Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

– Tin nổi bật,

VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn -Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).

Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.

150314006

Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.

Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.

Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!

Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!

Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.

Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.

Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!

Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.

Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi” (*). Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tại và chuyển động”.

Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.

Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.

Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!

Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!

Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.

Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!

Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).

Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).

Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!

Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử của cố NS Hùng Lân:

https://www.youtube.com/watch?v=VpUzr0Tli78

Đời tôi và bao nổi trôi,

“Đời tôi và bao nổi trôi”,

vùi trong thời gian dần khuất nơi chân trời
Bạn ơi, buồn vui sầu bi,

tìm đến, rồi có những lần ướt mi”.

(Paul Anka: Comme d’habitudes – Lời Việt: Nam Lộc: Giòng đời)

(Thư Do thái 13: 1-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Ngay câu đầu bài hát nổi tiếng trích-dẫn ở đây, bạn và tôi, ta đều thấy chữ “tôi” với “cuộc đời”, và “bao nổi trôi”, cũng rất trội.

Quả là như thế. Nói đến chữ “tôi” -tôi đây là bần đạo chứ không phải là “bạn đạo” hạy “bạn đọc”- đang ngồi đọc giòng chữ khá mờ nhoè này, thì: quả thật là như thế. Như thế, tức: như thể ca-từ ở đây do nghệ sĩ Nam Lộc viết lời Việt và hát tiếp:

“Rồi bao hàng quán chói trang ở trên thế gian.

Tôi cũng từng bước qua biết bao.

Và có biết bao đời tôi đã bước qua.

Giờ đây nhìn tháng ngày qua.

Đời lững lỡ trôi đôi lúc tôi sai lầm cho dù tôi chỉ mong.

Được mang niềm vui đến với cùng thế nhân”.

(Nam Lộc – bđd)

“Mang niềm vui đến với thế nhân”, là quyết-tâm và quyết-định của bạn và mọi người, chứ không chỉ mình tôi như truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles nưóc Mỹ, một diễn giả nồi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết-trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn-thuyết  bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:

-Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả mọi đèn trong sân vận động này.
Đèn vụt tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:

-Bây giờ tôi sẽ thắp lên một que diêm, ai nhìn thấy ánh sáng từ của que diêm đang cháy thì hô to “đã thấy!”.

Một que diêm loé lên, cả vận-động-trường vang dậy tiếng “Đã thấy!”.

Khi đèn được thắp sáng trở lại, ông John Keller giải thích:

–Ánh sáng của hành động nhân ái dù nhỏ như que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.

Một lần nữa, tất cả các đèn trong sân vận động lại tắt ngúm Một giọng nói vang lên:
–Tất cả những người ở đây có ai mang theo diêm/quẹt, xin hãy thắp sáng lên! Bỗng chốc cả vận-động-trường rực sáng ánh diêm quẹt.

Ông John Keller kết-luận:

– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau lại, có thể chiến thắng được bóng tối, chiến tranh, khủng bố, sự ác và hận thù bằng những đóm nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không là môi trường sống vắng thiếu chiến tranh. Hòa bình không là cuộc sống không tiếng súng. Vì trong giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người lại giết hại nhau mà không cần súng đạn. Đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức, bóc lột nhau mà không cần gây chiến.

Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thật nhiều hành động yêu thương và lòng hảo tâm với  người đồng loại. Hành động yêu thương xuất  từ lòng nhân hậu sẽ như ánh sáng nhỏ của que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng thắp lên ánh sáng nhỏ, thì  hành động yêu thương có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của đau khổ và sự ác. (Tâm Hoa sưu tầm)

Về cuộc sống của tôi và mọi người cũng như của bạn, dù là bạn đạo hay bạn đọc đang theo dõi câu chuyện này, lại cũng có một truyện kể khác do bạn bè chuyền trên mạng, theo dạng thơ-văn nhắc nhiều đến chữ “tôi” bằng tiếng Anh và được người kể phiên-dịch như sau:

“Boil your ego

Evaporate your worries

Dilute your sorrows

Filter your mistake and,

Get taste of happiness”.

“Nấu sôi cái tôi.

Bốc hơi điều lo lắng.

Pha loãng những muộn phiền.

Thanh lọc những lỗi lầm.

Và…

“Nếm hương vị hạnh phúc.”

“Cuối giờ Pháp thoại, vị Giáo thọ tặng chúng tôi bài thơ trên. Một bài thơ tiếng Anh chẳng biết tác giả là ai được dịch ra tiếng Việt như thế. Với tôi, bài thơ hay quá, nó gợi cho tôi nhiều suy nghĩ rất thú vị. Trong cuộc sống, lúc nào ta cũng bị bản ngã trói chặt. Bản ngã có mặt sai sót trong tất cả mọi việc, chen vào mọi ngóc ngách trong quan hệ giữa ta và người. Bản ngã rất tích cực hành động. Tính tích-cực nầy nhấn chìm ta trong bể khổ mà chỉ có ta mới tự chèo-chống để vượt thoát, lướt trên sóng khổ chứ không ai giúp ta hiệu quả hơn bằng nỗ lực của chính ta.

Thật vậy, trong bất cứ tình huống nào cũng thế, cái “tôi” đã xuất hiện theo liền bên, mọi việc mang nhiều hình thể khác nhau để rồi có đúng/sai, hay/dở, khen/chê và cả ngàn thứ “dây mơ rễ má” quấn quít theo sau. Cái “tôi” thật khủng khiếp!…

Cái “tôi” chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ bao la. Một hạt bụi bé nhỏ, khó nhìn thấy bằng mắt thịt, nên hãy để nó rong chơi cùng thứ khác trong không khí, thì mọi sự cũng sẽ khác. Nhưng con người chúng ta lại không để nó như thế. Ta thích thổi phồng cái “tôi” và tự làm khổ mình, khổ người do những nghĩ suy, tính toán, so đo, phân biệt, và do những giận/hờn, yêu/ghét nữa.

Bỗng một hôm, ta nhận ra được vấn đề, bèn “buông xả” dần những vướng mắc, Ta thấy mình chẳng là gì cả, ta là hạt bụi nhỏ đang bay tỏa trong không khí như các hạt bụi khác, cùng lơ lửng trong không gian, chẳng bám vào đâu cả, rất nhẹ nhàng, tự tại. Tất cả mọi toan-tính, so đo, hơn thiệt, phải/quấy, ăn thua, giành giật để có vẫn làm ta nặng nề, nghẹt thở, đã lặn mất. Ta nhìn tất cả bằng con mắt tỉnh giấc. Ta thấy chúng chẳng là gì cả, chúng không “tồn tại”, nhưng có mặt vì ta thấy chúng “có”. Ta chấp nhặt, đặt tên và khai sinh ra chúng. Giờ, thì ta buông xả và khai-tử chúng. Chung quanh ta lại cứ thênh thang. Ta nhẹ nhàng bay lượn trong cõi không rộng mở, thật bao la hạnh phúc, tự do, an ổn Ta nâng chén trà lên uống. Ngụm trà thơm, như thể đang nếm hương vị của hạnh phúc”! (trích điện-thư ê hề trên mạng)

Nói về cái “tôi”, thì nói đến bao giờ cho hết. Nói về cái “tôi” hôm nay, là nói về nhiều thứ khác, cũng tốt cũng đẹp chứ không chỉ là “cái tôi đáng ghét” như ai đó vẫn “gào thét” với nhận-định.

Nói về cái “tôi” có nhiều điều tốt như giòng nhạc được nghệ-sĩ Nam Lộc diễn-tả ở bên dưới:

Bạn ơi thời gian vút qua nếu có lầm lỗi.

Chỉ xin mong được thứ tha biết bao.
Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời

cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang

đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người.
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi

cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi.
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi

đường tôi vẫn cứ đi.
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay,

nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi.
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Paul Anka: Comme d’habitudesbđd)

“Và có biết bao điều xin được thứ tha”, quả thật thấm thía. Thấm thía, đến tận xương tủy hơn cả bài giảng. Lời lẽ thấm thía của bài hát, còn được ca sĩ Paul Anka kể về lai-lịch của nó.

Tâm sự Paul Anka cho biết: ông không là tác giả. Ông chỉ tình cờ đi trên đường phố ở Paris, bất chợt thấy “tay hát dạo” người Thổ Nhĩ Kỳ đang đứng hát để xin tiền. Ông dừng lại nghe thấy hay quá bèn suy-nghĩ: bài này mà được chỉnh-sửa, thì chắc sẽ hay lắm, và nhiều người sẽ biết nó mà cảm-kích.

Nên, Paul Anka  bàn với anh ta mua đứt bản quyền. Paul Anka đã nhiều lần hát bài này bằng lời tiếng Pháp lấy tên là: “Comme d’habitudes”. Nhưng bài này trở-thành nổi tiếng, kể từ khi ca sĩ Frank Sinatra hát phiên-bản tiếng Anh “My Way”, lời nhạc lại hay hơn.” (trích dẫn-nhập của Anthony Trần trong đêm “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney, vào tháng 11/2014)

Dòng đời trôi qua, biết bao đổi thay” cách nào đó, có phải để nói đến những đổi thay khá mạnh bạo mà Đức Phanxicô từng nói với chúng-dân ở Manila hôm 18/1/2015 bằng những câu:

“Hôm nay, nam-giới cũng nên lắng nghe ý-kiến của phụ-nữ, chứ đừng trở-thành người chỉ biết mỗi lập-trường đơn độc, toàn trị từ phái-tính mình. Đức Phanxicô đã có nhận-xét như thế trong lần gặp giới trẻ Đại học ở thủ-đô Manila, nước Phillíppines khi ngài thấy 4 trong số 5 chức-sắc nước này đạo đạt ý-kiến lên ngài, là nam-giới.

Hôm nay đây, tôi thấy sao hầu hết các vị lên đây phát biểu, đều là nam-giới hết. Nhìn kỹ, tôi thấy chỉ một số rất nhỏ đại-diện cho nữ-giới ở đây thôi. Thật quá ít. Nữ-giới cũng có nhiều điều để nói cho ta biết trong xã-hội hiện thời. Nhiều lúc, tôi thấy đàn ông chúng ta rất ư là “độc đoán”, tức: chủ-thuyết chỉ đặt ưu-việt chọn nam-giới mà thôi.

Trên thực-tế, ta không dành nhiều chỗ cho phụ-nữ, thế nhưng nữ-giới vẫn có khả-năng nhìn sự việc dưới góc cạnh khác ta, bằng cặp mắt cũng rất khác. Phụ-nữ cũng có khả-năng đề ra câu hỏi mà nam-giới chúng ta không hiểu nổi.

