Tính đảng và bạo lực

Tính đảng và bạo lực

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-03-09

Tính đảng và bạo lực

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_600.jpg

Khai mạc lễ hội cướp Phết Hiền Quan (Tam Nông, Phú Thọ)

Courtesy of tuoitre.vn

Your browser does not support the audio element.

Một tâm linh bạo lực

Bạo lực, và… bạo lực!

Đó là hai từ tràn ngập báo chí trong những ngày Ra Giêng xuân Ất Mùi. Người ta đếm được có cả ngàn trường hợp nhập viện vì bạo lực. Người ta đánh nhau vì giành nhau những điều tưởng tượng ở các lễ hội. Bạo lực trộn lẫn với mê tính dị đoan như được nhân lên nhiều lần bằng những lời bình nhẹ như không của các quan chức, rằng đấy là văn hóa! Blogger Viêt Từ Sài Gòn mô tả những khung cảnh hỗn độn đó trong một đoạn văn súc tích sau đây

Lễ hội tâm linh do nhà nước khởi xướng càng nhiều thì con người càng trởi nên máu lạnh, tham lam, sẵn sàng đánh đập nhau, vác dao chém nhau chỉ vì một miếng giẻ rách gọi là “ấn” trong lễ hội Đền Gióng, lễ hội đến Trần… Mọi sự giằng xé, giành giật, đánh cướp được diễn ra công khai, tàn bạo ngay trước mặt cái điều gọi là thần linh.

Đây không phải là lần đầu mà câu chuyện gọi là Tâm linh trong xã hội Việt Nam đương đại đã được nói đến. Nhưng dường như mùa xuân Ất Mùi này nó đã vượt qua cái ngưỡng chịu đựng của nhiều người.

Khi quan sát các lễ hội năm nay cây bút Nguyễn Đình Bổn viết rằng Thấy dân Hà Nội nói riêng và dân Việt nói chung không muốn lao động, học tập, đấu tranh để tự nắm lấy được số phận của mình, mà thích bỏ vài trăm mua mâm lễ để giải được hạn của số phận hơn !

Blogger Nguyễn Hữu Vinh viết liền hai kỳ phóng sự mang tựa đề Lễ Hội, Tín Ngưỡng và chuyện bát nháo thời Sản mạt, trong đó ông rút ra hai điều. Điều đầu tiên là các đền chùa khắp nơi trên cả nước đã trở thành một nơi làm ăn kinh doanh, và sự kinh doanh đó đang rất khấm khá.

Điều thứ hai ông rút ra là để trả lời cho câu hỏi rằng tại sao, đảng cộng sản vốn cho mình là vô thần lại để cho không khí gọi là tâm linh bát nháo ấy tràn lan đến như vậy? Nguyễn Hữu Vinh trả lời rằng đó là một Liên minh tiêu diệt. Trong liên minh này những người cộng sản dùng mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo để xóa đi khoảng trống lòng tin trong xã hội Việt Nam đương đại, sau bao nhiêu năm của việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Và mục đích của việc lấp khoảng trống này là để mở ra một giai đoạn mới cho các lễ hội, các đình đền, các chủa chiền cũng như nhà thờ (nếu có thể “quản lý”) được tha hồ mở “hội”, miễn lôi kéo được quần chúng, ru ngủ được người dân xa rời các sự quan tâm đến những vấn đề cốt lõi của cuộc sống như Tự do tín ngưỡng, quyền con người, lãnh thổ đất đai, chế độ độc tài toàn trị, đời sống bấp bênh và xã hội nhũng lạm nặng nề bất ổn.

Ông kết luận rằng Khi một xã hội được xây dựng bằng bạo lực và lừa dối, thì mọi biến tướng của lễ, hội, tín ngưỡng theo hướng đó chỉ là sự sa đọa, suy đồi về văn hóa mà thôi.

Từ hải ngoại, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc gọi cái cảnh mà Viêt Từ Sài gòn mô tả bên trên là một thứ Văn hóa bạo động. Theo ông thì có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành nó. Đó là không có thói quen giải quyết các xung đột bằng cách thương lượng với nhau. Điều thứ hai là chẳng ai còn tin luật pháp sẽ làm tròn trách nhiệm phân xử xã hội của mình nữa.

Chỉ có một nguyên nhân

“Tính đảng” là từ mà blogger Tưởng Năng Tiến dùng trong bài viết mới trong tuần lễ đầy lễ hội và bạo lực này. Ông đau buồn trước cái thứ hạng về sự tử tế của Việt nam đang đi xuống. Ông cho rằng sự tử tế kém cỏi của người Việt chính là trách nhiệm của đám tiểu tâm, ti tiện, bạc ác của đám côn đồ đang lãnh đạo đất nước này, chứ không phải của những lương dân đất Việt.

