Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới

Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới


Nguyễn Hưng Quốc

Trên thế giới, trong nửa sau thế kỷ 20, không có chính khách nào thành công và được ngưỡng mộ như là Lý Quang Diệu (1923-2015).

Thành công đầu tiên là ông nắm quyền lực trong một thời gian rất lâu. Có thể nói ông là một trong những thủ tướng dân cử tại vị lâu nhất trên thế giới, trong hơn 30 năm, từ 1959 đến 1990. Sau đó, với chức bộ trưởng danh dự (senior minister) và người hướng dẫn các bộ trưởng khác (minister mentor), ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong việc phác hoạ chính sách phát triển cho Singapore. Từ năm 2011, ông chính thức rút lui khỏi bộ máy cầm quyền, nhưng vẫn tiếp tục làm dân biểu Quốc hội, ở đó, tiếng nói của ông vẫn được lắng nghe một cách đặc biệt, một phần vì thủ tướng đương nhiệm, Lý Hiển Long, là con trai của ông, phần khác, quan trọng hơn, vì những ý kiến của ông bao giờ cũng được xem là khôn ngoan và sắc sảo không những chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế.

Thành công thứ hai của Lý Quang Diệu là ông đã làm cho đảng Hành động Nhân dân (People’s Action Party – PAP) do ông sáng lập với một số bạn bè từ năm 1954 trở thành một đảng cầm quyền có uy tín và sức mạnh hầu như vô địch tại Singapore trong suốt 60 năm qua. Trong cuộc bầu cử năm 1963, đảng của ông chiếm 37 trên tổng số 51 chiếc ghế Quốc hội; trong các cuộc bầu cử sau đó, từ năm 1968 đến 1980, đảng của ông chiếm toàn bộ số ghế. Chỉ từ năm 1984 trở đi, trong Quốc hội mới thấp thoáng có vài ba chiếc ghế thuộc phe đối lập. Cho đến nay, đảng Hành động Nhân dân vẫn giữ ưu thế tuyệt đối trong Quốc hội.

Thành công thứ ba và cũng là thành công to lớn nhất của Lý Quang Diệu là, trong suốt mấy chục năm, ông đã biến Singapore từ một quốc gia nhỏ xíu, nghèo đói và lạc hậu trở thành một trong những quốc gia phát triển và có thu nhập trên đầu người thuộc vào hạng cao nhất trên thế giới.

Xin lưu ý Singapore là một trong vài quốc gia nhỏ và có mật độ dân cư cao nhất thế giới. Với diện tích khoảng 700 cây số vuông, Singapore chỉ bằng một nửa thành phố Đà Nẵng của Việt Nam. Cái đảo quốc này không có đất cho nông nghiệp, thậm chí, không đủ nguồn nước ngọt để sử dụng, hầu như không có bất cứ một thứ tài nguyên nào cả. Vào những năm mới được tự trị cũng là lúc Lý Quang Diệu mới lên làm Thủ tướng, Singapore là một quốc gia rất nghèo nàn với trình độ dân trí rất thấp, hơn nữa, lại bị chia rẽ trầm trọng về sắc tộc. Sự chia rẽ trầm trọng đến độ Malaysia không muốn nhận Singapore làm một thành viên trong Liên bang Malaysia dù hầu hết các chính khách tại Singapore, kể cả Lý Quang Diệu, khao khát điều đó: Hầu như mọi người đều cho, với những bất lợi về phương diện địa lý và một số dân ít ỏi như vậy, Singapore rất khó phát triển và bảo vệ được chủ quyền của mình sau khi được Anh trao trả độc lập.

Thế mà, chỉ mấy chục năm sau, dù dân số vẫn rất thấp (hiện nay khoảng 5 triệu rưỡi), Singapore đã trở thành một trong những quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới. Đó là quốc gia có thu nhập trên đầu người thuộc loại cao nhất trên thế giới; có những trường đại học được xếp vào hạng ưu tú nhất trên thế giới; nơi có môi trường làm ăn thuận lợi và dễ dàng nhất trên thế giới, quốc gia ít tham nhũng và minh bạch nhất thế giới; nơi có hãng hàng không và phi trường được xem là uy tín nhất thế giới; một hải cảng tấp nập nhất thế giới; những đường phố sạch sẽ nhất thế giới, v.v…

Sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc của Singapore xuất phát từ nhiều lý do nhưng hầu như tất cả các nhà phân tích chính trị và nghiên cứu lịch sử đều đồng ý với nhau ở một điểm: lý do quan trọng nhất là sự lãnh đạo khôn ngoan của Lý Quang Diệu. Ông được xem là người lập quốc, một vị cha già của dân tộc. Nhắc đến Singapore, nhiều học giả gọi đó là Singapore của Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew’s Singapore).

Khác với các “vị cha già” (founding father) khác, từ Mao Trạch Đông đến Fidel Castro, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh, những kẻ chỉ đẩy đất nước vào chiến tranh hoặc khốn cùng, “vị cha già” Lý Quang Diệu làm cho đất nước ông càng ngày càng văn minh và giàu có, được cả thế giới kính trọng.

Với tư cách một kiến trúc sư, người xây dựng một nước Singapore hiện đại, không phải Lý Quang Diệu không có khuyết điểm. Khuyết điểm nổi bật nhất của ông là độc tài. Ông trấn áp những người đối lập, tìm mọi cách để ngăn chận sự phát triển của xã hội dân sự, ưu tiên cho những thành phần ưu tú, để cho gia đình ông nắm giữ những chức vụ cao cấp trong bộ máy chính quyền cũng như trong lãnh vực kinh tế, có những chủ trương khắc nghiệt để bảo vệ một Singapore trong sạch và lành mạnh. Tuy nhiên, phần đông dân chúng vẫn hài lòng với sự độc tài ấy. Họ hiểu nguyên nhân của sự độc tài là từ thiện chí muốn, một, tạo nên một hệ thống quản trị tốt và hữu hiệu và hai, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá đất nước của Lý Quang Diệu. Bởi vậy, biết ông độc tài, người ta vẫn yêu mến và kính trọng ông. Có thể nói, Lý Quang Diệu là một trong những nhà độc tài khả ái và khả kính hiếm hoi trên thế giới. Hầu như tất cả các lãnh tụ trên thế giới, khi nói về ông, bao giờ cũng tỏ vẻ đầy tôn trọng. Các tổng thống Mỹ, từ Richard Nixon đến Bill Clinton và George H.W. Bush; các thủ tướng Anh, từ Margaret Thatcher đến Tony Blair, đều nhiệt liệt khen ngợi ông.

Nhưng sự thành công của Lý Quang Diệu không dừng lại ở phạm vi Singapore. Ông được xem là một nhà chiến lược thiên tài ở châu Á. Nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, thường xin ý kiến của ông trong nỗ lực hiện đại hoá đất nước của họ. Ở phạm vi quốc tế, một trong những đóng góp nổi bật của Lý Quang Diệu là đưa ra khái niệm bảng giá trị Á châu (Asian virtue) với nội dung chính là: khác với Tây phương nơi các bảng giá trị được xây dựng trên chủ nghĩa cá nhân, ở châu Á, dưới ảnh hưởng của Nho giáo và các nền văn hoá bản địa, tinh thần tập thể cao hơn hẳn, ở đó, người ta tìm kiếm sự đồng thuận hơn là cạnh tranh, nhắm đến cái chung hơn cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước cao hơn quyền lợi của gia đình và quyền lợi của gia đình cao hơn quyền lợi của bản thân. Dĩ nhiên, người ta thừa biết quan điểm này của Lý Quang Diệu chỉ là một sự biện hộ cho các chính sách bị xem là độc tài và độc đoán của ông. Biết vậy, nhưng người ta cũng không thể không ghi nhận là với quan điểm ấy, ông trở thành một thủ lãnh tinh thần của châu Á, một Kissinger ở Phương Đông, như nhận định của một số học giả.

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Chuacuuthe.com


VRNs (25.03.2015) – Sàigòn – Một đoạn video lan truyền trên các trang mạng xã hội có độ dài gần 5 phút mô tả cảnh một cô giáo quát tháo một học sinh nữ, yêu cầu nữ sinh này đứng lại nhưng em đã bỏ chạy, ngay lập tức cô đã chạy lên ghế, rượt đuổi em học sinh ngay trong lớp học. Sau khi cô giáo bắt được nữ sinh này thì cô liên tục tát vào mặt, đánh vào đầu với những lời lẽ lăng mạ trước sự chứng kiến của nhiều em học sinh khác cùng lớp.

Trong đoạn video cũng cho thấy, một nữ sinh khác đã lên tiếng bảo vệ nữ sinh này sau khi chứng kiến cảnh cô giáo hành hung bạn, nhưng cô giáo tiếp tục dùng những lời lẽ đe dọa cả hai em học sinh.

Sau khi đoạn video trên được loan tải thì có nhiều phản ứng gay gắt về nền giáo dục VN sau gần 40 năm dưới thời XHCN.

Hông Trân thốt lên: “Giáo viên gì mà thiếu nhân cách quá!”. Thanh Pho Hao Hoa kêu lên: “Cô giáo kiểu gì vậy, dạy học sinh như thế này không thể chấp nhận được.” Trungthu Nguyen nói cụt lủn: “Cô giáo với nền giáo dục của cộng sản.”

Nhiều bạn đọc khác đau lòng khi nhìn thấy cô giáo rượt đuổi, hành hung học sinh và lo lắng hơn cho vận mệnh đất nước khi thế hệ trẻ đã và đang sống dưới nền giáo dục định hướng bạo lực, vô cảm và vô trách nhiệm của nhà cầm quyền cs gây ra suốt gần 40 năm qua.

Tuyen Nguyenngoc chán nản: “Một nền Giáo dục quá tồi tệ nhự vậy đủ để đánh giá sự phát triển của một đất nước ra sao…” Cong Hung phẫn nộ: “Trăm năm trồng người XHCN là đây! Người lớn đang dạy bạo lực cho trẻ nhỏ!”. Bùi Văn Tiến nói: “Hành vi ứng xử của Nhà giáo tác động trực tiếp đến hàng triệu học sinh được ví như ‘trang giấy trắng’, gián tiếp đến hàng chục triệu con người trong xã hội.”

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ‘bạo lực học đường’ càng ngày càng gia tăng ở độ tuổi học sinh. Đó là nhận xét của bạn Nhuhoa Nguyen, bạn này nói tiếp: “Chỉ mới có 40 năm ‘trồng người’ thôi, còn tới ’60 năm’ nữa mới đủ ‘Trăm năm trồng người’. Có thể từ bây giờ tới 60 năm nữa sẽ có cảnh bạo lực từ trường Mẫu giáo.”

Còn bạn đọc Phạm Gia Bình phản ứng mạnh: “Không thể tưởng tượng nổi. Cô giáo như vậy, thì bảo sao xã hội không loạn. Bộ giáo dục sẽ phản ứng ra sao đây? Với hành vi như vậy, cô giáo trên đã vi phạm một loạt các quy định như: đạo đức và tư cách nhà giáo, vi phạm luật bảo vệ trẻ em, lăng nhục và đe dọa tính mạng người khác, hành hung xâm phạm thân thể người khác. Với các vi phạm trên cô giáo trên phải bị đuổi việc và xử lý theo đúng pháp luật. Nếu cơ quan bảo vệ pháp luật không chủ động tham gia thì gia đình học sinh nên kiện cô giáo ra tòa.”

Tuy nhiên, rất nhiều bạn đọc khác lại đồng tình và thông cảm với cách hành xử của cô giáo trong đoạn video trên, bởi vì họ cho rằng, ngày nay, các em học sinh cứng đầu cứng cổ, cãi chày cãi cối, tính tình hung hăng… nên cần phải trừng trị thẳng tay như vậy.

Kelvin Anhvu nói: “Cô giáo đánh học sinh là sai nhưng gặp học sinh như thế này thì bực không chịu được. Ai đời, cô nói trò đứng lại thì trò không thèm nghe, còn cãi cả cô nữa, chẳng xem giáo viên ra gì.” Xa Que tiếp lời: “Đứng vào địa vị của cô giáo mới hiểu, bởi vì học sinh thời nay cái tốt thì không chịu học, mà cái xấu thì học rất nhanh.” Ước Mơ Nhỏ cho biết: “Cô giáo không như thế này thì làm sao mà trị được lũ học sinh hư hỏng. Phải có người như thế để chúng nó phải sợ mà lo lắng học hành chứ. Học sinh giờ mất nết lắm, không trị sẽ hư hỏng. Khổ cho các thầy cô giáo.”

Cũng có một số bạn đọc khác cho rằng, dư luận không nên đổ hết mọi tội lên đầu giáo viên. Kaoh Hmin Neugyn cho ý kiến: “Ngày trước, thầy cô giáo cũng đánh và trừng phạt học sinh bằng cách nằm lên bàn roi nện, khẻ tay, quỳ gối, viết phạt… nhưng học sinh thời đó không ngỗ nghịch, hay trả treo như bây giờ. Do đó, không thể buộc tội nhà giáo.”

Thế nhưng, bạn đọc tên là Diana Vuong không đồng tình với ý kiến của Kaoh Hmin Neugyn, bạn này nói: “Đồng ý với anh Kaoh là không nên đổ hết lỗi cho Thầy Cô Giáo. Một phần do gia đình, một phần do xã hội nhưng Thầy Cô Giáo ít nhất cũng phải làm gương cho học trò, tác phong đứng đắn một chút chứ ai mà rượt đuổi, đánh học trò như kẻ vô ý thức như vậy.” Còn bạn đọc Rock Xuyên Màn Đêm đặt lại vấn đề với Kaoh Hmin Neugyn: “Dù học sinh có hỗn láo như thế nào đi chăng nữa, thì cách hành xử của cô giáo như vậy có đúng không?”.

Như vậy là, chỉ qua một số bình luận tiêu biểu chúng tôi trích dẫn trên đã đủ cả những nguyên nhân từ chế độ chính trị, xã hội, luật pháp, xưa và nay, phê phán, ủng hộ… Thế nhưng, vấn đề cần đặt ra làm thế nào để không còn tái diễn những vụ việc tương tự thì lại ít người nêu lên. Phải chăng tâm lý chấp nhận sống chung với cái ác đã ngấm dần vào mỗi người dân VN, khiến mỗi người dân chỉ còn biết phê phán khi sự việc đã xẩy ra, còn xắn tay áo lên ngăn chặn sự ác từ trước khi chúng có thể hình thành thì thuộc nhiệm vụ người khác, mà dân gian thường mỉa mai ‘đã có đảng và nhà nước lo’! Người ta chỉ vẽ lên khẩu hiệu ‘tiên học lễ…’, còn Luật Giáo dục thì qui định hẳn một điều cấm ‘truyền bá tôn giáo…’. Trong khi xưa nay có ai nghe tôn giáo truyền bá điều ác? Người ta phát động học tập đạo đức…, nhưng đạo đức ấy đòi hỏi phải đấu tranh giai cấp, phải sử dụng bạo lực, phải trấn áp, phải cuớp, phải giành, phải đấu tố, phải giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Vâng, ‘gieo hạt nào, gặt quả ấy’.

Huyền Trang, Pv VRNs

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Tien Phan

RFA

NYC149403.jpg 

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975 

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta không thể bỏ qua Tết Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa năm 1972.

