Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Chuacuuthe.com

VRNs (21.02.2015) – Sài Gòn – Nói thật, trước giờ tôi rất ít khi xem phim Việt Nam vì hầu như nội dung của các bộ phim đều nhạt nhách, đôi khi hết sức vô duyên và tình tiết thì khiên cưỡng. Lợi ích có được chăng cũng chỉ là giúp người ta giải trí chứ ít để lại ấn tượng gì để mà suy gẫm…

Trong dòng phim Hài mùa Tết 2015 có lẽ đã có sự khác biệt khi “TRÚNG SỐ” được công chiếu và ít nhiều đọng lại trong tôi đôi điều trăn trở…

Bộ phim gây được ấn tượng sâu sắc với tôi cũng chỉ bởi vì nó gióng lên được một thông điệp, nó khái quát gần như đầy đủ bộ mặt thật và văn hóa sống của con người Việt Nam dưới chế độ thiên đường XHCN. Bây giờ sống tốt được xem là ngu, chân tình – thật thà là ngốc, gian dối, tham lam, lừa đảo là điều hết sức bình thường… Chỉ có điều bất thường là hầu như người ta xem những người dám sống tốt là những người bất bình thường!

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Tôi chưa thấy ở nơi đâu mà giá trị “Tốt” được đánh đồng là “Ngu” và quả thật là rất đúng như ở xã hội Việt Nam hiện nay. Bạn có thừa nhận với tôi không: ở cái xứ sở này người tốt và việc tốt đang được xem như một điều lạ lùng và hiếm thấy. Nó khiến người ta phải ca ngợi, tôn vinh, nhắc nhở nó trên báo đài như một tấm gương, như bài học luân lý… mặc dù xét ở nhiều góc độ, cái được xem là người tốt, việc tốt ở Việt Nam cũng chỉ là điều hiển nhiên, là thứ văn hóa giao tế cộng đồng bình thường, là những nguyên tắc cơ bản được mặc định ở các xã hội khác trên toàn thế giới…

Bạn có bao giờ đặt câu hỏi và lý giải tại sao xã hội Việt Nam ngày nay lại tràn lan những sự việc suy đồi và đạo đức con người đang xuống cấp, tha hóa đến mức trầm trọng? Tôi không phải là giáo sư, tiến sĩ để có thể lý giải bằng thứ triết học cao siêu, uyên bác… Tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng Cha mẹ sống thế nào thì con cái thế ấy. Bản chất Chính quyền ra sao thì nảy sinh bản chất người dân như vậy! Bạn không thể đòi hỏi một xã hội lành mạnh và phát triển khi chính bộ phận điều hành xã hội đó chưa bao giờ được lành mạnh và sâu bệnh từ gốc đến ngọn.

Chế độ tại VN đã được hình thành và xây dựng với niềm tự hào là “cướp chính quyền” bằng sự khẳng định và tư liệu chính thống; Một đất nước với sách giáo khoa là những trang lịch sử ngụy tạo, xóa bỏ sự thật, che dấu sự giả dối! Một bộ máy với cơ chế và những con người luôn đặt lợi ích bản thân lên trên lợi ích đất nước và nhân dân… thì làm sao xây dựng được một xã hội biết nói không với giả dối? Biết tự trọng để nhìn nhận lỗi lầm? Biết quay lưng với sự gian tham? Biết giúp đỡ, lên tiếng phản đối bất công và gìn giữ sự thật, công bằng? Dám làm điều tốt mà không sợ nhầm lẫn và không bị xem là ngớ ngẩn khác lạ…

Với một chính thể và bộ máy điều hành như vậy thì Người dân biết dựa vào đâu để cùng xây dựng và vun đắp những giá trị luân lý? Biết dùng tấm gương tốt nào để học tập và noi theo? Thể chế và lãnh đạo toàn thể hiện điều xấu xa thì dân làm theo cũng là điều hiển nhiên!
Tốt và ngu bây giờ như nhau có đồng nhất không? Giống như Xứ sở này là thiên đường nhưng đang lao nhanh xuống địa ngục vậy? Y chang!

Bạch Cúc

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Tác Giả : Tạ Duy Anh

Xahoi – Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam.


Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi …Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ ngày một phình to?

Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30 % công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng 800.000. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor…Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland…

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng ( 2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều.

Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 5 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giả phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 1500 buổi, với khoảng 9000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai hoạ của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại công kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách vào nhà nghỉ với chính đồng nghiệp của mình. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì shoping tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày…

Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ đến tuổi là đến. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng…đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách…biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ. Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

RFA

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Thơ Nguyễn Bính hay hơn ở những sáng tác trước năm 1945, tức là khi ông chưa sáng tác theo phương pháp hiện thực XHCN, chưa có tính đảng. Đây cũng là nét chung của các nhà thơ trong phong trào thơ mới như Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Chế Lan Viên…

Trong giai đoạn này thì thời kỳ 1936-1940 là thời kỳ rực rỡ nhất của thơ Nguyễn Bính, trong đó thành công hơn cả là mảng mùa xuân – làng quê – tình yêu. Sau đó thì đuối dần.

Khi chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, chia đều cho100 tác giả, mỗi tác giả 1 bài thì với Nguyễn Bính, người ta chọn bài “Những bóng người trên sân ga”. Không ai phủ nhận đấy là một bài thơ hay nhưng nếu được quyền, tôi sẽ chọn bài “Mưa xuân”. Khi giới thiệu 8 bài thơ của Nguyễn Bính vào “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh không lấy bài này cũng như “Những bóng người trên sân ga”

MƯA XUÂN

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.*

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

(* Có bản chép “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, hoặc “lỡ làng”)

Đã có nhiều bài bình về bài thơ này, mỗi người cảm thụ một vẻ, nhưng cũng có những phần giao thoa.

Mùa xuân trong bài thơ có mưa bụi, có hoa xoan, có hội chèo. Ba nét ấy là những nét chấm phá nói về mùa xuân ở làng quê. Bức tranh làng quê sống động hẳn qua ngòi bút của ông. Cách dùng chữ của ông thật tài tình. Mùa xuân đẹp đến hạt mưa cũng bay phơi phới, như nỗi lòng con gái dậy thì, đầy nhựa sống và xúc cảm. Tác giả đã thổi hồn vào hạt mưa thật đẹp. Chữ phơi phới nhiều người dùng, nhưng dùng làm tính từ kèm theo mưa xuân thì chỉ Nguyễn Bính.

Qua hình ảnh “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy, ta biết bối cảnh trong bài thơ là vào tháng Ba. Lúc này, ở làng quê đang tiếp tục mùa lễ hội. Trong các lễ hội thường có diễn chèo, diễn tuồng, gọi chung là đi xem hát, chứ không nói là xem chèo hay xem tuồng (hát bội). Hát ở đây không phải là chương trình ca nhạc như bây giờ. Đó là các gánh hát tư nhân thường diễn các tích chèo, tuồng cổ. Các đôi trai gái đang yêu vụng nhớ thầm thường mượn những nơi hội hè, phiên chợ để tìm cơ hội gặp nhau. Nhưng cũng chỉ là lúc mới thương thương nhớ nhớ mơ hồ thôi, chứ khi họ đã thuộc về nhau rồi thì chẳng dại gì đem nhau ra những nơi ấy. Họ có bờ ao, gốc cây riêng của họ.

Cô gái trong bài thơ cũng thế. Lý do là đi xem hát nhưng là để mong gặp chàng trai đấy thôi chứ thiết gì xem. Đi chơi cần tiết trời đẹp. Nhưng vì trời đang mưa nên cô phải thử:

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh.

Và cô nghĩ mưa nhưng nhẹ để cho rằng “Thế nào anh ấy chả sang xem”. Cũng qua câu này, ta biết đây không phải là cuộc hẹn mà cô gái phỏng đoán, là hy vọng đấy thôi. Nhưng cũng đáng trách chàng trai là trước đó có hứa, có hẹn gì đấy nhưng không cụ thể, theo kiểu sẽ thế này, sẽ thế nọ.

Cô gái ở đây là con nhà bình dân làn nghề canh cửi, có khuôn phép. Cô đang độ xuân thì, còn trong trắng, ví như “cây lụa trắng” mà quyền bán là của người mẹ. Ấy thế nhưng không thể đóng khao khát yêu đương của cô vào một cái khuôn nào đó:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Hai chữ “hình như” và “có lẽ” đặt vào tâm trạng cô gái lúc này là rất chính xác. Cắt nghĩa ra thì nó không mang tính khẳng định nhưng ai cũng biết má cô bừng đỏ thật, cô đang nghĩ đến người yêu thật, chứ không phải “hình như” hay “có lẽ”. Cô vừa muốn thừa nhận lại vừa sợ người khác biết, thậm chí muốn dối lòng mình nên chỉ lấp lửng như vậy thôi. Nó còn nói lên tâm trạng phân tâm, nên đi hay không đi.

