Khi siêu mẫu gặp siêu cảnh sát

Khi siêu mẫu gặp siêu cảnh sát

Nguyễn Hùng BBC Tiếng Việt

Trang Trần gần đây vào vai Mỹ Chột, nữ đệ tử của ‘bà trùm’ Hương Ga trong phim cùng tên

Vụ việc mà như lời người đi cùng Trang Trần nói chỉ nhỏ “bằng cái móng tay” cuối cùng thành vụ bắt người “khẩn cấp”.

Trang Trần là khách trên chiếc taxi đi vào đường cấm và bị công an phường Hàng Buồm dừng lại vào lúc đêm về sáng hôm 27/2.

Dường như cô đã xin để lực lượng công an bỏ qua nhưng phía công an yêu cầu lái xe taxi về đồn và siêu mẫu bực mình chửi bới cũng như lấy điện thoại tự quay bản thân xỉ vả và cáo buộc lực lượng công an “ăn tiền đút lót”.

Tới đây công an quyết định đưa luôn cả Trang Trần về đồn và khi họ xô tới người mẫu đã “tát vào mặt một người trong nhóm lực lượng chức năng” theo lời chính cô trong video thu tại đồn công an và được đưa lên báo chí.

Trong lúc xô đẩy, bạn bè Trang Trần đã chất vấn lý do bắt người và cũng nói không nên bẻ tay và đè cô xuống.

Khi công an đang cố để đưa người mẫu về đồn trước sự giằng co của bạn cô, một sỹ quan công an tiến tới và hỏi nội tình vụ việc.

Không nói không rằng siêu mẫu tung chân đá luôn hai phát về phía người hỏi khi đang bị khóa hai tay.

Dù hai cú đá không trúng nhưng đủ để người này nhiều lần lớn tiếng yêu cầu “bắt bằng được” Trang Trần.

Trong vụ việc này cả siêu mẫu lẫn siêu cảnh sát đều có những người ủng hộ và phản đối.

Bé xé ra to

Vụ việc quả thật không có gì lớn và nếu phía công an cũng như Trang Trần hành xử khác đi có lẽ đã không có chuyện gì xảy ra.

Xe vi phạm vào lúc sáng sớm và đường phố hoàn toàn vắng vẻ nên nếu công an chỉ cần cảnh cáo có lẽ mọi việc đã dừng lại ở đó.

Bản thân người viết bài này từng phạm lỗi giao thông khi đi vào làn dành riêng cho xe buýt trong lúc đưa người nhà ra sân bay Heathrow của Anh nhưng chỉ bị nhắc nhở vì vi phạm lần đầu và cho đi kèm theo giấy giải thích nếu không hài lòng với cách hành xử của cảnh sát thì khiếu nại ra đâu.

Trong khi đó đối với một lỗi vi phạm nhỏ hơn ở Hà Nội hồi cuối thập niên 1990, cảnh sát đã quyết định đưa xe máy về đồn giữ vài hôm sau khi đòi tiền bất thành.

Tại Anh, nếu người điều khiển phương tiện giao thông không mang theo giấy tờ, người ta cũng sẽ không bị giữ lại mà chỉ bị yêu cầu phải mang giấy tờ lên công an trong vòng một tuần.

Sau vụ việc, bản thân Trang Trần đã lên tiếng xin lỗi về hành vi của mình nhưng trong lời xin lỗi của cô cũng lại có những điểm cho thấy siêu mẫu đã đụng phải siêu cảnh sát.

Chuyện thu hình ‘người vi phạm’ để đưa ra trước công luận nhằm biện minh cho hành vi của mình đã bị chỉ trích vì các lý do khác nhau trong đó có chuyện vi phạm quyền riêng tư.

Lời Trang Trần nói trong video xin lỗi rằng cô đã “tát vào mặt một người trong nhóm lực lượng chức năng” khi viết ra giấy tại đồn công an đã thành “tát một đồng chí tự quản”.

Không có bằng chứng khẳng định lời xin lỗi của cô do công an đạo diễn nhưng sau khi nghe những lời chửi bới công an của cô sẽ thấy không hợp lý khi cô gọi ‘tự quản’ là “đồng chí”.

Lực lượng ‘tự quản’ ở Việt Nam cũng từng gặp tai tiếng

Bản thân lực lượng tự quản ở Việt Nam, tương tự với ‘chính quản’ ở Trung Quốc, đã từng có nhiều tai tiếng khi hành xử không đúng mực, lạm quyền mà báo địa phương gọi là “bát nháo”.

Bình luận trên Facebook của BBC Tiếng Việt, bạn Phan Khánh Hưng viết: “Rất nhiều “đồng chí” tự quản, dân phòng xuất thân dạng lêu lổng, không công ăn việc làm, xin xỏ chạy chọt làm đầu sai cho CA và được cho phép ngầm để kiếm chác cơ hội. Ghét nhất cái tụi này, vì vừa dựa lưng công an vừa mất dạy.

“P/s: Trong trường hợp Trang Trần thì thấy lối hành xử mất dạy cũng không chỉ độc quyền ở đám các “đồng chí” kia mà những người “vốn tâm tốt” cũng trở nên hung hãn, thói mất dạy này đã trở thành phản ứng nội tại, rất dễ bùng nổ thành mức quá đáng.”

Siêu cảnh sát

Trong vụ Trang Trần, cảnh sát Việt Nam có vẻ đã dùng sức mạnh của siêu cảnh sát để khuất phục siêu mẫu cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng.

Vào thời điểm họ quyết định đưa cô về đồn, hành vi được coi là “chống đối” của cô được thể hiện bằng lời nói và những câu xỉ vả khi đang say rượu, điều mà tại một số nơi không còn là lý do để người dân có thể bị bắt, thậm chí còn cần được trợ giúp, nhất là trong trường hợp người say xỉn là một phụ nữ.

Tòa ở Anh phán cảnh sát đã quá quen với những lời văng tục và khó có thể bị xúc phạm

Cách đây vài năm Tòa Thượng thẩm ở Anh đã phán rằng cảnh sát đã quá quen tai với những lời tục tĩu nên không thể bị xúc phạm khi nghe những lời như thế.

Quyết định của tòa đã khiến ngành cảnh sát gửi hướng dẫn tới các nhân viên nói rằng không nên bắt những vụ như thế vì tòa sẽ không xử theo hướng có lợi cho cảnh sát.

Trong khi đó một độc giả của BBC tại Đức nói cảnh sát bản địa còn có phòng riêng tại trụ sở cho những người say rượu chờ cho tới khi họ tỉnh.

Trang Trần cũng không phải là người điều khiển xe phạm lỗi mà chỉ là hành khách muốn ‘xin’ cho người tài xế thoát khỏi chế tài của cảnh sát, vốn không có uy tín thượng tôn pháp luật.

Đã có những cáo buộc về chuyện cảnh sát đòi những người lái taxi vi phạm đưa ví và lấy tiền theo ý thích sau khi nhiều lái xe taxi đưa tiền ít và xin xỏ rằng họ chỉ còn chừng đó tiền.

Không rõ lý do cụ thể nào khiến công an Hàng Buồm muốn đưa tài xế về đồn nhưng ngay cả khi họ có quyền làm vậy đây không phải là cách xử lý hợp lý.

Sự can thiệp của Trang Trần và hành vi tát ‘tự quản’ đã khiến cô bị bẻ quặt hai tay ra sau và cảnh sát dường như đã đè cô xuống đất. Tiếp theo đó là quyết định bắt “khẩn cấp” mà các luật sư đã đặt câu hỏi vì người ta chỉ bắt khẩn cấp những ai đang chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng hoặc có nguy cơ bỏ trốn sau khi phạm tội.’

Trong trường hợp của Trang Trần, cô đã bị bắt và đang ở trong đồn công an khi có quyết định bắt “khẩn cấp”.

Cụm từ này cũng thường được dùng cho những vụ bắt người vốn có những hành vi phi bạo lực, chẳng hạn vụ bắt nhà văn Nguyễn Quang Lập hồi cuối năm ngoái.

Trong thời gian bị giam giữ, ông Lập cũng được phía công an nói đã “khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại” và “cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.

‘Bắt giữ tùy tiện’?

Bình luận về vụ việc đang gây nhiều tranh luận liên quan tới Trang Trần, blogger Đoan Trang viết:

“Chúng ta có thể chỉ trích Trang Trần xả láng và ngoa ngoắt bao nhiêu cũng được, nhất là khi giờ này cô ấy đang ở trong tay công an, đang bị giam và không thể có cơ hội lên tiếng.

Thế yếu là thế gì? Là phụ nữ hay vì say xỉn hay phê thuộc rồi xúc phạm người khác? Nếu là phụ nữ thì tốt hơn nên ra đường trong tình trạng tỉnh táo sẽ ko ai nói hay bắt bớ gì được cả.

Bạn đọc Nguyễn Lan Hương trên Facebook của BBC

“Nhưng sao không ai đặt vấn đề về các sai phạm (có thể có) của công an: Còng tay, đánh người khi người đó đang say và về thể lực, thế lực thì người đó yếu hơn hẳn công an; bắt khẩn cấp là hành động bắt giữ tùy tiện và sai luật (Bộ luật Tố tụng Hình sự của chính Việt Nam); từ chối quyền tiếp cận luật sư của Trang Trần; khống chế và có biểu hiện ép cung để buộc Trang Trần phải viết giấy, quay video nhận lỗi; làm nhục công dân khi quay và tung video nhận lỗi của Trang Trần lên mạng…”

Trong lúc đó cũng có không ít ý kiến ủng hộ cách xử lý của cảnh sát.

Bạn đọc Nguyễn Lan Hương viết trên Facebook của BBC Tiếng Việt về bài của cây bút Đoan Trang:

“Đúng là ko khách quan chút nào. Muốn không bị bắt thì đừng đi sai đường, mà đã bị bắt rồi thì im lặng mà nhận lỗi đi.

“Thế yếu là thế gì? Là phụ nữ hay vì say xỉn hay phê thuộc rồi xúc phạm người khác? Nếu là phụ nữ thì tốt hơn nên ra đường trong tình trạng tỉnh táo sẽ ko ai nói hay bắt bớ gì được cả.