Miền Nam trước 1975 đang sống một cuộc sống bình yên, mọi người dân đều được Dân chủ, được bày tỏ chính kiến của mình và được tham gia bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng cộng sản Bắc Việt không chịu để yên cho người dân Miền nam, không chịu thực hiện hai hiệp định họ đã đặt bút ký vào đó mà lại vi phạm trắng trợn rồi để lại biết bao tang tóc, đau khổ cho hàng ngàn, hàng triệu gia đình Miền Nam trong đó có gia đình tôi.

Và đây là một ký ức, một câu chuyện hoàn toàn sự thật, không hề hư cấu dù một ý nhỏ nào của gia đình tôi trong những ngày tháng đó.

Bà Nội tôi sinh ra được năm người con, hai gái và ba trai. Trong năm người con đó có Ba tôi, tất cả đều phục vụ cho chế độ VNCH. Ba người con trai và một người rể tham gia Quân đội VNCH, còn một người con dâu tham gia bên hành chánh ở Quận thuộc tỉnh Quảng Tín. Với gia đình tôi thời kỳ đó là một niềm vinh hạnh nhất. Rồi chiến tranh, một cuộc chiến phi lý huynh đệ tương tàn đã cướp đi tất cả những con người đó. Để lại biết bao tang thương, ly tán và bất hạnh cho gia đình tôi, khi tôi mới vừa lên năm tuổi.

Cái tháng 3 đen của gia đình tôi là tháng 3/1972. Trong một tháng mà gia đình bà nội tôi phải chịu mất đi vĩnh viễn sáu người. Ngày đó mặc dù còn rất nhỏ nhưng tôi vẫn còn nhớ nội tôi phải đội trên mái đầu đến sáu chiếc khăn tang. Có sự tang thương nào bằng, có sự mất mát nào lớn lao đến thế, có nỗi đau nào bằng nỗi đau mẹ mất con, vợ mất chồng và con mất cha?

Đầu tháng 3/1972. Một tin như sét đánh vào gia đình tôi là Chú tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khe sanh, Quảng Trị trong Thiết đoàn tăng thiết giáp đã hy sinh. Lúc đó chú tôi mới tròn 27 tuổi và thím tôi đang mang thai được 7 tháng.

Ba tôi đang công tác ở đơn vị quân vận đóng tại Đà Nẵng nghe tin đó và đưa cả gia đình tôi về lập bàn thờ cho chú tôi ở quê nhà nội tôi là tỉnh Quảng Tín. Lập xong bàn thờ cho chú tôi thì Ba tôi nhận được lệnh hành quân ra Quảng trị. Nghe Má tôi kể lại là lúc đó cộng sản bắc việt đang tấn công thành cổ Quảng Trị dữ dội lắm và VNCH đang ra sức đánh để tái chiếm lại. Đơn vị Ba tôi phải vận chuyển nhu yếu phẩm và vũ khí đạn dược ra để tiếp tế cho Thuỷ Quân Lục Chiến thời bấy giờ đang giành giật lại từng tấc đất.

Ba tôi đi hành quân được một tuần lễ thì một thông tin báo về cho gia đình tôi như sét đánh tiếp là đoàn chiến xa của Ba tôi đã bị cộng sản Bắc việt chặn đánh tại cầu Mỹ Chánh. Tất cả đoàn xe lọt vào ổ phục kích cộng sản nên đã bị thiêu rụi không còn một chiếc nào trở về được do pháo kích dữ dội của cộng sản. Lúc bây giờ Má tôi, Nội tôi và cả gia đình tôi như chết lặng đi trong cơn tuyệt vọng và tan gtóc. Rồi sau đó một di ảnh và một cái bàn thờ nữa đã đặt ở nhà nội tôi với mùi khói hương u ám, chết chóc bao trùm lên cả gia đình tôi. Từ mẹ già, vợ hiền đến con thơ ai nấy đều chít trên đầu những chiếc khăn tang trắng.

Lúc ba tôi tử trận thì má tôi đang có bầu sắp sanh hai em tôi (thai song sinh). Mặc dầu đau thương cực độ nhưng gia đình tôi hy vọng sẽ đến nơi lửa đạn khốc liệt đó để tìm xác ba và chú tôi đem về với đất mẹ. Nhưng hoàn toàn tuyệt vọng cho dù chỉ cần mong mỏi tìm thấy được chút gì còn lại của hai cái thân xác ba và chú tôi. Tất cả hai con người đó, hai thân xác đó không còn chút gì để tìm thấy được nữa.

Bất hạnh không dừng lại ở đó với gia đình tôi. Ngày đó cả gia đình tôi đều dồn vào mỗi công việc là đi tìm kiếm cho bằng được thân xác của ba và chú tôi đem về đất mẹ. Tất cả những nơi nào nghe ngóng được là Quân lực VNCH thu gom chiến trường và đưa xác của tử sĩ về vùng an toàn là gia đình tôi đều tìm đến. Nhưng tất cả đều tuyệt vọng, không tìm được chút gì còn sót lại cả. Nỗi đau chồng chất nỗi đau.

NYC149404-350.jpg

Những người mẹ mang con di tản ngày 30/4/1975. Hiroji Kubota/Magnum Photos

Có lẽ do đau buồn quá nhiều, tuyệt vọng quá nhiều và đi lại tìm kiếm quá nhiều nên má tôi và người bác dâu của tôi đã không giữ được những sinh linh trong bào thai non nớt đó. Cả hai đều sanh ra nhưng những sinh linh vô tội đó không sống được trên cõi đời này nữa. Bác dâu tôi cũng mang thai song sinh như má tôi. Bốn con người vô tội nữa cũng ra đi vĩnh viễn.

Như vậy là trong tháng 3/1972 gia đình tôi đã mất đi sáu người. Cuộc chiến phi lý này đã cướp đi những gì bình yên và hạnh phúc nhất của một gia đình trong nhiều gia đình ở miền nam lúc bấy giờ. Hậu quả của nó để lại không hề quên lãng được. Những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi sống làm sao trong nhũng ngày loạn lạc còn lại. Bà Nội tôi như điên dại, Má và Thím dâu tôi như chết rồi, còn chúng tôi thì ngơ ngác, ngây thơ và bơ vơ cứ hỏi sao Ba không về hả Má.

Ngày 30/4/1975. Sài gòn thất thủ, kẻ ở người đi, kẻ cười người khóc, ly tan ly tán. Trước ngày Sài gòn thất thủ, gia đình tôi chỉ còn lại hai người đàn ông duy nhất mà gia đình có thể dựa vào đó để mà sống những ngày còn lại đó là Bác tôi và người Dượng chồng cô tôi. Lúc đó đang còn ở Quân đội VNCH. Nhưng rồi họ cũng mất đi từ cái tháng 4 đen đó. Sau 30/4 không còn một tin tức gì với hai người đó nữa. Không biết họ đã sống chết như thế nào?  Sau 30/4 gia đình tôi chỉ còn lại bà già, goá phụ và trẻ mồ côi mà thôi. Cuộc chiến này đã cướp hết những gì gia đình tôi đã có trước đây và mất đi từ năm1972 đến 1975.

Bốn mươi năm trôi qua, bốn mươi năm thành trẻ mồ côi cha. Thời gian chừng ấy  đủ để một đứa trẻ lúc đó đến bây giờ cũng ngoài 40 tuổi suy ngẫm, nhận thức mà đem vào ký ức. Bốn mươi năm một gia đình toàn bà già và con nít sống trong chế độ cộng sản.

Tôi không muốn nhắc lại quá khứ tang thương này của gia đình tôi và nhiều gia đình giống như vậy ở miền nam. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, tội ác vẫn là tội ác. Không có ai có quyền bóp méo. Mọi người cứ thử tưởng tượng một người mẹ hàng đêm không ngủ mà trên tay cứ cầm chiếc đèn dầu heo hắt đi quanh nhà mà gọi tên con, cho dù những đứa con đó đã bỏ mẹ già, bỏ vợ con ra đi đã hơn 10 năm rồi. Đến lúc nhắm mắt lìa đời ở tuổi 84 như bà Nội tôi cũng chỉ có một mình trên giường, không con, không cháu và không một lần thắp được cho những đứa con mang nặng đẻ đau một nén nhang trong đêm giá lạnh vì tất cả đã chết mà không hề có mộ phần.

Cuộc chiến này đã cướp đi linh hồn và cả thể xác những đứa con của Nội tôi. Còn nhiều nỗi đau nữa mà những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi phải chứng kiến và gánh chịu. Tôi không than thở vì tôi ý thức được rằng đó là hậu quả của một cuộc chiến mà anh em, cha con bắn giết nhau để phục vụ cho một chủ nghĩa. Tôi chỉ muốn thức tỉnh những ai đó còn chút lương tri của con người, còn chút suy nghĩ về đồng loại của mình mà đang là lãnh đạo, có quyền chức, có điều kiện, được học hành thì hãy thức tỉnh lại để dân tộc này bớt khổ đau, trao lại cho nhân dân quyền dân chủ thực thụ như bao dân tộc dân chủ cường thịnh khác trên thế giới này.

Tôi cũng xin khẩn thiết kêu gọi những ai mà đã ra đi tìm được cuộc sống tự do ở hải ngoại hãy nghĩ về những đứa trẻ mồ côi của đồng đội mình đang ở trong nước hay ngoài nước mà động viên, an ủi và ủng hộ cho cuộc đấu tranh nhân quyền của dân tộc này.

Có trách nhiệm hơn với đất nước, với dân tộc, với chủ quyền lãnh thổ, với những đứa trẻ mồ côi đã chết hay còn sống như tôi dù chỉ một lời chia sẻ hay động viên an ủi. Ít ra cũng làm chúng ấm lòng và biết được cha ông chúng đã ngã xuống không phi nghĩa mà chúng đã chịu miệt thị, cô đơn và phân biệt hơn 40 năm rồi. Tôi cũng kêu gọi tất cả những đứa trẻ mồ côi cha hay mẹ trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 hãy liên lạc, chia sẻ, giúp đở nhau để làm điều gì đó không phụ lòng cha mẹ mình đã nằm xuống cho đất nước.

Chúng tôi mong muốn sao một Việt nam thực sự Tự Do Dân Chủ, Đoàn Kết Dân Tộc, cùng nhau xây dựng đất nước cường thịnh để đủ mạnh về quân sự, vững chắc về kinh tế cùng nhau bảo vệ và chống lại giặc ngoại xâm. Để trẻ em như chúng tôi ở những ngày 40 năm về trước được học hành, được tự do thực thụ và được sống trong vòng tay yêu thương, che chắn của cha mẹ.

Chuyện THỜI CƠ

Chuyện THỜI CƠ

Phạm Đình Hưng

Author: muoisau || Tags: Biên Khảo |

Bằng chứng bán biển cho Tàu của việt cộng, còn gọi là công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Bài đọc suy gẫm: Chuyện THỜI CƠ – tác giả Phạm Đình Hưng. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.

Lưu Bang và Chu Nguyên Chương (phải) trong sử Tàu

Người xưa đã dạy: Sự thành công của các vấn đề quốc gia đại sự tùy thuộc vào ba yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Trong bài viết nầy, tôi chỉ nêu lên yếu tố thiên thời tác động đến nền chánh trị Việt Nam trong thế kỷ 20.

Thiên thời là thời cơ do Thượng đế tạo ra với bàn tay của con người hành động theo sự sai khiến của Đấng Tạo hóa. Trong lịch sử của Trung Hoa cổ thời, thiên thời đã giúp cho Lưu Bang, một đình trưởng thích cờ bạc rượu chè, trở thành người khai lập nhà Hán, một triều đại lâu dài nhứt của nước Tàu và là niềm hãnh diện của người Hán; thiên thời cũng đã giúp cho một con người du thủ du thực như Chu Nguyên Chương trở thành Minh Thái tổ. Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng cho thấy thời cơ đã đưa đẩy một số người không có văn hóa cao lên địa vi lãnh đạo và quyền uy của nước Việt Nam trong thời dân chủ đúng theo chủ trương và đường lối của đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt nặng hồng hơn chuyên và xem trí thức không có giá trị bằng một cục phân :
– Một cán bộ Đệ tam quốc tế cộng sản cấp thừa hành và đảng viên đảng Cộng sản Trung quốc chỉ có trình độ tiểu học đã leo lên ngồi trên ghế Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam cho đến mãn đời: Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh;
– Một công nhân đường sắt học lực tiểu học có quyền lực tột đỉnh của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam ngự trị như một ông vua tại Bắc bộ phủ từ năm 1969 đến khi qua đời năm 1986: Lê Duẫn
– Một cai đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) có trình độ tiểu học đã ngự trên ngai vàng An Nam Quốc Vương: Lê Đức Anh;
– Một thợ thiến heo đã trở thành Tể tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam : Đỗ Mười;
– Một người đi bộ đội từ lúc 18 tuổi đã leo lên ngôi vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam (đại nhân số 1 của đất nước có 4,000 năm văn hiến) : Lê Khả Phiêu;
– Một người dân tộc Choang của Trung Quốc trong tỉnh Quảng Tây đã chiếm ghế Chủ tịch Quốc Hội trong 5 năm và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam trong 10 năm : Nông Đức Mạnh;
– Một tên vô lại phá xóm phá làng đã được làm Bộ trưởng bộ Công An của Nội các Phạm văn Đồng trong nhiều thập niên: Trần Quốc Hoàn;
– Một người trẻ ít học đi làm lao động chân tay ở nước ngoài khi trở về nước được bầu cử làm Bí thơ Tỉnh ủy Bắc Giang kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam: Nông Quốc Tuấn (con Nông Đức Mạnh, cháu nội Hồ Chí Minh).

Tại Việt Nam, trong cuộc tranh chấp về ý thức hệ giữa hai khuynh hướng Cộng sản quốc tế theo Nga-Hoa và khuynh hướng tự do dân chủ theo Tây phương, đảng Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng các thời cơ thuận lợi kể sau để cướp chánh quyền năm 1945, chiếm miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và thống trị cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay:
1- Thời cơ thứ nhứt: Hội kiến giữa Hồ Chí Minh và Archimedes Patti

Hồ Chí Minh và nhóm OSS Hoa Kỳ tại chiến khu Cao Bắc Lạng và Thiếu tá Archimedes Patti hồi thế chiến thứ 2 (dưới, phải).

Trong thời gian công tác tại Hoa Nam (1940-1943) với tư cách đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Quang (Hồ Chí Minh) đã có cơ hội gặp Thiếu tá Archimedes Patti, Trưởng Phái bộ OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của Central Intelligence Agency, tại Vân Nam. Lúc đó, Hồ Chí Minh là điệp viên Lucius cộng tác với Hoa Kỳ tại Hoa Nam. Trong dịp gặp mặt Hồ Chí Minh, Thiếu tá Patti đề nghị huấn luyện và trang bị võ khí cho đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp để Hồ Chí Minh có một lực lượng võ trang trong chiến khu Cao Bắc Lạng giúp Hoa Kỳ chống Nhựt. Ngoài sự giúp đỡ của OSS, Hồ Chí Minh còn được Trung tướng Không quân hồi hưu Claire Lee Chennault (1893-1958), Chỉ huy trưởng Phi đội Flying Tigers (Cọp Bay) tặng cho một số súng lục khi ông ta đem giao trả một phi công Mỹ nhảy dù xuống chiến khu Cao Bắc Lạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng đội Võ Trang Tuyên Truyền và võ khí do Hoa Kỳ cung cấp để cướp chánh quyền năm 1945. Vào mùa thu năm ấy, đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp là một lực lượng võ trang có nhiều võ khí hơn các chánh đảng và tổ chức chánh trị khác.

