Lối thoát nào cho sự tồn tại của Đảng?

Lối thoát nào cho sự tồn tại của Đảng?

TS. Cù Huy Hà Vũ

Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ tin rằng ‘thiếu chính danh’ chính là thách thức chính của Đảng CSVN hiện nay.

Một nhà bất đồng chính kiến hàng đầu và cựu tù nhân chính trị của Việt Nam nói với BBC rằng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có tương lai ‘lâu dài’ nếu như đảng này biết chấp nhận từ bỏ ‘chế độ độc tài’ và ‘chia sẻ quyền lực’ với nhân dân và các lực lượng chính trị khác trong xã hội.

Trao đổi với Tọa đàm (Hangout) Cuối tuần của BBC hôm 01/2/2015 từ Mỹ, Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ nói:

“Nếu như Đảng Cộng sản Việt Nam biết chấp nhận xóa bỏ chế độ độc tài của mình, để rồi từ đó đi vào cạnh tranh một cách bình đẳng, tự do với tất cả các đảng phái, thì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có thể tồn tại được.”

Quan điểm này được Tiến sỹ Hà Vũ đưa ra vào dịp chính quyền Việt Nam sắp đánh dấu tròn 85 năm ngày Đảng Cộng sản ra đời.

Theo ông Vũ lẽ ra Đảng Cộng sản Việt Nam đã có thể có những điều chỉnh ít nhất từ sau tháng Tư năm 1975, ngày cuộc chiến Việt Nam chấm dứt.

Nhà bất đồng nói: “Sau 30/4/1975, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chấm dứt ngay học thuyết dùng bạo lực để giành chính quyền, dùng bạo lực để giữ chính quyền như hiện nay.

“Cụ thể, theo tôi sau 30 tháng Tư năm 1975, khi đất nước Việt Nam đã thống nhất, thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải chủ động đứng ra để tuyên bố từ bỏ sự cầm quyền độc tài của mình và tổ chức cuộc bầu cử tự do với sự tham gia của tất cả các đảng phái thể hiện tất cả các quan điểm chính trị khác nhau

” Nếu như Đảng Cộng sản Việt Nam biết chấp nhận xóa bỏ chế độ độc tài của mình, để rồi từ đó đi vào cạnh tranh một cách bình đẳng, tự do với tất cả các đảng phái, thì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có thể tồn tại được

TS. Cù Huy Hà Vũ “

“Đặc biệt những quan điểm khác biệt và thậm chí hoàn toàn khác biệt với Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho nên từ sau 30/4/1975 đến nay, Việt Nam chỉ có Hiến pháp duy trì độc tài của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ở Điều 4 Hiến pháp.

‘Thách thức và hậu quả’

Theo ông Vũ sự ‘không chính danh’ chính là thách thức lớn nhất của Đảng và ông chỉ ra hậu quả nếu Đảng Cộng sản không trả lại các quyền thực sự cho người dân.

Tiến sỹ Luật nói:

“Tôi cho rằng đó không những không chính danh, mà đó là một sự cướp quyền của dân, và chính sự cướp quyền này của dân của Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải bị xóa bỏ.

“Cho nên thách thức lớn nhất hiện nay, hay nói đúng ra cái thách thức từ trước tới nay, thách thức cốt lõi của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó chính là việc cướp quyền của dân và nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không trả lại quyền của dân, đó là quyền được tham gia bầu cử một cách tự do.

“Có quyền tự do lựa chọn các ứng cử viên của mình, trên cơ sở sự cạnh tranh bình đẳng của tất cả các đảng phái thể hiện tất cả các quan điểm chính trị, thì Đảng Cộng sản sẽ phải bị nhân dân Việt Nam và các lực lượng dân chủ trên thế giới xóa bỏ.

Đảng Cộng sản

Ông Cù Huy Hà Vũ cho rằng thách thức lớn nhất của Đảng hiện nay là ‘thiếu tính chính danh’.

“Và trong trường hợp đó, đương nhiên Đảng CSVN bắt buộc phải biến mất.

“Và theo tôi đó cũng không phải là hay cho một đảng cộng sản Việt Nam.”

‘Kêu gọi Đại hội đảng’

Tiến sỹ Hà Vũ nhân dịp này trình bày mong muốn cá nhân và đưa ra lời kêu gọi với Đảng Cộng sản Việt Nam ở kỳ Đại hội lần thứ XII dự kiến được nhóm họp vào đầu năm 2016 tới đây.

Ông nói: “Tôi luôn chủ trương giải thể chế độ độc tài của Đảng CSVN một cách hòa bình, tức là thông qua con đường pháp luật, thông qua con đường bầu cử tự do. Chỉ có trên cơ sở đó thì người dân Việt Nam mới thực sự thực hiện được quyền làm chủ vận mệnh của bản thân mình và cũng như vận mệnh của dân tộc, của quốc gia.

“Cho nên tôi mong muốn rằng Đảng Cộng sản Việt Nam, ở Đại hội 12 tới của Đảng CSVN, chủ động tuyên bố chấm dứt chế độ độc tài của Đảng CSVN, bỏ điều 4 ra khỏi Hiến pháp.

” Tôi mong muốn rằng Đảng CSVN ở Đại hội 12 tới của Đảng, chủ động tuyên bố chấm dứt chế độ độc tài của Đảng, bỏ điều 4 ra khỏi Hiến pháp. Và đồng thời tuyên bố ngay lập tức bầu cử tự do, trên cơ sở đa đảng

TS. Cù Huy Hà Vũ “

“Và đồng thời tuyên bố ngay lập tức bầu cử tự do, trên cơ sở đa đảng, tức là một cuộc bầu cử có sự tham gia của tất cả các chính kiến, cho dù hoàn toàn khác biệt với Đảng Cộng sản Việt Nam.

“Đó là ước muốn của tôi và tôi tin rằng đó cũng là ước muốn của nhiều người. Vì vậy, tôi cho rằng đó là giải pháp tốt nhất cho Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như cho đất nước Việt Nam.

Thế nhưng, theo ông Cù Huy Hà Vũ, khả năng mong muốn của ông trở thành hiện thực là không có, vì theo ông Đảng Cộng sản sẽ lựa chọn theo một hướng hoàn toàn khác.

Ông nói: “Tuy nhiên xác suất của kịch bản này diễn ra, theo tôi là 0%, vậy thì những kịch bản còn lại là gì? Nó cũng chỉ có một kịch bản thôi. Đó là kịch bản Đảng CSVN, ban lãnh đạo CSVN duy trì đến cùng, kể bằng bạo lực sự cầm quyền của mình.”

‘Khen Chân dung Quyền lực’

Bình luận về một trang mạng mới đây vừa bị chính quyền Việt Nam, mà đại diện là Bộ Thông tin & Truyền thông công khai chỉ trích, kêu gọi tẩy chay, trang ‘Chân dung Quyền lực’ vì được cho là trang mạng ‘nhảm nhí’, ‘xấu độc’, nhân dịp này, ông Cù Huy Hà Vũ nói:

Bộ Thông tin Truyền thông

Lãnh đạo Bộ Thông tin & Truyền thông tuần này vừa chỉ trích đích danh trang ‘Chân dung Quyền lực’ và kêu gọi ‘tẩy chay’ trang này.

“Trước hết, tôi phải có lời khen ngợi trang ‘Chân dung Quyền lực’, bởi vì những thông tin mà trang ‘Chân dung Quyền lực’ đưa ra có thể nói là rất chính xác, có những tài liệu liên quan đến hành vi tham nhũng của các Ủy viên Bộ chính trị Đảng CSVN như chúng ta thấy.

“Đó là những tài liệu rất xác thực. Những tài liệu này ở đâu ra?

“Chắc chắn là phải từ trong nội bộ Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đưa ra, bởi vì người bình thường không thể tiếp cận được những hồ sơ đó.

“Vấn đề ở chỗ những tài liệu đó đưa ra để làm gì?

“Tất nhiên, về mặt khách quan là để cho người dân Việt Nam cũng như trên thế giới thấy là chế độ Cộng sản Việt Nam là một chế độ tham nhũng, là một chế độ tội ác, nói một đằng, làm một nẻo, đối với dân là lừa đảo, đối với quốc tế cũng là lừa đảo.

” Trang ‘Chân dung Quyền lực’ này theo tôi rất có lợi để cho tất cả mọi người, từ người dân trong nước, cho đến ngoài nước, thấy rõ hơn nữa bộ mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam

TS. Cù Huy Hà Vũ “

“Mồm thì nói chống tham nhũng, nhưng thực tế là ăn cướp và có những tài sản rất nhiều,” ông nêu quan điểm.

‘Dù sao vẫn có lợi?’

Tuy nhiên, vẫn theo Tiến sỹ luật Hà Vũ, trang mạng này cũng có tính hai mặt và đặc biệt phản ánh một khía cạnh khác mà ông gọi là ‘tranh đấu quyền lực’ nội bộ.

Ông nói tiếp: “Đó là một chuyện, thế nhưng xét cho kỹ thì đây là một hình thức đấu tranh quyền lực trong những người cầm quyền, trong Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Và như chúng ta đã thấy, trang ‘Chân dung Quyền lực’ này lần lượt tố cáo nhiều Ủy viên Bộ chính trị, thậm chí cao cấp nhất.

“Nhưng lại chừa ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng ra, thì điều này cho thấy trang ‘Chân dung Quyền lực’ được dựng ra để phục vụ cho việc thanh toán các băng nhóm khác với ông Nguyễn Tấn Dũng. Điều này có thể được khẳng định một cách rất rõ ràng.”

Nhà bất đồng chính kiến cho rằng trong cuộc ‘đấu tranh nội bộ này’ của Đảng, người dân Việt Nam phải có ‘sự lựa chọn’.

Ông nói: “Nhân dân Việt Nam phải có sự lựa chọn của mình, biết rằng tất cả là mọi thành viên trong Bộ Chính trị của Đảng CSVN, trong Ban lãnh đạo CSVN, trong Ủy ban Trung ương Đảng CSVN, đã không có ai vì dân, vì nước cả. Tất cả đều vì quyền lợi vật chất, vì những ham muốn tội ác của mình.

Trang Chân dung Quyền lực

Ông Cù Huy Hà Vũ cho rằng trang ‘Chân dung Quyền lực’ là ‘rất có lợi’ cho người dân ‘từ trong nước đến ngoài nước’.

“Cho nên kết luận lại, trang ‘Chân dung Quyền lực’ này theo tôi rất có lợi để cho tất cả mọi người, từ người dân trong nước, cho đến ngoài nước, thấy rõ hơn nữa bộ mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

“Cho dù trang này được dựng ra là nhằm phục vụ đấu đá nội bộ giữa Ban lãnh đạo Đảng CSVN, giữa ông Nguyễn Tấn Dũng và các thành viên khác còn lại của Bộ Chính trị hiện thời của Đảng,” nhà bất đồng chính kiến nêu quan điểm với Tọa đàm Cuối tuần của BBC.

Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ từng bị kết án 7 năm tù giam vì tội “Tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại các phiên tòa của chính quyền vào tháng Tư và tháng Tám năm 2011, nhưng ông đã được phóng thích vào ngày 6/4/2014 và rời Việt Nam tới Mỹ cùng ngày.

Ông Vũ được Tổ chức Ân xá Quốc tế công nhận là ‘tù nhân lương tâm’ và được nhiều tổ chức quốc tế, khu vực lên tiếng yêu cầu Việt Nam trao trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện trong suốt thời gian ông bị bắt và thọ án tù.

Chạy chức, chạy quyền có là chuyện phổ biến?

Chạy chức, chạy quyền có là chuyện phổ biến?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-02-01

RFA

02012015-lobby-officia-is-commo.mp3

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

AFP

Your browser does not support the audio element.

Ngày 29.1.2014, tại Hội nghị công tác tổ chức xây dựng Đảng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có nói rằng “… cứ thấy chạy bao nhiêu tỷ vào chức này, chức kia. Nghe chuyện chạy chức, chạy quyền xót cả ruột. Các đồng chí cần làm rõ xem có chuyện đó không?”

Trên thực tế chuyện chạy chức chạy quyền ở VN hiện nay ra sao?

Một tệ nạn phổ biến

Ở VN hiện nay, chuyện chạy chức, chạy quyền … đang là một tệ nạn khá phổ biến và có xu hướng gia tăng.

Tới mức, từng có lãnh đạo một Viện nghiên cứu đã đề xuất ý tưởng cho rằng, cần “luật hóa” cho phép chạy chức chạy quyền công khai.

Ngày 29.1.2014, tại Hội nghị công tác tổ chức xây dựng Đảng, TBT Nguyễn Phú Trọng có nói rằng: “Dư luận xã hội nói câu chuyện chạy chức, chạy quyền… cứ thấy chạy bao nhiêu tỷ vào chức này, chức kia. Nghe chuyện chạy chức, chạy quyền xót cả ruột. Các đồng chí cần làm rõ xem có chuyện đó không?”

Đánh giá tình trạng chạy chức chạy quyền ở VN hiện nay, GS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho biết:

“Tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta đang phải sống chung với việc chạy chức chạy quyền và đó là một điều hết sức đáng buồn. Nó không chỉ là báo động sự xuống cấp của đạo đức xã hội, mà nó còn báo hiệu về kỷ cương xã hội là yếu. Chính là khi phổ biến việc triển khai nghị quyết 4 của TW thì TBT Nguyễn Phú Trọng cũng dẫn ra điều này để chúng ta thấy cái thực trạng cái việc chạy việc, chạy chức, chạy quyền hiện nay. Và có thể nói mỗi chúng ta đều đã từng chứng kiến rất nhiều trường hợp như thế này. Song chỉ có điều nói ra hay không nói ra, vì nói ra nó có tiện hay không?”

” Dư luận xã hội nói câu chuyện chạy chức, chạy quyền… cứ thấy chạy bao nhiêu tỷ vào chức này, chức kia. Nghe chuyện chạy chức, chạy quyền xót cả ruột. Các đồng chí cần làm rõ xem có chuyện đó không?

TBT Nguyễn Phú Trọng”

Chuyện chạy chức, chạy quyền không phải chỉ là chuyện nghe dư luận đồn thổi, mà bản thân ông đã nghe trực tiếp từ người thân của mình. GS. Nguyễn Minh Thuyết chia sẻ:

“Những việc chạy chức, chạy quyền, chạy việc thì tôi cũng phải nói thật là cũng thường xuyên tôi được nghe, thậm chí có cả họ hàng hay người quen nói. Ví dụ tôi có về một tỉnh ở rất xa Hà nội, ở đấy có gặp một ông anh họ, ông ấy có bảo:”Cháu của chú cũng vừa tốt nghiệp trường Sư phạm ra, để về cái trường này cháu cũng phải chạy cũng mất 8 chục (triệu)”. Khi tôi mang chuyện này để kể cho một nhà báo, thì nhà báo này bảo tôi “Ô, chưa có vấn đề gì đâu thầy ạ, em biết có trường hợp cũng ở đó mà chỉ chạy về đó với cái chân y tế học đường, tiểu học thôi còn mất 3 chục (triệu)”. Nên có thể nói những chuyện này đã xảy ra quá nhiều, chỉ có điều chúng ta muốn phanh phui nó ra, chúng ta muốn xử lý nó hay là chúng ta thôi để kệ nó cùng chung sống.”

