Vụ ‘dư luận viên’: Báo Việt Nam chỉ trích công an?

Vụ ‘dư luận viên’: Báo Việt Nam chỉ trích công an?

Gần một tuần sau tuyên bố của Thiếu tướng Chung, công an Hà Nội vẫn chưa thông báo đã “xác minh” được những người áo đỏ hay chưa.

Gần một tuần sau tuyên bố của Thiếu tướng Chung, công an Hà Nội vẫn chưa thông báo đã “xác minh” được những người áo đỏ hay chưa.

  • 20.03.2015

Một tờ báo ở trong nước đặt câu hỏi về việc “không bắt giữ ngay những kẻ đang gây rối trật tự công cộng” được cho là “diễn ra ngay trước mắt lực lượng công an”.

Bài viết trong chuyên mục “Vấn đề và Dư luận” của báo Nông nghiệp Việt Nam xuất hiện trên mạng hôm 19/3, hai ngày sau khi Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, Giám đốc công an Hà Nội, cho biết đang “xác minh” các thanh niên mặc áo phông đỏ có in chữ “DLV” mà ông khẳng định “không thuộc quản lý của công an thành phố”.

Tờ báo đặt câu hỏi: “Một điều khiến dư luận thắc mắc là: Hành vi ngăn cản người dân đặt hoa, thắp hương tưởng niệm 64 chiến sỹ trận Gạc Ma của nhóm người trên diễn ra ngay trước mắt lực lượng công an làm nhiệm vụ “bảo đảm an ninh trật tự” tại khu tượng đài. Mà đã biết nhóm đó không phải là người của công an và các dư luận viên, vậy tại sao công an không kịp thời bắt giữ ngay những kẻ đang gây rối trật tự công cộng đó?”

Báo Nông nghiệp Việt Nam cho rằng“hành vi của nhóm người trên rõ ràng đã cấu thành tội ‘Gây rối trật tự công cộng’, được quy định tại điều 245 Bộ luật Hình sự”.

” Một điều khiến dư luận thắc mắc là: Hành vi ngăn cản người dân đặt hoa, thắp hương tưởng niệm 64 chiến sỹ trận Gạc Ma của nhóm người trên diễn ra ngay trước mắt lực lượng công an làm nhiệm vụ “bảo đảm an ninh trật tự” tại khu tượng đài. Mà đã biết nhóm đó không phải là người của công an và các dư luận viên, vậy tại sao công an không kịp thời bắt giữ ngay những kẻ đang gây rối trật tự công cộng đó?

Báo Nông nghiệp Việt Nam viết.”

Trả lời VOA Việt Ngữ mới đây, blogger Lê Anh Hùng, người đối mặt với các thanh niên cản trở việc thắp hương tưởng nhớ các chiến sỹ hải quân Việt Nam đã ngã xuống, nhận xét rằng “những lực lượng như thế thì chắc chắn là họ được sự bật đèn xanh và được sự chỉ đạo của chính quyền”.

‘Vong ơn bội nghĩa’

Trong khi đó, Phó ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Phan Đăng Long nói với VOA Việt Ngữ rằng có thể có “một tổ chức xấu” đứng sau vụ gây rối này này.

Trước phản ứng mạnh của dư luận, ngoài báo Nông nghiệp Việt Nam, nhiều tờ báo trong nước đã chỉ trích hành động của những thanh niên bị coi là “phá đám”.

Thậm chí tờ “Giáo dục Việt Nam” gọi hành động của họ là của “những kẻ vong ơn bội nghĩa”. Tờ báo này sau đó đã đổi tít bài này, sau khi được dẫn lại nhiều trên các trang mạng xã hội.

Gần một tuần sau tuyên bố của Thiếu tướng Chung, công an Hà Nội vẫn chưa thông báo đã “xác minh” được những người áo đỏ hay chưa.

Một bạn đọc của VOA Việt Ngữ có tên Dân đen Sài Gòn viết: “Không lẽ các DLV là loài sâu này từ dưới đất chui lên? Còn các công an đứng gần đó không lẽ từ cống chui ra? Chính ông Chung nói trên báo trong nước là hôm đó ông cũng có mặt ở đó nữa mà. Vậy, các ông nói không biết các DLV này thật là không ổn rồi”.

Theo nongnghiep.vn, VOA

Hé lộ chi tiêu VP Trung ương Đảng

Hé lộ chi tiêu VP Trung ương Đảng

Văn phòng Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam chi tiêu một năm gần 100 triệu USD, theo một văn bản về công khai ngân sách của Bộ Tài Chính nước này ( xem đường dẫn)

Văn phòng Trung ương Đảng chi tiêu cao hơn hẳn trong bốn Văn phòng gồm cả Văn phòng Chính phủ, Chủ tịch Nước, Quốc hội.

Trong năm 2014, Văn phòng Trung ương Đảng có dự toán 1973 tỷ VND, tương đương 98,6 triệu USD, gấp 10 lần VP Chủ tịch Nước (195.9 tỷ).

Văn phòng Chính phủ có dự toán chi tiêu 1290 tỷ VND.

Tại Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản, số biên chế có mặt năm 2014 là 2895 người và ngoài khoản tiền lương, tiền thưởng, thông tin tuyên truyền, hội nghị, chi đoàn ra, đoàn vào, mua và đầu tư tài sản vô hình còn có nhiều khoản chi khác.

Vẫn văn bản trên của Bộ Tài Chính Việt Nam cho hay Văn phòng Trung ương Đảng năm 2014 đã “chi viện trợ Đảng Nhân dân Cách mạng Lào 14,300 triệu VND”.

Ngoài ra, bốn cơ quan đại diện ở nước ngoài của Văn phòng có dự toán 6,260 triệu đồng.

Nhiều hơn hai Đại học Quốc gia

Tác giả Nguyễn Văn Tuấn có bình luận trên một trang mạng xã hội rằng:

“Trong các ban trực thuộc trung ương đảng, có 3 ban ngốn nhiều tiền nhất: Cục quản trị A (186.9 tỉ đồng), Cục QTTV (112 tỉ đồng), và Ban Tuyên giáo (109.4 tỉ đồng).

“Ngạc nhiên là nhật báo Nhân Dân thậm chí có ngân sách còn cao hơn cả Ban Nội chính. Hội đồng Lý luận cũng ngốn tiền ngân sách gần 31 tỉ đồng năm 2014.”

Vẫn theo bình luận này, Văn phòng TW Đảng chi tiêu cao hơn hai Đại học Quốc gia cộng lại.

“Theo báo cáo 2014, Đại học Quốc gia TP HCM có dự toán là 833 tỉ đồng, cao hơn chút so với Đại học Quốc gia Hà Nội (709 tỉ đồng).

“Nhưng đó là tổng chi, trong đó chi thường xuyên thì ĐHQGHN (548 tỉ đồng) cao hơn ĐHQGHCM (400 tỉ đồng).

“Trong khi đó chỉ riêng Viện KHCN mà ngốn 877 tỉ đồng, cao hơn Viện KHXH (397.6 tỉ đồng).

“Như vậy, dự toán cho VP trung ương đảng cao hơn cả hai đại học quốc gia cộng lại”

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

dongten.net

Là một giáo sĩ Hồi giáo, Mario Joseph thành thạo kinh Koran và trong giáo lý của đạo Hồi. Thực tế, chính kinh Koran đã đưa anh đến một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và với chân lý của đức tin Công giáo. Nhưng cuộc cải đạo của anh không phải dễ dàng, và vì nó mà anh đã trải qua những cuộc bách hại khắc nghiệt Làm thế nào anh đạt được tình yêu mãnh liệt với Thiên Chúa, Giáo Hội, Thập Giá và Thiên đàng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=N-78Nwboka0

Mario Joseph

https://www.facebook.com/pages/Mario-Joseph/1524660227763417

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !

Trích EPHATA 643

1. Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà trả lời: một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn. Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều nhất là hai chữ “cám ơn”. Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc dành cho bà, cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ.

Mọi lời nói thân thiết của người khác đối với bà, mọi việc làm bình thường nhỏ nhoi dành cho bà, mọi nét mặt tươi cười hỏi thăm bà, bà đều không quên nói hai tiếng “cám ơn”. Mọi người không những không ngán đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi thương yêu bà, thường cảm thấy nếu mình không thương yêu bà hơn nữa, sẽ có lỗi với từng lời “cám ơn” của bà…

80 năm đã trôi qua, hai tiếng “cám ơn” khiến bà vui vẻ lâu dài, hạnh phúc lâu dài, mạng sống lâu dài, “cám ơn” có bao nhiêu, tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, “cám ơn” có ngần nấy.

2. Một lần đi xe buýt về nhà, trước mắt tôi có một cô bé 7,8 tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa tan học. Khi lên xe em bước không vững suýt nữa ngã. Tôi vội vàng đỡ em một tay. Vừa đứng vững em giơ tay ra hiệu, không biết em định nói gì với mình. Thấy tôi không hiểu em rất bối rối.

Ngồi được một bến, tôi sắp sửa xuống xe, cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay tôi một mẩu giấy. Tôi cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ xuống xe nhìn mẩu giấy, chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo “cám ơn, cám ơn chú !” Thì ra em bị câm điếc. Không hiểu sao trái tim tôi bỗng trào lên một tình cảm nóng bỏng không sao miêu tả nổi.

3. Ở một thành phố nọ, có cậu bé 14, 15 tuổi, vì lấy cắp một quyển sách của một hiệu sách, bị bảo vệ bắt quả tang. Bảo vệ quát mắng khiến cậu vô vùng xấu hổ. Những người khác cũng nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ. Bảo vệ cứ đòi cậu gọi bố mẹ hay thầy giáo nhà trường đến nhận người. Cậu bé sợ co dúm người, nét mặt xám ngoét. Lúc này có một phụ nữ đứng tuổi rẽ đám đông vây xem, xông vào bênh vực cậu bé đang hoảng sợ: “Đừng đối xử với trẻ em như thế. Tôi là mẹ của cháu !”

Dưới con mắt khác thường của đám đông, người phụ nữ nộp tiền phạt cho cậu và dắt cậu ra khỏi hiệu sách, khe khẽ giục: “Mau về nhà đi con, từ nay trở đi đừng bao giờ lấy trộm sách nữa !”

Mấy năm đã trôi qua. Cậu bé luôn luôn nhớ ơn người phụ nữ đứng tuổi không quen biết, luôn luôn hối hận đã không nói trước mặt bà hai tiếng cám ơn. Nếu không có bà, đường đời cậu có thể sẽ rẽ sang một lối khác. Sau khi thi đậu Đại Học, cậu sinh viên đã thề nhất định tìm ra bà. Nhưng biển người mênh mông biết tìm bà ở đâu ?

Thế là hàng năm, lợi dụng kỳ nghỉ hè nghỉ đông, ngày nào cậu cũng đến gần hiệu sách chờ nửa tiếng đồng hồ, hy vọng tìm được người phụ nữ đứng tuổi. Việc làm này hết sức mong manh, nhưng mưa gió không cản trở được cậu, cậu vẫn luôn không nao núng. Bởi vì cậu không bao giờ quên khuôn mặt hiền từ của bà.

Cứ thế, cậu sinh viên đứng chờ trong hai năm, cuối cùng đã tìm được bà, nói hai tiếng “cám ơn” ôm ấp trong lòng bấy lâu nay…

4. Có một truyền thuyết kể rằng: Có hai người cùng đi gặp Thượng Đế hỏi lối đi lên Thiên Đường. Thấy hai người đói lả, Thượng Đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn, cám ơn rối rít. Còn người kia nhận suất ăn, không hề động lòng, cứ làm như cho anh ta mới phải. Về sau, Thượng Đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên Thiên Đường. Còn người kia bị từ chối, đứng ngoài cổng.

Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng không phục: “Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói cám ơn ?” Thượng Đế trả lời: “Không phải quên. Không có lòng cám ơn, không nói ra được lời cám ơn. Người không biết cám ơn, không biết yêu người khác, cũng không được người khác yêu.

Anh chàng kia vẫn không phục: “Vậy nói thiếu mất hai chữ cám ơn cũng không thể chênh lệch đến thế ? Thượng Đế đáp: “Biết làm thế nào được, bởi vì lối lên Thiên Đường rải bằng lòng cám ơn. Cửa lên Thiên Đường chỉ có dùng lòng cám ơn mới mở được. Còn địa ngục thì khỏi cần !”

KHUYẾT DANH

EM NGƯƠI ĐÂU ?

EM NGƯƠI ĐÂU ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 643

Trong những ngày qua, tình hình xã hội chúng ta càng thêm u ám bởi nhiều vụ đánh nhau giữa các học sinh các lớp trung học, các vụ đánh nhau này nhanh chóng được đưa lên mạng xã hội gây ra nhiều băn khoăn chua xót trong dân chúng.

Có một clip nữ sinh dùng ghế đánh bạn được đăng tải trên mạng xã hội vào tháng 4 năm 2013. Vụ việc xảy ra vào đầu giờ học ở một trường Trung Học Phổ Thông thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Họ đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, chỉ có tiếng reo hò cổ vũ chứ tuyệt nhiên không có một ai can ngăn.

Ngày 1.4.2014, clip ghi lại cảnh hai nhóm học sinh đánh nhau giữa đường, thậm chí nữ sinh còn quá quyắt đến mức lột nội y của nhau.

Một nhóm nữ sinh đánh nhau trong lớp tại một trường Trung Học Cơ Sở huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, tất cả được đăng tải trên mạng xã hội vào tối 21.4.2014. Cảnh đánh nhau diễn ra trong tiếng hò reo, vỗ tay lẫn chửi thề của các bạn. Có tiếng la lớn đòi hai bạn nữ phải xé áo cô gái nạn nhân.

Clip đăng trên mạng xã hội ngày 6.10.2014 ghi lại cảnh một nữ sinh trường Trung Học Cơ Sở Bình Tấn, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, đánh bạn dã man chỉ vì “thích thì đánh, nhìn mặt thấy ghét”.

Hai nữ sinh trường Trung Học Phổ Thông Bãi Cháy và Trung Học Phổ Thông Nguyễn Bỉnh Khiêm tỉnh Quảng Ninh, gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn. Sau cãi vã trước cổng trường Bãi Cháy, nhóm này kéo đến một khu vực khác để đánh nhau, lột nội y của nhau.

Clip “Học sinh lớp 7 đánh nhau” đăng tải mới đây nhất ngày 10.3.2015. Nữ sinh nạn nhân tên P., trường Trung Học Cơ Sở Lý Tự Trọng, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Đánh em là nhóm bạn cùng lớp, cầm đầu là lớp trưởng. Trong clip, nạn nhân khóc nức nở khi bị nhóm bạn đánh tới tấp, cầm ghế nhựa đập vào đầu. Đoạn cuối ghi lại cảnh một nam sinh cầm chồng ghế nhựa ném luôn vào người nạn nhân. Không một ai ngăn cản. Xung quanh chỉ có tiếng la hét, cổ vũ. Cô bé này bị đánh đơn giản chỉ vì không nghe lời lớp trưởng ra lệnh phải đánh một bạn khác…

Trên đây là một số ghi nhận qua báo chí hoặc mạng xã hội, hẳn rằng còn nhiều vụ việc khác đã không được ghi lại hoặc không tung lên mạng.

Bài Tin Mừng ngày thứ ba tuần thứ 4 Mùa Chay theo Thánh Gioan ( Ga 5, 1 tt ) kể lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài đến Cửa Chiên, vào khu vực có cái hồ chung quanh là 5 hành lang rộng, Tin Mừng diễn tả người què quặt, đui mù, ốm đau, nằm la liệt ở các hành lang bên bờ hồ. Chúa Giêsu tiến vào giữa một nhân loại khổ đau quằn quại, Ngài không trốn chạy, không bưng tai bịt mắt, không phớt lờ vô cảm, không dửng dưng lãnh đạm, không tìm đường khác mà lánh đi. Ngài cúi xuống trên kẻ liệt lào, nói lời an ủi, tuyên bố chữa lành, phục hồi sự sống.

Chắc chắn rằng chúng ta đã được sai đến một thứ Cửa Chiên như vậy. Sứ mạng của chúng ta là phải tiếp nối điều Chúa đã thực hiện bằng chính Lời của Chúa. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” ( Ga 10, 10 ). Chúa cần chúng ta công bố Lời của Người để chữa lành chính xã hội của chúng ta hôm nay. Chúng ta không được phép tránh né, phớt lờ, dửng dưng hoặc vô cảm.

Mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, mỗi cộng đoàn của chúng ta có nhận ra ơn gọi của mình hay không ? Chỉ kêu ca hay chỉ phản kháng thì không giải quyết được vấn đề, tò mò và loan truyền thông tin chỉ làm tăng thêm kích động xã hội. Hãy dội nước Lời Chúa ngay trên căn nhà của mình khi đám cháy đã bùng lên ở nhà bên cạnh để ngăn cơn “cháy nhà” lan đến gia đình chúng ta, rồi từ nhà mình, chúng ta giúp sức cứu các nhà khác tránh khỏi đám cháy hung bạo.

Qua các thông tin hang ngày, xã hội của chúng ta đang rất nguy cấp, hơn lúc nào hết, sứ mạng người Kitô hữu thúc giục chúng ta thi hành sứ mạng chữa lành mà Chúa đã ủy thác. Đừng để câu hỏi “Em ngươi đâu ?” trở nên án phạt cho chúng ta. ( “Em người đâu ?” là một câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế được triển khai trong Sứ Điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

17.3.2015

Cảm nếm huyền nhiệm

Cảm nếm huyền nhiệm

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (21.03.2015) – Sài Gòn – Tôi có một vị thầy rất đắc lực trong nhiều năm nay. Tôi chưa bao giờ gặp ông, vì ông đến với tôi trong … một câu chuyện rất dễ thương. Ông là một rabbi sống tại một thị trấn nhỏ ở Nga hồi đầu thế kỷ trước. Và sau hai mươi năm trầm tư suy nghĩ về những vấn nạn tôn giáo sâu xa nhất, những vấn đề thuộc chiều kích tâm linh trong cuộc sống, ông cuối cùng đi đến kết luận rằng ông thực sự chẳng biết gì.