Đức Phanxicô chờ cho tiếng vỗ tay chấm dứt, rồi nói tiếp: “Tôi nhận xét chính cô bé 12 tuổi đây, chứ không phải 4 vị đại-biểu nam-giới này, là người đưa ra câu hỏi gay-go nhất, hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa không cho phép mọi người bỏ rơi trẻ nhỏ, không ai chăm sóc vậy? Thế nên, tôi đề-nghị điều này: lần tới, nếu có vị giáo-hoàng nào tới Manila, thì cũng mong sẽ được thấy nhiều phụ-nữ hiện diện trong các buổi tiếp-tân như thế này.

Đức Giáo Hoàng còn nói: Trong khi Hội thánh ngăn không cho phụ-nữ làm linh-mục, đó là chuyện dứt-khoát rồi, nhưng Hội-thánh muốn bổ-nhiệm nhiều nữ-tu và phụ-nữ khác vào các chức vụ thâm-niên, kỳ-cựu ở toà thánh La Mã, hơn!” (trích thông tấn xã Reuters đăng trên tờ The Himalayan Times, ngày 19/01/2015 ở Lhasa thủ đô của Tibet, tr. 7)

Đó chỉ là nhận xét rất thông thoáng và phút chốc của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mà thôi. Nhưng trên thực-tế, hẳn cũng có những sự-kiện và sự việc mang tính khác-biệt rất dễ gây tranh cãi về vai-trò của nam/nữ, hoặc nữ/nam trong một xã hội tưởng-chừng-như-vẫn-chủ-trương “Duy nam-giới” được giữ từ ngàn xưa.

Là nam hay nữ, tất cả đều có thể thực-hiện điều Đức Giêsu răn dạy, trước khi Ngài về với Cha. Là nam hay nữ, đều có chỗ đứng quan-trọng và thiết-yếu trong các vai-trò và chức-vụ thánh-thiêng ở giáo-triều La Mã hay phụng vụ. Đó là điều không thể chối cãi được. Nhưng, có một chuyện đang thành vấn-đề đối với giáo-triều, là: sự khác biệt giữa linh-mục và giáo dân, như lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề-cập một lần nữa, như sau:

Anh chị em thân mến,

Tôi vui mừng chào đón Hội-đồng Giáo-Hoàng về Giáo-Dân họp tại Hội Nghị Thường Kỳ.  Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Chủ Tịch vì những lời ngài nói với tôi.

Thời gian qua, kể từ Đại Hội lần trước của anh chị em cho đến nay, là thời gian hoạt động và thực-hiện các sáng-kiến tông-đồ đối với anh chị em.  Trong đó anh chị em dùng Tông Huấn Evangelii Gaudium như văn-bản nền-tảng cho chương-trình hoạt-động và như la-bàn hướng-dẫn suy tư và hành động của anh chị em.

Năm mới vừa bắt đầu, đánh dấu một kỷ-niệm quan-trọng: kỷ niệm 50 năm ngày bế-mạc Công Đồng Vaticăng II. Về vấn đề này, tôi biết anh chị em đang chuẩn bị cách thích đáng một buổi kỷ-niệm ngày ban-hành Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân (Laici Apostolicam Actuositatem).

Tôi khuyến-khích sáng-kiến này, một sáng-kiến không chỉ nhìn vào quá-khứ, mà còn vào hiện-tại và tương-lai của Hội Thánh.” (x. diễn văn Đức Giáo Hoàng dành cho tham-dự-viên Hội-nghị Thường kỳ về Giáo-dân, tại sảnh đường Clementê hôm 7/2/15 Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)

Thế thì, không cần biết em là ai, con trai hay con gái; mà chỉ cần hỏi: em có thể chứng-thực mình là giáo-dân hay không để được “Đức Thánh–là-Cha” đề-cao bằng “sắc lệnh” rất “Tông-đồ” rồi trao cho em nhiều sự-vụ-lệnh, hầu giải quyết.

Không cần biết em có là con gái hay không; và có đòi làm linh-mục không, để tôi đây lại sẽ đề-cao em, như ai đó từng đề-cao vị anh-hùng của Úc hồi nào, như bức thư đây diễn-tả:

“Harold ‘Pompey’ Elliott thân mến,

Có một thời, tên anh được mọi người biết như bậc anh-hùng hảo-hán, rất hiếm có. Trên thực-tế, dường như tất cả học-sinh ở Úc sống hồi thập-niên 1920’ đều đã từng viết luận-văn về anh. Nay, tôi tự hỏi: không biết được bao nhiêu vị nay còn nhớ đến tên anh nữa đây? Tôi thiết nghĩ, ta cũng nên học nhiều điều từ các truyện kể về anh hơn là: chỉ loanh quanh nói về tài lãnh-đạo của ai đó.

Anh là nhân-vật lịch-sử khá may mắn ở Úc. Nếu tôi được phép dùng từ-vựng mạnh-bạo và can-đảm, tôi sẽ còn nói nhiều hơn thế. Bởi, anh chính là người anh-hùng dám đáp xuống bãi đáp toàn đất bụi ở Gallipôli, chỉ 24 tiếng sau ngày 25 tháng Tư năm 1915. Anh là người vẫn còn hoạt-động cả sau khi hưu-chiến đi vào hiệu-lực, từ 11 tháng 11 năm 1918. Anh bị thương ngay từ ngày đầu tại chiến-trường Gallipôli Thổ Nhĩ Kỳ, nên tôi có thể coi đây như phép lạ nhãn-tiền, từng xảy đến với anh.

Khi anh sống sót trở-thành “anh-hùng” của Thế-Chiến Thứ Nhất, đồng thời là nhà lãnh-đạo thực-thụ của nước này, trong khi chân anh vẫn còn dính bùn đen nơi gót giày.

Là luật-sư hành nghề, anh lại trở nên lão-luyện hơn, không ngại tỏ ra cứng-cỏi với mọi người, đặc-biệt là cấp trên. Mặt khác, có lần anh doạ bắn bỏ người lính ở cấp dưới dám cả gan bật quẹt hút thuốc vào thời-điểm đầy hiểm-nguy. Nhưng ngay lúc đó, người anh/em của người này ở gần bên, cũng doạ bắn trả đũa nếu anh làm thế. Thế mà, anh vẫn không ngại thực-hiện lệnh-truyền. Anh từng khâm-phục thuộc cấp dám lên tiếng chống lại lối sống bê-tha, sa đà của tướng lãnh chỉ huy, thiếu cương-nghị. Anh lại còn dám thăng-chức cho cấp dưới nào hiên-ngang chống lệnh-truyền ban ra theo kiểu ngoại-giao, hoà hoãn.

Anh đã bị bắt-giữ khi nghỉ phép ở Luân Đôn vì dám có thái-độ coi thường vị sĩ quan kia công-khai sống bê bối, dù ông ta là sĩ-quan cao cấp. Tướng-lãnh trong quân-đội là những vị không thể ăn mặc xuề-xoà, giản-dị nhưng anh lại dám sống như thế. Và khi đọc thư anh viết về cho hai người con nhỏ ở nhà mới thấy cuộc sống của thật tuyệt-vời, giản-dị…

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh từng là lãnh-đạo của nhiều người và nhiều sĩ-quan cấp dưới, nhưng không phải là lãnh-đạo của các con số, dù số ấy đếm thấy nhiều ở đây đó. Là lãnh-đạo, nhưng anh không sợ bày-tỏ sự đau buồn, nuối tiếc khi các sĩ-quan hoặc binh lính cấp dưới từng ngã gục. Và có lần, vị sĩ-quan ở Fromelle đã mô-tả con người anh bằng những giòng chữ, như: Ông ấy từng nói lên, dù chỉ một lời uỷ-lạo đơn-thuần với thương-binh ở nơi này và khen ngợi đôi mắt mờ-nhoè của vị sĩ-quan nào đó, ở nơi khác. Ông chẳng quên sót một ai, dù trên dưới. Ông không nói đến một lời, trên đường trở về tổng-tư-lệnh. Nhưng khi về đến nơi, ông lại đi thẳng một mạch vào bên trong, vùi đầu vào bàn tay, khóc nức nở trước cái chết của đồng đội…”

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh đau buồn biết khi binh đội của anh trở về sau chiến tranh lại đã đau-khổ nhiều vì các khó khăn trong thời kinh-tế suy-thoái. Ngay chính anh, cũng còn không lấy lại được quân-bình sau chiến tranh nữa. Anh bước chân vào Thượng-viện trong vinh-quang, nhưng nỗi đau-buồn của tâm thân vẫn còn đó xâu xé anh mãi, cho đến ngày buồn vào tháng 3 năm 1931, anh đã tự kết liễu cuộc đời mình, trong đau buồn, tại Malvern rất gần với quê nhà của riêng tôi. Khi tôi kể cho nhiều người biết: nỗi thương-đau tệ-hại nhất của nước Úc là sự mất mát thương vong sau cuộc chiến lại đã diễn ra trong sự lặng-thinh, tĩnh mịch của quận lỵ nhỏ. Và họ đều hiểu những gì tôi muốn nói. Quả là, chiến-tranh vẫn quay trở về với quê nhà, dù các chiến sĩ của ta lại không thế.

Nay trân trọng,

Michael McGirr

(x. Michael McGirr, A letter to Pompey Elliott, Australian Catholics, số Múa Hè 2015 tr. 8)

Thế mới biết, ở thời này, con người thật dễ quên, dù người anh-hùng cái-thế của cả nước như “Pompey” Elliott. Quên sót, cả những chuyện tưởng chừng như không thể như thế.

Thế mới rõ, con người muôn thuở vẫn cứ nhớ những chuyện không nên nhớ.

Thế mới hiểu, tính-khí con người hôm nay, lệ-thuộc vào nhiều thứ, chứ không chỉ mỗi thứ văn-hoá rất không hay sau hơn 4 ngàn năm văn-hiến với văn-minh.

Và, như thế bạn và tôi lại đã nhận ra rằng: người con của đất trời cùng tận ở phía Nam hôm nay, sẽ còn ưu-tư nhiều về những chuyện mà khi xưa ít ai lo lắng, đến như thế. Và như thế, ta mới cảm-thông khi thấy mọi người đều thế cả vào thời hôm nay, rất thực-tế.

Thế mới là chuyện thực-tế, khi bạn và tôi, ta mon men đi vào vườn hoa truyện kể cũng khá nhẹ, để minh-hoạ cho điều mình ưu-tư/lo-lắng rất như trên. Thế mới thấy, rằng: có những truyện kể làm người đọc thấy vui, cứ ngồi cười một mình, như câu truyện do người Pháp nọ kể bằng mẩu đối thoại vụn vặt giữa thày-trò như sau:

“Thày: các trò nghĩ phải làm sao chia đều 11 củ khoai cho 7 bạn, thế?

Trò: Thày cứ luộc rồi xay nhuyễn và chia đều bằng muỗng cho mọi bé, là xong ngay!

Thày: Này em, chia thế rồi, mọi người sẽ bảo tim ta lớn cỡ nào thế?

Trò: Lớn nhỏ vẫn chỉ hai thôi thày ơi.

Thày: Sao chỉ có hai thôi?

