CHIẾC VISA NƯỚC TRỜI

CHIẾC VISA NƯỚC TRỜI

Tác giả: Huệ Minh

Trong đời sống thường nhật, ta rất quen và rất gần với chiếc thẻ visa. Để được vào một nước nào đó hẳn nhiên ta phải có visa được cấp từ nước mà ta muốn đến, Và, hẳn nhiên muốn có visa ta phải hoàn tất một số thủ tục bắt buộc là xin đơn, điền đơn …

Kitô hữu, ắt hẳn ai ai cũng biết rằng đất nước mà ta đang sống đây phải chăng chỉ là tạm bợ mà thôi. Điều này ai cũng rõ cả vì trần gian này chỉ là “chiếc lều tạm” trong cuộc hành hương trước khi vào Nước Thiên Chúa – nơi mà người Kitô hữu hướng đến.

Để vào Nước Trời, dĩ nhiên cũng phải có những điều kiện để vào đó. Điều kiện để có một chiếc “visa Nước Trời” được chính Chúa Giêsu trước khi về cùng Cha – về Nước Trời – đã chỉ cho các môn đệ cũng như những ai muốn vào.

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dừng lại để làm một cử chỉ mà các môn đệ và nhất là Phêrô – người môn đệ trưởng – cũng hết sức ngạc nhiên : “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6).

Trước thái độ ngạc nhiên đó, Chúa Giêsu nói :  “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. Phêrô cũng chẳng yên “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Ta thấy Chúa Giêsu lại nói : “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Và rồi Phêrô “tham quá” !,  liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa”.

Cũng dễ hiểu thái độ của Phêrô bởi lẽ ông là người bộc trực, bốp chát và nóng nảy. Và ta thấy hhi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. (Ga 13, 12-15)

Đau ở chỗ “Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa”. Chúa Giêsu làm như vậy để chứng minh con người thật của mình và đã làm chứ không phải nói.

Đỉnh điểm của những lời yêu thương đó là : Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13, 34)

Chỗ mà mỗi người Kitô hữu buộc lòng phải điền vào cái đơn xin “visa Nước Trời” là chỗ đó đó, là cái chỗ mà yêu thương nhau như Thầy đã yêu.

Cái tình yêu mà Thầy đã yêu đó không giống như tình yêu của con người dành cho nhau, không phải tình yêu của mắt đền mắt, răng đền răng, không phải là yêu kẻ yêu thương mình … mà là yêu cho đến tận cùng, yêu cả kẻ thù của mình, kẻ đã sát hại mình.

Thật ra mà nói, không thể nào lý giải được cái tình yêu lạ lùng đó nhất là khi Chúa Giêsu đến trần gian này để cứu nhân loại mà đâu phải là cứu cái nhân loại tốt lành mà là cứu cái nhân loại đầy tội lỗi, đầy bợn nhơ và chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm : “Ðức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. (1 Tm 1, 16)

Tình yêu Giê su thật đẹp ! Tình yêu ấy được linh mục nhạc sĩ Thành Tâm khơi dòng cảm hứng :

Trên đồi cao, trong gió lao xao gọi mời tình yêu
Giêsu gục ngã, treo thân thập giá dang cánh tay ôm tội đọa đầy
Thân tàn hơi con Chúa Trời nghe hồn chợt đơn côi
Ôi nhân loại hỡi, sao chưa hoài tới mà nỡ quên ân tình biển khơi

Chỉ vì tình yêu Chúa chịu nhục thân chết cho trần gian
Vì Ngài chỉ đến sống cho tình yêu, chết cho tình yêu
Để cứu muôn người lỗi tội
Đưa về trời đẹp tươi

Căn cốt của chuyện Chúa Giêsu đến trong trần gian này, sống trong trần gian này và chết cho trần gian này cũng chỉ vì chữ Yêu mà thôi. Và hẳn nhiên, điều mà Thầy truyền lại cũng như điều kiện để vào Nước Trời đó là người nào muốn vào là phải yêu.

Yêu ! Nhìn thấy thoạt dễ nhưng nhìn kỹ lại một tí thật khó ! Khó bởi lẽ trong nội tại con người ai ai cũng có cái tôi đôi khi nặng hơn cả ký lô thân xác mình đang sở hữu.

Thế nhưng, xét cho bằng cùng cũng là dễ nếu như ta chịu khó nhìn lên trên đỉnh đồi Gôngôta ngày thứ Sáu Tuần Thánh và chiêm ngưỡng bậc thầy của tình yêu chịu treo trên đó. Ta nhìn, ta ngắm, ta suy ta sẽ thấy bậc thầy đó yêu ta đến mức nào ngay khi ta còn là một tội nhân, là một con người thậm chí chẳng ra gì.

Rõ ràng nhất trong cuộc sống, ta chẳng là gì cả nhưng chẳng hiểu tại sao mọi người lại yêu ta đến như thế ?

Cứ ngẫm xem có phải đúng hay không khi ta đặt mình trước mặt ông thầy của tình yêu, ta đặt mình trước mặt ta và ta đặt mình trước mặt những người thân yêu nhất là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con, là bạn bè thân hữu …

Có đôi khi ta chợt nhận ra rằng ta là một chồng thất tín bất trung, sáng xỉn chiều say lè nhè lem nhem đó nhưng rồi người vợ hiền và đàn con thân yêu vẫn yêu thương bao bọc ta và luôn luôn đón nhận ta khi ta trở về với gia đình.

Có đôi khi ta chợt nhận ra rằng ta là bà vợ lắm lời nhiều tiếng và không chu toàn bổn phận của người vợ, người mẹ trong gia đình nhưng người chồng và những đứa con ngoan trong gia đình vẫn yêu mẹ chúng lắm !

Có khi ta là những đứa con bất hảo và cả bất hiếu với cha với mẹ và hành xử chẳng ra gì với anh chị em trong gia đình nhưng rồi chẳng hiểu sao cha mẹ và anh chị em thương ta quá !

Có đôi khi trong cơ quan, trong trường học, trong công sở ta sống ích kỷ, thu vén và đôi khi cùng kỹ năng để hơn người này thắng người kia nhưng rồi đồng nghiệp, đồng bạn vẫn bao dung yêu thương đón nhận ta.

Có đôi khi ta là thành viên trong cộng đoàn tu trì sống chẳng ra một cung cách của nhà tu là ích kỷ, giận hờn, gian tham, thu vén, cửa quyền, độc ác nhưng cộng đoàn lại yêu thương ta cách là lùng mà ta không hiểu.

Tình yêu mà thầy Chí Thánh Giêsu vẫn len lỏi đâu đó từng ngỏ ngách trong cuộc đời ta mà ta không hay không biết để rồi ta lại cứ ngang ngang, tàng tàng, bướng bướng độc ác với anh chị em đồng loại.

Ngày hôm nay, nhìn lại cử chỉ của vị linh mục chủ tế rửa chân cho các môn đệ ta lại được nhìn lại cử chỉ yêu thương của Chúa bên đời ta qua người vợ, người chồng, người con, người đồng loại đang sống bên cạnh ta.

Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm ! Câu nói thật dễ thương !

Ta cứ yêu đi rồi ta làm gì thì làm ! Đúng như thế ! Ta hãy quay lại với tình yêu nguyên thuỷ mà Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn ta để ta yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã yêu thương ta.

Giữa cuộc sống bôn ba bề bồn với cơm áo gạo tiền, trái tim của ta bị phủ đầy những lớp bụi của tham sân si, của hờn ghen, của thu vén để không còn đủ sự tinh tuyền thuở ban đầu mà Thiên Chúa tạo dựng.

Hẳn nhiên ta cần cơm áo gạo tiền cho cuộc sống hiện tại, cho những gì cần để nuôi thân ta. Nhưng, ta nên nhớ và phải nhớ một điều rằng cuộc sống của ta chỉ là những chuỗi ngày lữ thứ tha hương, nước chúng ta cần đến, cần vào đó là Nước Trời.

Khi ta nhắm mắt xuôi tay, Chúa sẽ chẳng hỏi ta điều gì khác ngoài lời đáp trả yêu thương mà Chúa mời gọi vào chiều hôm Tiệc Ly thứ Năm Thánh.

Có thể ta có nhà lầu, xe hơi, biệt thự, quyền cao chức trọng nhưng nếu ta đánh mất đi tình yêu hay nói cách khác ta không điền vào cái đơn xin visa Nước Trời chữ Yêu mà Chúa Giêsu đã mời gọi thì thật là đáng tiếc.

Sống ở đời, căn cốt không phải là giàu hay nghèo, sang hay hèn, là đại gia hay tiểu gia. Căn cốt của đời này là ta có đạt được Nước Trời, nơi chính là cùng đích của đời ta hay không mà thôi.

Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối tham sân si, hay giận hờn, hay ghét ghen, hay hơn thua, hay chà đạp người khác … Ta hãy nhìn lên hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương ta đến dường nào để ta loại bỏ dần những tính hư tật xấu nhất là nghịch về giới răn yêu thương mà Chúa đã mời gọi chúng ta.

Và ta nên nhớ lời trăn trối dễ thương : Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”. (Ga 13, 35)

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết yêu thương nhau như Thầy đã yêu để ta có một tấm visa Nước Trời và là môn đệ thật của Thầy Giêsu.

Huệ Minh

Tượng Mẹ & Tượng Bác

Tượng Mẹ & Tượng Bác

RFA

Sổ Tay Thượng Dân K. Tien

Công chúng đương thời thì bàng quan, thờ ơ với “tượng đài,” thứ mà Nhà nước đang hào phóng ban phát … bằng tiền thuế của họ.

Lý Trực Dũng

Cuối cùng, tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng cũng đã hoàn tất, và khánh thành vào ngày 24 tháng 3 vừa qua. Dư luận – xem ra – không được đồng tình lắm với công trình kiến trúc cấp quốc gia, lớn nhất Đông Nam Á (với kinh phí 411 tỉ) của hoạ sĩ của Đinh Gia Thắng và kiến trúc sư Nguyễn Luận.

Thiên hạ chê rằng … mắc!

Ảnh: vnexpress

Kể thì cũng hơi mắc thiệt, nếu chỉ thấy cái đầu của mẹ Nguyễn Thị Thứ giữa một đống đá lô nhô nhưng nếu nhìn bao quát cả quần thể kiến trúc tượng đài (“gồm 8 trụ huyền thoại ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương”) thì mới thấy giá cả cũng phải chăng thôi.

Đó là chưa kể công phu khắc họa trên 8 trụ “hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”

Nói tóm lại, và nói cho công bằng, là rẻ rề hà. Hơn nữa, theo nhà phê bình mỹ thuật  Lê Quốc Bảo thì “ không thể lấy con số 400 tỷ để đem ra đo với giá trị nghệ thuật vì giá trị nghệ thuật là vô giá.”

Thằng chả nói đúng!

Cứ chăm chăm xoáy vô chuyện tiền bạc không những đã kỳ mà còn có thể làm cho qúi mẹ buồn lòng nữa, nhất là “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội”! Mà không phải chỉ có mẹ Tây Nguyên thôi đâu nha. Các mẹ ở sóc Bom Bo, huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) cũng chịu chơi hết biết luôn:

“Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ,
Sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây,
Người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay
Với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày.”

Tiếng Chầy Trên Sóc Bom Bo Xuân Hồng

Mấy mẹ Vân Kiều hay mẹ Pa Kô (ở Huế) cũng vậy, cũng đều chơi xả láng, sáng về sớm:

“Gạo ngàn cân em gùi ra chiến trường.
Bộ đội giải phóng ơi yên tâm mà đánh thắng giặc Mỹ.”

Cô Gái Pa KôHuy Thục

Chỉ có điều đáng tiếc là thời son trẻ của các mẹ đều đã qua tự lâu rồi, và cuộc sống hôm nay đã khác xưa nhiều lắm. Bây giờ mà “cách mạng (lại) cần gạo nhiều để đánh Mỹ,” đánh Tầu, hay đánh ai đó nữa thì chắc chắn là sóc Bom Bo không còn “sẵn cối chầy” đâu.

Tiế́n sĩ Trần Đăng Tuấn đã báo động lâu rồi: “Khi bạn lên vùng cao, bế các cháu bé bé lên, sẽ thấy chúng nhẹ bỗng.”

Sao kỳ vậy?

Kỳ khỉ gì. Tụi nhỏ “nhẹ bỗng” vì chúng  đói quá thôi! Kể từ khi “bộ đội giải phóng đánh thắng giặc Mỹ” thì người dân ở những vùng cao vẫn phải ăn mèng méng, củ mài, rau rác, hay chuột, nhái thay cơm. Làm gì còn có gạo (“ngàn cân”) để gùi ra chiến trường, như hồi đó nữa.

Đói rách là tình trạng phổ biến đối với tất cả mọi sắc dân bản địa ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Còn tuyệt vọng, phẫn uất, và sợ hãi là tâm cảm chung của họ.

Ngày 21 tháng 7 năm 2004, BBC đi tin: “Vietnam refugees emerge from hiding.” (Những người tị nạn Việt Nam xuất hiện từ nơi ẩn trốn). Bản tin này có trích dẫn lời của một nạn nhân: “Tôi hoan hỉ chết ngay tại nơi này, hơn là trở lại Việt Nam và chết ở đó.” (I would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam and die there).

