhằm dẫn dắt ta đến gần hơn, vào với ơn cứu độ, rất đích thực.

Trình hôm nay, thánh sử lại đã so sánh Đức Chúa với Môsê. Cả hai đấng, là nhân-tố trong chương trình cứu độ, cho dân Ngài. Cụ thể, là Do Thái dân xưa cũng từng phiền than/oán trách cảnh huống mình hứng chịu. Chính vì thế, Môsê mới giơ cao “rắn đồng trên gậy”, như được kể trong Cựu Ước: “Nếu rắn cắn nhằm ai, người ấy cứ trông lên rắn đồng này, là được sống.” (Ds 21: 9)

Thánh sử còn thấy nơi đây, cũng một ảnh hình việc Chúa nâng cao chính mình Ngài, như rắn đồng. Với thánh Gio-an, “nâng cao” ở đây, bao gồm việc Ngài tự nâng chính Ngài trên thập giá. Và cả, việc Ngài được tự nhấc mình lên cao với Chúa Cha. Trong quang vinh. Vĩnh hằng. Bằng vào tiến trình cứu độ trọn vẹn, ai tự nâng nhấc/ngước mình lên với Chúa qua tin yêu/giùm giúp, sẽ lĩnh nhận cuộc sống vĩnh cửu, Ngài hứa ban. Và, cuộc sống thân thương Nước Trời như thế, sẽ không bị lấy đi.

Ở đây, tất cả đều là dấu hiệu chứng tỏ tình yêu của Đức Chúa. Tình yêu Ngài, được thể hiện qua việc Cha hy sinh Người Con của Ngài, để con người hưởng được cuộc sống an vui, vĩnh cửu. Đức Chúa chấp nhận hy sinh, là để cứu/chữa, chứ không phải để phê bình/lên án thế giới loài người. Quả vậy, chẳng người nào tự nhấc mình đặt để nơi vòng tay yêu thương của Đức Chúa, mà lại bị phê bình, lên án. Và, cũng chẳng khi nào là “quá trễ” để ta đặt mình vào động thái tự nâng nhấc, trong niềm tin yêu, của Nước Trời.

Trái lại, ai khước từ, dù chỉ một niềm tin thôi, cũng sẽ bị lên án ngay khi đó. Việc lên án, không nhằm đeo đuổi hướng nhắm những người đang theo niềm tin nào khác. Đạo khác. Tín ngưỡng khác. Hoặc, cả đến thị kiến khác, về cuộc sống. Việc phê bình/lên án chỉ xảy ra, đối với ai cương quyết chọn bóng tối, hơn là lựa sự sáng. Chọn bóng tối, tức: sống đời tệ bạc, có những hành vi phi luân lý. Như: giận hờn, ghét ghen, thay vì yêu thương. Hận thù/trả đũa, thay vì tha thứ. Hoặc, như: tham lam bạc tiền/vơ vét của cải, thay vì san sẻ. Nhận thật nhiều, cho thì ít. Ít cho, những gì liên quan đến sự sống. Ít cho, những gì mình trân quý.

Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ. Sẽ cùng họ, tiến về cùng Chúa.       

Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa.

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai. Lên án. Bình phẩm. Chính những người này, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ. Bởi những thành kiến. Huý kỵ. Và ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

Bài đọc 2, gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu. Ngang qua ta, mà thôi.

Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự. Trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người.

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Vietnam map

Vietnam map

Trà Mi-VOA

06.03.2015

Văn hóa, đạo đức của người Việt đã xuống dốc tới mức ‘chạm đáy.’ Đó là nhận xét của một Giáo sư-Tiến sĩ Khoa học danh tiếng trong nước chuyên nghiên cứu văn hóa-xã hội Việt Nam trên 20 năm nay.

Bình luận của Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận-Ứng dụng thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Trần Ngọc Thêm, được đưa ra giữa lúc cách hành xử hung hãn, bạo lực, giành giựt của người Việt đang gia tăng báo động và hình ảnh người Việt càng ngày càng trở nên xấu xí hơn trong mắt của nhau và của bạn bè quốc tế.

GS-TS Trần Ngọc Thêm đã dành cho VOA Việt ngữ cuộc trao đổi phân tích nguyên nhân và đề ra những khuyến nghị nhằm giải quyết vấn nạn xã hội nhức nhối này.

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Cách hành xử của con người càng ngày càng tệ hại. Nguyên nhân thứ nhất là do việc chạy theo đồng tiền, chạy theo vật chất. Cái này dính tới kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường không phải làm nên cái này. Cũng là kinh tế thị trường nhưng ở nhiều nước phát triển khác không có những chuyện lộn xộn như thế. Vấn đề ở chúng ta là các hệ giá trị đang bị đảo lộn. Các giá trị văn hóa truyền thống vốn thích nghi với môi trường ổn định, làng xã, nông nghiệp-nông thôn đang bị phá vỡ. Cái cần phải có, hệ giá trị mới của một xã hội đô thị, công nghiệp, hội nhập chưa hình thành xong. Vì vậy, xung đột dẫn tới sự đảo lộn. Lẽ ra phát triển kinh tế phải song hành với văn hóa. Văn hóa là nền tảng cho phát triển kinh tế. Nhưng ở ta, đáng tiếc là vế thứ hai chưa làm được.

VOA: Làm thế nào có thể thoát khỏi những cái chưa hay, chưa đẹp của nền văn hóa nông nghiệp trong thời đại xã hội công nghiệp hiện nay, thưa GS?

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Chúng ta thoát là thoát khỏi những tật xấu không còn thích hợp nữa, những hậu quả của văn hóa truyền thống mà giờ không thích hợp trong môi trường mới. Cần phân tích đầy đủ các nguyên nhân. Nguyên nhân kinh tế không đi cùng văn hóa là một. Nguyên nhân khác nữa là luật pháp của ta không nghiêm. Cho nên, cần phải thúc đẩy sự phát triển văn hóa, xây dựng văn hóa con người và phải xây dựng một nhà nước pháp quyền, tất cả tuân thủ theo luật pháp. Việc thứ ba, về mặt quản trị xã hội, do ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, trong mọi mối quan hệ có sự thiêng vị, không công bằng, không minh bạch, dẫn tới người dân có những uẩn ức, không hài lòng nhưng không giải thoát ra được ở đâu, kết quả là rất dễ xảy ra những điều như đang thấy. Cũng từ văn hóa truyền thống tạo ra tính cộng đồng ‘hội chứng đám đông.’  Ví dụ khi tham gia lễ hội, chỉ cần một người dùng sức mạnh chân tay thì dễ lây lan.

Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn

Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn

Đặng Hoàng Giang Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Hà Nội

  • 4 tháng 3 2015

BBC

Cảnh phân phát quà cho trẻ em dân tộc thiểu số

Từ sau khi đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai khánh thành, lượng khách tới Sapa tăng đột biến. Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, ô tô và xe khách biển số 29 và 30 chen chúc nhau nhích từng tí một trên những con phố dốc và hẹp ở trung tâm, rú ga giữ máy, bấm còi inh ỏi.

Buổi tối, ở quảng trường nhà thờ, nhạc disco được mở to hết cỡ, tiếng bass làm vạt áo rung bần bật. Các buổi sáng, du khách chen lấn nhau để xuống thung lũng “thăm quan” các bản, lượng iPad nhiều hơn số lợn con nằm vầy đất ven đường.

Không còn nhìn thấy núi non gì nữa vì hai bên đường đã kín hàng quán bán đồ lưu niệm. Trẻ con Hmong xếp hàng đợi được phát bánh kẹo như là khỉ trong sở thú.

Những đứa bạo dạn hơn thì đi giật lùi trước mặt khách, chúng từ chối kẹo, chỉ nhận tiền, và đồng thanh kêu như những cái máy vô hồn, tiếng Kinh không sõi “cô cho hai nghìn, cô cho hai nghìn”. Một cộng đồng và một vùng thiên nhiên đã đánh mất nhân phẩm của mình vì du lịch.

Đi du lịch là một sở thích khá mới của người Việt. Tới tận giữa những năm 1990, Sapa vẫn còn là một thị trấn xanh, yên tĩnh và thanh bình, du khách chủ yếu là người nước ngoài. Hồi đó, không có một người Kinh nào quan niệm leo lên đỉnh Phan Si Pang là một việc đáng làm, đấy là việc chỉ người Hmong “phải” làm để mưu sinh.

Cũng giống như ở phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ II, phong trào đi du lịch của người Việt dần dần lớn mạnh khi có đủ ba yếu tố hội tụ.

Thứ nhất, thu nhập đã vượt qua những nhu cầu tối thiểu. Thứ hai, quỹ thời gian rộng rãi hơn, người ta không phải đầu tắt mặt tối lo cho cuộc sống nữa. Thứ ba, cơ sở hạ tầng, nghĩa là phương tiện đi lại, dịch vụ khách sạn và ăn uống, đã tốt lên, để cho việc xê dịch không còn vất vả nữa.

Những yếu tố đó làm thay đổi thái độ của người ta với việc di chuyển, chuyển từ quan điểm “xểnh nhà ra thất nghiệp” tới chỗ coi việc ra khỏi nhà như một thú vui, một sự hưởng thụ.

Thậm chí, để thoát khỏi cái buồn chán của cuộc sống công sở hàng ngày ở một thành phố lớn, người ta còn tìm tới cái vất vả như một cuộc chạy trốn ngắn ngủi, tất nhiên bởi người ta biết là cái vất vả này là hữu hạn về mặt thời gian, và các rủi ro nằm trong vùng được kiểm soát. Các phong trào phượt, phong trào đạp xe, phong trào “leo Phan” ra đời.

Lũ lượt đi chơi

Cái đang xảy ra ở Sapa là sự hoành hành phá phách của hiện tượng du lịch đại trà (mass tourism) và chính sách phát triển phục vụ nó.

Giờ đây, tình hình đã khác hẳn. Năm ngoái có gần 4 triệu lượt người Việt đi du lịch nước ngoài, cộng với 40 triệu lượt khách nội địa, tổng lại là bằng một nửa dân số quốc gia. Nhìn xung quanh, ta thấy mỗi gia đình đều lên kế hoạch cho một vài chuyến đi trong năm. Với người Việt trung lưu, du lịch đã trở thành một sinh hoạt cơ bản, như mua sắm hay đi nhà hàng.

Khoảng khắc cho đồ đạc lên ô tô để lên đường bao giờ cũng là một trong những khoảnh khắc phấn khởi nhất của cả gia đình trong năm, và hình ảnh người bố trẻ lái xe trên xa lộ, người mẹ trẻ gọt hoa quả ở ghế bên cạnh, ở đằng sau là hai đứa con chụm đầu chơi iPad, truyền tải một trong những cảm giác sống viên mãn nhất của Việt Nam đầu thế kỷ 21.

Du lịch là con ngỗng đẻ trứng vàng với nhiều địa phương, họ giàu có lên trông thấy nhờ vào nguồn thu từ du khách, nếu “giàu có” được đo bằng số lượng nhà cao tầng mới xây và số ô tô chạy trên đường. Cái mất mát thì không ai lượng hoá được. Thờ ơ hoặc không ý thức được mặt trái xấu xí của du lịch, phần lớn các chính quyền địa phương tiếp tục cổ suý vô điều kiện cho “ngành công nghiệp không khói” này như một hướng phát triển văn minh và tiến bộ.