Đáp: Bởi, một là của thày và trái kia là của em thôi mà.

Thày: hai bạn đến trường trễ, em thử nghĩ xem mỗi trò nói với thày lý-do nào khiến như thế.

Trò thứ nhất nói: Em đến trường trễ là vì đêm qua nằm mơ thấy mình đi rất xa, về không kịp!

Trò thứ hai bảo: Còn em đến trễ là vì em phải ra phi-trường đón bạn em từ xa về…

Thày: Em kể cho thày biết tên của 5 vật có chứa đựng sữa trong đó.

Trò: Thưa thày cũng dễ thôi. Đó là: một hộp phó-mát và 4 con bò.

Thày: các em nói cho thày biết trước khi ăn các em có làm dấu thánh giá và đọc kinh không?

Trò: Thưa thày không, em thấy không cần làm thế vì mẹ em là đầu bếp thuộc loại giỏi…”

Thày: Năm, nói cho thày biết tên một người cứ nói mãi, dù người khác không muốn nghe, đi.

Trò: Dạ, người đó tên là thày giáo hoặc cô giáo…”

Thế mới biết, con nít còn nhỏ tuổi ngày nay khác với lũ trẻ cùng thời với bạn và tôi cũng rất nhiều. Thế mới hay, ngày nay có viết chuyện phiếm lan man/tản mạn về nhiều chuyện, cũng thấy khó. Khó, là vì nó có thể giống câu trả lời của các trẻ bé nói ở trên.

Thế mới phiền, về đủ mọi chuyện, thì: bạn và tôi, ta cứ hăng say hát tiếp lời ca ở trên, dù sự thể sẽ ra sao đi nữa, vẫn hát rằng:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi đường tôi vẫn cứ đi
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Nam Lộc – bđd)

“Tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi, vì tôi đã sống với chính con tim”. Vâng. Lúc nào cũng thế. Bạn và tôi, ta vẫn luôn là bạn và là “tôi”, nếu ta cứ sống với chính con tim của mình. Vẫn cứ quyết-định sống theo lời khuyên-nhủ của bậc thánh-hiền khi xưa vẫn dạy rằng:

Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.

đừng quên tỏ lòng hiếu khách,

vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón

các thiên thần mà không biết.

Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích,

chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ;

anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ,

chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể.”

(Thư Do thái 13: 1-3)

Tắt một lời, sống trong “giòng đời có nổi trôi”, là sống với mọi người, rất yêu thương. Sống hiếu khách như chính mình cũng đang ở vào hoàn cảnh như thế. Và, sẽ sống mãi với mọi người như “giòng đời”, dù chỉ là người biên-soạn hoặc viết lên lời ca của người-hát-rong-để-kiếm-sống, cũng tầm-thường như mọi người bình-thường trong đời hát dạo.

Hoặc, chỉ như giới-nữ mọn hèn vẫn cứ sống trong nhà Đạo gồm toàn những vị hoặc “đấng bậc” cầm quyền, ở trên cao.

Tóm lại, dù bạn và tôi, ta có quyết-tâm sống sao đi nữa, thì cũng xin cứ đầu-cao-mắt-sáng nhấc lên mà hát như nghệ-sĩ trẻ, những câu như:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.

Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời.

cho tôi đắng cay lầm than.

Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.

Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.

Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang.

đường tôi vẫn bước đi.”

(Paul Anka và Nam Lộc – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã tâm niệm

những điều như thế mãi

trong đời mình.

Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”

Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa”.

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.

Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.

Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.

Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn, yên ổn. Muốn bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.

Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.

Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”

Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)

Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)

Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)

Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.

“Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.

Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.

Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

Mùa Chay, nếu chỉ nhìn bề ngoài thì khó ai có thể nói là vui thích được, bình thường đó là bốn mươi ngày chúng ta phải từ bỏ những gì chúng ta ưa thích, cho dù điều đó là do chúng ta tự ý làm hay do một sự ép buộc nào đó.  Chung qui, chúng ta cũng phải từ bỏ một điều chúng ta thích.  Và ngay cả trên bình diện đức tin, chúng ta tự ý để cho mình phải chịu một chút hy sinh, từ bỏ những tiện nghi và có thể những đau đớn một chút với mục đích là chúng ta muốn thanh luyện, thánh hóa toàn thân và canh tân tinh thần, canh tân tâm hồn.

Lý do nền tảng của những việc mà chúng ta làm trong tinh thần sám hối của mùa Chay là vì chúng ta chiêm ngắm những đau khổ của Chúa Giêsu đã chịu vì yêu thương chúng ta.  Vì thế mà Ngài đã bị hành hạ đau khổ đến mức tột cùng để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã chết trên thập giá vì chúng ta. Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả những đau khổ đó vì nhân loại và vì bản thân của mỗi chúng ta.  Người không phải chịu đựng những đau khổ đó nhưng Người đã phải cưu mang tất cả vì chúng ta.  Chính nhờ sự cứu chuộc của Người mà chúng ta được chung hưởng vinh phúc trên thiên đàng, niềm vinh phúc mà Ađam và Eva đã đánh mất khi sa ngã phạm tội và cắt đứt tình nghĩa với Chúa.

**********************************

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những người phải chịu nhiều đau khổ.  Chúng ta muốn giúp họ nhưng chẳng biết phải nói làm sao, cũng chẳng biết phải làm gì để gúp họ vơi đi những khổ đau.  Ðứng trước những hoàn cảnh như thế, chúng ta cảm thấy mình vừa bất lực vừa lo âu, nhất là khi chúng ta đối diện với sự qua đời của một người thân.  Có lẽ lúc đó điều chúng ta có thể làm là khóc với họ.

Có lần tôi đã chứng kiến cảnh người mẹ trẻ quá bối rối vì không thể làm gì hơn là cứ phải đứng nhìn đứa con nhỏ của cô đang khóc lóc, vì bàn tay bị bỏng phỏng giộp lên.  Cô không biết làm cách nào để xoa dịu nỗi đau của con.  Cô đã lấy hòn đá đập bị thương ngón tay của mình rồi cô khóc tức tưởi hơn cả đứa con của cô.  Có lẽ chúng ta không hiểu được hành động của người mẹ, nhưng có thể nói chính vì yêu mà người mẹ đã có thể làm như vậy.  Và trong hoàn cảnh cụ thể của cô, có thể đó là giải pháp, là cách thức để cô chia sẻ với nỗi đau của người con mà cô yêu thương.

Tình thương không cho phép người ta chứng kiến cảnh người mình yêu bị đau khổ, người ta phải làm đủ mọi cách trong khả năng của họ để làm sao giúp người mình yêu thoát khỏi khổ đau.  Có thể nói đó chính là những ý tưởng định hình cho những công việc hy sinh của chúng ta trong mùa Chay một cách nào đó, để tỏ bày lòng sám hối.  Ðó cũng là những cách thức, những việc làm cụ thể, để chúng ta bày tỏ tâm tình yêu mến và chia sẻ những khổ đau của chúng ta với Chúa Giêsu.  Ðó là bước đầu chúng ta đi vào con đường của tình yêu tự hiến, con đường mà Chúa Giêsu đã đi.  Ðó là yêu thương trọn vẹn, hy sinh cho tất cả, trao hiến tất cả cho người mình yêu.

Ðể được như thế, trước hết chúng ta phải tập sống từ bỏ vì yêu thương, từ bỏ một chút tiệc ly, một chút của cải vật chất, từ bỏ một chút gì là của riêng mình: sở thích, tư tưởng, lập trường.  Cụ thể hơn nữa, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc vâng lời.  Vâng lời cha mẹ, bề trên, anh chị em trong gia đình, vâng lời thầy cô giáo, những người có bổn phận trách nhiệm dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta bằng việc chúng ta sẽ tập trung lo chu toàn những công việc bổn phận, những nhiệm vụ được trao một cách trọn vẹn.

Xa hơn một chút, chúng ta thực hành những luật lệ chính đáng và công bình, nhằm đem lại lợi ích cho tha nhân chẳng hạn như giữ nghiêm ngặt luật giao thông, bảo vệ cảnh quan những nơi công cộng cho sạch đẹp, giữ luật vệ sinh chung, v.v… việc hy sinh của chúng ta có thể đi xa hơn bằng việc thực thi bác ái vào những việc làm cụ thể để giúp đỡ những người khác, đó cũng là một hình thức chúng ta vâng lời, vâng lời tiếng lương tâm của chúng ta cũng chính là tiếng Chúa.  Ðây chỉ là một vài điều được nêu lên trong khi mỗi chúng ta có thể làm vì vâng lời, vì tiếng nói cũng là mệnh lệnh sau cùng chúng ta tuân theo là tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa.  Ðồng thời, chúng ta đáp trả lại bằng những hành động diễn tả tình yêu dưới nhiều hình thức khác nhau, để chúng ta chia sẻ với Ngài, tỏ bày tình thương và sự cảm thông của chúng ta với nỗi đau mà Ngài đã chịu vì yêu thương.  Thánh giá là dấu hiệu đánh động chúng ta nhất để chúng ta luôn nhắc nhớ mình hãy làm một điều gì đó để xoa dịu nỗi đau của Chúa Giêsu và thân thể của Người là anh chị em chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin ban ơn trợ lực để chúng con can đảm bước theo con đường Ngài đã đi.

R. Veritas

Xóa bỏ dối trá lớn để đẩy lùi dối trá nhỏ

Xóa bỏ dối trá lớn để đẩy lùi dối trá nhỏ

Nguyễn Khắc Mai

Dư luận đang quan tâm đến Báo cáo điều tra xã hội học về nhũng thói xấu của xã hội Việt hiện nay do Trần Ngọc Thêm chủ trì. Đây là một đề tài nhạy cảm, không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận, vì nó chính là những giá trị được hình thành một cách từ từ qua quá trình lịch sử do sự tác động bởi nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là hệ ý thức ngoại lai được du nhập vào Việt Nam ngoài ý muốn của người dân.

Trước hết xin trích một câu nói của K. Marx về vấn đề này: “Tệ dối trá, tệ lớn nhất, gắn liền với báo chí bị kiểm duyệt, tệ xấu căn bản này là nguồn gốc của tất cả những thiếu sót khác của nó, trong đó cả mầm mống của mỹ đức , tệ đó là nguồn gốc của tệ đáng ghét nhất – thậm chí xét theo quan điểm mỹ học cũng thế – tệ tiêu cực. Điều đó dẫn đến cái gì? Chính phủ (ở VN thì phải nói trước hết là Đảng) chỉ nghe thấy tiếng nói của chính mình, duy trì sự lừa dối và cũng đòi nhân dân phải ủng hộ sự lừa dối đó. Còn nhân dân hoặc sẽ rơi vào tình trạng mê tín chính trị, hoặc hoàn toàn quay lưng với cuộc sống quốc gia , biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư”(Marx- Engels toàn tập,T1, tr105, NXB Sự thật).