Cuối cùng thì cô đã bị tình cảm lấn át:

Em xin phép mẹ vội vàng đi.

Tác giả tả cảnh, tả tình thật tuyệt vời. Người và cảnh hòa quyện đến độ con đê, hạt mưa, hoa xoan cũng biết vui, biết buồn.

Sau khi “chờ mãi anh sang anh chẳng sang”, cô gái “lầm lụi trên đường về”. Có một sự trách nhẹ ở đây:

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

Ai đã từng một lần mong gặp người yêu mà không được sẽ thấu hiểu hơn tâm trạng cô gái lúc này. Nguyễn Bính diễn tả tâm lý cô gái khi đi và khi về rất tinh tế. Ông sử dụng thủ pháp tương phản rất hiệu quả. Đây là điều cơ bản tạo nên sự thành công của bài thơ.

Hãy đọc lại những cặp câu tương phản sau:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Mưa bụi nên em không ướt áo/ Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Thôn đoài cách có một thôi đê/ Có ngắn gì đâu một dải đê

Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay/ Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày

Tình cảm của cô gái đã rõ, còn chàng trai đối với cô gái như thế nào? Chàng được nhắc đến hai lần:

… hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Và:

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang.

Có thể nói anh chàng này rất khả nghi, còn tình cảm cô gái rất mãnh liệt. Mặc dù việc không gặp được người yêu làm cho “cả mùa xuân cũng bẽ bàng” nhưng cô gái vẫn tha thiết, mòn mỏi, hy vọng.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

Và với cả sự trách nhẹ của cô đã nhắc trên đây nữa, ta thấy ở cô một tấm lòng bao dung, trong sáng và cao đẹp.

Khi yêu, thường là người con trai chủ động hơn người con gái. Nói như thế, không phải là tình yêu của con trai mãnh liệt hơn. Cô gái ở đây chỉ có một hành động duy nhất là sang hội chèo xem có gặp người ta không, rồi về, thế thôi. Nếu như chàng trai cũng sang xem hát, chắc là cô sẽ không hỏi trước, không tỏ ra vồn vã. Đó là sự kín đáo của con gái, nhất là con gái nhà quê. Nhưng ai bảo là cô không khao khát yêu đương.

Kể ra, bài thơ có thể thay nhân vật cô gái bằng chàng trai. Như vậy có vẻ hợp với lẽ thường hơn. Nhưng nếu thế, có lẽ bài thơ kém hay đi nhiều. Chợt nhớ Huy Thục, ít nhất đã có 2 lần đổi ngôi anh thành ngôi em khi phổ nhạc. Đó là bài “Đợi” của Vũ Quần Phương, “Trăng khuyết” của Phi Tuyết Ba, và cái sự có vẻ trái khoáy ấy làm cho bài hát thành công hơn hẳn:

Anh ngỏ lời yêu em => Em ngỏ lời yêu anh

Anh đứng trên cầu đợi em => Em đứng trên cầu đợi anh.

Trở lại bài “Mưa xuân”. Bài thơ được bố cục rất chặt chẽ. Ta không thể thay đổi vị trí các câu, các khổ thơ cho nhau, cũng không thể bỏ đi hay thêm vào một khổ thơ nào. Từ ngữ được huy động đầy dụng ý, không có một chữ nào khiên cưỡng. Khó có thể thò bút chữa đi một chữ mà không làm suy giảm giá trị của bài thơ. “Những bóng người trên sân ga” cũng được bố cục rất chặt chẽ nhưng ở “Mưa xuân”, ý và chữ nghĩa hay hơn, đẹp hơn. Có thể nói, “Mưa xuân” là một bài thơ toàn bích.

Nguyễn Bính không cố đi tìm những từ lạ, lối diễn đạt lạ. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ bình dân nhưng với ngòi bút tài hoa, ông đã để lại cho đời nhiều bài thơ xuất sắc, trong đó “Mưa xuân” – một bài thơ tình tuyệt đẹp là ví dụ điển hình.

Tháng 2/2013

Tháng 2/2015

NTT

.benmonguyenbinh

Tác giả bài viết bên mộ Nguyễn Bính

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

Lễ Mồng Hai Tết tại Gx. Kim Long, Huế

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em, 

Thiên Chúa đã dành điều răn thứ tư trong 10 điều răn để dạy chúng ta về lòng thảo hiếu. Và Giáo Hội Việt Nam dành Ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ. Chính Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã nhắc việc “thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử[1]. Còn thánh Phaolô trong bài đọc II dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này[2]. Việc cử hành đức thảo hiếu của chúng ta hôm nay có hai phần rõ rệt: một là kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời, hai là quan tâm đến Ông Bà Cha Mẹ đang còn sống.

1) Trước hết, việc kính nhớ nhắc chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đã qua đời có những người nhờ đời sống thánh thiện đã được đưa thẳng lên Thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa; nhưng cũng có những người vì thân phận yếu đuối của con người nay đang được thanh luyện trong luyện ngục. Các đấng đang ở trong luyện ngục may mắn không làm chi thêm tội, chỉ phải lo đền trả theo lẽ công bằng cho đến đồng xu cuối cùng[3], và các ngài cũng chẳng làm được chi thêm công phúc cho mình, chỉ trông nhờ vào lời cầu bàu của các thánh trên trời và sự giúp đỡ của chúng ta là con cháu của các ngài đang còn sống, nên tích cực cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời là bổn phận đức ái và thảo hiếu không thể thiếu. Giáo Lý dạy chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta trong luyện ngục phải trải qua những khổ đau dữ dội chẳng khác gì trong hoả ngục, chỉ khác là đau khổ trong luyện ngục có thời hạn và còn hy vọng được nhìn thấy Chúa, còn đau khổ trong hoả ngục là vô tận vì sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt Chúa nữa.

Chúng ta không chỉ nhớ đến các đấng đã sinh thành dưỡng dục mình nên người về phần xác, mà còn phải nhớ đến các đấng sinh thành nuôi dưỡng cùng đào tạo chúng ta trong đức tin và đời sống làm con Chúa nữa, như các linh mục, tu sĩ đã chăm sóc mục vụ cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ đến các ân nhân và mọi người đã chết, nhất là các linh hồn không được ai nhớ đến để cầu nguyện cho, dù lắm khi người thân của họ còn sống đầy dẫy ra đó, quen gọi là các linh hồn mồ côi. Chúng ta cũng không được quên những người mình có liên đới trách nhiệm, những người vì sự thiếu sót, lầm lỗi hay gương mù gương xấu của chúng ta mà giờ đây đang phải đau khổ trong lửa luyện ngục để cầu nguyện cho họ và đền tội chúng ta theo lẽ công bằng. Việc làm này không những lợi ích cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta và các linh hồn mà còn cho chính cuộc sống đời đời của chúng ta nữa, vì nó nhắc nhở chúng ta thức tỉnh nhìn lại cuộc sống của chính bản thân mình, nhất là trong Mùa Chay thánh vừa khởi đầu, sẽ phải đến trước toà phán xét trả lời Thiên Chúa về tất cả những gì chúng ta đã làm khi còn sống. Cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi so với cuộc sống đời đời, nhưng chính cuộc sống ngắn ngủi này lại quyết định số phận vô tận đằng sau cái chết và mời gọi chúng ta thức tỉnh ngay từ lúc này, thu xếp mọi sự ổn thỏa trước lúc phải ra đi, kẻo muộn mất chăng.