Cái đang xảy ra ở Sapa là sự hoành hành phá phách của hiện tượng du lịch đại trà (mass tourism) và chính sách phát triển phục vụ nó. Chính sách này có thể được gói gọn trong một mục tiêu: càng nhiều khách càng tốt. Để tiếp tục với ví dụ Sapa: số lượng khách tới đây vào năm 1991 là 2 000.

Năm 2002, con số này là 60 000 người. Nhưng riêng trong đợt nghỉ Tết Nguyên đán 2015 vừa rồi số du khách đã là 50.000 người.

Sapa đang bị phá hủy vì cách làm du lịch?

Trong cuốn “Quá tải: kinh doanh du lịch bùng nổ”, tác giả Elizabeth Becker gọi du lịch là một ngành công nghiệp toàn cầu tàn bạo, một con dao hai lưỡi, hứa hẹn thu nhập và việc làm cho bên chủ nhà, và các trải nghiệm để đời cho bên khách, nhưng cùng lúc cũng có sức tàn phá khủng khiếp với môi trường, văn hoá và cộng đồng.

Số phận của các địa điểm du lịch tầm cỡ khác của Việt Nam cũng tương tự như Sapa. Ở vịnh Hạ Long, mỗi ngày 20.000 du khách được đưa đến và chuyển đi như gà con trên băng chuyền, sau khi trực tiếp xả thẳng phế thải của mình xuống dưới biển.

Ở Phú Quốc, mùi nắng gió, mùi nước mắm, các đồn điền tiêu, những làng chài, tâm hồn và cá tính của hòn đảo, đang biến mất dần. Thay vào đó là chi chít hàng quán, biển hiệu rối rắm, như một thị trấn vô hồn bất kỳ nào khác.

Người ta xẻ rừng quốc gia để đặt vào đó các lâu đài nhái kiểu cổ tích châu Âu chóp nhọn loè loẹt xanh đỏ, những cây thông và bãi cỏ ôn đới lạ lẫm với khí hậu địa phương, biến một thiên đường nhiệt đới tự nhiên thành một “thiên đường” bê tông nhân tạo.

Du lịch đại trà là một hiện tượng toàn cầu, nhưng nó gây ra tác hại nhiều nhất ở các nước đang phát triển, vì sức chống cự của những nước này, cả từ nguồn lực tài chính lẫn trình độ quản lý yếu kém hơn. Ở Angkor Wat, gần đây các ngôi đền bắt đầu bị lún vì mực nước ngầm hạ thấp do mức tiêu thụ nước của các khách sạn liên tục tăng lên.

Ám ảnh nhất với tôi là Vang Viêng ở Bắc Lào. Nằm bên bờ sông Nam Song, được vây xung quanh bởi các dãy núi đá vôi trùng điệp, cái làng nhỏ duyên dáng và xinh xắn này bỗng nhiên trở thành nơi các thanh niên phương Tây tập kết để ăn chơi như không có ngày mai. Họ tụ tập ở các bar trải dài 4 km dọc bờ sông, ăn pizza trộn với cần sa, nốc whisky đựng trong các bát ô tô nhựa, nhảy nhót trong tiếng nhạc rầm rầm, rồi nằm trong xăm ô tô lao mình xuống nước xoáy để tiêu khiển. Sau mấy chục ca tử vong chỉ trong vòng một năm, chính phủ Lào phải ra tay dừng cuộc vui lại.

Mức sống chung cao lên, các đường bay giá rẻ ra đời, càng tạo điều kiện cho du lịch đại trà phát triển. Thậm chí, người ta bắt đầu dùng tới thuật ngữ “du lịch siêu đại trà” (mega-mass tourism) để mô tả hiện tượng này.

Đầu thế kỷ 21, Giáo hoàng John Paul II phê phán du lịch đại trà là một hình thức bóc lột mới, nó “biến văn hoá, các nghi lễ tôn giáo, và các lễ hội dân tộc thành những sản phẩm tiêu dùng” khi khách du lịch tìm tới những cái mới lạ một cách hời hợt và không muốn tiếp xúc thực sự với văn hoá bản địa.

Thật vậy, trong trường hợp Sapa, điều quan trọng nhất với các du khách là câu hỏi ăn lẩu cá hồi ở đâu và mua rượu táo mèo chỗ nào. Không ít người lên đây vì bạn rủ đi để “có người uống cùng cho khỏi buồn.” Văn hoá, thể hiện qua đám người dân tộc ăn mặc sặc sỡ và những cái ruộng bậc thang, sẽ chỉ là cái phông cho các bức selfie.

Chả ai bỏ công ra tìm hiểu về lịch sử, tín ngưỡng, xung đột xã hội, hoàn cảnh kinh tế của người dân ở đây. Có lẽ yếu tố “văn hoá” duy nhất mà khách quan tâm là cái chợ tình như là cái gì man di đáng yêu của “bọn nó”, nhưng đằng nào nó cũng biến mất từ nhiều năm nay rồi – cũng vì du lịch.

Đấy là chưa nói tới chuyện sắp tới sẽ có nhiều hội thảo, tập huấn, tổng kết, liên hoan v.v… được tổ chức ở Sapa, ngạch này gọi là du lịch – công việc (business tourism). Loại du khách này thường không đi cùng gia đình, nên chắc lúc đó sẽ mọc lên nhiều tiệm massage và karaoke thư giãn với các cô gái miền Tây Nam Bộ đổ về cạnh tranh với con gái địa phương.

Chầu rìa trên quê hương?

Nhìn những gì người ta đang tiếp tục làm với Sapa mà thấy đau lòng. Các khách sạn khổng lồ tám, chín tầng vẫn đang xẻ núi mọc lên, nhiều khi chỉ cách cái bên cạnh một con phố nhỏ, xe không quay được đầu.

Đảo qua một vòng trên báo chí, cũng thấy nhắc tới các “thách thức” du lịch ở Sapa, nhưng hoá ra đó chỉ là các vấn đề “cháy” phòng và khan hiếm chỗ đỗ xe. Chính quyền địa phương cam kết sẽ ưu tiên giải quyết để “Sapa ngày một vui hơn.”

Sắp tới, cáp treo sẽ làm hàng trăm người đang khuân vác phục vụ khách leo núi mất việc. Họ sẽ ra nhập đám vợ con họ đang lang thang hàng ngày ở thị trấn.

Cáp treo lên đỉnh Phan Si Pan cũng đang được thi công. Ở độ cao 3000 m, người ta đang phá đá để tạo ra một khu vực rộng gần 8 ha, một diện tích rất lớn ở độ cao chênh vênh đó. Quần thể ga đến sẽ có “khu dịch vụ du lịch, khu tham quan, công viên văn hoá tâm linh và một tượng Phật khổng lồ”.

Cáp treo có công suất 2000 người một giờ, nghĩa là khi đi vào hoạt động sẽ cho phép mười mấy nghìn người lên đỉnh núi mỗi ngày, quanh năm, ngày nào cũng như ngày nào, thay vì con số hiện nay chỉ là mấy chục người một ngày leo đường bộ, và chỉ trong 6 tháng mùa khô.

Còn những người dân tộc, những người thực ra là chủ từ bao đời của vùng núi này, họ được gì từ tất cả những cái này? Hiện nay, mỗi du khách tới Sapa sau khi bỏ ra 1 triệu đồng cho việc đi lại, khách sạn, ăn uống – tất cả chảy vào túi người Kinh, kể cả tiền cho một chai nước trắng – thì mới bỏ ra 10 nghìn mua mấy cái đồ thổ cẩm của người dân tộc. Thậm chí nhiều hướng dẫn viên du lịch còn dẫn khách tới các cửa hàng bán thổ cẩm nhập từ Trung Quốc vì họ được hoa hồng từ đây.

Người thiểu số đang ra rìa ngay trên quê hương họ

Và như vậy, những người Hmong, người Dao, người Tày, người Giáy, sẽ chủ yếu là đứng chầu rìa ở ngay trên quê hương họ. Sắp tới, cáp treo sẽ làm hàng trăm người đang khuân vác phục vụ khách leo núi mất việc. Họ sẽ ra nhập đám vợ con họ đang lang thang hàng ngày ở thị trấn.

Họ sẽ không để cho du khách yên, sẽ táo tợn, sẽ đeo bám quấy rầy cho tới khi khách mua hàng mới thôi, sẽ hét “no money, no photo.”

Buổi trưa, khi các đoàn khách bận rộn với món lợn mán nướng bên trong các quán ăn, họ sẽ ngồi trên bậc thềm bên ngoài, ngước nhìn lên để thấy ngọn “Hủa Xi Pan” của mình, một biểu tượng của thiên nhiên hùng vĩ, nóc nhà chung của họ từ hàng trăm năm nay, bỗng nhiên trở thành một điểm hành hương Phật giáo mới để cho những người ở đâu tới khấn lậy và nhét tiền vào tay tượng, xa lạ và thô bạo với không gian văn hoá của họ.

Có thể dừng lại cỗ máy khổng lồ mang tên “phát triển” này được không? Tôi không chắc. Bởi nó đang được đốt bởi lòng tham. Các doanh nghiệp thì say lợi nhuận. Chính quyền thì say tăng trưởng GDP.

Các du khách thì tham các trải nghiệm mì ăn liền, được tưởng thưởng mà không phải lao động. Họ muốn “chỉ cần 15 phút để lên nóc nhà Đông Dương”, chụp selfie giữa rừng già mà vẫn đi guốc cao gót được, nhẹ nhàng như vào Paris Deli.

Nhưng cũng như với mọi thứ khác trên đời, sự tham lam sẽ phá huỷ hết. Lòng tham sẽ biến con ngỗng vàng mang tên du lịch thành một con quái vật. Các nhà chuyên môn đã nói nhiều về cú nổ bong bóng của các điểm đến sau thời kỳ tăng trưởng nóng vô độ.

Với cách làm du lịch hiện nay, sẽ tới lúc Sapa giống muôn vàn những chỗ khác: vô bản sắc, ô hợp, nhân tạo và rẻ tiền. Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn, một sự thảm hại cho cả người ở đó lẫn người tới thăm.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả từ Hà Nội.

 

Tại sao liên minh không phải là một chọn lựa?

Tại sao liên minh không phải là một chọn lựa?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-03-03

000_Was8869550.jpg

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (phải) tiếp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Washington DC hôm 02 tháng 10 năm 2014 (ảnh minh họa).

AFP PHOTO / Mandel NGAN

Your browser does not support the audio element.

Việt Nam có nên liên minh với nước khác để tự bảo vệ cho chính mình hay không là câu hỏi đang cần được trả lời nhất trong hoàn cảnh hiện nay khi Trung Quốc tiến hành xây dựng hàng loạt đảo nhân tạo trên vùng biển đang tranh chấp, trong đó có các đảo mà nước này chiếm đóng trái phép của Việt Nam.

Việt Nam vẫn còn cơ hội?

