Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

05.02.2015

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.

Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).

Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.

Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.

Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.

Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.

Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.

Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.

Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.

Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền.

Kiếp khổ

Kiếp khổ

TRẦM THIÊN THU

Chuacưuthe.com

VRNs (06.02.2015) – Sài Gòn – Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định : “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.

150205008

Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!

Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6 :5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.

Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.

Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!

Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.

Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).

Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.

Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!

Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.

Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.

Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!

Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.

Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.

Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

Mặc Lâm – RFA
2015-02-06

senator-ngo

Nghị sĩ Ngô Thanh Hải

RFA photo

Mặc Lâm: Thưa TNS Ngô Thanh Hải, xin ông cho biết mục đích mà ông soạn thảo Dự luật S-219 ban đầu có tên là Tháng Tư đen, sau đổi lại là “Ngày hành trình tới tự do” nhằm nói lên điểu gì thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Đó là dự luật để tưởng nhớ tới hơn hai triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi với tư cách là tị nạn, là thuyền nhân. Thứ hai là để tưởng nhớ 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả hoặc là bị cướp, bị bão hay điều gì đó. Thứ ba nữa dự luật này nhằm cám ơn chính phủ Canada đã nhận một trăm hai chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 rồi sau này lên tới 300 ngàn người. Đồng thời cũng là cám ơn chính phủ Canada đã mở rộng vòng tay để đón nhận thuyền nhân tỵ nạn của chúng ta tại đây. Thứ tư nữa là cám ơn chính phủ, nhân dân Canada đã sponsor từ cá nhân, nhà thờ đến các cơ quan thiện nguyện đã bảo trợ giúp đỡ cho chúng ta. Thứ năm là Canada là một quốc gia mà trong thập niên đó, cuối 70 đầu 80 thì Canada là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nhận người tỵ nạn do đó mà Cao Ủy Tỵ Nạn (UNHCR) Canada đã trao giải Nansen cho Canada. Đạo luật này dựa trên 5 điều đó thôi.

Mặc Lâm: Thưa, ông là một dân cử gốc Việt tại Canada với chức vụ Thượng Nghị Sĩ liên bang, đời sống của người Việt nam hôm nay vừa đúng 40 năm kỷ niệm ngày ra đi của họ thì ông thấy có sự thành tựu nào đáng kể nơi xứ tạm dung mà bây giờ đã trở thành quê hương thứ hai của họ hay không?

TNS Ngô Thanh Hải: Thưa bây giờ thì mình thấy rằng cộng đồngViệt Nam mình tại Canada sau 40 năm thì phát triển rất mạnh. Tôi thấy Việt Nam mình đóng góp

” … tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế…

TNS Ngô Thanh Hải”

cho xứ sở, xã hội Canada rất nhiều, chính phủ Canada cũng đã công nhận sự đóng góp của người Việt tại đây và họ đã để ý rất nhiều chẳng hạn như cách đây ba năm chính phủ Canada của Đảng Bảo thủ đã nhận hết những người tỵ nạn tại Phi Luật Tân còn lại, khoảng hai trăm mấy chục người đã nhận rồi và đồng thời mới đây cũng hai năm rồi chính phủ đã chính thức chấp nhận tất cả người Việt tỵ nạn còn lại tại Thái Lan và Cao Miên (Campuchia). Trong tháng vừa rối bốn mươi mấy gần năm chục người tỵ nạn tại Thái đã qua tới Canada. Hy vọng cuối năm nay hết một trăm mấy chục người đó sẽ đến Canada để chấm dứt giai đoạn chót của người tỵ nạn chúng ta đã ra đi hơn mấy chục năm nay.

Mặc Lâm: Thưa ông nhìn chung vấn đề người Việt tỵ nạn khắp nơi được chính phủ Canada mở rộng vòng tay để đón họ và ông là người đại diện cho người Việt ở đó ông có cảm thấy sự thành tựu của họ trên lĩnh vực kinh tế, kiến thức hay khoa học thì lĩnh vực nào thành công nhất thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Cộng đồng của mình thì anh thấy chẳng hạn như tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế mà cộng đồng người Việt mình cũng đã đứng ra để nhận lãnh nếu kể ra thì hai trăm mười mấy người bên Phi Luật Tân và một trăm mấy chục người bên Thái và Cao Miên. Chính cộng đồng bỏ tiền ra đóng góp mua vé máy bay, bảo hiểm sức khỏe cho khoảng 400 người tỵ nạn cuối cùng của cái lớp đã bỏ đi từ 75 tới giờ.

Không những như thế mà cộng đồng còn đứng ra bảo lãnh những người đó qua để mà tiếp tay với chính phủ đã từng làm cho chúng ta nên bây giờ phải đáp lại bằng cách yễm trợ và bảo trợ người Việt Nam tỵ nạn còn lại của chúng ta. Đa số những người này bị kẹt từ hai tới ba mươi năm ở Phi và Thái Lan.

Mặc Lâm: Vâng, thưa ông bên cạnh những thành tựu nhất định đó thì chắc chắn bất cứ một cộng đồng nào cũng đều có những trở ngại khó khăn. Ông có thể cho biết cộng đồng Việt Nam tại Canada thì những trở ngại khó khăn ấy cụ thể là gì?

TNS Ngô Thanh Hải: Tôi thấy thì những trở ngại của cộng đồng không có gì lắm bởi vì đa số thế hệ thứ nhất cũng đã thành công rồi còn thế hệ thứ hai, thứ ba thế hệ con cháu chúng ta đã hội nhập vào xã hội Canada từ nhỏ cho tới lớn. Thành ra theo tôi nghĩ, tôi không biết chỗ nào khác nhưng riêng Canada này thì những trở ngại của cộng đồng nếu mà có thì cũng nho nhỏ thôi, chẳng hạn như con cái của chúng ta lớn lên thì vấn đề tiếng Việt của mình nó hơi khó khăn. Trường học dù có mở lớp tiếng Việt dạy cho con em của chúng ta nhưng chắc con em mình nó đã thấm nhuần xã hội Canada nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt thành ra đó là cái mà tôi lo ngại nhất. Tôi hy vọng văn hóa Việt Nam mình sẽ tồn tại tới thế hệ thứ ba, thứ tư và ngay cả về sau này nữa. Đó là điểu mà tôi lo ngại thôi chứ ngoài ra thì tôi thấy cộng đồng người Việt riêng tại Canada thành công rất nhiều. Trở ngại thì văn hóa và tiếng mẹ đẻ của con em chúng ta lớn lên ở đây thì nó hơi khó khăn trong vấn để đó

Mặc Lâm: Xin cám ơn TNS Ngô Thanh Hải.

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2015) – Sydney, Úc – Tác giả bài được trích sau đây mang ra những nhận xét chân thực về nét sinh hoạt của người Việt hiện nay, mà phần chính là những nhận xét về ngưòi Việt trong nước, nhưng thiếu một điều. Đó là nguyên nhân nào mà người Việt lại có những cách cư xử không đáng tự hào như vậy? Ai là người chịu  trách nhiệm cho sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm, cách sống, phong thái sống, và sự lãnh cảm của đa số dân chúng đối với chính họ, với người khác, dân tộc khác?

Chúng ta vẫn còn cảm phục đối với những bà mẹ Việt hy sinh mạng sống để cho con ăn học, vẫn còn cảm phục những người tranh đấu cho tự do dân chủ của người dân, và khi người dân có phương tiện để phát triển về tri thức (trong khi CSVN đã và đang thực hiện nền giáo dục và chính sách ngu dân), thì từ từ, nền tự hào về dân tộc Việt sẽ trở lại.

Một dân tộc không có nền giáo dục hướng thượng và nhân bản thì không có phương tiện cần thiết để nâng cao “nhân phẩm của dân tộc ấy”. Còn là người Việt, chúng ta không thể không tiếp tay đóng góp vào sự phát triển tri thức của dân tộc, dù chỉ là sự đóng góp nhỏ nhoi, dù chỉ giúp một người hiểu được chính sách ngu dân của CSVN, và tìm cách thoát khỏi sự kìm kẹp trí não đó.

15020300

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình.

Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lý do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc?

Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt.

Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực

Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau:

“Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”.

Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh.

Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả.

Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!

Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị.

Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội các đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào.

Thất bại về kinh tế

Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng.

Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tạp đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác.

Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.

VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế?

Giáo dục và khoa học làng nhàng

Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ.

Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger(3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau:

“Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.”

Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền.

Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được.

Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ.

Xã hội bất an

Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an. Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần!

Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%).

Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!

Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế?

Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội.

Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến!

Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng

Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị mệt và đển buổi trưa thì uể oải, và ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Tình trạng ô nhiễm này đã tồn tại hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn nữa, nhưng cho đến nay chính quyền vẫn chưa thấy có biện pháp gì để giải quyết.

Còn ở thành phố lớn (như Sài Gòn và Hà Nội) thì cũng chẳng có gì đáng tự hào. Môi trường sống và sinh hoạt ở thành phố có thể nói là rất xấu. Vi khuẩn, vi trùng, mầm móng bệnh tật gần như ở mọi ngóc ngách. Chỉ cần một trận mưa là thành phố bị ngập nước kinh hoàng. Kiến trúc nhà cửa thì lố nhố, trồi ra, thụt ào, chẳng ra cái thể thống gì. Những con hẻm ngóc ngách và ngoằn ngoèo, nhỏ xíu và dơ bẩn thấy phát ghê. Những con hẻm ở phố cổ Hà Nội phải nói là một nỗi ám ảnh kinh hoàng, giống như địa ngục trần gian. Hẻm ở Sài Gòn thì khá hơn Hà Nội một chút, nhờ thông thoáng hơn, nhưng vẫn thể hiện cái nét hỗn độn, vô trật tự của cái gọi là “thành phố”. Đường xá thì xe gắn máy và xe bốn bánh chạy loạn xa như chẳng có luật lệ gì, cực kì nguy hiểm cho người đi bộ. Còn đường dành cho người đi bộ thì bị chiếm dụng hết. Chẳng có thành phố nào, mới hay cũ, ở VN có thể nói là đáng tự hào cả.

Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào.

Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế

Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó?

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế.

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ.

Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12).

Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật.

Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng.

Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai.

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nguoi-viet.com

Lê Diễn Đức

Trong Hội Nghị Cán Bộ toàn quốc về công tác tổ chức xây dựng đảng diễn ra tại Hà Nội vào sáng 29 tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) than “sốt cả ruột” vì nạn chạy chức, chạy quyền.

“Tôi cứ nghe bao nhiêu tỷ để vào chức nọ chức kia mà sốt cả ruột! Nếu có chúng ta phải tìm có ở đâu chứ để râm ran thế này mà không có thì oan…,” ông Trọng nói.

Quả thật, hoặc sống xa hoa ở trên cao, quan liêu quá mức, hoặc vừa mù vừa điếc, hoặc giả vờ, nên ông tổng bí thư mới “tâm tư” ngớ ngẩn như thế!

Nạn chạy chức, chạy quyền, theo tờ Thanh Niên Online ngày 29 tháng 1 năm 2015, được xếp thứ hai sau tệ nạn tham nhũng và là một trong những “vấn đề gây bức xúc dư luận nhất hiện nay.”

Nạn chạy chức, chạy quyền thực sự không phải mới xuất hiện gần đầy mà đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam, tăng dần lên tỉ lệ thuận với tệ nạn tham nhũng và tỉ lệ nghịch với sự xuống cấp đạo đức xã hội.

Cho rằng “không có lửa sao có khói,” tờ Người Lao Động trong ngày 30 tháng 1, 2015 viết rằng, “Từ lâu công luận đã lên tiếng về các đường dây tiêu cực, như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu, chạy dự án, chạy kinh phí…”

Chạy chức, chạy quyền cũng trở thành đề tài nóng trong các kỳ họp của Quốc Hội. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (khóa 13), Chủ Tịch Hội Đồng Dân Tộc Ksor Phước cũng nhìn nhận phản ánh dư luận về vấn đề chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy ghế. Các kết luận thanh tra đều cho rằng có hiện tượng “chạy” song không phổ biến, nhưng đáng lo ngại và cần loại trừ.

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2012 tờ Dân Luật ghi lại ý kiến của bạn đọc về tình trạng “chạy” này trước phát biểu của Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Thái Bình rằng ông có nghe nói “chạy việc” tốn nhiều tiền của.

Bạn Quỳnh Anh viết:

“Tôi nghĩ bộ trưởng nói la, ‘Tôi có nghe chạy việc tốn nhiều tiền…’ thì chắc là một lời nói không thật, vì chuyện đó ai mà chẳng rõ như ban ngày. Vấn đề là bộ trưởng nhìn nhận và giải quyết như thế nào thôi.”

Bạn Nguyễn Hiệp:

“Bộ trưởng Nội Vụ chả lẽ không biết chuyện chạy tiền để có việc sao? Nếu phải thi công chức thì 50% là phải chạy tiền, còn 40% là ‘con ông cháu cha’ nên không phải chạy, chỉ khoảng 10% là thi bằng khả năng.”

Vào ngày 10 tháng 11 năm 2003, bộ trưởng Công An lúc bấy giờ, ông Lê Hồng Anh, trả phỏng vấn tờ Việt Báo, Trung Tâm Báo Chí và Hợp Tác Truyền Thông Quốc Tế của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, đã khẳng định, “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền.”

“Đúng là hiện nay có một thế lực ngầm, đường dây ngầm để chạy dự án, chạy chức, chạy tội. Đường dây này tồn tại lâu rồi, có điều là làm chưa ra được thôi nhưng có khi nó nằm ngay trong bộ máy nhà nước. Theo tôi nó vẫn tồn tại. Có những dự án này, dự án kia ngoài kế hoạch mà nó vẫn chạy được, tất nhiên không phải tất cả các dự án ngoài kế hoạch và ngoài qui hoạch đều thế, nhưng rõ ràng là có. Có những dự án chả có yêu cầu nhưng vẫn thấy chạy được,” ông Lê Hồng Anh nói. [2]

Có lẽ cũng đã đủ các dữ kiện để nói với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rằng, chạy chức chạy quyền là hoàn toàn có thực, như đinh đóng cột! Dối trá là bản chất các vị, những người đã tạo nên và làm băng hoại kỷ cương, chuẩn mực của xã hội Việt Nam.

Hiện tượng chạy chức chạy quyền là hành vi tham nhũng của những người có chức có quyền. Cả guồng máy vận hành của ĐCSVN là hang ổ của tham nhũng, chức vụ càng cao càng có cơ hội đục khoét của công nhiều hơn. Người ta ra giá chức vụ như một món hàng. Cuộc mua bán được thực hiện kín đáo, tinh vi trong bóng tối, tại nhà riêng, qua các trung gian thân cận hay vợ, con trong gia đình, nên rất khó có bằng chứng.

Trần Văn Thuyết với biệt danh “Thuyết Buôn Vua” trong vụ án Năm Cam là bằng chứng của việc mua bán các chức vụ cao nhất không còn là những giao dịch bình thường mà trở thành tội phạm, ân oán của xã hội đen.

Nguyễn Thế Thảo, hiện là chủ tịch Hà Nội, trong một lần gặp gỡ với bạn bè cùng học ở Ba Lan đã tiết lộ ông ta phải mua cái ghế “chủ tịch” mất gần 40 tỷ. Một người khác (xin được giấu tên), bạn học cũ của tôi, vụ trưởng của Quốc Hội, cho hay, trong nội các của Nguyễn Tấn Dũng, giá cao nhất (50 tỷ) thuộc về bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, cơ quan đảm trách nhiều dự án đầu tư công lớn nhất.

Dịch vụ mua quan bán chức tuân thủ đúng nguyên tắc cạnh tranh của thị trường: Nếu không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền.

Ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành Ủy Hà Nội, từng phát biểu, “500 ngàn đô la không hạ gục được sự liêm khiết của người lãnh đạo đó thì một triệu đô la. Nếu một triệu đôla không đủ mạnh để hạ gục thì nhiều đô la hơn nữa… Bức thành trì liêm khiết của con người cũng có lúc bền vững hơn dãy Trường Sơn nhưng nhiều khi chỉ yếu như tờ giấy bị thấm nước.” [3]

Mua quan bán chức được xem như một khoản đầu tư lấy lãi nhanh nhất. Vì thế đã có rất nhiều sai phạm xảy ra nhưng ít có ai chịu trách nhiệm, xin từ chức. Xả lũ đập thủy điện vô lối gây ra cái chết cho hàng chục người hay tiêm nhầm vác xin làm nhiều trẻ em tử vong, là những ví dụ gần. Cái ghế đã mua rồi, còn phải thu hồi vốn và kiếm lãi đã!

Vì lẽ không thể bỗng dưng bốc một anh nhà quê vô học đặt vào chức vụ cao, tiêu chuẩn học vị trở thành chất xúc tác cho các thương vụ. Hoặc khi đã có một chức vụ kha khá, ước mơ một vị trí cao hơn để có nhiều quyền lực hơn, cơ chế đòi hỏi phải có trình độ học vấn.

“Thế là một cuộc chạy đua để có bằng cấp bằng mọi giá. Bằng cấp càng cao, thì khả năng càng được cất nhắc ở vị trí cao. Không chỉ bằng cấp trong nước mà còn bằng cấp quốc tế rởm với giá 17 ngàn đôla và học trong 6 tháng.” [3]

Ông Phạm Minh Hạc, giáo sư của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, trong bài “Cán bộ xài bằng giả để kiếm cái ghế” nói (bee.net.vn):

“Tôi còn nhớ năm 2001, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động phong trào thanh tra bằng giả, đưa nó thành chủ trương của ngành. Đến năm 2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10 ngàn bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu tập trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ cấp cơ quan trung ương.”

Tại cuộc họp của Hội Đồng Quốc Gia về giáo dục và phát triển nhân lực, ông Phạm Vũ Luận, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã nói, “Người học giả, bằng giả, học thật nhưng chất lượng giả chỉ có thể chui vào hệ thống công chức nhà nước, không vào được doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài.”

Tờ Đất Việt ngày 21 tháng 1 năm 2015 viết:

“Vì bằng giả mà dẫn đến lương tâm giả, nhân cách giả. Và rốt cục sản phẩm của những kẻ ấy làm ra là đường sá cầu cống vừa khánh thành đã hỏng, cầu vừa đi đã sập, đường trên cao chưa làm xong đã mấy lần gây họa chết người.

“Tại Hội Nghị Tổng Kết Công Tác Tư Pháp của Bộ Tư Pháp, bộ này cho biết trong 10 tháng của năm 2014, đã có đến 9,017 văn bản pháp luật vi hiến, trái pháp luật, chiếm 22% tổng số các văn bản đã ban hành.”

“Một con số thật đáng hãi hùng, cứ 10 văn bản pháp luật ban ra thì có đến hơn 2 văn bản vi hiến hoặc trái với các điều khoản đã được quy định trong luật pháp. Thử hỏi có nền tư pháp nào hoạt động với sai sót nhiều đến thế chăng?” [4]

Một lực lượng động đảo những kẻ cơ hội, giả trá và bất tín trong bộ máy quản lý xã hội của ĐCSVN là hệ quả tất yếu của hệ thống chính trị độc quyền không do dân lựa chọn qua bầu cử tự do.

Độc quyền kéo theo đặc quyền, đặc lợi và lạm quyền như là một đặc tính tự nhiên. Những người lãnh đạo nhà nước từ trung ương tới địa phương thao túng và dung dưỡng các tệ nạn, biến tài sản công cộng thành nguồn thu bất chính.

Dân chúng ai ai cũng biết nhưng chỉ bất lực kêu ca và cam phận “sống chung với lũ.” Đó là bi kịch của Việt Nam!

Chú thích:

[1]: http://danluat.thuvienphapluat.vn/chay-viec-chay-chuc-chay-quyen-73026.aspx
[2]: Trong bài “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền” – Tuổi Trẻ.
[3]: Trong bài “Chạy” chức để… đóng góp nhiều hơn? – Vietnamnet.vn.
[4]:
http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/bang-gia-9000-van-ban-sai-10-lan-vo-ong-nuoc-3227745/

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28

Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).

Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)

Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.

Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.

Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này :

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.

Vì sao thế ? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.

Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.

Linh mục chủ tế hỏi ta  Ðể sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Ðể khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?

Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa : Thưa từ bỏ.

Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là “thủ lãnh thế gian này” (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.

Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.

Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.

Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.

Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.

Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.

Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!”

Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”.

Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).

Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài : “Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ” (1Ga 3,8).

Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.

Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.

Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.

Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.

Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.

Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói : “Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm”. Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.

Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc … là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.

Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.

Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay : Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.

Huệ Minh

Tác giả: Huệ Minh

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

VOA Tiếng Việt

03.02.2015

Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, trong bối cảnh có nhiều tiếng nói kêu gọi “đa nguyên, đa đảng” và “cạnh tranh bình đẳng”.

Phát biểu tại Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới điều mà ông gọi là “những kỳ tích” của Đảng trong thế kỷ XX và là “bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam”.

Ông cũng cho rằng, hiện nay, “ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng, nạn tham nhũng là vấn đề sống còn của chế độ”.

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào “Tôi không thích Đảng cộng sản” ở Việt Nam, nói với VOA Việt Ngữ rằng, ngày 3/2 từ lâu không còn ý nghĩ gì với nhiều người dân. Ông nói:

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào ‘Tôi không thích Đảng cộng sản’

“Nói thật là tôi thấy nó chỉ là một cái trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.”

Ông Dũng cho rằng đảng luôn tìm cách “duy trì chế độ độc tài, độc đảng và bảo vệ sự tồn vong của đảng hơn là sự tồn vong của dân tộc”.

Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói tới việc “nhiều thế lực tìm mọi cách phá hoại Việt Nam bằng thông tin xuyên tạc, vu cáo đảng, nhà nước, kích động chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước”.

“ Tôi thấy chỉ là một trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.

Blogger Lã Việt Dũng.”

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến từng bị cầm tù, cho rằng tất cả những thách thức đối với Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây “là hậu họa tồn dư lại của những đường lối sai lầm từ quá khứ”.

Ông Giang nói với VOA Việt Ngữ rằng để “sửa đổi được lỗi hệ thống thì phải thay đổi chế độ chính trị”.

“Hậu quả dẫn tới những bế tắc mà hiện bây giờ nhiều cái không có thể gỡ ra được, từ những cái lớn như tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế như thế nào để giữ lấy sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, cho đến việc chống tham nhũng, phát triển kinh tế để ngăn trở sự tụt hậu của đất nước, thì những cái đó đều do sai lầm ở tầm cỡ lớn, sai lầm ở cỡ đường lối, chính sách, chủ trương, chứ không chỉ là sai lầm ở bên thực thi của nhà nước hay là của chính phủ mà là sai lầm ở chủ trương, đường lối. Như vậy, muốn chữa được cái đó, muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ”.

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tháng trước, ông Trọng nói rằng “đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của đảng, nhà nước mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia”.

Khi được hỏi về ý kiến của nhiều quan chức trong nước cho rằng đa đảng sẽ đồng nghĩa với bất ổn xã hội, blogger Lã Việt Dũng nói rằng ông không nghĩ như vậy.

Ông Dũng nói thêm rằng nếu muốn tồn tại thì Đảng Cộng sản Việt Nam “phải chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cạnh tranh bình đẳng với các đảng phái khác”.

“ Muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ.

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang.”

2015 được coi là năm bản lề cho Đảng cộng sản Việt Nam vì đầu năm sau sẽ diễn ra Đại hội đảng lần thứ 12 với việc bầu chọn ban lãnh đạo cấp cao nhất cho nhiệm kỳ mới.

Tờ Hoàn cầu Thời báo của đảng Cộng sản Trung quốc mới đây đưa ra nhận định cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn cho cuộc chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay, Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với năm 2014” từ Việt Nam.

Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, Đảng cộng sản Trung Quốc cũng gửi điện chúc mừng tới phía Việt Nam. Theo Tân Hoa Xã, phía Trung Quốc “sẵn sàng làm việc với Việt Nam để thúc đẩy hợp tác chiến lược đi đúng hướng”.