2- Thời cơ thứ hai: Nhựt bổn đầu hàng Hoa Kỳ
Sau ngày quân đội chiếm đóng Nhựt đảo chánh nhà cầm quyền Pháp (9-3-1945) và Hoàng đế Bảo Đại tuyên cáo nước Việt Nam độc lập (11-3-1945), Nội các Trần Trọng Kim đã được thành lập lần đầu tiên tại Việt Nam với các nhân vật có trình độ văn hóa cao. Trong khi Nội các Trần Trọng Kim đang tiến hành các chương trình xây dựng đất nước vừa mới thu hồi độc lập, ngày 15-8-1945, Nhựt hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vài ngày sau khi Hoa Kỳ tàn phá hai thành phố Hiroshima và Nagasaki với hai trái bom nguyên tử cở nhỏ. Tại Hà Nội, ngày 19-8-1945, đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ sử dụng bạo lực cướp chánh quyền từ trong tay Nội các Trần Trọng Kim và vua Bảo Đại. Tại Sài Gòn, một nhóm nhỏ đảng viên cộng sản Đệ tam quốc tế gồm có Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Nguyễn, Cao Đăng Chiếm v.v…đã sử dụng đoàn Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức ngoại vi cuả đảng Cộng sản Việt Nam, để cướp chánh quyền vài ngày sau Hà Nội. Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đã bị buộc phải thoái vị để tránh khỏi nội chiến giữa người Việt Nam theo đuổi hai khuynh hướng chánh trị khác nhau.
Mặc dầu đã cướp được chánh quyền nhưng vì thiếu chánh nghĩa và bất hợp pháp, ngụy quyền Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1949 đã không được bất cứ một quốc gia nào trên thế giới công nhận, kể cả Liên Xô.

Lợi dụng tư thế và phương tiện của nhà cầm quyền, cán bộ cộng sản Đệ tam quốc tế ở khắp nơi trong nước nhận được chỉ thị của Hồ Chí Minh ra tay tiêu diệt ngay tất cả đảng viên Đệ tứ quốc tế cộng sản, các trí thức yêu nước nổi tiếng, các nhà hành chánh lỗi lạc và nhiều nhân tài tinh hoa của dân tộc cũng như lãnh tụ các đảng phái quốc gia giữa lúc quân đội viễn chinh Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam: Thượng thơ Phạm Quỳnh, Tổng đốc Ngô Đình Khôi, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Trần văn Thạch, Huỳnh văn Phương, Dương văn Giáo, vợ chồng Hồ Vĩnh Ký, Lê Bá Cang, Lê văn Tình, Đào Sanh Long, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Nhượng Tống v.v…

Hình ảnh một số những nhân tài của Việt Nam bị việt cộng sát hại

Mặc dầu đã bị quân Pháp rượt chạy ra khỏi Sài Gòn từ tháng 9 năm 1945, bọn Cộng sản Đệ tam quốc tế dưới mặt nạ Việt Minh, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tại Quảng Tây năm 1941, tiếp tục giết chết một cách dã man nhiều nhân vật tôn giáo, chánh trị và quân sự có uy tín: Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Khâm sai Đại thần Nguyễn văn Sâm, Giáo sư Hồ văn Ngà, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thọ, một số đông chức sắc và đạo hữu Cao Đài Tây Ninh, viên chức xã ấp (Ban Hội tề) và rất nhiều thường dân bị chụp mũ oan ức là Việt gian, gián điệp của Pháp. Thân hào, nhân sĩ, trí thức là mục tiêu chém giết của bọn bần cố nông bị đảng Cộng sản tuyên truyền xúi dục.
Tại Hà Nội, Bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp đã mời Thứ trưởng bộ Quốc Phòng Vũ Hồng Khanh cùng ký kết với Jean Sainteny, Đại diện Cao Ủy Pháp Leon Pignon, Tạm Ước ngày 6-3-1946 để thực hiện sách lược “rước Pháp, đuổi Tàu” nhằm mục đích tận diệt lực lượng võ trang của Việt Cách và Việt Quốc sau khi quân đội của Lư Hán rút về Tàu.

Phan Văn Hùm bút danh Phù Dao (phải), là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tại Việt Nam.

Nói tóm lại, người cộng sản Việt Nam đã gọi hành động cướp chánh quyền năm 1945 là cuộc Cách mạng mùa Thu. Đúng là một cuộc Cách mạng mùa Thu chết vì đảng Cộng sản Việt Nam đã giết chết quá nhiều đồng bào ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp để tóm đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến và cướp công đấu tranh của quần chúng yêu nước tham gia kháng chiến giành độc lập cho dân tộc Việt Nam.

Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo và Nhượng Tống (phải), nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam.

3- Thời cơ thứ ba: Trung Cộng toàn thắng tại Trung Hoa
Sau khi đánh bại Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông đã thành lập nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1-10-1949 và công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh vào tháng 1 năm 1950. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên thiết lập bang giao với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vì Hồ Chí Minh là cán bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc. La Quy Ba, cán bộ chánh trị của đảng Cộng sản Trung quốc, đã được Bắc kinh gởi sang miền thượng du Bắc Việt để làm Cố vấn cho ngụy quyền Hồ Chí Minh. Trong hai năm 1950 và 1951, người đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc mang bí danh Hồ Quang nay trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trở về Tàu cầu xin viện trợ quân sự để đánh Pháp vì “bộ đội Việt Minh đã chiến đấu trong vòng vây của quân Pháp” (theo lời các cố vấn quân sự Tàu) và chính bản thân Hồ Chí Minh cũng suýt bị quân Pháp bắt sống.
Vì quyền lợi lâu dài của Đại Hán, Bắc kinh đã tích cực giúp đỡ đảng Cộng sản Việt Nam, một chi bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc, về cả hai mặt quân sự và chánh trị. Đoàn Cố vấn quân sự Tàu do Đại tướng Trần Canh chỉ huy đã được cấp tốc gởi sang Việt Nam. Nếu không có sự trực tiếp tham chiến của Đại tướng Trần Canh và chí nguyện quân Tàu áp dụng chiến thuật biển người thì Việt Minh làm sao có thể bắt sống được hai Đại tá Pháp Le Page và Charton trong chiến dịch biên giới năm 1950? Nếu không có sự tham chiến của Pháo binh Trung Quốc dưới quyền chỉ huy của tướng Tàu Vi Quốc Thanh thì Võ Nguyên Giáp làm sao có thể chiến thắng Thiếu tướng Pháp De Castries tại Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954? Nếu không có ý kiến của Thủ tướng Anh Winston Churchill chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào trận đánh Điện Biên Phủ thì các ổ trọng pháo của Vi Quốc Thanh và các sư đoàn bộ đội của Việt Minh còn nguyên vẹn hay không trong mưa bom của các phóng pháo cơ B29 Hoa Kỳ?

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa Hồ Chí Minh về Bắc bộ phủ ngự trị miền Bắc Việt Nam. Cái giá phải trả lần đầu cho viện trợ quân sự của Trung Quốc là công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đã qua đời từ lâu nhưng công hàm bán nước nầy vẫn để lại những di hại nghiêm trọng cho đất nước và dân tộc Việt Nam: mất chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không khai thác được những tài nguyên phong phú của biển cả (hải sản, dầu khí và các khoáng sản dưới đáy biển Đông).

Dưới quyền chỉ đạo của Thái thú Trung Quốc La Quý Ba, Bắc Việt đã chánh thức tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước khi ban hành Hiến pháp 1959. Tuân hành chỉ thị của Trung Quốc, Bắc Việt đã tiến hành Cải Cách Ruộng Đất từ năm 1951 đến năm 1956 dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Tàu để giết hại vô số địa chủ, phú nông và thân hào nhân sĩ ở nông thôn miền Bắc, Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp để cướp ruộng đất và tài sản của nông dân, đàn áp, trừng phạt và tù đày các trí thức, nhà báo và văn nghệ sĩ, tập trung cải tạo các quân nhân, công chức của chế độ Quốc Gia Việt Nam không di tản vào Nam và lùa gia đình của họ về các vùng thâm sơn cùng cốc để khai hoang sinh sống lây lất cho đến hết kiếp người.

Về mặt kinh tế, Bắc Việt cộng sản đã áp dụng chế độ mậu dịch quốc doanh và chế độ tem phiếu, đánh tư sản mại bàn và cải tạo công thương nghiệp để dẹp bỏ tư doanh.
Về mặt an ninh nội chính, Bắc Việt cộng sản triệt để thực hiện chế độ công an trị và vay mượn chế độ hộ khẩu của Vệ Ưởng (còn gọi là Thương Ưởng) bên Tàu từ thời Chiến Quốc.

Sau khi nhưộm đỏ miền Bắc, đảng Cộng sản Việt Nam âm mưu thôn tính miền Nam, ngụy tạo ra lý do thống nhứt đất nước để thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1960 và một số tổ chức chánh trị của các trí thức thiên tả có nhiệm vụ đánh phá, khuấy rối an ninh trật tự của Việt Nam Cộng Hòa theo khuynh hướng tự do dân chủ của Tây phương. Nịnh bợ hai quan thầy Nga-Hoa để nhận viện trợ đánh miền Nam, Bắc Việt cộng sản luôn luôn gọi Trung quốc là Trung quốc vĩ đại, Liên Xô là Liên Xô vĩ đại. Trong các đại hội của đảng Cộng sản, Bắc Việt không bao giờ quên treo trên cao hình ảnh của Josef Stalin và Mao Trach Đông bên cạnh hình của Karl Marx và Vladimir Lenin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chiêm ngưỡng, thờ phượng. Tuy nhiên, kể từ thập niên 1950, Bắc Việt đã chịu ảnh hưởng của Trung quốc nhiều hơn Liên Xô vì Stalin đã giải tán Đệ tam quốc tế cộng sản từ năm 1943, không công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh trước năm 1950 và cũng không viện trợ quân sự cho đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945-1954). Tình đồng chí Việt-Xô càng thêm suy giảm sau khi Stalin qua đời, nhứt là từ khi Nikita Khrushev (1953-1964) kế vị Stalin nêu cao chủ trương xét lại chủ nghĩa cộng sản để sống chung hòa bình với chế độ tư bản. Dưới sự trị vì của Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam rất dị ứng với Nikita Khrushev vì vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên xô đã công khai chỉ trích nhà độc tài khát máu Josef Stalin, thần tượng của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

Nói tóm lại, sau khi toàn dân Việt yêu nước đã đứng dậy đánh đuổi thực dân Pháp, Bắc Việt đã mất độc lập đối với Trung Cộng, nhân dân miền Bắc Việt Nam mất tự do và không có hạnh phúc trong kiếp sống lầm than đói khổ và bị Công An kềm kẹp ngày đêm. Ngay cả các đảng viên cộng sản cao cấp như Bí thơ Vũ Đình Huỳnh, Thiếu tướng Lê Liêm, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Viện trưởng Hoàng Minh Chính, Thứ trưởng bộ Công An Lê Hồng Hà v.v…cũng bị trù dập, tù đày khi hưởng ứng chánh sách Đổi Mới của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushev.

Hình ảnh tội ác cộng sản giết hại dân trong những đợt cải cách ruộng đất tại miền bắc.

4- Thời cơ thứ tư: Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Ngày 23-8-1963, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi một công điện qua Sài Gòn ra lịnh Đại sứ Cabot Lodge đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của miền Nam Việt Nam. Công điện nầy đã không trình Tổng Thống John F. Kennedy xét duyệt. Người quyết định đảo chánh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm là Thứ trưởng bộ Ngoại Giao Averell Harriman vì hai lý do:
– Đại nhân đảng Dân Chủ Hoa Kỳ Harriman không ưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm;

– Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đem quân chiến đấu sang Nam Việt Nam, lo ngại mất chánh nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của nhân dân miền Nam.

Ngày 1-11-1963, cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tiến hành thuận lợi dưới sự chỉ huy của Trung tá CIA Lucien Conein. Ngày 2-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát trên đường tướng Mai Hữu Xuân áp giải hai đại nhân vật nầy từ nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn về bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm một số tướng lãnh và Đại tá đã hủy bỏ Hiến pháp ngày 26-10-1955 và giựt sập nền Đệ nhứt Cộng Hòa.

Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một đối thủ chánh trị lợi hại, đã bị giết chết, Hồ Chí Minh cười to và nói đại ý như sau: Trời đã giúp ta, khiến cho Hoa Kỳ khờ dại giết chết Ngô Đình Diệm.
Lời phê phán của Hồ Chí Minh rất đúng. Thật vậy, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại, không có một lãnh tụ nào của các chế độ chuyển tiếp có đủ bản lãnh và uy tín để đối phó với Hồ Chí Minh. Mặt khác, quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hủy bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược của ông Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã giúp cho cán binh cộng sản ung thối nông thôn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng sự suy yếu rõ rệt của Việt Nam Cộng Hòa sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu qua đời để tăng cường xâm nhập miền Nam, sử dụng con đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Để cứu nguy Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã lập tức đổ quân vào miền Nam Việt Nam, kể từ tháng 2 năm 1965. Đúng như lời cảnh giác của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam đã gây ra một công luận bất lợi cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trên chánh trường thế giới. Phong trào phản chiến đã phát triển ngày càng mạnh mẽ tại Hoa Kỳ, đòi hỏi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Báo chí và hệ thống truyền thông Mỹ không ngớt chỉ trích gay gắt Việt Nam Cộng Hòa một cách bất công.