150314009

Lần nọ, ít lâu sau khi đạt tới kết luận ấy, ông rảo bước qua quảng trường thị trấn để đi đến hội đường cho buổi cầu nguyện thường lệ. Trên đường đi, ông gặp anh chàng công an khu vực. Anh công an này hôm ấy hình như có chuyện bực mình, muốn ‘xả xú bắp’ cho ông: “Ê, rabbi! Đi đâu vậy?”

“Tôi không biết.” Rabbi trả lời.

“Ông không biết ông đang đi đâu! Thế nghĩa là thế nào?” – Người công an cáu lên. Hắn tiếp tục hò hét: “Ngày nào ông cũng đi ngang qua đây lúc 11 giờ để đến hội đường cầu nguyện; bây giờ là 11 giờ, và ông vẫn đang đi ngang qua đây như mọi bữa! Thế mà ông nói với tôi rằng ông không biết ông đang đi đâu! Ông dám xem thường tôi và giỡn mặt tôi? Được, tôi sẽ dạy cho ông biết lễ độ.”

Thế là người công an tóm lấy rabbi, lôi rabbi đến trại giam địa phương. Đến cửa xà lim, rabbi quay lại nhìn anh công an và điềm nhiên nói: “Anh thấy đó, chính anh cũng không biết; chẳng riêng gì tôi!”

Thế đấy, tôi không biết. Không ai biết. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ vô cùng huyền nhiệm. Nói theo cách nói của Thomas Edison: “Chúng ta thậm chí không hiểu một phần trăm về chín mươi chín phần trăm của bất cứ sự việc gì” (We don’t even begin to understand 1 percent about ninety-nine percent of anything).

Thật không may, rất ít người nhận ra điều đó. Đa số trong chúng ta đều nghĩ rằng mình biết nhiều thứ. Chúng ta biết địa chỉ của mình, số điện thoại của mình, số căn cước của mình. Chúng ta biết đường để lái xe đến sở, chúng ta biết đường về nhà sau khi tan sở. Chúng ta biết rằng trong xe của chúng ta có một cái gì đó gọi là máy nổ – làm cho chiếc xe vận hành. Và chúng ta biết rằng khi mình mở khóa khởi động thì cái máy ấy sẽ bắt đầu làm việc. Chúng ta biết mặt trời đã mọc lên hồi sáng nay và sẽ lặn xuống chiều nay – và nó sẽ mọc lại vào sáng ngày mai. Vậy thì, có chi là quá huyền nhiệm đâu?

Tôi cũng vốn thường cảm thấy như thế. Hồi tôi còn học ở trường y, tôi thường tiếc rẻ rằng chẳng còn có biên giới nào nữa trong y học. Tất cả các bệnh lớn đều đã được khám phá và được nắm rõ; dường như rõ ràng là tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành một Jonas Salk để miệt mài làm việc đến quên ăn quên ngủ nhằm thực hiện những khám phá vĩ đại phục vụ cho nhân loại.

Ơ kìa, có vài chuyện mà chúng tôi nhận thấy rằng mình không biết đấy chứ! Vào học năm thứ nhất được vài tháng, bọn sinh viên chúng tôi tham dự một buổi thực hành do vị chủ tịch khoa thần kinh phụ trách. Sử dụng một người đàn ông gần như trần truồng làm vật mẫu trong giảng đường chen chúc sinh viên, vị chủ tịch khoa giới thiệu rành mạch cho chúng tôi thấy người đàn ông ấy đã chịu đựng một thương tổn trong tiểu não, một thương tổn khác ở mút trên cột sống, và một thương tổn khác nữa ở mút dưới. Thật hết sức ấn tượng! Nhưng khi kết thúc buổi học, một trong các bạn tôi đã giơ tay xin phát biểu và nói: “Thưa thầy, tại sao người đàn ông này phải bị những thương tổn như vậy? Có gì không ổn ở ông ta?” Vị chủ tịch khoa thần kinh khẽ nhíu trán, tuyên bố: “Bệnh nhân này bị idiopathic neuropathy.” Tất cả chúng tôi trở về phòng, lật sách giáo khoa để tra lại thuật ngữ ấy và thấy rằng idiopathic có nghĩa: “có nguyên nhân không được rõ”. Vậy, idiopathic neuropathy không có nghĩa gì hơn là một căn bệnh thuộc hệ thần kinh mà nguyên nhân của nó chưa được khám phá!

Vì thế, chúng tôi bắt đầu nhìn nhận rằng vẫn còn có những bệnh thần kinh và nhiều bệnh khác có tính idiopathic – chúng ta chưa nắm rõ – đấy chứ! Nhưng tất cả những vấn đề lớn thì đều đã được biết! Suốt những năm ở trường y, tôi thường có những thắc mắc, nhưng các giáo sư của tôi đã giải đáp tuốt tuồn tuột! Tôi không bao giờ nghe một vị giáo sư nào trong trường y nói “Tôi không biết!” Không phải lúc nào tôi cũng hiểu các câu trả lời của họ, nhưng tôi cho rằng đấy là do lỗi của mình – và một điều chắc chắn rằng với đầu óc bé nhỏ của mình, tôi sẽ chẳng bao giờ thực hiện được một khám phá y học nào đáng kể.

Nhưng khoảng 10 năm sau khi rời trường y, tôi đã có một khám phá y học đáng kể. Tôi khám phá ra rằng: Chúng ta xem ra chẳng biết gì mấy về y khoa. Tôi khám phá điều đó bởi vì tôi không còn hỏi “chúng ta biết gì?”; thay vào đó, tôi hỏi “chúng ta không biết gì?” Vừa khi đặt câu hỏi “chúng ta không biết gì?”, tôi chợt thấy tất cả những biên giới mà mình vốn tưởng đã đóng kín lại mở ra. Và tôi nhận ra rằng chúng ta đang sống trong một thế giới của những biên giới.

Tôi xin dẫn ra đây một ví dụ. Một trong những chứng bệnh được ‘nắm’ rất rõ là bệnh viêm màng não (meningococcal meningitis), một thứ bệnh không phổ biến lắm song rất hay được nhắc đến. Mỗi mùa đông, cứ 50 ngàn người thì có một người nhiễm chứng bệnh này. Nếu bạn hỏi bất cứ y sĩ nào về nguyên nhân của chứng bệnh này, y sĩ sẽ trả lời bạn: “Nguyên nhân hả? Dĩ nhiên do khuẩn màng não.” Xét trên một bình diện nào đó thì câu trả lời ấy hoàn toàn đúng, vì nếu bạn khám nghiệm tử thi những người chết do căn bệnh ghê gớm này – (số tử vong là 50%, trong khi 25% bị thương tật vĩnh viễn!) – và mở hộp sọ của họ ra, bạn sẽ thấy các màng nhầy bao bọc não bị phủ đầy những mủ. Rồi, nếu bạn xem xét những mủ ấy qua ống kính hiển vi, bạn sẽ nhìn thấy hàng tỉ tỉ con giòi đang bơi lội dày đặc. Bây giờ nếu bạn trích chúng ra, bạn sẽ thấy gì? Khuẩn màng não, dĩ nhiên!

Chỉ có một điều lấn cấn. Nếu mùa đông rồi tôi xét nghiệm cuống họng các cư dân tại thị trấn New Preston nhỏ bé của tôi ở Connecticut – hay cư dân của bất cứ một thành phố nào đó phía bắc – tôi sẽ khám phá thấy những con giòi này nơi khoảng 85% số các cuống họng mà tôi khảo sát. Tuy nhiên, không ai ở Preston đã nhiễm bệnh, càng không ai đã chết do bệnh viêm màng hồi mùa đông rồi. Bao thế hệ trước đây cũng vậy, và những thế hệ sau này chắc hẳn cũng vậy!

Bằng cách nào và tại sao loại vi trùng này – hầu như có mặt khắp mọi nơi chốn – có thể tồn tại nơi 49.999 người mà không gây sự cố gì, mà chỉ có thể đi vào trong não của một người (thường là trẻ khỏe trước đó) để gây tử vong cho người đó?

Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Điều tương tự cũng đúng với hầu như mọi thứ bệnh khác trên đời này. Chúng ta hãy lấy ví dụ về một căn bệnh nổi tiếng khác phổ biến hơn nhiều so với bệnh viêm màng não nói trên, đó là bệnh ung thư phổi. Tất cả chúng ta đều biết rằng việc hút thuốc lá gây ra bệnh ung thư phổi. Tuy nhiên có một số người không bao giờ đụng đến một điếu thuốc nhưng vẫn bị ung thư phổi và chết vì căn bệnh này. Và có một số người – như ông nội tôi – đã hút thuốc rất nhiều và hút gần như suốt cả cuộc đời 92 tuổi của cụ, nhưng cụ đã không bao giờ bị ung thư phổi. Thật rõ ràng, có một cái gì đó nữa ngoài việc hút thuốc lá có liên quan đến nguyên nhân của căn bệnh ung thư phổi. Và đó là cái gì? Một lần nữa, câu trả lời là: Chúng ta thường không biết!

Điều này xảy ra không chỉ cho hầu như mọi chứng bệnh mà còn cho cả việc điều trị các chứng bệnh nữa. Thỉnh thoảng các thân chủ mà tôi đã kê toa trị liệu hỏi tôi: “Thưa Bác Sĩ Peck, những thuốc ấy sẽ tác dụng như thế nào?” Tôi sẽ bảo họ rằng nó điều hợp sự quân bìnhcatecholamine trong hệ limbic của não họ. Và câu trả lời ấy sẽ làm cho họ ngẩn tò te, ngậm tăm luôn! Nhưng, một cách chính xác, bằng cách nào một hóa chất nào đó có thể thay thế cho sự cân bằng catecholaminetrong hệ limbic của não để làm cho một người bị suy sụp cảm thấy hưng phấn hơn, hay làm cho một người bị tâm thần phân liệt có thể suy nghĩ cách mạch lạc rõ ràng hơn? Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Bạn có thể ghi nhận rằng đã có thời các bác sĩ không biết gì nhiều lắm. Nhưng những người khác thì biết nhiều, phải không? Tôi có ý nói rằng y khoa có thể là một cái gì đó thuộc nghệ thuật, nhưng các khoa học chặt chẽ – chẳng hạn vật lý học – đã có tất cả các qui luật nghiêm ngặt của nó.

Vật lý học hiện đại có thể nói đã bắt đầu với Isaac Newton; và khi quả táo ấy rơi trên đầu ông, ông không chỉ khám phá trọng lực mà thực tế ông còn phát triển một công thức toán học cho nó. Vì thế, bây giờ mọi người đều biết rằng hai vật thể hút nhau với một lực tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Qui luật ấy xem ra thật hiển nhiên.

Nhưng tại sao? Tại sao hai vật thể hút nhau? Tại sao lại có cái lực đó? Lực đó bao gồm những gì? Và câu trả lời là: Chúng ta không biết. Công thức toán học của Newton chỉ mô tả hiện tượng, nhưng tại sao lại có hiện tượng ấy và hiện tượng ấy vận hành như thế nào? Chúng ta không biết. Trong thời đại kỹ thuật tân kỳ của chúng ta, chúng ta vẫn thậm chí không hiểu cái gì đang giữ đôi bàn chân chúng ta trên mặt đất. Vì thế, cả đối với các khoa học chặt chẽ, chúng ta cũng chưa nắm biết gì nhiều lắm.

Nhưng chắc chắn một ai đó phải biết một cái gì đó. Tôi đã nói rằng toán học rất có tính chắc chắn hiển nhiên. Các nhà toán học phải biết được sự thật. Hồi ở trường, tất cả chúng ta đều học chân lý vĩ đại rằng hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Nhưng rồi, đến khi tôi học năm thứ tư đại học, ngày nọ đang rảo bước xuống sân, tôi chợt nghe một ai đó đề cập một cái gì đó về hình học Riemann. Sau đó tôi tra cứu và phát hiện ra rằng Bernhard là một nhà toán học người Đức, hồi giữa thế kỷ 19 ông đã tự hỏi: “Nhưng nếu hai đường thẳng song song gặp nhau thì sao?” Dựa theo giả thiết rằng hai đường thẳng song song gặp nhau, và một số giả định khác mà ông tạo ra trong các định đề Euclid, ông đã phát triển một khoa hình học hoàn toàn mới. Điều đó có thể chỉ là một hoạt động thuần túy tri thức hay một hình thức chơi đùa, một loại tính toán kiểu như tính thử có thể có bao nhiêu thiên thần nhảy múa trên đầu một cây kim, nếu như nó không phục vụ cho thực tế như nhiều tính toán của Albert Einstein (chẳng hạn sự tính toán đã dẫn đến việc chế tạo ra bom nguyên tử). Tất cả chúng ta đều biết rằng bom nguyên tử đặt cơ sở không phải trên hình học Euclid nhưng là trên hình học Riemann.

Các bạn hữu nghiên cứu về toán học đã cho tôi biết rằng con số khoa hình học có khả năng phát triển được là vô hạn. Kể từ thời Riemann, chúng ta đã phát triển thêm 6 khoa hình học ứng dụng, như vậy chúng ta hiện nay có tất cả 8 khoa hình học ứng dụng khác nhau. Đâu là khoa hình học đích thực? Chúng ta không biết.

TÂM LÝ HỌC NHƯ THUẬT GIẢ KIM

Không đi quá xa với các khoa học tự nhiên chặt chẽ, tôi xin trở lại với khoa tâm lý học của mình, một khoa học mềm dẻo hơn. Một số người đã so sánh tâm lý học với thuật giả kim. Ngược về thời của thuật giả kim, thời mà các nhà khoa học cố gắng biến các kim loại thành vàng, tất cả những gì được biết về thế giới chung qui là rằng thế giới gồm bốn yếu tố: đất, khí, lửa và nước. Kể từ đó chúng ta đã khám phá ra bảng tuần hoàn của các nguyên tố (Hydro, Oxy, Carbon, vv…) Nhưng tâm lý học thì dường như vẫn còn ở trong thời tăm tối của thuật giả kim!

Chẳng hạn, phong trào giải phóng phụ nữ dựa nền tảng trên một số giả định về những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý giữa phụ nữ và nam giới. Những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý đó là gì? Bao nhiêu trong số chúng thuộc lãnh vực văn hóa hay xã hội? Bao nhiêu thuộc lãnh vực sinh học? Chúng ta không biết. Giờ đây ở cuối thế kỷ 20, chúng ta biết cách đưa mình bay lên khỏi mặt đất, nhưng chúng ta không nắm rõ mấy về tính dục.

Hay thử xét đến khuynh hướng tò mò của con người, có liên hệ rất nhiều đến chủ đề về huyền nhiệm. Phải chăng tất cả mọi người đều được sinh ra với bản tính tò mò như nhau? Hay người ta sinh ra với những mức độ tò mò khác nhau? Phải chăng tò mò là một cái gì đó đến với chúng ta theo đường di truyền? Hay nó là cái mà chúng ta đã tập làm quen khi lớn lên trong nền văn hóa của chúng ta? Nó là một cái gì đó được tọng vào cho chúng ta hay được moi ra từ chúng ta? Chúng ta không biết. Một lần nữa, ánh sáng tri thức của một ngành khoa học về khuynh hướng quan trọng bậc nhất này của con người vẫn chưa ló dạng cho chúng ta.

Hiểu biết ít ỏi như thế, vậy thì tại sao con người chúng ta vẫn nghĩ rằng mình đã biết rất nhiều? Có hai lý do: Vì chúng ta hoảng sợ và vì chúng ta lười biếng.

Chúng ta hoảng sợ không dám nghĩ rằng thật sự mình không biết mình đang làm gì hay đang đi đâu, rằng chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang dò dẫm trong bóng tối. Do đó, thật là thoải mái hơn khi sống trong một ảo tưởng rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Chúng ta cũng sống trong ảo tưởng bởi vì chúng ta lười biếng. Nếu chúng ta ý thức về sự ngu dốt của mình, chúng ta sẽ hoặc phải nghĩ rằng mình vô cùng ngu ngốc hoặc phải dấn mình vào cuộc học tập không ngừng suốt cả đời. Vì đa số chúng ta không thích nghĩ mình ngu ngốc, cũng không thích dấn mình vào cuộc học tập suốt cả đời, nên để được thoải mái hơn, chúng ta sống trong ảo tưởng thú vị rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Khổ nỗi, đấy chỉ là ảo tưởng. Nó không thực. Bạn có thể nhớ lại trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã định nghĩa sự lành mạnh tâm thần là một tiến trình không ngừng dấn thân cho thực tại bằng mọi giá. Và “bằng mọi giá” nghĩa là dù thực tại có làm ta khó chịu đến mấy đi nữa.

Hiện nay, trong nền văn hóa tránh né đau khổ của chúng ta, sự lành mạnh tâm thần không luôn luôn được khuyến khích. Khi một người nào đó bị một hụt hẫng về tâm cảm, chúng ta nói: “Ồ, anh chàng Joe tội nghiệp. Anh ta bị vỡ mộng rồi!” Đáng lẽ ra chúng ta nên nói: “Ồ, anh chàng Joe may mắn. Anh ta được vỡ mộng rồi.” Vỡ mộng là nhìn thấy mọi sự như thực tế của nó, vậy mà đáng tiếc ư? Té ra ý thức được thực tại là một điều tệ hại? Cũng thế, trong tâm lý trị liệu, khi người ta mổ xẻ sự kiện họ bị quấy rối tình dục hay bị bỏ bê hồi nhỏ, chúng ta không thể nói: “Ồ, đáng thương quá!” – bởi vì nỗi đau mà họ từng trải ấy cuối cùng đang đem lại sự lành mạnh tâm thần cho họ.

Dĩ nhiên qui luật nào cũng có những ngoại lệ. Và tôi là một nhà vô địch vĩ đại về cái mà các nhà tâm lý gọi là những “ảo tưởng lành mạnh”. Chẳng hạn, một y sĩ bị một chứng đau tim, được đưa vào khoa săn sóc đặc biệt, có lẽ có nguy cơ chết gấp hai lần so với một người không phải là y sĩ. Lý do là vì ông ấy biết tất cả những gì có thể trục trặc, trong khi một người khác sẽ nói đơn giản: “Ồ, tôi chỉ bị đau tim.” Vì thế, đôi khi ảo tưởng lại giúp cho người ta lành mạnh.