Cũng theo hãng tin này, Trung Quốc đã bày tỏ sự tin tưởng rằng phía Việt Nam “sẽ thực hiện được các mục tiêu cải cách và tiến hành Đại hội đảng 12 với thành công lớn hơn nữa”.

Trong khi đó, hãng tin KCNA của Bắc Hàn cho biết Chủ tịch nước này, ông Kim Jong Un, cũng đã gửi lời chúc mừng tới ông Nguyễn Phú Trọng nhân 85 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Các nhà độc tài không ngăn hỗn loạn, họ khơi dậy tình trạng đó

Các nhà độc tài không ngăn hỗn loạn, họ khơi dậy tình trạng đó

Raniah Salloum, SPIEGEL: Dikatatoren schützen nicht vor Chaos – sie schüren es.

Phạm Kỳ Đăng dịch

Đối với một số người những thể chế quyền uy được coi như cái nôi của ổn định. Điều ngược lại mới đúng. Bởi các nền độc tài không thể giải quyết xung đột bằng hòa bình, nên tất yếu những nền độc tài ấy dẫn đến bạo lực và vô chính phủ.

Những gì còn lại ở Mùa xuân Ả Rập thật khủng khiếp. Bạo lực và cùng quẫn đe dọa xác quyết cuộc sống của con người bên lề châu Âu tới hàng nhiều thập kỷ. Phong trào cực đoan “Nhà nước Hồi giáo” lan rộng. “Thập kỷ vừa qua đã chỉ ra rằng, có thể còn có sự tàn tệ hơn là chuyên chế: Nội chiến và Hỗn loạn”, nữ đồng nghiệp Christiane Hoffmann viết như vậy trên tờ SPIEGEL và trang SPIEGEL ONLINE. Cứ như ổn định là một giá trị tự thân, và phải chăng nó được đảm bảo bởi những “nền chuyên chế có khả năng hoạt động”vậy?

Suy nghĩ này lảng tránh một vấn đề cơ bản: Đối với một giai đoạn nào đó, những nền độc tài chỉ bảo đảm cho một thứ ổn định – dựa trên xương máu của nhiều mạng người. Luôn rồi đến một lúc nào đó chúng sụp đổ. Thường chúng kết thúc trong tình trạng hỗn loạn mà chúng vốn hứa hẹn bảo toàn cho người ta tránh được.

Hỗn loạn và chiến tranh là hậu quả của các nền độc tài

Bởi vì trong các nền độc tài không có những cơ chế để giải quyết các vấn đề tranh chấp một cách hòa bình. Vấn nạn bị đè nén thật lâu cho tới khi hệ thống sụp đổ bởi sự thể ấy. Chỉ một xung đột nhỏ có thể đưa một nền độc tài đi tới bờ vực thẳm. Nhiều người trẻ tuổi đổ xô ra thị trường lao động không có đủ công ăn việc làm cho họ, thế là đủ. Quá sức các nhà độc tài.

Không thể biểu quyết bãi những kẻ áp bức. Nếu nhân dân chán ghét họ, sẽ chẳng còn gì nhiều ở những người không hài lòng. Nếu họ kéo ra đường, đạn bắn vào họ. Những nhà độc tài dạy cho dân họ rằng: Chỉ có bạo lực mới giải quyết xung đột. Đó là một tài sản gây độc đối với thời gian sau độc tài.

Nhà độc tài biến đi, thường nhà nước biến theo

Nơi đâu quyền lực không phải giải trình, nơi đó sự cám dỗ lạm quyền đặc biệt lớn. Thế vào chỗ đứng của nhà nước là những cơ cấu giống như Mafia. Tham nhũng khoét rỗng những thiết chế, cho tới lúc hầu như không còn gì để lại cả. Nhà độc tài biến đi, do đó cũng biến đi cả nhà nước nữa. Những nhà nước đình trệ luôn là kết quả của nền thống trị độc tài – và bây giờ chăng hẳn chúng phải phục vụ cho sự bao biện?

Vẻ như Christiane Hoffman tin tưởng rằng, hoặc con người vốn sinh ra đã là những người theo dân chủ hoặc là không. Đây là một sự nhầm lẫn. Phần nào ở nước Đức họ cũng vẫn là những con người ấy trong những năm ba mươi (của thế kỷ trước) từng để cho cuộc thử nghiệm dân chủ thất bại và sau này trong những năm năm mươi đã giúp thử nghiệm này đi đến thành công. Giữa hai khoảng thời gian đó là nền độc tài tàn tệ nhất của lịch sử loài người.

Rất khó gây dựng nên một nền dân chủ trên đống hoang tàn của sự thống trị quyền uy. Thế mà lịch sử dạy cho rằng điều này khả thể. Cho đến vài ba thập kỷ gần đây toàn bộ Đông Âu và phần rộng lớn của Nam Mỹ gồm nhan nhản những nền độc tài. Giờ đây là những nền dân chủ vận hành khá hơn hay tệ hơn, nhưng ít nhất còn xa mới đến tình trạng vô chính phủ được cho là đáng khiếp sợ.

R. S.

Về tác giả: Raniah Salloum, sinh năm 1984, nghiên cứu Chính trị và Kinh tế tại Đại học Tổng hợp Sciences Po Pháp và Cornell University, New York, Mỹ. Từ 2012 là Biên tập viên mục Chính trị của Spiegel Online.

Ước Vọng hay Ảo vọng mùa xuân

Ước Vọng hay Ảo vọng mùa xuân

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-02-02

02022015-the-wish-n-illusi-spring.mp3

Nikkei Asian Review - Một trong những cơ quan truyền thông lớn nhất Nhật Bản đưa tin về Chân Dung Quyền Lực

Nikkei Asian Review – Một trong những cơ quan truyền thông lớn nhất Nhật Bản đưa tin về Chân Dung Quyền Lực

RFA

Your browser does not support the audio element.

Ước vọng sự thật

Sự thật hay nửa sự thật? Những câu hỏi mà giới blogger đặt ra cho nhau trước màn hình máy tính vào những ngày này, khi mà trang blog Chân dung quyền lực, mà nhiều bloggers nghi ngờ rằng của một thế lực nào đó trong đảng cộng sản cầm quyền,  vẫn còn ngự trị. Và “nạn nhân” mới nhất  của nó là Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình. Có đến liên tục năm bài viết đưa ra những hình ảnh và số liệu về số tài sản khổng lồ của gia đình ông này.

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc từ Úc kể rằng trong những ngày cuối năm âm lịch này, một đoàn cán bộ từ Việt nam sang Úc làm việc, mà câu chuyện đầu môi của họ chỉ xoay quanh… Chân dung quyền lực. Blogger Mai Tú Ân viết

Trang mạng không ai biết xuất hiện từ đâu và của ai đấy. Và những điều không thể tin được đó lại xuất hiện hàng ngày, hàng giờ với thông tin ngồn ngộn, thừa mứa đến từng chi tiết, từng con số, từng tư liệu, từng hình ảnh… khiến cho người dân không thể không đau lòng, không thể không phẫn nộ khi đọc nó..

Vẫn biết rằng những thông tin của Trang mạng CDQL, cũng như những thông tin lề trái không hẳn lúc nào cũng là sự thực, nhưng đáng buồn là có một chân lý ngàn đời rằng, một phần sự thực sẽ dẫn đến sự thực, nếu không chứng minh được một phần sự thật ấy không phải là sư thật.

Và cuối cùng thì sự im lặng tai hại của chính quyền cùng tất cả bộ máy thông tin tuyên truyền hùng hậu trước sự kiện ấy, đã khiến cho niềm tin vào chế độ của người người dân Việt Nam ngả nghiêng; xao động như bị một cơn bão tàn phá tâm can.

Theo như  Mai Tú Ân vừa trình bày, sự mất lòng tin đó của người dân  chính do ước vọng được biết sự thật từ bao lâu nay không được thỏa mãn. Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết về trang Chân dung quyền lực

Nó cố nói lên sự thật. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Còn những góc cạnh khác, hầu như ai cũng biết, nhưng biết một cách mơ hồ. Chúng ta hy vọng sẽ có những trang báo khác lần lượt phanh phui hết tất cả những tệ nạn tham nhũng của tất cả những người đang nắm giữ quyền lực tại Việt Nam hiện nay.