“Là phụ nữ thế yếu thì có quyền say xỉn rồi nhục mạ cả một nhóm người đang thi hành công vụ à?”

Và cho dù ý kiến về siêu mẫu và siêu cảnh sát có thể khác nhau, điều dễ thấy là cả hai bên đã vô tình và/hay cố ý đẩy vụ việc lên mức siêu sự kiện trong dư luận một cách bất thường.

Nhưng ít nhất trong vụ này siêu mẫu cũng đã được trả tự do sau hơn hai ngày giam giữ trong khi chờ ‘xem xét, xử lý’, hạn chế khả năng người bị giam giữ khá lâu có thể “tự đút tay” vào ổ điện như đã từng xảy ra mà không hề có điều tra xét xử.

Không chỉ là vấn đề Dân trí

Không chỉ là vấn đề Dân trí

Ôi! Dân tôi!

FB Canh Le

clip_image002

Dân tôi,
Đạp nhau cướp ấn Đền Trần để cầu xin thần thánh ban cho “vinh hoa”,
Đánh nhau cướp hoa tre Hội Gióng để cầu xin thần thánh ban cho “phú quý”,
Tranh nhau cướp phết Hội Hiền Quang để cầu xin thần thánh ban cho “phúc lộc”,
Xô nhau Hội Phủ Giày để cầu xin thần thánh ban cho “an khang”,
Giẫm nhau Hội Bà Chúa Kho để cầu xin thần thánh ban cho “thịnh vượng”,
Chen nhau Hội Yên Tử để cầu xin thần thánh ban cho “thuận hòa”,

Dân tôi,
Chém tức tưởi con heo để cầu xin thần thánh ban cho “sống vui”,
Đập hấp hối con trâu để cầu xin thần thánh ban cho “sống khỏe”,

Dân tôi,
Lừa nhau bằng hàng gian, hàng giả…, rồi sì sụp cầu xin thần thánh chứng lòng “thành tín”,
Hại nhau bằng thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng…, rồi sì sụp cầu xin thần thánh rủ lòng “nhân từ”,

Dân tôi,
Hôi của người gặp nạn để được “no ấm”,
Giết chết kẻ trộm chó để được “bình yên”,

Dân tôi,
Nhét tiền vô tay vô nách vô háng thần thánh để cầu xin “hanh thông”,
Biếu xén quà cáp tiền bạc nhà cửa đất đai cho quan chức để cầu xin “thuận lợi”,

Dân tôi,

Dân tôi,

Tham lam mà ngu xuẩn,
Hung bạo mà hèn nhát,
Sùng bái và u mê,
Cuồng tín và hôn ám,

Dân tôi,
Suốt đời quỳ xuống sì sụp khấn vái khẩn cầu,
Không còn biết đứng lên… !!!…

Ngày xưa,
Dân tôi,
Tin vô những con vật hiền lành
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”:
Heo Sinh Sôi, No Ấm,
Gà Đại Cát, Vinh Hoa,
Vịt Phú Quý,
Cóc Nhân Nghĩa,
Rùa Lễ Trí,

Ngày nay,
Dân tôi,
Bị quỷ ám!!!

Quỷ là ai!?!
Quỷ ở đâu!?!

Nguồn: Theo https://anhbasam.wordpress.com/2015/03/02/3480-oi-dan-toi/#more-145743

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Đêm khuya, trong miếu có một người phụ nữ và một vị hòa thượng.
Người phụ nữ : Bạch thầy, con là người đã có chồng, nhưng giờ con đang yêu say đắm người đàn ông khác, một ngày không gặp anh ta con rất khó chịu, con thật sự không biết phải làm sao ?
Hòa thượng: Con có chắc người đàn ông này là người duy nhất và cuối cùng con yêu không?
Người phụ nữ: Đúng vậy. Lâu lắm rồi con chưa từng có cảm giác rung động, con không muốn bỏ lỡ giây phút này.
Hòa thượng: Vậy con hãy ly hôn chồng sau đó cưới anh ta.

Người phụ nữ : Nhưng chồng con rất cần cù, chịu khó, hiền lành và có trách nhiệm với gia đình, con làm vậy có nhẫn tâm, có vô đạo đức quá không?
Hòa thượng: Hôn nhân không tình yêu mới là nhẫn tâm và vô đạo đức, bây giờ người con yêu là người khác chứ không phải chồng con, nên ly hôn là sự lựa chọn đúng đắn.
Người phụ nữ: Nhưng chồng con rất yêu con, thật sự rất yêu con.
Hòa thượng: Nếu vậy chồng con thật hạnh phúc.
Người phụ nữ: Nếu con ly hôn với anh ấy và lấy người khác, anh ấy phải là người đau khổ mới đúng chứ, sao lại hạnh phúc ?
Hòa thượng: Trong cuộc hôn nhân của 2 người, anh ta vẫn còn tình yêu dành cho con, còn con đã đánh mất tình yêu dành cho anh ta vì đã đem lòng yêu người khác. Có được là hạnh phúc, mất đi mới là đau khổ, nên người đau khổ chính là con.
Người phụ nữ: Nhưng con sẽ ly hôn với anh ta và lấy người khác, anh ta mới là người mất con và là người đau khổ mới đúng chứ?
Hòa thượng: Con sai rồi, con chỉ là một hiện thân của tình yêu, khi không có con, tình yêu của anh ta sẽ tiếp tục với một hiện thân khác. Trong cuộc hôn nhân này bởi vì anh ta chưa đánh mất đi tình yêu thực sự nên anh ta hạnh phúc còn con mới đau khổ.
Người phụ nữ: Anh ấy nói cả đời này chỉ yêu mình con, sẽ không yêu ai khác.
Hòa thượng: Thế con cũng đã từng nói những lời tương tự với anh ta chứ?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ con hãy nhìn 3 ngọn nến trong lư hương và nói xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con thật sự không biết, hình như chúng đều sáng như nhau.

Hòa thượng: 3 ngọn nến tượng trưng cho 3 người đàn ông, trong đó có một người con đang yêu hiện nay, trên thế gian đàn ông đâu chỉ hàng trăm hàng vạn, cả ngọn nến sáng nhất trong 3 cây nến này con cũng không biết, con không thể tìm ra người con yêu, vậy làm sao con dám xác định người đàn ông con yêu hiện nay là người duy nhất và cuối cùng?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ cầm một ngọn nến lại gần, hãy chú ý xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Dĩ nhiên là ngọn nến trước mặt con sáng nhất.
Hòa thượng: Giờ con đặt lại ngọn nến về chỗ cũ rồi xem ngọn nến nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con vẫn không biết ngọn nến nào sáng nhất

Hòa thượng: Ngọn nến con cầm ví như người đàn ông con đang yêu, tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi con cảm thấy con yêu anh ta, khi đó con thấy ngọn nến đó sáng nhất, nhưng khi đặt ngọn nến về chỗ cũ, con không còn cảm thấy nó sáng nhất nữa, nên tình yêu duy nhất và cuối cùng mà con nói chẳng qua chỉ là ảo ảnh, cuối cùng cũng tan biến.
Người phụ nữ: Giờ con đã hiểu, thầy không phải muốn con ly hôn, mà là đang điểm hóa con.
Hòa thượng: Con hiểu được là tốt, con về đi
Người phụ nữ: Bây giờ con đã biết mình thật sự yêu ai, đó chính là chồng con hiện nay.
Hòa thượng: A di đà phật

Khi chúng ta yêu ai đó, họ cũng chỉ là một trong số bao con người, chỉ là khi yêu, trong tâm trí chúng ta chỉ hướng về người đó, nên cảm thấy người đó nổi trội hơn cả, nhưng khi hòa vào dòng người, người đó cũng như bao người khác, cũng chỉ là một trong số những người quen của chúng ta.
Chúng ta vốn không thể chắc chắn ai mới là người chúng ta yêu thương nhất, nếu bạn không trân trọng người bạn đời bên cạnh, một ngày nào đó, người đó cũng sẽ chỉ là một người quen.
Tìm người yêu bạn không dễ, tìm người bạn yêu cũng khó không kém. Trong khi vẫn chưa tìm thấy người bạn thật sự yêu, sao bạn không trân trọng người đang yêu bạn? Tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi bạn nghĩ rằng sẽ yêu ai đó, dần dần bạn sẽ yêu người ta.
Nếu người ta không yêu bạn, bạn cũng nên nhớ: tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, vì bạn tập trung sự chú ý đến người ta quá nhiều, hãy thử nhìn xa hơn, bạn sẽ thấy rất nhiều ngọn nến cũng sáng không kém đâu!
Yêu hay không yêu, chẳng qua chỉ là cảm xúc nhất thời, cũng như khi bạn nói không thể sống thiếu ai đó, chỉ là do bạn tưởng tượng ra thôi, thực tế thì bạn đâu có chết đi khi không có ai đó!
Những việc đã qua, tình yêu đã qua, hãy cho nó trôi vào quá khứ, chúng chỉ là một phần trong cuộc sống của chúng ta, chỉ là giọt nước trong đại dương bao la, chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc. Không có quá khứ, sẽ không có bạn bây giờ.
Trân trọng trước mắt vẫn tốt hơn đứng núi này trông núi nọ..

Nguyễn chuyển bài

Lâm Kim Trọng gởi

SỐNG TRONG THINH LẶNG

SỐNG TRONG THINH LẶNG

Thinh lặng!  Một điều rất cần thiết cho đời sống nội tâm con người, không riêng gì là người Kitô hữu.  Bất cứ ai, ở địa vị nào, thuộc thành phần nào, bỏ qua sự phân biệt… thì đều cần đến những phút giây trầm tĩnh đi từ khung cảnh bên ngoài cho tới chiều sâu nội tâm.  Cách riêng với người tín hữu, với những ứng sinh hướng tới đời sống hiến dâng cho ơn gọi tu trì, thinh lặng là điều cần được đặt ra, không chỉ như một sự ràng buộc hay một cái gì đó phải có và phải thực hiện, nhưng là một trong những phương thế có thể nói là tương đối tốt để gặp gỡ Đức Kitô, người mục tử mẫu mực, khuôn mẫu để chúng ta vươn tới.

“Giữa ồn ào con tìm kiếm Chúa
Trong thing lặng con tìm thấy Ngài.”