Những lương dân đó nhà khoa học Tô Văn Trường cho là đã bị quên lãng khi mới đây một cán bộ cao cấp nào đó viết trên báo chí chính thống của đảng rằng trong các văn kiện của họ, chữ nhân dân nên viết hoa. Nhà khoa học nhìn thấy đó là một sự mỉa mai và hốt hoảng của những người tự xưng mình là đại diện của nhân dân!

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_400.jpg

Rượt đuổi để cướp phết tại lễ hội.

Tuy vậy Tưởng Năng Tiến thì lại cho rằng cái nhân dân đó phải tự hỏi là tại sao lại cam chịu những người không lương thiện hoành hành trên quê hương đất nước mình trong từng ấy thời gian mà chẳng có phản kháng nào đáng kể!

Không biết là vô tình hay hữu ý mà ngày 27 tháng 2- 2015, Hội đồng lý luận TW của đảng cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Định hướng xây dựng giá trị con người, giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.”

Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống gọi đây là một cuộc hội thảo Đèn Cù. Ý ông muốn nói rằng nó chẳng đi tới đâu vì chỉ mới động đến phần nổi của tảng băng, đánh tráo khái niệm giữa nguyên nhân và hậu quả. Đèn Cù cũng là tên một tác phẩm của nhà văn Trần Đĩnh, người từng chấp bút viết tiểu sử cho ông Hồ Chí Minh. Trong Đèn Cù Trần Đĩnh mô tả số phận con người trong chế độ cộng sản.

Ông Nguyễn Đình Cống vốn xuất thân từ một gia đình cách mạng cộng sản. Gần đây ông có nhiều bài viết nói rằng chủ nghĩa Mác Le Nin mà đảng cộng sản lấy làm ý thức hệ của mình là một tư tưởng sai lầm. Ông đã nhận được nhiều câu hỏi, thậm chí chất vấn về hành động đó. Ông viết một bài dài trên blog Bauxite Việt nam, trong đó ông giải thích nguyên nhân vì sao ông có những phê phán như vậy. Còn trong bài Hội thảo Đèn Cù mà ông viết trong cùng một tuần lễ thì ông đưa ra cái nguyên nhân ý thức hệ của những thói hư tật xấu trong xã hội hiện nay như sau:

Để làm chiến tranh cách mạng (đặc biệt là chiến tranh du kích) cần khuyến khích bạo lực, mưu mô để tiêu diệt kẻ thù. Trong đấu tranh giai cấp quá đề cao lòng thù hận và tranh đoạt vật chất mà nhẹ về đạo lý bao dung. Chuyên chính vô sản thực thi sự toàn trị, tạo ra giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, mua bán quan chức. Sự tuyên truyền về một xã hội tốt đẹp không tưởng buộc phải dùng thủ đoạn dối trá, lừa bịp. Tất cả những thứ đó và nhiều thứ khác nữa từ Chủ nghĩa Mác Lênin đã không làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn thói hư tật xấu của nền văn hóa mà còn làm nặng thêm.

Một câu chuyện khác thoạt đầu tưởng đâu chẳng có liên quan gì đến đảng cộng sản xảy ra trong tuần qua. Đó là chuyện cô người mẫu Trang Trần bị công an bắt giam với lý do là cô đã chửi bới công an. Trong sự việc đó cô lại chửi luôn đảng cộng sản.

Dư luận dấy lên làm hai luồng. Một bênh vực cho cô Trang, cho là những dồn nén vì một xã hội lộn xộn làm cho có có hành động sai quấy như thế. Bên kia thì cho là cô đáng bị bỏ tù. Những người có quan tâm đến luật pháp thì mổ xẻ đến tính hợp pháp hay không của sự bắt bớ, mức độ phạm tội tới đâu của cô Trang, v.v…  Tranh luận  dường như không thấy lối ra như lời Luật gia Trịnh Hữu Long nhận xét

Vậy nên nói gì thì nói, câu chuyện cuối cùng vẫn quay về với cái vòng kim cô chính trị mà Việt Nam đang đeo trên đầu. Có cố tình lảng tránh đến đâu, viện dẫn kiến thức bác học nào và biện minh bằng tinh thần bác ái cao đến đâu đi chăng nữa, câu trả lời cuối cùng chỉ có một. Loại bỏ Đảng ra khỏi các tranh luận pháp luật chỉ thể hiện hoặc là đánh giá không đúng mức vai trò của Đảng trong đời sống pháp luật, hoặc là cố tình lảng tránh. Tôi không hứng thú với những tranh cãi lặt vặt về luật thực định lắm, vì đó không phải cái cần nói.