Có một nghịch lý tồn tại từ rất lâu trong việc sử dụng chủ nghĩa Marx ở Việt Nam mà cả giới lãnh đạo chóp bu cũng như hệ thống Trường Đảng đều rất hiểu nhưng không bao giờ nói ra. Đó là, một mặt, họ lợi dụng những phần không tưởng, thậm chí sai lầm nghiêm trọng trong học thuyết của Marx làm kim chỉ nam lừa bịp nhân dân, nhằm duy trì càng lâu càng tốt chế độ độc tài toàn trị; mặt khác lại phủ nhận những tư duy khoa học, nhất là những phản tỉnh trên tinh thần phục thiện vào cuối đời khi ông nhận ra những sai lầm của mình trong quá trình viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”và “Tư bản luận”.

Cho dù là “tổ sư” của Chủ nghĩa duy ý chí, nhưng cách đây gần hai trăm năm, Marx cũng đã từng cảnh báo tệ dối trá là nguồn gốc của mọi thứ tệ hại khác. Chính phủ, Đảng duy trì sự dối trá là chỉ muốn nghe tiếng nói của chính mình bất chấp mọi ý kiến phản biện của các thành phần xã hội.Và kết quả của nó là đẩy xã hội tới sự bất ổn chính trị, kinh tế khủng hoảng, văn hóa đạo đức băng hoại.

Cuối đời Marx và Engels đã đính chính lại học thuyết của mình khi họ nhiều lần khẳng định rằng không có cái gọi là lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, đó là ảo tưởng nhất thời và ấu trĩ, và, về vai trò của giai cấp công nhân trong Cách mạng vô sản chỉ là sự ngộ nhận. Hãy nghe Ph. Engels nói (Trich Lời nói đầu Cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp): “Lịch sử chứng tỏ còn làm được nhiều hơn thế, không những đã xóa bỏ mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt, chẳng có mục tiêu lớn Chủ nghĩa cộng sản gì cả. Đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Marx dề xuất lúc trẻ, nhưng vứt bỏ nó vào cuối đời”.

Còn về quyền sở hữu, thực chất là tư hữu, Marx đã phủ nhận chính học thuyết của mình: “Những nhà sản xuất (doanh nhân), chỉ trở thành tự do, một khi họ sở hữu được những phương tiện sản xuất” (đất đai, nhà xưởng, tàu thuyền, ngân hàng, tín dụng…). Thế mà các đảng Cộng sản cầm quyền, trong đó có Việt Nam lại xác quyết với dân là Marx chống tư hữu để đưa vào Hiến pháp khẳng định thể chế công hữu là chủ đạo, tìm mọi cách hạn chế quyền sở hữu của người dân nhất là về ruộng đất, đẩy đại đa số nông dân thành “vô sản” đúng với nghĩa đen của nó.

Điều thứ hai là Marx có một quan niệm hoàn toàn khác về vai trò giai cấp công nhân so với thời kỳ đầu: “Chính quyền của giai cấp công nhân sẽ được tạo dựng bằng một chế độ ủy quyền. Người ta sẽ phó thác cho một nhóm người tự mình ứng cử và bầu cử nhằm đại diện và cai trị họ. Điều ấy sẽ khiến cho họ rơi tõm ngay vào mọi sự lừa dối, và mọi sự lệ thuộc của chế độ ủy trị và tư sản. Sau một hồi ngắn ngủi tự do và say sưa cách mạng, làm công dân của một nhà nước mới, họ sẽ bừng tỉnh thấy mình là nô lệ, là con rối hoặc là con mồi cho những tham vọng mới” (ils se reveilleront esclave, jouets,ou victimes de nouveau ambitieux). Cả hai câu trên đều trich dẫn tư Marx Cuộc đời và tác phẩm của J.Eleinstein, NXB Fayard.

Khi nói về xã hội Việt Nam hiện tại, không thể không bàn tới cái gọi là chế độ Xã hội xã hội chủ nghĩa hay Chủ nghĩa cộng sản. Trước hết phải thừa nhận chủ trương công hữu tài sản là sai sai lầm nghiêm trọng, coi giai cấp công nhân là lực lượng tiên tiến lãnh đạo cách mạng, trong thực tế chính là đánh lừa họ, vô hình chung, biến họ thành con rối, con mồi cho những tham vọng chính trị của giới cầm quyền.

Chính thể CHXHCN Việt Nam hiện nay thực chất chỉ là bản sao không hoàn chỉnh của mô hình nhà nước kiểu trại lính của Stalin và phương châm “súng đẻ ra chính quyền” của Mao Trạch Đông. Những khẩu hiệu sáng loáng như “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” hay “Thể chế XHCN của chúng ta tốt đẹp gấp triệu lần tư sản”, “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”… chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, bịp bợm, mê hoặc nhân dân nhằm củng cố địa vị thống trị của một tập thể “vua lãnh đạo” mà tiểu biểu là 16 danh xưng ngồi chót vót ngôi cao nhưng thiểu năng trí tuệ, não trạng đen tối.

Từ nhũng năm 1960 cho đến trước năm1975 ở miền Bắc, rồi từ 1975 đến 1986 ở cả nước, Đảng CSVN đã quán triệt một chủ trương duy ý chí đến mức điên rồ “tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Kết quả là, không phải sức mạnh hủy diệt của B52 Mỹ như R.Nixson từng tuyên bố, mà chính đường lối sai lầm của Đảng CSVN, đã xuýt nữa “đưa đất nước Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”. Đến trước Đại hội VI, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang mấp mé bên bờ vực thẳm, người dân có nguy cơ chết đói hàng loạt, khiến ông Đảng trưởng phải buột miệng kêu lên “chúng ta phải tự cứu mình trước khi trời cứu, thì cũng là lúc Đảng nhận ra sai lầm nhưng lại đổ lỗi cho hoàn cảnh “khách quan”, đó là “tại kháng chiến chống Mỹ và thằng bao cấp(?!). Ông trùm Lenin từng cảnh báo về tác hại của thói “kiêu ngạo cộng sản” nhưng Đảng không lấy đó làm bài học sửa mình mà luôn tự vỗ ngực khoe khoang, họ bao giờ cũng đúng. Chỉ có nhân dân là sai, cho nên, khi bị dồn đến bước đường cùng, Đảng vội đẩy “thằng bao cấp” ra làm vật hy sinh.

Thật ra bao cấp chỉ là một phương thức quản lý và phân phối sản phẩm xã hội, nó được hình thành ngay từ thời kỳ phong kiến. Ngày nay, “bao cấp” được duy trì dưới nhiều hình thức khác nhau trong hầu hết các quốc gia, trong đó làm tốt nhất phải nói là các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch. Đó là những nước nằm trong hệ thống Tư bản chủ nghĩa, nhưng thực chất nội hàm của nó lại là “Chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Ở đó, an sinh xã hội cao chính là một hình thức bao cấp tuyệt vời nhất, mà với Việt Nam, có lẽ đến thế kỷ XXII vẫn chỉ là giấc mơ giữa ban ngày.

Ở châu Á , Singapore là nơi phương thức bao cấp theo Lý Quang Diệu cũng là một mô hình rất đáng cho những người Cộng sản Việt Nam học tập.

Nhưng vấn đề là, “đảng ta” không bao giờ hạ mình học tập ai bởi “Đảng là trí tuệ, là văn minh…” (Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của HCM), thì làm sao còn phải học.

Ai cũng biết nhà nước pháp quyền hiện đại đều phải dựa theo nguyên lý cơ bản “Tam quyền phân lập”, một thứ được xem là “khế ước xã hội” tiến bộ cả thế giới phải thừa nhận, Đảng không dám trắng trợn xóa bỏ nguyên lý này, bèn đánh tráo bằng mệnh đề rất chi là “thớ lợ”: “sự phân công giữa ba cơ quan quyền lực!”. Thế nhưng, đến đứa trẻ con cũng biết, sự phân công là đương nhiên giữa các cơ quan quyền lực, kể cả trong cái cơ cấu nhà nước độc tài toàn trị Cộng sản.

 

Có thể nói Đảng CSVN là bậc thầy của những chuyên gia sáng tạo “giảo ngữ”. Ví dụ, khi đưa ra “sáng kiến” “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN”, thì báo chí hé lộ một định nghĩa quá tức cười, bởi vì nó không định được gì cả, rằng “kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế có đầy đủ yếu tố thị trường theo định hướng XHCN”(xem bài tường thuật cuộc hội thảo “Nhận thức mới về kinh tế thị trường XHCN” trên báo Tuổi tr TPHCM).

Một thiết chế xã hội, trong đó những thực thể được coi là chính thống, nhưng không chính danh, lô gích nội tại không chính xác, làm sao khắc phục được sự rối loạn chuẩn mực. Một khi đã rối loạn chuẩn mực thì tất yếu dối trá sẽ lên ngôi, biến một xã hội tử tế thành xã hội lưu manh, trong đó kẻ cầm quyền là trùm lưu manh.

Đầu năm Con Dê này, ở lĩnh vực văn hóa, ngoài các tin “giật gân” như hiện tượng “cướp” trong các lễ hội đến mức ẩu đả phải vào bệnh viện mà ông Phó trưởng Ban Tuyên Huấn Thành ủy Hà Nội giải thích theo “định hướng” là “cướp có văn hóa”, tin Mạnh Vương ngự trên “ngai vàng” ở “phòng khánh tiết” tư gia, tiếp Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn (lực lượng hậu bị) thì sự kiện làm bàn dân thiên hạ “choáng” nhất là cái hôn đầy nhơt dãi mang nặng màu sắc tình dục vào má cô hoa hậu mới đăng quang của một ông Giáo sư, Anh hùng lao động, rởm. Lại nữa, ngoài đôi câu đối đầu ngô mình sở nặng mùi sex mà một vế “mượn tạm” của Lý Bạch, tặng người đẹp Kỳ Duyên, “Đương đại quốc sư” còn bị bóc mẽ khi “thuổng” trọn vẹn đôi câu đối của người khác đặt lên bàn thờ tổ tiên họ Vũ của mình.

Từ những hiện tượng không bình thường trên, ta có thể thấy nền văn hóa Việt Nam đã đến kỳ mạt vận. Trần Nhân Tông viết trong Cư trần lạc đạo: “Cùng nơi ngôn cú”, nghĩa là nơi lĩnh vực ngôn cú – lĩnh vực tư duy khoa học, nghiên cứu…phải đi đến cho tận cùng. Điều tra xã hội học để thấy rõ cái thực trạng đang diễn ra từng ngày, từng giờ trong cuộc sống. Tuy nhiên, chỉ mô tả thực trạng không đủ mà phải cứu xét đến tận cùng của nguồn gốc. Có như thế mới tìm được cách uốn nắn, điều chỉnh.