Theo báo VNN online, phát biểu kết luận hội nghị toàn quốc công tác tổ chức xây dựng Đảng, ông Tô Huy Rứa – Trưởng Ban Tổ chức TƯ đã khẳng định: “Việc này dư luận đang quan tâm lắm, nói rất nhiều. Điều tra dư luận xã hội của Ban Tuyên giáo TƯ mới đây chỉ ra nạn chạy chức, chạy quyền, chạy tội là điều bức xúc thứ hai của người dân, chỉ sau tham nhũng”.

Dưới tiêu đề “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền” báo Tuổi trẻ  cho biết: “Ông Lê Hồng Anh – thường trực Ban Bí thư đã thừa nhận với báo chí rằng “chuyện chạy chức, chạy quyền có cả ở cấp địa phương lẫn trung ương. Hiện nay có một thế lực ngầm, đường dây ngầm để chạy dự án, chạy chức, chạy tội. Đường dây này tồn tại lâu rồi, có điều là làm chưa ra được thôi, nhưng có khi nó nằm ngay trong bộ máy nhà nước.”

Nhận xét về nhận định này, PGS. TS. Xã hội học Trịnh Hòa Bình – Giám đốc Trung tâm Điều tra Dư luận Xã hội thuộc Viện KH & XH khẳng định:

” Những việc chạy chức, chạy quyền, chạy việc thì tôi cũng phải nói thật là cũng thường xuyên tôi được nghe, thậm chí có cả họ hàng hay người quen nói.

GS. Nguyễn Minh Thuyết”

“Một người ở cương vị như thế mà nói thì nó giống như sự xác nhận rằng hiện tượng đó đã trở nên không phải là điều lạ lẫm, không phải hiếm hoi và dường như là chuyện phổ biến. Những ý kiến phản bác thì dường như không có và những người có trách nhiệm cao hơn nữa cần thấy đấy là một kênh thông tin để kiểm tra, để tìm cách xác tín trở lại và bản thân cái đó cũng như lời thừa nhận. Người ta có thể bình luận rất nhiều xung quanh cái sự việc đó, rằng là trong xã hội chúng ta đã có sự chấp nhận việc bôi trơn bộ máy. Đặc biệt đối với các công tác liên quan đến việc đề bạt nhân sự, thăng thưởng hay thuyên chuyển v.v… thì đều có bóng dáng của hành vi phong bì, hối lộ.”

Ở trên có gương mẫu thì dưới mới nghiêm minh

Trả lời câu hỏi nguyên nhân do đâu khiến tình trạng chạy chức, chạy quyền trở nên hết sức phổ biến như hiện nay?

Quy trình bổ nhiệm hiện nay tuy qua nhiều cấp, song mang nặng tính hình thức, đồng thời còn do không đánh giá con người, đánh giá công việc theo hiệu quả và nếu sai thì tất cả rơi vào trách nhiệm tập thể, không có anh nào chịu trách nhiệm cá nhân cả. GS. Nguyễn Minh Thuyết cho hay:

” Có thể nói là những tấm gương về đạo đức xã hội quá yếu, nhất là những tấm gương của người lớn, người trên. Vì nếu ở trên có gương mẫu thì ở dưới mới nghiêm chỉnh được

GS. Nguyễn Minh Thuyết”

“Chúng ta đưa qua, đưa lại rất nhiều cấp, nhiều ban, nhiều bệ để mà xét duyệt, nâng lên đặt xuống rất nhiều. Và trong nhiều trường hợp, việc nâng lên đặt xuống cũng để chờ xem người sắp được bổ nhiệm có chạy đến mình hay không? Tôi muốn nói nguyên nhân ở đây là do kỷ cương rất là yếu, vì trước hết chúng ta không có một cơ chế giám sát để các cơ quan có thể giám sát lẫn nhau, để mọi người có thể giám sát lẫn nhau. Mà cái giám sát của chúng ta hiện nay cũng chỉ là hình thức thôi. Cái thứ 2 là khi giám sát xong rồi, phát hiện ra cái sai rồi cũng vẫn chưa xử lý được, đá qua đá lại đến khi sự việc nó nát ra rồi thì cuối cùng cũng chẳng xử lý gì. Và thứ 3 có thể nói là những tấm gương về đạo đức xã hội quá yếu, nhất là những tấm gương của người lớn, người trên. Vì nếu ở trên có gương mẫu thì ở dưới mới nghiêm chỉnh được. ”

Nếu không khắc phục kịp thời tình trạng này, sẽ dẫn đến hậu quả dây chuyền, bởi chọn cán bộ mà sai, không bảo đảm về cả năng lực và phẩm chất thì đến lượt, họ lại chọn những cán bộ như vậy mà thôi. PGS. TS. Xã hội học Trịnh Hòa Bình chia sẻ:

“Điều đó dẫn tới sự méo mó của bức tranh nhân lực của xã hội, bới vì đến lượt mình những người phải bỏ tiền ra để bôi trơn đã phải tham gia quá trình đó với tính cách như hối lộ, tham nhũng thì anh ta cũng sẽ hành xử như vậy khi đã có được một vị trí. Mà cũng sẽ đặt vấn đề như thế để nhũng nhiễu và hạch sách, đòi hỏi khi trở thành một người có điều kiện ban phát. Khi mọi giá trị bị đảo lộn thì nó rất nguy hại cho quá trình phát triển, điều đó chắc chắn nó sẽ gây ra sự mất lòng tin. Bản thân nó sẽ làm cho chính guồng máy của chúng ta bị xuống cấp, bị tha hóa.”

Trong một bài viết trên VNN gần đây, tác giả Đinh Duy Hòa  đã cảnh báo trước rằng: “Bộ máy nhà nước chắc sẽ bao gồm những người nhiều tiền kinh khủng, ở các Bộ sẽ toàn những người tiền trên thiên hạ mới trúng được, rồi chủ tịch các tỉnh, huyện… rồi cũng thế. Hệ thống hành chính chắc phải đổi lại là hệ thống hành chính tiền tệ cho chính xác.”

Thế nào là một chính quyền của giới đầu cơ?

Thế nào là một chính quyền của giới đầu cơ?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-01-30

namnguyen01302015.mp3

000_Hkg9227512.jpg

Ảnh minh họa chụp một con đường ven sông Sài Gòn, hướng về trung tâm TPHCM hôm 19/11/2013.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Kinh tế tài chính VN đang gặp nguy hiểm?

TS Vũ Quang Việt, chuyên gia kinh tế gốc Việt vừa cảnh báo là Việt Nam đang trong tình trạng bấp bênh, mức tăng GDP không đủ để trả lãi nợ vay của toàn bộ nền kinh tế.

Trong bài viết được tờ Thời báo Kinh tế Saigon Online đưa lên mạng ngày 29/1/2015, TS Vũ Quang Việt nguyên Vụ trưởng Vụ tài khoản Quốc gia Cục Thống kê  Liên Hiệp Quốc kêu gọi Việt Nam cấp bách đổi mới thể chế, nhằm bảo đảm sự lành mạnh cho nền tài chính quốc gia. Theo lời TS Vũ Quang Việt, hiện nay nền tài chính bị nhóm lợi ích tài chính sử dụng nhằm mục đích chính là đầu cơ tài sản từ địa ốc, chứng khoán và đến cả điều gọi là sản xuất ảo. Lạm phát, nợ tăng quá mức, nợ xấu là hệ quả, đưa đến tình trạng một số người giàu nhanh chóng còn đại đa số vẫn khó khăn.

TS Vũ Quang Việt đưa ra một thí dụ đơn giản, trong một nền kinh tế không có lạm phát, nếu nợ là 100% ngang bằng với GDP với lãi suất là 5% thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả lãi. Hiện nay tỷ lệ nợ của Việt Nam tức nợ của toàn bộ nền kinh tế đã bằng 164% GDP thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả 60% lãi, như thế phải tăng GDP đến 8% thì mới có thể trả được lãi.

” Chúng tôi vừa nhận được tin là 620 cán bộ công nhân viên của Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng năm nay không có tiền thưởng Tết. Đó là một bi kịch chưa từng thấy đối với nền kinh tế.
-TS Phạm Chí Dũng”

Theo đánh giá của TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, toàn bộ nợ của nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 2014 là 303 tỉ đô la, tương đương 164% GDP, số nợ tăng rất mạnh sau năm 2006, lúc đó chỉ bằng 98% GDP. Riêng về nợ công tức nợ của khu vực kinh tế nhà nước nếu gộp cả nợ của doanh nghiệp nhà nước, thì tính đến năm 2013 là 143,6 tỉ đô la chứ không phải 90 tỉ đô la như cách tính của chính phủ. Như vậy theo TS Vũ Quang Việt nợ của khu vực kinh tế nhà nước tương đương 53% tổng nợ của cả nền kinh tế. Trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chỉ sản xuất ra 32% GDP.

Đáp câu hỏi của chúng tôi là phải chăng tình hình kinh tế tài chính Việt Nam đang gặp nguy hiểm?  Chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:

“Theo tôi nghĩ là một tình trạng báo động, với tư  cách chuyên gia tôi nghĩ là tỷ lệ nợ công theo GDP là căn cứ rất quan trọng. Nhưng quan trọng hơn nữa là xem việc sử dụng cái nguồn để trả nợ cũng như hiệu quả hoạt động nền kinh tế vấn đề sử dụng đồng tiền đó như thế nào. Chứ còn giả sử nợ công mặc dầu có dưới trần cho phép, nhưng hoạt động không hiệu quả, làm ít ăn nhiều làm không hiệu quả không có thặng dư thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Trong bối cảnh Việt Nam cả hai vấn đề đó cần phải xem xét, thứ nhất nợ công theo cách tính toán của một số chuyên gia theo thông lệ quốc tế thì có thể không phải như chính phủ công bố mà cao hơn, đặc biệt nguồn chi trả của nó thì không có khả năng đáp ứng. Bởi lẽ ngân sách luôn luôn thâm thủng bội chi mà bội chi ngân sách của Việt Nam là một căn bệnh trầm kha bởi năng suất chất lượng hiệu quả luôn luôn là thấp.”

000_Hkg9537856-250.jpg

Công trình xây dựng đường xe điện trên cao (sky train) tại trung tâm thành phố Hà Nội hôm 26 tháng 2 năm 2014. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

Cùng một câu hỏi phải chăng tình trạng hiểm nguy đang đối diện nền kinh tế tài chính Việt Nam, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng một nhà phản biện độc lập ở Saigon nhận định:

“Người ta đã nói khá nhiều về khả năng vỡ nợ của Việt Nam giống Argentina năm 2001 và năm trước chính phủ Việt Nam đề cập việc vay 1 tỉ đô la đã là khó khăn. Tôi không biết 1 tỉ đô la phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam như là một thành tích vào cuối năm trước là ai mua; mà cũng có khá nhiều người tỏ ra nghi ngờ rằng, đã có những Tập đoàn Nhà nước ở hải ngoại đứng ra mua trái phiếu chứ không phải là một quốc gia uy tín nào, hoặc là những doanh nghiệp uy tín nào của quốc tế. Thành thử tình trạng hiện nay rất nguy hiểm và điều đó có thể nhìn thấy qua một ý kiến ‘phơn phớt’ của ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, hay ý kiến thẳng thắn hơn nhiều của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thì nhìn vào tình trạng nợ công nợ xấu, thị trường bất động sản, vấn đề thất nghiệp và gần nhất là vấn đề tiền thưởng Tết của các doanh nghiệp hiện nay. Chúng tôi vừa nhận được tin là 620 cán bộ công nhân viên của Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng năm nay không có tiền thưởng Tết. Đó là một bi kịch chưa từng thấy đối với nền kinh tế.”

Chính quyền đẩy lạm phát là chính quyền của giới đầu cơ

Trở lại bài viết của chuyên gia kinh tế tài chính TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, ông cho rằng lạm phát chính là biện pháp hay chính sách để người vay không phải trả nợ vì giá trị thật của nợ giảm… Và một chính quyền cổ vũ cho tăng tín dụng, đẩy lạm phát là một chính quyền của giới đầu cơ.

Trong câu chuyện với chúng tôi chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long nhận định:

“Tôi nghĩ cách nói của ông Việt rất là tế nhị, ông không nói thẳng là Việt Nam nhưng chúng ta thấy rằng thực chất nó là bản chất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đặc biệt ông Việt là một Việt kiều, nhiều khi người ta nói là thuốc đắng thì dã tật, sự thật thì mất lòng. Nói thẳng vấn đề ra thì nhiều khi người ta cũng cảm thấy là không dễ chịu cho nên cách của ông dùng hình tượng đó nhưng nếu mình hiểu đúng bản chất của nền kinh tế Việt Nam thì thực chất là nói đến nền kinh tế Việt Nam.”

” Nền kinh tế Việt Nam cũng vẫn có một sự trì trệ nhất định hay sự phát triển cũng chỉ có một mức độ nhất định, thì chính là do lời nói cũng như việc làm, chính sách chủ trương đưa ra và việc thực hiện nó không đồng nhất với nhau.
– PGS. Ngô Trí Long”

Trong bài viết của mình trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt  nhấn mạnh tới nguyên nhân gây ra nợ công lớn không chỉ vì chính sách xây dựng hạ tầng cơ sở mà còn vì chính sách chi tiêu cho Tập đoàn Doanh nghiệp Nhà nước, tưởng là có thể đẩy mạnh tốc độ tăng GDP và khi chúng thiếu hiệu quả gây khủng hoảng kinh tế, thì lại có cớ tăng chi kích cầu. Kết quả là nợ nhà nước phình to, chiếm tỷ lệ rất lớn của GDP nhưng cuối cùng chỉ là giúp tìm việc cho nhóm lợi ích và giúp cho giới đầu cơ làm giàu.

Cùng về vấn đề này, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng trình bày cách nhìn của ông:

“Vào năm 2009 khoảng 143.000 tỉ đồng đã được tung ra tương đương 8,5 tỉ đô la vào thời điểm đó và đã làm lợi cho hai thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Thị trường chứng khoán tăng gấp ba lần, thị trường bất động sản Hà Nội cũng tăng giá gấp ba lần và tạo ra một cơn điên. Việc này chỉ có lợi cho bất động sản và chứng khoán và sau đó tính chất đầu cơ mạnh mẽ đến mức Quốc hội cũng phải lên tiếng. Nhưng mà cho tới giờ Quốc hội cũng chưa có điều kiện hoặc là không dám có điều kiện để kiểm chứng lại hiệu quả của gói kích cầu chính phủ tung ra vào năm 2009 là như thế nào.”