Ngày 20 tháng 12 năm 2014, từ Phnom Penh, Quốc Việt (RFA) cũng phổ biến một bản tin tương tự: “Một nhóm người Thượng gồm 8 người đã mạo hiểm ra khỏi rừng rậm để gặp Liên Hiệp Quốc, và yêu cầu cơ quan quốc tế này can thiệp.” Họ cũng lập lại một lời yêu cầu, y như những kẻ đồng cảnh, trước đó:

“Liên Hiệp Quốc chở đi chỗ nào cũng được, quan trọng là đừng chở về Việt Nam. Vì chúng tôi sợ Việt Nam, công an Việt Nam đánh đập…”

Khoảng cách của hai bản tin dẫn thượng là đúng một thập niên. Giữa thời gian này là ba biến động lớn: năm 2001, năm 2004 – ở Tây Nguyên –  và năm 2011 ở Mường Nhé. Hệ quả, riêng tại địa danh cuối, theo tường thuật của Thanh Trúc (RFA) “đã khiến hàng trăm người phải bỏ trốn vào rừng, và bản án 63 năm tù giam (trong phiên toà ngày 28 tháng 5 năm 2013) cho 8 bị can ở Tây Nguyên với tội danh là gây hằn thù, kỳ thị, chia rẻ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.”

Cả ba biến động này, xem ra, chả hề làm cho nhà đương cuộc Hà Nội bận tâm một xíu xiu nào ráo trọi. Họ đều coi như đều là chuyện nhỏ nên tiếp tục đàn áp không nương tay với những sắc dân bản địa. Chỉ trong vòng ba tháng đầu năm nay (năm 2015) khán thính giả của VOA,̀ RFA, và Phnom Penh Post đã được biết thêm hàng chục bản tin về tình trạng vượt biên từ Việt Nam:

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc bản địa tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao lại tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy người ta đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000, 177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!  Tuy nhiên, mọi sai lầm – cuối cùng – đã được “sửa sai” và “đền bù” bằng một cái tượng đài hoành tráng với 8 trụ “huyền thoại,” ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương.

Theo vnexpress: “Trên 8 trụ khắc họa hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội ; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”

Ý Trời! Gạo nghìn cân gùi ra chiến trường đều đều, cùng với hàng vạn mạng người đã bỏ mình cho “cách mạng” mà “đền bù” chỉ có mỗi một cái hình “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no” thôi sao?

Chơi vậy, ngó bộ, có hơi hẹp à nha.

Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh và chú thích:baotanghochiminh

Không dám hẹp đâu. Đã có sẵn một pho tượng hoành tráng khác “đặc biệt dành riêng” cho đồng bào ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng rồi – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online:

Tối 9-12, tại TP Pleiku (Gia Lai) đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên… Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên được khởi công xây dựng tháng 10-2010 tại quảng trường Đại đoàn kết, TP Pleiku. Tượng Bác cao 10,8m đặt trên bệ cao 4,5m được đúc bằng chất liệu đồng. Phía sau và hai bên tượng Bác là phù điêu bằng đá tự nhiên có chiều dài 58m, cao 11m, hình vòng cung với nhiều cánh sen, thể hiện nét đẹp văn hóa các dân tộc Tây nguyên như nhà rông, rượu cần, cồng chiêng…Tổng kinh phí xây dựng công trình là 230 tỉ đồng.”

Thạch thư toàn văn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam. Ảnh: cadn.com

Thấy chưa: chỉ mình ên đám Tây Nguyên mà đã được “hưởng” nguyên một pho tượng Bác, trị giá tới 230 tỉ đồng rồi. Đó là chưa kể chuyện nhà thầu còn khuyến mại (thêm) một bức thạch thư hoàn toàn miễn phí nữa – theo mô tả báo Công An Nhân Dân:

Phía tay phải của Tượng đài Bác là 54 trụ đá bazan được ghép tỉ mỉ với 3 tầng với tên gọi công trình là “Đại Đoàn Kết” thể hiện lòng đoàn kết của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Đó cũng là tâm nguyện của Bác trong bức thư của Người gửi “Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, họp tại Pleiku” vào ngày 19-4-1946 được khắc toàn văn trên Đài thạch bằng đá granite rộng 3m, cao 4,2m, dày 2,5m và nặng hơn 135 tấn đặt tại phía trái Quảng Trường: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán… Gia Rai hay Ê Đê, Xơ  Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…”

Thư Bác viết đã hơn nửa thế kỷ qua mà đọc (lại) vẫn cứ muốn ứa nước mắt:“Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”

Lúc đói, mỗi người sẵn lòng giúp cho Nhà Nước hàng ngàn cân gạo; khi no, Đảng và Chính Phủ cũng không ngần ngại giúp lại cho nhân dân hàng ngàn tượng đài, nặng hàng ngàn tấn, với kinh phí hàng ngàn tỉ bạc chi từ tiền thuế của họ. Chơi kiểu đó (e) chó cũng nổi điên, chớ đừng nói chi người – bất kể̉ là Kinh hay Thượng.

Ai biến dân An Nam thành súc vật?

Ai biến dân An Nam thành súc vật?

VietTuSaiGon

Chuyện người Việt, đặc biệt là lớp trẻ chen chúc nhau, giành giật miếng ăn ở Hà Nội, Đồng Nai, Sài Gòn, Cần Thơ… nghe ra quá quen thuộc. Từ chuyện xếp hàng rồng rắn, chen chúc và lội lên nhau, giẫm đạp nhau để có miếng sushi, xúm nhau hôi bia của xe tai nạn, thản nhiên bưng trái cây (vải, nhãn) của xe bị tai nạn rơi xuống vực… Và vài ngày trở lại đây là xúm xít giành giật từng phần đồ chơi người ta ném từ trên tầng cao xuống và chen lấn vì miếng ăn ở Sài Gòn. Tất cả, nhìn theo cách nào cũng rơi vào trạng thái thèm ăn của súc vật chứ không phải của con người văn minh. Tại sao phần lớn người Việt Nam, giới trẻ Việt Nam lại trở nên tệ hại như thế?

Câu trả lời không đơn giản, nhưng cũng không quá phức tạp. Có hai vấn đề: Căn tính người Việt thời xã hội chủ nghĩa và; Phương cách quản lý của nhà nước hiện tại.

Phải nói rằng đây là căn tính của người Việt thời xã hội chủ nghĩa chứ không phải thời nào khác. Cũng có thể ở thời phong kiến và thuộc địa, người Việt cũng có tính cách này nhưng chỉ ở mức cam chịu, cúi đầu trước quyền lực phong kiến và nhận ơn của đức vua hoặc của “mẫu quốc” nhưng chí ít cũng có tư thế, cũng khiêm cung và đĩnh đạt, không xô bồ, chụp giựt như hiện tại.

Nguyên nhân của tính chụp giựt, coi trọng miếng ăn của phần đông người Việt hiện tại đều do thời kinh tế bao cấp, con người hoảng sợ vì mất miếng ăn, vì thiếu đói và tù tội, con người phải quì lụy miếng ăn như một thứ cứu cánh và con người không còn suy nghĩ được gì khác ngoài chuyện phải thông minh để khỏi mất miếng ăn, khỏi bị đánh đập và khỏi phải tù tội.

Quá trình xếp hàng từ nửa đêm cho đến chiều hôm sau để chờ miếng ăn, mỗi ngày đều phải xếp hàng, người trong gia đình phải thay phiên nhau xếp hàng chờ miếng ăn suốt mười ba năm (1975 – 1988) sau đó là cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hàng núi các trò trí trá của giới chức Cộng sản, họ đứng đằng sau các loại dịch vụ để người thân, gia đình họ thao túng thị trường, biến thị trường trở thành sân sau của các quan chức mà ở đó, mọi thủ đoạn, mọi sự ép chế, áp bức và bóc lột đều có đủ.

Chính quá trình mười ba năm dài sống trong tăm tối của chụp mũ, xếp hàng chờ miếng ăn và hốt hoảng, lo sợ tương lai, lo sợ cái đói để rồi tiếp theo là một thứ cơ chế tạo ra môi trường đội trên đạp dưới, nịnh nọt vì đồng tiền bát gạo đã đẩy phần rất lớn người Việt rơi vào tình trạng đạp lên nhau mà sống, bất chấp để làm giàu.

Hệ quả của quá trình sống từng ngày, thở từng ngày trong vô cảm, mưu toan và sợ hãi đã đẩy số đông người Việt Nam đến chỗ bạc nhược với chính mình, không thiếu những kẻ lười biếng, trông đợi vào lòng thương của người khác và cũng không thiếu những kẻ cơ hội, giẫm đạp lên số phận của đồng loại để làm giàu. Nhưng cho dù có giàu có, tiền bạc đầy túi thì tính khí, tập khí của họ vẫn là kẻ bạc nhược, sự bạc nhược này di truyền sang những thế hệ sau. Nhiều bạn trẻ không bao giờ dành ra được nửa giờ đồng hồ để đọc sách và suy tư về bản thân, gia đình, đất nước nhưng lại sẵn sàng bỏ ra một buổi, vài buổi, thậm chí vài ngày đứng xếp hàng ngoài nắng để được ăn miễn phí.

Điều này cho thấy khả năng suy tư của các bạn trẻ đã bị thui chột tự bao giờ. Đương nhiên, cái lỗi lớn nhất vẫn thuộc về môi trường sống. Nhưng ai đã tạo ra một môi trường, tạo ra một sinh quyển bệ rạc như hiện tại? Điều này phải hỏi đến nhà cầm quyền, phải hỏi đến chính sách vĩ mô cũng như những chủ trương lãnh đạo đất nước của họ. Không ai khác có thể trả lời được câu hỏi này.

Nhưng, vấn đề hiện tại, chính sách hiện tại vẫn là quan trọng nhất. Vì sao cho đến hiện tại, khái niệm “AnNamist” lại trở nên nổi trội đối với người Việt Nam? Điều này phải xem lại cách quản lý của nhà nước. Nếu nhà nước quản lý chặt chẽ, có những điều khoản qui định cấm các hoạt động dẫn đến hành vi man di mọi rợ như ném đồ chơi miễn phí cho khách hàng tranh giành, ném ấn đầu năm cho người ta giành giật, ném phết cầu may để người ta đánh nhau mà giành giật… Làm những cái bánh chưng, những dĩa bê thui, tô mỳ Quảng, chiếc bánh tét, tô hủ tiếu lớn nhất, lập kỉ lục… Để rồi người ta xúm xít vào mà tùng xẻo, giành lấy cho mình một miếng như một loại bổng lộc… Thì làm sao đến nông nỗi tệ hại như vậy?!

Đằng này, không những không cấm mà hầu như nhà nước còn cổ xúy, đứng ra xác nhận kỉ lục, đứng ra bảo vệ những cuộc phân phát thức ăn miễn phí, báo chí trong nước tuy không ca tụng nhưng cũng đưa tin như một sự kiện trọng đại, một nét văn hóa của đất nước. Tất cả những hoạt động đó đều là tiếp tay cho sự giẫm đạp, cho tranh đoạt và máu tham của con người.

Chuyện này không thể nói khác đi được, không thể đổ lỗi cho người dân mà phải có một sự nhìn nhận khách quan, nhà cầm quyền hiện tại phải nhìn thấy cái lỗi của những lãnh đạo đi trước và phải biết nhìn thấy sự thiếu sót của giới lãnh đạo hiện tại để ít ra cũng không tiếp tục đẩy đất nước đến chỗ hỗn độn như bây giờ.

Muốn làm được chuyện này, cần phải bớt đi lối nói hàm hồ và tráo trở như một cán bộ quản lý văn hóa ở Hà Nội theo kiểu “chặt cây không cần phải hỏi dân…”, “tranh ấn, cướp ấn là một hoạt động văn hóa, lộc thì phải giành mới có…” và “lễ hội thành công tốt đẹp, không có sự giành giật nào như báo chí đưa tin…”. Tất cả những phát biểu như vậy không những tráo trở, láo khoét mà còn làm ảnh hưởng đến nhiều thế hệ đang sống dưới sự quản lý văn hóa của nhà cầm quyền, biến xã hội thành một cái chuồng của những con vẹt nói khoét và những con lợn tham ăn.

Những phát biểu và hành động (quản lý) hiện tại của nhiều quan chức có quyền lực trong nhà nước chỉ dẫn đến nguy cơ đất nước không những tụt hậu, man di mọi rợ mà đến một lúc nào đó, người Việt sẽ cắn xé nhau, giết tróc nhau vì miếng ăn như một bầy súc vật. Và lúc đó, kẻ đứng vỗ tay không ai khác ngoài chính kẻ đã cổ xúy và tạo ra nó. Đó mới là vấn đề!

Phải rửa chân cho nhau

Phải rửa chân cho nhau

Thứ năm Tuần Thánh

(ngày mai 2 tháng 4)

Dongten.net

LỜI CHÚA:  Ga 13, 1-15

1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa,4 nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng.5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? “7 Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”8 Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! ” Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.”10 Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! “11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

SUY NIỆM

Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.

Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.

Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.

LỜI NGUYỆN

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Chết sang hay chết rẻ tiền!

Chết sang hay chết rẻ tiền!