5-Thời cơ thứ năm: Hoa Kỳ quan hệ ngoại giao với Trung quốc.
Tháng 2 năm 1972, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã đến Thượng Hải hội kiến với Mao Trạch Đông, Chủ tịch đảng Cộng sản Trung Quốc. Một thông cáo chung đã được công bố tại Thượng Hải để chánh thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Trước khi hội kiến với Mao Trạch Đông, Tổng Thống Nixon đã ghi trong sổ tay hai nhượng bộ đối với Trung quốc: Đài Loan và Nam Việt Nam. Đổi lại, Trung quốc sẽ cho giới tư bản Mỹ đầu tư tại nước rộng lớn nầy và buôn bán sản phẩm giữa hai nước. Ngoài thông cáo chung Thượng Hải, Tiến sĩ Henry Kisssinger, Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, còn nói thẳng với Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc Vụ Viện Trung quốc: Hoa Kỳ đã bang giao với Trung quốc thì cũng có thể quan hệ bình thường với Bắc Việt. Để thực hiện sự nhượng bộ đối với Trung quốc tại Nam Việt Nam, Tiến sĩ Kissinger đã đi đêm với Lê Đức Thọ, Cố vấn Phái đoàn hòa đàm của Bắc Việt, và chấp nhận hầu hết các điều khoản của bản dự thảo hiệp định Paris do Lê Đức Thọ soạn thảo. Hoa Kỳ đã cưỡng bách Việt Nam Cộng Hòa phải chấp thuận bản dự thảo hiệp định nầy. Để dẹp bỏ sự chống đối của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu, Đại tướng Alexander Haig, Phụ tá của Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon đã không ngần ngại đe dọa mạng sống của Tổng Thống một nước đồng minh. Hiệp định Paris ký kết ngày 27-1-1973 là một bản án khai tử Việt Nam Cộng Hòa, một hiệp định quốc tế được long trọng ký kết trước sự hiện diện của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc bởi 12 quốc gia trong đó có 5 nước thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An để rồi bị xé bỏ ngay sau đó không một ai thương tiếc. Tiếp theo việc ký kết hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã chấm dứt viện trợ quân sự và tất cả các khoản viện trợ khác cho Việt Nam Cộng Hòa, cưỡng bách sự từ chức của Tổng Thống dân cử Nguyễn văn Thiệu để thúc đẩy nhanh chóng sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Sự thay đồi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã giúp cho Hải quân Trung quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa ngày 19-1-1974 trước sự bàng quang vô cảm của Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và ngầm cho phép cộng sản Bắc Việt xua 13 sư đoàn công khai vượt vĩ tuyến 17 bất chấp hiệp định quốc tế Geneve ký kết ngày 20-7-1954 để tràn ngập miền Nam. Bắc Việt cộng sản đã chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Việt Nam nhưng đã vi phạm trắng trợn hai hiệp định Geneve và Paris. Tuy nhiên, Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và các nước đã ký kết hai hiệp định quốc tế nầy đều đồng tình làm ngơ trước sự vi phạm luật pháp quốc tế nầy. Nếu Hoa Kỳ không chuyển giao miền Nam Việt Nam cho đế quốc cộng sản phương Đông và không chấm dứt mọi viện trợ thì làm sao Bắc Việt cộng sản có thể thôn tính Việt Nam Cộng Hòa?
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, kẻ chiến thắng đã thiết lập một chế độ cộng sản độc tài độc đảng ngự trị toàn cõi Việt Nam cho đến ngày nay. Dưới quyền lãnh đạo chuyên chế của Lê Duẫn, Việt Nam đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” để đem lại nghèo đói cho quảng đại quần chúng, đưa vô số người dân vào ngục tù và triệt tiêu tất cả quyền tự do căn bản của dân tộc Việt. Mô hình cai trị của miền Bắc xã hội chủ nghĩa lập tức áp đặt trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Cái giá phải trả cho sự thôn tính miền Nam là 10 tỷ Mỹ kim mua các võ khí nặng của Liên Xô và 300 tỷ Mỹ kim mua các phương tiện chiến tranh khác của Trung Cộng. Riêng đối với Trung Cộng, đảng Cộng sản Việt Nam đã phải trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ, quần đảo và biển Đông.
Tự hào đã chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975 sau khi đánh đuổi phát xít Nhựt năm 1945 và thực dân Pháp năm 1954, đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai phơi bày lý lịch cộng sản của mình và tự nguyện làm tiền đồn tại Đông Nam Á của chủ nghĩa cộng sản quốc tế với tên nước rất hách dịch: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng sau khi đế quốc cộng sản Liên Xô sụp đổ năm 1991, Cộng sản Việt Nam đã khấu đầu thần phục đế quốc cộng sản Đại Hán, đồng thời khúm núm ngữa tay cầu xin viện trợ của các cựu thù Hoa Kỳ, Nhựt bổn, Pháp, các nước Tây Âu và các định chế tài chánh quốc tế. Vì mưu cầu quyền lực và tích lủy tài sản riêng tư khổng lồ của họ cho các đời con cháu, các lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã tình nguyện làm Thái thú cho Trung quốc và âm thầm sáp nhập dần dần toàn bộ lãnh thổ và biển Đông của Việt Nam vào Trung quốc để biến thành một quận huyện của Hán tộc theo yêu sách của Giang Trạch Dân tại hội nghị Thành Đô năm 1990.

Bản đồ đế quốc Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu Châu từ 1206 -1294 suy tàn.

KẾT LUẬN
Trong 5 thời cơ kể trên, Hoa Kỳ đã tạo ra 3 thời cơ thuận lợi cho đảng Cộng sản Việt Nam khai thác để làm chủ đất nước Việt Nam và thiết lập tại Hà Nội một triều đình phong kiến có toàn quyền ban bố chức vị, vàng bạc và đất đai cho một thiểu số cán bộ, đảng viên cộng sản (3 triệu người) trong tổng số 90 triệu đồng bào trong nước. Trong cuộc nội chiến giữa người Việt Nam kéo dài 30 năm (1945-1975), đảng Cộng sản đã đạt thắng lợi cuối cùng nhờ bất chấp luật pháp quốc tế và có viện trợ hùng hậu của Trung quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các lãnh tụ cộng sản cũng biết lợi dụng các thời cơ thuận lợi để cướp được chánh quyền trong cả nước.

Về mặt tâm linh, chính Thượng đế đã thiết lập mọi chánh quyền trên quả đất nầy để giúp dân lành và diệt trừ hung bạo. (Roma 13:1-4). Nếu không giúp dân lành mà lại sử dụng bọn xã hội đen gian ác, bất lương để cướp của, giết người, đánh đập hà hiếp lương dân, chánh quyền đó chắc chắn sẽ bị diệt vong vì không làm đúng nhiệm vụ do Thượng đế giao phó. Ngoài ra, Thượng đế cũng đã phán rằng không có đế quốc nào không suy tàn (Daniel 2:24-49). Tự cổ chí kim, các đế quốc hùng mạnh như đế quốc Assyria (Assyrian Empire), Babylon (Babylonian Empire), Ba Tư (Persian Empire), La Mã (Roman Empire), Mông Cổ (Mongolian Empire) , Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire), Liên Xô (Soviet Empire) đã lần lượt sụp đổ. Ngày tiêu vong của đế quốc cộng sản Hán tộc (Han Empire) phương Bắc không còn xa. Chế độ cộng sản Việt Nam cũng sẽ cùng chung số phận của quan thầy Bắc kinh.

Phạm Đình Hưng

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

Trần Quí Cao

Sự Việc Đã Xảy Ra

Những ngày giữa tháng 3/2015, người dân Hà Nội bỗng thấy cây xanh các tuyến phố bị đốn hạ tràn lan và không thương tiếc. Tìm hiểu người ta mới biết:

Sở Xây dựng Thành phố Hà Nội đề xuất thành phố cho thay thế 6.700 cây, thời gian thực hiện trong 3 năm (2015 – 2017), dự tính kinh phí khoảng 60 tỷ đồng. Chấp nhận đề xuất, sau đó chính quyền Hà Nội tiến hành đốn cây, bất chấp những lời kêu gọi dừng lại của nhiều thành phần dân chúng thủ đô. Trong vòng 3 ngày, theo báo PetroTimes, có khoảng 2.000 cây bị đốn. Dọc con phố Nguyễn Chí Thanh, hơn 400 gốc cây, xác cây nằm la liệt. Trong số các cây bị đốn hạ, có rất nhiều cây đang mạnh khỏe, to đẹp.

Do sự phản đối dữ dội của dư luận, Hà Nội phải dừng việc đốn cây.

Thái Độ Không Thèm Nghe Ý Dân của Chính Quyền Hà Nội

Trước khi có lệnh tạm dừng việc đốn cây và điều tra, giới cầm quyền Hà Nội tỏ thái độ không bận tâm với những ý kiến phản đối. Đáp lại phản ứng của các tầng lới dân chúng thủ đô, ông Phó trưởng ban tuyên giáo Hà Nội Phan Đăng Long tuyên bố việc chặt cây không cần phải hỏi dân. Thái độ nhà cầm quyền rõ ràng là không nghe ý dân. Không thèm nghe.

Thực ra việc không thèm nghe ý kiến của đám dân đen đã là thói quen của nhà cầm quyền độc tài độc đảng. Khi ý đảng và lòng dân khác nhau, nhà cầm quyền bất chấp lòng dân. Do đó, chính quyền đã tiến hành biết bao nhiêu việc gây tổn thất về tiền của, tính mạng và đau thương cho dân chúng!

Một Số Chính Sách Tàn Hại Vì Không Nghe Theo Ý Dân

Từ sau 1975, từ khi đảng Cộng Sản cai trị toàn thể đất nước theo chế độ độc đảng và toàn trị, nhà cầm quyền đã thi hành bao nhiêu chính sách tàn hại ghê gớm cho đất nước, bất chấp lòng dân? Hãy cùng xem lại:

1) Chính sách bắt “Ngụy Quân Ngụy Quyền” vào trại Học Tập Cải Tạo. Thực chất của chính sách này là bỏ tù không xét xử các viên chức chính quyền và quân đội chế độ Sài Gòn. Sau khi Việt Nam thống nhất, lẽ ra chính quyền cần thi hành chính sách thu phục lòng dân, kéo hai miền tổ quốc xích lại gần nhau, thì chính sách này lại đẩy hận thù của hai miền lên cao ngất. Hậu quả tai hại của hận thù và chia cắt lòng người vẫn còn tồn tại rất lớn sau 40 năm!

2) Chính sách Cải Tạo Tư Sản Mại Bản, Tư Sản Công Thương Nghiệp. Thực chất của chính sách này là tịch thu tài sản do người dân miền Nam gầy dựng để ban phát cho viên chức của đội quân chiến thắng. Chính sách này tiêu diệt nền tảng sản xuất, kinh doanh của miền Nam, cả cơ sở vật chất lẫn tầng lớp con người có khả năng, kéo theo cả nước đói nghèo 15 năm sau đó.

3) Chính sách Xóa Bỏ Văn Hóa Phẩm Phản Động Đồi Trụy. Thực chất của chính sách này là xóa bỏ tất cả kiến thức, tư tưởng, triết thuyết chính trị không thuộc hệ thống tri thức ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản; các thông tin về thế giới các nước Tự Do, về chính quyền miền Nam trước ngày thua trận. Thậm chí nó còn xóa bỏ cả các kiến thức thuộc lãnh vực kỹ thuật không do hệ thống các nước chủ nghĩa cộng sản sản xuất ra!

Sự nghèo nàn tri thức và suy thoái về đạo đức, văn hóa, giáo dục, học thuật… hiện nay có phần đóng góp nào của chính sách này?

4) Chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ”. Thực chất của chính sách này là ngăn cấm người dân mang từng lạng (1 lạng = 100 gam) gạo hay thịt từ tỉnh này sang tỉnh khác. Các bạn trẻ hiện nay khó có thể tưởng tượng một việc vô lí tới như vậy có thể xảy ra trên toàn quốc. Chính sách này đã biến vùng đất trù phú của tổ quốc – đồng bằng sông Cửu Long, từ vựa lúa gạo của thế giới thành nơi đói kém, thiếu gạo, dân chúng phải ăn độn khoai, bo bo… trong nhiều năm.

5) Chính sách phân biệt các thành phần thí sinh trong tuyển sinh đại học. Thực chất của chính sách này là tận diệt nhân tài của chế độ miền Nam thua trận.

6) Và bao nhiêu chính sách khác nữa…

Mỗi chính sách ban ra, đất nước bị kéo ngược chiều tiến văn minh của nhân loại, và tiếng oán than của dân chúng cao ngất trời. Nhưng các chính sách ấy vẫn được thi hành và kéo dài rất nhiều năm mặc cho lòng dân uất ức và căm phẫn.

Nếu ý kiến của dân chúng được lắng nghe, bao thảm họa do chính sách đã được ngăn chận.

Làm sao nhà cầm quyền lắng nghe ý dân? Và hơn nữa, làm theo ý dân?

Không thể trông chờ vào một nhà lãnh đạo cao cấp riêng lẻ nào đó. Chú ý rằng vấn đề không nằm ở cá thể, mà ở quần thể, xã hội. Kinh nghiệm nhân loại về chính trị xã hội dạy rằng: cần phải tổ chức xã hội sao cho nhà cầm quyền phải nghe và làm theo ý dân. Nếu nhà cầm quyền không nghe và không làm theo ý dân, dân chúng sẽ có quyền phế truất họ, đưa nhà cầm quyền khác thay thế.

Muốn vậy đất nước phải được tổ chức sao cho:

1) Có nhiều hơn một đảng. Các đảng thay nhau trong vai trò cầm quyền và đối lập để kiểm soát và hợp tác lẫn nhau, và dân kiểm soát chính quyền

2) Người dân thực sự kiểm soát việc trao quyền cho đảng biết làm theo, và làm một cách hữu hiệu, ý dân, lòng dân.

Muốn vậy, dân chúng nhất thiết phải có các quyền tự do căn bản dưới đây:

1) Quyền Tự Do ứng cử và bầu cử

2) Quyền Tự Do lập hội, lập đảng

3) Quyền Tự Do ngôn luận, Tự Do báo chí

Khi người dân giành được các quyền Tự Do đó, hệ quả tất yếu sẽ là:

1) Không còn độc đảng.

2) Tam quyền phân lập.

3) Xã hội được quản lí trong tinh thần pháp trị.

3) Lực lượng vũ trang không còn trung thành, bảo vệ bất kì một đảng nào mà chỉ trung thành, bảo vệ tổ quốc.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì các lời nói như “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” hay “quyền lực thuộc về nhân dân”, chính quyền “của dân, do dân, vì dân”… chỉ là những lời trống rỗng và/hay dối trá.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì sự việc chặt cây tại Hà Nội chỉ là chuyện nhỏ, thậm chí rất nhỏ.

Các dự án hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vẽ ra, thông qua một cách khuất tất để lấy tiền dân chia nhau.

Những món nợ hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vay để lại núi nợ cho con cháu, ngăn cản đường tiến lên của chúng.

Phong hóa dân tộc suy đồi, đạo đức dân tộc xuống cấp, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mất đi.

Việt Nam ngày càng lạc hậu so với lân bang như Thái Lan, Mã Lai…

Từng phần lãnh thổ đất liền và biển đảo dần dần rơi vào tay Trung Cộng. Đất nước ngày càng lệ thuộc toàn diện vào nước Trung Quốc bạo ngược…

So với viễn cảnh khủng khiếp trên, việc “đốn cây giữa lòng thủ đô” chẳng là chuyện hết sức nhỏ hay sao?

T.Q.C.

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

Chuyện kể rằng khi quân Mông Cổ mở mang bờ cõi đến vùng Ba Tư, họ bắt được một tu sĩ công giáo.  Quân Mông Cổ giải vị tu sĩ đến gặp Thành Cát Tư Hãn.  Thấy người tù binh đeo một cây thánh giá trước ngực, vị đại hãn hỏi về ý nghĩa của dấu hiệu này. Thế là vị tu sĩ nhân cơ hội ngàn vàng kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho cả triều đình Mông Cổ nghe.  Vị đại hãn tỏ ra thích thú, cho đến khi nghe đoạn thương khó.

Khi nghe đến chuyện Chúa Giêsu bị phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, rồi bị đóng đinh, càng lúc khuôn mặt của đại hãn càng lộ vẻ tức giận.  Đến lúc vị tu sĩ nói: “Chúa Giêsu kêu lớn: Elôi, Elôi lamma sabác thani” (Mc 15:34), Thành Cát Tư Hãn gầm lên: “Rồi sao nữa?”  Sau khi nghe chuyện Chúa Giêsu gục đầu tắt thở, màn đền thờ xé làm đôi, rồi viên đại đội trưởng tuyên bố “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:38), đại hãn trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế Thượng đế của các ngươi đã làm gì?”  “Ngài có sai quân binh trên trời xuống tàn sát những kẻ giết con của Ngài không?”