Trong thời gian gần đây khi Trung Quốc công khai xem thường dư luận thế giới cho xây dựng quy mô một loạt những đảo nhân tạo lớn trên các dãy đảo đá tại quần đảo Trường Sa. Những căn cứ này có khả năng biến thành cứ điểm quân sự uy hiếp cả một vùng Biển Đông rộng lớn đang có tranh chấp với nhiều nước trong đó có Việt Nam.

Quyết tâm chiếm trọn trung tâm vùng biển của Trung Quốc không phải đến bây giờ, sau khi kinh tế trở nên vững mạnh Bắc Kinh mới nảy sinh ý đồ mà đã từ lâu, ít nhất là năm 1988 khi xua quân đánh chiếm quần đảo Gạc Ma của Việt Nam thì mục tiêu này đã được đặt ra. Từ đó đến nay, thời gian ưu đãi thêm cho nước này cộng với thái độ lưỡng lự của Việt Nam khiến sự ham muốn chiếm đóng trọn vẹn khu vực tranh chấp, tức là chiếm trọn túi dầu khổng lồ của vùng Biển Đông không còn yếu tố nào cản trở.

” Theo tôi việc liên kết với các nước có cùng lợi ích trong khu vực Biển Đông là sự cần thiết. Có lẽ sự cần thiết này không phải bây giờ nó mới đặt ra mà ngay từ khi những động thái đầu tiên của Trung Quốc khi đưa dàn khoan HD 981 vào vùng biển của chúng ta.
-PGS Hoàng Ngọc Giao”

Hầu hết các chuyên gia quân sự cũng như các tờ báo quốc phòng của thế giới đều đánh giá sự quyết đoán này là cách mà Trung Quốc phủ đầu các nước nhỏ khi công khai thực hiện kế sách đưa mọi chuyện vào sự đã rồi khiến việc chống đối của các nước ngày càng yếu ớt thêm. Trong vòng vài năm tới Bắc Kinh hoàn toàn khống chế cả một vùng Biển Đông mà không một nước nào có thể lên tiếng chứ đừng nói là hành động cụ thể ngoại trừ một nước duy nhất có khả năng ngăn chận sự tham lam ấy là Việt Nam.

Việt Nam vẫn còn cơ hội nếu quyết định ngay từ bây giờ công khai tuyên bố liên kết với các nước trong vùng và sẽ tiến tới liên minh với các nước lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn quốc và Úc hầu mượn sức của liên minh sẵn có này ngăn chặn vòng đai pháo đài nổi đang thắt chặt chung quanh mình.

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất cam kết không liên minh quân sự, không dựa vào nước này để chống nước kia, Ukraina cũng đã từng như thế khi nền chính trị luôn bị con gấu Nga khống chế, áp lực lên phần đất này.

Tuy nhiên Ukraina đã thấy dã tâm của Nga và quốc hội nước này đã mạnh dạn quyết định bãi bỏ cam kết tự mình trói mình ấy.

Vào ngày 23 tháng 12 năm 2014 Quốc hội Ukraina đã có số phiếu áp đảo 303/ 8 ủng hộ bãi bỏ quy chế không liên kết mà nước này đã thông qua vào năm 2010 lúc ấy dưới sức ép của Nga nhằm ngăn cản Ukraina gia nhập NATO.

Việt Nam hoàn toàn có thể tự mình quyết định như Ukraina nếu đủ can đảm vượt qua vòng vây vô hình của điều được gọi là 16 chữ và 4 tốt buộc chặt bước đi trong nhiều thập niên qua.

000_Hkg9812263.jpg

Vùng đảo Gạc Ma nhìn từ trên cao, ảnh minh họa chụp hôm 15/5/2014.

Với quan hệ ngày càng mở rộng, Hoa kỳ chắc chắn đón nhận Việt Nam như một thành viên tích cực để sức mạnh Trung Quốc bị chặn đứng ngay tại cửa ngõ châu Á Thái Bình dương. Các nước khác như Nhật Bản, Philippines hay Hàn Quốc sẽ ủng hộ nhanh chóng quyết định này vì họ biết rõ khả năng của Việt Nam trong vai trò cản bước chân nam tiến của Trung Quốc trong hàng ngàn năm qua.

Phó GSTS Hoàng Ngọc Giao, nguyên Vụ trưởng Ban biên giới Chính phủ chia sẻ Việt Nam nên liên kết với các nước trong khu vực trước khi có một quyết định nào đó nhằm khẳng định quyết tâm của mình:

“Theo tôi việc liên kết với các nước có cùng lợi ích trong khu vực Biển Đông là sự cần thiết. Có lẽ sự cần thiết này không phải bây giờ nó mới đặt ra mà ngay từ khi những động thái đầu tiên của Trung Quốc khi đưa dàn khoan HD 981 vào vùng biển của chúng ta thì nó đặt ra sự cần thiết là ngoài nỗ lực đấu tranh bằng ngoại giao, đấu tranh bằng pháp lý thì Việt Nam cần phải có sự liên kết hợp pháp với các nước khác như Philippines, Malaysia hay các nước trong ASEAN để làm sao thúc đẩy tiếng nói của các nước nhỏ trong vùng Biển Đông để hạn chế, kiềm chế chính sách bành trướng xâm lược xuống phía Nam của Trung Quốc.”

Vì sự sống còn của chính mình

Cái bóng của Trung Quốc dù sao cũng không thể xóa đi trong một lúc, tuy nhiên cái bóng ấy tự nó sẽ nhạt dần khi quyết tâm của Việt Nam mạnh lên vì sự sống còn của chính mình. Đại tá Nguyễn Đăng Quang cho rằng Việt Nam có thể tự bảo vệ mình mà không sợ va chạm vào cam kết, ông cho biết:

“Tôi cho rằng cái chủ trương không liên minh với nước nào đó để chống lại nước thứ ba thì cũng có thể hiểu là Việt Nam có thể sẵn sàng liên minh với một nước khác để bảo vệ chủ quyền đất nước thì cái đó là điều bình thường thôi, Việt Nam nên làm theo điều đó miễn là Việt Nam không liên minh với nước A để chống lại nước C, thế nhưng tôi sẵn sàng liên minh với nước B để bảo vệ chủ quyền đất nước thì đó là quyền hạn và là điều nên làm.”

Trong khi đó Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã Hội Việt Nam cho rằng quan niệm không liên minh đã lỗi thời vì hành vi xây đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể sánh với việc kẻ cướp đã vào nhà:

” Cứ chơi bài ngửa, chỉ liên minh với Mỹ thôi chứ ASEAN như một bị khoai tây chẳng ý nghĩa gì đâu. Duy nhất trên hành tinh này chỉ có mình Mỹ thôi. Mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ mở toang cánh cửa ra. Phải tiến tới quan hệ Mỹ Việt mà trên bạn bè dưới liên minh.
-Thiếu tướng Lê Văn Cương”

“Quan niệm không liên minh với nước nào khác để chống lại nước thứ ba đã lỗi thời rồi. Khi kẻ cướp nó đã vào đến sân nhà mình mà người trong nhà nói rằng không, chúng tôi không cần hàng xóm láng giếng giúp đỡ gì cả, tự tôi tôi sẽ chiến đấu thôi. Mà bằng cách nào? Bằng cách tôi nhân nhượng nó, tôi hòa hoãn với nó tôi cứ lùi dần lùi dần lùi đến độ để thế giới người ta nghi ngờ không biết Việt Nam có định chiến đấu chống lại Trung Quốc hay không thì làm sao người ta ủng hộ mình?”

Hoa Kỳ dù vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết nhưng quyết tâm trở lại Châu Á Thái bình dương của Nhà Trắng không phải là lời nói suông nhằm đe dọa Trung Quốc. Những hành động cụ thể của Hoa Kỳ trước hai đồng mình lâu đời là Nhật Bản và Philippines trong những năm qua có thể cho Việt Nam thấy chính sách đối ngoại sáng suốt là chìa khóa làm cho đất nước vững chãi trước dã tâm của nước lớn để từ đó có thêm thời gian và tiền bạc để phát triển đất nước, thay vì phải đối phó nhiều mặt cả ngoài lẫn trong như hiện nay.

Thiếu tướng Lê Văn Cương, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Bộ Công an khẳng định sức mạnh ấy của Hoa Kỳ, đất nước duy nhất ông cho là có thể đứng mũi chịu sào trước phương Bắc:

“Thật ra mà nói thì thế này, cứ chơi bài ngửa, chỉ liên minh với Mỹ thôi chứ ASEAN như một bị khoai tây chẳng ý nghĩa gì đâu. Duy nhất trên hành tinh này chỉ có mình Mỹ thôi. Mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ mở toang cánh cửa ra. Phải tiến tới quan hệ Mỹ Việt mà trên bạn bè dưới liên minh, cứ nói thẳng như thế.

Trung Quốc rất sợ Mỹ. Trên hành tinh này Trung Quốc chỉ sợ Mỹ thôi. Bây giờ cho ăn kẹo Bắc Kinh cũng không dám đụng tới Mỹ vì đụng tới Mỹ là tự sát. Bản chất của họ là dọa nạt cưỡng bức những kẻ yếu chứ còn đối với kẻ mạnh như Mỹ thì cho họ ăn kẹo chocolate họ cũng không dám đụng tới Mỹ.

Chúng ta không  liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc, hoàn toàn không, nhưng cùng tạo một sức mạnh như thế khi cần thiết thì ứng phó với hành động của Trung Quốc. Nói thẳng với Trung Quốc chơi bài ngửa: Việt Nam không liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc nhưng chúng tôi cần sức mạnh của Mỹ để răn đe mọi thế lực ngoại bang muốn xâm lược Việt Nam.”

Qua những nhận định vừa được đưa ra, ước muốn liên minh đang là nhu cầu bức thiết nhất hiện nay của đa số nhân sĩ trí thức và ngay cả trong quân đội. Khi Việt Nam không thể tự mình đủ sức bảo vệ đất nước thì liên minh là phương cách duy nhất đúng đắn của một nhà nước biết đặt sự an nguy của dân tộc lên trên tất cả.

Khi siêu mẫu gặp siêu cảnh sát

Khi siêu mẫu gặp siêu cảnh sát

Nguyễn Hùng BBC Tiếng Việt

Trang Trần gần đây vào vai Mỹ Chột, nữ đệ tử của ‘bà trùm’ Hương Ga trong phim cùng tên

Vụ việc mà như lời người đi cùng Trang Trần nói chỉ nhỏ “bằng cái móng tay” cuối cùng thành vụ bắt người “khẩn cấp”.

Trang Trần là khách trên chiếc taxi đi vào đường cấm và bị công an phường Hàng Buồm dừng lại vào lúc đêm về sáng hôm 27/2.

Dường như cô đã xin để lực lượng công an bỏ qua nhưng phía công an yêu cầu lái xe taxi về đồn và siêu mẫu bực mình chửi bới cũng như lấy điện thoại tự quay bản thân xỉ vả và cáo buộc lực lượng công an “ăn tiền đút lót”.

Tới đây công an quyết định đưa luôn cả Trang Trần về đồn và khi họ xô tới người mẫu đã “tát vào mặt một người trong nhóm lực lượng chức năng” theo lời chính cô trong video thu tại đồn công an và được đưa lên báo chí.

Trong lúc xô đẩy, bạn bè Trang Trần đã chất vấn lý do bắt người và cũng nói không nên bẻ tay và đè cô xuống.