Cuộc sống là chuỗi ngày dài mà mỗi người chúng ta chỉ có thể sống tốt giây phút hiện tại mà không thể biết trước hay là dự đoán trước được tương lai, bởi đó nhiều người vẫn không ngừng nói rằng: “Tương lai là một ẩn số.” Điều đó có nghĩa là cuộc sống đi ngang qua với giây phút hiện tại.  Nếu ai đó quá chú tâm, lo lắng cho những tháng ngày phía trước thì cũng có những lúc, sự thinh lặng đòi hỏi họ quay về với lòng mình, với chính con người của mình.  Giữa dòng đời được pha tạp hỗn độn với những thứ ồn ào náo động, tâm hồn cũng có những lúc chạy theo vòng xoáy của sự biến động ấy và một khi đã bị cuốn hút bởi muôn vàn tiếng nói khác nhau thì việc giữ cho cõi lòng mình một khoảng lặng là vấn đề phải được lưu tâm trong một sự tự do đích thật.

Vậy thì cốt lõi của sự thinh lặng là gì và vì sao nó trở nên quan trọng đến vậy?
Một người không theo bất cứ một tôn giáo nào đã có lần thốt lên: “người công giáo thật là may mắn, vì lẽ những lúc gặp nghịch cảnh trong cuộc đời vẫn còn chỗ tựa nương.” Thoáng qua có thể nhận thấy, điểm tựa mà họ muốn nói tới không đâu khác ngoài Thiên Chúa, Đấng mà những ai mang danh xưng Kitô hữu tôn thờ và không ngừng mỗi ngày vươn tới, chiêm ngưỡng Ngài là cội nguồn chân lý, là đường, là sự thật và là sự sống, đồng thời là nguồn gốc của mọi cái chân, thiện, mỹ.  Vậy thì nhờ đâu những người vốn không thuộc tôn giáo nào lại nói lên được điều đó nếu như họ không trải qua những phút giây của tiếng nói đi ra từ tận cõi lòng.  Điều này thật đáng cho chúng ta suy nghĩ!

Thật vậy, ngay từ sâu thẳm con tim thì mỗi người luôn ý thức được tầm quan trọng và giá trị cốt lõi khi để cho cõi lòng tìm về ý nghĩa cao quý khởi đi từ sự tĩnh lặng nội tâm.  Theo đó, các môn đệ Chúa Kitô khi lắng nghe tiếng nói trong bức tường của tòa nhà được xây dựng bằng một thứ chất liệu đặc biệt là Lời Chúa, hẳn nhiên tâm hồn dễ dàng đọc được ý nghĩa cuộc đời mình.  Chỉ có vậy, người tín hữu mới nhận ra rằng, căn nguyên của con người mình phát xuất từ đâu và rồi sẽ đi về đâu, để từ đó luôn sống trong tâm tình cảm tạ, rằng được hiện hữu trong thế giới này với muôn ngàn vẻ đẹp là nhờ tình yêu của Thiên Chúa chí tôn, một Thiên Chúa đích thân đi tìm và gặp gỡ, khơi nguồn đối thoại với con người.  Cảm nghiệm như vậy, thì không khó để lý giải lý do vì sao người ngoại giáo vẫn có cái nhìn khách quan và thiện chí về điểm tựa của ngưới tín hữu Chúa Kitô như đã nói trên đây.  Điều đó đòi hỏi phải khơi dậy và phát huy nơi con người mình, từ chính nội tâm của mình một sự trưởng thành về mặt tâm linh, nghĩa là tâm hồn phải đi từ chiều sâu đi lên, để mỗi ngày một thêm tiến triển về lòng mến cũng như sự hòa hợp các nhân đức một cách tiệm tiến, quy hướng mọi sự về với Thiên Chúa.  Hiểu theo cách khác, con người không có sự tĩnh lặng nội tâm thực sự (theo nghĩa tự do nội tâm) thì thật khó để họ nhận ra những vẻ đẹp vốn dĩ luôn tiềm ẩn mà không phải lúc nào cũng khám phá ra được một cách dễ dàng.  Hướng về Đấng tác thành vũ trụ, với người tín hữu chúng ta:

Sự thinh lặng đưa con người trở về với căn nguyên đích thật của mình, nơi xuất phát điểm của mình, nguồn gốc của vũ trụ, của muôn loài… để không ngừng ngắm nhìn một Đấng thánh là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và hằng sống, luôn yêu thương con người bằng một tình yêu trên mọi thứ tình yêu.  Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.

Sự thinh lặng dẫn con người đi vào sa mạc của tình yêu huyền nhiệm, tiếp tục khám phá những nét đẹp tuyệt hảo, những công trình kỳ diệu, những hiện tượng lạ lùng…mà giữa một thế giới biến đổi liên tục thì chỉ trong sự thinh lặng mới giúp chúng ta nhận ra các điều ấy.

Sự thinh lặng giúp con người nhận thấy bản thân mình được tạo dựng một cách “đơn giản nhưng phức tạp,” bởi lẽ con người là một bộ máy hoạt động tinh vi hơn bất cứ loài nào và nơi con người có nhiều nét độc đáo mà càng khám phá thì càng thấy mới lạ, như triết gia công giáo Pháp Gabriel Marcel đã định nghĩa: “Con người là một huyền nhiệm.” Cùng với đó, chúng ta biết được mình là một thụ tạo thấp hèn, nhưng lại được đặt để hàng đầu trong các tạo vật mà Chúa đã dựng nên, đúng như lời Thánh vịnh:

“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo
Muôn trăng sao Chúa đã an bài,
Thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến
Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm…”

Với bản chất mỏng giòn, yếu đuối thường hay sa ngã.  Con người cảm thấy như mình đang thiếu đi một điều gì đó có thể giúp cho bản thân vững vàng hơn trong cuộc chiến đấu “một mất một còn.” Sẽ là mất tất cả khi cõi lòng buông xuôi sau mỗi lần gục ngã, sau mỗi lần thất bại.  Sẽ còn lại chính mình khi nội tâm, khi con tim của mình còn giữ lại một tia sáng của niềm tin, của niềm hy vọng, rằng có yếu đuối thì có thêm ý thức được về mình, lại càng phải cậy đến lòng xót thương của Thiên Chúa, cũng như phải xác tín: “Nơi đâu tội lỗi đã ngập tràn, nơi ấy ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Ngạn ngữ La tinh cũng nói: “Sai lầm là chuyện thường tình của con người.” Tại sao vậy?  Sự thinh lặng sẽ giúp người tín hữu tìm ra câu giải đáp cho mình về điều đó, khi để cho Lời và ánh sáng của Chúa thúc đẩy họ tìm ra được giải đáp thích đáng nhất, hợp lý nhất.  Vẫn còn đó nhiều điều phải nghĩ tới, nhiều ý nghĩa mà chỉ có trong thinh lặng, trong nội tâm, con người mới khám phá ra hết được.  Mỗi người sẽ đọc được giá trị của sự tĩnh lặng, giữa một bầu khí êm đềm, khi xung quanh mình được bao quát bởi Thần khí Thiên Chúa, đấng mà ngay từ thuở ban đầu đã “bay là là trên mặt nước” (St 1, 2).

Cuộc hành trình của mỗi ứng sinh Linh mục cũng trải qua những cảm nghiệm thực thù trong đời sống với những phút giây thing lặng.  Thinh lặng sẽ giúp họ vươn tới gần Thiên Chúa, vươn cao trong sự trưởng thành và vươn xa trên con đường mà họ đang nhịp bước.  Cùng với những nét riêng biệt mà đời sống dâng hiến mang lại, hy vọng rằng lời cầu nguyện trong thinh lặng xuất phát từ thẳm sâu tâm hồn mỗi ngày được nảy nở thêm lên, được phát huy và thăng tiến không ngừng… để từ đó giúp cho mỗi ứng sinh nhận thấy rõ ràng hơn tiếng gọi của Chúa thực sự đang vang vọng, cũng khởi đi từ chính trong bầu khí đó, họ quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Thầy chí thánh Giêsu.  Điều đó góp phần làm nên hành trang cho họ tiến những bước dài hơn nữa trong tương lai, một tương lai vẫy gọi và chan chứa niềm hy vọng, một tương lai đầy những điều hứa hẹn…

Để rồi trên hết, thinh lặng giúp trở về với chính mình để cảm nếm nguồn hồng ân chan chứa, niềm vui mừng khôn xiết khi biết rằng ơn gọi là một huyền nhiệm, một sáng kiến đến từ Thiên Chúa, một lời mời gọi trong sự tự do tuyệt đối của Ngài.

Cuộc sống quanh ta luôn xoay vần, rung chuyển với muôn hình vạn trạng.  Vẻ đẹp hiển lộ và tiềm ẩn luôn song hành.  Nhận biết chúng với tâm tình cảm tạ để quy hướng hết thảy về Thiên Chúa, người Kitô hữu và cách riêng là với những ai đang theo đuổi ơn gọi tu trì cần tập sống và duy trì một đời sống nội tâm sâu xa, để dù sống trong hoàn cảnh nào, môi trường nào, tất cả đều có thể thưa lên: “Trong thinh lặng con tìm thấy Ngài.”

Một vài cảm nghiệm đơn sơ nhưng chân thành, muốn được nói lên để cùng chia sẻ với nhau trong hy vọng giúp nhau thăng tiến qua mỗi ngày sống.  Qua đây, rất mong quý độc giả tiếp tục đóng góp thêm nhiều ý kiến, những sẻ chia đầy ý nghĩa hơn nữa, vì mong muốn bản thân cũng như cho mọi người có được những cảm nghiệm thực thù khởi đi từ sự thinh lặng trong tâm hồn…

Làng Bàu TCV Xã Đoài

Cái chết của Boris Nemtsov

Cái chết của Boris Nemtsov

Nguyễn Thị Từ Huy

Hôm nay, chủ nhật ngày 1/3/2015, hàng chục nghìn người Nga đã xuống đường để tưởng nhớ và vinh danh Boris Nemtsov, lãnh tụ của phái đối lập với Putin, vừa bị ám sát tối thứ sáu rạng ngày thứ bảy vừa qua. Theo báo Le Monde, con số mà ban tổ chức cung cấp là 70 000 người, còn cảnh sát công bố con số là 16 000 người. Cũng chiều hôm nay, đáp ứng lời kêu gọi của Hiệp hội Nước Nga Tự do, ở Paris có khoảng vài chục người tuần hành yêu cầu một cuộc điều tra quốc tế độc lập để tìm cho ra thủ phạm thực sự.