Chuyên gia Vũ Quang Việt sau khi vạch rõ nguyên nhân dẫn đến căn bệnh trầm kha của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã đề nghị sự cải cách cơ bản là “Viết lại Luật Tín dụng và Luật Doanh nghiệp”. Trên Saigon Times Online ông cho rằng, chỉ nói cơ cấu lại nền kinh tế như tăng chỗ này giảm chỗ kia thì không có nhiều ý nghĩa. Vấn đề cơ bản là xây dựng được một nền tài chính lành mạnh làm cơ sở để nền kinh tế phát triển lành mạnh. Theo quan điểm của ông Vũ Quang Việt, viết lại Luật Tín dụng là yêu cầu cơ bản và điều quan trọng là việc viết lại này không đòi hỏi phải thay đổi Hiến pháp hiện hành.

Theo TS Vũ Quang Việt, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành cho phép sở hữu chéo, giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng với công ty tài chính và doanh nghiệp phi tài chính. Chính điều này đã tạo ra cơ sở để tư bản thân hữu nảy nở. Viết lại Luật Tín dụng theo hướng triệt tiêu tất cả những sự cho phép đó, chấm dứt mọi hình thức lạm dụng tài chính quốc gia.

TS Vũ Quang Việt đề nghị viết rõ trong Luật Tín dụng và cả Luật Ngân hàng Nhà nước đòi hỏi mọi doanh nghiệp dù công hay tư phải báo cáo tài chính có kiểm toán hàng quí và hàng năm. Theo ông, lành mạnh hóa nền tài chính bằng cách viết lại luật chỉ là một điều kiện cần để kinh tế có thể hoạt động hữu hiệu. Các điều kiện khác vẫn là nền kinh tế phải có tính cạnh tranh, không ưu tiên do đó cần xóa bỏ dần Doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước độc quyền như sản xuất điện, cần nghiêm cấm đầu tư ngoài hoạt động mà Doanh nghiệp Nhà nước được độc quyền.

Trong bài viết trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt đề nghị công khai minh bạch về các khoản nợ. Thực hiện luật phá sản đối với ngân hàng và doanh nghiệp đã ngập sâu trong nợ nần, không thể cứu nếu không chi một lượng tiền quá lớn.

Đáp câu hỏi của chúng tôi về khả năng khuyến nghị của TS Vũ Quang Việt được lắng nghe và thực hiện, Phó giáo sư Ngô Trí Long nhận định:

“Tôi nghĩ ý kiến và quan điểm của ông Việt hoàn toàn đúng và đúng với thông lệ quốc tế, đúng với qui luật của kinh tế thị trường. Tôi đã từng làm việc nhiều với ông Việt, ông là người có tư duy kinh tế thị trường thực sự và cũng am hiểu về Việt Nam rất là sâu, những ý kiến và đề nghị của ông Việt là hoàn toàn chuẩn xác. Nhưng việc vấn đề được đưa ra và thực hiện nó như thế nào là một vấn đề cần phải xem xét; trong bối cảnh tình hình Việt nam hiện nay, đã thấy được tình hình đó nhưng để xử lý giải quyết những vấn đề này một cách triệt để đúng theo như lời nói thì hoàn toàn rất là khó. Chính vì vậy nền kinh tế Việt Nam cũng vẫn có một sự trì trệ nhất định hay sự phát triển cũng chỉ có một mức độ nhất định, thì chính là do lời nói cũng như việc làm, chính sách chủ trương đưa ra và việc thực hiện nó không đồng nhất với nhau.”

Theo quan điểm và ý kiến của TS Phạm Chí Dũng, đề nghị của TS Vũ Quang Việt có tính khả thi chỉ riêng trong vấn đề thực hiện phá sản các tổ chức tín dụng ngập trong nợ nần nói chung. Tuy nhiên theo lời nhà phản biện độc lập này, sự công khai minh bạch không tồn tại ở Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Trong khi các đề nghị cải cách cơ bản của chuyên gia Vũ Quang Việt, đặc biệt trong xóa sở hữu chéo, trên thực tế đều cần phải có sự công khai minh bạch mới có thể trở thành hiện thực.

Còn Đạo nhưng đã lạc mất đường…

Còn Đạo nhưng đã lạc mất đường…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Chuacuuthe.com

VRNs (31.01.2015) – Hôm qua tiễn gia đình một người bạn về lại Hoa Kỳ, nhìn đống đồ ngồn ngộn của gia đình bạn trên những chiếc xe đẩy mà tôi ngán ngẩm, cô vợ thì yếu đuối nên anh chồng loay hoay mồ hôi nhễ nhãi. Đứng ngoài khá lâu chờ gia đình bạn làm thủ tục gởi hành lý và lấy chỗ trên máy bay, tôi nghĩ rằng có trục trặc gì trong khi làm thủ tục. Quả thật, khi trở ra, anh chồng không ngớt lời cằn nhằn về cách làm việc của Hải Quan Việt Nam. Câu chuyện trở nên bình thường trên môi miệng của những người đi ngang qua cửa xuất cảnh, vẫn là chuyện làm tiền vặt đáng buồn.

Không cần tinh ý lắm rất dễ dàng nhận ra anh bạn tôi là người khó tính. Trong bữa cơm ngày hôm trước chúng tôi dùng với nhau gọi là chia tay, anh em có nhiều giờ để nói chuyện này chuyện nọ, anh bạn huyên thuyên về những điều anh nhận thấy khác lạ, anh lập đi lập lại câu: “Cái này bên Mỹ không có”, một cách nói, một cách nhận định không hài lòng. Rời Việt Nam đã khá lâu nên anh lộ ra sự ngô nghê lắm khi khá buồn cười. Anh kể anh đi ra sạp báo và tìm một vài tờ báo mà bên Hoa Kỳ thỉnh thoảng anh có vào xem những trang web của báo đó, hỏi người bán báo không có, anh tỏ vẻ ngạc nhiên, anh ngây thơ đến độ không biết rằng chỉ những tờ báo của Nhà Nước Việt Nam mới được xuất hiện trên các sạp báo mà thôi, nghe giải thích anh lại nói: “Cái này ở bên Mỹ không có”!

Chê nhiều lắm, gần như không có lời khen, nhưng chính đống đồ ngồn ngộn kềnh càng anh đã gom góp, chất đầy trên những chiếc xe đẩy khiến anh bị cánh Hải Quan vòi vĩnh làm khó dễ, cho thấy rằng có nhiều món hay hấp dẫn lắm, chứ chẳng phải chỉ toàn là những chuyện dở không đâu! Khi tôi nhận xét điều này thì anh cười bảo: “Ừ, rẻ quá chừng, mình sẽ có dịp về nữa để tìm mua thêm. Mấy cái này ở bên Mỹ không có!”

Đó là những sinh hoạt xã hội mà chúng tôi nói chuyện với nhau, nể bạn tôi không phản ứng nhiều, thỉnh thoảng khi có dịp “kê tủ đứng”, tôi chêm vài câu “sửa lưng” bạn cho vui, và chúng tôi vui thật vì toàn những chuyện giúp cảm thông nhau thêm. Tuy nhiên, có những điều anh nói về Giáo Hội, về cách sống đạo cụ thể của những người thân mà anh chứng kiến, thì để lại trong tôi nhiều nhức nhối.

Anh kể lại rằng, lâu quá không về Việt Nam, hơn nữa, nể chị, anh phải tham dự rất nhiều những bữa cơm bên gia đình nhà ngoại, anh em bên ngoại ngày nào cũng lập đi lập lại một diễn tiến: nhậu, rượu bia, đánh bài, say xỉn và cãi lộn. Ngày mai lại lập lại diễn tiến đó. Anh không uống rượu nên rất khó chịu và bất mãn với cách sinh hoạt như vậy, anh cho rằng họ không có tương lai và cũng không có cả hiện tại, vì họ sống mà không biết sống để làm gì.

Tôi biết mấy anh em bên ngoại nhà anh, trước năm 75 họ không phải là một gia đình thành đạt, trí thức, nhưng cũng không phải là một gia đình loại xoàng, họ có công ăn việc làm ổn định, họ có những sinh hoạt lành mạnh, thậm chí đạo đức, có vị trí trong cộng đồng, họ có hướng đi lên cho cuộc đời của mỗi thành viên, dẫu rằng khi đó chiến tranh gây ra những trở ngại rất nhiều cho tuổi trẻ.

Nhưng sau năm 75, cả đại gia đình họ trôi tuột, mất định hướng, kết quả là bắt đầu chìm ngập trong những chầu nhậu nhẹt và cãi vã lẫn nhau. Họ vẫn cố giữ cái tâm, sự sống lương thiện bình thường nhưng mất hướng, ngoài chuyện làm ăn, cơm áo gạo tiền, họ không còn gì để sinh hoạt, không có gì để cố gắng vươn lên, họ loay hoay trong tuyệt vọng, nhàm chán. Kéo nhau đi Vũng Tàu chẳng làm chuyện gì khác ngoài chuyện mang theo đồ nhậu để nhậu, chỉ có cái khác là nhậu ở Vũng Tàu nó sướng hơn nhậu ở Sàigòn thế thôi. Anh bạn tôi lắc đầu phê phán…

Giáo Hội chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc “Tái Phúc Âm hóa”, nhưng Tái Phúc Âm hóa thế nào được khi chính các gia đình Kitô hữu sống không định hướng, theo đạo một cách chân thành nhưng chỉ là thói quen, không tìm được sức sống và sự năng động niềm tin trong mọi sinh hoạt. Qua một người bạn từ xa về, tôi vừa kể sơ lược về một nhóm có sáu gia đình Công Giáo, họ không đại diện cho cả trên dưới bẩy triệu tín đồ Công Giáo ở Việt Nam, nhưng họ là “một bộ phận không nhỏ” trong mọi sinh hoạt xã hội. Họ có Đạo, vẫn giữ Đạo, nhưng nếu Đạo chính là Đường, thì họ lạc mất Đường rồi hay sao ấy!

Mà đâu chỉ là chuyện trăn trở với riêng đời sống Đạo của Giáo Dân! Năm “Năm Thánh đời Thánh Hiến”, Đức Thánh Cha muốn nêu bật sự tuyệt mỹ của đời thánh hiến và mong muốn đời thánh hiến thức tỉnh xã hội con người. Đây là thách thức thật sự to lớn với đông đảo Tu sĩ Việt Nam hôm nay.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

25.1.2015

Đức Phanxicô và sự thay đổi quan điểm của Mỹ về người Công Giáo

Đức Phanxicô và sự thay đổi quan điểm của Mỹ về người Công Giáo

Vũ Van An

Tổng Thống Obama ca ngợi Đức GH Phanxicô trong bài diễn văn về tình trạng liên bang của ông mới đây. Tuy nhiên, ai cũng đã rõ: trong suốt lịch sử Mỹ với gần 50 ông tổng thống thay phiên nhau cai trị đất nước Hoa Kỳ, mới chỉ có 3 ông làm chuyện này. Trước Obama, Johnson nhắc tới Đức Phaolô VI; Clinton nhắc tới Đức Gioan Phaolô II.

Tên tuổi Đức Phanxicô sẽ xuất hiện một lần nữa tại tòa nhà quốc hội Mỹ vào cuối năm nay khi ngài nhận lời mời tới đây đọc diễn văn, đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử. Đức TGM Bernardito Auza, thuộc Ủy Ban sắp xếp cuộc tông du Mỹ sắp tới của Đức Giáo Hoàng, cho hay: “Thực sự, ta có thể nói, điểm nổi bật của chuyến thăm Hoa Thịnh Đốn có thể là bài diễn văn ngài đọc với phiên họp lưỡng viện; với các đại diện Thượng và Hạ Nghị Viện”.

Tuy nhiên, bài diễn văn trên sẽ không chỉ là một điểm nổi bật mà thôi. Với một ông phó tổng thống Công Giáo và một ông chủ tịch Hạ Nghị Viện Công Giáo nhìn từ sau lưng ngài, bài diễn văn chắc chắn sẽ là một nhắc nhở sống động việc người Mỹ đã tiến bao xa trong việc khắc phục các thiên kiến và cuồng tín bài Công Giáo lâu đời của họ.

Sự cuồng tín nói trên bao gồm cả TT Thomas Jefferson, người, vào năm 1813, từng viết rằng: “Tôi tin rằng lịch sử chưa bao giờ cho ta một điển hình nào về việc một dân tộc nhiều linh mục lại duy trì được một chính phủ dân sự tự do… Tại mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục luôn thù nghịch đối với tự do”.

Trong phần lớn thế kỷ 19, người Công Giáo bị người Mỹ theo chủ trương coi người sinh ra ở địa phương trội hơn người nhập cư (nativists), phần lớn theo Thệ Phản, tố cáo là phá hoại cuộc thử nghiệm dân chủ của Mỹ. Đôi khi những lời tố cáo này kèm theo bạo lực.

Năm 1834, một tu viện tại Charlestown, Mass., đạ bị phóng hỏa. Năm 1844, một cuộc bạo động tại Philadelphia đã khiến 13 thiệt mạng và phá hủy hai nhà thờ. Trong cùng thập niên này, Hiệp Hội Thệ Phản Mỹ được thành lập để tố cáo “các nguyên tắc của bọn giáo hoàng” vì chúng bị coi như “phá sập tự do dân sự và tự do tôn giáo”.

Năm 1835, Lyman Beecher, một nhà giảng thuyết và là viện trưởng một chủng viện, hô hào xua đuổi người Công Giáo khỏi bất cứ khu định cư nào ở Phía Tây khi người Mỹ di chuyển ngày càng đông từ bờ biển Phía Đông tới đó. Oái oăm một điều, con gái ông là Harriet Beecher Stowe, lại là tác giả cuốn “Uncle Tom’s Cabin”, một tiểu thuyết nhằm tố cáo tội ác buôn bán nô lệ tại Hoa Kỳ.

Tổng Thống Ulysses S. Grant công khai lo ngại đối với một đất nước “một đàng thì có lòng yêu nước và thông minh, nhưng đàng khác lại dị đoan, có tham vọng và tham lam “. Vị anh hùng của cuộc Nội Chiến này cũng muốn các trường công lập “không bị pha trộn với thứ giáo huấn vô thần, ngoại đạo hay bè phái”, vốn tiêu cực ám chỉ một cách lộ liễu tới Đạo Công Giáo Rôma.

Năm 1928, Thống Đốc New York, Al Smith, là người Công Giáo đầu tiên tranh cử vào Tòa Bạch Ốc. Trong chiến dịch tranh cử, có cả một làn sóng cuồng tín bài Công Giáo. Người ta sợ ông Smith sẽ nhận lệnh trực tiếp từ giáo hoàng ở Rôma. Một số người cuồng tín còn phao tin rằng giáo hoàng có dự định dọn vào Toà Bạch Ốc nếu Smith trở thành tổng thống. Kết quả: Smith thua Herbert Hoover trong một cuộc thất bại “đất lở” (rất đậm).