Khi công an đang cố để đưa người mẫu về đồn trước sự giằng co của bạn cô, một sỹ quan công an tiến tới và hỏi nội tình vụ việc.

Không nói không rằng siêu mẫu tung chân đá luôn hai phát về phía người hỏi khi đang bị khóa hai tay.

Dù hai cú đá không trúng nhưng đủ để người này nhiều lần lớn tiếng yêu cầu “bắt bằng được” Trang Trần.

Trong vụ việc này cả siêu mẫu lẫn siêu cảnh sát đều có những người ủng hộ và phản đối.

Bé xé ra to

Vụ việc quả thật không có gì lớn và nếu phía công an cũng như Trang Trần hành xử khác đi có lẽ đã không có chuyện gì xảy ra.

Xe vi phạm vào lúc sáng sớm và đường phố hoàn toàn vắng vẻ nên nếu công an chỉ cần cảnh cáo có lẽ mọi việc đã dừng lại ở đó.

Bản thân người viết bài này từng phạm lỗi giao thông khi đi vào làn dành riêng cho xe buýt trong lúc đưa người nhà ra sân bay Heathrow của Anh nhưng chỉ bị nhắc nhở vì vi phạm lần đầu và cho đi kèm theo giấy giải thích nếu không hài lòng với cách hành xử của cảnh sát thì khiếu nại ra đâu.

Trong khi đó đối với một lỗi vi phạm nhỏ hơn ở Hà Nội hồi cuối thập niên 1990, cảnh sát đã quyết định đưa xe máy về đồn giữ vài hôm sau khi đòi tiền bất thành.

Tại Anh, nếu người điều khiển phương tiện giao thông không mang theo giấy tờ, người ta cũng sẽ không bị giữ lại mà chỉ bị yêu cầu phải mang giấy tờ lên công an trong vòng một tuần.

Sau vụ việc, bản thân Trang Trần đã lên tiếng xin lỗi về hành vi của mình nhưng trong lời xin lỗi của cô cũng lại có những điểm cho thấy siêu mẫu đã đụng phải siêu cảnh sát.

Chuyện thu hình ‘người vi phạm’ để đưa ra trước công luận nhằm biện minh cho hành vi của mình đã bị chỉ trích vì các lý do khác nhau trong đó có chuyện vi phạm quyền riêng tư.

Lời Trang Trần nói trong video xin lỗi rằng cô đã “tát vào mặt một người trong nhóm lực lượng chức năng” khi viết ra giấy tại đồn công an đã thành “tát một đồng chí tự quản”.

Không có bằng chứng khẳng định lời xin lỗi của cô do công an đạo diễn nhưng sau khi nghe những lời chửi bới công an của cô sẽ thấy không hợp lý khi cô gọi ‘tự quản’ là “đồng chí”.

Lực lượng ‘tự quản’ ở Việt Nam cũng từng gặp tai tiếng

Bản thân lực lượng tự quản ở Việt Nam, tương tự với ‘chính quản’ ở Trung Quốc, đã từng có nhiều tai tiếng khi hành xử không đúng mực, lạm quyền mà báo địa phương gọi là “bát nháo”.

Bình luận trên Facebook của BBC Tiếng Việt, bạn Phan Khánh Hưng viết: “Rất nhiều “đồng chí” tự quản, dân phòng xuất thân dạng lêu lổng, không công ăn việc làm, xin xỏ chạy chọt làm đầu sai cho CA và được cho phép ngầm để kiếm chác cơ hội. Ghét nhất cái tụi này, vì vừa dựa lưng công an vừa mất dạy.

“P/s: Trong trường hợp Trang Trần thì thấy lối hành xử mất dạy cũng không chỉ độc quyền ở đám các “đồng chí” kia mà những người “vốn tâm tốt” cũng trở nên hung hãn, thói mất dạy này đã trở thành phản ứng nội tại, rất dễ bùng nổ thành mức quá đáng.”

Siêu cảnh sát

Trong vụ Trang Trần, cảnh sát Việt Nam có vẻ đã dùng sức mạnh của siêu cảnh sát để khuất phục siêu mẫu cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng.

Vào thời điểm họ quyết định đưa cô về đồn, hành vi được coi là “chống đối” của cô được thể hiện bằng lời nói và những câu xỉ vả khi đang say rượu, điều mà tại một số nơi không còn là lý do để người dân có thể bị bắt, thậm chí còn cần được trợ giúp, nhất là trong trường hợp người say xỉn là một phụ nữ.

Tòa ở Anh phán cảnh sát đã quá quen với những lời văng tục và khó có thể bị xúc phạm

Cách đây vài năm Tòa Thượng thẩm ở Anh đã phán rằng cảnh sát đã quá quen tai với những lời tục tĩu nên không thể bị xúc phạm khi nghe những lời như thế.

Quyết định của tòa đã khiến ngành cảnh sát gửi hướng dẫn tới các nhân viên nói rằng không nên bắt những vụ như thế vì tòa sẽ không xử theo hướng có lợi cho cảnh sát.

Trong khi đó một độc giả của BBC tại Đức nói cảnh sát bản địa còn có phòng riêng tại trụ sở cho những người say rượu chờ cho tới khi họ tỉnh.

Trang Trần cũng không phải là người điều khiển xe phạm lỗi mà chỉ là hành khách muốn ‘xin’ cho người tài xế thoát khỏi chế tài của cảnh sát, vốn không có uy tín thượng tôn pháp luật.

Đã có những cáo buộc về chuyện cảnh sát đòi những người lái taxi vi phạm đưa ví và lấy tiền theo ý thích sau khi nhiều lái xe taxi đưa tiền ít và xin xỏ rằng họ chỉ còn chừng đó tiền.

Không rõ lý do cụ thể nào khiến công an Hàng Buồm muốn đưa tài xế về đồn nhưng ngay cả khi họ có quyền làm vậy đây không phải là cách xử lý hợp lý.

Sự can thiệp của Trang Trần và hành vi tát ‘tự quản’ đã khiến cô bị bẻ quặt hai tay ra sau và cảnh sát dường như đã đè cô xuống đất. Tiếp theo đó là quyết định bắt “khẩn cấp” mà các luật sư đã đặt câu hỏi vì người ta chỉ bắt khẩn cấp những ai đang chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng hoặc có nguy cơ bỏ trốn sau khi phạm tội.’

Trong trường hợp của Trang Trần, cô đã bị bắt và đang ở trong đồn công an khi có quyết định bắt “khẩn cấp”.

Cụm từ này cũng thường được dùng cho những vụ bắt người vốn có những hành vi phi bạo lực, chẳng hạn vụ bắt nhà văn Nguyễn Quang Lập hồi cuối năm ngoái.

Trong thời gian bị giam giữ, ông Lập cũng được phía công an nói đã “khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại” và “cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.

‘Bắt giữ tùy tiện’?

Bình luận về vụ việc đang gây nhiều tranh luận liên quan tới Trang Trần, blogger Đoan Trang viết:

“Chúng ta có thể chỉ trích Trang Trần xả láng và ngoa ngoắt bao nhiêu cũng được, nhất là khi giờ này cô ấy đang ở trong tay công an, đang bị giam và không thể có cơ hội lên tiếng.

Thế yếu là thế gì? Là phụ nữ hay vì say xỉn hay phê thuộc rồi xúc phạm người khác? Nếu là phụ nữ thì tốt hơn nên ra đường trong tình trạng tỉnh táo sẽ ko ai nói hay bắt bớ gì được cả.

Bạn đọc Nguyễn Lan Hương trên Facebook của BBC

“Nhưng sao không ai đặt vấn đề về các sai phạm (có thể có) của công an: Còng tay, đánh người khi người đó đang say và về thể lực, thế lực thì người đó yếu hơn hẳn công an; bắt khẩn cấp là hành động bắt giữ tùy tiện và sai luật (Bộ luật Tố tụng Hình sự của chính Việt Nam); từ chối quyền tiếp cận luật sư của Trang Trần; khống chế và có biểu hiện ép cung để buộc Trang Trần phải viết giấy, quay video nhận lỗi; làm nhục công dân khi quay và tung video nhận lỗi của Trang Trần lên mạng…”

Trong lúc đó cũng có không ít ý kiến ủng hộ cách xử lý của cảnh sát.

Bạn đọc Nguyễn Lan Hương viết trên Facebook của BBC Tiếng Việt về bài của cây bút Đoan Trang:

“Đúng là ko khách quan chút nào. Muốn không bị bắt thì đừng đi sai đường, mà đã bị bắt rồi thì im lặng mà nhận lỗi đi.

“Thế yếu là thế gì? Là phụ nữ hay vì say xỉn hay phê thuộc rồi xúc phạm người khác? Nếu là phụ nữ thì tốt hơn nên ra đường trong tình trạng tỉnh táo sẽ ko ai nói hay bắt bớ gì được cả.

“Là phụ nữ thế yếu thì có quyền say xỉn rồi nhục mạ cả một nhóm người đang thi hành công vụ à?”

Và cho dù ý kiến về siêu mẫu và siêu cảnh sát có thể khác nhau, điều dễ thấy là cả hai bên đã vô tình và/hay cố ý đẩy vụ việc lên mức siêu sự kiện trong dư luận một cách bất thường.

Nhưng ít nhất trong vụ này siêu mẫu cũng đã được trả tự do sau hơn hai ngày giam giữ trong khi chờ ‘xem xét, xử lý’, hạn chế khả năng người bị giam giữ khá lâu có thể “tự đút tay” vào ổ điện như đã từng xảy ra mà không hề có điều tra xét xử.

Không chỉ là vấn đề Dân trí

Không chỉ là vấn đề Dân trí

Ôi! Dân tôi!

FB Canh Le

clip_image002

Dân tôi,
Đạp nhau cướp ấn Đền Trần để cầu xin thần thánh ban cho “vinh hoa”,
Đánh nhau cướp hoa tre Hội Gióng để cầu xin thần thánh ban cho “phú quý”,
Tranh nhau cướp phết Hội Hiền Quang để cầu xin thần thánh ban cho “phúc lộc”,
Xô nhau Hội Phủ Giày để cầu xin thần thánh ban cho “an khang”,
Giẫm nhau Hội Bà Chúa Kho để cầu xin thần thánh ban cho “thịnh vượng”,
Chen nhau Hội Yên Tử để cầu xin thần thánh ban cho “thuận hòa”,

Dân tôi,
Chém tức tưởi con heo để cầu xin thần thánh ban cho “sống vui”,
Đập hấp hối con trâu để cầu xin thần thánh ban cho “sống khỏe”,

Dân tôi,
Lừa nhau bằng hàng gian, hàng giả…, rồi sì sụp cầu xin thần thánh chứng lòng “thành tín”,
Hại nhau bằng thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng…, rồi sì sụp cầu xin thần thánh rủ lòng “nhân từ”,

Dân tôi,
Hôi của người gặp nạn để được “no ấm”,
Giết chết kẻ trộm chó để được “bình yên”,

Dân tôi,
Nhét tiền vô tay vô nách vô háng thần thánh để cầu xin “hanh thông”,
Biếu xén quà cáp tiền bạc nhà cửa đất đai cho quan chức để cầu xin “thuận lợi”,

Dân tôi,

Dân tôi,

Tham lam mà ngu xuẩn,
Hung bạo mà hèn nhát,
Sùng bái và u mê,
Cuồng tín và hôn ám,

Dân tôi,
Suốt đời quỳ xuống sì sụp khấn vái khẩn cầu,
Không còn biết đứng lên… !!!…

Ngày xưa,
Dân tôi,
Tin vô những con vật hiền lành
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”:
Heo Sinh Sôi, No Ấm,
Gà Đại Cát, Vinh Hoa,
Vịt Phú Quý,
Cóc Nhân Nghĩa,
Rùa Lễ Trí,

Ngày nay,
Dân tôi,
Bị quỷ ám!!!