Báo chí và truyền hình quốc tế tràn ngập hình ảnh vị thủ lĩnh đối lập hàng đầu tại Nga với những phát ngôn, hành động mạnh mẽ. Chính Boris Nemtsov, ba giờ trước khi chết đã kêu gọi phải tiến hành cuộc biểu tình rầm rộ vào ngày 1 tháng 3 để tố cáo tình trạng quản lý kém cỏi của điện Kremlin đã khiến cho kinh tế Nga khủng hoảng trầm trọng, và tố cáo Putin đã « tấn công Ukraina ». Các giả thiết về vụ ám sát được đưa ra, trong đó giả thiết về một vụ ám sát chính trị được nhấn mạnh và đặt lên hàng đầu. Nhiều cựu quan chức Nga cho rằng có thể sẽ không tìm thấy thủ phạm của cuộc ám sát này, nếu đây là một vụ ám sát chính trị. Và nhiều người Nga đã nêu thẳng tên Putin. Theo trích dẫn của Le Monde, vận động viên cờ vua Garry Kasparov nói trên trang twitte của mình như sau : « Việc biết được liệu có phải Putin đã ra lệnh ám sát Boris Nemstsov hay không chưa phải điểm cốt yếu thực sự. Mà điều cốt yếu chính là sự độc tài của ông ta. Là chiến dịch truyên truyền bất tận của ông ta về những kẻ thù của Nhà nước ».

Bản thân Boris Nemtsov đã nói đến nguy cơ bị ám sát. Le Monde nhân dịp này đăng bài : « Cái chết của Nemtsov kéo dài thêm danh sách các vụ ám sát chính trị ở Nga », điểm lại tên hàng chục trí thức đối lập bị ám sát dưới thời Putin, kể từ năm 2006, ở trong và ngoài nước Nga.

Còn Putin tuyên bố rằng vụ ám sát này mang tính khiêu khích và nhằm đẩy nước Nga vào tình trạng rối ren.

Cá nhân tôi, người viết bài tường thuật này, thấy gì qua sự kiện này ?

Người Nga, thế hệ này qua thế hệ khác, người này đến người khác, sẵn sàng trả giá cho tự do của họ, cái tự do mà họ biết là rất khó khăn mới có thể có được, nhưng họ cũng biết rằng nó đáng cho họ trả giá vì nó.

Đó là điều có thể nhận ra từ danh sách những vụ ám sát chính trị trong những năm gần đây, và từ vụ ám sát Boris Nemtsov.

Đó là điều có thể đọc được trên những tấm biểu ngữ của những người xuống đường hôm nay : « Ông chết cho tương lai của nước Nga », « Tôi không sợ », « Ông đã đấu tranh cho một nước Nga tự do ».

Tình cờ, cách đây một tuần, trong đám cưới một người bạn Nga, đám cưới đồng tính đầu tiên mà tôi tham dự, tôi có dịp tiếp xúc với một nhóm thanh niên Nga. Tôi kể với họ rằng tuổi thơ tôi tràn đầy nước Nga : tôi đọc sách Nga, nghe nhạc Nga, xem tranh Nga, tuy nhiên đáng tiếc là tôi chưa có dịp nào sang nước Nga. Cô dâu, một cô gái bé nhỏ, rắn rỏi, khoảng ngoài 20 tuổi, nói rằng : « Bạn đừng sang bây giờ, không tốt, bạn hãy đợi một thời gian nữa, chúng tôi đang đấu tranh cho một nước Nga mới, một nước Nga tự do, lúc đó bạn hãy đến với chúng tôi. » Cô ấy nói điều đó một cách giản dị, tự nhiên, như là một điều gì đó rất bình thường, như là không khí cô ấy đang thở.

Bao giờ những người khao khát tự do và dân chủ ở Việt Nam sẽ nói một cách tự nhiên như vậy : « Chúng tôi đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, cho một nước Việt Nam mới.» ?

Bao giờ những người đang vận động cho tự do và dân chủ ở Việt Nam tự nhận rằng họ là những người đối lập chính trị ?

Chỉ lúc nào hình thành được một phong trào đối lập chính trị một cách mạnh mẽ, chỉ lúc nào thanh niên Việt Nam không còn sợ hai chữ « đấu tranh » và thực hiện nó trong các hành vi hàng ngày, thì lúc đó mới có thể bắt đầu có những thay đổi trong xã hội Việt Nam.

Paris, 1/3/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Tết Tây và Tết ta

Tết Tây và Tết ta

Nguyễn Hưng Quốc

17.02.2015

Sống ở ngoại quốc đúng 30 năm, tôi, cũng như bất cứ người Việt nào đang định cư ở hải ngoại, mỗi năm cũng đều có đến hai cái Tết: Tết Tây và Tết ta. Nhưng với riêng tôi, hình như có sự thiên vị rõ rệt: Chỉ có Tết ta mới thực sự là Tết.

Sự thiên vị ấy có cái gì như nghịch lý. Bởi, về phương diện xã hội, Tết Tây dễ thấy hơn Tết ta. Cả mấy tuần trước, đi đâu cũng thấy không khí Tết: Tết trên đường phố và ở các cửa tiệm. Trong quan hệ liên cá nhân, Tết cũng hiện diện trong những bức thiệp và những lời chúc, trong những gói quà người ta nhận được hoặc gửi tặng cho bạn bè đồng nghiệp. Giao thừa Tết tây lại càng lớn. Ở thành phố Melbourne, nơi tôi sống, vào đêm giao thừa có cả hàng triệu người đổ xuống đường để cười đùa, hát hò và ngắm pháo bông. Pháo bông ở Melbourne không lớn và đẹp như ở Sydney nhưng dù sao cũng rất ấn tượng, đủ để cả triệu người say mê. Trong môi trường đại học, nơi tôi làm việc, không khí Tết cũng rất rõ rệt qua việc nghỉ lễ kéo dài cả tuần lễ, từ Giáng sinh đến tận mồng 3 hay mồng 4 tháng giêng. Vậy mà, lạ, tự đáy lòng, tôi vẫn không thấy đó là Tết. Tôi gửi thiệp hoặc tặng quà cho người này người nọ như một thứ thủ tục trong quan hệ xã hội và nghề nghiệp. Những lời chúc bằng tiếng Anh gửi đi hoặc nhận được đều có cái gì như sáo ngữ chứ không có một nội dung cụ thể nào cả.

Trong khi đó, với Tết Việt Nam thì lại khác. Trước Tết mấy tuần, đã có chút gì nao nao và nôn nao. Cứ đếm từng ngày, từng ngày. Để làm gì? Tôi cũng không biết nữa. Những năm Tết Việt Nam rơi vào giữa tuần, tôi vẫn phải đi làm. Ở nhà cũng không có gì đặc biệt. Không bàn thờ. Không cúng. Không đến chùa. Không hái lộc. Không xem hướng xuất hành. Không xông đất. Và cũng hiếm, thật hiếm khi tham gia các hội chợ Tết do các cộng đồng tổ chức. Vậy mà, năm nào tôi cũng thấy không khí Tết đầy ắp trong nhà. Và, nhất là, trong lòng: Có cái gì đó cứ nôn nao. Ngay cả khi ngồi một mình, giữa khuya, trước màn ảnh computer, vẫn có cảm giác như có người, nườm nượp người, chung quanh. Không phải chỉ có những người còn sống mà cả những người đã chết. “Những người muôn năm cũ”. Tất cả đều về, đông đúc và ồn ào. Để… đón Tết với tôi.

Tại sao? Lý do chủ yếu, theo tôi, là Tết ta gắn liền với ký ức, còn Tết tây thì không. Và vì gắn liền với ký ức, Tết ta, với chúng ta, không phải là sự kiện mà là một không gian. Chúng ta có thể tránh được sự kiện, nhưng không tránh được không gian. Không gian bao trùm lấy chúng ta, hơn nữa, chuyển hóa mọi sinh hoạt thành Tết, hay nói cách khác, nó Tết-hóa mọi thứ.

Xin lấy chuyện ăn uống ngày Tết làm ví dụ.

Ở những nơi khác, người ta đón Tết, mừng Tết; ở Việt Nam, chúng ta ăn Tết. “Ăn”, như ăn tiệc, ăn cưới, ăn giỗ, ăn liên hoan. Thật ra, chúng ta cũng cử hành nhiều nghi lễ và tổ chức nhiều hội hè như ở các nơi khác, nhưng việc ăn uống, với chúng ta, bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm. Người sống ăn. Người chết ăn (cúng). Cả thần linh (ông Táo) cũng được ăn uống linh đình. Trong ký ức cũng như tâm thức của người Việt, không có gì liên quan đến Tết mà lại không gắn liền với một số loại thực phẩm nào đó. Trong sáu hình ảnh tiêu biểu của ngày Tết được nêu lên trong câu đối quen thuộc “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, có đến ba thứ, tức một nửa, là thực phẩm. Nhưng đó không phải là tất cả. Cái gọi là “thịt mỡ” ấy, ở miền Bắc thường là thịt đông; ở miền Nam, là thịt kho tàu; ở miền Trung, là giò heo hầm chuối chát hoặc thịt ngâm nước mắm. “Dưa hành” chủ yếu ở miền Bắc, ở miền Trung là củ kiệu và dưa món; ở miền Nam là các loại dưa giá hẹ muối xổi. Hiện nay bánh chưng phổ biến khắp nơi, nhưng ngày trước, ở miền Nam và miền Trung, hầu như chỉ có bánh tét.

Nhiều người than thở: Các loại thực phẩm vốn được xem là đặc sản của Tết đang dần dần mất hết ý nghĩa. Bây giờ, trong chợ hay siêu thị, từ Việt Nam ra ngoại quốc, ở đâu có đông người Việt, bất cứ ngày nào, tháng nào, mùa nào cũng có bánh chưng và bánh tét. Thịt kho hay thịt đông, ngày xưa, chỉ xuất hiện trên các mâm cỗ Tết, bây giờ, là thức ăn hàng ngày. Thích lúc nào người ta ăn lúc ấy. Chả có gì là đặc biệt nữa.