TS.Nguyễn Hữu Chi

Ðời này ai dại, ai khôn?

Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.

Ca dao

Ðược tin ông bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến chào từ biệt. Ông bạn tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó. Tôi mừng thầm cho ông bạn đã “ra đi” một cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ ngon lành. Sau đó, trên đường lái xe về nhà, tôi suy tư về khoảng thời gian còn lại trong đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống kê ở Canada, người đàn ông trung bình có thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép “ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa. Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi phải phác họa ngay một “chương trình ngũ niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc rẻ khôn nguôi.

Cũng may hiện nay tôi vẫn còn khỏe mạnh, tiền hưu trí cũng đủ để “phè phỡn với đời”. Vấn đề quan trọng bây giờ là phải “phè phỡn” làm sao cho “phải đạo”? Chuyện “ong bướm” ư? Mục này tôi không còn khả năng để “đụng” tới. Những người đến tuổi sắp “ra đi” như tôi không nên quá tham lam. Chúng ta hãy để đám con cháu có dịp “thi thố tài năng”, không nên tranh dành với thế hệ trẻ. Biết nhường nhịn như vậy mới được người đời kính nể.Ðối với tôi, ăn uống cũng không còn là một mục khoái lạc đáng để ý tới. Có mấy cái răng hàm thì rụng gần hết, huyết quản thì bị mỡ bám đầy, máu thì ngọt như mật ong. Theo tôi nghĩ, ông Trời cho mỗi người một số lượng đồ ăn nhất định để sinh sống trong suốt cả cuộc đời của mình. Người nào dùng hết “khẩu phần” của mình là phải “ra đi”. Ông Trời đâu có cho phép chúng ta kéo dài cuộc sống để “ăn ké” vào khẩu phần của người khác. Nói tóm lại, “ăn nhiều, ăn nhanh, ăn mạnh, vét cho sạch nồi cơm”, không phải là bí quyết trường sinh. Các bác sĩ ở các nước Âu Mỹ cũng đã nhận ra điều này, nên đã luôn luôn khuyên già trẻ cũng như nhớn bé phải ăn uống chừng mực. Hơn nữa, chúng ta cũng đã từng được nghe các cụ nhắc nhủ nhiều lần: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”, hoặc “tham thì cực thân, Phật đã bảo thầm thì chớ có tham [ăn]”.

Thế là tôi đã mất hai trong bốn mục khoái lạc mà người đời gọi là “tứ khoái”. Sau cùng, tôi chỉ còn thấy có hai thú vui hợp với túi tiền và sức lực của tôi: đó là đọc sách, và đi du lịch. Tôi thấy, đi ngao du những nơi danh lam thắng cảnh là thuận tiện nhất: ban ngày thì đi tham quan đó đây, tối về khách sạn ngồi đọc sách. Ðối với người có tuổi như tôi, thời giờ rất là cấp bách, làm “công đôi ba việc” như vậy mới “tranh thủ được thời gian”. Thế là hai vợ chồng tôi bàn nhau đi ngao du vùng nắng ấm để trốn mùa lạnh ở Canada. Ôi, mùa đông ở xứ “tình nồng” này, sao mà lạnh thế! Càng về già, tôi càng cảm thấy lạnh, lạnh từ ngoài vào tới tận đáy lòng con người.

Tối hôm đó, tôi chui vào mền nằm nghĩ đến ngày mai tới Miami sưởi nắng… Ðang say sưa mơ màng thì vợ tôi đánh thức:

– Dậy đi anh. Ðến giờ ra phi trường rồi, máy bay không đợi anh đâu. Em đã chọn cho anh một bộ quần áo rất đẹp để mặc đi đường.

Bỗng nhiên tôi nhớ đến ông bạn già của tôi đã được Nhà Ðòn mặc cho một bộ quần áo rất đẹp trước khi lên xe “ra đi”. Tôi nhìn vợ tôi xếp quần áo của tôi vào va-li, tôi vội hỏi:

– Ủa, em không đi cùng với anh hay sao?

– Em còn bận công việc nên đành phải ở lại. Anh đã đến tuổi có quyền được đi ngao du, nay đây mai đó. Anh cứ đi chơi thanh thản là em mừng rồi.

Cuối cùng tôi đành phải lên xe taxi ra phi trường một mình. Tôi quay đầu nhìn lại mái nhà thân yêu của tôi cho đến khi nó mờ dần sau màn tuyết trắng, mầu trắng tang tóc làm tôi khẽ rùng mình. Phải chăng kẻ “ra đi” thường nghĩ tới kẻ “ở lại”?

Quả thiệt máy bay không đợi tôi. Tôi vừa ngồi xuống ghế thì máy bay bắt đầu cất cánh. Lòng tôi buồn rời rợi vì tôi đang bay về vùng nắng ấm trong khi họ hàng thân yêu tôi còn phải ở lại vật lột với băng tuyết từ Bắc Cực ù ù thổi về. Khi máy bay hạ cách xuống phi trường Miami, xe của hãng du lịch đã chờ sẵn để đưa tôi về khách sạn R.I.P (“Resort of International Peace”, mà tôi tạm dịch là “Lưu Xá Hòa Bình Thế Giới”). Mới nhìn thoáng qua tôi đã nhận thấy phong cảnh thành phố này quả có đẹp, đúng như những bích trương quảng cáo du lịch đã trình bày. Hai bên đường là những cây cao vời vợi, cành lá um tùm. Xung quanh khách sạn của tôi là những biệt thự xinh xắn nằm sau những hàng rào hoa đủ mầu đủ loại.

Ngồi uống trà trong vườn của khách sạn, tôi thoải mái nghe chim hót líu lô và nhìn mấy con bướm bay tung tăng trong nắm ấm. Một lát sau, người hướng dẫn du lịch mời tôi lên xe đi xem phong cảnh thành phố. Ðó là một chiếc xe buýt chở chừng 50 du khách đủ loại người. Ða số là người có tuổi như tôi, nhưng cũng có vài người rất trẻ. Ngoài một số người Mỹ ra, tôi còn nhận thấy vài người ngoại quốc mặc quần áo cổ truyền của nước họ. Ông tài xế cho biết là xe sẽ dừng nhiều nơi nổi tiếng trong thành phố, du khách có thể xuống bất cứ chỗ nào để tham quan, một giờ sau đó xe sẽ trở lại đón để đưa đi thăm viếng nơi khác, hoặc chở về khách sạn R.I.P.

Xe đi vòng vòng trong thành phố và vùng ngoại. Xe ngừng nhiều nơi nổi tiếng của vùng này: có những khu biệt thự sang trọng lộng lẫy, có những bãi cát vàng óng ả chạy dài xuống biển xanh mầu ngọc thạch, có những trung tâm thương mại xầm uất, v.v… Mỗi khi xe ngừng lại, thì có vài du khách tíu tít xuống xe. Khi xe tới Tropical Garden (Vườn Bách Thảo Nhiệt Ðới), tôi bèn xuống xe vì muốn sống lại trong khung cảnh xanh tươi của đất nước tôi khi xưa. Tôi sung sướng khi thấy lại những cây đa cổ thụ cao ngất từng mây, những cành hoa phượng vĩ rực rỡ dưới nắng chan hòa, những con chuồn chuồn vui đùa giữa những cụm bông sen trên mặt hồ phẳng lặng…

Tôi đang thẩn thơ hưởng khung cảnh tĩnh mịch gần như thoát tục, thì bỗng nhiên nghe có tiếng người gọi tên tôi. Quay lại thì thấy anh Tùng, người bạn chí thân của tôi từ ngày học đệ thất. Ðã hơn bốn chục năm rồi bây giờ mới lại gặp nhau. Chúng tôi bắt tay nhau thiệt lâu, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi dạo chơi dưới bóng mấy cây liễu già bên hồ, kể lại cho nhau nghe những kỷ niệm vui buồn khi xưa. Sau khi học hết bậc trung học, anh Tùng đi động viên, nay đây mai đó, theo tiếng súng của thời cuộc ở nơi tiền tuyến. Còn tôi được may mắn được đi ngoại quốc du học. Tuy vậy, chúng tôi vẫn liên lạc mật thiết với nhau bằng thư từ. Lá thư cuối cùng của anh tôi nhận được hồi cuối năm 1967. Trong thư anh cho tôi biết là anh đang hành quân ở Quảng Trị, và trong vài tuần nữa anh được nghỉ phép để về Cần Thơ ăn tết và nhân tiện cưới vợ luôn một thể. Thế rồi trận Mậu Thân bất thình lình xẩy ra. Từ đó tôi không nhận được tin tức gì về anh. Tôi cho rằng anh đã bị tử trận. Bây giờ lại gặp được anh, tôi mừng muốn khóc. Trong khi đi bách bộ trong vườn, chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, không để ý đến thời gian. Ðến lúc xe buýt tới, chúng tôi đành phải chia tay nhau. Tôi lên xe ra đi. Anh ở lại vì anh muốn tiếp tục cuộc du ngoạn trong vườn mà anh ví “như vườn Tao Ðàn ngày xửa ngày xưa, nơi mà chúng mình thường tới chơi trong những giờ trốn học”. Bắt tay anh, tôi hẹn với anh ngày tái ngộ. Anh cười vui vẻ, rồi thốt ra một câu triết lý bâng quơ:

– Vũ trụ này thực ra bé nhỏ lắm, chúng mình đi loanh quanh, luẩn quẩn, mãi rồi sẽ có ngày cũng lại gặp nhau.

Ðến lúc lên xe chạy ra ngoài phố, tôi mới sực nhớ là đã quên hỏi địa chỉ của anh. Tuổi già lẩm cẩm, hay quên. Thiệt là vô tích sự!

Xe chạy vào khu ăn chơi buôn bán nổi tiếng trong vùng. Tôi tò mò xuống xe đi xem cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm.” Ðường phố đông nghịt những người. Họ đi ngắm nhau, hoặc ngắm những hàng hóa đắt tiền bầy trong tủ kính. Tôi mỉm cười nhìn một bà Mỹ to béo đang chăm chú nhìn một bộ áo dạ hội mỏng dính với bảng giá “Special Sale: 299.95 dollars.” Tôi cảm thấy tội nghiệp cho cái “cái cối xay” đang bị thôi miên bởi cái áo “hớ hênh,” vừa hở lưng đằng sau, vừa hở rún đằng trước. Ðã thích ăn cho mập xù, lại còn thích mặc quần áo khiêu gợi! Ðang ngẫm nghĩ về cái ham muốn quá đáng của con người, thì tôi đã bước tới trước cửa một tiệm kim hoàn. Tôi đứng ngắm những vòng ngọc đủ mầu, những dây chuyền vàng chạm chổ tinh vi, những chuỗi hạt trai sáng rực dưới ánh đèn trong tủ kính. Bỗng nhiên có tiếng ồn ào trong tiệm, rồi có bóng một thanh niên chạy vọt ra ngoài, đằng sau là những tiếng hô hoán ầm ĩ. Hai tiếng súng nổ liên tiếp làm tôi giật mình quay lại. Tôi thấy một cô cảnh sát cầm súng thản nhiên đứng nhìn người thanh niên đang nằm quằn quại trên vũng máu, tay còn nắm chiếc đồng hồ vàng nạm kim cương. Khách bộ hành tò mò nhìn cảnh chết chóc như đang xem chương trình Miami Vice trên ti-vi. May sao vừa lúc đó thì xe buýt của hotel tới, tôi vội chạy lên xe, để trốn cảnh si mê và tàn bạo.

Xe ngừng bánh nhiều nơi cho du khách xuống du ngoạn. Nhưng tôi vẫn ngồi yên trên xe vì tôi thấy mất hết cảm hứng đi ngắm cảnh phồn hoa giả tạo. Cuối cùng xe cũng về tới khách sạn R.I.P khi thành phố bắt đầu lên đèn. Tôi mệt mỏi xuống xe và rất ngạc nhiên khi thấy bố mẹ tôi mừng rỡ chạy ra đón tôi, và ôm tôi vào trong lòng. Mẹ tôi vỗ về tôi, rồi nhẹ nhàng trách tôi:

– Con mải đi chơi ở đâu mà mãi bây giờ mới về, làm bố mẹ mong chờ.

Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, tôi gục đầu vào vai mẹ tôi khóc nức nở như ngày tôi còn bé…

Bỗng nhiên tôi nghe văng vẳng có tiếng gọi tôi:

– Dậy đi anh. Anh nằm mơ cái gì mà khóc lóc thảm thê vậy?