” Trang mạng không ai biết xuất hiện từ đâu và của ai đấy. Và những điều không thể tin được đó lại xuất hiện hàng ngày, hàng giờ với thông tin ngồn ngộn, thừa mứa đến từng chi tiết, từng con số, từng tư liệu, từng hình ảnh

Blogger Mai Tú Ân”

Tất cả. Chứ không phải chỉ có một số người đang tranh chấp quyền lực với nhau.

Như vậy có thể nói rằng Sự thật cho tất cả chính là ước vọng mùa xuân này của giới bloggers Việt nam.

Có blogger như nhà văn Võ Thị Hảo nhìn thấy ước vọng ấy trong một cái nhìn tích cực trong câu chuyện xuất hiện của trang blog Chân dung quyền lực. Nhà văn viết rằng

Dẫu sao, khi có cuộc chiến thông tin giữa các thế lực cầm quyền, là đã manh nha cho các cuộc cạnh tranh chính trị giữa các nhóm lợi ích. Dẫu đang sơ khai nhưng độ khốc liệt của nó sẽ đẩy nhanh tốc độ trưởng thành.

Cuộc chiến ngày càng gay cấn thì dân càng được lợi. Hóa ra, đôi khi những cuộc chiến quyền lực độc tài nhất cũng phải tựa vào chút lợi ích của quyền tự do ngôn luận.

Trường Tồn hay không trường tồn

Trong khi blogger Dân Nguyễn thì lại thấy phiền lòng về sự hoạt động của trang blog của những chủ nhân bí ẩn này. Dân Nguyễn viết nhắc lại chủ nhân trang Que choa và viết rằng:

Khi người ta bức tử Quechoa, thì lập tức người ta cho ra lò Chân dung quyền lực – một sự cạnh tranh hết sức không lành mạnh, thể hiện rõ bản chất cá lớn nuốt cá bé của quyền lực đỏ. Lý do mà người ta dẹp Quechoa bởi những gì nó chuyển tải, thì bây giờ, thiên hạ có thể tìm thấy, thậm chí là ê hề trong Chân dung quyền lực. Quechoa sạch sẽ, nhân bản, hướng thiện, tiến bộ bao nhiêu, thì Chân dung quyền lực nhơ nhuốc, hôi hám sặc mùi bấy nhiêu.

Cho đến nay vẫn chưa có phát ngôn chính thức nào từ phía nhà nước và đảng cộng sản Việt nam về trang Chân dung quyền lực. Nhưng có rất nhiều lời cáo buộc rằng những thông tin không phải do nhà nước nắm giữ là gây hại cho nhân dân. Nhà văn Võ Thị Hảo hiến kế cho nhà nước Việt nam làm thế nào để các trang blog được gọi là gây hại ấy

Chúng chỉ sống được trên làn rêu ẩm ướt tối tăm của sự bưng bít thông tin, dối trá thông tin, bạo lực thông tin, bè phái thông tin của các vị quan chức từ trên xuống dưới. Chúng là lũ chuyên dùng từ điển ngược, như dùng „kính chiếu yêu“, soi ra gương mặt dị dạng của những thông tin lừa bịp hoặc che giấu.

” Chúng chỉ sống được trên làn rêu ẩm ướt tối tăm của sự bưng bít thông tin, dối trá thông tin, bạo lực thông tin, bè phái thông tin của các vị quan chức từ trên xuống dưới. Chúng là lũ chuyên dùng từ điển ngược, như dùng “kính chiếu yêu”

Nhà văn Võ Thị Hảo”

Nhưng có vẻ ý kiến của nhà văn Võ Thị Hảo không được giới cầm quyền quan tâm lắm, vì như blogger Kami chỉ ra rằng lời hứa đưa ra kết quả tín nhiệm các ủy viên Bộ chính trị, chóp bu quyền lực của Đảng cộng sản vẫn không được thực hiện. Kami trích dẫn phát biểu mới đây của ông đương kim Tổng bí thư đảng cộng sản là ông Nguyễn Phú Trọng rằng phải để cho công chúng tham gia vào nhiều phạm vi khác nhau và phát huy vai trò của báo chí, công luận, và Kami viết rằng

Tuy vậy, phát biểu đó của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chứng tỏ rằng bản thân ông và Đảng CSVN đến lúc này vẫn không bỏ được thói chuyên nói một đằng và làm một nẻo, điều từ lâu nay là nguyên nhân khiến cho Đảng CSVN đã đánh mất lòng tin đối với dân chúng. Nghĩa là, trong khi ông Tổng Bí thư thì nói như thế, nhưng thì mặt khác trên thực tế, ông Tổng Bí thư và Đảng CSVN đã hoàn toàn không muốn cho công chúng biết, thậm chí là họ muốn dấu nhẹm các thông tin mà dân chúng hết sức quan tâm. Ví dụ như chuyện về Kết quả lấy phiếu tín nhiệm 20 cán bộ cao cấp của Đảng, đến lúc này vẫn là một thông tin tuyệt mật của Đảng không cho phép phổ biến.

Lời phát biểu của ông Trọng được Kami trích dẫn từ trong một bài trả lời báo chí Việt nam của ông, trong đó ông nêu lên ước vọng rằng đảng của ông sẽ mãi mãi trường tồn cùng dân tộc. Tới đây hản độc giả Việt nam nghĩ ngay đến những khẩu hiệu tuyên truyền của đảng cộng sản mỗi độ xuân về, không những tên đảng đứng kề tên nước mà đôi khi đứng trước cả mùa xuân, tức là trước cả đất trời vậy!

Trong vài năm trở lại đây ông Nguyễn Phú Trọng thường hay được giới bloggers trích dẫn những phát biểu, đôi khi khó hiểu và gây cười của ông. Cách đây không lâu ông nói rằng đảng của ông sẽ đổi mới chính trị nhưng không có nghĩa là đổi thể chế chính trị. Người ta vẫn còn nhớ những tuyên bố chống tham nhũng khẩn thiết của ông, thậm chí có lần ông suýt khóc sau đại hội trung ương kỳ trước, khi đảng của ông không kỷ luật được một đồng chí X nào đó cũng của ông! Ông cố gắng thành lập ban nội chính trung ương để mong làm trong sạch bộ máy cầm quyền. Nhưng cũng chính ông cũng nói rằng xóa bỏ điều 4 của Hiến pháp là phản động.

Blogger Trần Minh Khôi dẫn ra câu chuyện cải tổ của Tân Tổng thống dân cử Jodowi bên Indonesia mà viết rằng

Một bằng chứng nữa cho thấy cơ chế, chứ không phải cá nhân, quyết định sinh hoạt chính trị quốc gia. Trông đợi vào cá nhân mà không thay đổi cơ chế là hoang tưởng.

Cơ chế mà mọi người đều biết chính là nền tảng ý thức hệ Mác lê mà những người cộng sản đã du nhập vào Việt nam. Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống viết trên trang blog Bauxite Việt nam phản biện lại ý kiến cho rằng bi kịch xã hội chính trị ngày nay của Việt nam chỉ là do từ những tính xấu của người Việt mà ra

Sự cộng hưởng giữa một số tính cách xấu của người Việt với những độc hại của chủ nghĩa Marx Lenin mới thực sự là nguyên nhân gốc của tệ nạn xuống cấp về đạo đức của xã hội hiện nay.

Liệu ước vọng tồn tại ngàn đời cùng dân tộc đó của ông Trọng có phải là hoang tưởng hay không? Khi mà ông dứt khoát không từ bỏ ý thức hệ đó?

Mô hình nhà nước của đảng của ông Trọng đang cai trị 90 triệu dân Việt nam gọi là dân chủ tập trung, với mọi quyền hành, kể cả quyền báo chí đều tập trung vào tay đảng cộng sản.