Thì đành là đúng. Nhưng điều đó không có nghĩa là ý nghĩa của thức ăn ngày Tết không còn. Còn, ở một điểm: Bình thường, chúng là thức ăn, ăn cho no hoặc cho khoái khẩu; ngày Tết, chúng là thức ăn của huyền thoại, ăn để… nhớ.

Như bánh chưng, chẳng hạn. Ngày thường, chúng ta có thể ăn bánh chưng. Nhưng những lúc ấy, bánh chưng chỉ là bánh chưng. Người ta ăn vì thích, hoặc nhiều hơn, vì tiện: khỏi phải nấu nướng và có thể giữ được lâu. Trong không khí ngày Tết, việc mua hoặc nấu bánh chưng không còn là một chọn lựa ngẫu nhiên hay một ý thích bất chợt, xuất phát từ khẩu vị, mà là một điều gần như bắt buộc, gắn liền với bổn phận, có tính chất nghi lễ: Nhà nào cũng có. Tính chất “bắt buộc”, “bổn phận” và “nghi lễ” ấy làm cái bánh chưng trở thành một biểu tượng, nghĩa là vừa là một vật thể vừa là một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy lại gắn liền với sự tích bánh chưng và bánh dày với Lang Liêu (hay còn gọi là Tiết Liêu) và vua Hùng Vương thứ 6, với ý niệm về Trời và Đất, về công cha và nghĩa mẹ, và gần đây, theo một số học giả về Việt học, về tín ngưỡng phồn thực với hình ảnh của dương vật (bánh chưng, ngày xưa, có hình dài, giống bánh tét bây giờ) và âm vật (bánh dày).

Từ đó, trong ngày Tết, chỉ trong ngày Tết, bánh chưng trở thành biểu tượng của truyền thống, và nhờ tính truyền thống ấy, cái bánh bỗng có chiều dày của thời gian. Nó có ký ức. Trước hết là ký ức chính thức được ghi trong sử sách: Ăn bánh chưng trong ngày Tết, do đó, là ăn cùng với Lang Liêu, với các vua Hùng, và với tổ tiên nói chung. Sau nữa là ký ức cá nhân: Không có người nào sinh ra và lớn lên tại Việt Nam mà lại không có ít hay nhiều kỷ niệm với bánh chưng, từ kỷ niệm mổ heo đến kỷ niệm nấu bánh và ăn bánh. Văn chương Việt Nam đầy dẫy những loại kỷ niệm như thế. Ăn bánh chưng, do đó, là sống lại một quãng đời đã mất.

Cả ký ức cá nhân lẫn ký ức tập thể ấy đều đưa chúng ta về nguồn: Việt Nam.

Một thứ trái cây khác, như dưa hấu, cũng vậy. Mùa hè, trời nóng, hầu như trong chúng ta ai cũng ít nhiều ăn dưa hấu. Bản thân tôi, có thời gian, mùa hè, hầu như ngày nào cũng ăn dưa hấu. Đi làm về, bước ra khỏi xe vào nhà, mồ hôi đầm đìa, công việc đầu tiên tôi làm là mở tủ lạnh, lấy dĩa dưa hấu cắt sẵn, ngoạm từng miếng. Dưa hấu trôi đến đâu, hơi mát tràn đến đó. Nhưng, những lúc như thế, tôi chỉ ăn dưa hấu. Thuần túy là dưa hấu. Dưa hấu mua từ chợ hoặc siêu thị. Nhưng cũng những miếng dưa hấu ấy, trong ngày Tết, có cái gì khác hẳn. Tôi thường thoáng chút ngần ngại khi phải bổ trái dưa hấu. Tôi muốn đặt nguyên trái trên bàn. Để có không khí. Khi ăn, tôi cắn từng miếng, từng miếng thật chậm. Và Tết nào cũng thế, cũng đều nhớ đến chuyện An Tiêm ngày xưa. Đó là trái dưa hấu của An Tiêm, con nuôi của vua Hùng. Nhớ thế, tôi ngỡ như đang ăn dưa hấu chung với An Tiêm.

Mà đâu phải chỉ có An Tiêm. Cùng với An Tiêm, còn có Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh và Kiều Phú, những người đầu tiên chép truyện An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ 14-15), rồi Nguyễn Trọng Thuật, tác giả của Quả dưa đỏ (1925), một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam mà tôi đọc hồi nhỏ, những năm đầu của trung học. Ngoài những tên tuổi lớn ấy, mỗi lần ăn dưa hấu ngày Tết, tôi còn nhớ một người khác, Lê Quý Long, một người đồng hương của tôi, người, trong cuốn Việt sử văn vần, xuất bản ở Huế năm 1971, có bài thơ về An Tiêm: “An Tiêm phải bị cha đày / Sống nơi hoang đảo chuỗi ngày bơ vơ / Một hôm chim lạ tình cờ / Nhả rơi một hạt ai ngờ giống dưa […] Mang theo dưa hấu nặng nề / Nên bây giờ có khắp quê hương mình.” Bài thơ đơn giản, như một bài diễn ca, không có gì đặc sắc, vậy mà, không hiểu sao, đã trên 40 năm rồi, tôi vẫn nhớ. Không trọn vẹn. Nhưng nhớ. Tôi nghĩ, nhớ được, không phải vì bản thân bài thơ. Mà là vì những quả dưa hấu ngày Tết: Chúng nhắc.

Những ví dụ nho nhỏ trên cho thấy, trong ngày Tết, ngay cả những thứ mọn nhất, từ một quả dưa hấu đến một lát bánh chưng hay bánh tét, đều có hấp lực kéo chúng ta về quá khứ: Nhỏ, là những kỷ niệm thuộc về cá nhân; lớn, là truyền thống của cả một dân tộc. Chính vì thế, Tết, chúng ta thường hay hồi tưởng và nhớ vu vơ. Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh khác, lớn và có ý nghĩa chính trị hơn: mọi thứ trong ngày Tết đều vun bồi ký ức tập thể trong mỗi người, khiến mỗi người tự thấy mình là một thành viên của cả một cộng đồng đông đúc, là một đoạn ngắn trong chuỗi dài của lịch sử dằng dặc. Với ý thức ấy, chúng ta trở về với gốc rễ của chúng ta: Việt Nam.

Nói Tết ta khác với Tết Tây là vì thế.

Đảng & Đảng Tính

Đảng & Đảng Tính

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

  • “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.”

Hồ Chí Minh

  • “Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”

Trần Đĩnh

Từ Vọng Các, Mặc Lâm bay tuốt luốt qua Nam Vang rủ nhậu:

  • Ê, kiếm chỗ nào ngồi uống sương sương vài ly cho nó có chút hương vị đầu Xuân nha.
  • Tưởng gì chớ uống thì bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông … gì tui cũng chịu liền.

Mặc Lâm đi cùng với Sơn Trung, thông tín viên mới nhất (và chắc cũng nhỏ tuổi nhất) của RFA đang cư trú tại Phnom Penh.

Tôi rất hài lòng với người bạn trẻ vừa quen: nhanh nhẹn, thông minh, và (xem chừng) đôn hậu. Ghé quán Ngon Restaurant, chúng tôi gọi “liều” một chai Johnnie Walker Black Label. Thấy cái gíá 40 MK mà gần muốn “đứt ruột” luôn nhưng rồi đành tặc lưỡi: “Thôi chả gì thì cũng mừng tân niên, mỗi năm chỉ có mật lần, và cũng là dịp mừng một tân đồng nghiệp.”

Đêm giao thừa vừa rồi, nằm chèo queo mình ên ở nhà trọ buồn gần chết tôi bèn lò dò ra phố, đang đi lơ ngơ thì chợt thấy một chai Ballatine’s bám bụi đứng co ro trong góc một quầy hàng. Ngó “thương” quá mà giá cả cũng nhẹ nhàng thôi (nên) nên tôi “ẵm” liền, sợ chậm. Vừa về tới nhà là lật đật vặn nắp tu liền: rượu giả! Đ…mẹ, cái con bà nó. Khi khổng khi không (cái) mất tiêu 15 U.S.A dollar, lảng xẹc!

Bữa nay thì rượu thiệt (và vì “vật vã” đã lâu) nên tôi tợp liền liền. Vừa cạn ly đầy, lại đầy ly cạn. Rượu ngon, bạn hiền nhưng chỉ có mình ên tui là vô cùng hào hứng còn Mặc Lâm – không hiểu sao – bỗng ưu tư quá cỡ về chuyện nhân quần và cứ nói hoài cái cuộc phỏng vấn mới rồi (“Chuyện Tử Tế Ngày Nay”) với đạo diễn Trần Văn Thủy, cùng rất nhiều buồn bực về tình trạng “đạo đức xuống cấp, văn hoá xuy đồi của” của cả nước Việt Nam.

Tôi sốt ruột (“biết rồi khổ quá”) ngắt ngang:

– Tôi có nghe hai ông “mạn đàm” trên RFA rồi. Hay lắm. Người hỏi đã hay mà kẻ đáp còn hay hơn nữa nhưng chuyện này toàn thể đồng bào, cũng như toàn thể nhân loại, cũng đều đang rất quan tâm nên xin cứ an lòng mà … uống vài ly đi đã. Để lâu rượu bốc hơi, nhạt mùi, tội chết.

Nói đến vậy mà đương sự (ngó bộ) vẫn còn băn khoăn lắm nên tôi lại phải thêm:

  • Bữa trước, G.S. Nguyễn Văn Tuấn còn bàn về “thứ hạng tử tế” của Việt Nam nữa kìa.
  • Có cái vụ đó nữa sao?

-Sao không, coi nè.

Vừa nói, tôi vừa mở smartphone – mới sắm hồi hôm, cho kịp với trình độ văn minh nhân loại – kiếm tuan’s blog chìa liền:

Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen…

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo. So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục…

Nói nào ngay, bị xỉ vả cỡ đó, cũng chưa “nhục” gì cho lắm. Nhà văn Trần Đĩnh còn trích lời của một thằng cha tham tán thương mại Ba Lan (nào đó) nghe nhục nhã hơn nhiều:

“Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn.”