Tuy nhiên, nói chung, tôi cho rằng thật tốt cho chúng ta nếu chúng ta được xóa tan ảo tưởng. Chúng ta càng thích nghi với thực tại thì cuộc sống của chúng ta càng vận hành tốt hơn. Nhưng chúng ta chỉ có thể sống trong một thế giới thực tại khi biết cảm nếm huyền nhiệm. Vì thực tại lồ lộ nhất là: kiến thức của ta chỉ như một giọt nước giữa biển cả vô minh mênh mông, giữa đại dương của huyền nhiệm. Và sẽ rất không may khi ta sống giữa ‘biển’ mà không thích ‘nước’! Cách duy nhất để có cơ may là phải yêu mến ‘nước’, yêu mến huyền nhiệm, phải thích ngụp lặn trong nóù và bơi lội trong nó, uống nó và cảm nếm nó …

TÒ MÒ VÀ LÃNH ĐẠM

Một trong những dấu chỉ đặc trưng cho những người kém sức khỏe tâm thần nhất, những người ít trưởng thành nhất giữa chúng ta – đó là họ thiếu một cảm thức về huyền nhiệm, hay họ không có đủ tính tò mò. Điều quấy rầy tôi nhất khi tôi ghé vào một bệnh viện tâm thần không phải là sự điên khùng của các bệnh nhân, cũng không phải là sự hung dữ hay sự sợ hãi của họ, nhưng là sự lãnh đạm. Đôi khi lãnh đạm có nguyên nhân từ ma túy, nhưng một tính cách lãnh đạm khủng khiếp thường là đặc điểm cho thấy một người bị rối loạn tâm thần.

Điều gì xảy ra với những người lành mạnh khi trời bắt đầu đổ tuyết? Họ bước lại chỗ cửa sổ, nhìn ra bên ngoài và trầm trồ: “Tuyết rơi nhiều thật!”, hay: “Ồ, trời đang bão tuyết!” Nhưng trong một bệnh viện tâm thần, khi ai đó trầm trồ “Chà, tuyết bắt đầu rơi!”, thì các bệnh nhân sẽ: “Ê, đừng làm cản trở cuộc chơi bài của chúng tôi.” Thế đấy, hoàn toàn lãnh đạm!

Một hình thức khác của bệnh tâm thần là khi người ta không thể chịu đựng được huyền nhiệm thì họ tạo ra những giải thích cho những gì vốn không giải thích được. Chẳng hạn, cách đây ít năm, tôi nhận được một bức thư 8 trang rất buồn, trang đầu được viết rất rõ ràng mạch lạc, nhưng nội dung đề cập rằng người viết có một đứa con trai bị chứng ung thư lá lách. Vì vậy khi bức thư tiếp tục, chữ viết và câu cú của anh ta trở nên rối rắm hơn rất nhiều. Anh ta viết: “Bác sĩ Peck, chắc hẳn bác sĩ biết điều mà ông bà chúng ta ngày xưa đã từng biết – đó là tất cả chúng ta đều có một hồn ma đi theo không rời chúng ta, và có một yếu tố ion hóa tồn tại giữa thể xác chúng ta và hồn ma ấy – và bệnh của chúng ta là kết quả của yếu tố ion hóa này…”

Tôi không hề biết chuyện đó. Đó là một giả thuyết ly kỳ thỉnh thoảng có người nêu lên. Nhưng một giả thuyết như thế chẳng có được tí cơ sở nào. Vì thế, theo một nghĩa nào đó, người đàn ông kia đã tìm thấy một sự giải thích cho chứng ung thư lá lách của con trai mình. Có lẽ điều đó đem lại cho ông một sự dễ chịu, tháo gỡ ông ra khỏi huyền nhiệm của sự việc. Nhưng sự chắc chắn ấy của ông là một ảo tưởng không hơn không kém.

Trái lại, một trong những đặc điểm của người lành mạnh tâm thần là cảm thức bén nhạy về huyền nhiệm và sự tò mò sâu sắc. Họ ngạc nhiên về mọi sự: về các thiên hà xa xôi, về tia laser, về những con bọ ngựa, vv… Điều gì cũng khích động suy nghĩ của họ. Tuy nhiên đa số trong chúng ta rơi vào giữa hai tình trạng trên: tình trạng lành mạnh tâm thần và tình trạng điên rồ. Đối với phần đông trong chúng ta, cảm thức huyền nhiệm vẫn còn ngủ vùi.

Trong khi hành nghề của mình, tôi vốn thường nói với các thân chủ tôi rằng họ đang thuê tôi làm một hướng dẫn viên dẫn họ đi qua sa mạc vô thức. Họ đang thuê tôi không phải vì tôi đã đi qua vô thức của họ trước đây, nhưng chỉ vì tôi biết một cái gì đó về qui luật để khám phá vô thức. Trong thực hành tâm lý trị liệu, vô thức của mỗi người mỗi khác nhau. Và mỗi lúc, cuộc hành trình trở nên mỗi khác. Đó là điều thú vị cho tôi.

Để thám hiểm vô thức, người ta phải là một nhà thám hiểm. Và để trở thành một nhà thám hiểm, người ta phải có một cảm thức huyền nhiệm. Đối với Lewis và Clark, đó là huyền nhiệm của những gì nằm ở phía bên kia Appalachians. Đối với các nhà du hành vũ trụ thì đó là huyền nhiệm của không gian bên ngoài trái đất. Đối với các bệnh nhân trong tâm lý trị liệu thì đó chủ yếu là huyền nhiệm bên trong chính con người họ. Nếu trong quá trình trị liệu, tính hiếu kỳ của bệnh nhân về huyền nhiệm từ thuở bé được đánh thức dậy, và nếu bệnh nhân bắt đầu khám phá ra những ký ức bị lãng quên và khám phá ra ảnh hưởng của một số kinh nghiệm và biến cố trên cuộc đời họ, khám phá ra huyền nhiệm của các gien di truyền và tính tình của mình, di sản của mình, văn hóa của mình, các giấc mơ của mình và những ý nghĩa có thể tiềm ẩn trong các giấc mơ ấy … thì cuộc trị liệu sẽ có khả năng tiến xa. Đàng khác, nếu trong tiến trình trị liệu, những cảm thức huyền nhiệm ấy không được đánh thức, thì hành trình thám hiểm của đương sự không có cách nào tiến xa được.

Tôi sử dụng từ ‘đánh thức’ cảm thức huyền nhiệm của bệnh nhân bởi vì tôi tin – dù chúng ta chưa có ngành khoa học nào làm cơ sở cho điều này – rằng cảm thức huyền nhiệm là một cái gì đó có thể được phát triển, ít nhất nơi một số người. Có thể ví như người ta phát triển khiếu thưởng thức whiskey vậy. Đây là một cảm thức có thể được phát triển vô hạn, bởi vì bạn càng lặn ngụp trong huyền nhiệm thì huyền nhiệm càng mở ra thênh thang hơn. Bạn muốn uống huyền nhiệm bao nhiêu tùy thích. Nó hoàn toàn không gây chán ngán và hoàn toàn miễn phí, không có thuế sản xuất cũng không có thuế tiêu thụ. ‘Nghiện’ huyền nhiệm là sự nghiện ngập duy nhất mà tôi có thể nồng nhiệt khuyến khích bạn.

HUYỀN NHIỆM VÀ HÀNH TRÌNH TÂM LINH

Sống trong thế giới thực tại – đó không chỉ là mục tiêu của sự lành mạnh tâm thần. Đó cũng là mục tiêu của hành trình tâm linh nữa. Nhưng nói cho cùng, hành trình tâm linh cũng chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa thực của đời sống! Một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa đích thực!

Một trong những điều nhập nhằng về tôn giáo, đó là người ta bước vào tôn giáo vì những lý do khác nhau. Một số người được lôi cuốn vào tôn giáo để tiếp cận huyền nhiệm, trong khi cũng có những người bước vào tôn giáo để trốn thoát khỏi huyền nhiệm. Ở đây, tôi không có ý ‘gõ’ vào những người dùng tôn giáo để tránh né huyền nhiệm. Vì có những người – ở vào một điểm quặt trong cuộc phát triển tâm lý và tinh thần của mình (chẳng hạn, những người nghiện rượu bắt đầu bỏ ruợu, những người gây tội ác bắt đầu một cuộc sống lương thiện) – họ cần những niềm tin rõ ràng, họ cần những nguyên tắc để sống … Tuy nhiên, tôi muốn nhắc bạn rằng con người trưởng thành tinh thần đầy đủ thì không quá níu bám vào giáo thuyết như kiểu các nhà khoa học níu bám vào các nguyên tắc khoa học, và rằng không có cái gọi là đức tin trọn vẹn. Thực tại, giống như Thiên Chúa, là một cái gì đó chúng ta chỉ có thể tiến gần tới mà thôi (chứ không đạt tới được).

Trong khát vọng muốn hiểu thực tại, chúng ta – một cách nào đó – cũng giống như một người cố nắm hiểu cơ chế vận hành của một chiếc đồng hồ. Người ấy nhìn thấy mặt đồng hồ, thấy các kim đồng hồ đang chuyển động, thậm chí nghe cả tiếng tích tắc, nhưng người ấy không biết cách mở chiếc đồng hồ ra. Nếu anh ta có trí óc sắc sảo, anh ta có thể hình dung một hình ảnh nào đó về bộ máy vận hành để đưa tới những gì mà anh nhìn thấy được, nhưng anh ta không bao giờ dám chắc chắn rằng sự hình dung của mình là khả năng duy nhất giải thích tất cả. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh hình ảnh do mình tưởng tượng với bộ máy thực của đồng hồ – và anh ta thậm chí không thể tưởng tượng được ý nghĩa của một sự so sánh như thế.

Tác giả của những lời ấy là Albert Einstein, một người mà đa số trong chúng ta đều không ngần ngại nhìn nhận là người hiểu biết nhiều hơn bất cứ ai khác trên trái đất này – thật vậy, tên của ông đã trở thành từ đồng nghĩa với hai tiếng “thiên tài”! Thế nhưng ông đã viết rằng chúng ta có thể quan sát và nêu giả thuyết, nhưng chúng ta không bao giờ có thể biết. Thực tại là một cái gì đó chúng ta có thể tiếp cận mà không thực sự đạt đến được.

Một trong những xì căng đan mà một số người mộ đạo vướng vào, đó là họ nghĩ rằng họ có Thiên Chúa trong túi họ. Nhưng những người trưởng thành đầy đủ sẽ không nghĩ thế. Thực tại, cũng như Thiên Chúa, không phải là một cái gì chúng ta có thể sở hữu dứt khoát. Thực tại không thuộc về ta để ta chiếm hữu; trái lại, nó chiếm hữu chúng ta.

Cuộc hành trình tâm linh là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật – không khác chi khoa học cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Con người trưởng thành đầy đủ phải là một con người kiếm tìm chân lý không thua kém một nhà khoa học kiếm tìm chân lý, thậm chí còn hơn thế nữa. Và cũng như có một số người đi vào tôn giáo để trốn tránh huyền nhiệm, cũng có một số người đi vào khoa học nhằm để chạy trốn khỏi huyền nhiệm.

Tất cả chúng ta đều biết hay đều nghe về những nhà khoa học bỏ ra cả đời để nghiên cứu về sự ô-xy hóa tế bào trong mô tuyến tiền liệt của bồ câu ở pH 3,7 đến pH 3,9 – và đó là lãnh vực quan tâm của họ trong vũ trụ. Họ đã khoanh một phạm vi nhỏ cho chính mình, và đã đọc nhiều tư liệu về chủ đề ấy hơn bất cứ ai khác, vì thế kiến thức của họ về lãnh vực mà họ quan tâm thật rất đáng tin cậy, và họ cảm thấy an tâm. Nhưng để thực sự tìm kiếm sự thật, người ta không thể moi một cái hang an toàn và nấp vào trong đó. Người ta phải dò dẫm bước ra, đi vào những lãnh giới mình không biết, đi vào huyền nhiệm.

Trong nghề nghiệp của tôi, đôi khi tôi nghe các bệnh nhân nói: “Này Bác Sĩ Peck, tôi rất lúng túng.” Và tôi đáp: “Thế là tuyệt đấy.” Họ sẽ nói: “Tuyệt cái nỗi gì? Thật là tệ hại!” Tôi trả lời: “Không, không! Không tệ hại đâu. Bạn có phúc đấy.” Họ cãi: “Gì, ông nói gì hử? Thật khủng khiếp như vậy mà ông bảo là có phúc?”

Tôi sẽ giải thích: “Bạn biết đó, khi Đức Giêsu giảng bài giảng ‘để đời’ của Ngài, những tiếng đầu tiên Ngài đã thốt lên là: ‘Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó!’” Có nhiều cách để diễn dịch cụm từ ‘tinh thần nghèo khó’, nhưng trên bình diện tri thức, bản dịch tốt nhất là: “lúng túng”! Vâng, phúc cho ai bị lúng túng. Nếu bạn hỏi tại sao Đức Giêsu có thể đã có ý nói như thế, tôi sẽ chỉ ra cho bạn rằng sự lúng túng thúc đẩy người ta tìm kiếm điều sáng tỏ, và cuộc tìm kiếm ấy sẽ giúp người ta học hỏi nhiều.

Chẳng hạn, những người của thế kỷ 15 đã đi ngủ vào một buổi tối nọ năm 1492, nghĩ rằng trái đất dẹt, để rồi sáng hôm sau thức dậy họ nhận ra nó tròn. Để cho một ý tưởng chết đi và một ý tưởng mới, tốt hơn, thay chỗ, chúng ta cũng phải đi qua những giai đoạn lúng túng như thế.

Thật là không dễ chịu, đôi khi rất khổ sở khi phải ở trong những giai đoạn đó. Tuy nhiên, đó là tình trạng có phúc bởi vì khi chúng ta ở trong đó, chúng ta đang kiếm tìm những cách thế mới và tốt hơn. Chúng ta cởi mở đón nhận điều mới mẻ, chúng ta kiếm tìm, chúng ta lớn lên. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc cho những ai lúng túng.” Hầu như tất cả mọi sự dữ trên thế giới này đều được gây ra do bởi những người chắc chắn tuyệt đối rằng họ biết điều mình đang làm. Sự dữ không được gây ra do bởi những người biết mình lúng túng, những người nghèo khó trong tinh thần.

Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã nói rằng con đường nên thánh nằm ở việc chất vấn mọi sự. Hãy tìm kiếm, và bạn sẽ tìm thấy đủ sự thật để có thể bắt đầu điều hợp chúng với nhau. Bạn sẽ không bao giờ kết thúc được câu đố. Nhưng bạn sẽ có thể kết hợp lại đủ các yếu tố để bắt đầu có được cái nhìn thoáng toàn bộ bức tranh lớn và nhận ra rằng quả thực bức tranh ấy rất xinh đẹp.

Nếu tất cả cuộc sống chúng ta được bao trùm trong huyền nhiệm và chúng ta thực sự không biết mình đang đi về đâu – nếu chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang đi vật vờ trong bóng tối – thì bằng cách nào chúng ta sống còn? Tôi thấy chỉ có hai cách để trả lời câu hỏi ấy. Một là kết luận rằng Scott Peck và Albert Einstein sai lầm, và rằng chúng ta hiểu biết nhiều hơn ta tưởng. Còn cách thứ hai là kết luận rằng chúng ta được bảo vệ một cách nào đó. Và đó chính là điều mà tôi muốn kết luận ở đây. Vậy, nhân danh Chúa, sự bảo vệ ấy làm việc như thế nào? Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng sự bảo vệ ấy vận hành nhân danh Chúa.

Trong văn phòng của tôi, tôi có hình ảnh của bảy thiên thần khác nhau, trong đủ mọi tư thế. Tôi treo ảnh các thiên thần không phải bởi vì tôi đã từng thấy một ‘người’ có cánh. Nhưng khi tôi suy ngẫm về cơ chế của sự bảo vệ này, cơ chế của ân sủng – (bằng cách nào Thiên Chúa có thể dường như đếm từng sợi tóc trên đầu chúng ta?) – tôi chỉ có thể hình dung Ngài có những đạo binh thiên thần đông đúc phục vụ theo mệnh lệnh Ngài.

Tôi tin rằng một số trong những thiên thần này thực sự xuất hiện trong hình dạng con người. Phyllis Theroux đã viết một tuyển tập rất hay, mang tựa đề: “Đèn Ngủ: Những Câu Chuyện Kể Đêm Khuya Cho Các Phụ Huynh”. Một trong những bài ấy, nữ tác giả kể lại chuyện lần kia chị tham gia một cuộc thi công chức. Có bốn hay năm câu hỏi rõ ràng được soạn ra để loại trừ những kẻ điên khùng hay hoang tưởng, trong đó chị chỉ nhớ được một câu, đó là: “Bạn có nghĩ bạn là một nhân viên đặc biệt của Thiên Chúa không?”

“Tôi chợt cảm thấy lính quýnh trước câu hỏi ấy” – chị kể – “nhưng rồi tôi nghĩ đến mục đích thực tiễn của mình là nhắm đậu kỳ thi này, nghĩa là tôi phải trả lời sao để được chấm ‘đậu’, dù câu trả lời có trái với ý nghĩ của mình, thế nên cuối cùng tôi chụp lấy bút chì, và viết: ‘Không!’”

Kỳ thực, tôi cũng chia sẻ với Phyllis Theroux trong niềm tin rằng có một số nhân viên đặc biệt ở đó ở đây, bảo vệ chúng ta khi chúng ta dò dẫm bước đi trong cuộc hành trình đầy bóng tối và đầy huyền nhiệm của mình. Cách riêng, tôi thích nghĩ về điều này vào thời gian xung quanh Lễ Halloween, một lễ có tính huyền nhiệm bậc nhất trong những cử hành của Kitô giáo và tiền Kitô giáo.

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Bước tiếp (3): Sự chết

Bước tiếp (3): Sự chết

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

, Chuyên Đề

VRNs (20.03.2015) – Sài Gòn – Tôi đang đi chuyến tàu nhanh, một chuyến tàu loại ‘xịn’.