2) Bổn phận thứ hai của chúng ta là phải quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, không được viện bất cứ lý lẽ gì để chước miễn bổn phận thảo hiếu này, kể cả những việc làm liên quan đến chính Chúa, như Chúa Giêsu nghiêm khắc quở trách các biệt phái và các kinh sư “là lấy tập tục của người phàm mà bỏ qua Lời Chúa” chúng ta vừa nghe trong bài Phúc âm hôm nay. Chúng ta phải lo phụng dưỡng Ông Bà Cha Mẹ, sớm viếng tối thăm, thuốc thang khi đau ốm, đỡ đần miếng cơm miếng cháo… đừng để khi Ông Bà Cha Mẹ mất đi rồi hối hận muốn làm gì bù đắp cũng không còn được nữa, và còn bị người đời mỉa mai “khi sống con chẳng cho ăn, khi chết làm văn tế ruồi!” hay “một mẹ nuôi được mười con, mà mười con không nuôi nổi một mẹ!”
Ngoài ra, còn phải biết cộng tác giúp đỡ Ông Bà Cha Mẹ trong công việc thường ngày nữa. Kẻ nào quên bổn phận thảo hiếu sẽ không lớn lên thành người được. Câu chuyện đôi bàn tay của mẹ sau đây nói lên điều đó: Một thanh niên kia học hành đỗ đạt nộp đơn vào chức vụ quản trị một công ty lớn. Anh đã qua được các buổi phỏng vấn, và nay đến lượt ông giám đốc trực tiếp phỏng vấn lần cuối để quyết định nhận hay không nhận. Ông xem xét hồ sơ của anh thấy tất cả đều rất tốt, vì năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học, anh cũng đều xuất sắc, vượt bực. Ông hỏi:
– Anh đã được học bỗng nào?

– Thưa, không ạ.

– Thế cha anh trả học phí cho anh à?

– Cha tôi chết khi tôi vừa mới một tuổi. Chính mẹ tôi mới là người trả học phí và lo mọi chuyện cho tôi.

– Mẹ anh làm việc gì, ở đâu ?

– Thưa mẹ tôi giặt áo quần cho các tiệm giặt.

Viên giám đốc bảo người thanh niên đưa đôi bàn tay cho ông xem. Anh đưa ra hai bàn tay mịn màng rất đẹp. Ông hỏi:

– Có bao giờ anh giúp mẹ giặt giũ áo quần không?”

– Chưa bao giờ cả, bởi mẹ luôn bảo tôi phải lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi nhiều.

– Tôi có một yêu cầu: Hôm nay về nhà, anh hãy rửa đôi tay mẹ anh và ngày mai anh đến gặp tôi.

Người thanh niên cảm thấy anh có thể làm rất tốt công việc quá dễ dàng này, nên khi vừa về đến nhà, anh liền thưa với mẹ xin được rửa đôi bàn tay của mẹ. Mẹ anh cảm thấy rất ngạc nhiên, nhưng rồi cũng đưa đôi bàn tay cho con trai. Chàng từ từ rửa đôi bàn tay của mẹ. Nước mắt anh bỗng tuôn ràn rụa, bởi đây là lần đầu tiên anh khám phá ra rằng đôi tay nhăn nheo của mẹ đầy những vết chai cứng, sần sùi. Những vết sần này làm bà đau buốt khi đụng tới. Lần đầu tiên trong đời, anh nhận thức được rằng chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này của mẹ đã giúp anh có cái ăn cái mặc, tiền tiêu và trả học phí trong suốt nhiều năm qua. Những vết chai trên đôi bàn tay của mẹ là cái giá phải trả cho những xuất sắc trong học tập, và cho cả tương lai sẽ tới của anh nữa. Sau khi rửa và lau sạch đôi tay của mẹ, anh lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại. Tối hôm đó, hai mẹ con mới chuyện trò thật lâu với nhau. Sáng hôm sau, anh tới gặp ông giám đốc. Ông để ý thấy những giọt nước mắt lưng tròng trên đôi mắt anh và hỏi:

– Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã cảm nhận được hôm qua ở nhà không?

– Tôi đã rửa và lau sạch đôi tay của mẹ tôi như ông yêu cầu, và tôi đã giặt hết phần áo quần còn lại mà hàng ngày mẹ tôi phải làm.

– Thế cảm tưởng của anh như thế nào?

– Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn. Nếu không có mẹ, tôi không thể có được như ngày hôm nay. Qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức rằng thật là khó khăn và gian khổ để hoàn tất một công việc. Nay tôi càng biết rõ hơn sự quan trọng và giá trị của quan hệ gia đình.

– Ðây mới là những gì tôi tìm nơi người quản trị công ty. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của người khác và sẵn lòng giúp đỡ người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của người khác để hoàn thành nhiệm vụ, một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất trong cuộc đời mình. Anh là người được tuyển dụng. Tôi rất vui.

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em,

Xin cho việc kính nhớ và cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã khuất càng thôi thúc chúng ta hết lòng quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, hết lòng hiếu thảo phụng dưỡng, an ủi nâng đỡ các ngài, để các ngài được an vui hạnh phúc trong chuỗi ngày còn lại với chúng ta nơi dương thế, đợi ngày về an hưởng hạnh phúc trong Nhà Cha trên trời. Amen.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

[1] Mt 15, 1-6.

[2] Ep 6, 1-3.

[3] x. Lc 12, 59.

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

Nguyễn Tường Thụy

RFA

“Xuân này con không về” là sáng tác của bộ ba nhạc sĩ Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân, vào khoảng năm 1960. Ca khúc này, Duy Khánh thể hiện thành công nhất.

Thời chiến tranh, Miền Bắc không bao giờ có những bài hát kiểu này (được gọi là nhạc vàng). Nhạc vàng, và cả những bài thuộc dòng nhạc xanh (nhạc tiền chiến) bị cấm cho đến khi hết chiến tranh mới được phổ biến. Còn nhạc đỏ là phục vụ cho cách mạng (cộng sản). Tuy nhiên, sự phân loại xanh, đỏ, vàng cũng chỉ là tương đối.

Nghe “Xuân này con không về” mà người lính muốn bỏ trận địa. Nhưng Việt Nam Cộng Hòa vẫn chấp nhận dòng nhạc này. Ca khúc thường được phát trên sóng phát thanh miền Nam Việt Nam vào mỗi dịp xuân sang cho đến năm 1975.

Có thể VNCH tự tin, có thể không nhận ra tác động tâm lý của dòng nhạc này, có thể vì nhân bản. Dù sao thì đấy là một trong những điểm yếu (không nói là sai lầm) của VNCH trong chiến tranh nhưng tôi tin họ không bao giờ ân hận.

Thực ra, dòng nhạc này không có tội. Nhạc sĩ sáng tác bằng cảm xúc thật của mình nên không thể gọi là nhạc tâm lý chiến. Nó phản ánh rất trung thực cảm xúc, tâm trạng con người. Ở đây là những người lính. Nội dung bài hát không nói đến các vấn đề chính trị lớn lao. Khác với các ca khúc thiên về căm hờn, giục giã, xung trận dành cho người lính miền Bắc, tâm lý người lính ở đây nặng về gia đình, quê hương, chiến hữu… nói chung là các trạng thái tình cảm của con người. Không có chuyện lên gân, lên cốt theo kiểu con không về vì nhiệm vụ, vì lời kêu gọi của quốc gia, dân tộc.

Giai điệu hay, ca từ cảm động lại được thể hiện bằng giọng ca tuyệt vời của Duy Khánh, bài hát đã đi sâu vào lòng người qua nhiều thế hệ. Mỗi độ Tết đến, Xuân về, nghe lại ca khúc này, lòng người không khỏi rưng rưng.

Chỉ tiếc câu cuối, những lần hát sau được sửa là “Mẹ thương con xin đợi ngày mai”. Việc sửa này nó mang cái gì đó khiên cưỡng, mòn xáo. Còn bản cũ, điệp khúc “Mẹ ơi con xuân này vắng nhà” kéo dài, nghe càng lắng sâu, càng thêm da diết.

httpv://www.youtube.com/watch?v=D2qSGfyISHc#t=164

Nhân đây, xin giới thiệu thêm một clip thể hiện bài hát này của Đỗ Thị Minh Hạnh – một tù nhân lương tâm mới được trả tự do Tháng 6/2014. Xin lưu ý, Minh Hạnh không phải là ca sĩ chuyên nghiệp hay nghiệp dư mà chỉ là cô gái hay ca hát. Clip vừa được thực hiện ngày 27 âm lịch vừa rồi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=9QuBrGk0Ijc

Tết Ất Mùi (2015)

Nguyễn Tường Thụy

Cá Hồi Đỏ

Cá Hồi Đỏ

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.

Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN, chi nhánh TP HCM

Trang Câu Lạc Bộ Kỹ Thuật Việt Kiều đăng tải một bài viết (“Cuộc Di Cư Lớn Nhất Của Cá Hồi Đỏ Trong 100 Năm”) khá thú vị. Xin ghi lại toàn văn:

Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh British Columbia của Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên: cuộc di cư khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế kỷ trở lại đây.

Dự kiến, khoảng từ 6-8 triệu con cá hồi đỏ sẽ di cư tới sông Adams thuộc khu vực Shuswap của tỉnh British Columbia trong năm nay và đây được xem là cuộc di cư lớn nhất của cá hồi đỏ kể từ năm 1913.