Ngay sau này, vào năm 1960, một số mục sư Thệ Phản nổi tiếng, vì sợ một tổng thống Công Giáo, cũng đã vận động chống lại John F. Kennedy. Các mục sự này, trong đó có người quá cố Norman Vincent Peale, tác giả cuốn sách bán chạy nhất “The Power of Positive Thinking”, sợ rằng đức tin Công Giáo của JFK sẽ xung đột với các trách nhiệm tổng thống của ông.

Trong một diễn văn với một nhóm nhà lãnh đạo Thệ Phản ở Houston, Kennedy đã nổi tiếng bác bỏ những lời tố cáo như trên khi xác nhận sự độc lập bản thân và chính trị của ông đối với Giáo Hội Công Giáo trong các vấn đề chính sách công.

Ông chỉ thắng cuộc bầu cử rất xít xao và vẫn là người Công Giáo duy nhất ngụ trong Tòa Bạch Ốc.

Điều đáng lưu ý là Kennedy chỉ gặp Đức Giáo Hoàng có một lần. Khi yết kiến Đức Phaolô VI tại Rôma năm 1963, JFK thận trọng chỉ bắt tay Đức Giáo Hoàng chứ không hôn nhẫn như phép lịch sự thông thường của người Công Giáo.

Trong 50 năm qua, đã có nhiều cuộc gặp gỡ giữa các tổng thống Mỹ và các Đức Giáo Hoàng hơn trước, nhưng mới chỉ có hai vị giáo hoàng thực sự đặt chân vào Tòa Bạch Ốc. Năm 1979, TT Jimmy Carter, một người Baptist Miền Nam, chào đón Đức Gioan Phaolô II tại đây; năm 2008, George W. Bush, một người tin lành tái sinh, nghinh đón Đức Bênêđíctô XVI tại Sân Cỏ Phía Nam.

Dù hai đức Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI quyết định không làm vậy, nhưng các ngài có thể dễ dàng ngủ qua đêm tại Phòng Ngủ Lincoln như những vị khách, một điều không thể nào có được vào thời Jefferson và Grant.

Và khi Đức Phanxicô đọc diễn văn với Quốc Hội Mỹ, thì đây là một dấu chỉ rõ rệt khác cho thấy “thời gian quả đang thay đổi”.

Vi Khuẩn Hansen & Chủ Nghĩa Cộng Sản

Vi Khuẩn Hansen & Chủ Nghĩa Cộng Sản

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cười. Ảnh: nguoicui.org

Nhà văn Võ Hồng có người bạn chung lớp vỡ lòng tên Hoạt. Ông Hoạt chỉ học đến lớp tư rồi phải ở nhà phụ giúp cha mẹ trong việc mưu sinh.

Sau đó chừng bốn năm năm, một hôm không nhớ đang nói chuyện gì bỗng một người nhắc đến Hoạt. Giọng nói đang to bỗng chợt nhỏ đi, thì thầm như một tâm sự:

–      … nó bị phung.

“Không ai chuẩn bị để nghe tin đó nên ai nấy đều có cảm tưởng mình vừa rùng mình. Chừng như người ta có quyền mắc một trăm thứ bệnh khác, điều đó không khiến ai ngạc nhiên, chứ bệnh phung thì không thể tưởng tượng được.

–      Cha nó phải dựng một cái chòi ở giữa đám dưa hấu ngoài soi để dấu nó ngoài đó, – lời người bạn kể. Nhưng lâu ngày rồi cũng bị lộ. Có người đâm đơn xuống huyện. Nhà nước bắt chở đi…

“Gần đây, do ngẫu nhiên mà tôi được tiếp xúc với một sư huynh quản đốc của một viện bài cùi.

–      Bệnh cùi – lời vị sư huynh, – chúng tôi chữa lành được. Có nhiều bằng chứng cụ thể, có những tấm ảnh chúng tôi còn giữ lại để làm tài liệu, tấm ảnh chụp người bệnh khi nhập viện và khi xuất viện.

“Tôi dè dặt trong cuộc đối thoại:

–      Người ta nói rằng thuốc Sulfon chỉ giữ cho bệnh không tăng thêm chứ chưa thể…

–      Tôi hiểu sự hoài nghi của ông. Cố nhiên là khoa học có nhiệm vụ và có khả năng đi tới không ngừng…

“Tôi nghĩ đến anh Hoạt liền ngay lúc đó và những ngày sau đó. Sao anh sinh ra đời chi sớm những ba mươi năm. Có gì đâu để mà vội vàng? Anh đã hưởng gì ở cuộc đời ? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa Hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa… những niềm vui đó quá nhỏ nhoi với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dẹp bớt những khổ não. Giá anh sống lùi lại ba mươi năm, năm mươi năm…” (Võ Hồng. ”Hãy Đến Chậm Hơn Nữa”. Trầm Mặc Cây Rừng. Lá Bối: Saigon, 1971).

Sự lạc quan của nhà văn Võ Hồng, một người sinh trưởng hồi đầu thế kỷ 20, hoàn toàn chính đáng. Khoa học (nói chung) và y học (nói riêng) quả đã có tiến bộ và đạt được nhiều thành quả tột bực trong mấy thập niên vừa qua. Ngày nay, cùi hủi không còn phải là thứ căn bệnh hiểm nghèo – vô phương chữa trị – như trước nữa. Vi khuẩn Hansen chỉ còn có thể hoành hành ở vài nơi xa xôi, và tối tăm trên mặt đất này thôi.

Việt Nam, thương thay, lại là một trong những “nơi xa xôi và tối tăm” như thế. Rải rác trên xứ sở này, vẫn còn những bệnh nhân phong cùi (sống lẩn lút như những con thú hoang) nơi những góc rừng heo hút – theo như lời kể, với nước mắt đầm đìa, của linh mục Nguyễn Văn Đông:

“Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên ngay cái nhà họ ở đã không ra cái gì, giờ thì lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng, chỉ một mùa mưa đã nát. Mỗi lần đến thăm họ, tôi phải cúi đầu lom khom mới vào ‘nhà’ họ được. Thấy tôi đến họ mừng lắm anh chị em à. Họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm. Họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi. Họ nghèo quá, lại cùi, nên tôi tặng họ vật gì của giáo dân góp cho tôi, là họ mừng lắm, cứ giữ khư khư ép vào ngực như sợ bị mất đi.”

Trong một dịp khác, linh mục Nguyễn Văn Đông cũng đã tâm sự với đặc phái viên Thanh Trúc (RFA) là “ông đã khóc trong một ngày mưa rừng gió núi lội đi thăm một gia đình cùi. Cả nhà người Thượng ấy, hai người lớn ba đứa nhỏ nheo nhóc, lở lói nằm chui rúc dưới một tấm bạt bằng mủ rách nát tả tơi.”

Người cùi ở Kontum. Ảnh: Kontum Missionary and Friendship

Theo Wikipedia:” Hiện nay ở Việt nam, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000, 23.371 đã được chữa lành, 18.000 còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng số làng phong đếm được là 13.”

Tên trại Địa điểm Sáng lập Dân số Bệnh nhân
Bến Sắn Bình dương 1959 39 hộ 664
Bình Minh Đồng nai 1974 295 hộ 141
Cẩm Thủy Thanh hóa 1967 70
Di Linh Lâm đồng 1927 30 hộ 150 (1)
Đắc Kia Kontum 1920 Nhi 373
Phú Bình Thái nguyên 1960 200 hộ 105
Phước Tân Đồng nai 1968 ? 270 (2)
Quả Cảm Bắc Ninh 1913 ? 257
Quy Hòa Quy nhơn 1929 365 hộ ? (3)
Quỳnh Lập Quỳnh lưu 1957 ? 300
Sóc Sơn Hà nội ? ? 31
Thanh Bình Tp HCM 1967 105 hộ 357
Văn Môn Thái bình 1900 > 600 366 (4)

(1): do cha Jean Cassaigne (1895-1973), Hội Thừa Sai sáng lập.

(2): do Giáo hội Tin Lành và mạnh thường quân Na Uy sáng lập.

(3): do Cha Paul Maheu sáng lập (Ngày 3 tháng 3 năm 1930, một buổi diễn thuyết được BS Lemoine và cha Maheu tổ chức ở Saigon, do các giám mục địa phận Saigon (Dumortier), Quy Nhơn (Tardieu), Gouin (Lào) và Blois (Thẩm Dương) bảo trợ ngõ hầu vận động đóng góp tài chánh cho công trình xây dựng trại phong Quy Hòa cho hơn 1500 bệnh nhân. Sau đợt này, nhà nước thuộc địa cũng vận động sáng lập một trại khác ở Cù lao Rồng (Mỹ Tho), đến năm 1971 được giải thể, dời vào Qui Hòa.

(4): lâu đời nhất và đông nhất Bắc kỳ.

Trẻ em phong cùi. Ảnh: Hội Từ Bi Quan Thế Âm

Theo tường trình của linh mục Ðinh Thanh Bình, sau chuyến đi thăm Việt Nam vào năm 2002, con số trại phong hiện nay đã tăng gần gấp đôi:

“Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu… Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn trợ cấp 15 Úc Kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết. Nhà nước chỉ giỏi cướp công, mỗi lần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu, vô túi ai không biết, vì Di linh không hề nhận được thêm đồng cắc nào. Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho đến mùa Tết tháng sau.”

Khác với thời còn thuộc địa (hễ nghe ở đâu báo có bệnh nhân phong cùi là nhà nước cho người đến bắt đưa vào trại) chính quyền cách mạng – xem chừng – không bận tâm gì lắm về sự hiện diện của những nạn nhân của bệnh phong cùi, dù họ sinh sống ở bất cứ nơi đâu. Muốn biết phần lớn những bệnh nhân phong cùi ở Việt Nam sống (chết) ra sao, xin xem qua hoạt động của vài tổ chức thiện nguyện như Southeast Asian Relief Association, Hội Từ Bi Quan Thế Âm, Hội Bạn Người Cùi. Xin dẫn lời của một trong những vị lãnh đạo của các  tổ chức này:

“Qua các nữ tu cũng như các linh mục, trong đó có cha Đông, hội giúp nhiều lãnh vực như tiền ăn hàng tháng, xây trạm xá, làm nhà lưu trú cho các em mà bố mẹ chết, rồi giúp vốn trồng trọt canh tác cho họ tự túc, giúp những tủ thuốc di động để những nữ tu giòng Phao Lồ đi vào những buôn làng thì mang theo cái tủ thuốc di động để băng bó và cho thuốc.
Từ đó thì chúng tôi xuất phát ra những buôn làng khác. Năm nào hội cũng về và cũng đi một dọc như vậy. Trong suốt mười bảy năm qua chúng tôi làm việc rất chặt chẽ với các xơ, các linh mục hay những người tu hành đang phục vụ cho những bệnh nhân phong.”

Người cùi ở Thái Bình. Ảnh: Hội Từ Bi Quan Thế Âm

Vào cuối thế kỷ trước, khi mà chủ nghĩa cộng sản bắt đầu bước vào giai đoạn thoái trào, một công dân Việt Nam – ông Hà Sĩ Phu – đã có nhận xét rằng: “Chủ nghĩa Mác – Lê suy tàn, chạy về cố thủ ở những vùng còn ít ánh sáng dân chủ, nơi mà tư tưởng phong kiến vẫn cứ sống lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia.” Sau khi bị tấn công ở khắp nơi trên thế giới, đám vi khuẩn suy tàn Hansen cũng tìm một lối rút tương tự: chạy về cố thủ ở những vùng còn ít ánh sáng… sống lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia.

Sự tương hợp giữa  chủ nghĩa Mác – Lê suy tàn và đám vi khuẩn Hansen suy yếu tạo ra một viễn tượng ảm đạm cho những bệnh nhân phong cùi ở Việt Nam. Dù vậy, ông Nguyễn Văn Công, Hội trưởng Hội Bạn Người Cùi (*) vẫn hết sức lạc quan:

“Do là người ta có uống thuốc cho nên tình trạng co rút chân tay hay mắt mù đi thì cái đó bây giờ tỷ lệ rất thấp. Sở dĩ những người cụt chân cụt tay là vì bị mà không có thuốc uống. Hy vọng thời gian không lâu nữa công việc của chúng tôi sẽ hoàn tất, tương lai là bệnh phong sẽ bị tiêu diệt.”

Niềm hy vọng này của ông Công khiến tôi gợi nhớ đến sự tin tưởng và lạc quan (tương tự) của nhà văn Võ Hồng, từ hơn nửa thế kỷ qua, mà không khỏi thoáng chút ngậm ngùi và cay đắng! Bao giờ mà những người cộng sản còn cầm quyền ở Việt Nam thì dốt nát, đói nghèo, bệnh tật vẫn còn có thể hoành hành ở đất nước này – bất kể những thành tựu, hay tiến bộ chung của nhân loại có vượt xa đến đâu chăng nữa.

Tưởng Năng Tiến

(*) Hội Bạn Người Cùi được là một tổ chức từ thiện bất vụ lợi, phi chính trị, không đảng phái, không phân biệt tôn giáo, được thành lập năm 1995 do một nhóm anh chị em thiện chí trong cộng đoàn Tustin, tiểu bang California. Địa chỉ liên lạc:

P.O. Box 1408  & 1207, Tustin, California 92781
Email: Cong Nguyenor Soi Nguyen

Một giòng xanh xanh,

“Một giòng xanh xanh,

một giòng tràn mông mênh”,
“Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”

(Nhạc Ngoại-quốc: Johann Strauss – Blue Danube

Lời Việt: Phạm Duy Giòng sông xanh)

(Lc 2: 41-43)

Trần Ngọc Mười Hai

Thật rất đúng. “Giòng tràn mông mênh” đây, là nỗi niềm nhung nhớ “quay về miền đời, lúc mơ huyền”. Giòng nhung nhớ hôm ấy, là “giòng trời xao-xuyến”, đầy “quyến luyến”, với “tình thương mến”, quyện vào nỗi “sầu mấy kiếp” rất xanh lơ, mơ huyền, “nồng ý biếc”.

Giòng ở đây, còn là giòng nhạc trọn vẹn rất “xanh xanh” được bạn trẻ Anthony Trần đã có những lời tâm tình ở buổi “Hát Cho Nhau” hôm mồng 15 tháng 11 năm 2014 tại Sydney, bằng đôi giòng như sau:

Bài Giòng Sông Xanh, lời Việt, là do nhạc sĩ Phạm Duy đặt, mang theo nhiều kỷ niệm gắn bó với bài hát suốt nhiều năm dài. Những tháng ngày về sau, ta nghe bài này rất nhiều lần, nhưng chỉ là bài tóm gọn, do ca sĩ Thái Thanh hát trên đĩa nhựa, trong 3 phút.