Tôi chợt bừng tỉnh, nước mắt hãy còn rỏ xuống gối. Sau đó, tôi nghĩ nhiều lắm. Tôi nghĩ đến ông bạn già của tôi mặc bộ quần áo rất đẹp đang nằm trong nhà quàn. Tôi nghĩ đến chuyến du ngoạn mà tôi đã thực hiện được trong giấc mơ. Tôi nghĩ đến giờ phút kỳ lạ cho phép tôi gặp lại những thân nhân của tôi đã bỏ tôi “ra đi” lâu lắm rồi. Tôi nghĩ đến cái sống và cái chết. Sau khi tôi “ra đi,” tôi sẽ đi về đâu? Là “người trần mắt thịt,” làm sao tôi biết được. Chỉ những “chuyên gia” nghiên cứu về linh hồn hay duyên kiếp mới “biết rõ ràng” những chuyện gì “chắc chắn” sẽ xẩy ra khi chúng ta sang “bên kia thế giới.” Những vị này thường cho chúng ta biết rằng: sau khi chết đi, con người sẽ khốn khổ lắm nếu không biết thành kính thờ phụng Chúa hoặc ra chùa tụng kinh giải oan. Có người lại nghĩ rằng sau khi chết đi, con người sẽ trở thành cát bụi, chứ không đi đâu hết. Trái lại, giấc mơ kỳ lạ mà tôi đã trình bày ở trên làm cho tôi nghĩ rằng cuộc sống cũng như sự chết không khác gì một cuộc ngao du. Linh hồn chúng ta có thể là một hành khách trên một chuyến xe buýt du ngoạn. Xe buýt tới thì ta phải lên xe “ra đi.” Làm sao mà biết được xe sẽ ngừng ở nơi nào. Khi xe tới trạm, ta phải xuống. Trạm xe bus có thể là một khu “Vườn Nhiệt Ðới,” có thể là một trung tâm thương mại phồn thịnh giả tạo đầy si mê và tội lỗi, có thể là một khu tối tăm, nghèo nàn, có thể là một ổ trộm cướp đầy sì ke, ma túy…

Nếu cho sự chết là một du ngoạn, tại sao chúng ta không sửa soạn cuộc “ra đi” của chúng ta cho chu đáo. Khi chúng ta vượt biên, chúng ta sửa soạn rất kỹ càng. Nhưng khi chúng ta đến tuổi phải “ra đi,” chúng ta lại không tính toán như người vượt biên, dù rằng chúng ta vẫn còn đủ tỉnh táo để sửa soạn cuộc “ngao du” của chúng ta. Chúng ta không chịu sửa soạn trước khi “ra đi” vì chúng ta sợ chết, nên chúng ta không dám nghĩ đến cái chết cho đến khi chúng ta thở hơi cuối cùng. Thế là chúng ta “thẩy” trách nhiệm đó cho những người thân thiết có nhiệm vụ cáng đáng thân xác của chúng ta. Trong lúc “tang gia bối rối,” người nào càng thân thiết với chúng ta bao nhiêu, thì lại càng bối rối bấy nhiêu. Khi bối rối như vậy, làm sao họ có thể tính toán một cách hợp lý được. Kết quả là người thương yêu của chúng ta sẽ bị các Nhà Ðòn lợi dụng triệt để.

Chuyện này rất dễ hiểu: vì thương tiếc “người ra đi,” nên những người thân thích tưởng rằng càng tiêu nhiều tiền cho chuyện ma chay bao nhiêu, thì “người ra đi” càng sung sướng bấy nhiêu. Thiệt là nhầm to. Những bài kinh giải thoát, những sớ cầu siêu không hóa giải được những tội lỗi của con người. Một cuộc mai táng huy hoàng không làm cho “người ra đi” được “mát mặt” thêm một chút nào. Tuy vậy, những người thân thích luôn luôn muốn có một đám tang thiệt là linh đình và tốn kém để tỏ lòng thương tiếc của mình đối với “người ra đi.” Trong trường hợp này, “người ra đi” chỉ còn biết thở dài (sau khi thở hắt ra). Rồi người đến viếng cũng muốn mua một vòng hoa thiệt to, thiệt đắt tiền để tỏ tình bạn hữu với “người ra đi” và nhất là để chứng minh cho bà con lối xóm biết rằng mình là “người đàng hoàng, có thủy, có chung.” Thấy cảnh này, “người ra đi” cũng lại thở dài, chỉ muốn thốt ra câu từ biệt: “Này bạn ơi, đã quá trễ rồi. Sẽ có ngày tái ngộ,” và “tức cảnh” làm bài thơ như sau:

Khi một thằng nằm xuống

Lại có thằng luống cuống đứng lên

Vái lạy thằng nằm xuống

Hy vọng khi mình nằm xuống

Lại có thằng khác luống cuống đứng lên.

Ðiều mà chúng ta biết chắc là đa số những người sắp “ra đi” đều lo lắng thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng mình còn có thì giờ thu xếp mọi việc trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt bất thình lình tới đón đi “ngao du,” chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì cho những “người ở lại.” Trong khi đó, “người ở lại” đau đớn muôn phần. Khi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, một mình tôi “ở lại,” tôi lịm người đi vì thương tiếc. Rồi khi tôi loáng thoáng được tin anh bạn chí thân của tôi bị tử thương, tôi buồn ngẩn ngơ, tội nghiệp cho số phận long đong của người trai thời loạn. Tôi bối rối vì tôi cảm thấy hối hận vì tôi cho rằng mình đã cư xử không đầy đủ tình nghĩa đối với “người ra đi,” không có dịp tổ chức một đám táng trọng thể đưa người quá cố sang “Bên Kia Thế Giới.” Ngoài ra, trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo sợ vì không biết những thân nhân của tôi sẽ đi về đâu: có được “về với Chúa không”? có thoát khỏi “vòng nghiệp chướng” hay không? Ðó là những phản ứng tự nhiên của những “người ở lại.” Vì thế, chúng ta thường thấy những vụ ma chay linh đình để “người ở lại” có dịp “trả nghĩa” đối với “người ra đi” (thà “trả nghĩa” trễ hạn, còn hơn là bị mang tiếng “bạc tình, bạc nghĩa”). Chúng ta lại còn thấy trong những cuộc cúng lễ nguy nga, mọi người thiết tha cầu xin Trời hay Phật giúp “người ra đi” được lên Thiên Ðàng hay vào Cõi Niết Bàn. Mọi tín đồ đều “biết chắc chắn” rằng một linh hồn đầy tội lỗi khó có thể siêu thoát được nếu thân nhân không thành khẩn cầu xin Ðấng Tối Cao nhủ lòng khoan hồng đại lượng với “người ra đi”! Phải chăng vì chúng ta nghĩ rằng cái quá khứ của “người ra đi” thiếu đạo đức, nên chúng ta mới phải làm lễ cầu siêu cho “người ra đi” như vậy? Thiệt là tội nghiệp cho người “ra đi”: Ðã “nằm xuống” rồi mà còn bị người đời gán cho cái tội “thiếu đạo đức.”

Nói cho cùng, “người ở lại” đáng thương hơn “người ra đi.” Trong khi “người ra đi” thản nhiên nằm đó, thì “người ở lại” không những bị xúc động tinh thần mà còn phải xả thân cáng đáng công việc tiễn đưa “người ra đi.” Vì thế, tôi không thắc mắc về việc tôi sẽ “ra đi,” nhưng tôi nghĩ rất nhiều, và lo lắng rất nhiều cho “người ở lại.” Tôi muốn “người ở lại” khỏi phải quàng lên vai một gánh quá nặng nề về tinh thần cũng như vật chất khi tôi “nằm xuống.” Có lẽ ít người nghĩ như tôi và làm như tôi, vì đến lúc gần ngày tận số, mỗi người nghĩ một kiểu, và người nào cũng cố gắng làm những việc mà mình cho rằng thỏa đáng nhất. Do đó, tôi không dám khuyên ai. Những điều tôi trình bày sau đây chỉ là một thí dụ không điển hình, một lối nhìn đời “không giống ai.”

Trước hết, tôi không muốn những bạn bè thân thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày cho mọi người biết rằng khi “chuyến xe buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như tất cả mọi người khác đã từng “ra đi.” Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với bố mẹ tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi chăng nữa, tôi không cần biết tôi sẽ “đi” đâu, vì có biết hay không biết thì tôi và những người thân thuộc của tôi cũng chẳng làm được gì cả.

Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:

– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần 40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?

– Anh không cần nữa.

– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc lại thì sao?

– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.

Sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60 triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!

Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,”.

Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:

(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional Services)

• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);

• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề khai tử (documentation);

• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as arranged).

(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi” (Prrofessional Care of Deceased)

• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho “người ra đi” (sanitary care of deceased);

• 570$ – ướp xác và trang điểm “người ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).

(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ

• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of funeral home);

• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng, phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service equipment);

• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or shelter of remains).

(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles and Transportation)

• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn (transfer from place of death ố radius 40 km);

• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral director);

• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa (funeral coach);

• 125$ – xe limousine chở thân nhân.

Chi phí căn bản cho Nhà Ðòn là $5,604.03 (gồm cả thuế)

(5) Chi Phí Cho Thành Phố

• 75$ – khám nghiệm tử thi.

• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.

(6) Phí Tổn Mai Táng

• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);

• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu” (R.I.P – Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá khoảng chừng 5,500$;

• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).

Chi phí mai táng trung bình khoảng chừng $13,000

Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông “tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền, vừa… vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:

– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?

Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là đại lượng:

– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua đất ở nghĩa địa.

– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục chi phí nào khác nữa không.

– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị của ông.

– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng, thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?

Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:

– Ông cũng cần phải được trang điểm và nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.

– Nhưng tôi không muốn “trình làng nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?

Hắn thở dài đến sượt một cái như một thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:

– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn: tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người “rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?

Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục như sau:

• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết, giấy khai tử, v.v.);

• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến Nhà Ðòn;

• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng xác chết để mang đi hỏa táng;

• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);

• tiền đốt xác;

• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại sang và đẹp thì lên tới 500$);

• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu bang, và liên bang.

Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”

Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một câu mà tôi cho là lãng nhách:

– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền như vậy?

– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách! Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save” hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.

– Em không cần món tiền đó đâu!

– Nếu em không cần số tiền đó, thì em mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn 60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết rẻ tiền”?

Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa lau nước mắt vừa cười đùa:

– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu: “Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”

– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”

Nguyễn Hữu Chi

Tiến Sĩ Tâm Lý Chính Trị Học

Cam Ranh bay

Cam Ranh bay

– Tin nổi bật, Buôn chuyện

VRNs (01.04.2015) – Sài Gòn – Rượu Mời Không Uống

Có một câu chuyện vui: hai người bạn thân rũ nhau đi dạo trong rừng, một người là sinh viên xuất sắc trong trường, môn nào cũng điểm A, người kia không học hành nhưng hết sức khôn ngoan đường phố. Hai người mãi mê đi và trò chuyện thì thình lình một con gấu/grizzly khổng lồ xuất hiện phía truớc, đứng trên hai chân chờ. Anh sinh viên sợ xanh mặt, run bần bật hỏi “Làm sao? Làm sao bây giờ?” Anh đường phố không trả lời mà ngồi xuống cởi giày ống đi rừng ra, lấy giày bata chạy bộ mang vào. Anh sinh viên thấy vậy hỏi “Bộ mày nghĩ mày chạy nhanh hơn con gấu sao?” Anh đường phố trả lời “Tao không nghĩ tao chạy nhanh hơn con gấu, nhưng tao nghĩ tao chạy nhanh hơn mày”.

Nhưng nếu một người vừa có khôn ngoan đường phố vừa có khôn ngoan học đường thì đó không phải là một người dỡ và ta không nên đánh giá thấp bản lãnh của anh ta. Hai năm còn lại của một tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ thường được xem là vịt què/lame duck, không thể đưa ra được sáng kiến táo bạo hay làm được những việc gì lớn có ý nghĩa. Điều này đúng, nhất là khi cả hai viện quốc hội đều nằm trong tay của đối lập. Cho nên những gì mà TT Obama chưa thông qua được ở quốc hội, nhất là những vấn đề đối nội như di trú, môi trường… hay đối ngoại như Iran, Do Thái, Syria…

Tuy nhiên, trong vấn đề xoay trục về Châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD) thì hoàn toàn khác, vì nó đã được khởi xướng từ lâu và được cả hai đảng nhiệt tình ủng hộ, cho dù sau TT Obama là tổng thống Dân Chủ hay Cộng Hoà. Đơn giản vì tất cả họ coi thế kỷ 21 (TK21) là thế kỷ của CA-TBD và sự giàu thịnh của HK trong TK21 là ở vùng này. Phần lớn lịch sử của TK 21 được viết ở vùng CA-TBD.

Chính ông Obama cũng nói là ông không ngần ngại để có những quyết định mạnh mẽ trong hai năm còn lại, như ông đã làm với Cuba, đang làm với Iran, và ngay trong vấn đề gai góc của đối nội là di trú với lệnh hành pháp cho phép hằng triệu người di trú bất hợp pháp được ở lại HK.

Trong vấn đề xoay trục, rõ ràng ông có hai động lực lớn để làm nhanh, làm mạnh cho nó có kết quả cụ thể khi ông bước xuống cuối năm 2016. Đó là (1) ông cần để lại một điểm son, một chổ đứng tốt/legacy trong lịch sử HK, và (2) tạo sự dễ dàng cho tổng thống tiếp nối ông triển khai, mà không phải lo ngại mất phiếu cử tri, rồi tránh né những quyết định khôn ngoan nhưng nhạy cảm.

Nhiều người có khuynh hướng đánh giá thấp bản lãnh của ông Obama, một người có sự khôn ngoan đường phố thuở thiếu thời và được giáo dục Harvard khi vào đại học. Ông có cả hai thứ và đã hạ gục Bin Laden, đã xoay chuyển nền kinh tế HK, đã giảm mức thất nghiệp, đã khôi phục lại cảm tình của thế giới đối với HK, đã trừng phạt hiệu quả ông Putin và bây giờ đang rất quan tâm đến vấn đề xoay trục, mà ta rất dễ dàng để nhận ra là: nhu cầu sử dụng vịnh Cam Ranh và cách giải quyết.