” Khi người dân không được phép phát biểu một cách dõng dạc như các bậc phụ lão trước điện Diên Hồng ngày xưa thì họ cũng có thể lên tiếng trong thế giới ảo của internet

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc”

Nhưng thời đại đã thay đổi, khi đảng cộng sản được thành lập thì máy fax chưa xuất hiện. Lúc đảng cộng sản nắm quyền trên toàn cõi Việt nam thì chưa có Internet và facebook. Blogger nổi tiếng Điếu Cày nói rằng mỗi một trang Facebook thực sự đóng vai trò một tờ báo. Điều đó làm đảng cộng sản cảm thấy lo sợ, như giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết trên trang của ông về sự tự do ngôn luận trong không gian điện tử ngày nay

Khi người dân không được tự do bỏ phiếu thì mỗi phát biểu trên blog và facebook đây đó đều có thể xem là một lá phiếu. Khi người dân không được phép phát biểu một cách dõng dạc như các bậc phụ lão trước điện Diên Hồng ngày xưa thì họ cũng có thể lên tiếng trong thế giới ảo của internet.

Tôi không biết các bạn có đồng ý với nhận định ấy hay không, nhưng tôi biết chắc chắn một điều: chính phủ Việt Nam cũng nghĩ vậy. Vì cũng nghĩ như vậy, họ mới ghét và sợ blog và facebook đến vậy.

Nhạc sĩ, blogger Tuấn Khanh thì mô tả khung cảnh Sài gòn những ngày cuối năm

Thế giới đã khác, những tờ báo giấy mòn mỏi và chậm chập như những chuyến xe liên tỉnh không đến kịp thời gian. Con người Sài Gòn hôm nay ngồi chạm lướt vào hiện tại tức thì để nói về cuộc sống của mình, buồn phiền hay vui cười những tin tức chớp tắt từng giờ. Sài Gòn ngồi một chỗ có thể nhìn mọi nơi, nghe những chuyển động của người Việt, có thể cười cợt với những vận may hạnh phúc và cũng có thể chết lặng với những đảo điên của giống nòi.

Giữa những ước vọng về sự thật của giới bloggers và ước vọng về sự tồn tại của ông Nguyễn Phú Trọng, blogger nhạc sĩ Tuấn Khanh giở lại một bài hát xuân của cố nhạc sĩ Phạm Duy mà ngậm ngùi rằng

Tự mình mở lại bài Xuân Ca, tôi lại thấy trong đó muôn ngàn ngậm ngùi, không chỉ cho người đã khuất mà cho một nước Việt mong manh mờ ảo.

Một năm mới lại đến. Xuân ca lại văng vẳng trong trái tim người. Niềm khao khát còn đó nhưng mùa  xuân thật sự của xứ Việt đang ở nơi đâu?

Chúng tôi xin mượn lời nhạc sĩ Tuấn Khanh và lời ca của cố nhạc sĩ Văn cao về ước vọng một Mùa xuân đầu tiên để kết thúc bài điểm blog hôm nay.

LÀM PHẬT KHÔNG DỄ

LÀM PHẬT KHÔNG DỄ

Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, một trong những tác giả Việt Nam nổi tiếng tại Hải ngoại đã có lần kể một giai thoại về Đức Phật và ác thần Mara như sau:

Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Almada, đệ tử của Ngài đang đứng ngoài cửa.  Thình lình Almada thấy Mara xuất hiện.  Almada cứ tưởng như Mara đang lạc lối, nhưng Mara tiến lại gần Almada và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Almada hỏi lại:

–        Ngươi còn đứng đây để làm gì?  Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao?  Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì? Ngươi không biết xấu hổ sao?  Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.

Nghe thế, Mara liền cười ngất:

–        Ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư?

Almada cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng Ngài có kẻ thù.  Đuối lý, Almada liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài.  Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được.  Nhưng Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara.  Almada hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn.  Ngài chào hắn:

–        Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không?  Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?

Nhưng Mara không đáp lại.  Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Almada pha trà.  Almada bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, ta không thấy vui chút nào, nhưng là vì lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được.  Trong câu chuyện nghe lóm giữa Đức Phật và Mara, Almada nghe Mara thú nhận một cách chán nản như sau:

–        Mọi việc không diễn ra tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ, như Ngài biết: đóng vai Mara không phải là chuyện dễ: có nói thì nói gian, nói dối, còn có làm thì làm điều dữ, điều ác.  Tôi mệt mỏi lắm rồi, nhưng điều tôi không chịu nổi chính là các môn sinh của tôi.  Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động.  Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.

Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông.  Cuối cùng Ngài nói:

–      Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao?  Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao?  Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng cho tôi, và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ, tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác.  Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.

**************************************

Qúy vị và các bạn thân mến,

Môn đệ của ác thần thì nói đến nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật thì lại tôn thờ đấng suốt một đời chỉ muốn sống siêu thoát, từ bỏ.  Phải chăng, đây là dụ ngôn về sự thiếu nhất quán và thái độ thỏa hiệp của con người.  Đây cũng chính là cơn cám dỗ triền miên của các tín hữu Kitô chúng ta.

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi thái độ triệt để tận căn của Người.  Ngài xử dụng những hình ảnh rất mạnh để nói lên thái độ dứt khoát mà các môn đệ của Ngài phải có: “Ai cầm cày mà quay lại đằng sau, không đáng làm môn đệ Ngài.  Ai không từ bỏ tất cả, ngay cả cha mẹ mình cũng không đáng làm môn đệ Ngài”.  Có thể theo Cha với một thái độ triệt để và dứt khoát như thế không? Chắc chắn nếu không có ơn Chúa chúng ta không thể sống triệt để và dứt khoát như thế được.  Chúng ta dễ dàng chạy theo tinh thần thế tục và thoả hiệp với những sức mạnh của sự dữ.  Chúng ta dễ dàng lấy sự yếu đuối của loài người để biện minh cho thái độ thoả hiệp của chúng ta.

Là một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không phải là chuyện dễ, nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: chỉ những ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát.

**************************************

Lạy Chúa, không có ơn Chúa, chúng con không làm được việc gì.  Xin Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng con, để sau mỗi lần vấp ngã, chúng con biết chỗi dậy và tiếp tục đi theo Chúa.  Amen!

R. Veritas

Anh chị Thụ Mai gởi

TUỔI THƠ

TUỔI THƠ

Câu truyện của một thầy giáo già kể: Trước khi bắt đầu các lớp học, thầy thường đứng trước mặt các học sinh và cúi đầu chào.  Thầy luôn làm thế với thái độ rất trân trọng.  Một này nọ, có vài người hỏi thầy rằng tại sao thầy lại làm thế?  Thầy trả lời rằng: Thầy làm như vậy, bởi vì thầy không biết bao nhiêu trẻ học sinh sau này sẽ thành đạt.  Thầy đã nhận thấy mỗi học sinh giống như một kho tàng ẩn dấu và thầy đã cúi chào trong sự tin tưởng rằng có nhiều học sinh sẽ thành công và thành đạt xứng đáng sự tôn kính trong tương lai cuộc sống.  Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta một tiềm năng để trở nên vĩ đại.

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.  Một Hài Nhi bé nhỏ đã được các cụ già đón nhận một cách rất thành kính.  Ngay khi vừa lọt lòng mẹ, Chúa Hài Nhi đã được các thiên thần tung hô, các mục đồng đến viếng thăm và từ xa, các nhà Đạo Sĩ đã đến tôn thờ và dâng lễ vật.  Theo luật Môisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2, 22). Dù Đức Maria và ông Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa.  Các ngài đã chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa” (Lc 2, 23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể thế chân bằng cách dâng cúng của lễ như chim bồ câu hay chiên bò.

Thánh lễ hôm nay cũng còn được gọi là Lễ Nến.  Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem.   Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma.  Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mesia tiến vào Đền thờ và gặp đại diện dân Chúa của Cựu ước qua ông già Simêon và bà tiên tri Anna.  Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái.  Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến.  Vì thế, từ thế kỷ thứ Tám, thánh lễ được gọi là Lễ Nến.  Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.  Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu.  Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ  dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Tiên tri Malakia đã tiên báo sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế trong đền thánh: Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!  Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người (Mal 3, 1). Trong mọi hoàn cảnh diễn biến và qua các biến cố liên quan, những lời tiên tri thuở xưa đã từng bước được thực hiện trong đời sống của Chúa Giêsu.  Thiên Chúa hiện hữu từ đời đời đã đi vào thời gian và không gian, nên có sự phát triển từng bước.  Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa nơi hình ảnh của Chúa Hài Nhi, Chúa trong đền thờ, Chúa giảng dạy, Chúa chiên lành, Chúa bị đánh đòn, Chúa chết treo thập giá, Chúa sống lại và Chúa lên trời. Chúng ta có thể đến gặp gỡ Chúa qua nhiều cách thế nhiệm mầu.

Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham (Dt 2, 16). Chúng ta không đi tìm kiếm một Thiên Chúa cao siêu, vĩ đại và tuyệt đối cách xa.  Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa hiện hữu và quyền năng an bài mọi sự trong yêu thương.  Tin rằng chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô hình và vô biên nhưng thực ra Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta.  Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể.  Tác giả thơ Do-thái đã diễn tả: Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân (Dt 2, 17).

Chúa Giêsu cảm thông thân phận của con người.  Ngài đã trải qua tất cả những thử thách ở đời và đã đi đến tận cùng của sự đau khổ là cái chết: Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách (Dt 2, 18). Vượt qua sự chết để vào vinh quang sự sống, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật.  Ngài là sự sống và là sự sống lại viên mãn.  Tất cả những ai tin vào Ngài, sẽ được ánh sáng ban sự sống.  Những ai tiếp rước Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa.  Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa trong đền thờ: Ông Simêon đã chúc tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa (Lc 2, 29-30). Ông già Simêon sống trong đền thánh chuyên tâm cầu nguyện và mong chờ ơn cứu độ.  Ngày này, ông đã đại diện cho toàn dân chứng kiến giây phút lịch sử Thiên Chúa viếng thăm Dân Người và Đấng Thánh đã tiến bước vào cung thánh.  Người ta thường nói: Chứng của hai người là chứng thật.  Trong đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, cũng đến: Bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel (Lc 2, 38). Trẻ Giêsu là trung tâm điểm của tất cả vũ trụ vạn vật.  Thiên Chúa vĩ đại trở nên bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của những kẻ tin.  Ông Simêon và bà Anna đã hết sức vui mừng gặp được trẻ Giêsu và đã dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.

Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã đón nhận các trẻ nhỏ.  Chúa luôn bảo vệ và yêu thương các trẻ nhỏ.  Chúa Giêsu gọi các trẻ lại mà nói: Cứ để các trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng (Lc 18, 16). Mỗi một con người, từ bào thai, thai nhi, ấu nhi, trẻ thơ, thiếu nhi hay thiếu niên và trưởng thành đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.  Mỗi một cá nhân đều được trao ban những khả năng tiềm tàng và sự sống vô giá.  Chúng ta phải trân qúy món qùa mà Thiên Chúa đã trao tặng.  Các con trẻ đơn sơ trong trắng như các thiên thần.  Chúa đón nhận các trẻ thơ: Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 10, 16). Đừng bao giờ nghĩ rằng các trẻ em là gánh nặng mà là niềm vui trong cuộc sống gia đình. Các cha mẹ đừng khi nào than phiền, nguyền rủa, chối từ và xua đuổi con cái của mình, vì mỗi trẻ đều có một khả năng tiềm ẩn mà chính Thiên Chúa đã phú bẩm.  Hãy yêu thương, dưỡng nuôi và ôm ấp món qùa Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa đã trở thành trẻ thơ cho người ta nâng niu và ôm ẵm.  Chúa đã cảm nhận tình yêu chia sẻ của con người.  Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng mọi người, nhất là các trẻ thơ vô tội.  Cầu xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ để biết khiêm nhu phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.

LM Giuse Trần Việt Hùng

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

Cuối Năm Về Galang

Cuối Năm Về Galang

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Nghĩa Trang Galang là chứng tích của một giai đoạn lịch sử không thể xoá bỏ về một hành trình đi tìm tự do bằng mọi giá của cả triệu người Việt.

Trùng Dương

Tôi đến Thái Lan tả tơi, ủ dột, eo xèo và bèo nhèo như một cái mền sakymen thấm nước. Vì không có thân nhân ở Hoa Kỳ, từ đây, tôi được đưa sang một trại tị nạn chuyển tiếp để chờ một hội thiện nguyện bảo trợ cho vào Mỹ.

Thế là tôi bắt đầu cuộc đời ly hương của mình bằng những ngày mưa đầu mùa ở Galang, một hòn đảo nhỏ bé, thuộc Nam Dương.

Những chiều mưa đầu mùa bao giờ cũng buồn. Những chiều mưa đầu tiên nơi đất lạ thì buồn muốn chết! Tôi cứ ngồi bó gối, nhìn những giọt nước trong veo (nương nương) chạy theo mái láng mà nhớ nhà muốn khóc.

Có hôm tạnh ráo, đi lang thang quanh đảo mãi cho đến lúc gần xẫm tối, tôi lạc vào một khu đất trống. Thoáng nghe tiếng muỗi vo ve, tôi nhìn xuống chân và hốt hoảng nhận ra là mình đang dẵm chân trên những nấm mồ của những người đã qua đời tại trại.

Giữa buổi chiều tà vắng lặng, trên một hải đảo hoang vu, cách quê nhà cả một đại dương xanh thẫm, đứng trên những nấm đất “xè xè” – mọc đầy cỏ dại, vương vãi mấy chân nhang đã bạc phếch mầu – tôi bỗng cảm được hết sự lạnh lẽo, thê lương, và ảm đạm của cái cảnh “vùi thây nơi đất khách quê người.” Cùng lúc, tôi cũng hiểu ngay tại sao trên những ban thờ nho nhỏ – ở quê nhà – thường luôn có khói hương ấm áp, và ngọn đèn dầu hột vịt (tù mù) cho đỡ phần quạnh quẽ.

Tôi rời Galang vào một buổi sáng cuối năm 1980 và trở lại ba mươi bốn năm sau, vào một chiều cuối năm 2014. Nghĩa trang của trại là nơi tôi cùng người bạn đồng hành (anh N.C.B) đến viếng đầu tiên. Nhìn những mộ phần khang trang, ngăn nắp, vôi quét trắng tươi, cỏ dọn sạch sẽ, nằm gọn gàng ngay ngắn –  giữa biển trời bao la – tôi mới chợt nhận ra rằng mình là một kẻ (sống) rất vô tình.

Tôi đã hăm hở và hối hả rời bỏ Galang, để lại không biết bao nhiêu là nấm mồ hoang lạnh của những đồng bào và đồng cảnh mà chưa bao giờ nhìn lại (dù chỉ một lần) cho mãi đến khi tóc đã đổi màu.

May mắn là không phải mọi kẻ tị nạn nào đều bạc bẽo như nhau, và không ít người sống rất có tình; nhờ vậy, hôm nay tôi mới có “lối” để về thăm chốn cũ.

Nghĩa Trang Galang. Bên phải là trụ xi măng trạm hình cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH, buộc phải sơn lại trắng đen bởi áp lực của nhà đương cuộc Hà Nội. Ảnh: N.C.B

Tôi rất thích bản nhạc Nha Trang Ngày Về (… ngồi đâу tôi lắng nghe… Ƭôi như là con ốc, bơ νơ nằm trên cát. Chui sâu vào thân xác lưu đầy…) dù không được quen biết bất cứ ai ở miền “thùy dương cát trắng.” Tôi cũng không có mối tình nào ở Galang, dù có viết mấy câu thơ, viết “dùm” cho những cô gái bị người tình phụ (mà dân ở đảo gọi là Galang tình xù) nhưng không còn nhớ được toàn bài:

Xa anh trời vào hạ

Thái Lan mưa đầu mùa

Bây giờ là cuối hạ

Nam Dương trời đang mưa

Galang đời cũng đẹp

Người ta thường có đôi

Riêng mình em thì trót

Yêu anh rồi nên thôi

Thư anh ngày một chậm

Nét chữ càng thêm to

Giấy trắng thừa ra mãi

Làm sao em không lo

Hay là  thôi anh nhé

Làm bận lòng nhau chi

Biết đâu đời lại đẹp

Khi đường ai nấy đi

Lần lượt, trước sau, những chàng trai cùng những cô gái ở tuổi đôi mươi (thưở ấy) đều đã “đi” định cư ở một quốc gia thứ ba nào đó. Và (chắc) cũng chả có mấy ai, mấy khi, ngoái về chốn cũ?