Quỷ là ai!?!
Quỷ ở đâu!?!

Nguồn: Theo https://anhbasam.wordpress.com/2015/03/02/3480-oi-dan-toi/#more-145743

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Đêm khuya, trong miếu có một người phụ nữ và một vị hòa thượng.
Người phụ nữ : Bạch thầy, con là người đã có chồng, nhưng giờ con đang yêu say đắm người đàn ông khác, một ngày không gặp anh ta con rất khó chịu, con thật sự không biết phải làm sao ?
Hòa thượng: Con có chắc người đàn ông này là người duy nhất và cuối cùng con yêu không?
Người phụ nữ: Đúng vậy. Lâu lắm rồi con chưa từng có cảm giác rung động, con không muốn bỏ lỡ giây phút này.
Hòa thượng: Vậy con hãy ly hôn chồng sau đó cưới anh ta.

Người phụ nữ : Nhưng chồng con rất cần cù, chịu khó, hiền lành và có trách nhiệm với gia đình, con làm vậy có nhẫn tâm, có vô đạo đức quá không?
Hòa thượng: Hôn nhân không tình yêu mới là nhẫn tâm và vô đạo đức, bây giờ người con yêu là người khác chứ không phải chồng con, nên ly hôn là sự lựa chọn đúng đắn.
Người phụ nữ: Nhưng chồng con rất yêu con, thật sự rất yêu con.
Hòa thượng: Nếu vậy chồng con thật hạnh phúc.
Người phụ nữ: Nếu con ly hôn với anh ấy và lấy người khác, anh ấy phải là người đau khổ mới đúng chứ, sao lại hạnh phúc ?
Hòa thượng: Trong cuộc hôn nhân của 2 người, anh ta vẫn còn tình yêu dành cho con, còn con đã đánh mất tình yêu dành cho anh ta vì đã đem lòng yêu người khác. Có được là hạnh phúc, mất đi mới là đau khổ, nên người đau khổ chính là con.
Người phụ nữ: Nhưng con sẽ ly hôn với anh ta và lấy người khác, anh ta mới là người mất con và là người đau khổ mới đúng chứ?
Hòa thượng: Con sai rồi, con chỉ là một hiện thân của tình yêu, khi không có con, tình yêu của anh ta sẽ tiếp tục với một hiện thân khác. Trong cuộc hôn nhân này bởi vì anh ta chưa đánh mất đi tình yêu thực sự nên anh ta hạnh phúc còn con mới đau khổ.
Người phụ nữ: Anh ấy nói cả đời này chỉ yêu mình con, sẽ không yêu ai khác.
Hòa thượng: Thế con cũng đã từng nói những lời tương tự với anh ta chứ?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ con hãy nhìn 3 ngọn nến trong lư hương và nói xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con thật sự không biết, hình như chúng đều sáng như nhau.

Hòa thượng: 3 ngọn nến tượng trưng cho 3 người đàn ông, trong đó có một người con đang yêu hiện nay, trên thế gian đàn ông đâu chỉ hàng trăm hàng vạn, cả ngọn nến sáng nhất trong 3 cây nến này con cũng không biết, con không thể tìm ra người con yêu, vậy làm sao con dám xác định người đàn ông con yêu hiện nay là người duy nhất và cuối cùng?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ cầm một ngọn nến lại gần, hãy chú ý xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Dĩ nhiên là ngọn nến trước mặt con sáng nhất.
Hòa thượng: Giờ con đặt lại ngọn nến về chỗ cũ rồi xem ngọn nến nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con vẫn không biết ngọn nến nào sáng nhất

Hòa thượng: Ngọn nến con cầm ví như người đàn ông con đang yêu, tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi con cảm thấy con yêu anh ta, khi đó con thấy ngọn nến đó sáng nhất, nhưng khi đặt ngọn nến về chỗ cũ, con không còn cảm thấy nó sáng nhất nữa, nên tình yêu duy nhất và cuối cùng mà con nói chẳng qua chỉ là ảo ảnh, cuối cùng cũng tan biến.
Người phụ nữ: Giờ con đã hiểu, thầy không phải muốn con ly hôn, mà là đang điểm hóa con.
Hòa thượng: Con hiểu được là tốt, con về đi
Người phụ nữ: Bây giờ con đã biết mình thật sự yêu ai, đó chính là chồng con hiện nay.
Hòa thượng: A di đà phật

Khi chúng ta yêu ai đó, họ cũng chỉ là một trong số bao con người, chỉ là khi yêu, trong tâm trí chúng ta chỉ hướng về người đó, nên cảm thấy người đó nổi trội hơn cả, nhưng khi hòa vào dòng người, người đó cũng như bao người khác, cũng chỉ là một trong số những người quen của chúng ta.
Chúng ta vốn không thể chắc chắn ai mới là người chúng ta yêu thương nhất, nếu bạn không trân trọng người bạn đời bên cạnh, một ngày nào đó, người đó cũng sẽ chỉ là một người quen.
Tìm người yêu bạn không dễ, tìm người bạn yêu cũng khó không kém. Trong khi vẫn chưa tìm thấy người bạn thật sự yêu, sao bạn không trân trọng người đang yêu bạn? Tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi bạn nghĩ rằng sẽ yêu ai đó, dần dần bạn sẽ yêu người ta.
Nếu người ta không yêu bạn, bạn cũng nên nhớ: tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, vì bạn tập trung sự chú ý đến người ta quá nhiều, hãy thử nhìn xa hơn, bạn sẽ thấy rất nhiều ngọn nến cũng sáng không kém đâu!
Yêu hay không yêu, chẳng qua chỉ là cảm xúc nhất thời, cũng như khi bạn nói không thể sống thiếu ai đó, chỉ là do bạn tưởng tượng ra thôi, thực tế thì bạn đâu có chết đi khi không có ai đó!
Những việc đã qua, tình yêu đã qua, hãy cho nó trôi vào quá khứ, chúng chỉ là một phần trong cuộc sống của chúng ta, chỉ là giọt nước trong đại dương bao la, chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc. Không có quá khứ, sẽ không có bạn bây giờ.
Trân trọng trước mắt vẫn tốt hơn đứng núi này trông núi nọ..

Nguyễn chuyển bài

Lâm Kim Trọng gởi

SỐNG TRONG THINH LẶNG

SỐNG TRONG THINH LẶNG

Thinh lặng!  Một điều rất cần thiết cho đời sống nội tâm con người, không riêng gì là người Kitô hữu.  Bất cứ ai, ở địa vị nào, thuộc thành phần nào, bỏ qua sự phân biệt… thì đều cần đến những phút giây trầm tĩnh đi từ khung cảnh bên ngoài cho tới chiều sâu nội tâm.  Cách riêng với người tín hữu, với những ứng sinh hướng tới đời sống hiến dâng cho ơn gọi tu trì, thinh lặng là điều cần được đặt ra, không chỉ như một sự ràng buộc hay một cái gì đó phải có và phải thực hiện, nhưng là một trong những phương thế có thể nói là tương đối tốt để gặp gỡ Đức Kitô, người mục tử mẫu mực, khuôn mẫu để chúng ta vươn tới.

“Giữa ồn ào con tìm kiếm Chúa
Trong thing lặng con tìm thấy Ngài.”

Cuộc sống là chuỗi ngày dài mà mỗi người chúng ta chỉ có thể sống tốt giây phút hiện tại mà không thể biết trước hay là dự đoán trước được tương lai, bởi đó nhiều người vẫn không ngừng nói rằng: “Tương lai là một ẩn số.” Điều đó có nghĩa là cuộc sống đi ngang qua với giây phút hiện tại.  Nếu ai đó quá chú tâm, lo lắng cho những tháng ngày phía trước thì cũng có những lúc, sự thinh lặng đòi hỏi họ quay về với lòng mình, với chính con người của mình.  Giữa dòng đời được pha tạp hỗn độn với những thứ ồn ào náo động, tâm hồn cũng có những lúc chạy theo vòng xoáy của sự biến động ấy và một khi đã bị cuốn hút bởi muôn vàn tiếng nói khác nhau thì việc giữ cho cõi lòng mình một khoảng lặng là vấn đề phải được lưu tâm trong một sự tự do đích thật.

Vậy thì cốt lõi của sự thinh lặng là gì và vì sao nó trở nên quan trọng đến vậy?
Một người không theo bất cứ một tôn giáo nào đã có lần thốt lên: “người công giáo thật là may mắn, vì lẽ những lúc gặp nghịch cảnh trong cuộc đời vẫn còn chỗ tựa nương.” Thoáng qua có thể nhận thấy, điểm tựa mà họ muốn nói tới không đâu khác ngoài Thiên Chúa, Đấng mà những ai mang danh xưng Kitô hữu tôn thờ và không ngừng mỗi ngày vươn tới, chiêm ngưỡng Ngài là cội nguồn chân lý, là đường, là sự thật và là sự sống, đồng thời là nguồn gốc của mọi cái chân, thiện, mỹ.  Vậy thì nhờ đâu những người vốn không thuộc tôn giáo nào lại nói lên được điều đó nếu như họ không trải qua những phút giây của tiếng nói đi ra từ tận cõi lòng.  Điều này thật đáng cho chúng ta suy nghĩ!

Thật vậy, ngay từ sâu thẳm con tim thì mỗi người luôn ý thức được tầm quan trọng và giá trị cốt lõi khi để cho cõi lòng tìm về ý nghĩa cao quý khởi đi từ sự tĩnh lặng nội tâm.  Theo đó, các môn đệ Chúa Kitô khi lắng nghe tiếng nói trong bức tường của tòa nhà được xây dựng bằng một thứ chất liệu đặc biệt là Lời Chúa, hẳn nhiên tâm hồn dễ dàng đọc được ý nghĩa cuộc đời mình.  Chỉ có vậy, người tín hữu mới nhận ra rằng, căn nguyên của con người mình phát xuất từ đâu và rồi sẽ đi về đâu, để từ đó luôn sống trong tâm tình cảm tạ, rằng được hiện hữu trong thế giới này với muôn ngàn vẻ đẹp là nhờ tình yêu của Thiên Chúa chí tôn, một Thiên Chúa đích thân đi tìm và gặp gỡ, khơi nguồn đối thoại với con người.  Cảm nghiệm như vậy, thì không khó để lý giải lý do vì sao người ngoại giáo vẫn có cái nhìn khách quan và thiện chí về điểm tựa của ngưới tín hữu Chúa Kitô như đã nói trên đây.  Điều đó đòi hỏi phải khơi dậy và phát huy nơi con người mình, từ chính nội tâm của mình một sự trưởng thành về mặt tâm linh, nghĩa là tâm hồn phải đi từ chiều sâu đi lên, để mỗi ngày một thêm tiến triển về lòng mến cũng như sự hòa hợp các nhân đức một cách tiệm tiến, quy hướng mọi sự về với Thiên Chúa.  Hiểu theo cách khác, con người không có sự tĩnh lặng nội tâm thực sự (theo nghĩa tự do nội tâm) thì thật khó để họ nhận ra những vẻ đẹp vốn dĩ luôn tiềm ẩn mà không phải lúc nào cũng khám phá ra được một cách dễ dàng.  Hướng về Đấng tác thành vũ trụ, với người tín hữu chúng ta:

Sự thinh lặng đưa con người trở về với căn nguyên đích thật của mình, nơi xuất phát điểm của mình, nguồn gốc của vũ trụ, của muôn loài… để không ngừng ngắm nhìn một Đấng thánh là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và hằng sống, luôn yêu thương con người bằng một tình yêu trên mọi thứ tình yêu.  Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.