Ông bộ trưởng quốc phòng HK lúc truớc, Leon Panetta, đầu tháng Sáu 2012 viếng vịnh Cam Ranh không phải để đi chơi. Sách Trắng Quốc Phòng HK đã nêu rõ chủ trương chiến lược cần chổ không xây tổ/places not bases để vừa ít tốn kém vừa tránh những nhạy cảm chính trị với quốc gia sở tại. HK có đội máy bay ném bom B-2 hùng mạnh đồn trú ở Whiteman Airforce Base, tiểu bang Missouri trong nội địa HK nhưng có thể xuất hiện ‘bất cứ lúc nào’ và ‘bất cứ ở đâu’ trên toàn thế giới nên khả năng phóng lực vẫn vậy nhưng nhu cầu căn cứ bên ngoài thì ít nặng nề hơn. Tuy nhiên về hải cảng quân sự, ông Panetta đã nói rõ rằng việc sử dụng được các hải cảng ở Thái Bình Dương là chìa khoá trong chiến lược của HK (reut.rs/19oPhYl).

Người viết từng có dịp sinh hoạt với một viện thinktank về an ninh quốc gia của HK (BENS), khi giao tiếp với các giới chức cao cấp chính trị, quân sự và tình báo, trong câu chuyện riêng tư họ thường nói rằng “HK xem thế giới là một bàn cờ chess vĩ đại và chúng ta phải di chuyển những quân cờ” và “HK là siêu cường lãnh đạo thế giới, do đó chúng ta phải lo việc lãnh đạo, cho dù có nhiều người không thích”.

Khi HK cần ‘di chuyển quân cờ’ và ‘lo việc lãnh đạo’ ở CA-TBD thì trở lực sẽ bị đẩy sang một bên để dọn đường. Các ‘quân cờ’ cần khôn ngoan để lèo lái con thuyền đất nước của mình tiến nhanh khi gió thuận và biết zigzag khi gió ngược để không làm con tốt thí mà làm con tốt qua sông chiếu tướng.

Phi Luật Tân có vịnh Subic Bay và Việt Nam có vịnh Cam Ranh. Nhìn vào vị trí địa chiến lược của cả hai vịnh trong Biển Đông thì nó hết sức có ưu thế tự nhiên, một vịnh ở bìa đông và một vịnh ở bìa tây, và cả hai đều kiểm soát hai đầu nam/bắc. Cam Ranh là một cảng nước sâu thiên nhiên, nằm cạnh các xa lộ hàng hải huyết mạch và quần đảo Trường Sa. Nó được coi như quân cảng số một của Á Châu, kiểm soát vùng nối hai biển Ấn Độ Dương và TBD. Nó có thể chứa vài trăm hàng không mẫu hạm cùng một lúc và nhiều tàu hạng nặng khác. Sau khi HK rút quân và CS chiếm Miền Nam, Nga đã thuê nó năm 1979 với thời hạn 25 năm, nhưng đã rút ra năm 2002, sớm hơn 2 năm.

Ông Robert D. Kaplan trong quyển Chảo Nước Sôi Châu Á/Asia’s Cauldron (p. 62) dẫn lời ông Ian Storey của Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ở Singapore rằng: mong muốn kín đáo của VN trong việc tân trang Vịnh Cam Ranh là “để tăng cường quan hệ quốc phòng với HK và tạo dễ dàng cho sự hiện diện quân sự của HK ở Đông Nam Á như một lực thăng bằng  sức mạnh đang lên của TQ”. Ông Kaplan nói Cam Ranh đóng một vai trò hoàn hảo trong chiến lược cần chổ không xây tổ của Ngũ Giác Đài, nơi mà máy bay và tàu chiến Mỹ có thể thường xuyên viếng các viễn cảng quân sự của nước bạn để bảo trì và nhận tiếp liệu mà không cần phải có căn cứ quân sự chính thức để bị nhức đầu do nhạy cảm chính trị. Theo ông Kaplan, Cam Ranh và Subic Bay của Phi là hai cảng mà HK dùng để thay phiên nhau phục vụ các chiến hạm của HK, có nghĩa là cả hai đều không phải là căn cứ của HK, nhưng cả hai cộng lại làm nên một căn cứ của HK (p. 131).

150330011

Trên chiến hạm USNS Richard Byrd, ông Panetta nói rằng HK và VN “có một mối quan hệ phức tạp, nhưng chúng ta không để lịch sử cột buộc. Chúng ta muốn tìm những cách để mở rộng mối quan hệ,” “các tàu hải quân HK được sử dụng cảng này là một phần chủ chốt” của những mối quan hệ HK-VN. Ông Panetta cũng cho rằng những tàu tiếp liệu của HK sử dụng Cam Ranh và các cơ sở sửa chửa thì không chỉ quan trọng về mặt  tiếp vận/logistic mà còn quan trọng về các ý nghĩa/implications chính trị. Nó sẽ cho phép HK đạt được mục đích ở CA-TBD và đưa quan hệ với VN lên một tầm cao mới (1.usa.gov/1HSb1az).

150330012

Nếu đầu tháng Sáu 2012 ông Panetta viếng VN với các tín hiệu như vậy thì chỉ một tháng sau, tức tháng Bảy, VN đáp lễ bằng cách phái Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang đi Nga và cho ra kết quả là Nga được thiết lập cơ sở sửa chửa hải quân ở Cam Ranh. Trong khi TQ cứ lấn sân ở Biển Đông thì Nga ở thế ngư ông, vừa bán hàng cho VN vừa tạo sự hiện diện dù yếu ớt, chẳng giúp gì về an ninh cho VN cả, vì ngu sao mà giúp khi TQ là một khách hàng ngon ăn hơn.

Tháng Ba 2013, Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu Shoigu viếng VN, hối thúc đồng nhiệm Phùng Quang Thanh chấp thuận việc xây nhà nghỉ/resort 5 sao cạnh Cam Ranh cho lính Nga, GS Carl Thayer nhận xét “Trong khi Nga trên danh nghĩa không lập căn cứ vì do nhạy cảm từ phía VN, nhưng thực tế là họ đang tạo sự hiện diện lâu dài – và sự hiện diện này đòi hỏi máy bay và tàu chiến thuờng xuyên lai vãng” (bit.ly/19oNAKp).

150330013

Nga đang trong tiến trình xây dựng hạm đội tàu ngầm Kilo-class cho VN, các chuyên viên Nga cần đóng ở Cam Ranh để huấn luyện đội thuỷ thủ tàu ngầm VN. Có lợi thế này, Nga ép VN nhượng quyền đặc biệt tiếp cận Cam Ranh cho họ, trong khi VN cần Nga hơn là Nga cần VN, một sự cần sai chổ.

Tháng Mười Một 2014, Việt Nam ký với Nga một thoả ước để Nga dễ dàng sử dụng vịnh Cam Ranh. Theo đó, các chiến hạm Nga chỉ cần thông báo trước khi vào, không hạn chế bao nhiêu lần, trong khi HK và các nước khác chỉ được vào mỗi năm một lần (bit.ly/19oOyGK). Hơn nữa, các chiến hạm Mỹ trong thời gian qua chỉ cập được cảng Đà Nẵng. Sắp xếp này rõ ràng là có vấn đề.

Sự kiện hôm 11 tháng Ba 2015, HK công khai lên tiếng rằng VN đã cho Nga sử dụng Cam Ranh để máy bay chở xăng Il-78 tanker tiếp xăng trên không trung cho máy bay bomber chiến lược Tu-95MS Bear có khả năng mang bom nguyên tử đe doạ đảo Guam của HK, qua sự xác nhận của tướng Bộ Binh TBD Vincent Brooks (bit.ly/1yg8l1B), thì đó là giọt nước làm tràn ly. Nó làm cho VN, qua Đại Sứ Phạm Quang Vinh trong hội thảo CSIS hôm 24/3/2015, phải thanh minh thanh nga rằng VN không chủ trương cho một nước nào khác sử dụng các căn cứ quân sự của mình để đe doạ một nước thứ ba. Nhưng rõ ràng VN đã vi phạm cái không thứ ba trong chính sách “3 không” mà tướng Nguyễn Chí Vịnh ra rã rao để xoa bóp TQ. Những ứng xử này đi ngược quyền lợi dân tộc, làm chậm tiến trình và phạm vi cộng tác quốc phòng HK-VN.

BT Quốc Phòng Nga xác nhận đã dùng máy bay Il-78 tankers để tiếp xăng cho Tu-95MS Bear bombers, cất cánh ở căn cứ Trung Đông, từ hồi tháng Giêng 2014 và sau đó.

150330014

Tướng Vịnh từng nói ủng hộ sự hiện diện của quân đội HK trong vùng miễn là nó đóng góp vào sự hoà bình của khu vực. Vậy mà Nga hiện diện không hoà bình ở Cam Ranh thì được, còn HK hiện diện hoà bình thì không được, tại sao?

TQ trong kín đáo có vẽ hổ trợ Nga vì có cùng chung mục đích là thách thức vai trò lãnh đạo thế giới của HK. TQ càng vui hơn khi thấy chuyện máy bay Nga làm phức tạp thêm mối quan hệ HK-VN. Từ sai lầm này qua sai lầm khác, CSVN đang cắn cái tay đem thức ăn đến cho mình.

Chuyến đi HK của TBT Nguyễn Phú Trọng vào cuối tháng Năm 2015 (sau khi đi TQ vào 17-20 tháng Tư) là một chuyến đi không dễ dàng của phe bảo thủ thân TQ, phe này như một sinh vật đang bị đe doạ sắp tuyệt chủng. Bởi vì thân TQ và đi chầu TQ trước để nhận sự chỉ giáo, cho nên Trọng đa phần sẽ không chịu uống rượu mời, không mở Cam Ranh cho HK để làm mất lòng TQ, không dám hạn chế máy bay Nga để làm mất lòng Nga và các hợp đồng mua vũ khí bị trở ngại. Hậu quả trong bang giao là việc HK dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương sẽ không xảy ra, mà chỉ xem xét từng trường hợp một, cùng sự mất trớn trong việc hợp tác quốc phòng HK-VN. Hậu quả trong nội bộ đảng CSVN là phe muốn ngã về HK có thể loại hẳn phe thân TQ trong Đại Hội 12, hay gay cấn hơn, là một sự thanh trừng lẫn nhau. Liệu có ai nghĩ rằng khi siêu cường lãnh đạo thế giới cần di chuyển một quân cờ chiến lược thì sẽ làm gì khi bị cản trở hay không? – Không có giải pháp dễ dàng cho CSVN.

Tác giả Mu Lao trên báo TQ Huanqia hôm 17/3/15 viết rằng Hà Nội đang cầm mồi Cam Ranh lắc qua lắc lại trước mặt hai quyền lực đang thèm chảy nước bọt. Lao cho rằng VN vừa khổ vừa sướng, khổ vì không biết phải giải quyết làm sao với HK, sướng vì dùng vịnh Cam Ranh để mặc cả với Nga và HK. Lao nói rằng TQ cần quan tâm theo sát các động thái của HK và VN trong vấn đề Cam Ranh, dù HK-VN thoả thuận công khai hay kín đáo. Điều này cho thấy phe bảo thủ của ông Trọng không có nhiều khoảng trống chung quanh để xoay trở (bit.ly/1E88R8X).

VN cần xoay 180 độ việc sử dụng vịnh Cam Ranh trong tương quan Nga và HK. Nga là quyền lực đang suy, vùng cận Nga và biên cương còn không giữ nỗi. HK vẫn là siêu cường số một trong thế kỷ 21 và đã định hình vị thế giàu mạnh của họ ở CA-TBD, đã chấm Subic Bay và vịnh Cam Ranh chung lại là căn cứ quân sự của họ. Điều này có lợi cho VN trong việc bảo vệ Biển Đông nói riêng và an ninh đất nước nói chung. Một dân tộc thông minh thì không thể làm những quyết định để gây bất hạnh cho các thế hệ tương lai của nòi giống VN mình.

Lê Minh Nguyên

*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*


*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*

*Cố G.S.Trần Duy Nhiên*

*Cuộc đối chất giữa một giáo dân thế kỷ 21 và nhân vật lịch sử Philatô*

*Thanh nữ*: Này ông Philatô! Theo tôi, chính hành động trốn trách nhiệm của
ông đã giết chết Chúa chúng tôi.

*Philatô*: Tôi không hề thấy mình trốn trách nhiệm. Sở dĩ tôi rửa tay là vì
không muốn liên can đến những vấn đề mà tôi cho là chuyện nội bộ Do Thái
giáo.

*Thanh nữ*:  Ông biết rõ ràng là Đức Giêsu vô tội.  Chính ông đã tuyên bố
với mọi người là ông không thấy Người ấy có tội.  Thế mà ông vẫn tuyên án
tử hình.