Cá hồi đỏ là một trong các loại cá sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt. Cá hồi đỏ thường đẻ trứng trong vùng nước nông trên sông Adams vào tháng 10 hàng năm. Sau khi phát triển trong vùng nước ngọt khoảng 1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và sống ở đó khoảng 3 năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.

Loài cá hồi khi di chuyển định hướng bằng mùi. Mỗi con cá nhớ đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di chuyển qua đại dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó một cách hoàn toàn bản năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.

Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ không ăn và chuyển sang màu đỏ sáng.

Cá hồi có khả năng bơi ngược sông, vượt qua các dòng nước chảy xiết trong hành trình dài gần 500km từ biển tới sông Adams. Sau khi đã trở về nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và chết. Trứng sau đó nở ra con non và con non lại hành trình ra biển.

Hiện tượng di cư bí ẩn của cá hồi luôn thu hút sự quan tâm của du khách đến với sông Adams. Tại công viên Roderick Haig-Brown cạnh sông Adams – địa điểm quan sát cá hồi đẻ trứng tốt nhất, bầu không khí tại khu vực vốn yên tĩnh này đã trở nên nhộn nhịp giống lễ hội đường phố.

Brian Riddell, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Quỹ cá hồi Thái Bình Dương, gọi cuộc di cư khổng lồ lần này là “điều bất ngờ thú vị” khi số cá hồi đỏ di cư nhiều gấp đôi so với dự đoán trước đó.

Nguồn ảnh: ovsclub.com.vn

Cá hồi Dại Tây Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.

Bản năng về nguồn của cá hồi, tất nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.

Xét về số lượng, mức sản xuất của người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học hỏi.

Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời “tha phương cầu thực.”

Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” đuợc từ trường của lòng đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê nhà – tức sông xưa bến cũ – và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh nở.

Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới di động. Màng luới này chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào…hộp !

Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu “đem con bỏ chợ,” để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp, và mang bán.

Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có kẻ  bắt chước. Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học theo cách làm ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cá.

Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là vài triệu người dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự, trong số mấy triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả – tối thiểu – cũng phải một phần ba đã vong mạng.

Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.

Ảnh: wikipedia

Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị Quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội. Đám dân “trôi sông lạc chợ” này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài, cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.

Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á – cũng mang số phận y như  vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa. Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông – khi phần đất này còn thuộc Anh – Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ Kim mỗi đầu nguời để Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay ngược đãi !

Số người Việt may mắn hơn, hiện đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây Dương – giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt Kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu trăm Mỹ Kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô La, hay nhiều hơn nữa.

“Lượng kiều hối nhiều khả năng đạt 12 tỷ USD năm 2014,” theo như tin loan của  Đài Tiếng Nói Việt Nam –  nghe được vào hôm 30 tháng 11 năm 2014. Cùng thời điểm này, Nguyễn Hoàng Minh, (Phó Giám đốc NHNN – chi nhánh TP HCM) cho biết:“Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.”

Hà Nội có lý do để hãnh diện về thành quả này – thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu – về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nuớc những con nguời cùng quẫn và sôi xục bất mãn, rồi “thu về” những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang.

Thiệt khoẻ !

Bạn đã làm gì cho các Linh Mục?

Bạn đã làm gì cho các Linh Mục?

Năm Thánh cầu nguyện “Xin ơn thánh hóa cho các linh mục” đã được khởi đầu như đỉnh cao nhất trong đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Quả thật, đây là một đỉnh cao của toàn Giáo Hội, khi đã được nâng lên hàng Năm Thánh cầu nguyện. Rất trang trọng và thật thiêng liêng. Đó đây, đã có giáo xứ làm “slide show” và cả treo những hình ảnh rất lớn và sinh động về Thánh Gioan Vianney, quan thầy các linh mục, ngay trước tiền đường nhà thờ giáo xứ. Tuy nhiên, không ai ngây thơ cho rằng, chỉ cần cầu nguyện trong Năm Thánh, còn trước và sau NămThánh thì không cần cầu nguyện gì nữa.

Nhưng cầu nguyện, không chỉ là đọc kinh suông trơn tuột qua môi miệng, hoặc chỉ là những mơ ước “chay” dâng lên Chúa. Thánh Giacôbê đã dạy một điều quen thuộc: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, cũng thế, cầu nguyện thiếu việc làm thì cầu nguyện ấy chưa hoàn hảo, tất nhiên, không đẹp lòng Chúa.

Hành động đúng luôn phải khởi đi từ những suy nghĩ đúng, suy nghĩ đúng phải bắt đầu bằng những hiểu biết đúng.

Từ thánh giá đời linh mục…

Trong ngày lễ mở tay hay trong nhiều bài suy niệm hoặc giảng thuyết đó đây, người linh mục thường được nghe những lời có cánh đại khái như:

Từ bụi tro, Chúa đã nâng con lên hàng khanh tướng. Chúa đã chọn con trong muôn người ….

Những lời tuyệt vời ấy không sai, khi nói về tình yêu Thiên Chúa đối với tạo vật của mình. Nhưng cách nào đó, các lời ấy, chỉ nói  đến toàn hoa hồng mà chưa nói đến các gai nhọn của hoa hồng là những thập giá của đời linh mục.

Quả thật, quá nhiều gian nan thách đố và cả những cô đơn trống vắng trong đời linh mục.

– Linh mục là người làm dâu của trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm, bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi linh mục phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người khác nhau.

– Người ta thường nói: “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Câu nói này có thể cũng không sai với đời linh mục. Bao lâu người linh mục còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng trọng. Một khi đau yếu già nua, là gánh nặng, là cái gai thì cần nhổ đi.

Nói như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, vì thực tế đã có quá nhiều chuyện khiến ta phải đau lòng. Giáo dân thường hay quên mất công ơn người linh mục đã làm, chỉ nhìn thấy khuyết điểm để lớn tiếng.

– Người ta dễ nhớ đến một điều sai, nhưng lại hay quên trăm điều đúng mà người linh mục đã làm. Nói về một số linh mục lạm dụng tình dục bên trời Tây đang gây ồn ào trên thế giới, Qua một bài viết, Đức Giám mục Nguyễn Soạn đã nói về điều ấy rằng : Trong cánh rừng, cả  trăm ngàn cây vẫn đang vươn lên sinh động, nhưng khi chỉ có một cây gãy đổ, thì tiếng vang và ầm ào ấy sẽ rất lớn. Ngài không bênh vực biện hộ, nhưng đã chỉ ra một tâm lý thông thường.

– Người linh mục phải là một người khác giữa trăm ngàn người khác. Ngài thiếu và không thể có cái mọi người đã có và đang có thừa. Chiều muộn, Thánh Lễ đã xong, mọi người đã ra về, giáo đường mênh mông, trên Thánh Giá Chúa vẫn thinh lặng. Đêm xuống, nhà xứ im lìm vắng vẻ quạnh hiu. Nỗi cô đơn rất “người” .

Những cô đơn ấy càng đậm đặc hơn khi bệnh tật đau yếu. Miếng cơm, viên thuốc, ngụm nước và những chăm sóc theo dõi, làm sao có thể được ân cần như ý, như những người gần gũi máu thịt gắn bó của một gia đình ngoài “thế gian ” thường tình. Lại là một cô đơn khác, rất “người”.

Khi về hưu, mắt lòa chân run, muốn về ở với con cháu trông nom, thì cũng cần phải có một số vốn nào đó, tiền còn thì tình còn, tiền hết thì tình cảm cũng ra đi. Lúc ấy, ngài sẽ là gánh nặng rất đau đớn cùng với nỗi cô đơn gậm nhấm buồn phiền như bóng đêm. Lại thêm một cô đơn khác nữa, cũng rất “người”.

Ngay cả khi đã về một nhà hưu nào đó, nỗi cô đơn kia vẫn là một ám ảnh thấm thía, làm nặng thêm những cô đơn trông vắng trong khoảng trời riêng, cũng lại thật “người”.

Cái khoảng trống giữa khi làm việc và lúc về hưu  không nhỏ. Khi tại chức làm việc thì “còn duyên”, còn nhiều kẻ cần thiết đón đưa. Khi về hưu, lúc đã “hết duyên” thì thui thủi “đi sớm về trưa một mình”.

Toàn là những nỗi cô đơn, luôn luôn rất “người”.