Phương Tây họ có mấy chữ bắt đầu bằng ký tự “W” để nói cả qui trình nghiên cứu. Chữ “What” là nói nội dung của thực trạng tệ giả dối. Chữ “Who” nói ai là thực thể hành xử tiêu cực, và quan trọng là “ai” đã góp phần gây nên tệ nạn. Không thể không nghĩ tời tầng lớp trí thức vốn rất bạc nhược của nước ta. Họ không phải là kẻ đầu têu, nhưng là kẻ cổ xúy rất nhiệt tình cho những tệ nạn xấu xa đó. Có thể nói, “Văn hóa Đảng” đã biến giới trí thức Việt Nam thành những kẻ bạc nhược, nhưng lại cơ hội và đầy tham vọng.

Có một “ai” nữa là hệ thống chính trị cổ hủ, lạc hậu , giáo điều. Trong cái guồng máy đầy khuyết tật ấy, 4 triệu đảng viên không thể là kẻ vô can.

Còn chữ “Why” là nói sự tìm tòi cho ra nhũng nguyên nhân khác nhau. Có nguyên nhân từ hệ ý thức, thể chế chính trị, có nguyên nhân văn hóa , đạo đức, nguyên nhân kinh tế, giáo dục, nguyên nhân tông giáo (đương nhiên là tông giáo quốc doanh). Trong lĩnh vực này, K.Marx tuy mắc không ít sai lầm , nhưng đôi lúc ông cũng có những nhận định khá chính xác về các mối quan hệ xã hội: “bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Tuy nhiên hầu hết cán bộ tuyên huấn thường quên chữ “bản chất” nên hiểu hiểu sai ý Marx. Khi những quan hệ xã hội lệch pha, rối loạn, không xác tín, nghĩa là những quan hệ dối trá, thì phẩm chất của con người sẽ thế nào có thể đoán định ra được.

Bản báo cáo không chỉ tìm nạn nhân, phải tìm thấy tội nhân và cả nhũng tác nhân trong vô vàn những dữ liệu sống.

Tôi xin trich một câu nổi tiếng về chính danh trong sách Lã Thị Xuân Thu: “Danh chính thì trị, danh mất thì loạn. Kẻ làm cho mất danh là kẻ nói, chủ trương quá mức. Nói, chủ trương quá mức, tức là biến cái có thể, cái cho phép thành cái không có thể, không cho phép:nên cái phải, biến thành cái không phải, biến cái đúng thành cái không đúng, cái sai thành cái không sai…Phàm mọi sự loạn là do hình danh không đúng vậy”.

Trước khi dừng bút xin chép tặng giới trí thức nước nhà một câu triết lý của Alcuin, mà Nietzsche rất thán phục và nhắc lại: “Thiên chức của triết học (Trí thức) là đính chính những điều thiên lệch, củng cố những điều chính nghĩa, và làm thăng hoa những điều thánh thiện”(La vẻritable vocation royale pour une philosophie: Prava corrigere,et recta corroborare et saneta sublimare). Liệu trí thức nước nhà đã thật sự “thức dậy” chưa đặng kê lại cho bằng nhũng thiên lệch, gia cố cho đủ mạnh những gì đứng đắn, và làm thăng hoa những gì là tốt đẹp?

N.K.M.

PEW: Quốc gia cộng sản Việt Nam chuộng chủ nghĩa tư bản hơn Mỹ

PEW: Quốc gia cộng sản Việt Nam chuộng chủ nghĩa tư bản hơn Mỹ

13.03.2015

Hầu hết người Việt Nam hiện nay ủng hộ chủ nghĩa tư bản, theo kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew.

Global Post ngày 13/3 dẫn kết quả cuộc nghiên cứu thực hiện cuối năm ngoái về các vấn đề kinh tế tại gần 45 quốc gia cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia thân tư bản nhất trên thế giới, với  95% người Việt trong nước yêu chuộng chủ nghĩa tư bản.

Không một nước nào trong số các quốc gia được khảo sát vượt quá tỷ lệ 90%.

Ngay cả Hoa Kỳ, nơi khái niệm xã hội chủ nghĩa có thể được dùng như một sự sỉ nhục, chỉ 70% số người được hỏi đồng ý rằng kinh tế thị trường tự do là mô hình kinh tế tốt nhất.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, nơi mà đảng cộng sản cầm quyền từng buộc hàng triệu người tham gia các nông trường tập thể, hầu hết mọi người được hỏi lại tán đồng với quan điểm này.

Sự ủng hộ chủ nghĩa tư bản của Việt Nam, theo bài phân tích, là đáng ngạc nhiên khi nhìn lại lịch sử cận đại của nước này. Việt Nam được biết đến nhiều từ cuộc chiến của Mỹ tìm cách đánh bại chủ nghĩa cộng sản và đặt chủ nghĩa tư bản thân Tây phương tại Việt Nam.

Chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây 4 thập niên đã cướp đi 2 triệu mạng sống và biến các thành phố ở Việt Nam thành các đống đổ vụn bốc khói.

Hoa Kỳ đã rải bom tại khu vực này nhiều hơn số bom đã sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế chiến để ngăn chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn lan tràn khắp Châu Á, nhưng phe cộng sản đã chiến thắng trong cuộc chiến này.

Tuy nhiên, theo thời gian, học thuyết chủ nghĩa về lao động tập thể và nhà nước thống lĩnh kinh tế hoàn toàn của những người cộng sản đã tàn lụi đến nỗi hầu như tất cả người Việt, trong đó có cả những đảng viên cộng sản, giờ đây đi theo lý tưởng chủ xướng bởi cựu thù của họ.

Cuộc khảo sát cũng đo lường kỳ vọng của người dân cho tương lai, yếu tố chủ yếu của cái gọi là ‘giấc mơ Mỹ.’

Ở lĩnh vực này cũng thế, Việt Nam cũng qua mặt Mỹ, với 94% người Việt được hỏi cho biết họ tin con em họ hôm nay sẽ khá hơn cha mẹ chúng rất nhiều.

Tại Hoa Kỳ, cứ 10 người được khảo sát thì chỉ có 3 người tin rằng tương lai con cái họ sẽ vượt trội cha mẹ chúng.

Nguồn: Global Post/ Pew Research

Sự thay đổi trong cán cân quyền lực tại Việt Nam

Sự thay đổi trong cán cân quyền lực tại Việt Nam


Nguyễn Hưng Quốc

Mới đây, trên tờ East Asia Forum ngày 5 tháng 3, Lê Hồng Hiệp, chuyên viên nghiên cứu tại Institute of Southeast Asia Studies, có một bài viết khá hay về sự thay đổi trong cán cân quyền lực trong hệ thống chính trị tại Việt Nam.

Theo Lê Hồng Hiệp, trước đây, quyền lực chính trị tại Việt Nam chủ yếu nằm trong tay một cá nhân (Hồ Chí Minh và/hoặc Lê Duẩn), sau, chuyển sang Bộ Chính trị (dưới thời các Tổng Bí thư từ Trường Chinh đến Nông Đức Mạnh), và gần đây, chuyển sang Ban Chấp hành Trung ương đảng.

Có mấy bằng chứng cho thấy sự thay đổi này: Một, vào tháng 10, 2012, khi Bộ Chính trị định kỷ luật Nguyễn Tấn Dũng vì những thất bại của ông trong lãnh vực kinh tế, Ban Chấp hành Trung ương đã bác bỏ, cuối cùng, Nguyễn Tấn Dũng được xem là vô tội. Hai, vào tháng 3, 2013, khi Nguyễn Phú Trọng đề cử Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã lại bác bỏ và, thay vào đó, bầu hai người khác, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân. Và ba, vào tháng 1, 2015, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã bỏ phiếu tín nhiệm các uỷ viên trong Bộ Chính trị. Kết quả cuộc bầu cử, cho đến nay, vẫn không được công bố chính thức, tuy nhiên, theo trang blog Chân dung Quyền lực, ở đó, Nguyễn Tấn Dũng được nhiều phiếu tín nhiệm cao nhất (152 phiếu), trên Trương Tấn Sang (149 phiếu), và cao hơn hẳn Nguyễn Phú Trọng, đứng hạng thứ 8, với 135 phiếu.

Với các sự kiện ấy, Lê Hồng Hiệp cho rằng, nếu xem cấu trúc quyền lực trong hệ thống chính trị tại Việt Nam như một hình tam giác thì ở trên cùng là Ban Chấp hành Trung ương, dưới một chút là Bộ Chính trị, và dưới nữa là Tổng Bí thư. Cấu trúc này không thể hiện xu hướng dân chủ tại Việt Nam, bởi vì, thay đổi theo cách nào, mọi quyền lực cũng đều nằm trong tay đảng Cộng sản. Tuy nhiên, nó thể hiện được cán cân quyền lực trong nội bộ đảng. Điều này đã có nhiều người nhận ra: trong lịch đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam, chưa có Tổng Bí thư nào bất lực như Nguyễn Phú Trọng, đồng thời cũng chưa có một Thủ tướng nào có nhiều quyền lực như Nguyễn Tấn Dũng.

Có thể nói, sự thay đổi đột biến trong cán cân quyền lực của Ban Chấp hành Trung ương gắn liền với sự lớn mạnh trong vai trò Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh hưởng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Ban Chấp hành Trung ương lớn hơn hẳn các ảnh hưởng của Nguyễn Phú Trọng hoặc Trương Tấn Sang. Có hai lý do chính. Thứ nhất, hầu hết các thành viên trong Ban Chấp hành Trung ương là các cán bộ lãnh đạo địa phương hoặc trong guồng máy hành chính trung ương: ở cả hai nơi, quyền bổ nhiệm cũng như quyền phân phối ngân sách đều chủ yếu nằm trong tay Nguyễn Tấn Dũng. Thứ hai, Nguyễn Tấn Dũng cũng có quan hệ chặt chẽ với cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ Công an, nơi trước đây ông từng lãnh đạo, mà hai bộ này chiếm đến 15 phần trăm tổng số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng.

Với ảnh hưởng to lớn trên Ban chấp hành Trung ương như vậy, khả năng Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư trong kỳ đại hội đảng vào năm 2016 tới không phải là xa vời hay bất khả. Nếu Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư, một trong những phó Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng hiện nay sẽ lên làm Thủ tướng. Lúc ấy, cán cân quyền lực, theo tôi, lại quay ngược lại thời trước: Tổng Bí thư sẽ có quyền lực cao nhất. Tuy nhiên, dù cao đến mấy, quyền lực của Tổng Bí thư cũng sẽ không cao bằng Hồ Chí Minh hay Lê Duẫn thời trước vì họ phải lệ thuộc vào sự ủng hộ của mấy trăm người trong Ban Chấp hành Trung ương đảng. Nhưng dù sao lúc ấy Tổng Bí thư cũng sẽ có quyền lực hơn hẳn Nguyễn Phú Trọng hiện nay.

Vấn đề là: những sự thay đổi về cán cân quyền lực cũng như cấu trúc quyền lực như vậy có lợi hay có hại cho đất nước?