Mười lăm toa tàu mang cả ngàn hành khách,

xình xịch lao qua thảo nguyên, lướt vào sương mù, băng ngang bóng tối….

(Rồi đây, những toa tàu này sẽ rệu rã.

Và những hành khách này sẽ tiêu ma.)

Tôi hỏi anh chàng ngồi bên: “Bạn đi về đâu?”

Anh ta trả lời: “Omaha.”

150314009

Carl Sandburg đã viết những giòng như thế trong bài thơ mang tên “Hữu Hạn” (Limited). Rõ ràng ông đang nói rất cô đọng về sự chết, một đề tài mà người ta thường hay lãng tránh. Nhưng riêng phần mình, tôi đã say mê sự chết từ rất lâu rồi. Có thể nói rằng tôi bị ám ảnh bởi sự chết ngay từ khi còn là một thiếu niên, nhưng dĩ nhiên tôi không phải là một kẻ có khuynh hướng tự tử đâu! Đúng hơn, sự trằn trọc này nơi tôi là một phản ứng lại đối với môi trường mà tôi đã lớn lên. Ngôi nhà tôi trải qua thời niên thiếu là một nơi mà những cái nông cạn, hời hợt bên ngoài – chẳng hạn, ăn món này bằng cái nĩa nào – lại được xem là chuyện rất quan trọng!

Cách đây ít năm, có xuất hiện một ‘mốt’: người ta tặng quà ngồ ngộ cho nhau nhân dịp Lễ Giáng Sinh. Tôi đã mua tặng nhà tôi một chiếc tạp dề có hình con vịt trời to tướng, phía trên in giòng chữ lớn: BEFORE TRUTH THE RIGHT FORK (6). Tuổi thơ của tôi cũng y như thế. “Áo quần làm ra con người”, bố mẹ tôi thường xuyên nhắc nhở tôi điều đó. Nhưng ảo tưởng ấy làm sao bền được? Vì chẳng chóng thì chầy, tôi cũng sẽ gặp một tay nào đó vừa rất đần độn vừa ăn mặc rất ‘kẻng’!

Vì thế, ngay từ thuở nhỏ, có lẽ xuất phát từ tinh thần phản loạn, tôi đã tự nhủ mình: “Hãy dẹp phứt những thứ rác rưởi ấy đi. Có gì thật sự quan trọng trong đó đâu!” Tôi bắt đầu phát triển một thói quen nhìn xuyên qua bề mặt của sự vật, nhìn thấu vào bên trong mọi sự. Thói quen này đã trở nên rất hữu ích cho tôi từ đó. Và khi tôi tự hỏi điều gì là quan trọng nhất liên quan đến cuộc hiện sinh con người, câu trả lời đầu tiên đến với đầu óc tôi là: Cuộc sống con người là một cái gì rất hữu hạn, tất cả chúng ta đều đang đi đến cái chết. Thế là tôi ‘bén duyên’ với sự chết kể từ đó.

Lớn lên, tôi mới sực hiểu ra rằng sự chết không phải là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con người – mà có lẽ nó là điều quan trọng thứ hai. Và một phần của tiến trình lớn lên là nhìn nhận rằng tất cả chúng ta đều sẽ chết, tất cả chúng ta đều “sẽ rệu rã”, đều “sẽ tiêu ma”!

Nhận ra tính hữu hạn của đời sống, nhiều người trong chúng ta hóa nên trăn trở với một cảm thức về sự vô nghĩa. Tất cả chúng ta đều sẽ đến lúc bị luỡi hái định mệnh cắt phăng đi không thương tiếc. Vậy liệu cuộc sống ngắn ngủi này có ý nghĩa gì? Cứ cho là trong vài thế hệ tới, ít là một số con cháu cũng còn chút ký ức nào đó về chúng ta; nhưng liệu một trăm năm, hai trăm năm nữa, có còn ai nhớ đến chúng ta không?

Bạn có biết bài thơ nổi tiếng mang tựa đề Ozymandias của Shelley không? Trong bài thơ này, ông mô tả vết tích còn lại của một pho tượng trong sa mạc. Trên mặt đế tượng, người ta đọc thấy giòng chữ: Tôi là Ozymandias, Vua của các vua. Hỡi Đấng Toàn Năng, hãy chiêm ngắm các công trình của tôi, và hãy ghen tị!

Thế nhưng, tất cả những gì còn sót lại của pho tượng ấy chỉ là … cái đế tượng: Hai khúc chân cụt to đùng bằng đá, đứng trơ vơ; còn cái đầu thì đã vỡ tan tành tự đời nào, chỉ còn một mảnh lấp vùi trong cát. Chẳng ai biết Ozymandias là ai!

Vậy đó, ngay cả dù bạn thuộc số ít vĩ nhân để lại dấu ấn của mình trong lịch sử nhân loại, thì khi các thế kỷ qua đi, những dấu ấn ấy cũng sẽ nhạt nhòa, tan biến mất.

Cuộc đời là một bóng tối đang lê bước. Nó là một câu chuyện được kể lại bởi một gã khù khờ, đầy âm thanh và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì.” Nhân vật Macbeth của Shakespeare đã chua xót thốt lên như thế.

NỖI SỢ CHẾT

Cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì – và cho dù nó có ý nghĩa gì, thì chính cái chết sẽ quét sạch mọi ý nghĩa của nó! Thật vậy chăng? Có thật cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa?

Tôi không tin như thế. Sự chết không phải là cái gì bi thảm như ta nghĩ. Sự chết không tước đoạt ý nghĩa mà trái lại còn trao ban ý nghĩa.

Hơn bất cứ gì khác, ‘duyên nợ’ của tôi với sự chết đã giúp tôi có một cảm thức về ý nghĩa của cuộc sống này. Sự chết là một người tình kiều diễm. Nếu bạn bị giày vò bởi một cảm thức vô nghĩa hay chán chường thì tôi không thể khuyên bạn điều gì tốt hơn là hãy bắt đầu đi vào trong một cảm thức nghiêm túc với hồi kết thúc cuộc hiện sinh này của bạn. Như bất cứ cuộc tình tuyệt diệu nào, sự chết mang đầy huyền nhiệm và đó là nơi bắt nguồn rất nhiều niềm nôn nao rạo rực của chúng ta. Vì khi bạn vật lộn với mầu nhiệm sự chết của mình, bạn sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống mà mình đang sống.

Dĩ nhiên phần đông người ta không mặn mấy với chuyện thao thức về sự chết của mình. Thậm chí họ không muốn nghĩ về điều đó. Họ muốn đào thải nó ra khỏi ý thức của họ. Vì vậy, tựa đề “Hữu Hạn” của Sandburg không chỉ nói về chuyến tàu kia mà còn mang ý nghĩa rộng hơn nhiều. Cuộc đời người ta bị giới hạn; và kẻ nói rằng mình sắp đi Omaha cũng bị giới hạn trong nhận thức về bến đỗ thực sự của anh ta là sự chết.

Một số người không bị giới hạn đến như vậy – như rất nhiều nhà văn và nhà tư tưởng lớn – chẳng bao lâu sẽ trở thành thích thú với sự chết. Albert Schweitzer viết:

Tất cả chúng ta, nếu muốn trở nên những con người tốt đích thực, đều phải làm quen với ý tưởng về sự chết. Đành rằng chúng ta không cần trăn trở về nó hằng ngày hay hằng giờ. Nhưng khi cuộc sống đưa bạn tới một cơ hội thích hợp nào đó – lúc mà khung cảnh chung quanh bạn nhạt nhòa đi và bạn chiêm nghiệm chính viễn ảnh cuối cùng, thì bạn đừng nhắm mắt vô tình bỏ qua. Bạn hãy dừng lại chốc lát, nhìn viễn ảnh ấy, rồi tiếp tục sống. Nghĩ về sự chết theo cách này sẽ đem lại cho chúng ta tình yêu đối với sự sống. Khi chúng ta quen thuộc với sự chết, chúng ta sẽ đón nhận mỗi tuần, mỗi ngày của cuộc sống mình như một hồng ân. Chỉ khi nào chúng ta có khả năng đón nhận đời sống như vậy, thì đời sống mới trở thành một cái gì quí giá đối với mình.”

Thông thường, người ta không ‘quen’ được với sự chết như vậy. Trong nghề nghiệp trị liệu tâm lý của tôi, tôi đã phải đẩy ít nhất một nửa số thân chủ của mình tới đối diện với thực tại sự chết của họ. Thực vậy, chính sự ngần ngại của người ta trong việc này xem ra là một phần của bệnh trạng nơi họ. Họ cảm thấy đời sống mình thật chán chường và khủng khiếp. Họ lảng tránh không thăm viếng bạn bè trong bệnh viện, họ lật nhanh qua các trang cáo phó trong tờ báo, họ ‘quên’ viết thư phân ưu … Và ban đêm, họ thường bất chợt thức dậy, mồ hôi ướt đẫm, mơ thấy mình chới với chết đuối …

Nếu tôi không giúp họ phá vỡ những giới hạn mà mà họ tự áp đặt cho ý thức mình như vậy, thì không thể có sự chữa lành hoàn toàn. Chúng ta không thể sống với đầy can đảm và tự tin trừ phi chúng ta có một mối quan hệ với sự chết của chính mình. Thật vậy, chúng ta không thể sống trọn vẹn nếu không có một cái gì đó để chúng ta sẵn sàng chết cho nó.

Những giới hạn này trong ý thức con người đôi khi có thể làm cho con người trở nên rất khiếp nhược. Hồi tôi mới hành nghề trị liệu, một thân chủ đến gặp tôi trong trạng thái hốt hoảng cao độ – số là trước đó ba ngày, người anh vợ của anh ta đã tự sát bằng một phát súng bắn vào đầu. Anh ta kinh hãi đến độ không thể đi đến văn phòng tôi một mình. Vợ anh phải cầm tay anh dẫn đi. Anh ngồi xuống và bắt đầu nói trong hơi thở hổn hển: “Thưa bác sĩ… Anh vợ tôi… Anh ấy bắn vào đầu… Anh ấy có khẩu súng ngắn… Ôi, ghê quá! Chỉ một phát đạn thôi… Anh ấy đã chết. Ôi, nếu tôi có một khẩu súng… Ồ không, tôi không có… Nhưng nếu tôi có súng và muốn tự sát, thì cũng chỉ đơn giản vậy thôi… Chỉ cần đặt ngón tay, nhấn cò … và gục xuống …!”

Tôi lắng nghe anh ta, và nhận ra rằng cái đã làm anh ta hốt hoảng không phải là nỗi thương tiếc về cái chết của người anh vợ, mà đúng hơn bởi vì biến cố này đã đẩy anh tới đối mặt với chính sự chết của mình. Và tôi đã giải thích cho anh ta điều đó.

Ngay lập tức, thân chủ của tôi phản đối: “Không. Tôi không sợ chết!”

Chính lúc ấy, vợ anh xen vào. Chị nói: “Này, anh yêu! Có lẽ anh nên kể cho bác sĩ nghe về chuyện anh ngại gặp các xe tang và các nhà táng đi.”

Thế là anh ta bắt đầu giải thích cho tôi rằng anh có một nỗi ám ảnh về các xe tang, nhà táng và tất cả những gì liên quan đến chết chóc. Thực vậy, được biết nỗi ám ảnh ấy lớn đến nỗi mỗi buổi sáng khi đi bộ đến chỗ làm và mỗi chiều khi trở về nhà từ sở, anh phải đi vòng một lối khác xa hơn ba khối phố – nghĩa là anh phải đi thêm sáu khối phố mỗi ngày – chỉ để tránh đi qua một cơ sở dịch vụ mai táng. Cũng vậy, bất cứ khi nào trông thấy một xe tang từ đằng xa, anh liền tức khắc tránh đi, chẳng hạn, anh lủi nhanh vào một nhà hay một cửa hiệu nào đó!

“Bạn thực sự có một nỗi sợ chết”, tôi nói với anh ta. Nhưng anh ta tiếp tục chối bai bải: “Không, không, không. Tôi không sợ chết. Đấy chỉ vì những xe tang và những nhà táng ấy tởm gớm làm tôi khó chịu.”

Xét về khía cạnh động lực tâm lý, các nỗi ám ảnh thường bắt nguồn từ một cơ chế gọi là chuyển đổi (displacement). Người đàn ông này sợ chết đến nỗi anh ta thậm chí không thể đối mặt với chính nỗi sợ ấy của mình – và do đó anh ta chuyển đổi nỗi sợ ấy thành những chiếc xe tang và những cơ sở nhà táng.

Việc tôi thường dùng các bệnh nhân tâm thần của tôi làm ví dụ dễ khiến bạn tưởng rằng họ nhút nhát và khiếp sợ hơn đa số chúng ta. Nhưng không phải vậy đâu. Những người đến với tâm lý trị liệu là những người khôn ngoan và can đảm nhất trong tất cả chúng ta đó. Mọi người chúng ta đều có vấn đề, nhưng chúng ta thường cố giả vờ như các vấn đề đó không tồn tại, hoặc cách này hay cách khác chúng ta quay lưng lại và phớt lơ các vấn đề ấy. Chỉ những người có đủ khôn ngoan và dũng cảm mới sẵn lòng dấn mình vào trong tiến trình khó khăn của việc khảo sát chính mình – loại tiến trình diễn ra trong văn phòng của các bác sĩ tâm thần.

Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta sống trong một nền văn hóa nhút nhát, phủ nhận sự chết. Một nữ đồng nghiệp tôi đã nói với tôi rằng lần nọ trong thị trấn của chị, sau khi một học sinh trung học chết vì bệnh bạch cầu và một học sinh khác chết vì tai nạn xe hơi, thì người ta ở đó – cả trẻ lẫn già – đã kiến nghị vị hiệu trưởng đưa vào chương trình giảng dạy một khóa học đặc biệt, không có tín chỉ, nói về sự chết và tình trạng hấp hối. Một mục sư thậm chí xung phong bảo trợ khóa ấy và tìm giáo viên giảng dạy miễn phí; như vậy, khóa học sẽ không đòi bất cứ ai trả bất cứ đồng nào.

Nhưng mọi khóa mới trong trường đều phải được phê duyệt bởi hội đồng nhà trường. Hội đồng này đã biểu quyết 9/10 chống lại việc mở khóa học này, giải thích rằng nó có vẻ không lành mạnh. Khoảng ba mươi hay bốn mươi người đã viết thư gửi cho báo chí để phản kháng sự phủ quyết của hội đồng trường, và một biên tập viên của một tờ báo đã viết bài xã luận về vấn đề này. Đã có đủ cơ sở và áp lực dư luận để yêu cầu nhà trường xem xét lại quyết định của họ. Hội đồng nhà trường lại nhóm họp và – một lần nữa – đi đến biểu quyết 9/10 phiếu chống lại việc mở khóa học.

Theo tôi, không phải là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên – như đồng nghiệp tôi ghi nhận – rằng những người viết thư cho tờ báo, người biên tập viên viết bài xã luận kia và người thành viên duy nhất trong hội đồng trường ủng hộ khóa học đều là những người hoặc đang hay đã từng nhận sự trị liệu tâm lý. Như tôi xác nhận trên kia, các bệnh nhân tâm thần không hề nhút nhát hơn số đông người còn lại. Trái lại, có thể nói họ can đảm hơn rất nhiều người khác.

CHỌN KHI NÀO ĐỂ CHẾT

Trong nền văn hóa phi bác sự chết của chúng ta, sự chết được xem như một tai nạn, như một cái gì  ập tới húc vào chúng ta mà không hề có một lý do gì, cũng không hề chịu sự kiểm soát nào của chúng ta. Sự chết là một cái gì thê thảm, nó như một cái vòng luẩn quẩn tóm lấy chúng ta. Cũng vì quá sợ chết, chúng ta không dám đến gần sát nó để nhận ra rằng nó chẳng đáng sợ đến mức như mình tưởng.

Nền văn hóa của chúng ta nhìn cái chết như một tai nạn phi lý. Và đây là cái nhìn hoàn toàn sai lầm. Thực vậy, đa số trong chúng ta đều muốn chọn thời điểm, chọn nơi chốn và chọn cách thế để chết. Điều đó thoạt nghe có vẻ ‘sốc’, nhưng thực sự là thế. Phần đông chúng ta – mức nào đó – đều muốn thực hiện sự chọn lựa này. Ở đây tôi không có ý nói về những vụ tự tử. Tôi không có ý nói đến những tay nghiện ngập tiếp tục nghiện ngập cho đến chết. Tôi cũng không có ý nói đến tất cả những tình trạng thần kinh loạn thông thường mà mọi người đều biết. Ở đây tôi nhằm nói đến những rối loạn y học như các chứng bệnh về tim và ung thư, và có chứng cứ khoa học hậu thuẫn cho quan điểm của tôi.

Cách đây khoảng ba chục năm, mỗi khi có ca phẫu thuật tim mở ngỏ (7) – dĩ nhiên hồi đó nguy hiểm hơn bây giờ nhiều – mọi người đều hồi hộp và xôn xao bàn tán không biết bệnh nhân sẽ sống hay chết. Và đây là thực tế được ghi nhận: Những người tiên đoán giỏi nhất về kết quả của các ca mổ tim mở ngỏ không phải là chính các bác sĩ phẫu thuật, cũng không phải là các chuyên gia tim mạch, mà lại là các bác sĩ tâm thần! Đã xảy ra một cuộc nghiên cứu – trong đó các bác sĩ tâm thần phỏng vấn các bệnh nhân sắp sửa được mổ tim. Dựa vào các câu trả lời của họ, các bác sĩ tâm thần phân họ thành ba nhóm khác nhau: nhóm nguy hiểm cao, nhóm nguy hiểm vừa, và nhóm nguy hiểm thấp. Nhóm nguy hiểm thấp bao gồm những người khi được yêu cầu nói về cuộc giải phẫu của mình, đã trả lời đại loại như: “À, ông biết đó, ca mổ được dự kiến sẽ diễn ra vào thứ sáu tới, và tôi thực sự lo sợ. Nhưng, đã tám năm rồi, bệnh trạng của tôi không cho phép tôi làm được việc gì cả. Chơi đánh gôn cũng chẳng được! Lại thường xuyên khó thở! Bác sĩ của tôi cho tôi biết rằng nếu sống được qua ca mổ và qua được giai đoạn hậu phẫu, thì chỉ cần sáu tuần là tôi có thể trở lại sân gôn! Chà, như vậy đó sẽ là ngày 1 tháng 9 tới! Tôi đã lên chương trình cho mình rồi đấy. Nào, tôi sẽ có mặt ở sân vào đúng tám giờ sáng, lúc ấy cỏ vẫn còn đẫm hơi sương. Tôi sẽ …., tôi sẽ …”

Còn nhóm nguy hiểm cao sẽ trả lời tương tự như câu trả lời sau đây của một phụ nữ: “Hở, cuộc phẫu thuật thì sao hở?” Vị bác sĩ tâm thần nhắc lại câu hỏi, rõ ràng hơn: “Xin cho biết tại sao chị nhận phẫu thuật? Tại sao chị cần điều đó?” Người phụ nữ đáp: “Bác sĩ của tôi bảo với tôi như vậy.”