Bị thiên hạ liệt vào hạng “đầu trâu mặt ngựa” nên họ muốn xua đuổi ra tuốt “một hòn đảo hẻo lánh” (cứ như bệnh nhân cùi hủi hồi xa xưa vậy) thì cũng không oan uổng gì cho lắm nhưng ăn ở cư xử ra sao mà tai tiếng dữ vậy cà? Muốn biết, xin nghe qua vài câu chuyện (nhỏ) liên quan đến cuộc sống của giới quan chức lãnh đạo nước CHXHCNVN – vẫn theo lời Trần Đĩnh:

  • “Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
  • “Khi Long đã mệt, tôi đến thế nào anh cũng bắt tôi đưa anh đi dạo một vòng phố. Từng bước nhích rất chậm, kiểu như đi dè cho được ngâm mình lâu trên đường.

Một bữa đến đầu Dã Tượng ra Lý Thường Kiệt, anh nhìn vào toà biệt thự bên trái mà có lần anh bảo ông Đồng có   người quen, thân thiết ở đây, rồi nói khẽ với tôi: Tôi đến ông Đồng, ông ấy thường kéo tôi ra vườn nói chuyện.   Nghe nói mũ của trung uý Dương con ông ấy cũng bị gài rệp nghe trộm ở ngôi sao đằng trước mũ.

Tôi sững nhìn Long. Long biết thì ông Đồng tất biết! Sao biết mà cam nhẫn chịu cho đồng chí của mình dò la, nghe trộm mình? Ôi, các lãnh tụ của phong trào giải phóng đất nước và loài người mà không phá nổi vòng kiểm soát của đồng chí. Bữa ấy tôi hiểu cả tại sao Võ Nguyên Giáp chịu đắng cay tủi hổ như thế mà im! Các vị tại sao tự nguyện phục tùng tội ác?” (S.đ.d. trang 194).

Coi: ông ông Tổng Bí Thư chỉ ăn uống ở nhà vì sợ các đồng chí của mình đầu độc, còn ông Thủ Tướng thì chỉ dám nói năng ở ngoài vườn vì sợ bị “dò la, nghe trộm.” Vậy mà hai vị vẫn thừa “liêm sỉ” và  “kiên nhẫn” để “lãnh đạo” toàn dân cho gần đến hơi thở cuối cùng.

Thiệt là đã đời luôn!

Giữa “các anh ở trên” với nhau mà còn xử sự tàn tệ và đốn mạt tới cỡ đó thì đám dân lành, tất nhiên, đều bị hành cho tới bến:

“Thí dụ sáu bao diêm (bị móc vơi mất gần nửa vì gian giảo là thuộc tính trời sinh của thứ kinh tế tạo ra bằng những kẻ đói ăn, thiếu mặc nên quay sang tháu trộm lại của Nhà nước).

Thí dụ mạt cưa và củi mua về đốt lò nấu cơm thì ướt dề dề vì nhà mậu rẩy nước vào cho nặng cân.

Thí dụ nước mắm pha nước lã, đậu phụ trộn thạch cao. Nhà nước độc quyền mọi sản vật, nhất là lương thực…

Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que, sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả.” (S.đ.d. 225 – 226).

Buộc phải “sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả” qua vài ba thế hệ thì trách sao mà người dân không bớt dần tấm lòng tử tế:

“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).

Quả là “tệ” thật nhưng nhưng nói theo Trần Đỉnh (“bao diêm trăm que chỉ cháy một que”) thì e có hơi quá đáng. Coi:

  • VnExpress: “Sau một tháng mở đợt quyên góp, hàng nghìn độc giả trong và ngoài nước đã hướng về người dân đôi bờ Pôkô, ủng hộ hơn 2,4 tỷ đồng. Dự kiến, cầu sẽ được khởi công sau 2 tuần tới.”
  • Dân Trí: “Từ sự ủng hộ của bạn đọc, tính đến nay báo Dân trí đã xây dựng được 8 cây cầu để giúp các em học sinh vượt sông tìm chữ. Những cây cầu được đặt tên Dân trí thực sự đã ‘nối đôi bờ vui’ trên khắp mọi miền đất nước.”

Có hàng chục ngàn cây cầu từ thiện như trên đã được dựng xây chỉ nhờ vào lòng tử tế của người dân Việt. Tương tự, có hàng triệu mảnh đời rách nát ở đất nước đang được chia sẻ, đùm bọc bởi tình đồng bào ruột thịt, kể cả những khúc ruột xa ngàn dặm.

Đó là chưa kể đến “những chuyện nhỏ” hàng ngày “nhưng lay động lòng người” theo như cách nói của nhà báo Quỳnh Trân:

Những ai đi ngang qua đường Huỳnh Văn Bánh, Quận Phú Nhuận đều bị thu hút bởi tấm biển “Sửa giày dép miễn phí cho người bán vé số, xe ôm, ba gác, xích lô, người thu gom rác…” của anh thợ sửa giày Lý Ngọc Bình, 30 tuổi. Ảnh và chú thích: vietnamnet.vn

Trà đá miễn phí. Chủ nhân của những bình nước này đều là người dân lao động.

Ảnh và chú thích :vietnamnet.vn

Ảnh :vietnamnet.vn

“Gần gụi và cảm động nhất,” theo ghi nhận của blogger Đinh Tấn Lực “là những hoạt động âm thầm trợ giúp bà con có nhu cầu thiết thực: Bữa Cơm Có Thịt, Trường Lớp Tình Thương, Quà Trung Thu Cho Trẻ Em Miền Núi, Học Bổng Bước Đầu Vào Đại Học, Tủ Sách Nông Thôn, Bầu Bí Tương Thân, Cứu Lấy Dân Oan, Bữa Cơm Dân Oan… “

Những kẻ bị “chết lòng tử tế” ở đất nước này phần lớn (chắc chắn) đều không phải … nhân dân. Bởi vậy, khi xếp “thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125)” thì tưởng cũng cần phải nói thêm cho rõ là những con số này chỉ “thể hiện” sự tiểu tâm, ti tiện, bạc ác, và đểu cáng của đám côn đồ đang “lãnh đạo” ở xứ sở này chứ không liên quan dính dáng gì nhiều đến những lương dân đất Việt.

Người Việt chỉ chịu một phần trách nhiệm (e cũng không nhỏ lắm) khi cam chịu để cho “bọn đầu trâu mặt ngựa” hoành hành trên quê hương và đất nước của mình mà không có được một sự phản kháng nào đáng kể, hay đáng nể.

Quốc Phụ và Quốc Sư

Quốc Phụ và Quốc Sư

Huy Đức

BBC

Báo Tiền Phong đã gỡ vài bức ảnh ‘nhạy cảm’.

Tuy thất vọng trước chương trình Táo quân Giao thừa 2015, nhưng ngay sáng mùng Một Tết, công chúng đã được đền bù khi nhìn thấy những tấm hình chụp “thâm cung” nhà Cựu TBT Nông Đức Mạnh.

Trận cười chưa dứt thì hôm qua, mùng 6 Tết, dân chúng lại mục kích loạt ảnh GS Vũ Khiêu hôn má và cho chữ hoa hậu Kỳ Duyên. Nhưng đừng tưởng truyền thông nhà nước chỉ đóng vai trò mua vui. Các nhà báo lề phải thâm thúy hơn những gì vài facebookers đang chế nhạo.

Lâu nay, giới học thật – căn cứ vào những “tác phẩm” từng xuất bản khi ông còn trẻ – không lạ gì vốn chữ nghĩa của học giả Vũ Khiêu.

Nhưng với công chúng số đông, nếu truyền thông nhà nước không cho chúng ta đọc câu đối mà Vũ Khiêu tặng Kỳ Duyên – “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc – Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” – làm sao biết, GS Vũ Khiêu không những không biết “niêm luật” tối thiểu khi viết câu đối mà còn, phần văn vẻ nhất, lại đạo thơ Lý Bạch (chưa kể về ý, vế đầu tự viết thì tối nghĩa, vế sau của Lý Bạch thì dung tục khi dùng cho tình huống một ông già trăm tuổi tặng cô gái 19 tuổi – Vũ Khiêu cũng đã từng đạo lời Quản Trọng nói về Thúc Nha, thời Đông Chu, khi “khóc” Tướng Giáp).

Một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất

Nhiều người sững sờ khi nhìn thấy Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế tay rồng, trước một hương án “thếp vàng”. Không nói về sự xa hoa. Dân chúng không còn kỳ vọng vào sự thanh liêm của những người như ông.

Nhưng dân chúng, theo lẽ tư duy thông thường, nghĩ, một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất.

Ngoài khía cạnh văn hóa, việc tổng bí thư của một đảng cộng sản khi về hưu tự thửa cho mình một chiếc ghế mô phỏng ngai vàng còn cho thấy, tuy kêu gọi dân chúng làm cách mạng, quét sạch tàn dư phong kiến nhưng trong thẳm sâu, không ai thèm khát tàn dư phong kiến bằng họ – những nông dân có quyền vua chúa.

Có lẽ những chức tước đã kinh qua và những danh hiệu “cao quý nhất” mà Chế độ đã gắn cho GS Vũ Khiêu không những làm công chúng mà chính ông cũng choáng ngợp và tưởng thật.

Khi ngồi trên cái ngai vàng hàng nhái đó để tiếp khách chính thức, có chụp ảnh (có thể còn quay phim), chắc chắn ông Mạnh không nhận ra thân phận của một “hoàng đế cởi truồng”. Nhưng vàng, thau thì không bao giờ lẫn lộn. Khi xuất hiện trước công chúng, những công dân trưởng thành đã chỉ ra sự tồng ngồng của họ.

Sau thất bại của “Táo quân” tưởng không có gì vui. Sau những cuộc cười đau bụng tưởng đã có gì vui. Nhưng đời chẳng có gì vui.

Văn chương như Vũ Khiêu mà biết bao năm qua vẫn được không ít người tôn là “quốc sư”, vẫn được không ít người trông coi đình đền miếu mão mời viết văn bia; Văn hóa như Nông Đức Mạnh mà vẫn có thể làm Chủ tịch Quốc hội tới 9 năm, vẫn làm Tổng bí thư tới 10 năm… thì, đất nước không như thế này mới lạ.

Cướp – phong tục của Hội !?

Cướp – phong tục của Hội !?