Câu trả lời, theo tôi, là vừa lợi vừa hại.

Hại, trước hết, vì quyền lực của đảng trên quyền lực của Thủ tướng, tức trên bộ máy hành chánh, càng lớn, xu hướng độc tài càng có nguy cơ phát triển mạnh. Đó là những gì đã xảy ra và đã kéo dài trong nhiều thập niên dưới quyền của Lê Duẩn, ở đó, các thủ tướng, kể cả Phạm Văn Đồng, đều là những con rối trong tay Tổng Bí thư và Bộ Chính trị, chứ không có một quyền lực gì cả.

Hại nữa vì nó tiếp tục duy trì thế đứng của đảng như một thứ siêu quyền lực, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, ở đó, mọi ước mơ thay đổi và dân chủ hoá đều dễ dàng bị dập tắt.

Tuy nhiên, khi quyền lực nằm hẳn trong tay một người, và nếu người đó có óc cấp tiến, có ý muốn thay đổi theo hướng dân chủ hoá thì ý muốn ấy rất dễ biến thành hiện thực. Nó khác với tình trạng hiện nay khi quyền lực bị phân tán, người này chỉ đứng trên người kia một chút, làm bất cứ điều gì người ta cũng phải nhân nhượng và thoả hiệp với nhau, cuối cùng, không có một chính sách tiến bộ hay mạnh mẽ nào có thể thực hiện được cả.

Theo tôi, ở Việt Nam hiện nay, có hai điều cần nhất: Một là dân chủ hoá; và hai là, một nhà lãnh đạo thực sự mạnh. Không có nhà lãnh đạo mạnh, sẽ không có gì thay đổi cả.

Tuy nhiên, như đã nói, đất nước chỉ thực sự thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, nếu, và chỉ nếu, nhà lãnh đạo mạnh ấy cũng đồng thời là một người sáng suốt, có quyết tâm xây dựng đất nước và theo đuổi làn sóng dân chủ hoá. Liệu Nguyễn Tấn Dũng có phải là một người như thế?

Tấm Gương Sự Thật

Tấm Gương Sự Thật

Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn thì “Sự Thật” chiếu sáng và nói qua một tấm gương.

Khi Hoàng-hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả lời như sau: “Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay”.

Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.

Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp.  Da trắng như tuyết, môi đỏ như máu, tóc đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi.  Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.

Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữa.

Lần này, tấm gương đã trả lời: “Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng.  Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần.  Ðây là điều mà không ai chối cãi được, Bẩy Chú Lùn đã xác định điều đó”.

Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy.

Bà không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà.  Sự ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà.  Bà sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết.  Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt.  Một hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy.  Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn.  Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh.  Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó.  Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiến cho người đàn bà chết tốt.

Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.

Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy.

Nhưng chắc chắn những môn đệ của Chúa Giêsu đã có lần nghe Ngài tuyên bố: “Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống”.  Họ là những người có thể trả lời cho câu hỏi ấy.

Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người.

Cũng chính Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố: “Này là Người”.  Này là người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật về con người.  Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài qua những vết thương trên thân thể.

Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?

Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con người.  Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực của chúng ta.

Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng… hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng được tỏ lộ.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Tính đảng và bạo lực

Tính đảng và bạo lực

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-03-09

Tính đảng và bạo lực

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_600.jpg

Khai mạc lễ hội cướp Phết Hiền Quan (Tam Nông, Phú Thọ)

Courtesy of tuoitre.vn

Your browser does not support the audio element.

Một tâm linh bạo lực

Bạo lực, và… bạo lực!

Đó là hai từ tràn ngập báo chí trong những ngày Ra Giêng xuân Ất Mùi. Người ta đếm được có cả ngàn trường hợp nhập viện vì bạo lực. Người ta đánh nhau vì giành nhau những điều tưởng tượng ở các lễ hội. Bạo lực trộn lẫn với mê tính dị đoan như được nhân lên nhiều lần bằng những lời bình nhẹ như không của các quan chức, rằng đấy là văn hóa! Blogger Viêt Từ Sài Gòn mô tả những khung cảnh hỗn độn đó trong một đoạn văn súc tích sau đây

Lễ hội tâm linh do nhà nước khởi xướng càng nhiều thì con người càng trởi nên máu lạnh, tham lam, sẵn sàng đánh đập nhau, vác dao chém nhau chỉ vì một miếng giẻ rách gọi là “ấn” trong lễ hội Đền Gióng, lễ hội đến Trần… Mọi sự giằng xé, giành giật, đánh cướp được diễn ra công khai, tàn bạo ngay trước mặt cái điều gọi là thần linh.

Đây không phải là lần đầu mà câu chuyện gọi là Tâm linh trong xã hội Việt Nam đương đại đã được nói đến. Nhưng dường như mùa xuân Ất Mùi này nó đã vượt qua cái ngưỡng chịu đựng của nhiều người.

Khi quan sát các lễ hội năm nay cây bút Nguyễn Đình Bổn viết rằng Thấy dân Hà Nội nói riêng và dân Việt nói chung không muốn lao động, học tập, đấu tranh để tự nắm lấy được số phận của mình, mà thích bỏ vài trăm mua mâm lễ để giải được hạn của số phận hơn !

Blogger Nguyễn Hữu Vinh viết liền hai kỳ phóng sự mang tựa đề Lễ Hội, Tín Ngưỡng và chuyện bát nháo thời Sản mạt, trong đó ông rút ra hai điều. Điều đầu tiên là các đền chùa khắp nơi trên cả nước đã trở thành một nơi làm ăn kinh doanh, và sự kinh doanh đó đang rất khấm khá.

Điều thứ hai ông rút ra là để trả lời cho câu hỏi rằng tại sao, đảng cộng sản vốn cho mình là vô thần lại để cho không khí gọi là tâm linh bát nháo ấy tràn lan đến như vậy? Nguyễn Hữu Vinh trả lời rằng đó là một Liên minh tiêu diệt. Trong liên minh này những người cộng sản dùng mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo để xóa đi khoảng trống lòng tin trong xã hội Việt Nam đương đại, sau bao nhiêu năm của việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Và mục đích của việc lấp khoảng trống này là để mở ra một giai đoạn mới cho các lễ hội, các đình đền, các chủa chiền cũng như nhà thờ (nếu có thể “quản lý”) được tha hồ mở “hội”, miễn lôi kéo được quần chúng, ru ngủ được người dân xa rời các sự quan tâm đến những vấn đề cốt lõi của cuộc sống như Tự do tín ngưỡng, quyền con người, lãnh thổ đất đai, chế độ độc tài toàn trị, đời sống bấp bênh và xã hội nhũng lạm nặng nề bất ổn.

Ông kết luận rằng Khi một xã hội được xây dựng bằng bạo lực và lừa dối, thì mọi biến tướng của lễ, hội, tín ngưỡng theo hướng đó chỉ là sự sa đọa, suy đồi về văn hóa mà thôi.

Từ hải ngoại, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc gọi cái cảnh mà Viêt Từ Sài gòn mô tả bên trên là một thứ Văn hóa bạo động. Theo ông thì có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành nó. Đó là không có thói quen giải quyết các xung đột bằng cách thương lượng với nhau. Điều thứ hai là chẳng ai còn tin luật pháp sẽ làm tròn trách nhiệm phân xử xã hội của mình nữa.

Chỉ có một nguyên nhân

“Tính đảng” là từ mà blogger Tưởng Năng Tiến dùng trong bài viết mới trong tuần lễ đầy lễ hội và bạo lực này. Ông đau buồn trước cái thứ hạng về sự tử tế của Việt nam đang đi xuống. Ông cho rằng sự tử tế kém cỏi của người Việt chính là trách nhiệm của đám tiểu tâm, ti tiện, bạc ác của đám côn đồ đang lãnh đạo đất nước này, chứ không phải của những lương dân đất Việt.

Những lương dân đó nhà khoa học Tô Văn Trường cho là đã bị quên lãng khi mới đây một cán bộ cao cấp nào đó viết trên báo chí chính thống của đảng rằng trong các văn kiện của họ, chữ nhân dân nên viết hoa. Nhà khoa học nhìn thấy đó là một sự mỉa mai và hốt hoảng của những người tự xưng mình là đại diện của nhân dân!

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_400.jpg

Rượt đuổi để cướp phết tại lễ hội.

Tuy vậy Tưởng Năng Tiến thì lại cho rằng cái nhân dân đó phải tự hỏi là tại sao lại cam chịu những người không lương thiện hoành hành trên quê hương đất nước mình trong từng ấy thời gian mà chẳng có phản kháng nào đáng kể!

Không biết là vô tình hay hữu ý mà ngày 27 tháng 2- 2015, Hội đồng lý luận TW của đảng cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Định hướng xây dựng giá trị con người, giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.”

Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống gọi đây là một cuộc hội thảo Đèn Cù. Ý ông muốn nói rằng nó chẳng đi tới đâu vì chỉ mới động đến phần nổi của tảng băng, đánh tráo khái niệm giữa nguyên nhân và hậu quả. Đèn Cù cũng là tên một tác phẩm của nhà văn Trần Đĩnh, người từng chấp bút viết tiểu sử cho ông Hồ Chí Minh. Trong Đèn Cù Trần Đĩnh mô tả số phận con người trong chế độ cộng sản.

Ông Nguyễn Đình Cống vốn xuất thân từ một gia đình cách mạng cộng sản. Gần đây ông có nhiều bài viết nói rằng chủ nghĩa Mác Le Nin mà đảng cộng sản lấy làm ý thức hệ của mình là một tư tưởng sai lầm. Ông đã nhận được nhiều câu hỏi, thậm chí chất vấn về hành động đó. Ông viết một bài dài trên blog Bauxite Việt nam, trong đó ông giải thích nguyên nhân vì sao ông có những phê phán như vậy. Còn trong bài Hội thảo Đèn Cù mà ông viết trong cùng một tuần lễ thì ông đưa ra cái nguyên nhân ý thức hệ của những thói hư tật xấu trong xã hội hiện nay như sau:

Để làm chiến tranh cách mạng (đặc biệt là chiến tranh du kích) cần khuyến khích bạo lực, mưu mô để tiêu diệt kẻ thù. Trong đấu tranh giai cấp quá đề cao lòng thù hận và tranh đoạt vật chất mà nhẹ về đạo lý bao dung. Chuyên chính vô sản thực thi sự toàn trị, tạo ra giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, mua bán quan chức. Sự tuyên truyền về một xã hội tốt đẹp không tưởng buộc phải dùng thủ đoạn dối trá, lừa bịp. Tất cả những thứ đó và nhiều thứ khác nữa từ Chủ nghĩa Mác Lênin đã không làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn thói hư tật xấu của nền văn hóa mà còn làm nặng thêm.