Còn, bài “Giòng Sông Xanh” đầy đủ từng làm nên lịch sử nhạc Việt, chính là bài dự thi trong buổi tuyển lựa ca sĩ tổ chức tại Huế năm 1953 do Hà Thanh hát. Hôm hát dự thi, Hà Thanh được cả thành-phố Huế lắng nghe đến độ như ngừng thở khi cô hát trọn vẹn bài này, với đủ các nốt nhạc cao vút bay lên đến hơn một bát âm như được viết ở bản gốc do Johann Strauss viết…” (trích lời bình của người dẫn nhạc ở buổi Hát Cho Nhau 15/11/14)

Quả là nhận-định về ‘giòng chảy âm-nhạc’ để mọi người thưởng ngoạn. Thêm vào đó, bài hát còn có lời lẽ đầy tình-tự óng-ả của một “ánh dương lên xôn xao”, bên “ven bờ sông sâu”, như sau:

“Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu.

Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.
Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui.
Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.
Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi.
Đời là khúc nhạc, đời là tiếng thơ.
Nước sông reo như ru cuồn cuộn sóng trôi xa.
Là tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta.

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Vâng. Sống ở đời, người người vẫn cứ “hát vang lên cho vui”, “đời là khúc nhạc”, “tiếng thơ”, là “tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta, và mọi người”. Hát thế rồi, người người lại sẽ mời nhau “lên tàu mà đi” về chốn “giang hồ, nghìn hải lý”, Dù, đời mình/đời người có “lỡ tình duyên đâu đó, nơi kinh kỳ”, như câu ca đầy ý nghĩa ở bên dưới, những hát rằng:

“Sông về sông dào dạt ý
Hát tang bồng theo tầu mà đi
Ai giang hồ sau nghìn hải lý
Lỡ tình duyên nơi đâu đó ghé qua kinh kỳ.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

‘Giòng đời’, có vàng ánh những tư-tưởng xôn xao, “tang bồng”, “dạt dào ý” lại được người nghe hát hôm ấy, chuyển thêm cho nhau một cảm-nhận tiếp diễn như sau:

“Xin đặc biệt gửi đến cô Ánh Linh lời cám ơn đã chịu khó nhận lời hát một bài thật khó mà it ai dám đảm nhận. Đó là bài Giòng Sông Xanh xanh. Càng khó hơn, khi phải hát đúng với bản gốc gồm đến 500 trường canh, dài trên 15 phút với tiết điệu “waltz” quay cuồng ở tốc độ 157 nhịp mỗi phút. Trong khi bản hiện-hành, bao gồm cả bản hát do cô Thái Thanh thu âm, chỉ dài trên 3 phút, mà thôi. Bản gốc được viết trên tông “Ré”, có những nốt la, si, do cao vút ngoài giòng kẻ, chỉ dành riêng cho các giọng “soprano” chất ngất mà thôi.

Từ khi cô Hà Thanh hát bản gốc này trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ do Đài phát thanh Huế tổ chức năm 1953 lúc ấy cũng đã mấy chục năm rồi bây giờ mới có cô Ánh Linh hát lại. Nhờ đó giới thiệu cho người nghe một nhạc bản nguyên thủy chưa bị cắt, với đầy đủ lời ca theo đúng ý nguyện của nhạc sĩ Phạm Duy lúc còn sinh tiền khi tiếp tay đặt lời Việt.

Theo ý chủ quan của riêng em, thì phần bị cắt mới là phần hay nhất của bài nhạc. Vì, ở mấy phần đầu, con tàu chỉ mới rời bến chưa được bao lâu thì đã cặp bờ rồi. Ở các đoạn bị cắt bỏ, con tàu nọ đã đưa chúng ta đi ngang qua những vùng có phong cảnh đẹp vô ngần, có tiếng chim hót vờn quanh, có tuyết rơi lất phất trên mặt nước, có lời tình tự của ai đó trên boong tàu, với cả tiếng tàu hú hòa cùng với tiếng sóng khua rập rờn nữa. Chúng ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi tác giả Johann Strauss lặp đi lặp lại các phân đoạn mà không báo trước là phân đoạn nào sẽ được lập lại như thế. Có khi vừa hết đoạn 1 nhảy sang đoạn 5, rồi mới về lại đoạn 2. Cả bài như mời gọi chúng ta hãy gia-nhập trò chơi trốn/tìm với tác giả thật thú vị.

Đến đoạn solo của đàn sĩ là phân-đoạn rất dài gồm nhiều tiểu khúc khác nhau, lặp đi lặp lại vài câu hay nhất của các phân đoạn trước, nhưng lại cũng không cho biết trước là câu nào sẽ được bầu là câu hay nhất, đắc ý nhất. Đây cũng là lúc con tàu giương buồm ra khơi, giúp cho cô Ánh Linh được dịp nghỉ lấy hơi đôi chút sau khi thả hồn mình với con tàu, và sóng nước. Để cuối cùng, chuẩn bị cho chuyến cập bến ngắn ngủi với biết bao nhiêu là luyến thương, nhớ tiếc.

‘Giòng nhạc’ cổ điển quyến rũ người thưởng thức là như vậy, trong đó bao gồm cả loại nhạc “opera” mà, có thể, chúng ta chưa quen lắm. Hy vọng, chúng ta sẽ lại có nhiều cơ hội được nghe tiếp những bài ca khác dễ mến như thế.” (trích điện thư vang vọng sau buổi hôm ấy)

Câu chuyện ‘Giòng Sông’ (rất) Xanh” áp dụng vào cuộc sống Đạo giữa đời, lại sẽ còn hơn thế nữa. Hơn thế, là bởi: đời người luôn có những “giòng kể” chợt nghe qua cứ tưởng bình thường, chẳng ý-nghĩa. Nhưng, suy cho kỹ, người đọc và người nghe sẽ thấy đôi điều rất đáng áp dụng một cách chung chung cho người mình, thế cũng được.

Nói dông nói dài, không gì bằng nói thêm bằng truyện kể, như sau:

Truyện rằng:

Hôm ấy, có cuộc đối thoại thuộc loại “bỏ túi” giữa phóng viên/nhà báo và chủ quán cháo của người Hoa như sau:

Phóng viên (PV):

– Thưa ông trước khi bán cháo ông làm gì?

Chủ tiệm (CT):

– Ngộ bưng cháo cho cha ngộ bán.

– Vậy cửa hàng này có bao nhiêu năm?

– Không có năm, chỉ có đời. Mấy đời lận. Bà cố ngộ bán cháo. Ông nội ngộ bán cháo. Cha ngộ bán cháo. Ngộ bán cháo. Con trai ngộ…

– Trời ơi! Không có gì khác ư?

– Khác chớ, ngày trước có một cửa hàng ở Quảng Châu, bây giờ có hai cái ở Sài Gòn, ba cái ở Hoa Kỳ, bốn cái ở Úc.

– Người ta thành công thì sẽ cho con cái làm Giám đốc, còn ông?

– Ngộ có thành thì vẫn cho con làm chủ cửa hàng.

– Ông không muốn chúng đi học sao?

– Muốn nhiều, con ngộ một đứa có bằng Thạc sĩ kinh doanh cháo, đứa khác vừa bảo vệ luận án Tiến sĩ cơm.

– Ở trong bếp à?

– Ở Đại học Harvard, Mỹ.

– Học xong chúng nó về đâu? Thành ông gì?

– Về nhà này, thành người rửa bát cho “papa” chúng.

– Ông gọi khách hàng là vua hay thượng đế, vậy?

– Gọi bằng gì cũng không quan trọng. Quan trọng là đối xử với nhau thế nào, thôi!

– Truyền thuyết kể rằng nhiều tỷ phú người Hoa đã đi lên từ một thùng đậu phụng rang, có đúng không?

– Không, những ngày đầu tiên làm sao có tới cả thùng, chỉ vài trăm hột thôi.

– Có tiến mà ông mặc bộ đồ vải thô thế này à?

– Dạ, người vô đây chủ yếu là người bình dân. Họ sẽ còn vô nếu thấy chủ tiệm cũng giống như họ.

– Lý do gì khiến người Hoa hay chọn kinh doanh ăn uống.

– Thưa, đơn giản vì kinh doanh đó phục vụ cái bụng con người. Nếu phục vụ cái đầu sẽ phát sinh nhiều rắc rối lắm.

– Ông bán cháo tim gan mà sao sáng ra nhà ông ăn toàn cháo trắng với củ cải muối?

– Dạ, nếu ngộ cứ ăn cao hơn khả năng của ngộ thì thế nào cũng tới lúc ngộ phải nhảy vào nồi cháo.

– Chắc là ông ít vay vốn ngân hàng?

– Nhà băng có tiền, nhưng không bao giờ có cách nấu cháo để mượn cả.

– Bây giờ tôi muốn ăn một tô, nhưng tôi chưa có tiền mai thanh toán được không, thưa ông?

– Dạ không phải là ngày mai mà 20 năm sau cũng được.

– Nhưng lúc ấy lãi suất thế nào?

– Dạ, lãi là ông luôn nghĩ tới hàng cháo này, đấy mới là lãi to.” (truyện kể do St sưu tầm)

Bần đạo đây, thấy tiếc là: phóng viên nọ đặt câu hỏi cho chủ quán câu gì đó, bảo rằng: “Bán cháo từ đời này tới đời nọ, ông có bao giờ nghĩ đến chuyện nhà thờ nhà thánh hay giữ Đạo gì không?” chắc câu trả lời cũng sẽ “ngộ-nghĩnh” lắm, chứ không chỉ mỗi “ngộ-ngộ/nị-nị” như trên.

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Có lẽ bà con mình cũng nên kể những truyện bình dân ở huyện cho dễ thở là được. Nghĩ thế nên, bần đạo nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vấn-đề bức bách của cuộc đời nhiều sống Đạo như sau:

“Ngôn-ngữ mà người Công-giáo lâu nay vẫn sử-dụng, đã trở-thành thứ đá tảng chẹn họng con người thời nay cũng rất nhiều. Phần lớn các từ-vựng dùng trong Đạo, trên căn-bản, vẫn bị người ở trong cũng như ngoài Đạo hiểu rất sai lạc. Đại để như: hầu hết các cụm-từ lớn tướng như: Ơn cứu-độ, Chúa Cứu Chuộc, Sự Hy sinh, động-tác cứu rỗi, đúng thời buổi, Ăn-năn sám-hối, Lòng Chúa Xót thương, Đền bù tội lỗi, Tha thứ, Tái sinh, Quang Lâm, Thiên Chúa, Đức Giêsu, Kinh Thánh và các từ-ngữ khác như: Kinh Tin Kính, Lời Cầu của Chúa, Phụng vụ Lời, vv.. đều mang lại cho người theo Đạo nhiều nghĩa méo mó, sai lệch từ Thánh Kinh và các truyền-thống trong Đạo.

Hiểu sai ý-nghĩa từ-vựng, là do hai nguồn gốc chính tạo cung-cách khác lạ khiến cho người đi Đạo cứ phải nghe đi nghe lại mãi không ngừng. Nguồn gốc trước tiên, là do việc định danh ngôn-ngữ hiểu theo tâm-trạng người thời-đại gây phương-hại cho cả người đi Đạo cũng như ngoại Đạo. Nguyên-do thứ hai, là việc chú-thích dẫn-giải ngôn-từ của đạo-giáo theo cùng một mẫu-số chung mà tôi gọi là Thiên-Chúa-giáo của người tin vào “thiên-đàng và hoả-ngục”. Và rồi, người trong cuộc lại cứ theo đó để diễn-nghĩa mọi từ-vựng khác vẫn dùng trong Đạo.

Tín-hữu sống ở nước này và cả nơi khác, nay bị chia rẽ cách trầm-trọng do hiểu sai-chệch thứ ngôn-từ chung đụng. Thực tế, nay có khoảng phân nửa hoặc hơn các người Công-giáo ở Mỹ tin rằng ngôn-từ ở Kinh thánh vẫn được hiểu theo từng chữ, nghĩa đen trong khuôn-khổ của thứ thiên-đàng/hoả ngục cốt nhấn mạnh vào cuộc sống ở đời sau; vào việc đền tội có sự tha thứ mọi lỗi phạm; vào Đức Giêsu đã chết cho tội lỗi của con người và niềm tin tưởng như thế. Số người còn lại có khi chỉ phân nửa số người nói ở trên lại cứ bối rối với đủ mọi vấn-đề như thế. Có người lại cứ tiếp tục tiến về phía trước, hiểu đạo-lý theo nghĩa khác khẳn. Sự khác-biệt thật rõ rệt, khác đến độ người ngoài cuộc lại cứ tưởng có hai ba đạo dùng chung một Sách thánh, cả đến ngôn-ngữ cũng khác biệt.

Thành thử, công việc của chúng ta là: làm sao tạo lại được thứ ngôn-ngữ của đạo mà không làm mất đi sự phong-phú và khôn khéo của nó. Quả thật, bản thân tôi cũng từng có ý-định viết nguyên một cuốn sách có đầu đề, tương tự như: Hãy ra tay cứu vớt và tái tạo ngôn-từ trong Đạo… Thế nhưng, cụm từ ‘cứu-vớt và tái-tạo là thứ từ-vựng cần cứu-vớt hơn cả. Trong khi đó, người thời nay mỗi lần nói đến chuyện cứu-vớt hoặc cứu-chuộc lại liên-tưởng đến chuyện mình được Chúa chấp-nhận cái chết khổ hình để cứu-chuộc tội-lỗi của ta. Dù sao đi nữa, thì: ý-nghĩa cổ xưa của kinh-thánh Cựu-ước có tác-dụng hơn cả.

Xem thế thì, cứu-chuộc là động-thái trả tự-do cho những người bị nô-lệ hoặc trói-buộc theo cách nào đó, từ việc bắt-giữ, trói cột, chứ không phải chuyện cứu khỏi mọi tội-lỗi, mà thôi đâu. Hiểu theo nghĩa này, có lẽ ta cần cứu-vớt ngôn-ngữ nhà Đạo trước nhất, làm sao để mình không còn bị ràng buộc vào chủ-thuyết tân-thời chuyên hiểu mọi việc theo nghĩa đen và cứu khỏi khung “thiên-đàng/hoả-ngục” của người Công giáo rất thời đại.