Khi thấy vị tu sĩ lắc đầu, Thành Cát Tư Hãn khoát tay đuổi ông ra và không muốn nghe thêm nữa.  Đại hãn bình luận: “Một chủ tể mà không bảo vệ được con của ngài, một quân vương mà không trả thù cho con của ngài, thì có gì mà đáng kính phục.” Và dĩ nhiên là Thành Cát Tư Hãn không theo đạo.

****************************

Tội nghiệp vị đại hãn chưa có dịp nghe đoạn kết câu chuyện, vì nếu đã được nghe, có lẽ ông đã có một kết luận khác. Còn chúng ta, dĩ nhiên là chúng ta biết hết câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Chúa chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại.  Nhưng chúng ta có thật sự hiểu câu chuyện này không? Chúng ta có thực sự hồi hộp theo dõi từng tình tiết một, như vị đại hãn đã làm không?

Có lẽ vì chúng ta nghe quá nhiều lần nên có khi đã không còn tâm tình cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường tử nạn.  Có lẽ vì chúng ta biết Chúa sẽ sống lại nên khó cảm nghiệm được cảm giác của người nghe câu chuyện lần đầu. Bi thương, hùng tráng, giận dữ, chua xót, mất mát, đau buồn, v.v…  Những cảm giác đó mới chính là những gì chúng ta cần được cảm nghiệm trong Tuần Thánh này.  Kể từ hôm nay, chúng ta được mời cùng đi với Chúa Giêsu, với Mẹ của Ngài, từng ngày một, từng bước một, vào trong câu chuyện Thương Khó.

Cuộc Thương Khó giúp tôi ý thức sự giới hạn của lý trí khi tôi không có câu trả lời cho những vấn nạn của cuộc đời:  Tại sao tôi mất việc?  Tại sao gia đình tôi đổ vỡ?  Tại sao con cái tôi hư hỏng?  Tại sao em tôi bị bạo bệnh?  Tại sao bạn tôi chết khi còn quá trẻ?  Tại sao và tại sao?  Đó là những vấn nạn, đôi khi không có câu trả lời.  Nhìn lên Chúa, Chúa im lặng.  Nhìn sang Phật, Phật nhắm mắt.  Hỏi những người thông thái, họ lắc đầu: Không biết!  Phải chăng lúc đó tôi cũng kêu lên rằng: Lạy Chúa sao Chúa bỏ con?

*********************************

Bạn thân mến,

Đau khổ là một thực tế không thể chạy trốn trong kiếp người. Tôi chỉ có thể trực diện với nó khi tôi biết Con Thiên Chúa cũng đã đi qua cái chung cuộc tồi tàn nhất của kiếp người. Bị bạn bè bán đứng, bị người thân chối bỏ.  Thân phận Ngài còn thua xa tên tội phạm Barabba.  Con Thiên Chúa đã chết một cách thầm lặng trần truồng trên thập giá.  Đứng dưới chân thập giá, có mấy người nhỏ lệ?  có bao nhiêu người hả hê?  Nếu Con Thiên Chúa, Đấng vô tội mà còn bị người đời đối xử thế đó, thì làm sao tôi là môn đệ Ngài có quyền đòi hỏi cái gì khác hơn.  Nếu Thiên Chúa đã im lặng khi Con của Ngài bị giết, thì làm sao tôi có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lên tiếng khi tôi gặp đau khổ.

Chúa Giêsu đã mang lấy một số phận nghiệt ngã hơn chúng ta nhiều lắm.  Thế nên khi gặp đau khổ hoạn nạn, tôi đừng vội trách Chúa sao lại gửi cho con thập giá quá nặng nề.  Không, Thiên Chúa không phải là tác giả của hình phạt dã man độc ác đó.  Chính con người chúng ta nghĩ ra những trò độc ác, những hình phạt dã man để hại nhau, giết nhau. Và rồi chính con ngưòi đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đó nữa.

Nhưng phần Ngài, sao Ngài lại chấp nhận như thế?  Phải chăng khi chọn chén đắng của cuộc đời, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy đau khổ và sự chết không phải là tiếng nói sau cùng?  Phải chăng Ngài muốn chia sẻ thân phận mỏng dòn yếu hèn của chúng ta?  Đúng như lời thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).  Quả thế, Con Thiên Chúa đã cúi mình xuống để nâng chúng ta lên với Ngài.  Dù chúng ta phải đi qua con đường khổ giá, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đi một mình.  Qua những người chung quanh, Chúa Kitô ghé vai cùng vác thập giá cùng chia sẻ cuộc đời với chúng ta.

Chủ Nhật Lễ Lá hôm nay cũng còn gọi là Chủ Nhật Thương Khó.  Đây là chủ nhật đặc biệt nhất trong năm vì có đến hai bài Phúc âm được đọc.  Một bài Phúc âm về reo hò mừng vui của việc đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem… và sau đó là bài Phúc âm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bắt đầu từ âm muu nộp Chúa của Giuđa cho đến lúc táng xác Chúa.

Hai bài Phúc âm với hai tâm tình trái ngược.  Dân chúng hôm trước thì tung hô, mấy hôm sau thì đả đảo. Các môn đệ hôm trước thì hãnh diện đi với Thầy, vài hôm sau trốn chui trốn nhủi.  Các kinh sư và Biệt phái hôm trước thì e dè, vài bữa sau thì hả hê.  Tâm tình của con người là thế đó.  Và Chúa Giêsu biết điều đó.  Ngài chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả.

Thật dễ dàng để suy tư về ý nghĩa của Tuần Thương Khó, nhưng không thật dễ dàng để cảm nghiệm được những đau đớn của Tuần Thương Khó.  Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy để những cảm giác đau đớn, giận dữ, khó chịu, kinh sợ, v.v… nổi lên trong lòng chúng ta.  Những cảm xúc này thật cần thiết để mỗi khi bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng mạ hay bị kết án, bị trù dập hay bị sỉ nhục, bị chế diễu, bị lột trần hay bị đóng đinh, chúng ta có thể nhìn lên thập giá với một niềm an ủi.

Ước gì mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thương Khó với tâm tình cuả Chúa Giêsu, để rồi khi chúng ta cùng chết đi với Ngài, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài.

Xin cầu chúc bạn một Tuần Thánh được cử hành trong niềm tin và ân sủng của Đấng đã chịu chết vì chúng ta. Amen.

Antôn-Phaolô

Anh chị Thụ Mai gởi

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

DI CHÚC CỦA CỰU THỦ TƯỚNG LÝ QUANG DIỆU VIẾT ĐIỀU GÌ?

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

“XIN PHÁ BỎ NGÔI NHÀ TÔI SAU KHI TÔI CHẾT”

Thơ Trần Mạnh Hảo

Ghi chú : Vì an ninh, Singapore có luật các nhà xung quang ngôi biệt thự của cụ Lý Quang Diệu không được phép xây cao hơn ngôi nhà của người cha đẻ ra đất nước Singapore .

Không được dùng nhà này làm nhà tưởng niệm tôi sau khi tôi mất
Hãy đập ngôi nhà tôi cho hàng xóm được cao tầng
Rồi trồng cỏ cây thành công viên xanh mát
Còn chút lòng này xin được hiến dâng

Không còn lời nào ca ngợi Lý tiên sinh được nữa
Cụ khiêm nhường giống hệt một thường dân
Cụ đã biến Singapore thành thiên đường dưới thế
Bằng tất cả thiên tài và một tấm lòng nhân…

Sài Gòn 22 h 10’ ngày 23-3-2015
T.M.H.

Chú thích ảnh : 1- Lý tiên sinh sinh thời . 2- Ngôi nhà của cụ Lý Quang Diệu trong di chúc chúc cụ để lại : xin đập ngôi nhà này cho các nhà xung quanh được xây cao tầng và biến nó thành công viên cây xanh công cộng.

Lý Quang Diệu, người biến hòn đảo muỗi mòng thành quốc gia giàu có (Phần I)

Lý Quang Diệu, người biến hòn đảo muỗi mòng thành quốc gia giàu có (Phần I)

Việt-Long – RFA
2015-03-23

LeeKuanYew

Cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu, nhà lãnh đạo đưa Singapore đến thịnh vượng và tiến bộ.

AFP file

Nhả lập quốc của Singapore, ông Lý Quang Diệu, vừa thất lộc vào sáng thứ hai, thọ 91 tuổi. Thông cáo đăng trên website chính thức của ông cho biết ông qua đời một cách yên bình vào 3 giờ 18 phút, giờ địa phương.

Ông Lý Quang Diệu được thế giới coi là người “cha già lập quốc” của Singapore, nhà kiến trúc tạo dựng tiểu đảo Singapore có vị trí chiến lược nhưng không nguồn tài nguyên, không cả nguồn nước đủ dùng, chỉ có muỗi mòng gây sốt rét là “tài sản”, thành một quốc gia tiên tiến, giàu có nhất và trong sạch nhất ở châu Á, người dân có mức sống cao vào nhóm chiếm hàng đầu trên thế giới, được giới lãnh đạo châu Á ngưỡng mộ và thường xuyên tham vấn.

Gia tộc di dân

Ông sinh ngày 16 tháng 9, 1923, thuộc thế hệ thứ tư người Quảng Đông di cư sang Singapore thời còn là thuộc địa của Anh quốc. Thế hệ thứ nhất, ông cố Lý Mộc Văn, sinh năm 1846, sinh sống ở huyện Đại Phố, tỉnh Quảng Đông, từ nơi đó di cư sang Singapore vào năm 1863, trở thành đại phú gia, trở về Trung Quốc năm 1882, để lại vợ và ba người con. Thế hệ thứ hai là ông nội Lý Vân Long (1871), công dân Anh quốc tại Singapore, theo học chương trình trung học Anh ngữ, làm tài phú cho một thương thuyền, và trở thành quản trị viên công ty tàu thủy đó.

Thời thanh niên

Thân phụ của ông Lý Quang Diệu là Lý Tiến Khôn, cũng là công dân Anh, hấp thụ văn hóa Anh, lấy vợ là Thái Nhận Nương, sinh ra Lý Quang Diệu vào năm 1923, sau đó là ba em trai, và một em gái. Tài sản của nhà Lý Vân Long bị suy kiệt trong vụ đại suy thoái kinh tế toàn cầu trong thập niên 1930, nên cha của họ Lý chỉ là một chủ tiệm bình thường. Tuy nhiên bốn anh em Lý Quang Diệu đều được theo học đại học Cambridge ở Anh Quốc. Người cô của Lý Quang Diệu trở thành nữ bác sĩ người Singapore mang quốc tịch Anh đầu tiên hành nghề tại Singapore. Ba em trai của ông trở thành luật gia, nhà tài chính và bác sĩ.

Lý Quang Diệu tốt nghiệp trường Fitzwiliams thuộc đại học Cambridge, với bằng danh dự rất hiếm hoi Double Starred-First-Class Honours về luật học vào năm 1950. Học trình đại học của ông bị gián đoạn khi Nhật chiếm đóng Singapore trong thời gian 1942-1945. Ông đi làm, công việc đầu tiên là làm thư ký cho công ty nhập cảng vải vóc Shimola của người bạn của ông nội Lý Vân Long. Sau đó ông học tiếng Nhật, làm công việc dịch thuật tin tức phát thanh từ radio của phe đồng minh cho người Nhật.

Suýt bị Nhật bắn

Gần kết thúc thế chiến II, ông biết Nhật sắp thua trận, sợ đồng minh phản công tràn tới Singapore, ông chuẩn bị mua trang trại ở Cao nguyên Cameron, Malaysia để dọn sang, nhưng một nhân viên giao chuyển văn thư cho ông biết đơn xin đã bị an ninh Nhật lấy ra khỏi hồ sơ, và ông đang bị theo dõi. Ông phải bỏ ý định đi Malaysia. Lính Nhật bảo ông gia nhập nhóm người Hoa ly khai, ông xin về lấy quần áo và trốn luôn. Nhóm người Hoa này bị dẫn ra bờ biển và bắn chết hết.

young-lee-family

Lý Quang Diệu, đứng giữa, cùng ba em trai một em gái đứng sau cha mẹ là ông bà Lý Tiến Khôn

Lý Quang Diệu sang Anh tiếp tục con đường học vấn. Thất vọng vì người Anh không bảo vệ được Singapore trước quân đội Thiên Hoàng, ông trở về Singapore năm 1949 với quyết tâm phải giành độc lập cho xứ sở này.

Sự nghiệp chính trị

Tháng 11 năm 1954, Lý Quang Diệu cùng một nhóm bạn từng học tại Anh thành lập đảng xã hội Nhân dân Hành động, (People’s Action Party, PAP) . Đảng này liên minh với các công đoàn thân Cộng, mà ông Lý nhắm mục đích lôi kéo sự ủng hộ của đông đảo công nhân và người dân nói tiếng Hoa chiếm hơn 70% dân số, trong khi phe Cộng Sản tại Singapore cần khả năng lãnh đạo và quản lý của nhóm người không Cộng Sản, có học vấn Anh quốc, làm bình phong cho phe Cộng sản, vì luật cấm đảng Cộng sản Mã Lai hoạt động. Mục đích chung của hai phe là quyền tự trị của Singapore tách khỏi Anh quốc. Lý Quang Diệu trở thành Tổng bí thư đầu tiên của đảng PAP, và giữ chức vụ này đến tận 1992.

Ông đắc cử ghế dân biểu khu vực Đan Nhung Bá Cát Tập ở trung bộ Singapore năm 1955, trở thành lãnh tụ cánh tả đối lập với chính phủ liên minh Mặt trận Lao Động thuộc cánh hữu. Ông cũng là đại diện của đảng PAP tại hai hội nghị hiến pháp ở London, thảo luận với người Anh về tương lai của Singapore. Năm 1957 phe Cộng Sản chiếm quyền lãnh đạo đảng PAP bằng cách gài đảng viên giả hiệu vào đại hội đảng, nhưng chính phủ cánh hữu lập tức ra lệnh bắt giam hết phe Cộng Sản Singapore, tái lập quyền lãnh đạo cho Lý Quang Diệu, sau đó ông lại tái đắc cử dân biểu khu vực Đan Nhung.

Singapore tự trị

Cuối tháng 5- 1959 đảng PAP chiếm 43 trong tổng số 51 vị trí của Hội đồng lập pháp. Singapore giành được quyền tự trị trong mọi lãnh vực ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao vẫn thuộc Anh quốc, và họ Lý trở thành Thủ tướng đầu tiên của Singapore vào ngày 3 tháng 6.

Năm 1961, Thủ tướng Malaysia Tunku Abdul Raman đề nghị thành lập Liên Bang Mã Lai Á bao gồm Malaysia, Singapore, Sabah và Sarawak. Lý Quang Diệu khởi động chiến dịch sáp nhập Singapore với Malaysia để chấm dứt chế độ thuộc địa Anh quốc. 70% cử tri ủng hộ ý kiến của ông trong cuộc trưng cầu dân ý 1 tháng 9 năm 1962, phần còn lại hầu hết bỏ phiếu trắng, vì Lý Quang Diệu không chấp nhận phiếu phủ định. Singapore trở thành bang thuộc Malaysia từ tháng 9, 1963. Tuy nhiên sự kết hợp không kéo dài, vì đảng UMNO giữ chính quyền Malaysia lo ngại trước sự hội nhập  của cộng đồng người Hoa chiếm đa số ở Singapore đi cùng với thách đố chính trị do đảng PAP đem vào Malaysia.