*Philatô*:  Tôi đã làm đủ mọi cách để trả tự do cho Giêsu.  Tôi cho đánh
đập thê thảm để kêu gọi lòng từ tâm của dân chúng.  Nhưng họ không buông
tha.  Tôi lợi dụng thông lệ Vượt Qua để họ chọn lựa trả tự do hoặc cho
Giêsu hoặc cho Barabas, tên tử tội ghê gớm nhất tôi đang cầm giữ và họ đã
chọn Barabas.  Chị còn đòi hỏi tôi làm gì nữa?

*Thanh nữ*:  Tất cả những việc đó chỉ là mánh khóe.  Điều tôi mong là ông
áp dụng luật pháp cho đúng đắn, nghĩa là trả tự do cho một người vô tội mà
không cần một điều kiện gì.

*Philatô*:  Tôi không có quyền đó.

*Thanh nữ*:  Thế ông không phải là người đại diện La mã để duy trì luật
pháp sao?

*Philatô*:  Chính vì tôi là người đại diện La mã mà tôi không có quyền tha
bổng Giêsu.

*Thanh nữ*:  Tôi không hiểu ông muốn nói gì.

*Philatô*:  Chị hiểu rõ câu nói của tôi.  Điều chị không hiểu là nhiệm vụ
của tôi.  Tôi là một nhà chính trị chứ không phải là một nhà luân lý.  Bổn
phận của tôi là duy trì an ninh trật tự một nước thuộc địa của Mẫu quốc La
mã.  Chúng tôi để cho người Do Thái thờ Giavê và tiếp tục lễ nghi của họ
trong khi chúng tôi thờ thần Jupiter.  Chị tưởng chúng tôi làm thế là vì
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người Do Thái à?  Nghĩ như thế là
lầm.  Chúng tôi làm như thế vì lợi ích của chúng tôi, những người La mã.
Nếu cấm đoán, họ có thể nổi dậy làm loạn…

*Thanh nữ*:  Ông nói những điều đó để đi đến đâu?

*Philatô*:  Để chị hiểu vì sao tôi không có quyền tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Nhưng ông biết rằng Đức Giêsu không hề xúi dân làm loạn.  Và
trong giờ phút đau đớn đó Ngài không có lấy một người lính, thậm chí một
người bạn cũng không cơ mà.

*Philatô*:  Chính vì thế mà tôi không có quyền chọn lựa.  Nếu dân chúng ủng
hộ Giêsu, và cái chết của Giêsu có thể đem đến một sự nổi loạn, thì tôi
phải suy nghĩ.  Đàng này mọi người đã bỏ rơi Giêsu. Trong khi đó nhóm biệt
phái xúi dục dân chúng lên án Giêsu vì những chuyện riêng tư của tôn giáo
họ.  Nếu tôi buông tha Giêsu, họ sẽ bất bình và có thể làm loạn.

*Thanh nữ*:  Vì thế mà ông đã tuyên án Chúa chúng tôi à?

*Philatô*:  Tôi đã nói rằng tôi không tuyên án kết án ai cả.  Tôi trao
Giêsu lại cho người Do Thái để họ làm gì mặc họ.

*Thanh nữ*:  Ông là một người vô liêm sỉ.

*Philatô*:  Đấy chỉ là vấn đề quan điểm.

*Thanh nữ*:  Quan điểm gì nữa? Ông đã không dùng quyền hạn mình để bảo vệ
một người mà ông biết là vô tội.  Không quan điểm nào cho phép một bất công
như thế.

*Philatô*:  Với tư cách cá nhân, tôi thấy rằng người ấy vô tội, nhưng với
tư cách là Tổng trấn La mã, tôi không có quyền để những tình cảm cá nhân
len vào.  Tôi chỉ có quyền làm những gì có lợi nhất cho Hoàng Đế của tôi mà
thôi.

*Thanh nữ*:  Tôi không cần biết ông nhân danh gì mà hành động. Tôi chỉ biết
rằng nếu Chúa Giêsu vô tội thì ông là kẻ có tội.

*Philatô*:  Sao chị lại buộc tội tôi?  Tôi chỉ là một người bên ngoài giáo
hội Do Thái, làm việc theo lập trường của mình.  Những người có tội là
những người nhân danh Thiên Chúa của họ để giết Giêsu.  Chính những hạng
người như chị đã đặt tôi vào tình trạng không thể buông tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Ông là một người thủ đoạn. Ông muốn bịt miệng tôi bằng cách
buộc tội tôi, dù ông biết rằng ông không có cơ sở.

*Philatô*:  Có chứ!… Ngày Giêsu vào Giêrusalem thì một số người hăng hái
tiếp đón Giêsu, hô to khẩu hiệu. Và một tuần sau thì cũng chính những người
đó hét to hơn ai hết: “*Hãy thả Barabas. Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá*.”
Tôi thấy lợm giọng, chị à!  Hôm nay cũng vậy, giữa những thân hữu của chị,
chị cũng ra vẻ bênh vực Giêsu và mạt sát tôi…  Tôi thấy sợ!  Tôi thấy
mình trở lại cái ngày hôm ấy.  Ngày xử án Giêsu, khi tôi lên tiếng hỏi,
không có một nhân chứng nào bênh vực cho Giêsu! Ngày hôm đó, tôi chỉ thấy
những kẻ chứng gian, những người phẫn nộ, những bọn tò mò, còn những người
có cảm tình với Giêsu thì trốn biệt tăm tích.  Ngày hôm đó, *chỉ có* *một
mình tôi*, chị nhớ cho, *tôi*, *Phongxiô Philatô,* người mà chị vừa gọi là
vô liêm sỉ đấy, *chỉ có một mình tôi* là *người duy nhất* nói rằng *Giêsu
vô tội*.  Nếu hôm đó chị có mặt, chị sẽ là ai?  Chị sẽ là một người trốn
biệt hay một người la hét?  Chị đừng nói rằng chị sẽ bênh vực, vì không có
ai bênh vực Giêsu, ngoài *tôi*.  Nếu chị gọi tôi là vô liêm sỉ thì chị sẽ
là gì?  *Chị tự xét lấy, đừng trả lời tôi, hãy trả lời cho chính chị*!

*Trần Duy Nhiên*

Chị Ngyễn Kim Bằng gởi

Tiền tài không phải là vạn năng.

Tiền tài không phải là vạn năng.

Tiền tài có thể mua phòng ốc để ở, nhưng không thể mua được một mái ấm gia đình; nó có thể mua một chiếc giường, nhưng không mua được một giấc ngủ thoải mái dễ chịu; nó có thể mua một chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian; nó có thể mua được quyển sách, nhưng không mua được tri thức; nó có thể mua máu huyết, nhưng không mua được sức khỏe. Vì vậy, tiền tài không phải là vạn năng.

Ước Gì Thế Giới có thật nhiều Simon Kyrênê

Ước Gì Thế Giới có thật nhiều Simon Kyrênê

Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.

Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau :

Trong ngày Lễ Lá, Ðức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy.  Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.

Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.  Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.  Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.

Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?

Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.  Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).

Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường.  Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.

Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.  Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.  Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.  Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.  Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.  Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.

Ðức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.  Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.  Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.

Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?

Ðức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi? »

Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa :

* Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.

* Ðôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con.

* Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.

* Ðôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.

* Ðôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.

Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.

Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.  Ðức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.  Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?  Ðức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.  Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!

Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.

Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.  Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.

Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.

Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,

vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,

xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,

xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện

với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công,

xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,

xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,

xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,

xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,

xin cho đất nối lại với trời,

con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,

xin cho chúng con biết đón lấy đời thường

với tâm hồn thanh thản bình an.

Amen.

Chị Nguyễn Kim Bằng

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Thứ Năm Tuần Thánh được bắt đầu bằng Thánh lễ Truyền Dầu, và ban chiều, khởi đầu Tam Nhật Vượt qua, Phụng vụ đưa mỗi người đến bữa Tiệc Li của Đức Giê-su, diễn tả việc Người rửa chân cho các môn đệ, tưởng niệm việc Chúa lập phép Thánh Thể và chức vụ Linh mục.  Như vậy có quá nhiều đề tài cho người ta khai thác, học hỏi.  Tuy nhiên, giờ đây mỗi người được mời đi sâu vào cội rễ của các tưởng niệm trên, đó là tình yêu của Chúa Kitô đối với loài người.

Nhiều người đặt vấn đề, có cần Chúa phải làm việc hèn hạ, là rửa chân cho các môn đệ không?  Có phải đây là kiểu xu nịnh, như nhiều người thường đi bằng hai đầu gối để đạt mục tiêu không?  Liệu Chúa có đối xử gì tệ bạc với Giuđa không, mà sao ông lại có hành vi tồi tệ và đê hèn, đến nỗi bán Thầy của mình với giá bèo bọt 30 đồng bạc?

1. Trong bữa Tiệc Li

Đức Giêsu đã cùng ăn bữa tối quan trọng với các môn đệ, để chuẩn bị cho việc ra đi của Người.  Tất cả những sự kiện báo trước đang diễn ra trong bữa Tiệc Li này, đó là Giuđa phản bội bán Thầy với giá 30 đồng bạc, đó là Phêrô môn đệ thân tín nhất sẽ chối Chúa 3 lần.  Đề tài chủ yếu trong Phụng vụ chiều nay cũng như tuần Tam Nhật Vượt qua là tình yêu.  Tất cả việc Chúa lập phép Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh, đặc biệt là cử chỉ khiêm nhường rửa chân cho môn đệ, đều xuất phát từ tình yêu cao vời của Thiên Chúa.

Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể: Chúa đã nhập thể để đến với nhân loại, Chúa đã sinh ra trong nghèo hèn để cảm thông cuộc sống với con người, Chúa đã giảng dạy để kêu gọi và mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực, Chúa chịu chết để cứu độ tất cả mọi người.  Nhưng như thế chưa đủ, Chúa muốn làm hơn thế, để chứng tỏ tình yêu của Người: đó chính là phép Thánh Thể, mà Chúa lấy chính Máu Thịt mình để nuôi loài người.  Tình yêu của Người luôn được tiếp tục bằng việc cung cấp thức ăn thiêng liêng cho nhân loại.  Chúa muốn đi sâu vào thân xác, thấm vào máu thịt, để biến dòng máu đen ngòm tội lỗi của con người, thành dòng máu tươi hồng trong sạch của Chúa, Chúa muốn con người có sức mạnh phi thường, để họ có đủ sức vượt dặm trường, chống lại những vật cản tiến về Nước Chúa.

Đức Kitô đã lập ra chức vụ linh mục: Ôi lạ lùng huyền nhiệm, Chúa đã nên lương thực qua đôi tay linh mục thừa tác viên để phục vụ, để ban phát hồng ân, để tha thứ lỗi lầm, để giải hòa với Chúa và với nhau.  Qua tác vụ linh mục, người tín hữu được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, làm của ăn tinh thần, được giao hòa với Thiên Chúa tình yêu, được ánh sáng và sức mạnh để thăng tiến cuộc sống con người.

2. Rửa chân cho các môn đệ

Trong bữa Tiệc Li, Đức Giêsu còn thể hiện cử chỉ rất đặc biệt:  rửa chân cho các môn đệ.  Bỏ qua mọi rào cản,  những kinh nghiệm đau thương, và những mất mát sẽ diễn ra, Đức Giêsu đã đứng dậy, cởi áo ra, lấy chậu nước và rửa chân cho các môn đệ.  Người ta rất ngạc nhiên, cũng như Phêrô đã rất ngạc nhiên, tại sao Chúa làm như vậy?  Đây là một việc làm của một tên nô lệ theo thói quen người Israel. Mỗi người có thể hiểu được việc làm này của Chúa vì nhiều lí do:

Trước hết là để ứng nghiệm những gì đã viết về Đức Kitô:  Chúa là Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, Đấng đã chuộc lại loài người bằng những hy sinh của Người.  Việc Chúa tự động đứng dậy rửa chân cho họ, cũng để chứng tỏ rằng Người tự nguyện chịu chết để cứu độ nhân loại.  Những từ “cởi ra” “mặc vào” nói lên việc Người chịu chết và sống lại, việc con người đánh mất Hồng Ân Chúa khi phạm tội, và Đức Kitô đã chuộc lại ơn làm nghĩa tử của Chúa.

Việc rửa chân là bài học giáo dục, Đức Giêsu muốn nêu cao tấm gương trong cách sống mà các môn đệ phải noi theo: Sống để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, “Thầy nêu gương cho anh em, để anh em hãy làm cho nhau” (Ga.13, 15).

Rửa chân bằng nước còn nói lên việc thanh tẩy; Đức Giêsu muốn nói với con người rằng, Chúa đến để làm mới lại con người, thanh tẩy tội lỗi họ, để không những thân xác, chân tay, mà cả tâm hồn cũng nên trong sạch, loại bỏ những hiềm khích, đam mê, tội lỗi…

Việc rửa chân dạy loài người bài học khiêm nhường: Con người muốn làm lớn thống trị người khác, như hai anh em con ông Giêbêđê muốn chỗ nhất nhì trong Nước Trời.  Quyền lực vẫn là cái gì làm cho người ta cuồng nhiệt tranh giật, ngoài xã hội cũng như trong tôn giáo, xưa cũng như bây giờ, Đức Giêsu dạy các môn đệ muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ trước đã.