Cuối cùng, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói ra, sau khi dâng Thánh lễ mở tay, 5 năm, 10 năm hoặc một thời gian nào đó, người linh mục ngày càng giảm dần cái sốt sắng ban đầu, tính thánh thiêng trong Thánh lễ cũng giảm dần, để biến thành những thói quen nhàm, không còn là DÂNG LỄ, nhưng chỉ là LÀM LỄ với những cử chỉ máy móc hình thức qua lần chiếu lệ. Điều này sẽ thật là tệ hại, và cũng là thánh giá cho chính mình và mọi giáo hữu con chiên. Ngài rất sợ, không muốn điều này chút nào, nhưng đã xảy ra, như thực tế vẫn đang xảy ra, đó đây nhiều lắm.

…đến những cái bẫy nơi giáo dân

Giáo dân Việt nam, là những người người luôn yêu kính các linh mục rất đặc biệt, nên không ai can đảm dám “giăng bẫy” linh mục.

Tuy nhiên, những suy nghĩ và cách cư xử của họ đã trở thành những cái bẫy, tuy vô tâm vô tình nhưng lại thật hiệu quả. Rất nhiều linh mục đã sập những chiếc bẫy ngọt ngào, êm dịu và đầy thú vị này. Kẻ giăng bẫy thì nhiệt tình và rất chân thành. Kẻ lọt bẫy cũng thường được vui lòng thoải mái.

– Thực vậy, để tốt nghiệp và có thể hành nghề, một bác sĩ cần 7 năm học tập và thực nghiệm. Dù thế, vị ấy cũng chỉ tốt nghiệp một khoa nào đó riêng biệt, nếu muốn thực hiện thêm khoa nào khác, phải học thêm lên cao, mất rất nhiều năm. Chưa nói đến cái TÂM và Y đức cần phải được mài dũa, thao luyện và sọi rọi qua từng ca bệnh mỗi ngày.

Người linh mục, như trường hợp bình thường, cũng chỉ được học tập và đào tạo trong 6, 7 năm với các môn chuyên biệt về “đạo”, thêm một thời gian nữa đi giúp xứ, để khi ra trường đạt yêu cầu. Đang khi môi trường “đời” luôn mênh mông muôn mầu và đổi thay hàng ngày đến chóng mặt.

Thực tế là như vậy, nhưng không biết từ lúc nào, người giáo dân vẫn coi linh mục luôn là người thông suốt mọi sự, nhất là khi biết các ngài đã được học những môn ghê gớm xa xôi như Thần học, Triết học…

Khởi đi từ suy nghĩ và quan niệm như thế nơi giáo dân, nên linh mục, vị lãnh đạo tinh thần, đã được mời kiêm nhiệm các chức vụ trong nhiều lãnh vực khác nhau, nhiều khi chẳng hợp với chuyên môn và thiếu hẳn kinh nghiệm của các vị ấy như: luật pháp, kinh tế, tâm lý, xã hội…

Từ một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Kỹ sư kiêm đốc công các công trình xây dựng, quân sư về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói linh mục còn phải đảm nhận những chức vụ “ phần đời” nọ kia khác.

Người giáo dân quen nhìn linh mục như một kẻ thông suốt mọi sự, “nhiều ơn Chúa”, độ tin cậy cao hơn hẳn mọi người, nên khi mời và được ngài nhận lời thì quả là một vinh dự hiếm có.

Nhưng thực tế nhiều trường hợp đã minh chứng rằng, đó chỉ là những cái bẫy ngọt ngào làm người linh mục sụp hố khi bị thua lỗ, hỏng chuyện và thất bại đau đớn, điều ấy đơn giản, vì đó không phải là các chuyên môn của các Ngài.

– Kính trọng linh mục là điều quý và phải có, nhưng các cử chỉ quá khúm núm là điều rất nguy hiểm, vì nó dễ làm cho các linh mục quên đi thân phận bụi tro, cục đất của mình, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Từ cục đất Chúa đã nắn thành tượng bụt, nhưng qua cách cư xử trọng kính quá khúm núm đến mất tự nhiên của giáo dân, đôi khi, người linh mục lại có ảo tưởng rằng mình là ông bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó, trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán, độc diễn ….

Trọng kính theo cái kiểu: “Con xin phép lạy cha ạ”, người nói thì chân thành nhiệt tình, người nghe cũng thấy được vuốt ve êm tai dễ chịu, nhưng đó chính là một cái cái bẫy khác dễ làm mất dần căn tính dẫn đến vong thân đáng tiếc.

***

Như ngọn nến phải bị đốt tan chảy, tiêu hao thì mới cho ánh sáng; cũng thế, người linh mục đang tan chảy từng giờ cho các giáo dân của mình. Ngọn nến kia có thể là lung linh đẹp đẽ, nhưng đôi khi cũng leo lét gây nhiều lo âu. Song, dù lung linh hoặc leo lét thì xin đừng quên, ngọn nến ấy cũng đã cho ta ít nhiều ánh sáng, dù nhiều khi ánh sáng ấy chưa được như lòng mong ước.  Và ngọn nến ấy đang tàn dần, như chính chúng ta cũng đang tàn dần theo từng giờ khắc.

“Bạc là dân, bất nhân là lính”, câu nói ấy không phải lúc nào cũng đúng và đúng với tất cả mọi người. Xin đừng BẠC, xin đừng BẤT NHÂN với ngọn nến đã ít nhiều soi sáng cho mình, cho gia đình mình trong xứ đạo trong thời gian nào đó.

Thân phận con người là mỏng dòn hạn chế, điều này ai cũng biết.

Đừng bắt ai là Thiên Thần, đang khi chính mình vẫn chỉ là NGƯỜI, để xét nét phê bình hoặc chê bai cao giọng.

Quan hệ giữa giáo dân và người linh mục không phải lúc nào cũng êm trôi xuôi chảy, đã có nhiều trục trặc trở ngại thật buồn.

Nhưng tất cả những ai đã từng xúc phạm cách này cách khác với người linh mục, sau đó, đều thấy hối tiếc không vui và rất lấy làm xấu hổ.

Một vị thức giả đã nói: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”. Một câu nói đầy minh triết bao dung của một tâm hồn cao đẹp. Câu nói ấy cũng có thể đổi thành:

“Đừng hỏi linh mục đã làm gì cho bạn, mà hãy hỏi rằng, bạn đã làm gì cho người linh mục hôm nay”.

Cụ thể rằng, bạn đã đi thăm những linh mục hưu dưỡng chưa, và được mấy lần? Bạn có băn khoăn và nghĩ gì về một ngọn nến đã hoặc đang soi sáng trong xứ đạo của mình.

Chỉ mới nghĩ vậy thôi, đã có người phải rơi nước mắt.

Xin được dùng câu nói in đậm trên kia để thay cho phần kết bài này, và đây cũng là dịp may để nói với chính mình trước hết.

Xuân Thái

Anh chị Thụ Mai gởi

Phép Thánh Thể

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá


4. Chiếc Bánh Thứ Tư

Sức mạnh độc nhất của tôi:

Phép Thánh Thể

Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?

Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:

– Ông có bị bịnh đường ruột không?

– Có.

– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!

Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).

Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.

Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.

Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…

Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.

Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.

Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.

Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).

Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

Sống Vui Từng Ngày, Bon Chen Gì Nữa

Sống Vui Từng Ngày, Bon Chen Gì Nữa

Ngậm ngùi bởi tiếc nuối tuổi trẻ đã trôi qua lúc nào không hay ! Ngậm ngùi phải chi hồi đó thế này thế khác… Hình như ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú ! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

Từ ngày có “thế giới phẳng”, ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp ! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa ! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75 ! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải….nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không ? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi,không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đầu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại, mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”. Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chỉnh cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua.

Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả ! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút.Nhưng muốn vậy, phải… chuyển đổi cách thở.

Thở ư ? Đúng vậy! Một bác sĩ có thể biết rất nhiều về bộ máy hô hấp, về cơ thể học, sinh lý học, bệnh lý học của bộ máy hô hấp nhưng chưa chắc đã biết thở !

Sưu tầm

Anh chị Thụ Mai gởi

Sống để mà Yêu !

Sống để mà Yêu !