Một câu chuyện khác thoạt đầu tưởng đâu chẳng có liên quan gì đến đảng cộng sản xảy ra trong tuần qua. Đó là chuyện cô người mẫu Trang Trần bị công an bắt giam với lý do là cô đã chửi bới công an. Trong sự việc đó cô lại chửi luôn đảng cộng sản.

Dư luận dấy lên làm hai luồng. Một bênh vực cho cô Trang, cho là những dồn nén vì một xã hội lộn xộn làm cho có có hành động sai quấy như thế. Bên kia thì cho là cô đáng bị bỏ tù. Những người có quan tâm đến luật pháp thì mổ xẻ đến tính hợp pháp hay không của sự bắt bớ, mức độ phạm tội tới đâu của cô Trang, v.v…  Tranh luận  dường như không thấy lối ra như lời Luật gia Trịnh Hữu Long nhận xét

Vậy nên nói gì thì nói, câu chuyện cuối cùng vẫn quay về với cái vòng kim cô chính trị mà Việt Nam đang đeo trên đầu. Có cố tình lảng tránh đến đâu, viện dẫn kiến thức bác học nào và biện minh bằng tinh thần bác ái cao đến đâu đi chăng nữa, câu trả lời cuối cùng chỉ có một. Loại bỏ Đảng ra khỏi các tranh luận pháp luật chỉ thể hiện hoặc là đánh giá không đúng mức vai trò của Đảng trong đời sống pháp luật, hoặc là cố tình lảng tránh. Tôi không hứng thú với những tranh cãi lặt vặt về luật thực định lắm, vì đó không phải cái cần nói.

Nhà báo, blogger Đoan Trang thì viết rằng Nói đến luật pháp, đến cái gọi là “nhà nước pháp quyền” ở Việt Nam mà lại không nói đến vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản thì khác nào tảng lờ một  “con voi trong phòng khách”.

Một blogger viết trên trang Tu Zo bài so sánh nước Việt nam đầu thế kỷ 21 này với nước Việt nam thời truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả thấy rằng những nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Thúc Sinh,… vẫn còn rất sống động trong xã hội Việt nam với tất cả dị tật lẫn số phận bi kịch của họ. Tác giả nhớ tới lời văn hào Nguyễn Du trước khi mất viết trong nước mắt rằng không biết ba thế kỷ sau ông có ai còn khóc ông hay không!

Tác giả kết luận:

Câu chuyện đoạn trường của ông về nàng Kiều như một thứ tiên tri định mệnh đeo đuổi đám con cháu ông làm cạn khô nước mắt vì cái vận mệnh nổi trôi dai dẵng

Nhưng đồng thời tác giả cũng hy vọng về một ngày mới, khi người Việt nam thay đổi, thay đổi nhiều thứ để có được. Chúng tôi xin mượn hy vọng đó để kết thúc bài điểm blog hôm nay.

Một ngày khác, một ngày mới không giống hôm nay và ngày hôm qua, ngày mà con cháu ông sẽ tưởng nhớ tới ông bằng những cành hoa và nụ cười thay cho giọt nước mắt và những nén nhang tàn !

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Chuacuuthe.com

VRNs (09.03.2015) -Sài Gòn- Kể từ khi khởi sự sứ vụ cách công khai, ngoài việc giảng dạy ra, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để thực hiện nhiều dấu lạ như xua trừ ma quỷ, cho kẻ què đi được, cho kẻ điếc được nghe, người mù được thấy, thậm chí cho kẻ chết sống lại. Thiết nghĩ, nếu phải chọn một câu ngắn nhất để nói về những việc Chúa đã thực hiện, có lẽ tôi sẽ chọn câu Lời Chúa trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Đi đến đâu, Chúa Giêsu thi ân giáng phúc đến đó” (Cv 10, 38).

Hẳn là Chúa Giêsu trở quê quán của Ngài cũng là để ‘thi ân giáng phúc’ cho những người đồng hương. Điều đáng tiếc là, mặc dù những người đồng hương của Chúa Giêsu rất thán phục về những lời hay ý đẹp của Ngài, nhưng họ đã để cho thái độ tự mãn của họ cản trở tâm hồn và cái nhìn của họ, khiến không chịu mở tâm hồn ra để đón nhận ân phúc từ Thiên Chúa, và không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.

Những người đồng hương đã tự mãn vì họ nghĩ rằng, họ đã biết rõ gốc gác của Chúa Giêsu (x. Lc 4, 22). Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói với họ của Ngài rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình.” (Lc 4, 24).

Hẳn là Chúa Giêsu thừa biết rằng, câu nói này của Ngài sẽ gây phản cảm và làm chạm tự ái thính giả đồng hương của ngài, Ngài có thể tránh và dùng những lời ngọt tai để lấy lòng họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói thẳng cho họ biết, để họ loại bỏ thái độ tự mãn.

Ở điểm này, chúng ta nhận thấy hành động của Chúa Giêsu là một hành động mang tính ngôn sứ. Ngài nỗ lực rao truyền Chân lý, sẳn sàng chịu ngược đãi, bách hại. Đúng như nhân gian thường nói: “Thuốc đắng giả tật, sự thật mất lòng.” Thay vì thức tỉnh trước lời dạy của Chúa Giêsu mà sửa đổi, những người đồng hương của Chúa Giêsu đã tiếp tục để cho tính “rừng rú” của họ nổi lên, họ dốc tâm hại Chúa Giêsu, nhưng ‘giờ của Ngài’ chưa đến.

Hành động của những người đồng hương với Chúa Giêsu cho thấy được mối nguy hiểm của việc hành động theo cảm tính. Nếu ta chỉ thích nghe những điều làm ta vui tai, chỉ thích làm những điều đem lại sự thỏa mãn hay ích lợi cho bản thân, mà bất chấp những điều ta nghe hay những việc ta làm có phù hợp với chân lý, với những điều Chúa dạy, như thế ta chưa sống xứng với phẩm giá của mình, mà chỉ sống theo bản năng.

Thái độ tự mãn là một thứ định kiến làm cho ta tưởng rằng mình biết rõ một vấn đề hay một lĩnh vực nào đó, khiến ta không còn nỗ lực hay hứng thú để khám phá và nhận chân ra giá trị của một thực tại nào đó.

Trong tương quan với tha nhân, thái độ tự mãn cũng cản trở ta trong việc khám phá những vẽ đẹp tiềm ẩn, những khía cạnh tích cực nơi tha nhân. Đồng thời, thái độ tự mãn có thể tạo nên định kiến tiêu cực trong cái nhìn của ta về tha nhân.

Trong cuộc sống, đôi khi ta dễ bị cám dỗ chỉ dựa vào vật chất như là tiêu chuẩn để đánh giá người khác, chỉ dừng lại ở cái nhìn hời hợt bên ngoài như cách trang điểm, quần áo, diện mạo, điện thoại, xe, dẫn đến việc trọng vọng những người giàu có, mà coi khinh những người nghèo khó. Rốt cuộc, không thấy hết vẽ đẹp trong tâm hồn của người nghèo khó, và không nhận ra sự hiện hiện của Thiên Chúa nơi họ.

Lạy Chúa, xin giúp con loại bỏ những cái nhìn tiêu cực đối với tha nhân, và giúp con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong anh chị em để con yêu thương, tôn trọng và tích cực giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin Chúa cũng giúp con biết noi gương Chúa can đảm trong việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.

Vominh

Học giả học giếc

Học giả học giếc

Nguoi-viet.com

Bùi Bảo Trúc

Mấy hôm đầu năm, ở trong nước, không ít người đã ồn hẳn lên về mấy bức ảnh chụp một người đàn ông có tuổi ôm hôn một phụ nữ trẻ khi cô cùng với gia đình đến thăm người đàn ông này tại nhà riêng của ông ta nhân dịp Tết.


Ông Vũ Khiêu và câu đối tặng cô hoa hậu. (Hình: Vietnamnet.vn)

Người đàn ông ấy mới đây đã qua được sinh nhật thứ 100, và được gọi là một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Ông cũng đã từng nắm giữ một vài chức vụ khá quan trọng khác. Chuyện thăm viếng một người như ông của một phụ nữ trẻ là một việc làm đẹp, nhất là khi cô còn rất trẻ, lại có một cuộc sống sôi động rất ít liên quan đến văn hóa: Cô là một hoa hậu mới đăng quang của Việt Nam.

Chuyện trở nên ồn ào khi nhiều ý kiến cho rằng việc ông ta ôm hôn người phụ nữ trẻ đến thăm ông là một việc không nên làm, vì việc đó không thích hợp với phong tục và tập quán của người Việt, nhất là ở cái tuổi của ông. Ông có thể cầm lấy tay cô gái, nói vài ba câu cám ơn, mừng tuổi cô là đủ. Không cần phải ôm lấy cô để hôn lên má như trong ảnh.

Đâu phải cứ thấy Hồ Chí Minh hôn môi mấy cháu nhi đồng rồi chàng cũng thừa thắng xông lên ôm hôn hoa hậu cho bõ những ngày cơ cực đâu.

Nhưng thực ra chuyện ôm hôn người phụ nữ trẻ đến chúc Tết mình cũng chỉ là một chuyện có thể bỏ qua được. Cháu ra đến ngoài cửa, lấy khăn chùi mạnh mấy cái thì hết cái hôn ấy ngay chứ gì. Xong một chuyện.

Chuyện thứ hai là học giả tặng cho cô hoa hậu một đôi câu đối (?) do chính chàng viết tay trên giấy đỏ để cả hai cùng ký tên vào cho … tình.

Trí như bạch tuyết tâm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung

Hai câu rõ ràng là bằng chữ Hán nhưng chàng viết bằng chữ quốc ngữ với cách viết để người đọc sẽ nghĩ đó là hai câu đối. Nhưng hai câu chàng tặng cô hoa hậu không phải là hai câu đối vì chúng hoàn toàn không đối nhau: TRÍ không thể đối với VÂN. BẠCH TUYẾT không đối với Y THƯỜNG. TÂM là tiếng bằng không thể đối với HOA cùng là tiếng bằng. NGỌC không thể đối với DUNG vì ý không đối.

Câu trên nghĩa là đầu óc (cô hoa hậu) thì trong trắng như tuyết, quả tim thì như ngọc. Câu dưới là thấy mây thì nghĩ là xiêm áo và nhìn hoa thì ngỡ là dung nhan của nàng.

Nhưng câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” không phải là sáng tác của chàng. Chàng vồ của Lý Bạch (*). Đó là câu đầu của bài Thanh Bình Điệu gồm 3 đoạn mà Lý Bạch viết theo đơn đặt hàng của Đường Minh Hoàng để phổ thành ca khúc hát lên khi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thưởng hoa trong cung.

Chàng, giáo sư học giả Vũ Khiêu, thấy hay quá bèn chôm luôn viết cho thành hai câu tặng người đẹp. Nham nhở hết chỗ nói.