“Chị có kỳ vọng sẽ làm được gì sau khi được giải phẫu không?”

“Tôi chưa tính đến chuyện đó.”

“Chị rất khó thở và chị đã không thể đi mua sắm trong tám năm nay. Chị có mong mình sẽ có thể đi mua sắm trở lại không?

“Ồ, tôi không hề mong điều đó. Tôi rất khiếp sợ việc lái xe từ nhiều năm nay rồi.”

Nếu tôi nhớ không lầm thì cuộc nghiên cứu trên cho thấy rằng 40% số bệnh nhân thuộc nhóm nguy hiểm cao đã chết, con số tương ứng phía nhóm nguy hiểm thấp là 2%. Cùng một chứng bệnh tim, cùng những nhà phẫu thuật tim, cùng những ca mổ như nhau, nhưng tỉ lệ tử vong thì chênh lệch nhau đến hai mươi lần – và sự chênh lệch này, có thể nói, đã được dự báo ngay trước khi tiến hành phẫu thuật!

Một nghiên cứu với những kết quả gây sửng sốt đã được tiến hành bởi David Siegel, một bác sĩ tâm thần tại Standford University. Siegel đã nghiên cứu hai nhóm phụ nữ bị ung thư di căn. Nhóm thứ nhất được cung ứng sự săn sóc y khoa đúng qui cách; nhóm thứ hai cũng được săn sóc đúng qui cách, song thêm vào đó còn được yêu cầu trải qua tâm lý trị liệu. Không mấy ngạc nhiên khi kết quả là nhóm thứ hai ít phàn nàn hơn, ít trầm uất hơn và ít đau đớn hơn – nhưng điều lạ lùng là chỉ có ba trong số các phụ nữ này đã chết. Và Siegel nhận ra rằng những người nhận trị liệu tâm lý đã sống lâu gấp đôi so với những người thuộc nhóm kia.

NHỮNG SỰ CHỮA TRỊ “THẦN DIỆU”

Đã hàng bao thế kỷ nay, các bác sĩ biết rằng rất họa hiếm chuyện hồi phục đột xuất từ bệnh ung thư. Song bạn vẫn có thể nghe nói đến những trường hợp trong đó các bác sĩ mổ một bệnh nhân và nói: “Chúng tôi đã mổ anh ta, và chúng tôi … bó tay! Chẳng còn có thể cứu vãn gì được nữa. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là khâu vết mổ lại. Anh ta may lắm thì sống được sáu tháng nữa.” Nhưng rồi, năm, mười năm sau, bệnh nhân ấy vẫn còn sống phây phây mà không hề có dấu vết gì của ung thư cả.

Bạn có thể nghĩ rằng các y sĩ sẽ hết sức ngạc nhiên với những trường hợp hi hữu này, và chắc hẳn đã tiến hành điều tra nghiên cứu tường tận sự việc. Không có như vậy đâu. Trong rất nhiều năm, các bác sĩ vẫn khư khư rằng một điều như thế không thể xảy ra được. Chỉ mới mười lăm năm trở lại đây, các nghiên cứu mới được chính thức tiến hành. Còn quá sớm để có được toàn bộ con số thống kê – nghĩa là, những con số hoàn toàn dựa theo các tiêu chuẩn khoa học – nhưng có những bằng chứng cho thấy một trong những điểm chung của các trường hợp hiếm hoi ấy là các bệnh nhân đều tỏ ra có những thay đổi rất sâu xa trong cuộc sống của họ. Một khi được báo cho biết họ chỉ còn sống được một năm nữa, họ tự nhủ: “Chà, chỉ còn có một năm nữa! Vậy tội gì mà mình phải tiếp tục ngày hai buổi đến làm cho công ty IBM ấy. Tốt hơn là mình nên sửa chữa và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà – đó là điều bấy lâu nay mình vẫn muốn làm mà rồi cứ khất lần khất lữa mãi.” Hoặc: “Ồ, nếu mình chỉ còn có một năm để sống, thật là điên khùng nếu mình cứ tiếp tục sống với anh chồng vũ phu ấy của mình.” Rồi, sau khi họ quyết định thực hiện những thay đổi như vậy, căn bệnh ung thư của họ biến đi mất!

Hiện tượng này gây ngạc nhiên cho một số nhà nghiên cứu ở UCLA. Người ta quyết định điều tra phải chăng một cuộc đổi đời có thể là một liệu pháp. Nhưng vấn đề khó khăn là phải tìm được những bệnh nhân sẵn lòng thử cách này. Thường thì một bác sĩ tâm thần sẽ đến gặp một ai đó được chẩn đoán mắc căn bệnh ung thư không thể chữa, và nói: “Chúng tôi có lý do để tin rằng nếu bạn sẵn sàng nhận tâm lý trị liệu và khảo sát lại đời sống của bạn để làm một số thay đổi căn bản, thì bạn sẽ có thể kéo dài đời sống của bạn lâu hơn.”

Ngay lập tức, bệnh nhân sẽ nhảy cẫng lên: “Ồ, thưa bác sĩ, ngài là người đầu tiên đem lại cho tôi chút hy vọng.”

Vị bác sĩ tâm thần đề nghị: “Một số bệnh nhân giống như bạn sẽ làm việc với chúng tôi tại phòng 4, sáng ngày mai vào lúc 10 giờ. Bạn có muốn đến và trao đổi về điều này không?”

“Ồ,vâng. Thưa bác sĩ, chắc chắn tôi sẽ đến.”

Nhưng sáng hôm sau, lúc 10 giờ, chẳng thấy anh bệnh nhân ấy đến. Vị bác sĩ trở lại gặp anh ta để tìm hiểu lý do; anh ta nói:

“Ồ, xin lỗi, tôi quên mất tiêu.”

“Bạn vẫn còn muốn điều đó chứ?”

“Thưa còn ạ.”

“Chúng tôi sắp có một cuộc làm việc nữa cũng tại phòng 4, lúc 3 giờ chiều mai. Bạn không vướng bận gì lúc đó chứ?”

“Ồ, nhất định tôi sẽ đến ạ.”

Nhưng rồi, anh ta lại không đến. Vị bác sĩ tâm thần thử lại một lần nữa, và cuối cùng đành chào thua: “Có lẽ anh không nồng nhiệt lắm với loại trị liệu này.”

Rốt cục, anh bệnh nhân thú nhận: “Thưa bác sĩ, tôi có nghĩ đến chuyện đó. Và tôi nhận thấy mình đã đến tuổi chẳng còn thay đổi gì được nữa!”

Điều này không phải luôn luôn đáng trách. Chúng ta thường thấy mình đã đến tuổi quá già chẳng còn thay đổi gì được. Các bác sĩ cũng thường nghĩ như thế thôi. Tôi đã gặp rất nhiều y sĩ đầy tài năng song lại tin rằng bệnh nào cũng chỉ có một nguyên nhân: hoặc thể lý hoặc tâm lý. Họ không thể hình dung một bệnh – cũng tựa như một thân cây – có hai gốc rễ đồng thời, hay thậm chí có nhiều hơn hai gốc rễ.

Sự thực thì hầu như mọi bệnh đều một trật có liên quan đến tâm lý, thể lý, tinh thần và xã hội. Dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ, như những rối loạn bẩm sinh hay những chứng liệt não chẳng hạn. Nhưng ngay cả trong những trường hợp ấy, ý chí muốn sống của người ta vẫn có thể kéo dài đáng kể và cải thiện rất nhiều cuộc sống của họ.

Đáng tiếc là điều ngược lại cũng đúng. Khi tôi phục vụ ở Okinawa, trong quân đội, tôi được yêu cầu chữa trị một thiếu phụ 19 tuổi mắc chứng hyperemesis gravidarum (8). Tôi tìm hiểu và biết rằng người phụ nữ Mỹ này đã lớn lên ở miền duyên hải phía Đông, và cô có một mối quyến luyến có tính bệnh lý với mẹ mình. Năm mười bảy tuổi, cô đã được gửi sang miền Tây để sống với một ông cậu, và lúc ấy cô bắt đầu bị chứng nôn mửa. Hồi ấy cô không mang thai. Cô nôn mửa quá nhiều đến nỗi phải được gửi trả lại miền Đông, nơi cô sống vui vẻ mạnh khỏe bình thường cho đến khi kết hôn với một quân nhân, mang thai và theo chồng sang Okinawa. Vừa khi bước chân xuống khỏi máy bay, cô bắt đầu nôn thốc tháo, và sau vài ngày cô phải được đưa vào bệnh viện.

Nếu bệnh trạng của bệnh nhân ở mức đủ nghiêm trọng, tôi có quyền gửi họ về điều trị ở Mỹ. Và tôi biết rằng nếu tôi cho chuyển người phụ nữ này về Mỹ, chứng nôn mửa của cô sẽ ngừng ngay lập tức. Tôi cũng biết rằng có lẽ khó hy vọng đề phòng chứng nôn mửa này nơi cô ta mỗi khi tách cô ta xa khỏi mẹ mình.

Trong quyền hạn của tôi lúc đó, tôi đã quyết định không gửi cô ta về nhà ở Mỹ. Tôi bảo cô: “Bạn phải lớn lên và phải học cách sống tách biệt khỏi mẹ mình.” Và cô đã thuyên giảm đủ để xuất viện. Nhưng rồi bệnh lại tái phát và cô phải trở vào bệnh viện. Cô lại nôn mửa, và tôi lại nói với cô rằng tôi sẽ không gửi cô về Mỹ. Và một lần nữa, cô thuyên giảm và được xuất viện. Tuy nhiên, hai ngày sau, trong căn hộ của cô, cô bất thần ngã xuống và chết. Cô đang ở tuổi 19 và đang mang thai 4 tháng. Người ta tiến hành khám nghiệm tử thi và đã không phát hiện được vì sao cô chết. Dĩ nhiên, tôi vô cùng ân hận về quyết định của mình. Nhưng tôi tin rằng vì một lý do nào đó đã có một lúc trong đời mình, cô đã quyết định làm một em bé. Tôi không cho phép cô làm một em bé. Tôi muốn cô biết nhận trách nhiệm, và cô đã chết!

CÁC RỐI LOẠN THỂ LÝ VÀ TÂM THỂ

Hồi tôi còn theo học trường y, chúng tôi xếp chung vào một loại rối loạn ‘chức năng’ những tình trạng như tâm thần phân liệt, chứng hưng trầm cảm, và chứng nghiện rượu. Với từ “chức năng”, chúng tôi có ý đi nước đôi và cho rằng có lẽ một ngày kia các nhà nghiên cứu sẽ khám phá ra một khiếm khuyết rất tế nhị nào đó trong cơ cấu thần kinh hoặc một loại vấn đề sinh học nào đó. Nhưng chúng tôi thực sự tin rằng những rối loạn này đều thuộc lãnh vực tâm lý. Và trong tư cách là một bác sĩ tâm thần, chúng tôi đã vạch ra mọi cơ chế tâm lý của chúng.

Tuy nhiên, trong ba mươi năm trở lại đây, chúng ta đã biết rằng có những gốc rễ rất sâu thuộc lãnh vực sinh học đối với mọi rối loạn tâm thần này, và chúng ta còn biết nhiều hơn thế nữa. Thật vậy, một trong những vấn đề mà chúng ta đương đầu ngày nay đó là các bác sĩ tâm thần đã trở nên quá si mê sinh hóa học đến nỗi họ có nguy cơ quên hết tất cả những sự khôn ngoan của tâm lý học cũ, một số những sự khôn ngoan ấy vẫn còn đúng đắn hôm nay. Những tình trạng như tâm thần phân liệt không chỉ đơn thuần là các rối loạn thể lý. Chúng cũng là những rối loạn tâm lý, tinh thần và xã hội nữa. Và điều tương tự cũng đúng đối với các căn bệnh như ung thư. Tất cả đều có những nguyên nhân đa diện – vừa thể lý vừa tâm thể.

Thành tố tâm thể lý trong nỗi khổ của con người đã được nhận ra trong ngôn ngữ của chúng ta từ bao thế kỷ nay. Kho thành ngữ của chúng ta chứa đầy những kiểu nói như tê tái lòng; thúi ruột; sốt ruột; tím gan; đắng họng; lạnh gáy, vv… để mô tả những cảm xúc tâm lý, song không phải là không có liên quan đến thể lý – vì thế các bác sĩ tâm thần gọi đó là loại ‘ngôn ngữ bộ phận’ (vì có liên quan đến bộ phận nào đó nơi thân thể chúng ta). Biết bao người đến phòng cấp cứu vào ban đêm với cơn đau nơi ngực – dù có hay không có bệnh tim – ngay sau khi họ trải qua một cuộc tình tan vỡ! (9)

Những rối loạn cột sống là những rối loạn về sự can đảm. Và một lần nữa, điều này được phản ảnh trong ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nói: “Anh chàng ấy đúng là không có xương sống”, hay “Cô ta quả thực có một xương sống vững vàng”. Bản thân tôi đã chịu đựng nhiều chứng đau lưng trong phần lớn cuộc đời tôi, nhất là một tình trạng gọi là spondylosis (có đốt sống) đặc biệt nghiêm trọng trong cổ tôi. Nhìn một phim X-quang chụp phần cổ tôi, bạn sẽ nghĩ rằng tôi đã già 200 tuổi! Khi tôi lần đầu tiên được chẩn đoán mắc chứng này, tôi hỏi các bác sĩ phẫu thuật thần kinh và các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình: “Điều gì làm cho cổ tôi trông già đến thế?” Và họ trả lời: “À, có lẽ hồi còn bé, anh đã có lần bị gãy cổ”.

Tôi chưa bao giờ bị gãy cổ. Nhưng khi tôi cho họ biết điều đó, họ chỉ nói: “Nếu vậy, chúng tôi thực sự không biết cái gì đã gây ra tình trạng có đốt sống của anh.” Tôi rất mừng nhận được một câu trả lời như thế, bởi vì rất ít bác sĩ sẵn sàng nhìn nhận đơn giản rằng ‘tôi không biết’.

Thực ra, tôi biết rất rõ về nguyên nhân gây ra tình trạng có đốt sống của tôi. Tôi phát hiện ra cách đây khoảng 13 năm khi cơn đau ấy hành hạ tôi cực độ, đồng thời làm tê bại một cánh tay tôi. Tôi nhận một cuộc phẫu thuật thần kinh kéo dài và căng thẳng. Lúc ấy, tôi tự nhủ mình: “Này Scotty, mày biết đó, quả là phiền phức việc trải qua cuộc phẫu thuật đắt tiền và đầy nguy hiểm này cứ vài năm một lần. Nhưng mày thử xét xem mày có vai trò nào trong chứng rối loạn này không?”

Vừa khi tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi ấy, tôi lập tức nhận thấy là có. Trong phần lớn cuộc đời nghề nghiệp của mình, tôi đã luôn luôn có được tên tuổi và uy tín hơn các đồng nghiệp mình, và tôi vẫn thường xuyên lo ngại việc sinh ra đụng chạm. Thực tế tôi có gặp một số đụng chạm, dù không nhiều như tôi dự đoán, song như vậy cũng cho thấy nỗi sợ của tôi có cơ sở. Nói gì thì nói, tôi đã đi qua cuộc đời mình với cái đầu và cái cổ cúi gằm về phía trước, như một cầu thủ bóng đá sắp sửa lao tới đánh đầu quả bóng tầm thấp vào khung thành đối phương. Bạn hãy thử giữ đầu và cổ bạn kiểu đó trong ba mươi năm, và bạn sẽ biết thế nào là chứng có đốt sống (spondylosis)!

Dĩ nhiên, mọi chuyện không đơn giản ở đây. Có vô số nguyên nhân đối với hầu hết các chứng bệnh. Mặc dù không đến mức độ như trường hợp của tôi, song cha tôi, mẹ tôi, anh trai tôi đều đã phải chịu đựng chứng có đốt sống trong cổ một cách khác thường, ngay cả dù họ không bao giờ nổi tiếng là những người chuyên ‘nhướn cổ ra’! Vì thế, có một nhân tố sinh học – có tính di truyền – trong tình trạng của tôi. Bạn đừng quên, tôi quả quyết rằng hầu như mọi sự rối loạn đều không chỉ có liên quan đến tâm thể mà còn có liên quan đến tinh thần và xã hội nữa.

Ở đây tôi không đang xướng xuất một điều chi mới mẻ đâu. Rất nhiều người đã viết về mối quan hệ giữa thân thể và tâm trí. Một số người ngày nay cảm thấy có tội khi họ bị bệnh; nhân tố tâm thể của tình trạng này đã được rất nhiều người nhận ra. Dĩ nhiên, không cần thiết phải tự dằn vặt mỗi khi bạn bị cảm lạnh hay cảm cúm. Nhưng nếu bạn bị một chứng bệnh nghiêm trọng hay một chứng bệnh kinh niên, thì quả bạn có bổn phận phải kiểm tra chính mình và tự hỏi phải chăng mình đang đóng một vai trò trong chứng bệnh ấy của mình.