Có khoảnh khắc nào trong cuộc đời mà chúng ta dừng lại và tự hỏi mình rằng: “Ta sống để làm gì?”. Bao nhiêu năm trời bôn ba, xuôi ngược, chạy đua với thời cuộc, lo toan từng miếng cơm manh áo, để rồi giờ đây nhìn lại, ta được gì? Nhà cao, chức trọng? Tiền tài, danh vọng? Đó là những ai nhiều phước đức. Thất bại, bẽ bàng, chia ly, tan vỡ? Buồn nhiều cho những số phận hẩm hiu…

Có khoảnh khắc nào trong cuộc đời, mà chúng ta dừng lại và tự hỏi mình rằng: “Ta yêu để làm gì?”. Bao nhiêu năm trời lao đao lận đận, chạy đuổi theo tiếng gọi của trái tim, để rồi giờ đây nhìn lại, ta được gì? Vợ đẹp, con ngoan? Mái nhà đầm ấm? Đó là những ai nhiều phước đức. Nửa đêm thức giấc, nhìn quanh một mình? Buồn nhiều cho duyên kiếp đìu hiu…

Cuộc đời này có mấy ai dám bảo rằng, tôi sống mà chưa từng bao giờ yêu? Con mới chào đời, Mẹ đã yêu con. Khi bắt đầu cất tiếng khóc, con yêu bầu sữa Mẹ. Ba yêu tiếng bi bô khi con tập nói. Bà yêu đôi chân chập chững lúc cháu tập đi. Cu Tèo yêu chiếc diều giấy mỗi chiều lộng gió. Bé Tí yêu cô búp bê bằng gỗ chẳng muốn rời.

Trưởng thành hơn, tuổi trẻ thường yêu tiền, yêu sự nghiệp, yêu công danh, yêu vật chất. Chữ Yêu của tuổi trẻ gần như đồng nghĩa với yêu đời, bởi vì cuộc sống ở lứa tuổi này, đa số thường rất dễ yêu. Có thất bại, chán nản đi nữa, thanh niên thường cho rằng, mình còn nhiều thời gian để làm lại, và vì thế cuộc đời nào mất cái vẻ đáng yêu?

Bước vào tuổi trung niên, con người thường bắt đầu nhận ra được chân lý cuộc đời, qua mái tóc lắc rắc muối tiêu, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, với đủ vị đời ngọt bùi cay đắng. Có khóc, có cười, có đau, có sướng. Thế nhưng con người vẫn tiếp tục sống để mà yêu, yêu nửa đoạn đường đời vẫn còn trước mặt.

Qua tuổi xế chiều, người già vẫn yêu. Yêu kỷ niệm, yêu nét dễ thương của “ngày xưa hoàng thị”. Có người yêu quá khứ huy hoàng; có kẻ yêu mối tình xưa chưa một lần dám tỏ. Và cũng chính vì chữ yêu, mà người ta bám lấy cuộc sống, vì dầu gì, người già cũng vẫn có trái tim…

Không phải ai cũng may mắn trong cuộc sống tình yêu. Đâu phải dễ dàng cứ lớn lên rồi gặp người mình yêu; lại có phước được chung sống với người yêu mình; và lại còn có duyên bên nhau tới ngày răng long đầu bạc…

Con người cần tình yêu để mà sống, nhưng con người không có tình yêu vẫn phải sống. Ta sống vì đã mang thân xác con người. Ta sống vì bổn phận với người thân. Ta sống vì con người sinh ra, sinh mạng là quý báu. Cho nên ta sống để mà yêu, và ta yêu để có được niềm vui trong cuộc sống.

Bao nhiêu năm qua, nhiều người đã cố gắng đi tìm định nghĩa chung của hai chữ tình yêu. Nhưng hỡi ôi….

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

Thế thì làm sao mới đúng nghĩa là Tình Yêu?

Có người nói: “Tình yêu chẳng có gì là khó hiểu”. Như khi đói được ăn thì thấy sướng; như lúc khát được uống thật là vui. Yêu là lâng lâng, là một cảm giác tuyệt vời mà ai yêu thời khắc biết…

Có kẻ bảo: “Tình yêu chẳng làm sao hiểu nổi”. Yêu ai yêu cả đường đi. Yêu làm con người ta mù quáng. Yêu thì trái ấu cũng tròn. Yêu khiến người thông minh cũng thành kẻ ngu si…

Tình yêu ngay chính nó cũng đã có rất nhiều mâu thuẫn. Ta yêu nhưng ta lại không biết làm sao yêu cho đúng với sự mong chờ ở nơi người ta yêu. Và cả chính người yêu ta, cũng không biết yêu ta đúng như ý mà ta mong muốn được yêu. Người ta hay nói con người có duyên lắm mới gặp được nhau. Và có phước lắm hai kẻ yêu nhau mới được sống đời mãi mãi. Còn bằng không, thì dẫu có muốn yêu cũng không được. Hay có được mà trái tim vẫn chẳng chịu yêu…

Và tình yêu đôi khi lại rắn mắc. Người ta bảo: “Theo tình, tình chạy. Bỏ tình, tình theo”. Ba người yêu nhau thì sẽ thành trò chơi cút bắt. Ba kẻ trốn tìm cứ mãi lẩn trốn loanh quanh…

Còn với những ai đã từng một lần dang dở, hay vẫn đang tìm kiếm nửa kia của đời mình, xin đừng vội nản. Vì nếu ta không được Yêu để mà Sống, thì ta hãy nên Sống để mà Yêu…

Tình yêu không chỉ giới hạn trong tình yêu trai gái. Thế giới bao la. Tình yêu cũng vậy. Ta yêu cha, yêu mẹ, yêu chị, yêu em. Ta yêu bạn yêu bè, yêu cỏ cây hoa lá. Yêu tiếng cười giòn của em bé không quen biết. Yêu cái miệng móm mém của cụ già đã rụng hết răng. Và ta yêu rất nhiều thứ chung quanh ta nữa.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay quên nói ba tiếng “I love You” với một người thân nào đó của mình. Phải chăng vì ta bận rộn? Hay là ta cho rằng chuyện đó không cần thiết mấy mà phải quan tâm. Khi yêu, người ta thường hay nghĩ rằng “người ấy” luôn luôn đủ thông minh để hiểu hết tất cả những gì mình làm, những gì mình nghĩ.

Khi yêu, người ta thường hay cho rằng, lời nói ngọt ngào cũng không quan trọng là bao. Miễn sao chúng ta hiểu ý nhau là đủ rồi. Vậy thì… bao nhiêu là đủ?

Tình yêu của bạn, bất kể là dành cho người yêu, người thân, người bạn, hay những người chung quanh, đôi khi hãy nên nói thành lời, đôi khi nên là những phút giây bên người ấy. Khi yêu, ta phải nên biểu đạt tình cảm của mình bằng mọi phương cách. Đối với nhiều người, phương pháp biểu đạt qua lời nói và hành động hàng ngày, là dễ dàng và cụ thể nhất.

Hãy nói lên lời yêu thương trong tim bạn, đến những người mà bạn đang yêu mến xung quanh mình.

Em ơi nghe chăng Tình yêu,
Tình yêu hát ở trong lòng
Như Xuân đang sang mênh mang
Như con tim yêu thương nồng cháy…

Hãy Sống để mà Yêu, Yêu thật nhiều và Yêu cho đúng ý người ta…

Nhân ngày lễ Tình yêu, xin cho tôi được một lần nữa – Sống để mà Yêu, qua lời nói chân thành nhất:

Tôi yêu bạn, yêu đời và yêu cả người dưng…

Hoàng Thanh.

Anh chị Thụ Mai gởi

Tết Chúa

Tết Chúa

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

VRNs (15.02.2015) – Sài Gòn

Giã từ Năm Cũ, sám hối lỗi lầm, quyết tâm trở về với Chúa Trời nhân hậu;

Chào đón Tân Niên, canh tân đời sống, thành thật tín thác nơi Lòng Chúa Xót Thương.

150215002

Thời gian cứ ngắn dần, mùa Đông lui bước để nhường chỗ cho mùa Xuân. Đó là quy luật muôn thuở.

Dân tộc nào cũng có ngày Tết riêng. Dù muốn dù không, dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, tất cả đều cảm thấy cõi lòng rạo rực, nô nức, dù ít hay nhiều, dù chỉ là vô thức hoặc không muốn. Ngoại tại khả dĩ tác động nội tại.

Thời gian là của Chúa. Thời gian không thuộc quyền của chúng ta, nhưng chúng ta được Chúa cho phép quản lý thời gian của mình. Đó là trách nhiệm. Ai cũng có mỗi ngày 24 giờ, không hơn 1 giây, không kém 1 giây. Dùng thời gian đó làm điều tốt hay xấu là quyền của mỗi người. Nén-thời-gian Ngài đã trao và cho chúng ta hoàn toàn tự do sử dụng.