Thế nên, bằng các chương-đoạn không dài, hy vọng những gì viết ra ở đây sẽ chỉ cách cho độc-giả cách đọc sách sao cho có lợi, tức: không chỉ mỗi học-hỏi ý-nghĩa và cách phát-âm nhiều chữ viết, mà là làm sao biết nghe và hiểu được các ngôn-từ đặt ra. Đó, cũng là lý-do thúc-bách chúng tôi viết lên những giòng chữ bên dưới cốt để giúp mọi người biết đọ, nghe và tiêu-hoá tận bên trong mọi từ-vựng trong Đạo mà không cần có ý-niệm tiên-quyết để hiểu rõ sự việc đang diễn tiến. Nói cách khác, vấn-đề của người thời-đại là làm sao học cách đọc và nghe một lần nữa, thứ ngôn-ngữ của niềm tin hôm nay…” (xem Marcus J. Borg, Speaking Christian Why Christian Words Have Lost Their Power and How They Can Be Restored, HarperOne 1989 tr. 1-3)

Cảm-nghiệm cùng một ‘giòng chảy’ tư-tưởng theo kiểu Johann Strauss, nay mời bạn và mời tôi ta nghe thêm khúc nhạc đầy ắp những “reo vui”, để rồi sẽ “ngỡ mình vui trong ánh muôn sao Thiên Đàng”. Thiên đàng, nay là ‘giòng đời’ thân thương có người anh/người chị ở Nước Trời, mang nhiều cảm-nghiệm như tiếng hát ở bên dưới:

“Ôi, tóc em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời.
Ôi, mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai.
Sông về, sông cười ròn tiếng
Yêu mối tình bên bờ thành Vienne
Đôi giang hồ quay về bờ bến
Ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao Thiên Đàng.
Ngày ấy, có tiếng anh khoan hò thuyền về.
Ngày ấy, có dáng em soi dòng chiều hè.
Ngày ấy, có tiếng ta hát gọi tình về
Nước sông miên man trôi đi.
Ngày ấy, lúc đến với em một lời thề.
Ngày ấy, lúc nói với em một chuyện gì.
Ngày ấy, lúc vui cuộc sống nhịp tràn trề
Nước sông miên man trôi đi.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Cảm-nghiệm thân thương đầy “tình ý” như thế, lại cũng mời bạn/mời tôi, ta cứ để lòng mình trôi theo “giòng nước” mầu xanh, rồi sẽ bồng bềnh trôi như ‘giòng đời’ của mọi người. Trôi như thế, hẳn bạn và tôi, ta lại sẽ bắt gặp cả một ‘giòng người’ cuồn cuộn chảy theo hình-thức của một hành hương, tham quan, thưởng-lãm kinh-nghiệm đời, kể cũng lạ.

Có điều lạ, là: vừa qua, trong chuyến du-lịch thăm đất miền có tên gọi là “Tây Tạng”, bần đạo đây ra như bị cuốn hút vào những ‘giòng cuốn’ nào đó, khởi đầu là ‘giòng nước’ mầu xanh; rồi đến ‘giòng đời’ mầu hạt huyền; và nay lại là ‘giòng người’ đầy chuyện ‘hành hương’ chốn kinh thành đông người qua lại.

Có chuyện lạ, là: ‘giòng người’ hành hương, đi bộ ở Potola, tại thủ đô Lhasa xứ Tây Tạng mọi ngày, vẫn chẳng thấy ai trầm buồn, sầu đắng hoặc lắng đọng niềm ai oán nào hết. Ngược lại, người dân ở đây cứ hành hương đi bộ theo đường vòng Kora cứ đi là đi mãi không ngừng nghỉ. Họ đi, trong tâm trí tràn đầy ‘ánh dương xôn xao”, an vui, nguyện cầu rầm rì vào mọi buổi.

Hành hương hoặc hành trình có nguyện cầu, chỉ mỗi thế. Hành hương như thế, chỉ nguyện và cầu cho mọi người khác không chỉ gia đình mình được an vui, bền chí làm việc thiện với mọi người, cho mọi người.

Thế đó, là hành hương đi bộ kiểu Kora của người Tạng, xứ miền rất Tây. Còn, sự việc hành hương của người mình có giống vậy không? Tức là: phải đặt chân tới đúng tận nơi tận chốn đã xảy ra sự-kiện lịch sử, của một nhà tổ-chức các cuộc tham quan du-lịch như sau:

“…Tôi đã gặp những chuyến hành hương Đất Thánh mà người hành hương không vào được trong Mộ Chúa, không được dâng lễ dưới chân Thánh Giá trên Núi Sọ. Tôi cũng gặp những người đến Bêlem phải xếp hàng cả tiếng đồng hồ, chỉ được vào vài giây kính viếng chỗ Chúa Giáng Sinh rồi phải ra ngay. Đến Mộ Chúa mà không đủ giờ xếp hàng vào. Lý-do: Các Tour ở hotel ngoài Thành Thánh. Nếu phải lấy xe búyt đến những nơi Đền Thánh này thì riêng chuyện kẹt xe sáng, chiều cũng mất biết bao thời gian. Đấy là lý-do vào đế Đền Thánh thì các Tour khác đã xếp hàng chờ rồi…

Tôi chủ trương phải tìm cách ở trong Thành Thánh để có thể đi bộ được. Sáng sớm các Tour du lịch chưa bắt đầu thì mình đã ở trong Mộ Chúa. Khi các Tour phải về hotel vào ban chiều thì mình lại đi vào. Tất cả các chuyến đi từ trước đến nay, tôi đều đem được người hành hương vào Vườn Giệtsimany vào ban đêm để canh thức với Thánh Thể. Đây là kỷ-niệm tuyệt vời. Cảm-nghiệm này rất hiếm vì ít Tour nào thực-hiện được. Vì mục-đích của tôi là đi hành hươg để cầu nguyện ở những nơi thánh…” (x. nguyentamthuong.com, Đặc biệt của chuyến hành hương)

Nói thế, tức đức thày-chuyên-tổ-chức-hành-hương đã gặp nhiều người tổ-chức và đích-thân hành-hương ở đây đó, có gặp nhau trong yêu thương, đỡ dần để nguyện cầu cho nhau như người “Tạng” đã và đang thực hiện ‘giòng người’ đi bộ bên nhau? Bởi hành hương, theo quan-niệm của người Tạng là để nguyện cầu cho nhau hoặc chỉ cười với nhau qua câu “Khasi đêlê” (“Hello!”) vui vẻ; rồi cùng nhau tiếp tục đi nhiều vòng Kora thương yêu hơn nữa theo kim đồng hồ quanh đền đài Potola yêu dấu của họ.

Nói như thế, thì có hành hương hay hành xác hành hình người mình ít nhiều gì đi nữa vẫn chỉ như tác-giả nọ từng minh-định cuộc đời mình và đời người như sau:

“Những điều tôi viết ra ở đây, là hỏi rằng: Trọng tâm của Đạo Chúa nằm ở đâu? Sống đời đi Đạo, ngày nay có nghĩa gì? Tôi sẽ tập trung trả lời cho các câu hỏi này, bằng cách đưa ra tầm nhìn ban đầu của Hội thánh thời tiên khởi và sau đó đi đến thị-kiến chung đang dâng lên nơi người có Đạo và đi Đạo… Cả hai, đã và đang thấy hiện hữu nơi cộng-đoàn hội thánh ở mạn Bắc Hoa Kỳ ngày hôm nay đang chia cách rất đậm nét. Chúng ta đang ở vào thời đại đầy những xung-khắc và đổi thay, trong Giáo hội.

Tôi viết theo tư-cách của một người đầy mê say và xác tín. Thứ xác tín vẫn bảo rằng: Đạo Chúa ngày nay vẫn tạo ý-nghĩa rất nhiều cho cuộc đời. Cả vào thời của tôi, niềm xác tín này vẫn hiện-diện và phát-triển. Khoảng chừng hai chục năm nay, từ ngày tôi mới ở tuổi “teen” đến năm tôi hơn ba mươi tuổi, Đạo Chúa không tạo nghĩa gì nhiều lắm đối với tôi. Phần lớn vì các lý-do tinh-thần nhiều hơn,  hình thức đi Đạo tôi học được từ thời nhỏ, đã cạn dần sự say mê thuyết-phục.  Nay có lúc, tôi đã xác tín rằng: muốn trở thành người Công-giáo đích-thực, sẽ không còn nhiều rào cản về tinh-thần hoặc trí-thức nữa. Nay ta đã có cái nhìn Đạo Chúa theo cách thức đầy thuyết phục gồm tóm nhiều ý-nghĩa của cuộc sống theo nghĩa rất rộng, thứ cung-cách nhìn thực-tại và cuộc sống của ta trong tương-quan với những gì có thực. Một cung cách nhìn biết Chúa, có tương-quan mật-thiết với Chúa để rồi sẽ còn thay đổi đời mình nhiều hơn nữa. Sự hy sinh mà Đạo Chúa đòi hỏi nơi chúng ta, cuối cùng sẽ là đòi hỏi sự hy-sinh nơi người trí-thức, rất hiểu biết…” (x. Marcus J. Borg, The Heart of Chirstianity, Rediscovering a Life of Faith, HarperOne 2003, tr. xi-xv)       

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Ở đây, bạn và tôi, ta vẫn nói và vẫn kể về đời người sống Đạo giữa đời, ở đó luôn có những cuộc lữ-hành trong đời mà người thời nay hay gọi là “hành hương, hành xác hoặc hành gì thì cũng thế.

Hành hương hay lữ lành, cũng là sinh-hoạt phù-hợp với thói quen và lập-trường sống của người đi Đạo và giữ Đạo thời của Chúa, từng đề-cập đến những điều như sau:

Hằng năm,

cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem

mừng lễ Vượt Qua.

Khi Người được mười hai tuổi,

cả gia đình cùng lên đền,

như người ta thường làm trong ngày lễ.”

(Lc 2: 41-42)

Đặc biệt hơn, Tân Ước lại nói rõ về việc này, theo kiểu mô tả rất Luca như:

“Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành,

nên sau một ngày đường,

mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.

Không thấy con đâu,

hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.”

(Lc 2: 44-45)

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Nói và kể về các cuộc “lữ-hành” mà người đời nay gọi là “hành hương”, thường là tìm về Giêrusalem hoặc nơi nào đó còn giữ được tinh-thần của Tân Ước, rất thân thương. Hành hương thân thương, không là “lữ hành” về quê hương yêu dấu của Đức Giêsu mà thôi; nhưng còn là tìm về quê hương an bình của mọi người, nơi tâm hồn.

Ở “quê hương” thân thương đó, vẫn luôn có tình thân rất mến mộ mà người đời nay vẫn trân trọng. Tình thân thương mến mộ cuộc lữ hành mà bần đạo nay gặp được sau chuyến tham quan/thăm thú xứ miền xa xôi rất đất Tạng, là xứ miền chất ngất tình thân thương, mến mộ của người Tạng ở phía Tây, lâu nay chuyên chở tình-tự “hành hương Kora” thương mến rất khó quên.

Nói thế rồi, nay đề nghị bạn, đề nghị tôi, ta lại sẽ hiên ngang cất tiếng ca vang ý-lời mà nghệ sĩ họ Phạm từng trân trọng đặt lời Việt cho bản hát rất Sông Xanh, rằng:

“Một giòng xanh xanh,

một giòng tràn mông mênh,
Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay lại mời người đọc cứ thế mà tưởng nhớ đến những ‘giòng chảy’ xuất từ ‘giòng sông’ rất xanh, ngang qua ‘giòng đời’ cũng rất hanh thông và cuối cùng sẽ về với ‘giòng người’ hành hương/hương hành một hội ngộ, rất thân tình. Ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng từng thân tình hành hương

nguyện sẽ mãi mãi lữ hành

qua giòng chảy thân tình,

cũng rất xanh.

Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi

“Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi”

Và giông tố, xin đừng rời em nhé
Hạnh phúc tuyệt vời giờ em hiển lộ
Sợi xích vàng khóa tim chặt với nhau
Đừng tách ra sẽ mang đến thương đau!

(Dẫn nhập từ thơ Tân Văn)

Mc 1: 29-39

Mai Tá lược dịch

Tuyết phủ khắp, con đường em về. Có phải là, nhà thơ nay muốn giữ chân người tình? Sợi xích vàng, khoá chặt tim nhau. Phải chăng đây, là trạng huống của nhà Đạo? Tâm trạng này, được diễn tả nơi trình thuật thánh Máccô. Có nối kết với sách Gióp, trong Cựu Ước.

Sách Gióp, nay có giòng chảy kể về sự mong mỏi đợi chờ: “Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: ‘Khi nào trời sáng, đây?’ Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: ‘Khi nào trời lại tối?” (Jb 7: 4). Dù viết từ hơn 2000 năm trước, tâm tình trên vẫn còn mới mẻ, đến hôm nay.

Tâm tình nói ở đây, là sự bận rộn trong cuộc sống. Cuộc sống, có những công việc cật lực. Sống, để kiếm kế sinh nhai, như lời ông Giób nói: “Một ngày đời tôi, thấm thoát hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng.” (Jb 7: 6). Thật ra, cuộc đời con người, xưa cũng như nay, đâu chỉ là như thế.

Xưa và nay, con người vẫn sống trong tâm thức chuẩn bị cho tương lai, ngày một sáng. Nhưng sao mãi ngày ấy không thấy đến. Có những người người vẫn lam lũ tạo cuộc sống, nhưng chưa vững bụng. Lam lũ, để vui hưởng kết quả lao động. Chỉ vững bụng, khi ta biết sống tháng ngày của hiện tại, rất đơn giản.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô đưa ra một ảnh hình, thật rất khác. Ảnh hình Đức Kitô đang làm việc, đầy ý nghĩa. Năng lượng Ngài sử dụng, là để chữa lành và tạo hạnh phúc cho mọi người. Và, khác biệt ở đây, chính là điều: Chúa đến để phục vụ. Để cho đi. Và san sẻ. Ngài không tuyệt vọng hoặc ta thán như ông Gióp:“Cuộc sống con người nơi dương thế, chẳng là thời khổ dịch sao?” (Jb 7: 1).

Cuộc sống nơi dương thế, thật ra có mệt nhọc, luỵ khổ; nhưng cứ thử sống một ngày không có sinh hoạt vây quanh/nhộn nhịp cùng xã hội, chắc cũng nản? Cứ thử sinh hoạt tách rời khỏi xã hội, khỏi chòm xóm láng giềng, rồi sẽ thấy. Sống trên đời và với đời, là biết sống san sẻ những gì mình, như Chúa từng làm. Sống làm sao, để trở nên một người sống vì mọi và mỗi người.

Sống như thế, là sống mà cho đi. Sống, đem lại giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Và, giả như việc ta làm không mang dáng dấp của một đóng góp vào của chung, có lẽ cũng nên thay đổi lối sống, là vừa.

Sống, như Đức Giê-su từng sống, là biết san sẻ với người khác. Biết làm mọi thứ, giống như Ngài. Ở chốn thị thành nơi ta sống, đã có đủ mọi thứ mà vào thời của Chúa, Ngài chẳng có. Cũng thế, Chúa phải là người giàu lắm mới đi đây đi đó, khắp mọi vùng. Ngài lại còn lo cho mọi người được ấm no, đầy đủ.

Nhưng, nếu sống thời hôm nay, Ngài đâu lái những Mercedes, BMW bóng láng. Và, cũng chẳng có điện thoại di động, cầm đi khắp phố phường. Nhưng Ngài là Đấng làm cho mọi người nên giàu có, phong phú. Và, Ngài lo lắng cho mọi người có đủ thực phẩm để độ thân. Có mái ấm che phủ đầu, như mọi người.

Tin Mừng hôm nay, đem đến cho ta một bài học, là: hãy sống cho ra sống. Sống, giống những người được Chúa chữa lành. Và phục vụ. Đầu trình thuật, thánh Máccô mô tả Chúa chữa lành bà mẹ vợ ông Simôn, đang cơn sốt. Khi khỏi bệnh, cụ bà không ngồi nghỉ nghơi, mà dậy “phục vụ các ngài”.