Galang, chiều nay, quanh tôi không một bóng người – ngoài vài bầy khỉ nhỏ, và năm bẩy chú hưu sao (đứng ngơ ngác nhìn khách lạ) trong một khu đất rộng, gần nơi trưng bầy mấy con tầu đã đưa đám thuyền nhân đến hải đảo này.

Ảnh: N.C.B

Galang hoang vu, và hoang tàn quá. Tôi bước vào một ngôi chùa, không có ai ráo trọi. Nhà thờ cũng vậy. Trống trơn. Tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm được che bởi một tấm bạt lớn phiá trên (ý hẳn để cho ngài đỡ giãi dầu mưa nắng) nhưng e cũng chả có tác dụng chi nhiều vì sự khắc nghiệt và khốc liệt của nắng mưa, nơi vùng  nhiệt đới.

Ảnh: N.C.B

Cạnh đó là bức tượng thánh Giuse đã rớt mất một bàn tay, ngó mà ái ngại.

Ảnh: N.C.B

Trong tấm biển chỉ dẫn (cũng đã rơi xuống đất từ lâu) ngay ở cổng vào có ghi hàng chữ “Cao Dai Pagoda” nhưng chúng tôi tìm mãi vẫn không thấy Thánh Thất nơi nào cả.

Ảnh: N.C.B

Cho đến khi bước chân vào gian nhà dùng làm Bảo Tàng Viện Thuyền Nhân thì tôi mới thấy Galang vẫn còn chút … hơi thở nhẹ, nhờ tiếng nhạc nho nhỏ phát ra tự bên trong. Cái gì chớ nhạc Việt thì tôi rành sáu câu, nhất là nhạc sến, vậy mà tôi hoàn toàn không biết bài hát (lạ hoắc) này. Tôi chỉ “cảm” được là nó rất sến (sến hết biết luôn) nhưng vẫn thấy vui thích với cái ý nghĩ là mình –  một thằng vô cùng bạc bẽo – vẫn được Galang mở rộng vòng tay (đón nhận) khi trở lại.

Thái độ rất thân thiện tử tế của nhân viên an ninh, cũng như sự chỉ dẫn vui vẻ và tận tình của người trông coi những di vật còn lại của thuyền nhân cũng khiến tôi vô cùng cảm động, dù chúng tôi có bị trở ngại (ít nhiều) vì bất đồng ngôn ngữ. Tôi và anh bạn hăng hái ký tên vào sổ lưu niệm, và sốt sắn hiến tặng hết cả số tiền mà chúng tôi có sẵn trong người.

Lúc trở ra, tôi thật hân hoan khi thấy hai chiếc xe du lịch (cùng với du khách) nối đuôi nhau vào trại – dù trời đã ngả chiều. Phải vậy chớ. Không lẽ cả một trung tâm du lịch mà có mình (ên) tụi tui thì coi sao được.

Tình trạng thưa vắng du khách ở Galang chắc đã bắt đầu từ nhiều năm trước. Nhật báo Jakarta Post, số ra ngày 01 tháng 8 năm 2009, có bài viết (“Vietnamese Refugee Camp Still Open’) đề cập đến yêu sách đóng cửa trại tỵ nạn (Galang) của nhà đương cuộc Hà Nội.

Bài báo này dẫn lời bà Nada Faza Soraya – Chánh Sự Vụ Phòng Thương Mại Của Nam Dương – nói rằng khu trại rất quan trọng đối với hướng dẫn viên du lịch, và họ không hề có ý muốn khai thác quá khứ đen tối của chính phủ Việt Nam. (“There was no intention of exploiting the gloomy past of Vietnamese gorvernment”).

Cùng thời điểm này, từ Galang, phóng viên Hồng Nga của BBC cũng có bài tường thuật (nghe được vào ngày 5 tháng 8 năm 2009) về sự việc này:

“Hai thập niên hiện diện của ngưi Việt tại đây khiến thông tin trại có thể sẽ đóng cửa vĩnh viễn, ngừng đón người ti thăm khiến người dân địa phương ngỡ ngàng.”

“Lý do chính là từ khi ngừng hoạt động, trại tỵ nạn Galang cũ đã trở thành một địa chỉ du lịch khá phổ biến, mang lại thu nhập cho người bn địa.”

“Dư luận địa phương bày tỏ bất bình, trong khi có cáo buộc chính phủ Việt Nam đã gây áp lực vi Jakarta để làm công việc này.”

Đồng thời, đại diện tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, ông Trần Đông cũng đã lên tiếng chỉ trích việc “âm thầm xóa bỏ dấu vết tội ác, hủy hoại di tích lịch sử và nhân đạo thế giới tập đoàn đảng trị và tay sai Bắc Kinh tại Hà Nội.”

Nhân đây, cũng xin được nói thêm đôi điều về cơ quan thiện nguyện Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam (Archives of Vietnamese Boat People – AVBP) qua lời của nhà văn Trùng Dương, sau chuyến đi thăm Galang của chị, vào năm 2012:

“Hội AVBP, Web site tại http://www.vnbp.org/, được thành lập từ năm 2004, nhằm tìm kiếm và trùng tu các mộ phần thuyền nhân, không phân biệt có tên hay vô danh, ở rải rác các nơi trong vùng Đông Nam Á, đồng thời ghi dấu lại các di tích thuyền nhân để các thế hệ sau biết mà tìm đến vì chính quyền Cộng Sản Việt Nam cố tình muốn xoá bỏ những di tích lịch sử này, để đồng thời bạch hoá tội lỗi của chế độ ngu muội hà khắc đã là nguyên do đẩy cả triệu người Việt ra biển đi tìm một đời sống có tự do và nhân phẩm, với từ 200,000 tới nửa triệu con người bị chết trên đường đi tìm một đồi sống có nhân phẩm. Sự hy sinh này và phần mộ của những người còn may mắn có được nấm mồ chính là những chứng tích của một giai đọan lịch sử cần được duy trì và bảo vệ.”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Thanh Quang (RFA) nghe được vào hôm 17 tháng 10 năm 2013, ông Trần Đông – Giám Đốc AVBP –  cho biết thêm chi tiết:

Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng tới cuối năm 2015 sẽ hoàn tất công trình mộ phần thuyền nhân Việt Nam tại tất cả những nơi vừa nói. Hiện giờ chúng tôi đang xúc tiến ráo riết tổ chức gây quỹ trong năm 2014 song song với việc trùng tu mộ thuyền nhân trong 2014 và 2015. Chúng tôi rất hy vọng được sự đóng góp giúp đỡ của tất cả đồng hương khắp nơi trong đợt gây quỹ lần cuối cùng vào năm 2014 và có thể có những cuộc gây quỹ nhỏ nữa trong năm 2015 để hoàn tất công tác trùng tu tất mộ thuyền nhân trong vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015.”

Tôi không hy vọng là Galang, trong tương lai gần, có thể trở thành một công viên du lịch hấp dẫn hay một khu di tích lịch sử – như nhiều người mong đợi vì điều này tùy thuộc hoàn toàn vào thái độ của chính quyền địa phương, và ngoài tầm tay của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Tuy nhiên, tôi tin chắc là VKTNVN “sẽ hoàn tất công tác trùng tu 2500 mộ thuyền nhân rải rác khắp vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015” – dù biết rằng đây chả phải là chuyện dễ dàng chi, và rất cần sự góp sức của mọi người.

Đó là việc tối thiểu mà chúng ta có thể làm được, và bắt buộc phải làm. Những người cầm quyền hiện nay ở VN không mong gì hơn là chúng ta thất bại trong việc duy trì và bảo tồn “lịch sử thuyền nhân.”

Nếu không có cái “lịch sử” bi tráng này và  “những chứng tích của một giai đọan lịch sử cần được duy trì và bảo vệ” thì cộng đồng thuyền nhân (hôm nay) và con cháu của họ (sau này) nào có khác gì một đám người trôi sông lạc chợ.