Chúa rất muốn chúng ta vui. Dân tộc nào cũn có cách vui Xuân đặc trưng. Có nhiều cách ăn tết, thế nên mỗi người đón tết cũng rất khác nhau. Có người chỉ cần một cành mai, có người muốn nếm miếng bánh chưng, có người thích ăn một miếng mứt, có người ưa ăn một miếng dưa, có người khoái sắm chiếc áo mới, có người dành thời gian đọc sách báo, nghiên cứu, hoặc làm từ thiện,… Thế nhưng có người lại cố gắng thể hiện bề ngoài cho ra vẻ tết nhất để hợp với “đẳng cấp” của mình. Mỗi người mỗi kiểu, mỗi người có quan niệm riêng và phong cách riêng.

Tết nhau cũng đa dạng, tùy theo “thần tài” nhà mình, do đó mà lễ vật cũng mỗi người mỗi vẻ, mức “nặng” và “nhẹ” cũng rất khác nhau. Các “ông to, bà lớn” rất vui khi được “bề dưới” thể hiện bản lĩnh “biết điều” sao cho đúng mức. Người nghèo cũng rất vui khi được các nhà hảo tâm tặng vài kg gạo, túi đường hoặc bịch mứt. Giá trị vật chất khác nhau, nhưng giá trị tinh thần có thể giống nhau về niềm vui mà lại không giống nhau về “ý nghĩa”. Nhiêu khê quá!

Có người nói “tết là chết trong lòng”, thật cũng hợp lý lắm!

Với con người là thế. Người ta lo tết nhau những thứ có giá trị “thực tế”, làm đẹp lòng nhau bằng vật chất. Người ta cân-đo-đong-đếm giá trị tinh thần bằng chính giá trị vật chất, người nghèo không “chết trong lòng” sao được!

Về tinh thần thì sao? Có lẽ người ta không chú trọng nhiều đến việc xin lỗi nhau, dù ai cũng có lỗi, mà Tết là dịp để gặp gỡ nhau. Dù không nói ra, nhưng chính sự gặp nhau đó ngầm hiểu là tha thứ cho nhau. Chính sự giao hòa và lòng tha thứ mới là “quà tết” giá trị nhất.

Còn với Chúa thì sao? Thực sự chúng ta chỉ là những tội đồ vô cùng khốn nạn, hoàn toàn bất túc và bất trác, nhận rất nhiều mà chẳng có gì xứng đáng để tết Chúa, như Tv 115 nói: “Con biết lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con?”, thế nên chúng ta chỉ biết tiếp tục làm như Tv 115 dạy: “Con sẽ dâng Chén Cứu Độ và con sẽ kêu cầu Thánh Danh Chúa chí tôn”. Vả lại, chính Chúa cũng xác định: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13), Ngài cho chúng ta tất cả: “Tôi đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” (Ga 10:10). Thế nên Ngài không đòi hỏi gì ở chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta đối xử tốt với nhau, và Ngài coi đó là làm cho chính Ngài.

Chúa không cần chúng ta tết Chúa, nhưng Ngài muốn chúng ta tết tha nhân bằng chính tấm lòng chân thành nhất: YÊU THƯƠNG NHAU. Chúa Giêsu gọi đó là Điều Răn Mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Đó là “dấu hiệu” chứng tỏ ai là nhân chứng đức tin: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Chúa Giêsu nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17).

Chúa Giêsu thường nhắc đi nhắc lại: “Hãy yêu thương nhau”. Điều đó cho thấy Luật yêu cực kỳ quan trọng trong cuộc sống người Công giáo nói riêng. Và đó mới là Quà Tết đẹp lòng Chúa nhất. Chính món quà đó là những thứ Chúa muốn, nhưng không để lợi ích cho Ngài, mà là để lợi ích cho chính chúng ta và tha nhân. Tất nhiên, Quà tết đó sẽ thắm sắc màu Tin Cậy Mến:

Đầu Xuân con dâng lễ

Tết Thiên Chúa chí nhân

Quà Tết con chia sẻ

Là yêu thương tha nhân

Món quà yêu thương là Quà Tết quý giá, nhưng Quà Tết thánh đức nhất lại không gì bằng chính Con Thiên Chúa:

Bánh, rượu con dâng tiến

Xin Thiên Chúa chúc lành

Hóa thành Mình Máu Chúa

Hồn con đón Chúa Xuân

Chúa cũng sẽ rất vui chúc lành nếu chúng ta không chỉ giao hòa với Ngài mà còn cầu nguyện cho đất nước yêu dấu, tổ quốc thân thương, nơi mình đang sinh sống, với tâm tình cảm tạ:

Xuân mới đầy Ơn Thánh

Đức Chúa ban muôn người

Tình đồng loại thắm nở

Khắp nước Việt nơi nơi

Và dâng cho Chúa tất cả những nỗi niềm, lo toan, mơ ước, dự tính,… trong năm mới:

Đầu Xuân con dâng Chúa

Những mơ ước tin yêu

Rạng rỡ như hoa nở

Người luôn yêu thương nhau

Quà Tết dành cho Chúa còn là món quà “vâng lời”, như Đức Mẹ đã “xin vâng” (Lc 1:38), là thực hiện những điều Ngài dạy qua Kinh thánh:

– “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).

– “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).

– “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9:13), vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).

– “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4:29).

– Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái (Rm 13:8).

Và còn rất nhiều “món quà” khác chúng ta phải tết Chúa hôm nay và suốt cuộc đời này…

Lạy Chúa Xuân vĩnh hằng, chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (Lc 17:10), chúng con thành tâm xin lỗi Chúa, xin Ngài thương xót mà tha thứ tội lỗi cho chúng con. Xin cảm tạ Chúa về mọi ơn lành Ngài đã ban cho chúng con trong năm qua, và xin thương xót mà chúc lành cho năm mới của chúng con. Xin giúp chúng con biết sống vuông tròn Ý Ngài trong từng hơi thở của chúng con, luôn thể hiện yêu thương và khiêm nhường ngay từ trong ý nghĩ, đúng như Con Chúa đã truyền dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Không ngăn cản bất cứ ai về Việt Nam?

Không ngăn cản bất cứ ai về Việt Nam?

Mặc Lâm – RFA
2015-02-13

maclam02132015.mp3

nguyen-hung-quoc

GS. Nguyễn Hưng Quốc, Australia

Courtesy of vi-wikipedia.com

Your browser does not support the audio element.

Thứ trưởng Vũ Hồng Nam trong cuộc họp báo mang tên “Xuân Quê Hương” vào ngày 30 tháng 1 chào đón kiều bào đã nói rằng theo Nghị quyết 36 của Bộ chính trị thì đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu cao cả, cuối cùng của toàn dân tộc Việt Nam.

Ông Thứ trưởng còn nói đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì Bộ Ngoại giao có chính sách hàn gắn, đoàn kết dân tộc với những người còn có ý kiến khác, còn có những hoạt động chống đối, lời nói xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã tiếp cận những kiều bào còn định kiến, cử các đoàn chuyên viên gặp gỡ, trao đổi với đại diện kiều bào ở các nước, có những chính sách cởi mở hơn nữa để vận động họ trở về…

Đối chiếu với tuyên bố này, thực tế có những bức tranh hoàn toàn khác đang gây ẩn ức từ việc công an cửa khẩu nhận được chỉ thị cấm hàng trăm người nhập cảnh mỗi năm theo danh sách mà họ gọi là thành phần chống đối. Trong các thành phần chống đối ấy công an không loại trừ các trí thức, chuyên gia, hay những người làm từ thiện mà hoạt động của họ hoàn toàn không có một sự chống đối nguy hiểm nào.

Trường hợp thứ nhất là chuyên gia an ninh mạng Hoàng Ngọc Diêu, anh bị nhà nước cấm cửa không cho vào Việt Nam mặc dù được mời tham dự một hội thảo chuyên đề về an ninh mạng vào cái tết năm 2012, anh Hoàng Ngọc Diêu cho biết thêm chi tiết như sau:

“Khoảng tháng 1 đầu năm 2012 tôi được mời về Việt Nam do một nhóm chuyên bảo mật an toàn thông tin của Việt Nam mời về dự cuộc hội thảo được gọi là “Tetcon” (Viết tắt của Tết Conference, do được tổ chức vào ngày gần Tết) mình nhận được giấy mời đàng hoàng, được đài thọ mọi thứ, coi như cái event đó nó được Ủy ban nhân dân thành phố chấp thuận đầy đủ hết rồi.