Sự thinh lặng dẫn con người đi vào sa mạc của tình yêu huyền nhiệm, tiếp tục khám phá những nét đẹp tuyệt hảo, những công trình kỳ diệu, những hiện tượng lạ lùng…mà giữa một thế giới biến đổi liên tục thì chỉ trong sự thinh lặng mới giúp chúng ta nhận ra các điều ấy.

Sự thinh lặng giúp con người nhận thấy bản thân mình được tạo dựng một cách “đơn giản nhưng phức tạp,” bởi lẽ con người là một bộ máy hoạt động tinh vi hơn bất cứ loài nào và nơi con người có nhiều nét độc đáo mà càng khám phá thì càng thấy mới lạ, như triết gia công giáo Pháp Gabriel Marcel đã định nghĩa: “Con người là một huyền nhiệm.” Cùng với đó, chúng ta biết được mình là một thụ tạo thấp hèn, nhưng lại được đặt để hàng đầu trong các tạo vật mà Chúa đã dựng nên, đúng như lời Thánh vịnh:

“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo
Muôn trăng sao Chúa đã an bài,
Thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến
Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm…”

Với bản chất mỏng giòn, yếu đuối thường hay sa ngã.  Con người cảm thấy như mình đang thiếu đi một điều gì đó có thể giúp cho bản thân vững vàng hơn trong cuộc chiến đấu “một mất một còn.” Sẽ là mất tất cả khi cõi lòng buông xuôi sau mỗi lần gục ngã, sau mỗi lần thất bại.  Sẽ còn lại chính mình khi nội tâm, khi con tim của mình còn giữ lại một tia sáng của niềm tin, của niềm hy vọng, rằng có yếu đuối thì có thêm ý thức được về mình, lại càng phải cậy đến lòng xót thương của Thiên Chúa, cũng như phải xác tín: “Nơi đâu tội lỗi đã ngập tràn, nơi ấy ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Ngạn ngữ La tinh cũng nói: “Sai lầm là chuyện thường tình của con người.” Tại sao vậy?  Sự thinh lặng sẽ giúp người tín hữu tìm ra câu giải đáp cho mình về điều đó, khi để cho Lời và ánh sáng của Chúa thúc đẩy họ tìm ra được giải đáp thích đáng nhất, hợp lý nhất.  Vẫn còn đó nhiều điều phải nghĩ tới, nhiều ý nghĩa mà chỉ có trong thinh lặng, trong nội tâm, con người mới khám phá ra hết được.  Mỗi người sẽ đọc được giá trị của sự tĩnh lặng, giữa một bầu khí êm đềm, khi xung quanh mình được bao quát bởi Thần khí Thiên Chúa, đấng mà ngay từ thuở ban đầu đã “bay là là trên mặt nước” (St 1, 2).

Cuộc hành trình của mỗi ứng sinh Linh mục cũng trải qua những cảm nghiệm thực thù trong đời sống với những phút giây thing lặng.  Thinh lặng sẽ giúp họ vươn tới gần Thiên Chúa, vươn cao trong sự trưởng thành và vươn xa trên con đường mà họ đang nhịp bước.  Cùng với những nét riêng biệt mà đời sống dâng hiến mang lại, hy vọng rằng lời cầu nguyện trong thinh lặng xuất phát từ thẳm sâu tâm hồn mỗi ngày được nảy nở thêm lên, được phát huy và thăng tiến không ngừng… để từ đó giúp cho mỗi ứng sinh nhận thấy rõ ràng hơn tiếng gọi của Chúa thực sự đang vang vọng, cũng khởi đi từ chính trong bầu khí đó, họ quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Thầy chí thánh Giêsu.  Điều đó góp phần làm nên hành trang cho họ tiến những bước dài hơn nữa trong tương lai, một tương lai vẫy gọi và chan chứa niềm hy vọng, một tương lai đầy những điều hứa hẹn…

Để rồi trên hết, thinh lặng giúp trở về với chính mình để cảm nếm nguồn hồng ân chan chứa, niềm vui mừng khôn xiết khi biết rằng ơn gọi là một huyền nhiệm, một sáng kiến đến từ Thiên Chúa, một lời mời gọi trong sự tự do tuyệt đối của Ngài.

Cuộc sống quanh ta luôn xoay vần, rung chuyển với muôn hình vạn trạng.  Vẻ đẹp hiển lộ và tiềm ẩn luôn song hành.  Nhận biết chúng với tâm tình cảm tạ để quy hướng hết thảy về Thiên Chúa, người Kitô hữu và cách riêng là với những ai đang theo đuổi ơn gọi tu trì cần tập sống và duy trì một đời sống nội tâm sâu xa, để dù sống trong hoàn cảnh nào, môi trường nào, tất cả đều có thể thưa lên: “Trong thinh lặng con tìm thấy Ngài.”

Một vài cảm nghiệm đơn sơ nhưng chân thành, muốn được nói lên để cùng chia sẻ với nhau trong hy vọng giúp nhau thăng tiến qua mỗi ngày sống.  Qua đây, rất mong quý độc giả tiếp tục đóng góp thêm nhiều ý kiến, những sẻ chia đầy ý nghĩa hơn nữa, vì mong muốn bản thân cũng như cho mọi người có được những cảm nghiệm thực thù khởi đi từ sự thinh lặng trong tâm hồn…

Làng Bàu TCV Xã Đoài

Cái chết của Boris Nemtsov

Cái chết của Boris Nemtsov

Nguyễn Thị Từ Huy

Hôm nay, chủ nhật ngày 1/3/2015, hàng chục nghìn người Nga đã xuống đường để tưởng nhớ và vinh danh Boris Nemtsov, lãnh tụ của phái đối lập với Putin, vừa bị ám sát tối thứ sáu rạng ngày thứ bảy vừa qua. Theo báo Le Monde, con số mà ban tổ chức cung cấp là 70 000 người, còn cảnh sát công bố con số là 16 000 người. Cũng chiều hôm nay, đáp ứng lời kêu gọi của Hiệp hội Nước Nga Tự do, ở Paris có khoảng vài chục người tuần hành yêu cầu một cuộc điều tra quốc tế độc lập để tìm cho ra thủ phạm thực sự.

Báo chí và truyền hình quốc tế tràn ngập hình ảnh vị thủ lĩnh đối lập hàng đầu tại Nga với những phát ngôn, hành động mạnh mẽ. Chính Boris Nemtsov, ba giờ trước khi chết đã kêu gọi phải tiến hành cuộc biểu tình rầm rộ vào ngày 1 tháng 3 để tố cáo tình trạng quản lý kém cỏi của điện Kremlin đã khiến cho kinh tế Nga khủng hoảng trầm trọng, và tố cáo Putin đã « tấn công Ukraina ». Các giả thiết về vụ ám sát được đưa ra, trong đó giả thiết về một vụ ám sát chính trị được nhấn mạnh và đặt lên hàng đầu. Nhiều cựu quan chức Nga cho rằng có thể sẽ không tìm thấy thủ phạm của cuộc ám sát này, nếu đây là một vụ ám sát chính trị. Và nhiều người Nga đã nêu thẳng tên Putin. Theo trích dẫn của Le Monde, vận động viên cờ vua Garry Kasparov nói trên trang twitte của mình như sau : « Việc biết được liệu có phải Putin đã ra lệnh ám sát Boris Nemstsov hay không chưa phải điểm cốt yếu thực sự. Mà điều cốt yếu chính là sự độc tài của ông ta. Là chiến dịch truyên truyền bất tận của ông ta về những kẻ thù của Nhà nước ».

Bản thân Boris Nemtsov đã nói đến nguy cơ bị ám sát. Le Monde nhân dịp này đăng bài : « Cái chết của Nemtsov kéo dài thêm danh sách các vụ ám sát chính trị ở Nga », điểm lại tên hàng chục trí thức đối lập bị ám sát dưới thời Putin, kể từ năm 2006, ở trong và ngoài nước Nga.

Còn Putin tuyên bố rằng vụ ám sát này mang tính khiêu khích và nhằm đẩy nước Nga vào tình trạng rối ren.

Cá nhân tôi, người viết bài tường thuật này, thấy gì qua sự kiện này ?

Người Nga, thế hệ này qua thế hệ khác, người này đến người khác, sẵn sàng trả giá cho tự do của họ, cái tự do mà họ biết là rất khó khăn mới có thể có được, nhưng họ cũng biết rằng nó đáng cho họ trả giá vì nó.

Đó là điều có thể nhận ra từ danh sách những vụ ám sát chính trị trong những năm gần đây, và từ vụ ám sát Boris Nemtsov.

Đó là điều có thể đọc được trên những tấm biểu ngữ của những người xuống đường hôm nay : « Ông chết cho tương lai của nước Nga », « Tôi không sợ », « Ông đã đấu tranh cho một nước Nga tự do ».

Tình cờ, cách đây một tuần, trong đám cưới một người bạn Nga, đám cưới đồng tính đầu tiên mà tôi tham dự, tôi có dịp tiếp xúc với một nhóm thanh niên Nga. Tôi kể với họ rằng tuổi thơ tôi tràn đầy nước Nga : tôi đọc sách Nga, nghe nhạc Nga, xem tranh Nga, tuy nhiên đáng tiếc là tôi chưa có dịp nào sang nước Nga. Cô dâu, một cô gái bé nhỏ, rắn rỏi, khoảng ngoài 20 tuổi, nói rằng : « Bạn đừng sang bây giờ, không tốt, bạn hãy đợi một thời gian nữa, chúng tôi đang đấu tranh cho một nước Nga mới, một nước Nga tự do, lúc đó bạn hãy đến với chúng tôi. » Cô ấy nói điều đó một cách giản dị, tự nhiên, như là một điều gì đó rất bình thường, như là không khí cô ấy đang thở.

Bao giờ những người khao khát tự do và dân chủ ở Việt Nam sẽ nói một cách tự nhiên như vậy : « Chúng tôi đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, cho một nước Việt Nam mới.» ?

Bao giờ những người đang vận động cho tự do và dân chủ ở Việt Nam tự nhận rằng họ là những người đối lập chính trị ?