Được lành bệnh, là được tháp nhập đi vào cùng sống với cộng đoàn. Cùng san sẻ công việc dựng xây cộng đoàn, qua phục vụ. Và, bài học hôm nay muốn nói: phục vụ là tình thương yêu đang hoạt động.

Bài đọc 2, thánh Phao-lô cũng san sẻ một kinh nghiệm, để tự hào. Thánh nhân nói: “đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr (: 16)

Và, thánh nhân còn tự hào về chính mình: “tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người”(1Cr 9: 19). Và, thánh nhân cũng vang vọng Lời của Chúa, khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, mà là phục vụ người khác.”

Phục vụ, vì tình thương. Phục vụ, là hạnh phúc. Phục vụ, để san sẻ tình thương, lẫn hạnh phúc. Như Lm Tony de Mello từng biểu lộ, một khi đã phục vụ, ta sẽ thành công trong tác tạo những gì mình cần có. Cần, để tạo dựng nỗi niềm hạnh phúc, ở đây. Trong tay mình. Bởi lẽ, hạnh phúc và sự tràn đầy không ở bất cứ nơi nào khác, nhưng ngay tại đây. Bây giờ.

Tuy nhiên, phục vụ không có nghĩa vô chừng mực. Đức Giê-su cũng thế. Ngài không là người tham công tiếc việc, vượt nhu cầu. Để rồi, cuối cùng cuộc đời, Ngài lại phải lên núi đồi, mà hồi hưu. Không phải thế. Ngài lên chốn hoang vu, không để lẩn tránh áp lực của cuộc sống, nhưng tìm nơi vắng vẻ để tìm đến Cha, mà nguyện cầu. Tìm Cha, để tạo thêm công lực. Thêm ân huệ, rồi tiếp tục phục vụ cho tốt hơn.

Bởi lẽ, có đi xa Ngài cũng không tài nào tránh khỏi các khuôn mặt đang kiếm tìm Ngài, nhờ chữa lành. Ngài không là người phục vụ, bất đắc dĩ. Nhưng rất công tâm, tình nguyện.

Gặp môn đệ, Ngài bác bỏ đề nghị của các thánh yêu cầu trở về quê quán cũ, vẫn thành công. Ngài không tìm đến chốn thị thành nhiều người biết. Lắm người hâm mộ. Ngài không màng trở thành trung tâm thu hút mọi người. Cũng chẳng muốn đạt tiếng tăm, thành quả.

Nhưng, Ngài chỉ đến nơi nào, dân chúng thực sự có nhu cầu. Và cứ thế, Ngài đi khắp nơi chỉ để phục vụ, hết mọi người. Những ai được Ngài phục vụ, rồi cũng sẽ học được bài học ấy, mà phục vụ người khác.

Sống phục vụ, là sống có ý nghĩa. Sống phục vụ, là có giờ để nguyện cầu, suy tư, và đến gần với Chúa. Trong cuộc sống như thế, mới có giờ để san sẻ với người khác bằng lời nói và hành động. Sống như thế, mới bỏ giờ ra mà dựng xây, chữa lành và hoà giải.

Thực tế, không ai là không biết học hỏi cách sống đích thực, như thế. Sống đích thực, là sống như ông Gióp hay như Đức Giê-su? Và, câu hỏi đặt ra cho mọi ngưòi, vẫn là: ta có giống như ông Gióp không? Có giống ông ta, khi cuộc sống của mình trở nên ngán ngẫm, trì trệ, sống như cái máy…? Sống đích thực, phải là sống giống như Đức Giê-su.

Sống có ý nghĩa. Có định hướng. Sống để rồi, sẽ cảm thấy hạnh phúc tràn đầy khi gia nhập làm thành viên cộng đoàn. Quyết tập trung tạo cho cuộc sống nên tốt đẹp. Ở đây. Bây giờ.

Trong quyết tâm sống đời hạnh phúc có phục vụ, ta hân hoan cất tiếng hát mừng một hành động:

“Một đoàn trai đi khi xuân tới

Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi

Non nước tuy xa vời

Ta đã yêu thương đời

Đừng e nắng gió sương bạn ơi . Bạn ời!”

(Văn Phụng – Vó câu muôn dặm)

Hãy quyết tâm mà ra đi. Ra đi, để phục vụ. Và để, “gieo tình thương khắp nơi”. Bởi, một khi đã rắc gieo yêu thương và phục vụ, ta sẽ nhận ra được rằng: “Hạnh phúc tuyệt vời, giờ em hiển lộ” và “Sợi xích vàng khóa tim, chặt với nhau”. Xích vàng cho nhau yêu thương hạnh phúc. Suốt đời.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ
NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

Trích EPHATA 639

lẽ nhiều người đã có nghe nhắc đến tên Tiến Sĩ Scott Hahn ( Ảnh chụp ). Ông là người Hoa Kỳ, sinh ngày 28.10.1957, là một học giả Kinh Thánh và Mục Sư của phái Trưởng Lão ( Presbyterian ) thuộc Giáo Hội Cải Cách ( Reform Church ), sau này đã gia nhập Công Giáo. Ông và người vợ Kimberly Hahn, là đồng tác giả cuốn sách nổi tiếng “Rome Sweet Home”. Scott Hahn có một người bạn là Linh Mục, vị Linh Mục đó đến viếng thăm Giáo Đô Roma. Và dưới đây là câu chuyện có thật vị Linh Mục ấy đã thuật lại…

“Hôm ấy, tôi sắp được gặp gỡ Papa Gioan Phaolô 2. Vào ngày hẹn, tôi có nhiều thời gian rảnh rỗi. Giống như mọi du khách, tôi quyết định đi tới một Nhà Thờ Chính Toà để kính viếng thăm và cầu nguyện. Trên những bậc thềm của Nhà Thờ thường hay có những người hành khất, cảnh này rất quen thuộc ở Roma.

Nhưng thật tình cờ và bất ngờ, tôi đã nhận ra một người có gương mặt rất quen trong số những người hành khất. Sau khi vào Đền Thánh cầu nguyện, khuôn mặt người hành khất đó cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi. Tôi cố nhớ lại xem mình đã gặp người hành khất đó ở đâu đó. Cuối cùng, tôi đã nhớ ra, chạy vội đến người hành khất đang ngồi ở ngoài Vương Cung Thánh Đường và hỏi: “Tôi biết anh. Hình như chúng ta đã học chung ở Chủng Viện phải không ?”

Người hành khất ấy gật đầu xác nhận. Tôi lại nói với người hành khất: “Như vậy anh là một Linh Mục !” Người hành khất trả lời: “Tôi không còn là một Linh Mục nữa. Tôi đã sa ngã và mọi sự đã kết thúc rồi. Làm ơn để cho tôi yên !”

Tôi chợt nhớ cuộc hẹn sắp tới của mình với Papa Gioan Phaolô, tôi bảo: “Tôi đi đây và tôi sẽ cầu nguyện cho anh…” Sau đó, tôi đành bỏ lại người hành khất trên bậc thềm và đi dự buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha.

Những cuộc tiếp kiến với Papa Gioan Phaolô 2 thường thì rất long trọng nhưng ngắn ngủi. Ví dụ bạn được đặc ân gặp gỡ riêng, khi Đức Thánh Cha tiến về phía bạn, vị thư ký sẽ trao cho ngài một cỗ tràng hạt đã thánh hóa và ngài sẽ tận tay trao cho bạn. Vào lúc này, bạn có thể hôn nhẫn của Đức Thánh Cha và nói điều gì đó cách chân thành, chẳng hạn xin ngài cầu nguyện cho bạn, nói rằng bạn đang cầu nguyện cho ngài, hay cám ơn ngài về sự phục vụ cho Giáo Hội v.v…

Tuy nhiên lần này, với tôi, khi Đức Thánh Cha đến gần, tôi đã không cầm được lòng và bộc phát: “Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho bạn con.” Không chỉ thế, tôi đã vắn tắt kể toàn bộ câu chuyện. Papa Gioan Phaolô có vẻ đăm chiêu và ngài hứa sẽ cầu nguyện cho người hành khất đó. Khi ra khỏi phòng, ngài thì thầm điều gì đó với một người trợ tá ở lối đi.

Chiều tối hôm đó, tôi nhận được cú điện thoại từ một nhân viên của Toà Thánh Vatican. Họ nói với tôi rằng tôi và người hành khất được mời tới để dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô. Phấn khởi và bồn chồn, tôi chạy vội tới Nhà Thờ nơi tôi đã gặp người bạn học của mình. Chỉ còn lại vài người ăn xin, thật là may mắn, đúng hơn, do ơn Chúa, người bạn tu học năm xưa của tôi vẫn còn đó.

Tôi tới gần bạn mình và nói: “Tôi đã gặp Đức Thánh Cha và ngài nói sẽ cầu nguyện cho anh. Nhưng còn hơn thế nữa, ngài đã mời cả hai chúng ta tới gặp gỡ riêng để ăn tối với ngài.” Người hành khất nói: “Không thể nào, nhìn kỹ tôi đi. Tôi chỉ là đổng giẻ rách. Tôi đã không tắm gội từ lâu rồi… Rồi quần áo cùa tôi… ”

Nhận ra sự nghiêm trọng của tình huống, tôi nói: “Tôi đang mướn một phòng ở khách sạn gần đây, ở đó anh có thể tắm rửa và cạo râu, và tôi có quần áo vừa vặn cho anh.” Một lần nữa, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, người hành khất đồng ý. Sau đó, chúng tôi cùng tới dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô…

Vào lúc bữa ăn kết thúc, trước khi ăn tráng miệng, Đức Thánh Cha đi về phía tôi nhưng tôi không hiểu ngài đang có ý gì. Cuối cùng, vị thư ký của Đức Thánh Cha phải đến nói nhỏ với tôi: “Ngài muốn chúng ta ra khỏi phòng”. Và Đức Thánh Cha đã ở lại một mình với người hành khất.

Một lúc sau, người hành khất rưng rưng nước mắt bước ra khỏi phòng. Tôi hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra vậy ?” Người ăn xin nức nở: “Đức Thánh Cha xin tôi giải tội cho ngài”.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người hành khất nói tiếp:

“Tôi nói với ngài: Thưa Đức Thánh Cha, hãy nhìn con đi. Con chỉ là đứa ăn xin. Con không còn là một Linh Mục. Ngài nhìn tôi và nói rằng: Con ơi, một lần là Linh Mục thì suốt đời là Linh Mục, và con nhớ, không phải chỉ có con là kẻ ăn xin. Trước mặt Chúa, ta cũng là một kẻ ăn xin, ta cầu xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta”. Tôi nói với ngài tôi không xứng đáng ở trong Giáo Hội, nhưng ngài bảo đảm với tôi rằng với tư cách là Giám Mục Rôma, ngài có quyền phục chức cho tôi ngay lúc đó và tại đó… Đã lâu lắm rồi tôi đã không giải tội đến độ Đức Thánh Cha đã phải giúp tôi đọc lời xá giải.

Tôi tiếp tục hỏi bạn tôi: “Nhưng anh ở trong đó khá lâu. Chắc chắn việc xưng tội của Đức Thánh Cha đâu có lâu như vậy ?” Người Linh Mục hành khất mới nói: “Không, việc xưng tội của Đức Thánh Cha không có lâu như vậy đâu, nhưng sau khi tôi đã giải tội cho ngài xong, đến phiên chính tôi đã quỳ xuống xin ngài giải tội cho tôi”.

Những lời nói cuối cùng của Papa Gioan Phaolô với người con hoang đàng này là một mệnh lệnh. Ngài đã giao cho vị Linh Mục mới được hoà giải, nhiệm vụ đầu tiên: “Con hãy đi và làm mục vụ cho những người vô gia cư và ăn xin trên bậc thềm ở chính ngôi Thánh Đường mà con đã ở đó…”

Lm. Giuse LÊ QUANG UY, biên tập lại từ một bản dịch
theo catholicmom.com/pope-john-paul-ii-and-the-beggar-priest

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Nguyễn Duy Xuân

Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, bỗng nhớ lại cách đây đúng một năm, trả lời phỏng vấn của báo chí về chuyện chạy chức mà bây giỡ vẫn nóng bỏng tính thời sự, ông Nguyễn Hữu Tri, PGS.TS, Viện phó phụ trách Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, đã đề xuất ý tưởng “luật hóa” cho phép chạy chức chạy quyền công khai. (’Cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền’). Lập luận mà ông PGS.TS đưa ra trong bài trả lời phỏng vấn của mình là:

– Thứ nhất: Chạy chức chạy quyền không riêng gì ở Việt Nam mà thế giới cũng đã chạy nhiều ví như “Obama phải ‘chạy’ vào Nhà Trắng, Putin phải ‘chạy’ vào nhà đỏ”.

– Thứ hai: Chạy chức chạy quyền không có gì là xấu, đó là cơ hội để người chạy “đóng góp được nhiều hơn”. Ông thừa nhận: “Bản thân tôi cũng từng nói với nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng tôi cũng muốn chạy để có chức.”

– Thứ ba: Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có cung cầu, có cạnh tranh, có giá trị thì công tác tổ chức cán bộ lẽ nào lại không vận hành theo, điều đó cũng không có gì là xấu vì nó vẫn là quan hệ cung cầu.

– Thứ 4: Nếu thiết lập theo luật định chuyện chạy chức chạy quyền thì tiền sẽ nổi lên, Nhà nước quản lý được, không chảy vào túi của riêng ai.

– Thứ 5: Tất cả những điều trên: Chạy chức chạy quyền là đương nhiên, cần luật hóa để thu tiền cho nhà nước.

Thoạt đọc, lí lẽ mà PGS.TS đưa ra có vẻ rất thuyết phục, nhưng ngẫm nghĩ lại thì thấy có một số điều cần bàn lại:

Thứ nhất, PGS.TS ngộ nhận việc “chạy” vào Nhà trắng của tổng thống Mỹ hay Nhà đỏ của tổng thống Nga cũng giống như việc chạy chức ở ta. Nhưng chuyện “chạy” vào Nhà trắng của ông Obama như thế nào cả thế giới đều biết, khác với “chạy” chức chạy quyền ở ta.

Thứ hai, chạy chức chạy quyền ở ta là có thật nhưng xưa nay đều dấm dúi giữa một nhóm người có tiền, có quyền với nhau hòng giành ghế mưu lợi cho cá nhân. Chạy như thế mà “không có gì xấu” ư, thưa PGS.TS? Vô hình chung, ông lại khuyến khích cho việc chạy chức – một vấn nạn đang làm nhức nhối xã hội hiện nay?