Năm 1964, tháng 7, xảy ra bạo loạn sắc tộc khi hai cộng đồng người Hoa và người Mã lai ở Singapore tấn công nhau, khiến 23 người chết. Không biết ai gây bạo loạn, nhưng xáo trộn sắc tộc tiếp diễn, bùng nổ vào tháng 9, dân làm loạn cướp phá xe cộ, cửa hàng, khiến hai Thủ tướng Malaysia và Singapore phải ra trước đám động để xoa dịu tình hình.

Tống xuất khỏi liên bang

Không giải quyết được bất ổn, Thủ tướng Tunku quyết định tống xuất Singapore ra khỏi liên bang. Lý Quang Diệu cố gắng hòa giải nhưng không thành công. Tháng 8 năm 1965 sau khi thấy không thể tránh khỏi chia cách, ông ký thỏa ước ly khai vào tháng 8, 1965, trong đó bàn thảo mối quan hệ với Malaysia sau cuộc ly khai để tiếp tục hợp tác thương mại và quốc phòng.

Cuộc chia cách là một đòn nặng với chính phủ Lý Quang Diệu vì ông vẫn tin rằng Singapore khó sống còn nếu tách khỏi Malaysia. Singapore không có một nguồn tài nguyên nào, ngay cả nguồn nước chính cũng phải lấy từ Malaysia, trong khi khả năng quốc phòng gần con số không mới là thách đố chính yếu đối với ông và chính phủ Singapore.

Ông cố dấu nước mắt và nghẹn ngào loan báo tin này cho quốc dân Singapore trên truyền hình vào ngày 9 tháng 8, bày tỏ lòng nuối tiếc cho hai dân tộc nối liền với nhau về địa lý, kinh tế và chủng tộc.

Quốc hội Singapore thông qua nghị quyết chia cách, và thành lập nước Cộng Hòa Singapore.  Ông Lý ngã bệnh, tự cách ly 6 tuần liền sau đó. Thủ tướng Anh bày tỏ quan ngại, Thủ tướng họ Lý hồi đáp rằng đừng lo âu, ông và đồng sự đều tỉnh táo và sáng suốt, sẽ lượng định mọi hậu quả trước khi tiến bước trên bàn cờ chính trị.

Thủ tướng họ Lý bắt đầu tìm sự nhìn nhận và hậu thuẫn quốc tế cho nền độc lập của Singapore. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc tháng 9 năm đó. Singapore thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN vào tháng 8-1967 cùng với Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan. Lý Thủ tướng thăm Indonesia vào tháng 5 năm 1973; quan hệ song phương tăng tiến mạnh từ đó.

Tạo dựng bản sắc văn hóa riêng

Singapore chưa hề có một bản sắc văn hóa chính thống cho riêng mình để người nhập cư có thể hội nhập, dù ngôn ngữ chính là tiếng Mã Lai. Ông cùng chính phủ và đảng PAP nỗ lực tạo dựng một căn cước văn hóa cho xứ mình trong suốt hai thập niên 1970 và 1980, một nền văn hóa minh định hòa đồng chủng tộc theo chủ trương đa văn hóa. Chính phủ hết sức nỗ lực thực hiện và buộc người dân phải theo chính sách khoan dung tôn giáo, hòa đồng chủng tộc, dùng luật pháp cứng rắn trừng trị những hành vi hay mưu đồ kích động bạo lực vì tôn giáo hay chủng tộc. Một ví dụ là chính phủ Singapore từng cảnh cáo việc truyền bá phúc âm một cách vô ý thức do người Thiên Chúa Giáo thực hiện nhắm vào xứ Hồi giáo Malaysia; năm 1974 Singapore đã chấm dứt hoạt động của Hội Kinh Thánh Singapore nhằm xuất bản ấn phẩm tôn giáo bằng tiếng Mã Lai.

Quốc phòng, bài toán khó

Singapore dễ bị xâm hại về an ninh. Nhiều mối đe dọa đến từ các nước Cộng Sản trên thế giới và phe nhóm Cộng Sản trong nước, từ xứ Indonesia với chính sách đối đầu. Sau khi gia nhập LHQ, Thủ tướng  họ Lý đã chỉ thị phó Thủ tướng Ngô Khánh Thụy xây dựng quân lực Singapore, nhờ nhiều nước giúp đỡ, nhất là Israel, trong các lãnh vực cố vấn huấn luyện và tạo dựng cơ sở, căn cứ quốc phòng, ban hành chính sách động viên theo đó tất cả nam công dân từ 18 tuổi đều phải phục vụ Lực lượng quốc gia, ở một trong những lực lượng quân sự gồm Quân lực Singapore, Lực lượng Cảnh sát, hay Lực lượng phòng vệ dân sự.

Bài toán khó nhất: tham nhũng

lee-deng-1978-305

Chủ tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (phải) tiếp đón Thủ tướng Lý Quang Diệu (trái) tại Bắc Kinh, tháng 11-1978

Singapore cũng bị nạn tham nhũng như nhiều nước khác. Lý Thủ tướng đề nghị dự luật cho Phòng điều tra hảnh vi tham nhũng quyền hạn lớn hơn để bắt giữ, lục soát, triệu tập nhân chứng, thanh tra tài khoản ngân hàng, trương mục thuế của những đối tượng bị nghi ngờ và gia đình họ.  Ông Lý chủ trương cấp Bộ trưởng phải được trả lương cao để duy trì được một chính phủ trong sạch và chân thật. Năm 1994 ông đề nghị tăng lương các Bộ trưởng, thẩm phán và công chức cao cấp lên bằng mức lương của các chuyên viên, viên chức cao cấp nhất trong lãnh vực tư, nói rằng như vậy mới giúp tuyển mộ và giữ được những tài năng để phục vụ trong lãnh vực công.

Ông Lý Quang Diệu nắm giữ chức vụ lãnh đạo đảo quốc Sư tử trong ba mươi năm đến khi từ chức vào năm 1990 để trở thành Bộ trưởng cao cấp trong nội các của Thủ tướng Ngô Tác Đống. Đến tháng 8, 2004 khi con trai ông, Lý Hiển Long, trở thành Thủ tướng thứ ba của Singapore, ông được bổ nhiệm làm Nội các Tư Chính, giữ nhiệm vụ tư vấn cho toàn thể nội các. Giữ những chức vụ Thủ tướng và bộ trưởng cao cấp trong suốt hơn 50 năm liền, ông Lý cũng là một trong những bộ trưởng phục vụ lâu năm nhất lịch sử.

Tuy nhiên trong cuộc đời sóng gió và thành công vĩ đại ấy, tư duy chiến lược phát triển của ông Lý Quang Diệu mới là phần được lịch sử ghi lại đậm nét, và cả thế giới đông tây đều ngưỡng mộ.

VƯỜN CÂY DẦU

VƯỜN CÂY DẦU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cách đây vài năm, diễn viên Mel Gibson đạo diễn và sản xuất một bộ phim được công chúng đặc biệt hưởng ứng.  Với tựa đề, Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, bộ phim khắc họa lại cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, từ vườn Cây Dầu cho đến cái chết trên Núi Sọ, tác giả nhấn mạnh đến các đau đớn thể xác của Ngài.  Bộ phim thể hiện sống động từng chi tiết các đau đớn mà một người bị đóng đinh thập giá phải chịu, khi bị đánh, bị tra tấn, và bị sỉ nhục.

Trong khi hầu hết các phái trong Giáo hội tán thưởng bộ phim, cho rằng cuối cùng thì cũng có người làm một bộ phim khắc họa thật về những đau đớn của Chúa Giêsu, thì nhiều học giả Kinh thánh và nhiều ngòi bút thiêng liêng khác lại lên tiếng chỉ trích.  Tại sao lại thế?  Có gì sai khi chiếu một bộ phim dài với chi tiết sống động, những máu me của việc đóng đinh thập giá, vốn thực sự rất hãi hùng?

Có gì sai (hay nhẹ hơn là không hợp) khi đây chính là những gì mà Kinh thánh đã không ghi lại về cái chết của Chúa Giêsu.  Tất cả bốn Tin mừng đều cố gắng không tập trung vào đau đớn thể xác của Chúa Giêsu.  Các mô tả trong Tin Mừng về những đau đớn thể xác của Ngài đều hết sức ngắn gọn: “Họ treo ngài giữa hai phạm nhân.”  Philatô cho “đánh đòn Đức Giêsu rồi giao ngài cho người ta đem đi đóng đinh.”  Tại sao lại rút gọn như thế?  Tại sao không mô tả chi tiết?

Lý do mà các tác giả tin mừng không tập trung vào những đau đớn thể xác của Chúa Giêsu là họ muốn chúng ta tập trung vào một điều khác, cụ thể là những đau đớn trong cảm xúc và tinh thần của Ngài.  Cuộc thương khó của Chúa Giêsu, xét theo chiều sâu thực sự, là một tấn kịch tinh thần, chứ không phải tấn kịch thể lý, là đau khổ của một người đang yêu, chứ không phải đau đớn của một vận động viên.

Do đó, chúng ta thấy khi Chúa Giêsu tiên liệu cuộc khổ nạn của mình, những gì Ngài lo lắng không phải là đòn roi hay mũi đinh đóng vào tay mình.  Mà Ngài đau đớn và lo lắng cho sự cô độc mình sẽ phải đối diện, cho kết cuộc bị những người đã nói yêu mến Ngài phản bội và bỏ rơi, và cho tình cảnh, theo cách diễn đạt của Gil Bailie là, “bị tất cả loại bỏ.”

Như thế cuộc thương khó của Chúa Giêsu rõ ràng là một tấn kịch tình yêu.  Nó bắt đầu với mồ hôi máu đổ ra trong vườn Cây Dầu, và kết thúc với việc mai táng Ngài trong vườn.  Chúa Giêsu đang đổ mồ hôi máu trong vườn, chứ không phải trên đấu trường.  Vậy, việc ở trong vườn, có gì đặc biệt?

Về mặt tượng hình, vườn không phải là nơi trồng rau và dĩ nhiên cũng không phải là nơi trồng hoa.  Vườn là nơi của những người yêu nhau, là nơi cảm nhận hạnh phúc, nơi uống rượu, nơi Adong và Evà đã trần truồng mà chẳng biết, nơi người ta yêu nhau.

Và các tác giả Phúc Âm đặt khởi đầu và kết thúc cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong vườn để nhấn mạnh rằng, Chúa Giêsu, một người đang yêu (chứ không phải Chúa Giêsu Vua, Pháp sư, hay Ngôn sứ), đang trải qua tấn kịch này.  Và chính xác tấn kịch này là gì?  Khi Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong vườn và van xin Chúa Cha đừng bắt Ngài “uống chén này,” thì lựa chọn thực sự của Ngài không phải là: Ta sẽ để mình phải chết hay sẽ dùng đến sức mạnh thần thiêng để cứu mạng mình? Nhưng đúng hơn, lựa chọn của Ngài là: “Ta sẽ chết cách nào?  Ta sẽ chết trong giận dữ, cay đắng, và không tha thứ, hay Ta sẽ chết với một tấm lòng nồng ấm thứ tha?”

Tất nhiên, chúng ta biết Chúa Giêsu đã đi qua tấn kịch này như thế nào, Ngài đã chọn lấy lòng bao dung và tha thứ cho những người hành hình mình, và trong toàn bộ những u ám đó, Ngài vẫn giữ vững những gì Ngài đã giảng dạy trong suốt đời rao giảng, chính là tình yêu, tình thương, và tha thứ sẽ tuyệt đối chiến thắng.

Hơn nữa, những gì Chúa Giêsu đã làm trong tấn kịch tâm hồn này là những gì chúng ta phải noi theo hơn là đơn thuần ngưỡng mộ, vì tấn kịch này cũng hoàn toàn là tấn kịch tình thương trong đời chúng ta với vô vàn cách thể hiện khác nhau.  Cụ thể là:

Đến cuối đời, chúng ta sẽ chết thế nào đây?  Lòng chúng ta sẽ giận dữ, bám víu, bất dung, và cay đắng vì sự bất công của cuộc đời?  Hay, lòng chúng ta sẽ khoan dung, biết ơn, cảm thông, nồng ấm, như tấm lòng Chúa Giêsu khi Ngài thưa với Chúa Cha là xin theo ý Cha đừng theo ý Con?

Hơn nữa, đây không phải là chọn lựa cốt yếu và duy nhất mà chúng ta phải đối diện trong giờ chết, nhưng là chọn lựa chúng ta phải đối diện hằng ngày, nhiều lần mỗi ngày.  Biết bao lần khi va chạm hàng ngày với người khác, với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, và cả xã hội nói chung, chúng ta đã phải chịu những lạnh lùng, hiểu lầm, bất công, và cả bạo hành chủ ý nữa.  Từ sự lãnh đạm của một thành viên trong gia đình trước lòng tốt của chúng ta, cho đến một lời bình luận ác ý chủ tâm làm tổn thương chúng ta, đến một sự bất công hết sức ở nơi làm việc, đến việc bị thành kiến và xúc phạm, và bàn ăn, nơi làm việc, phòng họp, và cả trên đường, tất cả đều là những nơi chúng ta cảm nghiệm hàng ngày, ít hay nhiều, những gì Chúa Giêsu đã trải qua trong vườn Cây Dầu, cảm giác, bị tất cả loại trừ.  Trong bóng đêm đó chúng ta có đi theo ánh sáng của mình?  Đối diện với những thù ghét đó, chúng ta có theo tiếng gọi của tình yêu hay không?

Đó đích thực là tấn kịch trong Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, và ở đó những đòn roi, đinh nhọn không phải là tâm điểm.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ

KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ

Tác giả: Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

Chuyên viên kinh tế Văn Khánh tâm sự với bạn bè: “Năm nay mình hơn bốn chục tuổi rồi mà ông bố vẫn coi mình như còn con nít. Có chuyện vui chia sẻ với cụ thì cụ sẵn sàng dồn cho mấy lời khuyên bảo, mà chẳng bao giờ để ý tới cách thức mình đã giải quyết khó khăn”…

Bà mẹ của cô con gái 29 tuổi tới thăm cháu ngoại. Bà tự động dọn dẹp phòng của cháu, thay đổi hướng giường, nói là nằm thế này để tránh gió độc. Trước khi ra về, bà còn dặn con gái là phải ăn uống thế này thế kia cho có nhiều sữa. Và chớ có cho cháu ngoại của bà ăn nhiều rau cải kẻo nó đi tướt…

Thực là lòng cha mẹ thương con cháu như trời như biển. Chăm lo cho con từ lúc nằm ngửa, phơi chim, cho tới khi trưởng thành, nên ông nên bà.

Vậy mà cũng có con than phiền, bảo rằng chẳng để chúng yên, xía vào đời tư của chúng, coi chúng như còn thơ dại.

Các cụ coi có tức hay không cơ chứ!!!

Vâng, đó là những cảnh ngộ thường thấy trong mọi xã hội. Người ta nói tới khoảng cách giữa người già và người trẻ ngoài xã hội, giữa cha mẹ và con cái trong gia đình.

Sử gia kiêm chính khách Pháp Alexis de Tocqueville (1805-1859) có nói: “Trong các quốc gia dân chủ, mỗi thế hệ là một bộ lạc mới (people)”.