Nhà báo, blogger Đoan Trang thì viết rằng Nói đến luật pháp, đến cái gọi là “nhà nước pháp quyền” ở Việt Nam mà lại không nói đến vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản thì khác nào tảng lờ một  “con voi trong phòng khách”.

Một blogger viết trên trang Tu Zo bài so sánh nước Việt nam đầu thế kỷ 21 này với nước Việt nam thời truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả thấy rằng những nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Thúc Sinh,… vẫn còn rất sống động trong xã hội Việt nam với tất cả dị tật lẫn số phận bi kịch của họ. Tác giả nhớ tới lời văn hào Nguyễn Du trước khi mất viết trong nước mắt rằng không biết ba thế kỷ sau ông có ai còn khóc ông hay không!

Tác giả kết luận:

Câu chuyện đoạn trường của ông về nàng Kiều như một thứ tiên tri định mệnh đeo đuổi đám con cháu ông làm cạn khô nước mắt vì cái vận mệnh nổi trôi dai dẵng

Nhưng đồng thời tác giả cũng hy vọng về một ngày mới, khi người Việt nam thay đổi, thay đổi nhiều thứ để có được. Chúng tôi xin mượn hy vọng đó để kết thúc bài điểm blog hôm nay.

Một ngày khác, một ngày mới không giống hôm nay và ngày hôm qua, ngày mà con cháu ông sẽ tưởng nhớ tới ông bằng những cành hoa và nụ cười thay cho giọt nước mắt và những nén nhang tàn !

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Chuacuuthe.com

VRNs (09.03.2015) -Sài Gòn- Kể từ khi khởi sự sứ vụ cách công khai, ngoài việc giảng dạy ra, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để thực hiện nhiều dấu lạ như xua trừ ma quỷ, cho kẻ què đi được, cho kẻ điếc được nghe, người mù được thấy, thậm chí cho kẻ chết sống lại. Thiết nghĩ, nếu phải chọn một câu ngắn nhất để nói về những việc Chúa đã thực hiện, có lẽ tôi sẽ chọn câu Lời Chúa trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Đi đến đâu, Chúa Giêsu thi ân giáng phúc đến đó” (Cv 10, 38).

Hẳn là Chúa Giêsu trở quê quán của Ngài cũng là để ‘thi ân giáng phúc’ cho những người đồng hương. Điều đáng tiếc là, mặc dù những người đồng hương của Chúa Giêsu rất thán phục về những lời hay ý đẹp của Ngài, nhưng họ đã để cho thái độ tự mãn của họ cản trở tâm hồn và cái nhìn của họ, khiến không chịu mở tâm hồn ra để đón nhận ân phúc từ Thiên Chúa, và không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.

Những người đồng hương đã tự mãn vì họ nghĩ rằng, họ đã biết rõ gốc gác của Chúa Giêsu (x. Lc 4, 22). Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói với họ của Ngài rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình.” (Lc 4, 24).

Hẳn là Chúa Giêsu thừa biết rằng, câu nói này của Ngài sẽ gây phản cảm và làm chạm tự ái thính giả đồng hương của ngài, Ngài có thể tránh và dùng những lời ngọt tai để lấy lòng họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói thẳng cho họ biết, để họ loại bỏ thái độ tự mãn.

Ở điểm này, chúng ta nhận thấy hành động của Chúa Giêsu là một hành động mang tính ngôn sứ. Ngài nỗ lực rao truyền Chân lý, sẳn sàng chịu ngược đãi, bách hại. Đúng như nhân gian thường nói: “Thuốc đắng giả tật, sự thật mất lòng.” Thay vì thức tỉnh trước lời dạy của Chúa Giêsu mà sửa đổi, những người đồng hương của Chúa Giêsu đã tiếp tục để cho tính “rừng rú” của họ nổi lên, họ dốc tâm hại Chúa Giêsu, nhưng ‘giờ của Ngài’ chưa đến.

Hành động của những người đồng hương với Chúa Giêsu cho thấy được mối nguy hiểm của việc hành động theo cảm tính. Nếu ta chỉ thích nghe những điều làm ta vui tai, chỉ thích làm những điều đem lại sự thỏa mãn hay ích lợi cho bản thân, mà bất chấp những điều ta nghe hay những việc ta làm có phù hợp với chân lý, với những điều Chúa dạy, như thế ta chưa sống xứng với phẩm giá của mình, mà chỉ sống theo bản năng.