Chỉ lúc nào hình thành được một phong trào đối lập chính trị một cách mạnh mẽ, chỉ lúc nào thanh niên Việt Nam không còn sợ hai chữ « đấu tranh » và thực hiện nó trong các hành vi hàng ngày, thì lúc đó mới có thể bắt đầu có những thay đổi trong xã hội Việt Nam.

Paris, 1/3/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Tết Tây và Tết ta

Tết Tây và Tết ta

Nguyễn Hưng Quốc

17.02.2015

Sống ở ngoại quốc đúng 30 năm, tôi, cũng như bất cứ người Việt nào đang định cư ở hải ngoại, mỗi năm cũng đều có đến hai cái Tết: Tết Tây và Tết ta. Nhưng với riêng tôi, hình như có sự thiên vị rõ rệt: Chỉ có Tết ta mới thực sự là Tết.

Sự thiên vị ấy có cái gì như nghịch lý. Bởi, về phương diện xã hội, Tết Tây dễ thấy hơn Tết ta. Cả mấy tuần trước, đi đâu cũng thấy không khí Tết: Tết trên đường phố và ở các cửa tiệm. Trong quan hệ liên cá nhân, Tết cũng hiện diện trong những bức thiệp và những lời chúc, trong những gói quà người ta nhận được hoặc gửi tặng cho bạn bè đồng nghiệp. Giao thừa Tết tây lại càng lớn. Ở thành phố Melbourne, nơi tôi sống, vào đêm giao thừa có cả hàng triệu người đổ xuống đường để cười đùa, hát hò và ngắm pháo bông. Pháo bông ở Melbourne không lớn và đẹp như ở Sydney nhưng dù sao cũng rất ấn tượng, đủ để cả triệu người say mê. Trong môi trường đại học, nơi tôi làm việc, không khí Tết cũng rất rõ rệt qua việc nghỉ lễ kéo dài cả tuần lễ, từ Giáng sinh đến tận mồng 3 hay mồng 4 tháng giêng. Vậy mà, lạ, tự đáy lòng, tôi vẫn không thấy đó là Tết. Tôi gửi thiệp hoặc tặng quà cho người này người nọ như một thứ thủ tục trong quan hệ xã hội và nghề nghiệp. Những lời chúc bằng tiếng Anh gửi đi hoặc nhận được đều có cái gì như sáo ngữ chứ không có một nội dung cụ thể nào cả.

Trong khi đó, với Tết Việt Nam thì lại khác. Trước Tết mấy tuần, đã có chút gì nao nao và nôn nao. Cứ đếm từng ngày, từng ngày. Để làm gì? Tôi cũng không biết nữa. Những năm Tết Việt Nam rơi vào giữa tuần, tôi vẫn phải đi làm. Ở nhà cũng không có gì đặc biệt. Không bàn thờ. Không cúng. Không đến chùa. Không hái lộc. Không xem hướng xuất hành. Không xông đất. Và cũng hiếm, thật hiếm khi tham gia các hội chợ Tết do các cộng đồng tổ chức. Vậy mà, năm nào tôi cũng thấy không khí Tết đầy ắp trong nhà. Và, nhất là, trong lòng: Có cái gì đó cứ nôn nao. Ngay cả khi ngồi một mình, giữa khuya, trước màn ảnh computer, vẫn có cảm giác như có người, nườm nượp người, chung quanh. Không phải chỉ có những người còn sống mà cả những người đã chết. “Những người muôn năm cũ”. Tất cả đều về, đông đúc và ồn ào. Để… đón Tết với tôi.

Tại sao? Lý do chủ yếu, theo tôi, là Tết ta gắn liền với ký ức, còn Tết tây thì không. Và vì gắn liền với ký ức, Tết ta, với chúng ta, không phải là sự kiện mà là một không gian. Chúng ta có thể tránh được sự kiện, nhưng không tránh được không gian. Không gian bao trùm lấy chúng ta, hơn nữa, chuyển hóa mọi sinh hoạt thành Tết, hay nói cách khác, nó Tết-hóa mọi thứ.

Xin lấy chuyện ăn uống ngày Tết làm ví dụ.

Ở những nơi khác, người ta đón Tết, mừng Tết; ở Việt Nam, chúng ta ăn Tết. “Ăn”, như ăn tiệc, ăn cưới, ăn giỗ, ăn liên hoan. Thật ra, chúng ta cũng cử hành nhiều nghi lễ và tổ chức nhiều hội hè như ở các nơi khác, nhưng việc ăn uống, với chúng ta, bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm. Người sống ăn. Người chết ăn (cúng). Cả thần linh (ông Táo) cũng được ăn uống linh đình. Trong ký ức cũng như tâm thức của người Việt, không có gì liên quan đến Tết mà lại không gắn liền với một số loại thực phẩm nào đó. Trong sáu hình ảnh tiêu biểu của ngày Tết được nêu lên trong câu đối quen thuộc “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, có đến ba thứ, tức một nửa, là thực phẩm. Nhưng đó không phải là tất cả. Cái gọi là “thịt mỡ” ấy, ở miền Bắc thường là thịt đông; ở miền Nam, là thịt kho tàu; ở miền Trung, là giò heo hầm chuối chát hoặc thịt ngâm nước mắm. “Dưa hành” chủ yếu ở miền Bắc, ở miền Trung là củ kiệu và dưa món; ở miền Nam là các loại dưa giá hẹ muối xổi. Hiện nay bánh chưng phổ biến khắp nơi, nhưng ngày trước, ở miền Nam và miền Trung, hầu như chỉ có bánh tét.

Nhiều người than thở: Các loại thực phẩm vốn được xem là đặc sản của Tết đang dần dần mất hết ý nghĩa. Bây giờ, trong chợ hay siêu thị, từ Việt Nam ra ngoại quốc, ở đâu có đông người Việt, bất cứ ngày nào, tháng nào, mùa nào cũng có bánh chưng và bánh tét. Thịt kho hay thịt đông, ngày xưa, chỉ xuất hiện trên các mâm cỗ Tết, bây giờ, là thức ăn hàng ngày. Thích lúc nào người ta ăn lúc ấy. Chả có gì là đặc biệt nữa.

Thì đành là đúng. Nhưng điều đó không có nghĩa là ý nghĩa của thức ăn ngày Tết không còn. Còn, ở một điểm: Bình thường, chúng là thức ăn, ăn cho no hoặc cho khoái khẩu; ngày Tết, chúng là thức ăn của huyền thoại, ăn để… nhớ.

Như bánh chưng, chẳng hạn. Ngày thường, chúng ta có thể ăn bánh chưng. Nhưng những lúc ấy, bánh chưng chỉ là bánh chưng. Người ta ăn vì thích, hoặc nhiều hơn, vì tiện: khỏi phải nấu nướng và có thể giữ được lâu. Trong không khí ngày Tết, việc mua hoặc nấu bánh chưng không còn là một chọn lựa ngẫu nhiên hay một ý thích bất chợt, xuất phát từ khẩu vị, mà là một điều gần như bắt buộc, gắn liền với bổn phận, có tính chất nghi lễ: Nhà nào cũng có. Tính chất “bắt buộc”, “bổn phận” và “nghi lễ” ấy làm cái bánh chưng trở thành một biểu tượng, nghĩa là vừa là một vật thể vừa là một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy lại gắn liền với sự tích bánh chưng và bánh dày với Lang Liêu (hay còn gọi là Tiết Liêu) và vua Hùng Vương thứ 6, với ý niệm về Trời và Đất, về công cha và nghĩa mẹ, và gần đây, theo một số học giả về Việt học, về tín ngưỡng phồn thực với hình ảnh của dương vật (bánh chưng, ngày xưa, có hình dài, giống bánh tét bây giờ) và âm vật (bánh dày).

Từ đó, trong ngày Tết, chỉ trong ngày Tết, bánh chưng trở thành biểu tượng của truyền thống, và nhờ tính truyền thống ấy, cái bánh bỗng có chiều dày của thời gian. Nó có ký ức. Trước hết là ký ức chính thức được ghi trong sử sách: Ăn bánh chưng trong ngày Tết, do đó, là ăn cùng với Lang Liêu, với các vua Hùng, và với tổ tiên nói chung. Sau nữa là ký ức cá nhân: Không có người nào sinh ra và lớn lên tại Việt Nam mà lại không có ít hay nhiều kỷ niệm với bánh chưng, từ kỷ niệm mổ heo đến kỷ niệm nấu bánh và ăn bánh. Văn chương Việt Nam đầy dẫy những loại kỷ niệm như thế. Ăn bánh chưng, do đó, là sống lại một quãng đời đã mất.

Cả ký ức cá nhân lẫn ký ức tập thể ấy đều đưa chúng ta về nguồn: Việt Nam.

Một thứ trái cây khác, như dưa hấu, cũng vậy. Mùa hè, trời nóng, hầu như trong chúng ta ai cũng ít nhiều ăn dưa hấu. Bản thân tôi, có thời gian, mùa hè, hầu như ngày nào cũng ăn dưa hấu. Đi làm về, bước ra khỏi xe vào nhà, mồ hôi đầm đìa, công việc đầu tiên tôi làm là mở tủ lạnh, lấy dĩa dưa hấu cắt sẵn, ngoạm từng miếng. Dưa hấu trôi đến đâu, hơi mát tràn đến đó. Nhưng, những lúc như thế, tôi chỉ ăn dưa hấu. Thuần túy là dưa hấu. Dưa hấu mua từ chợ hoặc siêu thị. Nhưng cũng những miếng dưa hấu ấy, trong ngày Tết, có cái gì khác hẳn. Tôi thường thoáng chút ngần ngại khi phải bổ trái dưa hấu. Tôi muốn đặt nguyên trái trên bàn. Để có không khí. Khi ăn, tôi cắn từng miếng, từng miếng thật chậm. Và Tết nào cũng thế, cũng đều nhớ đến chuyện An Tiêm ngày xưa. Đó là trái dưa hấu của An Tiêm, con nuôi của vua Hùng. Nhớ thế, tôi ngỡ như đang ăn dưa hấu chung với An Tiêm.

Mà đâu phải chỉ có An Tiêm. Cùng với An Tiêm, còn có Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh và Kiều Phú, những người đầu tiên chép truyện An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ 14-15), rồi Nguyễn Trọng Thuật, tác giả của Quả dưa đỏ (1925), một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam mà tôi đọc hồi nhỏ, những năm đầu của trung học. Ngoài những tên tuổi lớn ấy, mỗi lần ăn dưa hấu ngày Tết, tôi còn nhớ một người khác, Lê Quý Long, một người đồng hương của tôi, người, trong cuốn Việt sử văn vần, xuất bản ở Huế năm 1971, có bài thơ về An Tiêm: “An Tiêm phải bị cha đày / Sống nơi hoang đảo chuỗi ngày bơ vơ / Một hôm chim lạ tình cờ / Nhả rơi một hạt ai ngờ giống dưa […] Mang theo dưa hấu nặng nề / Nên bây giờ có khắp quê hương mình.” Bài thơ đơn giản, như một bài diễn ca, không có gì đặc sắc, vậy mà, không hiểu sao, đã trên 40 năm rồi, tôi vẫn nhớ. Không trọn vẹn. Nhưng nhớ. Tôi nghĩ, nhớ được, không phải vì bản thân bài thơ. Mà là vì những quả dưa hấu ngày Tết: Chúng nhắc.