Tại các quốc gia Âu Mỹ, có 4 lớp thế hệ được nêu ra:

-Thế hệ cựu chiến binh sinh ra từ 1922-1943,  tôn trọng truyền thống và sống thích hợp với hậu quả của Thế chiến I.

-Thế hệ trẻ em bùng phát, (babyboomers), nhiều lý tưởng sanh từ 1946-1964

-Thế hệ X, tự lập, thành thạo kỹ thuật mới, rất linh động  sinh từ 1965-1979,

-Thế hệ Y, millennis ra đời trong thời gian 1980-1994 có thái độ lạc quan, tự tin, thực tế, đa dạng và nghĩ tới cá nhân nhiều hơn.

Danh từ Generation Gap, Khoảng Cách Thế Hệ được dùng tại các xã hội Âu Mỹ vào thập niên 1960. Mỗi thế hệ cách nhau từ 20-30 năm là thời gian trung bình để trẻ em lớn lên và thành người lớn thực thụ.

Tự điển Oxford định nghĩa generation gap là sự khác biệt về “thái độ” (Attitude) giữa những người ở thế hệ khác nhau. Thái độ bao gồm sự suy nghĩ và thấy thế nào về một sự việc hoặc một người nào đó. Như là:

-Sự khác nhau trong quan điểm về nếp sống hoặc thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa lớp thanh niên và lớp người già.

– Khác biệt tuổi tác, giữa những người ở giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

-Khác biệt thế hệ, giữa những người sinh trưởng trong  thời gian khác nhau, hình thành trong điều kiện xã hội khác nhau.

Khoảng cách tạo ra những khác biệt về tâm lý, hành động, và đối xử.Vì họ không hiểu nhau, có những không giống nhau về chính kiến, kinh nghiệm và bản chất.

Thực ra, chuyện này cũng chẳng có gì mới lạ. Nó đã hiện diện trong nếp sống con người từ lâu, nhưng rõ ràng hơn kể từ khi có những tiến bộ về khoa học, kỹ thuât.

Thái độ người già

Thuở xưa, khi nhu cầu đời sống được đáp ứng bằng sức lực và sự khôn ngoan của con người, thì người già, nói chung, được trọng nể vì kinh nghiệm của họ.

Với tuổi đời, họ tích lũy được những hiểu biết về canh tác săn bắn, về cách sống, về sự đối phó với khắc nghiệt của thiên nhiên, về quan hệ xã hội cũng như về văn hóa, nghệ thuật. Các kinh nghiệm này rất cần thiết cho con cháu, mới vào đời, cho nên vai trò của họ được coi như kim chỉ nam cho giới trẻ trong việc mưu sinh, lập nghiệp.

Ngoài ra, họ cũng là người nắm giữ tài sản gia đình giòng họ, có quyền sắp đặt, phân phát cho nên sự nhờ vả, tôn trọng của giới trẻ đối với họ là điều dễ hiểu.

Trong xã hội, có những tôn-ti-trật-tự, kính-trên-nhường-dưới, nuôi già, dạy trẻ, kính già, già để tuổi cho. Cha mẹ nào cũng muốn con cái theo gương cha mẹ, để “chẳng giống lông cũng giống cánh” và để giữ sự kế tục, danh dự dòng họ. Mà nói đến kế tục thì nhiều cụ thấm nhuần Nho học đều muốn ‘hãy nối tiếp, làm theo và không được thay đổi” những gì tiền nhân để lại.

Do đó, cha mẹ nào cũng thích khuyên nhủ, dậy dỗ con cái. Có nhiều lý do được nại ra để trao cho con những kinh nghiệm từ bản thân của họ. Vì đã biết rõ con từ tấm bé khi con chưa biết gì, nên cứ giữ ý kiến là con bây giờ cũng còn non dại.

Vì lo lắng cho con, sợ con phạm lầm lỗi.

Vì muốn cho là mình còn cần thiết cho con cái.

Vì nghĩ rằng khuyên con vẫn còn là trách nhiệm và quyền hạn của cha mẹ.

Và cũng vì vẫn muốn kiểm soát con cái.

Tuy nhiên, phải vô tư mà thấy rằng, kinh nghiệm của người già có thể có tính cách chủ quan, cá nhân về một lãnh vực nào đó. Vậy mà nhiều cụ cứ cho là có thể áp dụng trong mọi trường hợp, vào mọi thời điểm với hoàn cảnh khác nhau.Do đó họ khư khư bảo vệ ý kiến mình, không chịu chấp nhận ý kiến của  trẻ, có thể hợp thời đại hơn.

Ngày nay, khoa học kỹ thuật quá tiến bộ, bất cứ kiến thức mới nào cũng dễ dàng tìm kiếm qua báo chí, internet, do đó giới trẻ cũng bớt lệ thuộc vào giới già ở học hỏi kinh nghiệm. Khi đưa ra ý kiến, nhiều khi các cụ có thái độ gia trưởng, truyền lệnh. Thay vì “nên thế này thế kia” thì họ lại “bố mẹ muốn như vậy”.

Họ cũng đa nghi, cho là ý tưởng của giới trẻ không có căn bản nên không chịu bàn giao công việc, trách nghiệm…

Họ cũng không muốn thay đổi, đảo lộn những sinh hoạt mà họ đã quen thuộc từ nhiều năm. Thực ra có thể là họ không thích ứng được với hoàn cảnh mới, kỹ thuật mới và không theo kịp với mức độ nhậm lẹ của sự việc. Từ đó, hành động của các cụ quá đắn đo, dè dặt.

Không ít cụ rất dễ xúc động, có mặc cảm tự ty, cho rằng mình bây giờ đã về hưu, bớt lợi tức, đâu còn quyền uy đối với con cái. Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó. Giờ đây đổi đòi, con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Chúng tự do lựa chọn phối ngẫu tương lai rồi thông báo mẹ cha. Đám cưới chúng giới hạn số bạn bè mình được mời. Muốn tới thăm cháu, phải hẹn trước. Rồi các cụ hờn dỗi, tủi thân vì nhiều  chuyện vẩn vơ, không đâu.

Thái độ giới trẻ

Bản chất giới trẻ cũng có một số điều cần lưu ý, như là:

-Có thể nông cạn về lẽ sống

-Nhẹ tình cảm gia đình, quê hương, cội nguồn dân tộc.

-Nhiều hoài bão, không thỏa mãn với cái đã có.

Trước hết, phải thừa nhận là con cái bây giờ có nhiều điểm thuận lợi hơn cha mẹ già. Các con có kiến thức cao, suy luận thực tế, khoa học hơn, tính tình cởi mở, dám nghĩ dám làm việc khó, việc lớn

Các con khỏe mạnh hơn, nhiều nhiệt huyết hơn, có thể làm  nhiều việc trong một thời gian định sẵn. Tầm nhìn của con cái thoáng rộng và thực tế hơn. Họ có nhiều dự tính cho tương lai và luôn luôn nghĩ tới sự tranh đua, phấn đấu.

Đối với cha mẹ, các con cũng có một cái nhìn hơi e ngại dè dặt, ít thổ lộ, ít tiếp xúc. Lý do là văn hóa giáo dục khác biệt. Một bên nghiêm khắc, kín đáo, một bên ồn ào cởi mở. Một bên dùng những ngôn từ “thời đại” mà phía kia, mù tịt, chẳng hiểu ất giáp gì. Như là “phần mềm, ổ cứng”…trong máy computer.

Tuy nhiên, con người dù tài ba đến mấy chăng nữa cũng phải có nguồn gốc, có cha mẹ:

Con người có bố, có ông

Như cây có cội, như sông có nguồn”

Vì thế cũng nên luôn luôn nhớ câu “uống nước, nhớ nguồn”, dù cha mẹ có không hoàn hảo, vẹn toàn.

Vả lại:

“Tuổi già hiu hắt ngọn đèn

Trước cơn gió lớn, sức bền còn không”.

Và:

“Sống thì con chẳng cho ăn

Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”.

Nhiều cháu có thể có cả một kho tàng kiến thức nhưng nếu được kết hợp với sự thấu đáo, kinh nghiệm, với sự khôn ngoan của mẹ cha thì kiến thức của mình sẽ đạt được nhiều thành công hơn.

Các cháu nhiều sức lực, trí óc tươi trẻ nên hành động nhanh nhẹn hơn. Nhưng “đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá, mà quàng phải dây”. Cha mẹ chậm chạp, nhưng đôi khi chậm mà chắc.

Một số cháu cứ nghĩ rằng cha mẹ già yếu, trở thành vô dụng.

Thực ra già vẫn còn sức mạnh của sự già: sức mạnh của kiên nhẫn, tôi luyện từ nhiều chục năm lăn lội trường đời. Họ vẫn còn khả năng làm việc, nhưng để hoàn tất, họ cần thời gian lâu hơn. “Có còn hơn không”, phải không các cháu?.

Nhìn chung

Nói ra thì nhiều, nhưng đi vào thực tế, phải công nhận là có một khoảng cách dài ngắn, những khác biệt nào đó giữa các thế hệ khác nhau trong cộng đồng, giữa cha mẹ, con cái. Khác biệt về suy nghĩ, hành động, về quan niệm sống, về cách diễn tả tình cảm, tâm trạng.

Sông có khúc, người có lúc thì mỗi lứa tuổi cũng có đặc điểm, cá tính của mỗi thế hệ, mỗi lớp tuổi.

Không nên coi khác biệt đó là mâu thuẫn gây trở ngại cho hài hòa gia đình, xã hội mà là một lẽ đương nhiến trong đời sống, có già có trẻ. Tre già sát cánh măng non. Cũng như có âm thì có dương, có sáng thì có tối, có tốt phải có xấu.

Chẳng nên tìm cách xóa bỏ cách biệt mà nên “biết người biết mình”, để hòa hợp chung sống.

Thích nghi, chấp thuận với khác biệt của nhau, miễn là những khác biệt này không mang tính cách hủy hoại lẫn nhau.

Giúp nhau gọt rũa khác biệt cho dần dần ăn khớp với nhau.

Sẵn sàng lắng nghe nhau, phân tích dị biệt, bàn cãi thẳng thắn rồi chấp nhận nhau.

Tổng kết các điểm đã thông cảm, thỏa thuận thành đường lối chung cho đại gia đình.

Mọi người nên nghĩ đời sống  là một cái vòng luẩn quẩn, như diễn tả của bác sĩ  Milton Greenblatt (1914-1994), nhà tiền phong Hoa Kỳ vể chăm sóc sức khỏe tâm bệnh:

“Trước hết, chúng ta là con của cha mẹ

Rồi là cha mẹ của bầy con

Sau đó sẽ  trở lại làm cha mẹ của cha mẹ

Cuối cùng là con của bầy con »

Để mà thông cảm, chung sống với nhau.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/video

Tình như thoáng mây,

“Tình như thoáng mây”,
Tình đến cùng ta, âm thầm không ngờ
Tình như cánh hoa, tình chiếm hồn ta đâu ngờ là tình.

Tình như mưa gió, thoảng vào trong tim.
Tình như cánh chim, bay đến trong ta sao nghe bồi hồi?

(Nhạc: Nino Rota Speak Softly Love – Lời: Trường Kỳ: Thú Yêu Thương)

(1Timothê 4: 4-6)

Trần Ngọc Mười Hai

Nói gì thì nói, nếu cứ nói những chữ như “thương” như “yêu” của cuộc tình, thì đó có thể vẫn là điều thích thú, dù ta có gọi đó là thú yêu thương hay đau thương, gì cũng được.

Hát gì thì hát, nếu cứ hát những lời chỉ về cái “thú yêu thương” như người viết lời Việt ở đây từng ỉ ôi hát rằng: “Tình đến cùng ta, âm thầm không ngờ”, lại sẽ là điều cần nói và hát. Nói không nhiều lời, nhưng bằng tiếng ai ca, với giọng hát như sau:

“Có biết đau thương mới hay là tình.

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Tình như đớn đau.

Tình xé lòng nhau, muôn đời không lành.

Tình như ngất ngây.”

(Lời Việt Trường Kỳ – bđd)

Nói hoặc hát vào lúc khề khà phiếm Đạo hoặc lạo xạo những nói năng, là nói và hát cũng rất nhiều điều. Những điều như đấng bậc chóp bu nhà Đạo, từng nói về nhóm hội Đạo mình có những căn bệnh toàn những nói năng, cũng rất nhiều. Nhiều, ở chỗ: có những 15 căn bệnh hiểm nghèo cũng nghe quen. Nhưng hôm nay, thiết tưởng bạn và tôi cũng chỉ nên tập-trung vào một hai điều tiêu biểu gọi là “căn bệnh”, như sau:

“Lên tiếng trong dịp Giáng sinh 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến sự kiện Giáo triều Rôma tạo thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa. Ngài nói: “Giáo triều được kêu gọi cải tiến, và tăng trưởng tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng, cũng như thân thể con người, giáo triều cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê một vài căn bệnh có thể mắc phải, tức bệnh của giáo triều, là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ Chúa.

Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thay thế và lơ là kiểm điểm. Một giáo triều không tự phê, canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Nếu có cơ hội ghé thăm nghĩa trang, ta sẽ thấy tên của rất nhiều người, cả những người mà ta nghĩ họ bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế! Đó là bệnh của người thanh niên giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh cửu (Lc 12:13-21) và của những người trở thành chủ nhân ông, thấy mình cao trọng hơn ai hết, chứ không là kẻ phục vụ mọi người. Bệnh này xuất phát từ bệnh “cửa quyền”, tự cho mình là kẻ ưu-việt có thái độ tự-ái/vị-kỷ, say mê ngắm nhìn con người mình mà không thấy hình ảnh của Thiên Chúa hằn in nơi diện-mạo của người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng cực.

Thuốc chữa bệnh này là ân-huệ lành thánh biết mình là kẻ yếu kém nên thành tâm nói: “Ta chỉ là đầy tớ vô dụng. Ta làm những việc mình phải làm” (Lc 17:10). (trích phát biểu của Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo Giáo triều Rôma hôm 22/12/2014)

Bệnh, thì ai cũng mắc bệnh dù ít/nhiều, nặng/nhẹ, dù không chỉ và không phải là bệnh nói nhiều và hát nhiều. Nhưng vấn đề, là: ta có làm như người nghệ sĩ từng làm bằng lời hát, sau đây không thôi:

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời.

Tình như giông bão, dập vùi yêu thương

Tình như tiếng ca

Theo gió phương xa cho nhau lời chào.

Có biết đau thương mới hay là tình

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Đời không thiết tha vì có tình yêu,

Không còn là đời

Người không sót xa vì mất tình yêu

Không còn là người.”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời”, ôi thôi, phải chăng đó là “thú yêu thương”, hay “thú đau thương”? Có thể cả hai đều có nghĩa và đúng ý. Thế nhưng, hãy cứ nghe câu hát cuối, hạ hồi sẽ rõ:

“Đời ta muôn kiếp đã trôi theo tháng ngày
Tình như khói sương bay thoảng trong mơ
Ngàn đời vu vơ…”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

Có thể là, ca-từ ở trên diễn-tả nhiều ý-nghĩa trong nhiều trường, cũng rất hợp và rất trùng.

Có thể là, lời phát-biểu của đấng bậc trên cao ở nhà Đạo cũng khá trùng và khá hợp với trường-hợp của cơ-quan/chức-sắc nào đó trong nhà Đạo, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma, mà thôi.