Thứ ba, không phải cứ vin vào cơ chế thị trường để rồi áp đặt mọi hoạt động trong xã hội cũng phải theo cơ chế này trong đó có công tác tổ chức nhân sự. Từ khi xã hội loài người có thể chế, có nhà nước, chưa thấy chế độ nào đồng tình với việc chạy chức chạy quyền cả. Thời phong kiến tuy cũng có chuyện mua bán quan tước, nhưng quan tước do mua bán chỉ là phẩm hàm mà không được trao chức vụ, nghĩa là hữu danh vô thực. Còn bây giờ, chức vụ gắn với quyền lực và bổng lộc. Chức càng to thì quyền càng lớn, lộc càng nhiều và tất nhiên, để “đấu thầu” được phải bỏ ra cả một núi tiền. Cứ làm theo đề xuất của ông thì xã hội sẽ vận hành ra sao?

Thứ tư, PGS.TS nói luật hóa chạy chức để thu tiền cho nhà nước. Ý tưởng của PGS.TS khiến tôi bỗng nhớ đến một câu nói của ông Hoài Thanh, nhà phê bình văn học nổi tiếng khi bàn về cái xã hội bị chi phối bởi đồng tiền trong truyện Kiều: “Cả một xã hội chạy theo đồng tiền”. Chả nhẽ điều đó sẽ thành hiện thực trong nay mai nếu thực hiện theo ý tưởng của PGS.TS Tri? Lúc ấy chỉ có tiền là trên hết. Hiền tài – nguyên khí quốc gia sẽ bị triệt tiêu nếu không có tiền để “chạy”?

Trong bài trả lời phỏng vấn, PGS.TS có nói đại ý: ông đã từng nhiều lần đặt câu hỏi khi giảng bài cho các học trò rằng tại sao lại phê phán việc chạy chức chạy quyền. Thế giới “chạy” được thì Việt Nam cũng “chạy” được, chẳng có gì là xấu. Và ông cũng thừa nhận chính ông cũng từng muốn chạy để có chức, có quyền. Thưa PGS.TS! nghĩ đến đã có bao nhiêu thế hệ cán bộ quản lí ông “gieo mầm” tư tưởng chạy chức chạy quyền? Nghĩ thế, bỗng thấy rùng mình. Thiện tai! Thiện tai!

Chạy chức chạy quyền đang là vấn nạn của xã hội và là một trong những nguyên nhân sâu xa của quốc nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang ra sức phòng chốnghiện nay. Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng. Chẳng ai dại gì bỏ tiền túi ra đấu giá chức quyền, mà lại không tính đến chuyện thu hồi cả vốn lẫn lãi trong tương lai. Nguồn thu hồi vốn và lãi ấy ở đâu chẳng nói thì ai cũng biết. Và, cái ý tưởng khác người “luật hóa cho phép chạy chức chạy quyền” như trên “rằng hay thì thật là hay” nhưng xem ra… không ổn lắm cho sự tiến bộ của xã hội.

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

(Trao đổi với tác giả Nguyễn Duy Vinh)

Nguyễn Đình Cống

Tôi vừa đọc bài “Giải trình vấn nạn tham nhũng VN qua lăng kính nhân duyên” của Nguyễn Duy Vinh đăng trên Bauxite ngày 29/1/2015. Ông đã dựa vào cách đặt liên tiếp các câu hỏi “tại sao?” và thuyết “Duyên khởi” với 4 duyên quan trọng để tìm nguồn gốc sâu xa của tham nhũng và đã chỉ ra 10 duyên (tóm tắt : 1- Lòng tham; 2 – Pháp luật lỏng lẻo; 3 – Đảng độc quyền; 4 – Người có quyền được bảo vệ; 5 – Báo chí không tự do; 6; 7; 8; 9; 10 – Tham nhũng lan rộng). Tôi tán thành cách làm đó, chỉ xin thảo luận và bổ sung vài ý.

Thông thường để giải thich một hiện tượng người ta hay tìm nguyên nhân. Có nguyên nhân gần, (trực tiếp), nguyên nhân xa (gián tiếp), nguyên nhân gốc(cơ bản). Theo “Duy thức luận” thì để có một kết quả cần có cả NHÂN và DUYÊN. Trong bài “Nguyên nhân gốc của những tệ nạn” ( đã đăng trên Bauxite VN ngày 27/1/2015) tôi đã trình bày vấn đề này và cho rằng “Nguyên nhân gốc của nhiều tệ nạn ở VN hiện nay là sự kết hợp, sự cộng hưởng giữa một số tính xấu của người Việt và những phần độc hại của Chủ nghĩa Mác Lênin”. Đó cũng là nguyên nhân gốc của nạn tham nhũng.

Xem xét 10 “duyên” do ông Vinh đưa ra tôi thấy trừ duyên 1 ( tham lam ) có tính độc lập, các duyên còn lại ( từ 2 đến 10 ) là có cùng một nguồn gốc, đó là sự độc quyền toàn trị của Đảng CS, mà sự này là do Chủ nghĩa Mác Lênin mang lại. Các duyên từ 2 đến 10 thực ra đều là những nguyên nhân gần, trực tiếp và nếu tìm thì còn phát hiện ra một số nữa, đó chưa phải là nguyên nhân gốc, cơ bản. Cái duyên 1(tham lam) không nằm trong Chủ nghĩa Mác, nó thuộc tính xấu của người Việt nói riêng và của nhân loại nói chung. Tính xấu đó, cái NHÂN đó gặp được cái DUYÊN là những phần độc hại trong Chủ nghĩa Mác thì phát triển nhanh chóng và rộng rãi. Tính xấu đó là từ trong phần yếu kém của nền văn hóa dân tộc. Những yếu tố độc hại của Chủ nghĩa Mác gặp được sự yếu kém này càng phát huy tác hại mạnh mẽ.

Sự tham nhũng cũng xẩy ra ở một số nơi khác trên thế giới vì có cái nhân tham lam, còn cái duyên thì mỗi nơi một khác. Lòng tham lam trong mỗi con người, trong mỗi dân tộc đều có nhiều hay ít, tuy vậy tham nhũng như ở Việt Nam hiện nay thì hiếm khi gặp.

Khi có nền chính trị trong sáng, nghiêm minh, dân chủ thì lòng tham bị ngăn ngừa, bị hạn chế, được giảm bớt. Nó chỉ bùng phát khi gặp DUYÊN thuận lợi.

Chủ nghĩa Mác Lênin mang một số mầm mống độc hại về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản. Những mầm đó khi chưa có điều kiện thuận lợi, khi Đảng Cộng sản chưa giành được chính quyền, thì còn nằm im, chưa phát huy tác hại. Khi ĐCS đã có chính quyền thì những mầm mống độc hại bắt đầu nẩy nở, nhưng nếu không gặp môi trường thích hợp (dân trí thấp, người cầm quyền tham lam và đểu cáng) thì nó cũng chỉ gây tác hại vừa phải. Cũng là chịu thống trị của Chủ nghĩa Mác Lênin nhưng ở Cu ba, các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây nạn tham nhũng tuy cũng có nhưng không trầm trọng như ở Việt Nam hiện nay.

Cuối bài của mình, ông Nguyễn Duy Vinh có đề nghị thảo luận và viết là sẽ chuẩn bị đề tài cho lần tới. Có một vài ý kiến trao đổi, hy vọng sẽ được đọc tiếp những ý kiến sâu sắc của ông.

N.Đ.C.

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Đaminh Nguyễn Đức Thông

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc của cha Đaminh Nguyễn Đức Thông trong Thánh lễ nhậm chức Tân Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam của Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích

Lúc 10 giờ ngày 15.01.2015, tại Nhà nguyện tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã chủ tế Thánh lễ Nhậm chức Tân Giám Tỉnh và ra mắt Hội đồng Cố vấn của ngài.
Cha Đaminh Nguyễn Đức Thông, Phó Giám tỉnh chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ. Ngài nhắc lại nội dung lá thư của ĐTC Phanxicô gửi trong dịp khai mạc Năm Thánh Hiến cho những người sống đời thánh hiến, trong đó có 5 điều mơ ước mong đợi:

– Nhìn vào quá khứ để tạ ơn Chúa, để biết mình là ai, để củng cố sự hiệp nhất, củng cố cảm thức được thuộc về, và nhìn lại quá khứ để tạ tội.

Sống giây phút hiện tại với niềm hăng say, sống được điều đó hãy theo Chúa Giêsu sát Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu làm lý tưởng, lấy Tin mừng của Ngài làm quy luật tuyệt đối, tìm mọi cách gắn kết với Ngài và luôn luôn trăn trở tự hỏi Chúa Giêsu có còn là mối tình đầu duy nhất của tôi không.

Ấp ủ tương lai với niềm hy vọng, xây dựng trên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Ngài cũng mong đợi chúng ta năm điều:

+ Ở đâu có tu sĩ ở đó có niềm vui.
+ Hãy trở thành các tiên tri để thức tỉnh thế gian.
+ Các con là chuyên gia của sự hiệp thông, hãy biến tu viện của các con thành ngôi nhà hiệp thông, trở thành môi trường dẫn đến sự hiệp thông.
+ Đi ra khỏi vùng trung tâm đến các vùng ngoại biên.
+ Hãy tự hỏi mình, Hội Thánh và con người đang đòi hỏi gì nơi tôi.

Chắc chắn hôm nay, khi khai mạc nhiệm kỳ chúng ta cũng có nhiều mục tiêu, những mong đợi khác nhau. Cha Giám tỉnh Giuse chắc chắn cũng có những mục tiêu những định hướng cho 4 năm trong nhiệm kỳ của mình, ngài chọn bài Tin mừng hôm nay. Chắc chắn khi chọn bài Tin mừng này, chắc chắn ngài sẽ tránh những gì mà Giacôbê và Gioan chạm phải, ở trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe sẽ không tìm kiếm mình, tìm kiếm quyền lợi dành cho mình như Gioan và Giacôbê. Trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu nói: “ Những thủ lãnh thế gian thì dùng quyền mà thống trị, còn giữa anh em những người làm lớn hãy làm người phục vụ, người làm đầu hãy làm đầy tớ .” Chắc chắn cha Giuse cũng mong ước điều đó.

Khi Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ công khai Ngài cũng chịu nhiều áp lực, nhiều thách thức, áp lực từ phía lãnh đạo Do thái họ muốn kéo Ngài về phía họ để làm cuộc cách mạng lật đổ đế quốc Rôma đưa dân Israel lên làm thống trị muôn dân nước. Không phải chỉ giới lãnh đạo Do Thái mà cả các môn đệ cũng đợi chờ Ngài điều này. Nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: thưa Thầy đây có phải là lúc Thầy khôi phục nước Israel không. Chúa Giêsu sống lại các tông đồ vẫn mong ước một cuộc cách mạng theo kiểu chính trị, còn Chúa Giêsu vẫn trung thành với sứ vụ Cha ủy thác . Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã đưa ra những nấc thang giá trị trái với ước mơ của con người .

Người ta đi tìm sang trọng, phú quý, Chúa bảo phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Người ta đi tìm lạc thú, Chúa bảo phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Người ta hiếu chiến, thì Chúa bảo phúc cho những người hiền lành, phúc cho người tác tạo hòa bình.

Người ta đi tìm sự yên ổn, Chúa bảo phúc cho những ai chịu bách hại vì Tôi và vì Tin Mừng. Hơn nữa Chúa đưa ra một logic khác hẳn logic của người phàm. Chúa bảo ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai tìm kiếm mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ tìm lại được cho mình sự sống.
Chúng ta không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã mở ra. Đi con đường nào khác chúng ta tự đánh mất chính mình, đi lạc, làm hỏng sứ vụ đã được ủy thác cho tất cả chúng ta. Ta cầu xin Chúa cho tất cả anh em, đặc biệt cho cha Giám tỉnh và Ban Quản trị đi con đường Chúa Giêsu vạch ra và đi cho đến cùng, mặc dù gặp những khó khăn thử thách.
Thế nhưng, phục vụ theo cung cách thế nào? Trong bài đọc thứ nhất, trích thứ nhất của thánh Phêrô nói rằng:

“Anh em thân mến, cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai . (1 Pr 5,1)

“ Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. (1 Pr 5,2)

“ Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên . (1 Pr 5,3)

“ Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát. ” (1 Pr 5,4)

Nhưng trong Văn thư chuẩn nhận cha Bề trên Tổng quyền nói với cha Tân Giám tỉnh, với tư cách là người mục tử, người lãnh đạo, điều phối viên của mọi cộng đoàn và mọi thành viên trong tỉnh dòng, tôi xin cha hãy sẵn sàng với mọi anh em, hãy khuyến khích anh em sống đúng với ơn kêu gọi giúp đảm nhận và hoàn thành ơn kêu gọi. Ngài mong đợi nơi cha Giám Tỉnh là khích lệ anh em giúp anh em chu toàn ơn gọi và sứ mạng. Ơn gọi này được nói rõ trong Hiến pháp 23: tu sĩ DCCT được mời gọi tiếp nối sự hiện diện của Chúa Giêsu trên trần gian, chọn Đức Kitô là trung tâm bản vị của đời mình. Hay như ĐTC Phanxicô nói với chúng ta: “ Ta hãy chọn Đức Kitô làm lý tưởng, lấy Tin Mừng của Ngài làm giá trị tuyệt đối, gắn bó mật thiết với Ngài và tự hỏi Đức Kitô có còn là mối tình đầu của ta không, duy nhất của ta không.” Còn Thánh bộ Tu sĩ trong năm nay cũng nói với chúng ta phải mang lấy, phải biến các giá trị và những logic có vẻ gây kinh ngạc của Chúa Giêsu thành của mình, nghĩa là mang lấy những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong Bài giảng trên núi nghĩa là mang lấy nỗi lòng của Chúa Giêsu tâm sự của Chúa Giêsu để sống cuộc đời, sống ơn gọi của mình. Chắc chắn đây không phải là chuyện dễ đối với anh em, đối với Ban Quản Trị Tỉnh.

Vì vậy mà Thánh Phê-rô trong bài đọc chúng ta vừa nghe nói với chúng ta: “ Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để người cất nhắc anh em khi đến thời người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự .”

Vì vậy hôm nay khai mạc nhiệm kỳ mới, cha Giám tỉnh đã chọn “phục vụ” và phục vụ không phải vì miễn cưỡng vì lợi lộc thấp hèn, nhưng phục vụ vì lời kêu gọi Chúa và phục vụ là giúp cho anh em chúng ta từng người một sống ơn gọi trở thành những người tiếp nối sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian. Muốn như thế ta phải có đời sống cầu nguyện, phải khiêm tốn với nhau, khiêm tốn dưới bàn tay của Thiên Chúa. Cần tỉnh thức và tiết độ vì ma quỷ tìm cách làm cho ta xa lìa nhiệm vụ và sứ mạng mà Chúa ủy thác. Xin Chúa ở với chúng ta ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có đủ can đảm mang lấy giá trị của Chúa Giêsu, mang lấy logic đáng kinh ngạc của Ngài hầu chúng ta xứng đáng là những tiên tri cảnh tỉnh, thức tỉnh thế gian hôm nay.
Amen

Đaminh Nguyễn Đức Thông