Ngày hôm đó mình chỉ lên máy bay, về tới nơi thì hải quan của phi trường Tân sơn nhất họ giữ lại, họ lôi vô trong phòng nói chuyện trên trời dưới đất họ tìm cách trì hoãn thời gian. Lúc đó mình chưa có hiểu rõ là mình không được vô Việt Nam mình chỉ nghĩ họ muốn biết mình về Việt Nam làm gì thôi không ngờ họ kéo dài ba bốn tiếng đồng hồ cuối cùng họ nói: thôi bây giờ anh ra máy bay, họ tống cổ lên chuyến bay kế tiếp bay ngược lại Úc!”

hoang-ngoc-dieu

Ông Hoàng Ngọc Diêu – Ảnh từ goctroikhac.wordpress.com

Trường hợp thứ hai là Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc giảng dạy tại đại học Victoria thành phố Melbourne nước Úc. Giáo sư bị công an cửa khẩu từ chối không cho nhập cảnh hai lần, lần đầu tiên vào năm 2005 khi ông dẫn 14 sinh viên người Úc về Việt Nam để làm một cuộc du khảo vì các sinh viên này đã theo học tiếng Việt ở Úc và cuộc đi này nhằm góp phần mở mang kiến thức văn hóa Việt Nam cho các bạn sinh viên. Trong khi tất cả các sinh viên không có vấn đề gì thì chính bản thân người dẫn đầu lại bị chặn và không cho phép vào Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc bị buộc phải lên máy bay quay về Úc ngay sau đó.

Ba năm sau vào năm 2009 Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc được mời thuyết trình trong một hội thảo quốc tế về vấn đề giảng dạy ngôn ngữ do trường đại học Hà Nội và một trường đại học tại Úc đồng tổ chức. Ông được mời, được Việt Nam cấp Visa nhưng khi tới phi trường Nội Bài ở Hà Nội thì lại không được phép nhập cảnh.

Trở về Úc, Giáo sư hỏi đại sứ Việt Nam tại Úc và Bộ Ngoại giao Việt Nam tại sao lại có chuyện như vậy thì Bộ Ngoại giao không trả lời chỉ có đại sứ Việt Nam tại Úc trả lời là họ không biết.

Trường hợp thứ ba là của cô MiVan Lovstrom, vào tháng 10 năm 2011 cô cũng bị cấm nhập cảnh khi cùng hai người bạn Na Uy đi với cô vào Việt Nam mang quà tặng cho trẻ khuyết tật. Chỉ mình cô bị cấm vào và phải quay về Thái Lan mà không một lời giải thích. MiVan cho biết:

“Lúc đó thì họ nói là tạm thời MiVan không được nhập cảnh, MiVan có hỏi lý do thì không được trả lời lý do như thế nào. Sau đó MiVan hỏi nữa thì tòa đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nói là chắc MiVan đi tới những vùng nhạy cảm họ cũng nói rằng ở Việt Nam muốn làm từ thiện thì phải qua Mặt trận tổ quốc hay Đoàn thanh niên.

MiVan cảm thấy nó không hợp lý vì vẫn không có câu trả lời thỏa đáng và lúc hỏi khi nào mới trở vào được thì vẫn không có câu trả lời rõ ràng. MiVan cảm thấy chuyện của mình làm là mang một chút nguồn vui tới những người kém may mắn hơn vì vậy MiVan mong được sự thông cảm đối với việc của mình.”

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc là một nhà phê bình lý luận văn học có tiếng ở hải ngoại. Ông là một trí thức hiếm hoi ở nước ngoài dấn thân lặn lội trong việc nghiên cứu văn học Việt Nam nhưng bắt đầu từ hai chuyến cấm nhập cảnh đó người theo dõi thấy chủ đề và cách viết của ông thay đổi một cách rõ ràng. Ông không viết về văn học nữa mà tập trung các bài phân tích chế độ cộng sản Việt Nam một cách sắc sảo mà trước đó ông chưa bao giờ làm. Khi được hỏi có phải sự thay đổi lớn lao này phát sinh từ hai chuyến về Việt Nam hay không ông nói:

“Tôi nghĩ là có anh ạ. Thật ra không phải tôi không quan tâm đến chính trị thế nhưng từ lúc vượt biên, lúc cầm bút vào cuối năm 1985 cho đến khoảng năm 2008 thì hầu như hoàn toàn tôi không viết về chính trị mà chỉ viết về văn học thôi. Không phải vì mình không băn khoăn, không suy nghĩ về chính trị nhưng có hai lý do: Lý do thứ nhất tôi muốn tập trung vào lĩnh vực văn học thôi vì tôi nghĩ đó là sở trường của mình, thứ hai, chuyện chính trị tôi nghĩ có thể có nhiều người khác có khả năng hơn mình họ có thể làm được và làm một cách xuất sắc hơn mình.

Thế nhưng sau khi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam lần thứ hai thì tôi bị shock, rồi chính cái shock ấy tôi mới nghĩ rằng là mình muốn tránh né chuyện chính trị cũng không được. Ngay bản thân tôi hồi trước chỉ tập trung vào phê bình văn học, tậy trung vào nghiên cứu nhưng cuối cùng vẫn bị áp lực của chính trị buộc mình không được đặt chân vào ngay chính quê hương của mình để thăm gia đình, bạn bè cho nên thật ra mà nói tôi rất shocked.”

Cò lẽ sự ẩn ức của Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc không phải từ cá nhân ông, nhưng việc cấm nhập cảnh giống như mảnh vải đen che mắt của ông bị lột bỏ để ánh sáng tri thức soi rọi vào một góc tối mà trước đó ông không để ý, giáo sư chia sẻ:

” … có thể nói thế này, chính cái việc bị trục xuất ra khỏi Việt Nam nó làm như một cái cú shock về phương diện tâm lý và từ phương diện tâm lý như vậy nó thay đổi cả về phương diện nhận thức và cuối cùng tôi viết về chính trị một điều mà trước đó tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ nghĩ tới.

GS. Nguyễn Hưng Quốc “

“Ngay cả khi mình sống ở hải ngoại mà mình còn chịu sự tác động của những quyết định độc tài độc đoán như vậy huống hồ gì những người trong nước họ hoàn toàn lệ thuộc vào các quyết định của chính phủ. Họ có thể sợ những công an trong khu vực ra đường thì sợ cảnh sát…cả đời họ sợ hãi bởi vậy cho nên tôi nghĩ nếu trong hoàn cảnh như vậy mà mình tiếp tục viết vể văn học nghệ thuật thì tự nhiên mình cảm thấy có gì nó hơi hờ hững quá, nó không phải cho nên tôi bắt đầu viết vể chính trị.

Thoạt đầu tôi định viết ít thôi, mỗi tuần viết trên blog của đài VOA thì tôi định mỗi tuần tôi viết hai bài vể văn học, một bài về ngôn ngữ học hoặc giáo dục và một bài vể chính trị nhưng mà càng đọc, theo dõi tình hình chính trị Việt Nam thì càng cảm thấy khó chịu, bức bối nó đòi viết bởi vậy dần dần về sau này thì gần như tôi viết hoàn toàn về vấn đề chính trị. Gần đây tôi có mở một trang Facebook thì ở trong đó tôi cũng viết về chính trị cho nên có thể nói thế này, chính cái việc bị trục xuất ra khỏi Việt Nam nó làm như một cái cú shock về phương diện tâm lý và từ phương diện tâm lý như vậy nó thay đổi cả về phương diện nhận thức và cuối cùng tôi viết về chính trị một điều mà trước đó tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ nghĩ tới”

Trong buổi họp báo vào trước Tết, Thứ trưởng Vũ Hồng Nam khẳng định với báo chí rằng “Việt Nam có chủ trương rõ ràng, đất mẹ Việt Nam mở rộng cánh tay đón tất cả những người con trở về, không phân biệt thành phần quá khứ, miễn là không chống lại đất nước, không chống lại nhân dân. Đây là một thông điệp rõ ràng của Đảng, Nhà nước chúng ta.”

Rất tiếc thông điệp này, ít nhất theo những người bị cấm nhập cảnh vô cớ, chỉ có thể là thông điệp phát đi từ Bộ Ngoại giao, làm theo nội dung của nghị quyết 36 chứ Bộ Công an hoàn toàn không chia sẻ. Những cái nhìn quá nhạy cảm của Cục Đối ngoại thuộc Bộ Công an không phân biệt nổi đâu là sự chống đối nguy hiểm đến chế độ và đâu là các hoạt động thuần túy nghề nghiệp đã đẩy những người có tâm với đất nước trở thành đối đầu một cách kiên trì để từ đó mọi giải thích chỉ được đánh giá là tuyên truyền không hơn không kém.