Nhưng nếu bạn làm thế, vì Chúa, thì bạn cũng phải biết ‘nương tay’ với chính mình. Một cách nào đó, có thể nói rằng đời sống vốn gây ra căng thẳng, và nó làm cho chúng ta mệt nhoài. Xin đừng quên sớm hay muộn tất cả chúng ta đều phải chết bởi một chứng rối loạn tâm thể nào đó.

Một lần nữa, tôi không có ý nói rằng mọi chứng ung thư giai đoạn cuối đều có tính tâm thể. Tôi không có ý nói rằng một phòng điều trị ung thư trẻ em – trong đó một bé bốn tuổi đang hấp hối với chứng adrenal carcinoma (ung thư thượng thận), một em khác sáu tuổi đang hấp hối do một chứng medulloblastoma, và một bé khác nữa đang hấp hối do một bướu Wilms – thì phòng điều trị đó chỉ là một chỗ tự sát của trẻ em không hơn không kém. Tôi cũng không có ý nói rằng các nạn nhân của một vụ rơi máy bay đã cố ý tập trung lại tại phi trường để thực hiện một cuộc tự sát tập thể – hay sáu triệu người Do Thái kia tự nguyện bước tới cái chết hồi thời Hitler. Nhưng khi chúng ta xem xét cái chết đơn thuần như một tai nạn, thì chúng ta cũng đang phớt lờ rất nhiều trường hợp chết thực tế khác và phớt lờ cả huyền nhiệm của sự chết nữa.

NHẬN HIỂU SỰ CHẾT

Một bước đột phá trong nhận thức của chúng ta về bản chất đích thực của sự chết là sự kiện xuất bản quyển Chết Và Hấp Hối (On Death and Dying) của Elisabeth Kubler-Ross, M.D. Cho tới lúc bấy giờ, sự chết vẫn là lĩnh vực độc quyền của các linh mục. Các bác sĩ thì quan tâm đến sự sống, và sự sống nhằm phục vụ cho người sống. Còn sự chết được bỏ lại cho mấy cơ sở mai táng. Nhưng Kubler-Ross đã dám chuyện trò với những người đang hấp hối và dám hỏi xem họ đang nghĩ gì, đang cảm nhận gì về cái chết cập kề họ. Bà đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự. Chỉ một thập niên sau đó, đã có những khóa học về cái chết và về tình trạng hấp hối trên khắp nước Mỹ. Và nhà ‘vĩnh biệt’, một nơi mà người ta có thể đến để chết, đã được phát minh hoặc được tái lập. Dường như nữ tác giả này đã gây ra một cuộc cách mạng.

Tác phẩm của bà đã mở đường cho những quyển sách về cùng chủ đề, trong số đó có quyển Đời Này Sang Đời Khác (Life after Life) của Raymond Moody và Phút Lâm Chung (At the Hour of Death) của Karlis Osis và Erlendur Haraldsson, người đã viết về chính khoảnh khắc chết và những kinh nghiệm của người đang tiến gần sát cái chết. Có một sự giống nhau lạ kỳ giữa những gì họ khám phá ra. Raymond Moody, một nhà khoa học và đồng thời là bác sĩ tâm thần, đã cho biết rằng phần đông những ai nhớ lại kinh nghiệm gần chết của họ đều liên hệ đến một sự biến đổi luân chuyển. Trước hết, có vẻ như từ trần nhà, họ nhìn thấy chính thân xác họ đang nằm trên giường, và họ thấy rất chính xác tất cả những gì các y tá và bác sĩ đang làm cho họ. Điều xảy ra kế tiếp – phần đáng kinh sợ duy nhất của kinh nghiệm này – là họ như đi xuyên qua một con đường hầm tối mịt. Họ vụt qua đó một cách nhanh chóng, rồi họ đối diện với ánh sáng, ánh sáng này được hiểu là Thiên Chúa hay đôi khi được hiểu là Chúa Giêsu. Và trong ánh sáng này, họ được yêu cầu nhìn lại đời sống của họ. Nhìn lại, họ thấy đời sống mình thật lộn xộn, nhưng thực thể ánh sáng ấy thì vô cùng yêu thương và tha thứ. Rồi ánh sáng ấy dẫn họ quay trở lại. Họ quay trở về một cách miễn cưỡng, nhưng trong tinh thần vâng phục ánh sáng ấy.

Thường những người có kinh nghiệm như thế, theo Moody, không có nhiều khuynh hướng tâm linh trước đó, nhưng trở thành rất có khuynh hướng tâm linh sau đó. Và nói chung, họ trở nên tin tưởng vào sự sống sau khi chết – và nỗi sợ chết nơi họ giảm đi rất nhiều.

Khi chúng ta tiến tới đủ gần sát cái chết, chúng ta thấy rằng cái chết không đáng sợ đến mức như mình vẫn nghĩ – điều đó thật là thú vị! Song nó không đem lại cho bạn sự thoải mái đâu. Bạn đứng trước những dấu hỏi như: “Nó có liên quan gì với cuộc sống này không? Cuộc hiện sinh tạm bợ này của chúng ta có thể có ý nghĩa gì?”

Nếu bạn tự hỏi như thế, tôi tưởng rằng đấy chính vì bạn đã nhận thức được rằng cuộc sống của mình thật hữu hạn, và bạn đang kiếm tìm ý nghĩa của nó. Nhưng hãy giả sử tự thân việc kiếm tìm ý nghĩa này đã là một việc đầy ý nghĩa. Hãy giả sử đó là một phần của cuộc chơi, một phần của lý do hiện hữu của chúng ta. Rất có thể chúng ta đang có mặt đây để kiếm tìm một cái gì đó chứ, phải không? Nếu câu trả lời là “Vâng!”, thì sự chết sẽ thúc bách việc kiếm tìm ấy.

Khi tôi trằn trọc với huyền nhiệm sự chết của mình, khi tôi kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống này, tôi đã gặp thấy điều mình tìm kiếm. Điều ấy thật đơn giản: Chúng ta đang có mặt trong cuộc đời này để học. Mọi sự xảy đến với chúng ta để giúp chúng ta học. Và không có gì giúp chúng ta học tốt hơn là cái chết.

Tôi đã đi tới kết luận rằng chúng ta được trao ban một môi trường học tập lý tưởng. Tôi dám thách bạn, trong khả năng tưởng tượng của bạn, hãy nghĩ ra một môi trường lý tưởng hơn cuộc sống này để phục vụ cho việc học hỏi của con người. Trong những khoảnh khắc ảm đạm của mình, dường như tôi thấy nó là một loại trại huấn luyện cho người ta vào thiên đàng, đầy những bài tập vượt chướng ngại được phác họa cho việc học của chúng ta. Và tôi nghĩ chướng ngại được phác họa ‘ác’ nhất là giới tính. Trong thực tế, sự chết là một hệ quả của tính dục chúng ta.

Các sinh vật hữu cơ ở đáy bậc thang tiến hóa không truyền sinh qua con đường tính dục. Chúng sinh sản một cách hoàn toàn vô tính. Chúng tự nhân giống (chẳng hạn nảy chồi), và chất liệu di truyền của chúng tiếp tục và tiếp tục mãi. Rõ ràng chúng không bao giờ chết, trừ phi có ai đó đến và tiêu diệt chúng. Chúng không kinh nghiệm sự già lão hay sự chết tự nhiên. Chỉ ở bậc cao nào đó trên thang tiến hóa, sinh vật mới truyền sinh qua con đường tính dục, và cũng chỉ ở đây mới bắt đầu có hiện tượng già nua và sự chết tự nhiên. Cái gì cũng có giá của nó!

Chúng ta học tốt nhất khi chúng ta có một hạn mức. Từ ‘deadline’trong Anh Ngữ là một từ ngữ tuyệt vời! (10) Trong nghề trị liệu tâm lý của tôi, tôi thường sử dụng một kỹ thuật rất có tiềm năng, nhất là khi làm việc với các nhóm. Khi các thành viên của một nhóm hành động như thể họ sẽ ‘còn sống muôn đời muôn kiếp trên trần đời này’, tôi sẽ đến với họ một lúc nào đó và nói: “Này, nhóm của các bạn chỉ còn làm việc sáu tháng nữa thôi. Tôi sẽ giải thể nhóm này trong sáu tháng nữa.” Thật là thú vị! Những người vốn rề rà uể oải nhất nay bỗng dưng linh hoạt hẳn lên, khi mà họ được trao cho một hạn mức!

Trong trị liệu cá nhân cũng thế. Một hạn mức thường có tiềm năng tác động rất lớn. Việc chấm dứt một mối quan hệ thân tình giữa một bệnh nhân và một nhà trị liệu đôi khi có thể được sử dụng để tượng trưng cho toàn thể vấn đề sự chết, đồng thời để trao cho bệnh nhân một cơ hội nhận hiểu sự chết.

NHỮNG BƯỚC CHẾT VÀ NHỮNG BƯỚC TRƯỞNG THÀNH

Elizabeth Kubler nhận thấy rằng những người hấp hối đi qua một tiến trình theo thứ tự sau đây:

– phủ nhận

– giận dữ

– mặc cả

– suy sụp

– chấp nhận

Giai đoạn thứ nhất là phủ nhận. Họ từ chối sự chết. Họ nói: “Phòng xét nghiệm chắc hẳn lẫn lộn kết quả xét nghiệm của tôi với một ai đó khác. Đó không phải là tình trạng của tôi. Tôi không thể chết.” Nhưng sự phủ nhận này không thể kéo dài.

Thế là họ giận dữ. Họ giận các bác sĩ, họ oán các y tá, họ trách bệnh viện, họ phàn nàn những người thân của họ, và họ giận cả Thiên Chúa.

Khi cơn giận cũng chẳng đem lại gì tốt hơn cho họ, họ bắt đầu mặc cả. Họ nói: “Có lẽ nếu tôi trở lại với nhà thờ và bắt đầu cầu nguyện trở lại, căn bệnh ung thư của tôi sẽ biến mất”, hoặc: “Có lẽ nếu tôi vui vẻ hơn với con cái để thay đổi bầu khí trong nhà, thì hai quả thận của tôi sẽ khá hơn.”

Nhưng khi điều này cũng không đem lại kết quả gì, họ bắt đầu nhận ra rằng thế là xong, vô phương! Họ trở nên suy sụp.

Nếu họ có thể cầm cự ở giai đoạn này và làm điều mà các nhà trị liệu chúng tôi gọi là ‘vượt qua suy sụp’ thì

họ có thể sống còn qua cơn suy sụp để bước vào giai đoạn thứ năm: chấp nhận! Đây là giai đoạn an tĩnh tâm hồn và thanh thản, thậm chí là một giai đoạn của ánh sáng. Những người đã chấp nhận sự chết sẽ có được ánh sáng trong mình. Như thể họ đã chết rồi và đã được phục sinh trong một cảm thức tâm linh nào đó. Đây là một sự việc rất kỳ diệu.

Tuy nhiên, điều nói trên không xảy ra thông thường lắm. Phần đông người ta không chết trong giai đoạn thứ năm tuyệt vời này. Người ta thường chết khi vẫn còn phủ nhận, vẫn còn giận dữ, vẫn còn mặc cả, hay vẫn còn suy sụp. Lý do là vì công việc ‘vượt qua suy sụp’ đớn đau và khó khăn đến nỗi khi họ chạm vào nó, họ thường thối lui lại tình trạng phủ nhận hay giận dữ hay mặc cả. Có một điều rất thú vị mà Kubler-Ross đã không nhận ra – đó là chúng ta cũng đi qua đúng những giai đoạn đó và trong cùng một thứ tự đó bất cứ khi nào chúng ta thực hiện được một bước có ý nghĩa trong hành trình phát triển tâm lý và tâm linh của chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta sải một bước dài tiến lên phía trước trong hành trình sa mạc cuộc đời, bất cứ khi nào chúng ta có một sự cải thiện đầy ý nghĩa nơi chính mình, thì chúng ta đều đi qua tiến trình phủ nhận, giận dữ, mặc cả, suy sụp và chấp nhận.

Chẳng hạn, thử hình dung có một khiếm khuyết nghiêm trọng trong nhân cách của tôi – và các bạn tôi bắt đầu phê phán tôi về những biểu hiện của khiếm khuyết ấy. Phản ứng đầu tiên của tôi sẽ là gì? Tôi nói: “Cô ấy chắc hẳn nhìn gà hóa cút!”, hoặc: “Anh ta chắc hẳn bị vợ cằn nhằn sáng nay. Tôi không dính dáng gì!” Thế đấy, tôi phủ nhận.

Nếu họ tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ nói: “Ai cho các anh cái quyền chỏ mũi vào chuyện của tôi? Các anh không hiểu gì cả về hoàn cảnh của tôi. Tại sao các anh không lo lấy chuyện riêng của các anh?” Nghĩa là, tôi giận dữ.

Song nếu người ta vẫn còn thương tôi đủ để tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu nghĩ: “Chà, gần đây mình đã không có lời nào khen tặng anh ta về những gì anh ta đã làm.” Thế là tôi tìm cách ‘nịnh’ anh ta, mỉm cười với anh ta, hy vọng như vậy sẽ khóa được cái mồm lộn xộn của anh ta. Mặc cả!

Thế nhưng nếu bạn tôi vẫn không chịu ngừng chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu tự nhủ: “Có thể anh ta đúng? Có thể có một cái gì đó không ổn với Scott Peck vĩ đại này?” Và nếu câu trả lời là “Vâng”, thì tôi bắt đầu chán nản, suy sụp. Trong trường hợp tôi có thể cầm cự với sự suy sụp này và bắt đầu tự hỏi cái trục trặc nơi mình là cái gì, rồi suy ngẫm kỹ về nó và phân tích nó, tách bạch nó, nhận diện nó, thì tôi có thể bước vào tiến trình tiêu trừ nó và giải phóng chính mình khỏi nó. Một khi hoàn tất việc ‘vượt qua suy sụp’ này, tôi sẽ nhận ra mình biến đổi trở thành một con người mới, một con người được phục sinh, một con người tốt hơn con người cũ của mình.

HỌC CHẾT

Những điều tôi vừa đề cập thực sự không có gì mới mẻ. Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã trích dẫn câu nói của Seneca – xấp xỉ 200 năm rồi: “Trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học sống. Và một điều sẽ làm bạn ngạc nhiên đây, trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học chết nữa.” Học sống và học chết là hai việc không rời nhau. Để học sống, chúng ta phải quan tâm và giải quyết vấn đề sự chết của chúng ta – vì sự chết nhắc cho chúng ta nhớ giới hạn của cuộc hiện sinh này. Chúng ta cần ý thức về sự ngắn ngủi của cuộc sống này, nhờ đó ta có thể tận dụng triệt để thời gian của mình.

Don Juan, vị guru già của thổ dân ở Mexico trong các tác phẩm của Carlos Castaneda, đã xem sự chết như một đồng minh. Trong lối nói của Don Juan, các đồng minh là những quyền lực đáng sợ mà người ta phải chiến đấu với chúng trước khi chúng được thuần hóa. Sự chết cũng y như thế. Chúng ta phải vật lộn với sự chết, chiến đấu với huyền nhiệm sự chết trước khi chúng ta có thể nắm được nó và vác nó lên vai, như Don Juan đã làm. Và bấy giờ, ngày này qua ngày khác, chúng ta có thể không ngừng thu nhận bao ích lợi từ những nhắc nhở đầy khôn ngoan mà sự chết trao ban cho mình.

Đồng minh” trước hết có nghĩa là một người bạn. Nhưng ít nhất trong văn hóa tây phương, chúng ta không quen nhìn sự chết như một người bạn. Trong các nền văn hóa đông phương, trong các tôn giáo như Phật giáo và Ấn giáo, sự chết được người ta niềm nở đón nhận hơn so với chúng ta. Thực vậy, trong thuyết hóa kiếp luân hồi – là thuyết có mặt trong cả hai tôn giáo nói trên – thì phần thưởng trọn vẹn, điểm nhắm cuối cùng là sự chết. Theo quan niệm này, chúng ta tiếp tục được tái sinh – hết kiếp này đến kiếp khác – cho tới khi chúng ta đã học hết tất cả những gì cần phải học trên dương thế này. Khi ấy và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi bánh xe luân hồi và cuối cùng đạt giác ngộ.

Dù bạn có nhìn nhận lý thuyết ấy hay không, bạn cũng có thể nhận thấy rằng trong thuyết luân hồi, mục đích của cuộc sống cũng là để học. Thực ra, không có chứng cứ nào cho thấy các tín đồ Ấn giáo và Phật giáo ít sợ chết hơn số còn lại trong chúng ta. Sợ chết, đó là chuyện bình thường thôi. Chết là đi tới chỗ vô minh, mù mịt – và xét một mức nào đó, nỗi sợ đối với việc bước vào chỗ vô minh là điều hoàn toàn lành mạnh thôi. Chỉ không lành mạnh khi chúng ta cố phớt lờ nó.

Một trong những phê phán thường xuyên mà tôi nghe từ các bạn vô thần, đó là tôn giáo là một cây nạng để giúp chống đỡ người già khi họ đối mặt với huyền nhiệm sự chết, với nỗi sợ chết. Tôi nghĩ họ đúng khi cho rằng một tôn giáo trưởng thành bắt đầu từ một cuộc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Nhưng có lẽ họ sai khi bảo tôn giáo là một cây nạng, làm như thể người ta sẽ dũng cảm hơn khi đối mặt với cuộc sống này nếu cuộc sống này không có ý nghĩa gì và nếu không hề có đời sau. Tôi nghĩ như thế bởi vì những con người tín ngưỡng – một khi nhận ra và đối mặt với tầm quan trọng của sự chết – thường chứng tỏ rằng họ là những con người can đảm hơn. Người vô thần, theo tôi, có khuynh hướng phủ nhận tầm quan trọng của sự chết; họ tuyên bố rằng sự chết chẳng có ý nghĩa gì hơn việc ngừng đập của một trái tim, rồi họ lập tức chuyển sang nói chuyện khác. Đó là một loại tránh né. Họ không muốn tiến tới đủ gần sự chết để nhận hiểu nó còn hàm chứa những gì.