Có thể là, ngôn-từ và ý-nghĩa của lời Đức “ngài” nói cũng làm đau nhói cơ-phận thể-lý của ai đó, rất con người.

Có thể là, Đức Phanxicô nói thay và nói giùm cho đấng bậc lành thánh nào đó từng căn dặn, nhắn nhủ bà con, anh chị em đồng Đạo/đồng thuyền rất chí tình như sau:

“Thật vậy,

tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt,

và không có gì phải loại bỏ,

nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ,

vì lời Thiên Chúa và lời cầu nguyện thánh hoá những thứ đó.

Nếu anh trình bày cho anh chị em những điều ấy,

thì anh sẽ là người phục vụ tốt của Đức Giêsu Kitô,

một người thấm nhuần lời đức tin

và giáo lý cao đẹp mà anh đã trung thành noi theo.”

(1Timôthê 4: 4-6)

“Và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri-ân, cảm tạ” phải chăng là châm-ngôn, tâm-tình và là thực tế cuộc sống ở đời, nhiều năng-nổ. “Vì lời Thiên-Chúa và lời cầu-nguyện thánh-hoá những thứ đó.”

Thật quá đúng, khi thánh-nhân còn nhấn-mạnh: “Nếu anh trình-bày cho anh chị em những điều ấy, thì anh sẽ là người phục-vụ tốt của Đức Giêsu Kitô”… Bởi, ta và người chỉ có thể bảo mình và bảo mọi người là kẻ phục-vụ tốt của Đức Giêsu Kitô, khi biết dùng lời nói hay tiếng hát “trong tâm-tình tri-ân, cảm tạ”.

Thật quá đúng, khi đấng bậc được gọi là Đức-thánh-là-Cha Phanxicô lại dám nói thêm căn bệnh thứ 7 khác, được gọi bằng danh từ “cạnh tranh và háo danh” với lời lẽ cũng rất thật, như sau:

“Khi cái vẻ bề ngoài, qua mầu áo và huy-hiệu sặc-sỡ trở-thành đối-tượng ưu-tiên của cuộc sống, lại quên đi lời thánh Phaolô từng dặn dò: ” Anh em đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”(Phillípphê 2: 3-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở-thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo. Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ “kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần-thế này, mà thôi.” (Philípphê 3: 19)

Xem như thế, kể cũng đúng. Bệnh cạnh tranh, kiêu hãnh và háo danh, vẫn là bệnh là tật của nhiều người, vào mọi thời. Không chỉ ở mỗi Giáo triều Rôma mà thôi, nhưng còn ở mọi đấng-bậc có quyền hành dù vẫn mang danh “đầy-tớ của các tôi-tớ Chúa” nơi Giáo-hội sở tại, rất địa phương.

Xem thế thì, căn-bệnh quái-ác kể trên còn gặp thấy ở nhiều người có quyền ăn quyền nói và quyền được hành kẻ thuộc cấp, rất bé mọn.

Xem thế thì, chỉ mỗi hai căn-bệnh quái-ác trên đây cũng đã làm kiệt quệ guồng máy cồng kềnh bảo là để phục vụ mọi người trong thánh hội, nhưng thực tế là như căn-bệnh cuối cùng trong danh-sách được liệt kê hôm ấy như sau:

“Sau cùng là bệnh “tìm kiếm lợi-lộc trần-tục và phô trương”.

Khi vị tông-đồ biến việc phục-vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng-hóa để kiếm tìm lợi-lộc phàm-tục được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia-tăng quyền-lực cách vô độ. Và, nhằm đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh-danh người khác, thậm chí cả trên truyền-thông/báo chí, dĩ nhiên chỉ để biểu-dương chứng-tỏ mình có khả-năng hơn người. Bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho chính bản thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện-minh/biện-hộ cho việc mình có thể sử-dụng bất kỳ phương-thế nào hầu đạt được mục tiêu mình đặt ra, thường họ nhân-danh công-lý và sự minh bạch. Ở đây, tôi nhớ đến linh mục nọ đã gọi các ký giả đến để kể cho họ một điều do chính vị linh-mục này bịa đặt về chuyện riêng tư của linh mục khác và của giáo dân. Linh mục này, chỉ muốn xuất-hiện trên trang nhất của báo-giới mà thôi; và như thế, đã thấy mình quyền-năng và chiến-thắng, nhưng lại tạo ra bao nhiêu đau khổ cho người khác và cho cả Giáo Hội nữa! Thật đáng thương!

Ngoài ra, Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn nhận xét rằng các căn bệnh và cám dỗ kể ở trên lại cũng là nguy cơ cho mỗi Kitô hữu, giáo xứ, cộng-đoàn, dòng tu, phong-trào đoàn-thể trong Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, nữa”. (trích lời phát-biểu của Đức Phanxicô như đã dẫn)

Trích-dẫn ở trên, hôm nay, không để kể tội của ai đó nơi quyền cao chức trọng của Giáo-hội, nhưng chỉ để nói lên đôi điều như nhận-định của một người vừa chuyển cho nhau những điều hệ-trong trong cuộc sống, bằng lời lẽ như sau:

22 câu nói có thể làm thay-đổi cuộc đời của bạn. Bởi thế nên, xin bạn hãy chú ý học-tập mọi điều ở bên dưới, đặc biệt là 1, 2, 3 và 19 rất hay, cần chú ý:

  1. 1. Đồng tiền xu luôn gây ra tiếng động… nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Vì thế khi

giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình luôn khiêm tốn và nói ít đi!

2. Càng nói ít, càng nghe được nhiều. – Alexander Solshenitsen

3.  Khi người khác hỏi những điều mà bạn không muốn trả lời, xin hãy cười và nói

“tại sao bạn lại muốn biết điều đó?”

4. Không ai cần đến một nụ cười nhiều như người không thể cho đi nụ cười.

5. Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã!

6. Rất nhiều người không dám nói lên những gì họ muốn. Đó là lý do tại sao họ không có được chúng.- Madonna

7. Khi trưởng thành, tôi ngày càng ít quan tâm đến những gì mọi người nói. Tôi chỉ xem những gì họ làm được.– Andrew Carnegie

8. Kiên trì làm việc tốt sẽ mang lại nhiều thứ. Như mặt trời có thể làm tan băng, lòng tốt có thể làm bốc hơi sự hiểu lầm, hoài nghi và thù địch.- Albert Schweitzer

9. Cuộc sống giống như một cuốn sách. Một vài chương khá buồn, một số chương hạnh phúc và một số chương rất thú vị. Nhưng nếu bạn chưa bao giờ lật thử một trang bạn sẽ không bao giờ biết được những gì ở chương tiếp theo!

10. Bạn có thể kết bạn được nhiều hơn trong vòng hai tháng bằng cách quan tâm đến người khác hơn là hai năm cố gắng bắt người khác quan tâm đến bạn. – Dale Carnegie

11. Tình bạn là một tâm hồn trú ngụ trong hai cơ thể. – Aristotle

12. Tôi tiến bộ bằng cách ở cạnh với những người tốt đẹp hơn mình và lắng nghe họ. Và tôi giả sử rằng mọi người đều tốt đẹp hơn tôi ở một mặt nào đó.– Henry J. Kaiser

13. Tranh cãi với một kẻ ngốc sẽ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc.– Doris M. Smith

14. Những người làm việc cùng bạn phản ánh chính thái độ của bạn.- Beatrice Vincent

15. Đừng quá khắt khe với chính mình. Thậm chí những sai lầm cũng có nghĩa là bạn đang cố gắng!

16. Không có hành động tử tế nào, dù nhỏ, lại bị xem là lãng phí.– Aesop

17. Bất luận lúc nào khi bạn nghe điện thoại, khi nhấc điện thoại lên xin bạn hãy cười lên, vì đối phương sẽ cảm nhận được nụ cười của bạn!

18. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó!- Bill Gates

19. Lưỡi không xương nhưng đủ cứng để làm vỡ nát một trái tim… vì thế hãy cẩn thận với ngôn từ của bạn!

20. Đừng bao giờ cố giải thích con người bạn với bất cứ ai. Vì những người tin bạn không cần điều đó, còn những người không thích bạn sẽ không tin lời bạn đâu!

21. Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thấu hiểu và được thấu hiểu.- Ralph Nichols

22. Hãy ghi nhớ 3 điều: Cố Gắng, Kiên Định, Tin Tưởng. Cố gắng cho một tương lai tốt hơn,  KIÊN ĐỊNH với công việc, TIN TƯỞNG vào bản thân. (trích từ điện thư bạn bè gửi cho nhau, đến quá nhiều)

Hôm nay đây, bần đạo có trích dẫn nhiều, cũng chỉ để đề-nghị với bạn và tôi, ta cứ hiên ngang mà hát mãi lời ca ở bên dưới làm lời cuối cho nhau hầu kết-luận đôi giòng chảy lững lờ một chuyện phiếm rất hững hờ rằng:

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời.

Tình như giông bão, dập vùi yêu thương

Tình như tiếng ca

Theo gió phương xa cho nhau lời chào.

Có biết đau thương mới hay là tình

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Đời không thiết tha vì có tình yêu,

Không còn là đời

Người không sót xa vì mất tình yêu

Không còn là người.”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

Quả thật rất đúng. “Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời!” cũng giống hệt như câu nói của ai đó, hình như là thánh Augustinô đại để vẫn cứ bảo: “Hãy yêu nhau đi, rồi muốn làm gì thì làm”. Nói thế là bởi, tình yêu con người sẽ làm nên nhiều điều rất tuyệt vời. Ở mọi nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn công-nhận

những chuyện như thế

ở đời mình.

Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch

Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát. Hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc, như bài hát ở các xứ Đạo nói tiếng Anh vẫn ca vang: “How Great Thou Art” nghe chưa được chuẩn cho lắm. Chí ít, là tiểu khúc 3 như tác giả dẫn ý: “Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau” vẫn cứ là. Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết, Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.

Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một truyền thống ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như hành động chuộc tội, do Cha muốn.

Nhận định như vậy, tức bảo: khổ đau và sự chết của Giêsu Đức Chúa lại là giá chuộc mạng mà Ngài đã thanh trả cho bọn xấu, để ta có thể chia xẻ sự sống với Cha. Như chọn lựa, cái chết của Đức Giê-su phải được coi như hành động duy nhất làm Cha nguôi giận về tội người. Chính vì thế, mà Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người như khi trước.

Nghe nhạc ướt át như thế, đôi lúc làm ta sợ. Có lẽ, nên kiểm xem lời ca ý nhạc, có chuẩn hợp với nền thần học ta được dạy, không. Một đằng, thần học khẳng định rằng: tình thương yêu đặc biệt Chúa ban, rất cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, ngang qua mọi thăng trầm của cuộc sống, khi vui lúc buồn.

Đằng khác, khi hát, ta kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền mà Đức Giê-su gánh chịu. Xem như thế, há chẳng phải ta chủ trương: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao dung, vẫn đẩy Người Con Thân Yêu vào nỗi chết, có tủi nhục? Há ta coi đây như phương cách duy nhất khiến Ngài hài lòng, sao?

Áp dụng vào xử án, đôi lúc cũng nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng trong lỗi phạm? Và như thế, Đức Chúa, vị Quan Án Tối Cao, có quyền bính gì trên sự dữ/ác thần, chăng? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy sinh cao cả của Con Yêu Dấu của Ngài, sao?

Các vấn nạn ấy, gây ảnh hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay thường được nhắc nhớ, rằng: Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù cho con người có lầm lỡ, lỗi phạm nhiều điều.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ. Mà, do người khác đối xử không theo lẽ Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người”, lạ kỳ, buồn bã. Người khác đây, vẫn là người biết nhiều, hiểu nhiều.

Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý Cha. Khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu như thế, tức cho rằng: Cha vẫn muốn có hy sinh. Vẫn muốn chuộc mạng, để đổi chác lấy tội con người, hòng tha thứ?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận rằng: mình là nạn nhân của Chúa, không chừng. Nếu Cha muốn Đức Kitô phải khổ và chết, thì phía ta, sao lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá tưởng-chừng-như-là-quá-nặng?

Suy tư theo chiều hướng này, sẽ thêm nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Mác-cô ghi lại, có thể đã nhấn mạnh tính miễn cưỡng của Chúa khi Ngài chấp nhận khổ ải. Quả là, thánh sử có nhắc việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm. Làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người… Nhưng không thể hiểu như thế. Không thể theo khuynh hướng này.

Bằng không, sẽ có người ngờ: thánh Mar-cô ám chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết ô nhục, gần kề. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng “Lạy Cha”, tức là Ngài kêu lên lời ai oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, sao? Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người nghĩ rằng: Đức Kitô nhận “làm theo ý Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Không. Đó không phải là thần học.

Suy cho kỹ, hiểu theo các chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Đọc kỹ, đoạn Chúa chấp nhận thánh ý Cha tại Vườn Âu Sầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, đổ riệt mọi lỗi cho Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo, trong hành xử với Cha. Với con người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha. Tuân phục đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương đến hơi thở cuối cùng.

Có thế, Đức Kitô mới trấn át giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài qui chiếu khẳng định nòng cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám hại Ngài. Xem thế, qua việc chấp nhận cái chết trong tuân phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến cùng.

Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác. Chết rất nhục.

Hôm nay, có kinh qua thống khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.

Tuần thánh năm nay, ta cử hành tuyên xưng mầu nhiệm sống xứng hợp Đạo. Bằng vào cử hành tưởng niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, ta cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn nhân do Chúa muốn ta hy sinh, đau khổ- để tiến tới trở thành kẻ có ý thức chọn lựa. Chọn lối sống mẫu mực yêu thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung. Trung thành trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.

Cầu và mong, cho ta biết trân quý sự sống. Vì, có trân quý, ta mới thực sự từ bỏ thái độ tiêu cực của những người luôn nghi kỵ, chống đối. Chống Vương Quốc Nước trời, ở trần gian. Ở đây. Bây giờ. Cầu và mong, ta dõi bước chân mềm của Chúa. Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong hành xử giữa Cha và Con. Dù, sự việc có xảy đến thế nào, đi nữa. Dù, đường đời còn lắm gian nan, khổ ải.

Bởi, có Đức Kitô là mẫu mực cho sự thủy chung, tuân phục, thì dù gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, ta vẫn cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang lên mà chúc tụng. Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn kẻ tin đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc. Khóc than. Tất cả, vẫn là yêu thương. Đồng cảm.

Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi. Đi vào đời, còn lắm gian nan. Nhưng không nhuốm mầu tang chế. Nghĩ thế rồi, ta cứ thế mà hát hò rong chơi với những lời như thi sĩ từng hát xướng để rồi vào cuộc tưng bừng đón rước Đấng Mêshia hoà mình với muôn người, rằng:

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Bài Đầu Năm Tình Yêu)

Nở nụ cười cả vào lúc chay kiêng, tịnh khẩu để nguyện cầu ngày Chúa đi vào với Lễ Vượt Qua nóng bỏng, đầy thách thức. Nở nụ cười, suốt đời người dù đau đớn, thống khổ để rồi sẽ “Vượt Qua” như Đấng Mêsia hoàn-tất ý-định của Thiên-Chúa-là-Cha rất thương yêu, đợi chờ trong vui cười, suốt một đời.

Lm Richard Leonard sj –

Mai Tá lược dịch