Cuối cùng, Đức Giêsu muốn chứng tỏ tình yêu trổi vượt của Người với nhân loại:  Chúa muốn làm tất cả vì yêu.  Một thứ tình yêu mãnh liệt không đắn đo tính toán, đã khiến Người có thể làm những điều người ta không tưởng, đó là việc quỳ xuống rửa chân cho môn đệ của mình.

3. Tình yêu đáp trả

Qua những hành vi trên đây, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy đáp trả tình yêu của Người dành cho họ:

Trước hết là hãy đón nhận: Qua việc cúi xuống rửa chân cho đầy tớ, Đức Giêsu muốn nhắc con người: những gì là trịch thượng, quyền thế, là cái tôi, là hạ cố, cần phải loại trừ:  Một Thiên Chúa quỳ xuống, để ngước mắt nhìn lên loài người, nhằm dạy người ta phải khiêm nhường đón nhận những ân sâu tận Trời của Chúa.  Chỉ khi con người biết khiêm nhường, họ mới gặt hái thành công, mới có thể đạt mục tiêu Nước Trời.  Thế gian chỉ biết hưởng thụ, chờ mong người khác hầu hạ.  Người ta thường bị cám dỗ bởi tiền bạc vật chất, ăn trên ngồi trốc.  Chúa không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ, vậy con người là ai, mà chỉ muốn người khác hầu hạ mình?

Hãy tôn vinh Thánh Thể Đức Kitô: Thánh Thể là kết quả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Qua Thánh Thể, con người được nên một với Người, sống với Người.  Chính vì thế, Thánh lễ trở thành trung tâm Phụng vụ.  Đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để tận hưởng lương thực thần hiệu này, hãy để Chúa sống với mình hằng ngày, hãy lắng nghe tiếng Chúa mời gọi:  Hãy đến mà ăn.  Đừng để Chúa cô đơn và nhục mạ bằng việc từ chối của mình.

Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người sống khiêm nhường, hi sinh và phục vụ để xứng đáng làm môn đệ Đức Kitô.

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Ai giải phóng ai?

Ai giải phóng ai?

Huy Vũ
2015-03-29

mien-bac-vn-truoc-75-413.jpg

Một anh bộ đội miền Bắc đứng gác bên này dòng sông Bến Hải trước năm 1975

Files photo

Ngày 30-04-1975 được Cộng Sản Bắc Việt rêu rao là ngày họ “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi sự “kìm kẹp” của Mỹ-Ngụy. Tới nay đã 40 năm trôi qua, ta thử nhìn lại xem ngày này: Ai giải phóng ai?

Để có câu trả lời khách quan cho câu hỏi này, có lẽ trước hết ta nên đi tìm định nghĩa của động từ “giải phóng”, sau đó điểm qua cảm nghĩ và nhận thức về cuộc sống vật chất và tinh thần của dân chúng hai miền Nam – Bắc vào thập niên 1970 của một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, cán binh v.v… là những người đã được đào tạo và hun đúc dưới mái trường XHCN khi họ có dịp vào miền Nam thăm viếng, công tác, hay sinh sống sau ngày 30-04-1975.

Qua một vài cuốn tự điển Việt-Việt, động từ “giải phóng” có thể được định nghĩa như sau: Bằng cách này hay cách khác làm cho hay giúp cho một số người nào đó thoát ra khỏi một tình trạng xấu xa tồi tệ. Nói khác đi, nếu đưa một đối tượng từ một tình trạng tốt đẹp sang một tình trạng tồi tệ, thì không thể gọi là “giải phóng” được.

Qua một số bài trên mạng, ta thấy một số tác giả đã bày tỏ quan điểm của họ về đề tài này:

Thư của một cựu “giải phóng quân”

Trong phần đầu thư, anh “cựu giải phóng quân” đã cho biết là anh ta đang tự giác “Ngụy Quân Hóa và Mỹ Cút Hóa” với lý do như sau:

“Ngụy-quân hóa vì cái gì của Ngụy tôi cũng thích, như nhạc Ngụy, sách Ngụy, nói chung là thượng vàng hạ cám gì của Ngụy đều… hiện đại. Mỹ-cút hóa là con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp ông Liên Xô để úp mặt vào đồng Đô “đế quốc” Mỹ…

“Mỹ-cút hóa vì con gái rượu của Thủ tướng Dũng thiếu gì con trai của các nhà lão thành Cách Mạng gạ gẫm cưa kéo mà cứ một hai “em chả, em chả”, cứ nằng nặc đòi lấy bằng được thằng con Ngụy đã cút theo Mỹ ngày Mỹ cút; Mỹ-cút hóa đến nỗi mấy đứa cháu tôi bây giờ mừng sinh nhật cũng hát bài Hép-Pi-Bớt-Đê (Happy Birth Day), hễ mở miệng là Ô Kê Ô Gà! Ra phố thì cứ đòi uống Cô Ca, ăn thì Mạc-Đá-Nồ (McDonald), Bơ-Gơ-Kinh (Burger King), Ken-Tơ-Ky-Phờ-Rai-Trích-Cần (Kentucky Fried Chicken)… con quan CS chỉ toàn muốn du học Mỹ Tư Bản….”

Sau đó anh CGPQ còn tỏ ra khâm phục và ca tụng quân dân miền Nam:

“Chả dấu gì Anh, sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh.

“…. nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng…”

Phần cuối thư anh kết luận:

“….nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.”

Nhà báo Huy Đức, tác giả “Bên Thắng Cuộc”:

Trong phần “Mấy lời của Tác Giả” cuốn “Bên Thắng Cuộc” HĐ cho biết sau ngày 30-04-1975 qua hình ảnh xe đò Phi Long từ miền Nam chạy ra Bắc đã khiến HĐ nhận ra được rằng dường như ở miền Nam có mức sống văn minh, phong phú và đa dạng:

“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.”

“Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giời văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dầy, Thép Đã Tôi Thế Đấy. Những chiếc máy Akai, radio cassette, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”

Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:

Trong phần đầu bài “Cảm Tạ Miền Nam, PH viết:

“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.

Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”

PH cũng đã mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản vô cùng tồi tệ:

“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.

Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.

Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”

Trong phần cuối bài thơ, PH kết luận, ngày 30-04-1975 là ngày miền Nam đã giúp cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản:

“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.

Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.

Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ

Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ

Dù không thành công cũng đã thành danh.”

Trong một bài thơ khác “Tâm sự một đảng viên” PH cho biết sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì quá tin vào lời tuyên truyền của họ:

“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh

Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin

Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”

“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại

Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn

Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn

Đang rên siết kêu than cần giải phóng.”

Khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền của bác và đảng:

“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng

Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin

Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình

Trước thành phố tự do và nhân bản.”

Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của bác Hồ và đảng Cộng, PH cảm thấy hổ thẹn với lương tâm và  đã khóc:

“Trên đường về, đất trời như sụp đổ

Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam

Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm

Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.”

Tiến sĩ Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:

Vào ngày 30-04-1975, ông Dương còn là sinh viên của trường đại học sư phạm Vinh và sau đó ông được cho vào miền Nam với nhiệm vụ:

“…mang ‘ánh sáng’ văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tồi lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì?”

Khi tới Thị trấn Cao Lãnh để nhận nhiệm sở, ông được cho ở tại khách sạn Thiên Lợi và đây là cảm nhận của ông khi sống trong khách sạn này:

“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh…”

“Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã…”

mien-bac-truoc-75-003-400.jpg

Miền Bắc trước 1975

Từ nhận thức về mức sống cách biệt giửa hai miền Nam và Bắc, cùng những sự việc đã liên tiếp xẩy ra ở miền Nam sau ngày 30-04-1975, đã buộc ông Dương suy nghĩ:

“Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…”

Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết)

Trong bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” ông Châu Hiển Lý đã nhận định vế “chiến thắng 30 tháng 04” của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

“Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”

Phần cuối bài ông Lý viết:

“Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

Sau cùng ông kết luận:

“Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.”

Nhà báo Trần Quang Thành

Trong “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu.” TQT, cựu phóng viên đài phát thanh Tiếng Nói và Truyền Hình cộng sản Việt Nam:

“Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới  chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyền truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.»

Nhà văn Dương Thu Hương

Mới đây phóng viên Tường An, đài Á Châu Tự Do, đã có trao đổi với  nhà văn Dương Thu Hương về hồi ức của bà về ngày 30-04-1975:

PVTA: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?

Bà DTH: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn. Họ (phía bên thua cuộc) có thể văn minh hơn về văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.

Tóm lại qua cảm nghĩ và nhận thức của các nhân vật trên đây, người ta có thể có được những kết luận sau đây:

–      Nhân dân miền Nam có tự do, dân chủ và no ấm.

–      Nhân dân miền Bắc nghèo khó và phải kéo cày thay trâu và nhân phẩm ngang hàng với bèo dâu.

–      Nhờ giải phóng miền Nam, nhân dân miền Bắc thấy được ánh sáng văn minh và trở về quốc gia dân tộc.

–      Nhờ “giải phóng miền Nam” mà người dân miền Bắc biết về thế giới văn minh và hội nhập vào thế giới này.

–      Đời sống của người dân miền Bắc vào thập niên 1970 thê thảm và lạc hậu đến nỗi người dân phải tranh giành nhau từng cục “phân bắc” để nộp cho hợp tác xã.

–      Xã hội chủ nghĩa là một xã hội tồi tệ và được phơi bày rõ rệt qua sự nghèo khổ của nhân dân miền Bắc và là một thời đen tối nhất trong lịch xử Việt Nam.

–      Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chỉ là cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam làm tay sai cho Nga Sô và Trung Quốc.

–      Chế độ miền Bắc là một chế độ man rợ.

–      Chế độ miền Nam là một chế độ văn minh.

Tóm lại, qua những kết luận trên đây thiết tưởng cũng tạm đủ cho người ta thấy rõ là, ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc ra khỏi sự kìm kẹp, giam hãm và đô hộ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời cũng đã giúp nhân dân miền Bắc nhận ra được rằng, chế độ cộng sản là chế độ man rợ, chẳng những đã chọc thủng con ngươi của họ, mà còn đâm thủng luôn cả màng nhĩ của họ nữa, khiến họ không nghe được và không thấy được những xã hội văn minh và tiến bộ ở thế giới bên ngoài. Do đó, họ đang bị đảng Cộng Sản Việt Nam giam hãm, kìm kẹp và đọa đày trong một “nhà tù khổng lồ” song vẫn cứ tưởng là đang sống hạnh phúc tuyệt vời trong “thiên đường cộng sản văn minh nhất hành tinh”.

Lý Quang Diệu: ‘Kiệt xuất’ do đâu?

Lý Quang Diệu: ‘Kiệt xuất’ do đâu?

TS. Đoàn Xuân Lộc Gửi cho BBC từ Anh quốc

Lý Quang Diệu có học, còn đa số lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều không có điều này, theo tác giả.

Trong những ngày qua báo chí quốc tế đã có rất nhiều bài viết, bình luận về ông Lý Quang Diệu. Tất cả đều khen ngợi vị Thủ tướng đầu tiên của Singapore.

Dù không đồng ý với ông về một vài vấn đề, như nhân quyền, giới truyền thông và nghiên cứu tại các nước phương Tây cũng phải thừa nhận rằng ông Diệu là một lãnh đạo tài giỏi, một chính khách lỗi lạc và một chiến lược gia tầm cỡ.

Các nguyên thủ quốc gia – từ Tổng thống Mỹ Barack Obama, Thủ tướng Anh David Cameron đến Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình – đều đánh giá cao tài năng của ông.

Dư luận và báo chí Việt Nam cũng dành cho ông một sự ngưỡng mộ đặc biệt.

Hiếm có một chính trị gia nào nhận được sự khâm phục như vậy từ dư luận, báo chí quốc tế. Cũng ít có một lãnh đạo nào cùng lúc được cả giới lãnh đạo các nước phương Tây và Trung Quốc kính trọng.

Có thể nói, trong số những người lập quốc, thế hệ lãnh đạo đầu và thậm chí hiện tại của các quốc gia từng bị thuộc địa – trong đó có Việt Nam – không một ai sánh được với ông, làm nên được những kỳ công và được mến phục như ông.

Điều gì đã giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một lãnh đạo kiệt xuất, được mến mộ như vậy?

Có học vấn cao

Có rất nhiều yếu tố giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một chính khách lỗi lạc và học vấn là một trong những yếu tố ấy.

” Ông Lê Duẩn và những người ủng hộ ông lúc đó, như ông Lê Đức Thọ, không phải là những người trí thức mà chỉ là những người thuộc tầng lớp công nông, ít học

Cựu Đại tá Bùi Tín và TS Cù Huy Hà Vũ”

Dù sinh ra trong một gia đình gốc Hoa, ông nói tiếng Anh và được học tại các trường Anh nổi tiếng ở Singapore. Là người thông minh, ông luôn là một học sinh, sinh viên xuất sắc, thường xuyên đứng đầu tại các kỳ thi và được trao nhiều học bổng danh giá.

Ông đã được nhận một học bổng vào học kinh tế, văn chương Anh và toán tại Raffles College – nay là Đại học quốc gia Singapore. Đây cũng là nơi ông gặp bà Kha Ngọc Chi, người vợ tương lai của ông và nhiều đồng nghiệp, cộng sự của ông sau đó.