Chuacuuthe.com

VRNs (25.02.2015) – Sài Gòn – Video có độ dài chưa đầy 30 giây được lan truyền trên các trang mạng xã hội mô tả sự hỗn loạn của nhiều thanh niên cướp kiệu giò hoa, dùng gậy quật, vụt vào những người bảo vệ kiệu, phản ứng lại, những người bảo vệ này cũng dùng gậy quất vào đám đông tại lễ hội đền Gióng, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, vào sáng ngày 24.02, tức mồng 6 Tết.

Vnexpress cho hay, trước khi kết thúc lễ hội, đám đông hàng chục thanh niên lao vào giằng xé, xô đẩy nhau để tranh cướp lộc, một số thanh niên mặc lễ phục hộ tống cầm thanh tre vụt vào đám đông.

150225009

Tuy nhiên, ông Nguyễn Khắc Lợi, Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội cũng có mặt ở đó tham dự lễ hội khẳng định: “… không thấy hỗn chiến, đánh nhau nào…”. Còn Trưởng công an huyện Sóc Sơn ông Trần Quang Huy cũng cho rằng “không có đánh nhau, không có ai trình báo”.

Bạn đọc Truong Cong Suong xót xa: “Đầu năm mở mạng đọc báo mạng cũng thấy xã hội đen thui”. Hoang Phuoc Quy đau lòng cho người dân: “Mình không bị đánh mà sao thấy quá đau!!!”.

Một số bạn đọc khác nhận định, đó là do kết quả của chế độ vô thần toàn trị đã dùng bạo lực trấn áp người dân khiến cho người dân Việt mất đi bản sắc dân tộc.

Daniel Nguyen nói mỉa mai: “nền văn hóa bạo lực do đảng CS tiêm vào con người VN đã thành công hoàn toàn.” Dinhnguyen Dinh nhận xét: “Đây là hệ quả của một nền giáo dục không nhân tính, nhân bản…” Tính Đoán có vẻ bực tức: “cái xứ lừa này, ông cha ta đã truyền lại từ bao đời này rằng:” Vô Văn Hóa và mê tín dị đoan” là phải đi đầu bác ah.”

Một số người bạn khác cho rằng, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho những người nhập viện đánh nhau trong những ngày đầu xuân Ất Mùi gia tăng.

Bạn đọc Mua Thu chán nản: “Con số bị thương do đánh nhau ngày tết còn nhiều hơn cả con số tai nạn giao thông là ở đây chứ còn đâu. Dân Lừa dưới thời nhà sản ngày càng mu muội.” Bạn đọc Tuyen Chí Nguyen tiếp lời: “Mình vừa xem xong cái clip quay cảnh lễ hội đền Gióng năm nay. Xem xong thì mình không lấy làm ngạc nhiên với con số mấy nghìn người nhập viện vì ĐÁNH NHAU đến NHẬP VIỆN trong dịp Tết vừa qua nữa. Dân ta có truyền thống đánh nhau rất giỏi và đó là một vốn quý cần “gìn giữ và phát huy”. Chấm hết!”. Bạn đọc Võ Tiến Cường cho rằng: “Tôi nghĩ nước mình nên gộp tất cả các lễ hội thành lễ hội Đánh, vừa vui vừa rõ ràng về mục đích lễ hội. Cho dùng tất các dụng cụ bao gồm cả súng. Ai lành lặn đi về cho tuyển thẳng vào lực lượng Côn An ( côn đồ làm công tác bảo vệ an ninh).”

Theo thống kê sơ bộ của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, trong những ngày đầu năm Ất Mùi có hơn 300 người chết do tai nạn giao thông và 6.000 người nhập viện vì đánh nhau.

Cũng theo vnexpress, lễ hội đền Gióng, huyện Sóc Sơn (Hà Nội) diễn ra từ mùng 6 đến 8 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ Thánh Gióng, vị anh hùng trong truyền thuyết đánh thắng giặc Ân, đem lại thái bình cho đất nước.

Về phía quan điểm của nhà cầm quyền địa phương khi trao đổi với Zing.vn về hình ảnh ẩu đả tại lễ hội đền Gióng sáng 24.02, ông Lê Hữu Mạnh, Phó chủ tịch UBND huyện Sóc Sơn cho rằng, sự việc trên là bình thường, bởi đây là phong tục của hội. “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Việc xảy ra xô xát là bình thường”, ông Mạnh nói thêm, Đại tá Trần Quang Huy, Trưởng công an huyện Sóc Sơn cũng xác nhận việc này”.

Lập luận này có thể trở thành “châm ngôn”: hễ Lễ hội nào không tổ chức phát mà ai muốn có thì phải cướp. Từ nay, các Lễ, hội như kỷ lục bánh trưng, tô hủ tiếu kỷ lục, chợ hoa, hội hoa xuân, lễ hội hoa anh đào… nếu không tổ chức phát thì ai muốn có phải cướp, và cướp này là bình thường, là phong tục của lễ, của hội. Đúng như người dân từng nói: nhà dột từ nóc. Cũng từ quan điểm này, ai cũng phải hiểu: ông Trần Văn Truyền, ông cựu Tổng Mạnh, cựu Tổng Phiêu, ông X, ông Y… do không được phát biệt thự, ngai vàng, tượng đồng, ngà voi, nhà thờ họ… nên phải cướp.  Và cướp này là ‘bình thường’, đây là phong tục của cộng sản.

HT, VRNs

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.

Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tín được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.

Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.

Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.  Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.  Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.

Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.  Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.  Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.  Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:  tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.  Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.  Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3, 18).  Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.

Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.  Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.  Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.

Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ. Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo.  Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

**************************************

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.  Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Trích trong “Manna”

Từ bỏ một lý tưởng (phần 1)

Từ bỏ một lý tưởng (phần 1)

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-02-24

Nghe audio: Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch

Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch...

Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch…

Files photos

Your browser does not support the audio element.

Phần một: Chủ nghĩa cộng sản, ảo tưởng và bi kịch

Ngày 30 tháng tư năm nay đánh dấu 40 năm ngày đảng cộng sản Việt nam nắm quyền thống trị trên toàn bộ nước Việt nam. Dưới chế độ độc đảng, xã hội Việt nam được qui định chỉ có một hệ tư tưởng duy nhất mà thôi đó là chủ nghĩa cộng sản. Song người ta thấy rằng những người không đồng tình với chủ nghĩa này càng đông, đồng thời họ cũng không đồng ý rằng đảng cộng sản Việt nam độc quyền cai trị đất nước.

Những người đầu tiên

Trong chương trình kỷ niệm Ký ức 40 năm, chúng tôi xin điểm lại sự hình thành và phát triển của dòng ý tưởng trái chiều đó ở Việt nam. Bài đầu tiên nói về những người đầu tiên chống lại sự độc quyền tư tưởng.

Vùng lên hỡi những nô lệ ở thế gian

Vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn

…….

Đó là lời ca trong bài Quốc tế ca xuất phát từ phong trào cộng sản quốc tế vào cuối thế kỷ 19, nói lên niềm hy vọng xây dựng một xã hội lý tưởng của loài người. Đó là lý tưởng cộng sản và cốt lõi đấu tranh giai cấp của nó.

Năm 1930 đảng cộng sản Việt nam thành lập và từng bước nắm quyền trên toàn cõi đất nước. Đảng này thiết lập một hệ thống toàn trị với vài triệu đảng viên kiểm soát hết mọi cơ cấu tổ chức trong xã hội, từ cấu trúc cầm quyền tối cao cho đến những chi bộ ở thôn ấp, làng xã.

Nhưng ngay bước đầu tiên cầm quyền của nó, sự không tưởng đã lộ ra với một thực tế đẫm máu của cải cách ruộng đất, về mặt lý thuyết cộng sản là được tiến hành để tạo công bằng xã hội.

Bi Kịch

Ông Nguyễn Minh Cần, một đảng viên cao cấp thời cách mạng tháng tám 1945, nhớ lại:

Từ sau cuộc cải cách ruộng đất, đầu óc tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi cảm thấy là vì sao một cái đảng nhân danh nhân dân, nhân dân lao động mà lại đi đàn áp, giết chóc, những người lao động, những người nông dân, những người rất là bình thường một cách tàn bạo như vậy. Và cũng từ đó càng ngày tôi càng suy nghĩ hơn, rồi tiếp theo là cái cuộc đấu đá anh chị em trong phong trào Nhân văn giai phẩm, thì tôi thấy một sự bất công rất rõ rệt, nó bắt buộc tôi phải suy nghĩ lại vì sao?”

” Từ sau cuộc cải cách ruộng đất, đầu óc tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi cảm thấy là vì sao một cái đảng nhân danh nhân dân, nhân dân lao động mà lại đi đàn áp, giết chóc, những người lao động, những người nông dân, những người rất là bình thường một cách tàn bạo như vậy

Ông Nguyễn Minh Cần”

Ông Nguyễn Minh Cần tị nạn ở nước Nga từ những năm 1960, từ bấy đến nay ông không một lần về thăm quê hương, điều đó ông cho là một sự đau khổ và bi kịch.

Bi kịch cũng được một đảng viên cao cấp giấu tên đề cập đến.

Trước đây có những người yêu nước, có lòng với nhân dân, nhưng không có chổ nào, có một chổ đó thì người ta vào. Cái đảng theo mô hình Lê Nin này nó lợi dụng nhân dân làm công cụ, đánh cắp lòng yêu nước của nhân dân để thực hiện chế độ đảng trị. Tôi thấy đó là một bi kịch.”

Việc nhận ra tính bi kịch của chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam đến với những số phận khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Mấy mươi năm sau khi ông Nguyễn Minh Cần tị nạn chính trị tại Nga, sau ngày 30/4/1975, người cha của luật sư Lê Công Định, một cán bộ cộng sản cao cấp tại Sài gòn vỡ mộng về thực tại cộng sản. Luật sư Định kể lại:

Ba tôi là một người cộng sản xuất thân từ miền Nam, có một sự tranh chấp về mặt nội bộ với những đảng viên từ Hà nội vào. Họ là những người đi vào đây với tư thế của những người đi chiếm đóng. Còn ba tôi là một người cộng sản với tư cách của một người đang xây dựng một xã hội mới, một hệ thống mới.”