Nếu không biết tặng cô gái trẻ cái gì thì cứ đem cả bài Thanh Bình Điệu ra đọc cho cháu nghe, rồi cà kê giảng cho cháu, khen cháu như Lý Bạch ca Dương Quí Phi cũng đã là đủ. Nhưng chàng sốt ruột quá, không biết thơ phú để làm vài câu tặng hoa hậu, bèn lôi ngay thơ Lý Bạch ra chép cạnh câu “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc” (không biết chàng mượn của ai) cho thành hai câu viết lằng nhằng giả bộ như thư pháp cho cháu phục lăn chiêng. Chàng viết láo lếu thế nào khiến cho chữ NHƯ đọc như chữ NGƯI.

Rồi chàng ký tên ở dưới và bảo cháu hoa hậu cùng ký tên ngay cạnh. Không hề có cái hoa thị kèm theo vài ba chữ chú thích nói mượn tạm một câu của Lý Bạch.

Thối không để đâu cho hết thối.

Không biết chàng học hành ấm ớ như thế nào nhưng khoe là tốt nghiệp (?) tú tài ở Hải Phòng rồi lên Hà Nội làm cu ly trong nhà thương của Pháp năm 1935. Ai cũng biết hồi ấy mà có cái bằng tú tài thì không ai đi làm lao công trong bệnh viện bao giờ. Chỉ có thứ phét lác thiếu cơ sở mới khai bố láo như thế. Rồi chàng theo cách mạng, lên rừng làm giáo sư và học giả nên mới có thứ chữ nghĩa chôm chỉa đem lòe cháu hoa hậu như khi cháu đến thăm chàng.

Chuyện thuổng thơ văn người khác thì chàng đã làm vài ba lần trước rồi chứ chuyện chôm thơ Lý Bạch nhận là của mình không phải là lần đầu. Người ta kể rằng chàng đã vồ hai câu trong đình làng An Trì thờ Ngô Quyền ở Hải Phòng có từ đầu thế kỷ thứ XIX:

Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo
Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang

Và đem nguyên văn hai câu ấy về dâng (!) lên nhà thờ tổ họ Vũ của chàng ở Mộ Trạch, Hải Dương. Chàng nhận là của chàng cho … tiện.

Nụ hôn gây “chấn động” dư luận. (Hình: Vietnamnet.vn)

Chao ôi, một giáo sư, học giả mà làm ăn như vậy hay sao. Có đạo thơ thì cũng nên chịu khó kiếm bài thơ nào ít ai biết trong mấy ngàn bài thơ Đường chứ sao lại ăn cắp ngay một câu con nít cũng biết là của Lý Bạch mà tặng hoa hậu bao giờ.

Thật là ngu hết chỗ nói. Hay là học giả ở Việt Nam thì phải như thế đấy!

Đó là chưa kể chuyện chàng từng đề nghị dùng hoa mào gà để làm biểu tượng cho nước Việt Nam. Rất may là cái đề nghị ngớ ngẩn đó của chàng đã không được hưởng ứng.

Sao lại có cái thứ học giả ngu xuẩn đến như vậy chứ !

(*)

Thanh Bình Điệu

I

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng

II

Nhất chi hồng điểm lộ ngưng hương
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang

III

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoa
Trường đắc quân vương đới tiếu khan
Giải thích xuân phong vô hạn hận
Trầm Hương đình bắc ỷ lan can

Ngô Tất Tố dịch:

I

Thoáng bóng mây hoa nhớ bóng hồng
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông

II

Hương đông móc đượm một cành hồng
Non Giáp mây mưa những cực lòng
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng?
Điểm tô nàng Yến tốn bao công

III

Sắc nước hương trời khéo sánh đôi
Quân vương nhìn ngắm những tươi cười
Sầu xuân man mác tan đầu gió
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi

Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

nguyenthituhuy

RFA

Vào thời điểm Stalin chết, ở Việt Nam có vô số sáng tác khóc thương và xiển dương nhân vật này do các văn nhân thi sĩ cộng sản chủ nghĩa viết, trong số đó nhiều câu đã trở thành “bất hủ”, vì chúng điển hình cho loại hình văn học nô dịch, điển hình cho mức độ tụng ca và dối trá thượng thặng, đặc sản của chế độ toàn trị, một hình thái chính trị chưa từng có trong lịch sử trước thế kỷ XX. Người ta vẫn sẽ còn nhắc đến những câu như: “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi Stalin” (Tố Hữu). “Đồng chí Stalin đã mất / Thế giới không cha nặng tiếng thở dài” (Chế Lan Viên)

Tôi muốn dùng đoạn thơ dưới đây của Xuân Diệu trong bài “Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin”, câu thơ in đậm là do tôi nhấn mạnh, để dẫn vào một chủ đề mà tôi sẽ trình bày trong bài này:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Mấy chữ “bát cơm miếng bánh”, mà Xuân Diệu sử dụng như một thủ pháp để nhằm ca ngợi Stalin đem lại cuộc sống no ấm cho người dân, mới thật là một sự mỉa mai đối với sự thật: Stalin bị nhân loại kết án phạm tội diệt chủng, là kẻ đã gây ra cái chết của mấy triệu người dân Ukraine trong một nạn đói được gọi là “nạn đói nhân tạo”, nạn đói được tổ chức, nghĩa là nạn đói do Stalin cố tình tạo ra, trong khoảng thời gian 1932-1933. Theo ước tính của các sử gia, có khoảng từ 2.6 đến 5 triệu người đã bị buộc phải chết trong cuộc đại thảm sát đó, họ bị buộc phải chết đói.

Vì thế, cho dù khái niệm “toàn trị” gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học xã hội, nhưng về cơ bản người ta thống nhất trong nhận định rằng Stalin và Hitler là hai lãnh tụ toàn trị, hai kẻ gây nên tội ác diệt chủng, tội ác chống lại nhân loại, và những tội ác của hai lãnh tụ toàn trị này được thực hiện gần như trong cùng một thời điểm, thời điểm đại chiến thế giới lần thứ hai.

Hai tác giả Borys Martchenko và Okexa Woropay, trong cuốn Nạn đói – Nạn diệt chủng ở Ukraine 1932-1933 (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, Publications de l’Est européen, Paris, 1983), đã mô tả cách thức tổ chức nạn đói. Họ cho biết rằng từ năm 1930, Stalin đã hoàn tất việc tập thể hóa toàn bộ tài sản nông nghiệp của nông dân ở Ukraine, toàn bộ nền xuất bản độc lập bị hủy bỏ, nhiều triệu người bị bắt trên khắp Ukraine.

Đầu 1932, chính phủ Stalin đề ra mức khổng lồ về lương thực phải giao nộp cho chính phủ, vượt quá mức thu hoạch của nông dân trong thực tế. Mùa đông 1931-1932, chính phủ trưng thu toàn bộ ngũ cốc cũng như những sản phẩm khác. Và như vậy, dĩ nhiên, người dân không còn gì để ăn. Từ mùa xuân năm 1932, nạn đói bắt đầu lan rộng, và đến hè số người chết càng ngày càng tăng lên.

Mùa thu năm đó, chính phủ ra một đạo luật nhằm cấm những người dân đói không được sử dụng ngũ cốc. Nghĩa là nạn đói được luật hóa một cách chính thức, người dân sẽ phải chết cho đúng luật. Tôi trích một đoạn trong cuốn sách của Borys Martchenko và Okexa Woropay:

“Một cuốn sách xuất bản chính thức viết về đạo luật này như sau: “Luật về bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, ban hành ngày 7 tháng 8 năm 1932, đã góp phần rất lớn trong việc củng cố chế độ nông trường tập thể. Theo quy định của luật này, các tài sản của nông trường tập thể được xếp vào hàng tài sản của Nhà nước. Tài sản của nông trường tập thể, cũng như tài sản của Nhà nước, không ai được phép xâm phạm’”( La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Và để bảo vệ “tài sản nhà nước”, những đội quân canh gác có trang bị vũ khí được thành lập, họ bắn chết không thương xót bất kỳ dám “ăn trộm” lương thực do mình làm ra nhưng mình lại không có quyền sở hữu. Nếu trẻ con ăn trộm thì bố mẹ sẽ bị kết tội. Quả là luật pháp của Stalin không để một kẽ hở nào cho người dân Ukraine được sống. Stalin đã giết người “theo quy định của luật pháp”.

Các tác giả của cuốn sách cho biết, chính phủ Stalin biết rằng cả nông dân lẫn chính quyền địa phương sẽ không giao nộp lương thực trong khi mà nhân dân đang chết đói, vì thế đã sử dụng biện pháp trưng thu cưỡng chế để thực hiện theo đúng chỉ tiêu kế hoạch mà nhà nước đề ra. Bất chấp việc lãnh đạo địa phương yêu cầu Moscou giảm kế hoạch, những đội trưng thu cưỡng chế được Nhà nước cử đến vét sạch tất cả.

“Một nhân chứng của vụ án Kravtchenko kể lại: “Năm 1932, chế độ Xô-viết ra lệnh cho tất cả các nông dân phải giao nộp đến tận hạt lúa mì cuối cùng [ở đây có cái gì giống với khẩu hiệu của Đức quốc xã về việc tiêu diệt dân Do Thái cho đến tận người cuối cùng, về cơ bản đấy đều là những cách thức hủy diệt con người –NTTH]. Sau khi nông dân đã giao hết lúa mì, những người cộng sản và bọn kẻ trộm vào trong làng, lấy đi tất cả những gì còn lại, dưa bắp cải, mỡ lá, và tiêu hủy hết. Họ đã tạo ra một nạn đói nhân tạo trong những năm 1932-1933” (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Dĩ nhiên, những người nông dân tìm cách trốn khỏi Ukraine để tự cứu mình. Nhưng chính phủ cho dựng các rào chắn khắp nơi và đuổi nông dân quay trở lại làng, nơi họ không còn gì để ăn. Những làng đói hoàn toàn bị cô lập, không y tế, không giáo dục, trẻ em không có trường học, người ốm không được chăm sóc. Hàng triệu người đã bị bỏ đói cho đến chết.

Tôi chỉ giới thiệu lại một vài chi tiết về việc Stalin đã giết người, giết hàng loạt, bằng cách bỏ đói.

Và giết nông dân chỉ là một giai đoạn trong tiến trình xây dựng quyền lực toàn trị của Stalin. Ông ta còn tiến hành nhiều cuộc thanh trừng với số lượng lớn, giết công nhân, viên chức, một nửa số nhân viên hành chính trong các lĩnh vực khác nhau bị giết, 50% đảng viên của đảng cộng sản bị thanh trừng.

Stalin, con người với tội ác chồng chất khiến cả nhân loại phải kinh hoàng, lại được ca tụng hết lời và được yêu thương tột bậc bởi các thi sĩ mà chế độ Việt Nam đương thời xếp hàng đầu:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Chữ nghĩa là gì, đối với những người làm văn chương và những người viết nói chung?

Paris, 7/3/2015

Nguyễn Thị Từ Huy