Những ví dụ nho nhỏ trên cho thấy, trong ngày Tết, ngay cả những thứ mọn nhất, từ một quả dưa hấu đến một lát bánh chưng hay bánh tét, đều có hấp lực kéo chúng ta về quá khứ: Nhỏ, là những kỷ niệm thuộc về cá nhân; lớn, là truyền thống của cả một dân tộc. Chính vì thế, Tết, chúng ta thường hay hồi tưởng và nhớ vu vơ. Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh khác, lớn và có ý nghĩa chính trị hơn: mọi thứ trong ngày Tết đều vun bồi ký ức tập thể trong mỗi người, khiến mỗi người tự thấy mình là một thành viên của cả một cộng đồng đông đúc, là một đoạn ngắn trong chuỗi dài của lịch sử dằng dặc. Với ý thức ấy, chúng ta trở về với gốc rễ của chúng ta: Việt Nam.

Nói Tết ta khác với Tết Tây là vì thế.

Đảng & Đảng Tính

Đảng & Đảng Tính

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

  • “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.”

Hồ Chí Minh

  • “Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”

Trần Đĩnh

Từ Vọng Các, Mặc Lâm bay tuốt luốt qua Nam Vang rủ nhậu:

  • Ê, kiếm chỗ nào ngồi uống sương sương vài ly cho nó có chút hương vị đầu Xuân nha.
  • Tưởng gì chớ uống thì bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông … gì tui cũng chịu liền.

Mặc Lâm đi cùng với Sơn Trung, thông tín viên mới nhất (và chắc cũng nhỏ tuổi nhất) của RFA đang cư trú tại Phnom Penh.

Tôi rất hài lòng với người bạn trẻ vừa quen: nhanh nhẹn, thông minh, và (xem chừng) đôn hậu. Ghé quán Ngon Restaurant, chúng tôi gọi “liều” một chai Johnnie Walker Black Label. Thấy cái gíá 40 MK mà gần muốn “đứt ruột” luôn nhưng rồi đành tặc lưỡi: “Thôi chả gì thì cũng mừng tân niên, mỗi năm chỉ có mật lần, và cũng là dịp mừng một tân đồng nghiệp.”

Đêm giao thừa vừa rồi, nằm chèo queo mình ên ở nhà trọ buồn gần chết tôi bèn lò dò ra phố, đang đi lơ ngơ thì chợt thấy một chai Ballatine’s bám bụi đứng co ro trong góc một quầy hàng. Ngó “thương” quá mà giá cả cũng nhẹ nhàng thôi (nên) nên tôi “ẵm” liền, sợ chậm. Vừa về tới nhà là lật đật vặn nắp tu liền: rượu giả! Đ…mẹ, cái con bà nó. Khi khổng khi không (cái) mất tiêu 15 U.S.A dollar, lảng xẹc!

Bữa nay thì rượu thiệt (và vì “vật vã” đã lâu) nên tôi tợp liền liền. Vừa cạn ly đầy, lại đầy ly cạn. Rượu ngon, bạn hiền nhưng chỉ có mình ên tui là vô cùng hào hứng còn Mặc Lâm – không hiểu sao – bỗng ưu tư quá cỡ về chuyện nhân quần và cứ nói hoài cái cuộc phỏng vấn mới rồi (“Chuyện Tử Tế Ngày Nay”) với đạo diễn Trần Văn Thủy, cùng rất nhiều buồn bực về tình trạng “đạo đức xuống cấp, văn hoá xuy đồi của” của cả nước Việt Nam.

Tôi sốt ruột (“biết rồi khổ quá”) ngắt ngang:

– Tôi có nghe hai ông “mạn đàm” trên RFA rồi. Hay lắm. Người hỏi đã hay mà kẻ đáp còn hay hơn nữa nhưng chuyện này toàn thể đồng bào, cũng như toàn thể nhân loại, cũng đều đang rất quan tâm nên xin cứ an lòng mà … uống vài ly đi đã. Để lâu rượu bốc hơi, nhạt mùi, tội chết.

Nói đến vậy mà đương sự (ngó bộ) vẫn còn băn khoăn lắm nên tôi lại phải thêm:

  • Bữa trước, G.S. Nguyễn Văn Tuấn còn bàn về “thứ hạng tử tế” của Việt Nam nữa kìa.
  • Có cái vụ đó nữa sao?

-Sao không, coi nè.

Vừa nói, tôi vừa mở smartphone – mới sắm hồi hôm, cho kịp với trình độ văn minh nhân loại – kiếm tuan’s blog chìa liền:

Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen…

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo. So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục…

Nói nào ngay, bị xỉ vả cỡ đó, cũng chưa “nhục” gì cho lắm. Nhà văn Trần Đĩnh còn trích lời của một thằng cha tham tán thương mại Ba Lan (nào đó) nghe nhục nhã hơn nhiều:

“Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn.”

Bị thiên hạ liệt vào hạng “đầu trâu mặt ngựa” nên họ muốn xua đuổi ra tuốt “một hòn đảo hẻo lánh” (cứ như bệnh nhân cùi hủi hồi xa xưa vậy) thì cũng không oan uổng gì cho lắm nhưng ăn ở cư xử ra sao mà tai tiếng dữ vậy cà? Muốn biết, xin nghe qua vài câu chuyện (nhỏ) liên quan đến cuộc sống của giới quan chức lãnh đạo nước CHXHCNVN – vẫn theo lời Trần Đĩnh:

  • “Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
  • “Khi Long đã mệt, tôi đến thế nào anh cũng bắt tôi đưa anh đi dạo một vòng phố. Từng bước nhích rất chậm, kiểu như đi dè cho được ngâm mình lâu trên đường.

Một bữa đến đầu Dã Tượng ra Lý Thường Kiệt, anh nhìn vào toà biệt thự bên trái mà có lần anh bảo ông Đồng có   người quen, thân thiết ở đây, rồi nói khẽ với tôi: Tôi đến ông Đồng, ông ấy thường kéo tôi ra vườn nói chuyện.   Nghe nói mũ của trung uý Dương con ông ấy cũng bị gài rệp nghe trộm ở ngôi sao đằng trước mũ.

Tôi sững nhìn Long. Long biết thì ông Đồng tất biết! Sao biết mà cam nhẫn chịu cho đồng chí của mình dò la, nghe trộm mình? Ôi, các lãnh tụ của phong trào giải phóng đất nước và loài người mà không phá nổi vòng kiểm soát của đồng chí. Bữa ấy tôi hiểu cả tại sao Võ Nguyên Giáp chịu đắng cay tủi hổ như thế mà im! Các vị tại sao tự nguyện phục tùng tội ác?” (S.đ.d. trang 194).

Coi: ông ông Tổng Bí Thư chỉ ăn uống ở nhà vì sợ các đồng chí của mình đầu độc, còn ông Thủ Tướng thì chỉ dám nói năng ở ngoài vườn vì sợ bị “dò la, nghe trộm.” Vậy mà hai vị vẫn thừa “liêm sỉ” và  “kiên nhẫn” để “lãnh đạo” toàn dân cho gần đến hơi thở cuối cùng.

Thiệt là đã đời luôn!

Giữa “các anh ở trên” với nhau mà còn xử sự tàn tệ và đốn mạt tới cỡ đó thì đám dân lành, tất nhiên, đều bị hành cho tới bến:

“Thí dụ sáu bao diêm (bị móc vơi mất gần nửa vì gian giảo là thuộc tính trời sinh của thứ kinh tế tạo ra bằng những kẻ đói ăn, thiếu mặc nên quay sang tháu trộm lại của Nhà nước).

Thí dụ mạt cưa và củi mua về đốt lò nấu cơm thì ướt dề dề vì nhà mậu rẩy nước vào cho nặng cân.

Thí dụ nước mắm pha nước lã, đậu phụ trộn thạch cao. Nhà nước độc quyền mọi sản vật, nhất là lương thực…

Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que, sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả.” (S.đ.d. 225 – 226).

Buộc phải “sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả” qua vài ba thế hệ thì trách sao mà người dân không bớt dần tấm lòng tử tế:

“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).

Quả là “tệ” thật nhưng nhưng nói theo Trần Đỉnh (“bao diêm trăm que chỉ cháy một que”) thì e có hơi quá đáng. Coi:

  • VnExpress: “Sau một tháng mở đợt quyên góp, hàng nghìn độc giả trong và ngoài nước đã hướng về người dân đôi bờ Pôkô, ủng hộ hơn 2,4 tỷ đồng. Dự kiến, cầu sẽ được khởi công sau 2 tuần tới.”
  • Dân Trí: “Từ sự ủng hộ của bạn đọc, tính đến nay báo Dân trí đã xây dựng được 8 cây cầu để giúp các em học sinh vượt sông tìm chữ. Những cây cầu được đặt tên Dân trí thực sự đã ‘nối đôi bờ vui’ trên khắp mọi miền đất nước.”

Có hàng chục ngàn cây cầu từ thiện như trên đã được dựng xây chỉ nhờ vào lòng tử tế của người dân Việt. Tương tự, có hàng triệu mảnh đời rách nát ở đất nước đang được chia sẻ, đùm bọc bởi tình đồng bào ruột thịt, kể cả những khúc ruột xa ngàn dặm.

Đó là chưa kể đến “những chuyện nhỏ” hàng ngày “nhưng lay động lòng người” theo như cách nói của nhà báo Quỳnh Trân:

Những ai đi ngang qua đường Huỳnh Văn Bánh, Quận Phú Nhuận đều bị thu hút bởi tấm biển “Sửa giày dép miễn phí cho người bán vé số, xe ôm, ba gác, xích lô, người thu gom rác…” của anh thợ sửa giày Lý Ngọc Bình, 30 tuổi. Ảnh và chú thích: vietnamnet.vn

Trà đá miễn phí. Chủ nhân của những bình nước này đều là người dân lao động.

Ảnh và chú thích :vietnamnet.vn

Ảnh :vietnamnet.vn

“Gần gụi và cảm động nhất,” theo ghi nhận của blogger Đinh Tấn Lực “là những hoạt động âm thầm trợ giúp bà con có nhu cầu thiết thực: Bữa Cơm Có Thịt, Trường Lớp Tình Thương, Quà Trung Thu Cho Trẻ Em Miền Núi, Học Bổng Bước Đầu Vào Đại Học, Tủ Sách Nông Thôn, Bầu Bí Tương Thân, Cứu Lấy Dân Oan, Bữa Cơm Dân Oan… “

Những kẻ bị “chết lòng tử tế” ở đất nước này phần lớn (chắc chắn) đều không phải … nhân dân. Bởi vậy, khi xếp “thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125)” thì tưởng cũng cần phải nói thêm cho rõ là những con số này chỉ “thể hiện” sự tiểu tâm, ti tiện, bạc ác, và đểu cáng của đám côn đồ đang “lãnh đạo” ở xứ sở này chứ không liên quan dính dáng gì nhiều đến những lương dân đất Việt.

Người Việt chỉ chịu một phần trách nhiệm (e cũng không nhỏ lắm) khi cam chịu để cho “bọn đầu trâu mặt ngựa” hoành hành trên quê hương và đất nước của mình mà không có được một sự phản kháng nào đáng kể, hay đáng nể.