Bạn cần lưu ý rằng so với những người vô thần, đa số những người chuyên chăm đi nhà thờ cũng không nồng nhiệt đối với việc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của mình hơn bao nhiêu. Phần đông các tín đồ siêng năng đi nhà thờ cũng chỉ bộc lộ một lòng sùng ngưỡng mê tín, gia truyền – như những bộ y phục được truyền từ đời cha sang đời con – những bộ y phục có thể vẫn giữ cho họ được ấm, song vẫn chỉ là những cái bẫy. Đó là lý do tại sao có câu nói: “Thiên Chúa không có cháu!” (God has no grandchildren). Chúng ta không thể liên hệ với Thiên Chúa xuyên qua cha mẹ chúng ta . Chúng ta phải thiết lập một mối tương quan trực tiếp với Thiên Chúa. Chúng ta không thể nhờ một ai đó khác – linh mục, cha mẹ, vv… – chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của chính chúng ta. Trong cuộc hành trình tâm linh đi qua cuộc sống, có những việc chúng ta phải tự làm lấy một mình, và một trong những việc đó là chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Bạn không thể đùn đẩy cho bất cứ ai đảm nhận thay bạn cuộc chiến đấu này.

Thế nhưng, có nhiều tín hữu siêng năng đi nhà thờ nhưng lại tránh né vấn đề sự chết như tránh dịch tả. Đa số người mang danh nghĩa là Kitô hữu thậm chí đã gỡ Đức Giêsu ra khỏi thập giá. Nếu bạn hỏi tại sao, họ sẽ trả lời rằng họ muốn nhấn mạnh sự Phục Sinh của Chúa hơn là cuộc khổ nạn thập giá. Nhưng đôi khi tôi không thể không tự hỏi phải chăng chỉ vì họ không muốn nhìn tất cả những máu me, thương tích và thực tại chết ấy ngay trước mắt họ để nhắc nhớ họ về sự chết của chính bản thân mình.

NỖI SỢ CHẾT VÀ CHỨNG TỰ YÊU

Nhưng tại sao chúng ta thường sợ chết quá mức như thế?

Đấy chủ yếu bởi vì chứng tự yêu (narcissism) của chúng ta. Tự yêu là một hiện tượng không bình thường và rất phức tạp. Xét một mức nào đó, tự yêu là điều cần thiết trên phương diện tâm lý đối với bản năng sinh tồn của chúng ta, nhưng phần lớn thì chứng tự yêu còn tồn đọng từ tuổi ấu thời và có tính tự hủy diệt. Khi chứng này bị thả lỏng, thì đó là sự mở đường cho những tình trạng bệnh hoạn về tâm lý và tinh thần. Cuộc sống tinh thần lành mạnh hệ tại ở cuộc vượt thoát không ngừng ra khỏi tính tự yêu. Nhưng thực tế thường người ta không thoát ra được khỏi nó, và đây là điều vô cùng tai hại.

Khi các bác sĩ tâm thần nói về các thương tổn để tự hào, thì đó là các thương tổn của chứng tự yêu. Trên bậc thang các thương tổn tự yêu của tôi, tôi xếp sự chết ở chóp đỉnh. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng bị thương tổn do chứng tự yêu, dù với mức độ rất nhỏ: một người bạn cùng lớp gọi tôi là điên khùng, chẳng hạn; hoặc vì tôi là người cuối cùng được chọn vào đội bóng chuyền của trường; hoặc các đồng nghiệp chế giễu tôi; hoặc tôi bị sa thải; hoặc con cái tôi phản kháng tôi, vv… Khi những thương tổn ấy của chứng tự yêu xảy ra, hoặc là tôi trở thành bực dọc cay đắng, hoặc là tôi lớn lên. Nhưng cái chết thì có tầm mức rộng hơn nhiều. Không có gì đe dọa mối ràng buộc giữa tính tự phụ của chúng ta và chứng tự yêu nơi chúng ta hơn là cái chết đang treo lơ lửng trên đầu mình. Vì thế, sự kiện chúng ta sợ chết là điều vô cùng tự nhiên.

Có hai cách để xử lý nỗi sợ ấy: cách thông thường và cách khôn ngoan. Cách thông thường là xua đuổi nỗi sợ ấy ra khỏi tâm trí mình, hạn định ý thức của mình về nó, cố gắng không nghĩ về nó. Cách này xem ra hữu hiệu khi chúng ta còn trẻ. Nhưng chúng ta càng xua đuổi nó, nó càng sấn tới sát gần chúng ta hơn. Và đến một lúc nào đó, mọi sự dường như đều bắt ta nghĩ đến cái chết: đứa con mình tốt nghiệp, bạn mình bị bệnh, cái khớp xương mình kêu răng rắc … Nói chung, cách thông thường xem ra không khôn ngoan lắm. Thật vậy, chúng ta càng quay mặt lẩn tránh sự chết của mình thì tuổi già của chúng ta càng trở nên đầy đe dọa hơn cho mình.

Cách khôn ngoan hơn là đối diện với sự chết càng sớm càng tốt. Và khi làm thế, chúng ta có thể nhận ra một cái gì đó thực sự rất đơn giản. Nghĩa là, ngần nào chúng ta có thể vượt qua chứng tự yêu của mình thì ngần ấy chúng ta có thể vượt qua được nỗi sợ chết.

Đối với những người thành công trong việc này, thì viễn ảnh sự chết sẽ trở thành một động lực thúc đẩy sự trưởng thành tâm lý và tâm linh của họ. Họ nghĩ: “Dù sao tôi cũng sẽ chết, nên chẳng nghĩa lý gì việc cố bám víu vào cái tôi ngốc nghếch của mình.” Bấy giờ, họ tiến lên trong một cuộc hành trình giũ bỏ sự vị kỷ.

Đó không phải là một cuộc hành trình dễ dàng và dễ chịu. Những ‘cái vòi’của chứng tự yêu nơi chúng ta rất nhạy cảm và sắc bén; chúng phải được chặt đứt từ ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thập kỷ này qua thập kỷ khác. Bốn mươi năm sau khi tôi lần đầu tiên nhìn nhận chứng tự yêu nơi mình, tôi vẫn còn phải tiếp tục làm công việc chặt đứt những ‘cái vòi’ của nó!

Hành trình này quả là không dễ, nhưng rõ ràng nó thật đáng giá. Bởi vì khi chúng ta tiến xa hơn trong việc loại trừ chứng tự yêu nơi mình, loại trừ xu hướng qui ngã của mình, thì chúng ta càng nhận ra rằng mình không chỉ ít sợ chết hơn mà còn trở nên ít sợ sống hơn nữa! Tấm lòng chúng ta sẽ rộng mở hơn. Chúng ta không còn bị áp lực phải bảo vệ chính mình nữa. Chúng ta có thể ngước mắt lên, thôi nhìn mình, để thật sự nhận ra người khác. Và chúng ta bắt đầu cảm nghiệm một niềm hạnh phúc sâu xa mà trước kia mình chưa bao giờ cảm nghiệm được. Vì bấy giờ chúng ta ngày càng quên mình hơn nên chúng ta có khả năng nhớ đến Thiên Chúa hơn.

Đây là sứ điệp cốt lõi trong mọi tôn giáo lớn: Hãy học chết! Các tôn giáo nhắc đi nhắc lại với chúng ta rằng con đường ra khỏi chứng tự yêu chính là con đường tiến đến ý nghĩa. Các tín đồ Phật giáo và Ấn giáo nói về điều này trong hai tiếng ‘vô ngã’; đối với họ, ngay cả ý niệm về bản ngã cũng là một ảo tuởng. Đức Giêsu cũng nói tương tự: “Ai muốn cứu mạng sống mình (nghĩa là ai cố bám lấy chứng tự yêu nơi mình) thì sẽ mất nó. Và ai dám liều mạng sống mình vì Ta, thì sẽ tìm được nó.”

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

—————-

(6) Tạm dịch: ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT LÀ CHỌN CHO ĐÚNG CÁI NĨA.

(7) open-heart = mổ tim trong khi máu được tuần hoàn.

(8) chứng nôn mửa quá nhiều khi mang thai

(9) heartbreak trong Anh ngữ, có gốc ở heart (= trái tim)

(10) vì deadline có nghĩa là hạn mức, và bản thân từ này có gốc dead = chết.

ĐTC Phanxicô: xã hội u buồn ảm đạm, nếu không có trẻ thơ

ĐTC Phanxicô: xã hội u buồn ảm đạm, nếu không có trẻ thơ

Chuacuuthe.com

– Tin nổi bật, Tin Công Giáo Thế Giới

dct

VRNs ( 19.03.2015) – Sài Gòn- Theo Romreport ngày 18.03.2015,  ĐTC Phanxicô nói: ” Một xã hội không có con trẻ là “xã hội u buồn ảm đạm”. Ngài đã kết luận như thế trong bài huấn giáo về gia đình. Ngài nói về những người mẹ, người cha và ông bà. Trong buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư hàng tuần tại quảng trường thánh Phêrô, ngài suy niệm về trẻ em.
Ngài nói rằng: chúng ta phải luôn luôn nuôi dưỡng trong tâm trí của mình về điều kiện của trẻ em. Không ai tự mình mà được sinh ra,  họ chỉ đón nhận cuộc đời. Ngài nhấn mạnh rằng người lớn nên học hỏi từ tinh thần đơn sơ của con trẻ và kết luận với lời cảnh báo: ” U ám và buồn sầu” khi một xã hội không có con trẻ.

Tóm tắt bài huấn giáo:
” Trong bài huấn giáo của chúng tôi về gia đình, hôm nay chúng ta chuyển sang con trẻ, đó là một món quà tuyệt vời cho GH và cho gia đình nhân loại của chúng ta. Tôi nghĩ về những đứa trẻ hạnh phúc rất nhiều, tôi nhận thấy trong chuyến thăm gần đây của chúng tôi đến Châu Á, và cả trẻ em trên toàn thế giới, vô số các em đang sống trong nghèo đói về mọi nhu cầu.
Một xã hội có thể được đánh giá bằng cách xã hội đó đối xử với trẻ em . Trong gia đình của chúng ta, con cái nhắc nhớ chúng ta rằng: từ những năm đầu đời của chúng ta, chúng ta phụ thuộc vào người khác. Chúng tôi nhận ra điều này trong chính Chúa Giêsu, Người sinh ra trong hình hài một trẻ thơ ở Bethlem.

Trẻ thơ cũng nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta là con cái của Thiên Chúa, chứ không phải là tự hoàn toàn điều khiển cuộc sống của chúng ta, chúng ta không bao giờ chấm dứt hoàn toàn sự phụ thuộc vào người khác. Họ thách thức chúng ta nhìn thấy mọi thứ với một tâm hồn đơn sơ, tinh khiết và tin tưởng, tiếp nhận và cung cấp sự ấm áp và ” dịu dàng”, cười và khóc một cách tự do để đáp ứng với thế giới xung quanh chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta trở nên giống trẻ thơ, Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.” (Mt 18, 3)

Chúng ta hãy hoan nghênh và trân trọng con em chúng ta, những người mang lại rất nhiều giá trị cho cuộc sống, niềm vui và hy vọng cho thế giới. Thế giới của chúng ta sẽ buồn và ảm đạm biết bao nếu không có trẻ thơ.

Pv.VRNs

SỰ CHẾT

SỰ CHẾT

Tác giả LM Nguyễn Tầm Thường, sj.

(Suy niệm mùa chay 2015)

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi.  Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”.

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải”.

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta:  Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó:  Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn. Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.
Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.
Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ –
Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen.  Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980.  Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến.  Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang.  Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái.  Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt.  Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc.  Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.

Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người.”  Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người.  Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến.  Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra.  Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy?  Đó là giờ chết của Người.  Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta.  Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại.  Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt.  Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta.  Đây là giây phút cao quý nhất của Đức Giêsu.  Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất.  Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.

Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển.  Đây là một nghịch lý lớn lao.  Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống.  Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.

Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy.  Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển.  Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người.  Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.

Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn.  Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay.  Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.

Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt.  Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến.  Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này.  Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.

Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công.  Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt.  Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi.”

Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa.  Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi.  Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).

Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng.  Sự sống sẽ chiến thắng.  Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.

Sưu tầm

Chỉ điểm và đạo đức, vấn đề nhức nhối thời hậu Cộng sản ở Đông Âu

Chỉ điểm và đạo đức, vấn đề nhức nhối thời hậu Cộng sản ở Đông Âu

Hoàng Nguyễn

RFI

media

Tài liệu của cơ quan mật vụ Rumani Securitate được chuyển đến trụ sở Hội đồng Quốc gia Nghiên cứu Tư liệu của Securitate CNSAS gần Bucharest, thủ đô Rumani. Ảnh tư liệu 10/03/2005. Bogdan Cristel/REUTERS

Mới đây, một bộ phim tài liệu mang tựa đề “Trong tầm ngắm của Securitate” – Securitate là cơ quan mật vụ của chế độ Cộng sản Rumani trước đây – đã được công chiếu trên hai kênh truyền hình quốc gia của Hungary. Sự kiện này làm dấy lên trong công luận và truyền thông Hungary những vấn đề về đạo đức và tội ác trong quá khứ vẫn chưa bị trừng phạt.

Từ Budapest, thủ đô Hungary, Thông tín viên Hoàng Nguyễn trước hết nêu bật nội dung bộ phim :

Thông tín viên Hoàng Nguyễn tại Budapest 16/03/2015 – Mai Vân nghe

« Bộ phim đã được quay tại những hiện trường gốc, với sự tham dự của các nhân vật đa phần đã can dự vào những sự kiện có thật xảy ra cách đây ba chục năm, dưới chính thể của thủ lĩnh cộng sản Ceausescu tại Rumani, khi cơ quan mật vụ chính trị Securitate làm mưa làm gió ở quốc gia này.

Chỉ điểm ngay trong gia đình

Bộ phim nói về tấn thảm kịch của một gia đình ở vùng Kolozvár, một mảnh đất từng thuộc Vương quốc Hungary, sau đó bị sáp nhập vào Rumani và vẫn còn một cộng đồng Hung kiều đông đảo sinh sống. Hai vợ chồng nọ, vợ là Tőkés Eszter, chồng là Barta Tibor đều là những bác sĩ, những nhân vật có uy tín và được trọng vọng trong vùng.

Cùng một số gương mặt của giới trí thức vùng Kolozvár, gia đình Tőkés Eszter có xu hướng đối lập rõ rệt. Đặc biệt, thành viên gia đình có mục sư Tin lành Tőkés László là người được coi như thủ lĩnh tinh thần của Hung kiều ở Rumani, và cuộc nổi dậy cuối năm 1989 tại nước này được coi là có cơ nguyên từ hoạt động bảo vệ nhân quyền và tín ngưỡng của ông.

Bản thân bác sĩ răng Tőkés Eszter nhiều lần làm các cuộc phỏng vấn bí mật về tình hình rất nghiêm trọng tại khu vực có đông kiều dân Hung sinh sống, và tìm cách tự mang sang Hungary, hoặc thông qua một người bạn. Nhưng những kế hoạch đó luôn thất bại: tại biên giới, các nhân viên mật vụ đã chờ sẵn để “bắt quả tang” họ.

Một số những bài viết quan trọng, hoặc truyền đơn, tờ rơi với nội dung đối lập mà Tőkés Eszter đã cẩn thận cất giấu kỹ lưỡng vì sợ bị khám nhà, không hiểu sao cũng đều đều lọt vào tay mật vụ chính trị Securitate, và trở thành những bằng cứ mà chính quyền sử dụng để chống lại gia đình bà.

Trong những năm tháng ấy, cố nhiên không ai nghi ngờ người chồng, vị bác sĩ chỉnh hình tài ba, đầy uy tín, một con chiên sùng đạo Công giáo, chơi dương cầm rất điệu nghệ, và sau giờ làm việc còn chữa chạy miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Ông Barta Tibor còn hết sức được lòng hai người con riêng của bà Eszter với người chồng thứ nhất.

Sau biến cố 1989, bác sĩ Barta Tibor sang Hung định cư. Vợ ông, bà Eszter không theo chồng, và tới năm 2004 hai người ly dị. Phải tới gần hai chục năm sau, năm 2007, bà mới nhận được một hồ sơ từ Viện CNSAS (cơ sở xử lý các hồ sơ của mật vụ chính trị Rumani thời kỳ cộng sản), và cay đắng khi được biết sự thật về người chồng trong quá khứ.

Sự thật cay đắng về người chồng điềm chỉ

Theo đó, gần như hàng ngày, chồng bà đã viết báo cáo về hoạt động của đối lập của bà trong 5 năm liền để gửi lên thượng cấp. Thậm chí, bác sĩ Barta Tibor sở dĩ kết hôn với bà năm 1985 cũng là để nhằm thông qua bà, có được mối quan hệ với cả gia đình bà, để thực hiện hoạt động chỉ điểm được Securitate giao phó.

Mang biệt danh “Stelian”, Barta Tibor viết tường trình về tất cả mọi thứ có thể một cách hết sức kỹ lưỡng, kể cả về lễ thành hôn của hai vợ chồng. Ngay sau khi cưới, ông ta đưa vợ và hai con riêng của vợ đi nghỉ ở bờ biển để trong thời gian đó, mật vụ chính trị Securitate có thể đặt thiết bị nghe trộm vào ngôi nhà của họ.

Những bài viết, truyền đơn hoặc tư liệu gửi sang Hungary của bà vợ Tőkés Eszter cũng đều bị ông chồng chuyển tới cho Securitate. Là một kẻ chỉ điểm hết sức chuyên cần, Barta Tibor không bỏ qua bất cứ cuộc gặp mặt gia đình hay xã hội nào của gia đình Tőkés Eszter, để có được thông tin tức khắc cho mật vụ chính trị.

Không chỉ báo cáo về nhà vợ, Barta Tibor còn chỉ điểm rất nhiều nhân vật trí thức quan trọng vùng Kolozvár, trong đó có các chính khách, các nhân vật thuộc giới tăng lữ, các nhà nghiên cứu – nhiều người vẫn coi vị bác sĩ uy tín này là bạn thân có thể chia sẻ được.

Khi cuộc nổi dậy và chính biến 1989 ở Rumani xảy ra, Barta Tibor biến khỏi nhà và trong nhiều ngày ông ta ở lỳ trong trung tâm của mật vụ chính trị địa phương nằm ngay trên tầng trên của trụ sở giáo phận của Giáo hội Công giáo. Khả năng là trong thời gian đó, ông ta đã tìm cách tẩu tán hồ sơ tuyển dụng của mình với biệt danh “Stelian”.