Việc học của ông bị gián đoạn trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Singapore nhưng năm 1946, ông đã sang Anh vào học tại trường kinh tế London và sau đó chuyển tới trường Fitzwilliam, thuộc đại học Cambridge. Tại đây ông đạt những thành tích cao và được trao tấm bằng hạng ưu ngành luật vào năm 1949.

Trong số những người lập quốc hay thế hệ lãnh đạo đầu tiên của các quốc gia hậu thuộc địa, trong đó có Việt Nam, hiếm có ai được đào tạo bài bản, học vấn cao, và có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức, học hỏi được những tiến bộ – đặc biệt liên quan đến chính trị, luật pháp – của các nước phương Tây như ông.

Chẳng hạn, dù có đến Anh, Pháp và Mỹ, Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Ái Quốc – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh – không (được) theo học tại bất cứ một đại học nào ở ba quốc gia này.

Những thế hệ lãnh đạo tiếp theo của Việt Nam – từ Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng đến nhiều người trong dàn lãnh đạo sau – ít ai được đào tạo đàng hoàng, hay có học vấn cao hoặc theo học tại các trường đại học ở các nước phương Tây.

Trong cuộc bàn luận về vụ ‘Xét lại chống Đảng’ do BBC thực hiện vào tháng hai năm nay, cả cựu Đại tá Quân đội Bùi Tín và Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ cho rằng ông Lê Duẩn và những người ủng hộ ông lúc đó, như ông Lê Đức Thọ, không phải là những người trí thức mà chỉ là những người thuộc tầng lớp công nông, ít học.

Được học cao, được đào tạo bài bản tại những trường có uy tín của Anh là một lý do quan trọng tại sao ông Lý Quang Diệu vượt trội các nhà lãnh đạo ở các quốc gia hậu thuộc địa cùng thời với ông hay thậm chí sau ông, về nhiều mặt – đặc biệt về nhận thức, tầm nhìn.

Nhìn xa, trông rộng

Lý Quang Diệu

Ông Lý Quang Diệu là người ‘nhìn xa, trông rộng’, thực dụng, khôn ngoan, thức thời mà không giáo điều, cứng nhắc, theo tác giả.

Khi nói về ông Lý Quang Diệu, giới quan sát, nghiên cứu đều cho rằng ông là một người vừa khôn ngoan, nhạy bén, thức thời, vừa rất thực dụng.

Chẳng hạn, dù Singapore cũng từng bị thuộc địa và ông luôn muốn hòn đảo này thoát khỏi sự phụ thuộc, cai trị của Anh, ông không chỉ không phủ nhận mà còn biết tiếp thu, áp dụng những tiến bộ – đặc biệt về kinh tế, công nghệ – của Anh và các nước phương Tây khác.

Mặc dù phần lớn người Singapore – và chính bản thân ông cũng là một – người gốc Hoa, ông không chọn tiếng Hoa mà là tiếng Anh để làm ngôn ngữ chính cho đảo quốc này. Quyết định đó không chỉ giúp người dân Singapore dễ dàng tiếp xúc với các nước phát triển như Anh, Mỹ và học hỏi, tiếp nhận tri thức, công nghệ cao của phương Tây mà còn bắc cầu để những tập đoàn lớn trên thế giới đến với hòn đảo nhỏ này.

Là một trí thức, ông Lý Quang Diệu, rất coi trọng giáo dục, tri thức, trọng dụng người hiền tài. Ông chú tâm phát triển, trọng dụng nhân tài ở trong nước và luôn tìm cách thu hút chất xám, người tài từ các nước.

Đây là một điểm khác biệt lớn giữa ông và giới lãnh đạo Việt Nam. Ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi, các lãnh đạo Việt Nam thường không coi trọng – hay thậm chí sợ – tầng lớp trí thức. Việc giới văn nghệ, trí thức bị đàn áp trong vụ ‘Nhân văn – Giai phẩm’ trong những năm 1950 hay Viện nghiên cứu phát triển (IDS) buộc phải giải thể năm 2009 là hai ví dụ điển hình.

Một lãnh đạo Việt Nam được biết là rất mến phục ông Diệu và cũng được ông Diệu tôn trọng là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Điều đó cũng dễ hiểu vì cũng giống như ông Diệu, ông Kiệt là một người nhạy bén, rất coi trọng giới trí thức, văn nghệ.

” Nếu Singapore trở nên giàu mạnh vì có một vị lập quốc, một lãnh đạo có tâm, có tầm, phải chăng Việt Nam nghèo, tụt hậu vì thiếu một lãnh đạo đủ tâm, đủ tầm?

TS. Đoàn Xuân Lộc”

Hơn nữa, là một người hiểu biết rộng, thông minh ông Diệu không giáo điều, máy móc. Trái lại, ông rất thực dụng. Thay vì dựa vào một chủ thuyết nào đó để giúp Singapore tồn tại, phát triển, ông nhìn thẳng vào chính những điểm yếu, thế mạnh của Singapore và bối cảnh chính trị khu vực và cố phát huy, tận dụng tất cả những điểm đó, biến chúng thành cơ hội, thế mạnh cho đất nước mình.

Một điểm nổi bật khác, đáng trân trọng nữa nơi ông mà không phải nhà lãnh đạo nào cũng có đó là trung thực, mẫu mực, coi trọng luật pháp. Chính điều này đã giúp Singapore trở thành một quốc gia châu Á minh bạch nhất và luôn nằm trong 10 nước ít tham nhũng nhất thế giới. Có thể việc ông theo học ngành luật và tốt nghiệp xuất sắc về ngành này từ một trường đại học danh tiếng cũng tác động rất lớn đến tính cách này của ông.

Ông Diệu có nhiều tính cách, phẩm chất khác giúp ông trở thành một chính trị gia lỗi lạc. Nhưng nhãn quan biết nhìn xa, trông rộng của ông là một yếu tố quan trọng giúp ông làm nên bao điều ‘thần kỳ’ cho Singapore.

Từ một nước nghèo, kém phát triển, thiếu tài nguyên, lại phải đối diện nhiều bất ổn xã hội, chỉ trong một thời gian ngắn Singapore đã trở thành một quốc gia giàu có, văn minh, ổn định, bỏ xa tất cả các nước trong khu vực.

Chẳng hạn, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào năm 1960 – một năm sau khi ông lên nắm giữ chức Thủ tướng Singapore tự trị – ước tính thu nhập bình quân đầu người của Singapore là 395 USD. Con số đó ở miền Nam Việt Nam là 223 USD và miền Bắc Việt Nam là 74 USD.

Nhưng năm 2013, thu nhập bình quân đầu người ở Singapore lên tới 55,182 USD trong khi ấy ở Việt Nam chỉ là 1,910 USD.

Lý Quang Diệu

Cùng chia sẻ xuất phát chung là nước bị thuộc địa hóa, sự khôn ngoan của ông Diệu đã đưa Singapore vượt xa quốc gia cộng sản Việt Nam, theo tác giả.

Là một nước nhỏ, đa số người gốc Hoa nằm bên cạnh hai nước lớn (Indonesia và Malaysia Hồi giáo) và trong bối cảnh một châu Á nhiều xung đột, Singapore không chỉ tránh được chiến tranh, giữ vững được độc lập mà còn trở thành một đối tác quan trọng, không thể thiếu của các cường quốc. Thiết lập được mối quan hệ thân thiện và đặc biệt có lợi cho mình với cả Mỹ và Trung Quốc trong thời kỳ Chiến trạnh Lạnh – hay làm cầu nối giúp hai địch thù, đối thủ này đến với nhau – không phải là một chuyện dễ.

Trong khi đó, Việt Nam đã bị biến thành con cờ, nạn nhân trong các ‘cuộc chơi’, xung đột giữa các nước lớn như Liên xô – Trung quốc và Mỹ – Trung quốc.

Chính những khác biệt này làm không ít người đặt câu hỏi tại sao cùng từng là thuộc địa, kém phát triển Singapore trở nên phồn thịnh, hùng mạnh, trong khi các quốc gia khác trong vùng như Việt Nam, vẫn mãi cứ nghèo, yếu thế?

Nếu Singapore trở nên giàu mạnh vì có một vị lập quốc, một lãnh đạo có tâm, có tầm, phải chăng Việt Nam nghèo, tụt hậu vì thiếu một lãnh đạo đủ tâm, đủ tầm?

Nghèo do lãnh đạo?

Trong một lần trả lời BBC tiếng Việt gần đây, một nhà lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng không nên so sánh Việt Nam với Singapore vì hoàn cảnh (lịch sử) hai nước khác nhau và một trong những nguyên nhân chính được đưa ra để giải thích sự khác biệt ấy – và cũng gián tiếp biện hộ cho sự thua kém của Việt Nam so với Singapore – là khác với Singapore, Việt Nam phải trải qua chiến tranh.

Ít ai phủ nhận hoàn cảnh Việt Nam khác Singapore và chiến tranh gây nên nhiều hậu quả nặng nề cho Việt Nam. Nhưng cách lý giải như vậy có hoàn toàn thỏa đáng?

” Giới lãnh đạo Việt Nam quá yếu kém, không coi việc đưa đất nước trở thành hùng cường là một sứ mệnh thiêng liêng, mà chỉ biết xoay xở để sống, tồn tại.

TS. Vũ Minh Khương”

Khi bàn luận về vụ ‘Xét lại chống Đảng’ và hậu quả của nó, có ý kiến cho rằng nếu theo con đường hòa bình (hiệp thương, đàm phán giữa hai miền Nam Bắc) để thống nhất Đất nước do cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những người trí thức khác đề nghị lúc đó – thay vì dùng bạo lực (đấu tranh vũ trang) do phe của ông Lê Duẩn chủ xướng – Việt Nam có thể đã không phải trải qua một cuộc chiến dài, đẫm máu như vậy.

Nhận định này đúng hay sai để giới nghiên cứu và thời gian trả lời. Nhưng có thể nói, nếu giới lãnh đạo Việt Nam ít nhiều có được một nhãn quan như ông Diệu, Việt Nam chắc chắn đã có một hướng đi tốt hơn, giúp Việt Nam phát triển hơn, chủ quyền được bảo đảm hơn và vị thế của Việt Nam cũng được coi trọng hơn.

Chẳng hạn, nếu ngay sau biến cố 1975, Việt Nam biết áp dụng những chính sách phát triển kinh tế như Singapore đã làm sau 1965 – thay vì phải chờ mãi đến giữa những năm 1980 – khi không còn một chọn lựa nào khác – mới tiến hành cải cách kinh tế, Việt Nam chắc chắn sẽ không tụt hậu như bây giờ.

Trong một thế giới thay đổi từng ngày, 10 năm không phải là một thời gian ngắn. Trung Quốc đã có những thay đổi nhanh, phát triển mạnh phần lớn vì sau cuộc gặp với ông Lý Quang Diệu vào năm 1978, ông Đặng Tiểu Bình đã biết học từ Singapore và cho tiến hành cải cách kinh tế ở Trung Quốc.

Và nếu cải cách triệt để và toàn diện hơn trong gần 30 năm qua, có thể Việt Nam giờ cũng đã khác nhiều.

Được biết, ông Diệu – người đã từng gặp gỡ, cố vấn cho lãnh đạo Việt Nam – rất lạc quan về những tiến bộ của Việt Nam trong những năm đầu đổi mới nhưng về sau ông đã trở nên bi quan về tiến trình cải cách và tương lai của Việt Nam.

Lãnh đạo Việt Nam

Phải chăng Việt Nam sẽ mãi còn nghèo đói, tụt hậu do lãnh đạo thiếu ‘tâm và tầm’ và không dám từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, theo tác giả.

Ông Diệu và nhiều người khác tỏ ra bi quan vì – như Tiến sĩ Vũ Minh Khương nhận định khi trả lời phỏng vấn BBC gần đây – giới lãnh đạo Việt Nam ‘quá yếu kém’, không coi việc đưa Đất nước ‘trở thành hùng cường là một sứ mệnh thiêng liêng’ mà chỉ biết ‘xoay xở để sống, tồn tại’.

Một kiểu tư duy như vậy cho thấy họ không chỉ thiếu tâm huyết mà còn thiếu cả tầm nhìn.

Phải chăng vì thiếu cả tâm lẫn tầm, đến giờ – dù Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Xã hội tập trung đã thất bại ở Liên Xô, Đông Âu và ngay cả tại miền Bắc Việt Nam trước 1954 và cả nước trước 1986 – dù chấp nhận kinh tế thị trường phần nào, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định chủ nghĩa xã hội và mãi lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình?

Nếu đủ tâm, đủ tầm chắc chắn họ đã dám dẹp bỏ tất cả những gì kìm hãm sự phát triển của Đất nước, không cần phải viện đến một chủ thuyết xa lạ, lỗi thời nào đó và tự tìm ra một con đường phát triển tốt nhất, thích hợp nhất cho Việt Nam như ông Diệu đã từng làm cho Singapore.

Những ngày này lãnh đạo các nước trên thế giới sẽ tới Singapore để viếng và tham dự đám tang của ông Lý Quang Diệu – và cũng qua đó, cùng với người dân Singapore, bày tỏ sự khâm phục và ghi nhớ đóng góp của ông.

Đến bao giờ Việt Nam mới có được một vị lãnh đạo được người dân kính trọng và thế giới ngưỡng mộ như thế?