” Sau khi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp về, mình thấy rõ hơn về mặt chính trị, là cái hệ thống cộng sản nó vướng những mâu thuẫn rất là căn bản

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu”

Người đảng viên đó bị bắt giam, được thả ra, rồi người ta dự định phục hồi danh dự cho ông với điều kiện ông phải làm bảng kiểm điểm. Ông khước từ và nói rằng công cuộc đi theo đảng của ông đã là một bảng kiểm điểm vĩ đại.

Con đường Đông Âu

Có một con đường đi của những tư tưởng không cộng sản đến Việt nam là từ chính những quốc gia cộng sản từ rất sớm. Nhà văn bất đồng chính kiến Nguyễn Xuân Nghĩa vào năm 1967 được sang Tiệp Khắc du học. Gia đình ông là một gia đình tham gia cách mạng cộng sản từ những năm 1930. Tại Tiệp khắc ông chứng kiến mùa xuân Prague 1968, được nghe kể cuộc nổi dậy Hungary 1956, được các bạn đồng học kể cho nghe câu chuyện sinh viên Tiệp tự thiêu phản đối Hồng quân Liên Xô tiến vào Tiệp Khắc.

Dù Tiệp Khắc cũ là một xã hội cộng sản đóng nhưng cũng có hở, có phim ảnh, rồi những tờ báo ca ngợi cuộc sống ở Mỹ ở Đức, rồi dần dần tôi thấy phải suy nghĩ lại tư tưởng của mình, phải có ý thức về chính trị.”

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người đã có những suy nghĩ về sự bất hợp lý của mô hình cộng sản ngay khi bắt đầu nghiên cứu khoa học tại Việt nam trong những năm 1960, khẳng định được những điều đó sau khi ở Tiệp khắc trở về.

Sau khi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp về, mình thấy rõ hơn về mặt chính trị, là cái hệ thống cộng sản nó vướng những mâu thuẫn rất là căn bản.”

Con đường Sài gòn

30/4/1975, Sài gòn và Việt nam Cộng hòa sụp đổ. Nhưng những giá trị của nó không mất đi, mà tác động ngược lại lên những người đến từ miền Bắc. Vài ngày sau cái ngày lịch sử ấy Tiến sĩ Hà Sĩ Phu vào Sài gòn.

Đó là một cú chuyển biến rất mạnh. Tức là nhảy vào Sài gòn thì mình thấy nó phát triển, đầy đủ mà trước đây mình không biết. Trước đây miền Bắc tuyên truyền rằng miền Nam đau khổ. Tôi vẫn còn nhớ bài hát của nhạc sĩ Hoàng Hà rằng

” Và không chỉ là vấn đề khoa học, mà khi tôi đi quan hệ ngoài xã hội, tôi thấy con người miền Nam họ sống với lễ giáo phương Đông rất là nền nã, chứ không bị pha tạp, bị hủy hoại như ở miền Bắc

Tiến sĩ Địa vật lý Nguyễn Thanh Giang”

Hôm nay em mặt đôi áo mới

Màu áo nâu non hồng tươi

Chúng ta có cơm và áo rồi

Nhưng trong Nam còn đang rối bời

Mong sao rồi đây cơm áo được khắp Bắc Nam cùng vui.

Tôi tưởng miền Nam khổ lắm.”

Miền Nam Việt nam cũng gây ấn tượng cho Tiến sĩ Địa vật lý Nguyễn Thanh Giang, người từng đi bộ đội Việt minh thời chiến tranh chống thực dân Pháp. Khi tiếp xúc với các đồng nghiệp người miền Nam ông thấy rằng họ là những nhà khoa học thực thụ, và ông còn thấy những điều khác trong lần đầu ông vào miền nam.

Và không chỉ là vấn đề khoa học, mà khi tôi đi quan hệ ngoài xã hội, tôi thấy con người miền Nam họ sống với lễ giáo phương Đông rất là nền nã, chứ không bị pha tạp, bị hủy hoại như ở miền Bắc.”

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang là một trong những người đầu tiên trong giới khoa học ở miền Bắc sang Mỹ tham dự hội thảo khoa học. Ông nhớ lại:

Tôi vỡ nhẽ ra rằng những điều tôi được nhồi sọ từ trường phổ thông tới đại học là không đúng. Họ bảo rằng tư bản giãy chết, xã hội tư bản đầy dẫy những xấu xa. Lúc bấy giờ thì trong đoàn có năm người, trong đó có ông Phạm Quốc Tường là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, tôi vỡ nhẽ ra và nói với ông ấy rằng anh ơi đây mới chính là xã hội chủ nghĩa chứ không phải là Liên Xô đâu anh!”

Vào giữa những năm 1980 Tiến sĩ Hà Sĩ Phu công bố bài viết của mình mang tên Dắt tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường của trí tuệ, một bài viết chống lại sự áp đặt của tư tưởng cộng sản. Ông bị bắt giam sau đó.

Những bi kịch của những người cộng sản còn có thể kể ra trường hợp ông Bùi Tín, Đại tá cộng sản Việt nam có mặt tại Sài gòn vào ngày 30/4. Sau khi tị nạn chính trị tại Pháp, ông viết Hoa Xuyên Tuyết, để nói lên niềm hy vọng của ông là những đóa hoa bé nhỏ sẽ xuyên thủng bức màn che đậy tư tưởng vô minh của chế độc độc tài.

Một người khác là Thiếu tướng Trần Độ, người từng nói với các sĩ quan Pháp sau trận Điện Biên Phủ rằng binh lính Việt Minh của ông bừng bừng khí thế chiến đấu vì căm thù giai cấp và dân tộc bị áp bức, đã kết thúc cuộc đời với tư cách tội đồ trong tay những người đồng chí cũ.

Trong phần tiếp theo của loạt bài này chúng tôi xin điểm lại sự chuyển biến nhận thức của những người trẻ tuổi hơn, hoặc những người nhận thức trễ hơn về một ý tưởng xã hội khác với cộng sản. Xin mời quí vị theo dõi.

“LÂU ĐÀI” CỦA ÔNG NÔNG ĐỨC MẠNH VÀ CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

“LÂU ĐÀI” CỦA ÔNG NÔNG ĐỨC MẠNH VÀ CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

Huỳnh Ngọc Chênh

Ảnh trên báo Tiền Phong đã bị gỡ xuống

Ảnh trên báo Tiền Phong đã được gỡ xuống

Con gà khoe tiếng gáy; Con thú lo chăm chút bộ lông (ngay cả khi đồng loại của nó đang gào thét vì đau đớn); Trọc phú khoe của cải và nhà cao cửa rộng; Nhà văn hóa tự hào về tác phẩm của mình; Nhà lãnh đạo chính trị chăm chút sự nghiệp và những công trình để lại cho dân cho nước.

Ông cựu TBT Nông Đức Mạnh lại chăm chút cái lâu đài hào nhoáng của mình.

Ông bỏ công chăm chút đến từng chi tiết trên ghế ngồi, từng hoa văn trên mặt đá cẩm thạch lót nền và lót tường…nghĩa là ông chăm chút độ hào nhoáng của lâu đài ông đến từng cm, mặc cho chung quanh, dân chúng của ông đang lầm than rách nát vì đói nghèo, vì bất công xã hội. Trẻ con vùng cao thiếu trường để học, thiếu áo quần giữ ấm, thiếu cầu để vượt sông, thiếu thịt để ăn. Bà con dân oan lang thang giữa thủ đô ngay trong đêm 30 tết, không nơi trú ngụ. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng…

Khi sự hào nhoáng đến kệch cỡm của lâu đài ông lộ ra thì không những tầm văn hóa và tầm nhận thức của ông lộ ra, bộ mặt đạo đức giả cũng rơi xuống mà cả cái chính sách nhân sự của đảng CSVN cũng phơi trần ra mặt trái của nó.

Ông là người cộng sản được tổ chức đánh giá tốt nhất trong gần 4 triệu đảng viên, nên ông mới được sàng lọc và chọn ra là người số một, người đứng đầu đảng và cũng là người lãnh đạo tuyệt đối đất nước.

Người cộng sản tốt nhất là người “vừa hồng vừa chuyên” tốt nhất trong số 4 triệu người vừa hồng vừa chuyên, có đạo đức cao vời vợi không ai sánh bằng, có trí tuệ và nhận thức không ai theo kịp… và có như vậy thì mới được đưa lên làm tổng bí thư.

Ở cương vị TBT, ngoài việc lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện đất nước, ông còn là người số một đưa ra quyết định chọn lựa ai là nhân tài để kế vị ông, kế vị những chức danh cao nhất cho bộ máy nhà nước theo chính sách xây dựng nhân sự của đảng ông.

Ông là người quyết định cao nhất ai sẽ là TBT, ai sẽ là chủ tịch nước, ai sẽ là thủ tướng, ai sẽ là bộ trưởng…trong các nhiệm kỳ sau ông.

Tại hội nghị 10 vừa rồi, ông Tô Huy Rứa đã tuyên bố nhiệm vụ chọn lựa đội ngũ nhân sự kế thừa là rất gay go nhưng bô chính trị và trung ương đảng đã hoàn thành tốt đẹp khi chọn ra được 22 người được cho là xuất sắc nhất để quy hoạch vào bộ chính trị và ban bí thư kế thừa, rồi trong số đó sẽ chọn ra người tài đức số một để đưa lên làm TBT.
Hội nghị trung ương đảng trước đây trên 10 năm cũng đã làm như vậy để chọn ra ông để đưa lên. Ông dĩ nhiên được đánh giá là tài đức nhất vào khi đó.

Thế nhưng, sau khi vãn tuồng, ông nhanh chóng bộc lộ ra là một con người như thế nào thì ai nhìn vào cũng biết là như thế nào.

Vậy thì làm sao tin được những nhân sự kế thừa ông do ông lựa ra, tin được những nhân sự tiếp theo, tin vào 22 nhân sự mà hội nghị 10 vừa quy hoạch?

Làm sao tin được chính sách nhân sự theo kiểu người trước nhường ngôi lại cho người sau một cách chủ quan duy ý chí không thông qua sự bầu bán dân chủ thật sự của toàn dân?

HNC

Chỉ có con thú mới ngoảnh đi trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ lông của mình.

https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/02/h1172.jpg