Quá khứ chỉ điểm, di chứng đau đớn của một thời

Dùng mạng lưới chỉ điểm dày đặc để duy trì chính quyền và khiến người dân luôn trong cảnh sợ hãi và phục tùng là một trong những đặc tính của các thể chế cộng sản tại Liên Xô (cũ) và vùng Đông Âu. Trong nhiều thập niên, Stasi của Đông Đức, Securitate của Rumani hay AVH của Hungary là những cái tên kinh hoàng đối với mọi người dân.

Tại Hungary, theo ước tính chưa đầy đủ, đã có chừng hai trăm ngàn “chỉ điểm viên” từng phục vụ thể chế độc tài cộng sản, trong số đó, có cả những “kiều nữ” trẻ thành thạo tiếng Ả Rập và không ngần ngại nếu phải sử dụng thân xác cho “việc lớn”, theo một lãnh đạo Cục Lưu trữ Lịch sử trực thuộc Cơ quan An ninh Quốc gia nước này.

Trong một phần tư thế kỷ qua, không ít những nhân vật có uy tín – những chính khách, tăng lữ, văn nghệ sĩ, nhà thể thao… – của Đông Âu đã bị lộ diện là những kẻ chỉ điểm. Chỉ điểm trong nội bộ gia đình cũng không phải là quá mới mẻ, đặc biệt như trong trường hợp mât vụ chính trị Stasi của Cộng hòa Dân chủ Đức, hay KGB của Liên Xô.

Tuy nhiên, tại Rumani, phương pháp “nghiệp vụ” này không hay được cơ quan Securitate áp dụng. Trường hợp của Barta Tibor đặc biệt ở chỗ, nó được kiến tạo và tiến hành hết sức công phu, có chủ ý, đạt hiệu quả cao, và kết quả là đã làm tan nát cuộc đời của nhiều con người khi những giây phút, cảm xúc riêng tư nhất của họ cũng bị phản bội.

Phân tích các “loại hình” chỉ điểm, các nhà nghiên cứu nhận thấy, không ít người bị cưỡng bức và làm công việc này một cách miễn cưỡng, “cho xong việc”. Nhưng cũng có những kẻ làm một cách tích cực, nhiệt tình như thể họ tìm được khoái cảm trong việc chỉ điểm và ngầm làm hại cuộc đời người khác, kể cả đó là người gần gũi nhất với mình.

Một thể chể có thể hủy hoại con người

Thuật lại một câu chuyện ít nhiều đã được biết đến cách đây ít năm, bộ phim “Trong tầm ngắm của Securitate” khiến người xem sững sờ ở chỗ, nó cho thấy một thể chế có thể làm hỏng con người như thế nào. Hoặc giả, nó tạo điều kiện để những bản năng tệ hại nhất của con người được “thả nổi”, trở thành hiện thực.

Về mặt đạo đức, rõ ràng bác sĩ Barta Tibor đã có thể lựa chọn cách khác, và không cần làm hại chính vợ ông ta – và gia đình nhà bà, cũng như những bạn hữu gần gũi và thân thiết – một cách chủ động và tích cực như vậy. Nhưng ông ta đã làm điều đó và ngay cả về sau này, khi bị phát hiện, cũng không hề cảm thấy cần phải sám hối.

Chỉ điểm đã từng được các lãnh đạo Xô-viết thời Stalin ở Liên Xô coi là một “bổn phận công dân”, khi họ hô hào “mỗi người dân đều là một chiến sĩ an ninh”, kỳ thực là những nhân viên mật vụ. Điều này cũng đúng với các nước Đông Âu thời kỳ 1945-1989, khi tất cả mọi công dân chỉ còn là một ốc vít trong cỗ máy vận hành.

Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người ở các xứ Đông Âu thời hậu cộng sản, khi có cơ hội, đã không dám tìm hiểu những hồ sơ chỉ điểm được bạch hóa, sợ sẽ thấy trong đó những cái tên quen thuộc, hoặc là thành viên gia đình, bố mẹ con cái mình, hoặc bạn bè mình. Những biệt danh trong các hồ sơ mật vụ, nhiều khi vĩnh viễn sẽ không được biết đến.

Trường hợp của bà Tőkés Eszter, được sự hỗ trợ của thân nhân là ông Tőkés László, người hùng của cách mạng Rumani 1989, nay là dân biểu Nghị viện Châu Âu, nên đã được biết đến rộng rãi thông qua báo chí và phim ảnh. Tuy nhiên, người chồng Barta Tibor, hiện vẫn sống và làm việc trên cương vị một bác sĩ có tiếng tại Budapest, thì không hề phải chịu hậu quả gì.

Báo chí Hungary có đặt câu hỏi: đúng vào thời điểm bộ phim được công chiếu, ông Barta Tibor còn có một buổi hòa nhạc tại Vương cung thánh đường Budapest, nơi lẽ ra hàng ngày ông ta phải tới sám hối cho tội lỗi của mình. Tuy nhiên, ông ta đã không hề tỏ ra hối hận, và dùng giấy tờ giả để biện minh, chối bỏ và phủ nhận mọi hoạt động chỉ điểm của mình!

Tư pháp bất lực, dành chỗ cho phán xử đạo đức

Tại các quốc gia cựu cộng sản vùng Đông – Trung Âu, kể từ sau biến cố dân chủ 1989-1990, nhu cầu thiết lập công lý, trừng phạt những tội ác trong quá khứ, để kẻ gieo gió phải gặp bão – nói rộng ra là trong sạch và trực diện triệt để với quá khứ – luôn là ý nguyện của số đông cư dân từng là nạn nhân bị đàn áp, tù đày, hoặc bị theo dõi, chỉ điểm bởi các thể chế độc tài toàn trị.

Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm sau ngần ấy năm không đơn giản, khi rất nhiều nhân chứng không còn sống, những hồ sơ, tư liệu tiêu hủy và thiếu sót, sự buộc tội và chứng tỏ tội trạng rất khó khăn. Nhiều kẻ thủ ác – trong giai tầng lãnh đạo, hoặc đơn thuần là những kẻ thừa hành của bộ máy mật vụ – không hề bị trừng phạt, và có thể sinh sống và ra đi êm thấm.

Báo chí Đông Âu hay nhắc tới ba cái tên Csatáry László, Képíró Sándor và Biszku Béla, ba kẻ thủ ác trong thập niên 40 và 50 thế kỷ trước tại Hungary, cũng chỉ bị xem xét tội trạng trong những năm cuối đời. Hai người đầu, phải chịu trách nhiệm trong những cuộc thảm sát dân Do Thái trong Đệ nhị Thế chiến – rốt cục đều đã thoát tội, và qua đời trong chăn ấm đệm êm ở tuổi 97.

Chỉ có Biszku Béla, Bộ trưởng Nội vụ thời sau cách mạng 1956, kẻ được coi là “nắm đấm cứng nhất” của thể chế độc tài cộng sản ở Hungary, là bị kết án ở tuổi 83 sau mấy chục năm sống yên lành và sung túc tại một biệt thự khu “thượng lưu” ở Budapest, với mức lương bổng gấp bốn lần lương hưu của một người bình thường.

Không chỉ thế, tại Cộng hòa Slovakia, mới đây chính quyền địa phương còn đưa ra một quyết định hết sức bị phản đối nhằm vinh danh một nhân vật cộng sản cộm cán – ông Vasil Bilak, đã mất cách đây một năm ở tuổi 95 – bằng cách phong ông ta làm công dân danh dự và dựng bảng ghi danh tại làng nơi ông ta chào đời.

Giữ chức Bí thư Trung ương đảng trong vòng hai chục năm, ông Bilak từng là một yếu nhân của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, đồng thời là nhân vật quan trọng nhất trong số năm quan chức cao cấp đã ký vào bức thư “mời” Mátxcơva và quân đội khối Hiệp ước Vácxava vào đàn áp Mùa xuân Praha tại Tiệp Khắc năm 1968.

Những năm cuối đời, Vasii Bilak sống tại một biệt thự vào hàng sang trọng nhất ở thủ đô Bratislava. Hành vi “cõng rắn cắn gà nhà” của ông từng bị điều tra vì tội danh “bán nước”, nhưng hồ sơ điều tra của vụ án – lên tới hơn 23 ngàn trang – đã bị khép lại năm 2011. Luôn chối tội, Bilak đã ra đi mà không hề phải đối diện với hành động của mình trước vành móng ngựa.

Tuy nhiên, một khi công lý đến bởi cơ quan tư pháp tạm bất lực, thì người dân đã có cách khác để bày tỏ sự phán xử đạo đức của họ. Những tấm biểu ngữ được giăng trước nhà những nghi can trên, hoặc trong phiên xử của họ, kêu gọi tội ác phải bị trừng phạt, kẻ sát nhân không thể ngủ yên, v.v… chính là bản án của người dân, của những nạn nhân dành cho kẻ thủ ác.

Đối với Barta Tibor, tuy không bị truy tố nhưng tờ nhật báo lớn nhất của Hungary “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) đã có bài bình luận về ông ta với những lời phê phán rất nặng. Tác giả đặt câu hỏi, là một bác sĩ chỉnh hình, thường xuyên phẫu thuật cột sống, nhưng chính ông ta lại là kẻ không hề có xương sống khi chỉ điểm chính vợ mình, gia đình mình trong nhiều năm…

Như thế, khi nền tư pháp bất lực, công luận và người dân sẽ có sự phán xét đạo đức riêng của họ, cho những kẻ đáng bị trừng phạt, và đây là hình phạt cao nhất…

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

Rev. Ron Rolheisher, OMI

Ăn mừng là một chuyện mâu thuẫn, là do có sự tác động lẫn nhau giữa nỗi mong chờ và thành tựu, nỗi khát khao và việc dang dở chưa thành, cái tầm thường và điều đặc biệt, công việc và vui chơi.  Cuộc sống và tình yêu phải được ăn mừng theo một nhịp điệu “nhịn đói – tiệc tùng” nào đó.  Thời vui chơi sẽ có lợi ích nhất khi đi sau những giây phút làm việc, thời hưởng thụ sẽ càng được tôn lên bởi những thời khát khao, còn thời thân mật sẽ nảy nở từ những thời cô độc.  Sự có mặt là tùy thuộc vào sự vắng mặt, sự thân thiết tùy thuộc vào sự cô độc, vui chơi tùy thuộc vào công việc.  Kể cả Chúa cũng chỉ nghỉ ngơi sau khi đã làm việc sáu ngày!

Ngày nay chúng ta chật vật vì điều này.  Nhiều hội hè tiệc tùng của chúng ta trở nên nhạt nhẽo vì trước đó chưa có thời nhịn đói.  Ngày xưa, thường có một kỳ nhịn đói dài trước khi diễn ra một buổi hội hè, và sau đó là một lễ mừng vui vẻ.  Ngày nay, chúng ta làm ngược lại, có ăn mừng kéo dài trước khi diễn ra hội hè và sau đó là nhịn đói.

Lấy Giáng sinh làm ví dụ:  Mùa Vọng khởi sự cho việc ăn mừng Giáng sinh, thực thế.  Các bữa tiệc bắt đầu, đèn hoa trang trí sáng lên, và nhạc Giáng sinh trỗi dậy.  Khi cuối cùng lễ Giáng sinh đến, thì chúng ta đã phát ngấy với những điều thích thú của kỳ lễ này, mệt mỏi, bão hòa với những thứ của Giáng sinh, và đã muốn chuyển ngay sang lễ tiếp theo.  Vào đúng ngày Nô-en thì chúng ta đã trở lại cuộc sống bình thường.  Mùa Giáng sinh trước đây thường kéo dài đến tháng Hai.  Bây giờ, thực tình mà nói, nó hết hẳn vào ngày 25 tháng 12.

Từ trước đến nay không phải lúc nào cũng như vậy.  Trước đây, quá trình từ khởi sự chuẩn bị là hướng tới tiệc tùng, sau đó mới đến ăn mừng.  Bây giờ thì tiệc tùng trước, nhịn đói sau.  Vì điều đó mà chúng ta nghèo nàn đi.  Nếu trước đó không có nhịn đói thì chẳng có được bao nhiêu tính chất thăng hoa trong tiệc tùng ăn mừng.

Một đồng nghiệp của tôi thích nói rằng xã hội chúng ta ngày nay biết cách mong đợi/thúc đẩy một sự kiện mà không biết cách làm sao để duy trì nó.  Điều này cũng chỉ đúng một phần.  Rất đúng là chúng ta không biết cách duy trì một điều gì đó; mà chúng ta cũng không biết làm thế nào để mong đợi/thúc đẩy nó.  Chúng ta lẫn lộn giữa mong đợi và lễ mừng bởi vì chúng ta thấy khó mà sống trong trạng thái dang dở và căng thẳng của sự chưa xong nếu không tiến tới giải quyết nó.  Chuyện mong chờ và nhịn đói không phải là những điểm mạnh của chúng ta; ăn mừng cũng không phải nốt.  Bởi vì chúng ta không thể chuẩn bị cho đúng đắn để hướng tới một lễ mừng, nên chúng ta cũng không thể ăn mừng một cách đúng đắn.

Lễ mừng tồn tại được là nhờ vào mâu thuẫn: để mừng lễ, trước hết chúng ta phải nhịn đói; để đạt đến sự viên mãn thật sự, chúng ta trước hết phải sống trong khiết tịnh; và để nếm mùi vị đặc biệt, trước hết chúng ta phải hiểu vị bình thường.  Một khi việc nhịn đói, chuyện đợi chờ dang dở, và nhịp điệu thông thường của cuộc sống bị đi tắt bỏ qua, thì sự mệt mỏi của tinh thần, sự chán nản và thất vọng sẽ thay thế lễ mừng và chúng ta chắc chắn chỉ còn lại cảm giác trống rỗng: “Tất cả là thế thôi sao?”  Nhưng đó là vì chúng ta đã đi tắt, đã bỏ qua cả một quá trình.  Đôi điều chỉ có thể thăng hoa nếu, trước tiên, có sự tẩy trần.

Tôi đã lớn tuổi để biết về một thời đại khác.  Giống như thời đại của chúng ta, thời đại đó cũng có những sai lầm của nó, nhưng cũng có những mặt mạnh.  Một trong những mặt mạnh của nó là niềm tin, và người ta sống, thực hành theo niềm tin đó, rằng lễ mừng là tùy vào việc nhịn đói trước đó, và cái thăng hoa đòi hỏi phải có sự tẩy trần trước đó.  Tôi nhớ rất rõ những mùa chay thời thơ ấu.  Mùa chay đó mới nghiêm ngặt làm sao!  Nhịn đói và từ bỏ: không lễ cưới, không nhảy nhót, rất ít tiệc tùng, rất ít đồ uống, đồ ăn tráng miệng chỉ có vào Chủ nhật, và nói chung là tất cả những thứ tạo nên sự đặc biệt và lễ mừng đều ít hơn.  Các nhà thờ trang hoàng toàn bằng màu tím.  Sắc màu thì tối thẫm ảm đạm và tâm trạng thì ăn năn hối lỗi, nhưng lễ mừng theo sau đó, Lễ Phục Sinh, thì thật sự là đặc biệt!

Có lẽ đây là nói theo kiểu hoài cổ; xét cho cùng, hồi đó tôi còn nhỏ, ngây thơ và chẳng có gì, và tôi có thể gặp gỡ Phục sinh cũng như những lễ mừng khác với tinh thần háu đói hân hoan.  Có thể như vậy, nhưng tính chất đặc biệt quanh những lễ mừng đã chết vì một lý do khác, đó là, chúng ta đã không còn mong đợi chúng một cách đúng đắn nữa.  Chúng ta bỏ qua chuyện nhịn đói, sự đợi chờ dang dở, và nỗi mong mỏi bắt buộc phải có trước.  Nói nôm na như sau – làm sao Giáng sinh có thể đặc biệt cho được nếu khi chúng ta bước qua ngày 25 tháng 12 với trạng thái kiệt sức sau bao nhiêu tiệc tùng liên hoan hàng tuần trước đó?  Làm sao lễ Phục sinh lại đặc biệt cho được khi chúng ta sống mùa chay cũng như bất kỳ mùa nào khác?  Thật sự là, làm sao có chuyện bất cứ cái gì cũng có thể thăng hoa khi chúng ta đã đánh mất khả năng tẩy trần?

Ngày nay, tình trạng thiếu vắng sự đặc biệt và thích thú trong đời sống chúng ta một phần lớn là do nhịp điệu này đã gãy đổ.  Nói ngắn gọn, Giáng sinh không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ăn mừng Giáng sinh suốt cả mùa Vọng; đám cưới không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ngủ với cô dâu, và tất cả các trải nghiệm thường đều nhàm chán nhạt nhẽo, không thể nào làm chúng ta phấn khởi lên được vì chúng ta đã nếm chúng khi chưa đến độ.  Trải nghiệm lúc chưa chín muồi là dở chỉ bởi vì nó chưa chín muồi, chẳng vì lý do nào khác.  Ăn mừng Giáng sinh suốt mùa Vọng, ăn mừng Phục sinh mà không nhịn đói trước, bỏ qua cái độ chờ mong trong bất kỳ điều gì lĩnh vực gì, thì cũng giống như đã ngủ với cô dâu trước đám cưới, một lỗi về sự khiết tịnh.  Tất cả những trải nghiệm chưa chín mùi đều có tác động là vắt kiệt nhiệt tình và những kỳ vọng lớn lao của chúng ta (mà chỉ có thể được dồn từ từ và tăng dần lên thông qua tẩy trần, căng thẳng và đợi chờ đau đớn khó chịu).

Bây giờ là tuần chay.  Nếu chúng ta dành mùa này để nhịn đói, để tăng cường độ nỗi chờ mong, để tăng nhiệt độ tâm lý của chúng ta, và để học biết được những điều gì có thể ấp ủ hoài thai trong lò rèn khiết tịnh, thì lễ mừng theo sau sẽ có cơ hội thăng hoa.

Rev. Ron Rolheisher, OMI