Thái độ tự mãn là một thứ định kiến làm cho ta tưởng rằng mình biết rõ một vấn đề hay một lĩnh vực nào đó, khiến ta không còn nỗ lực hay hứng thú để khám phá và nhận chân ra giá trị của một thực tại nào đó.

Trong tương quan với tha nhân, thái độ tự mãn cũng cản trở ta trong việc khám phá những vẽ đẹp tiềm ẩn, những khía cạnh tích cực nơi tha nhân. Đồng thời, thái độ tự mãn có thể tạo nên định kiến tiêu cực trong cái nhìn của ta về tha nhân.

Trong cuộc sống, đôi khi ta dễ bị cám dỗ chỉ dựa vào vật chất như là tiêu chuẩn để đánh giá người khác, chỉ dừng lại ở cái nhìn hời hợt bên ngoài như cách trang điểm, quần áo, diện mạo, điện thoại, xe, dẫn đến việc trọng vọng những người giàu có, mà coi khinh những người nghèo khó. Rốt cuộc, không thấy hết vẽ đẹp trong tâm hồn của người nghèo khó, và không nhận ra sự hiện hiện của Thiên Chúa nơi họ.

Lạy Chúa, xin giúp con loại bỏ những cái nhìn tiêu cực đối với tha nhân, và giúp con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong anh chị em để con yêu thương, tôn trọng và tích cực giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin Chúa cũng giúp con biết noi gương Chúa can đảm trong việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.

Vominh

Học giả học giếc

Học giả học giếc

Nguoi-viet.com

Bùi Bảo Trúc

Mấy hôm đầu năm, ở trong nước, không ít người đã ồn hẳn lên về mấy bức ảnh chụp một người đàn ông có tuổi ôm hôn một phụ nữ trẻ khi cô cùng với gia đình đến thăm người đàn ông này tại nhà riêng của ông ta nhân dịp Tết.


Ông Vũ Khiêu và câu đối tặng cô hoa hậu. (Hình: Vietnamnet.vn)

Người đàn ông ấy mới đây đã qua được sinh nhật thứ 100, và được gọi là một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Ông cũng đã từng nắm giữ một vài chức vụ khá quan trọng khác. Chuyện thăm viếng một người như ông của một phụ nữ trẻ là một việc làm đẹp, nhất là khi cô còn rất trẻ, lại có một cuộc sống sôi động rất ít liên quan đến văn hóa: Cô là một hoa hậu mới đăng quang của Việt Nam.

Chuyện trở nên ồn ào khi nhiều ý kiến cho rằng việc ông ta ôm hôn người phụ nữ trẻ đến thăm ông là một việc không nên làm, vì việc đó không thích hợp với phong tục và tập quán của người Việt, nhất là ở cái tuổi của ông. Ông có thể cầm lấy tay cô gái, nói vài ba câu cám ơn, mừng tuổi cô là đủ. Không cần phải ôm lấy cô để hôn lên má như trong ảnh.

Đâu phải cứ thấy Hồ Chí Minh hôn môi mấy cháu nhi đồng rồi chàng cũng thừa thắng xông lên ôm hôn hoa hậu cho bõ những ngày cơ cực đâu.

Nhưng thực ra chuyện ôm hôn người phụ nữ trẻ đến chúc Tết mình cũng chỉ là một chuyện có thể bỏ qua được. Cháu ra đến ngoài cửa, lấy khăn chùi mạnh mấy cái thì hết cái hôn ấy ngay chứ gì. Xong một chuyện.

Chuyện thứ hai là học giả tặng cho cô hoa hậu một đôi câu đối (?) do chính chàng viết tay trên giấy đỏ để cả hai cùng ký tên vào cho … tình.

Trí như bạch tuyết tâm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung

Hai câu rõ ràng là bằng chữ Hán nhưng chàng viết bằng chữ quốc ngữ với cách viết để người đọc sẽ nghĩ đó là hai câu đối. Nhưng hai câu chàng tặng cô hoa hậu không phải là hai câu đối vì chúng hoàn toàn không đối nhau: TRÍ không thể đối với VÂN. BẠCH TUYẾT không đối với Y THƯỜNG. TÂM là tiếng bằng không thể đối với HOA cùng là tiếng bằng. NGỌC không thể đối với DUNG vì ý không đối.

Câu trên nghĩa là đầu óc (cô hoa hậu) thì trong trắng như tuyết, quả tim thì như ngọc. Câu dưới là thấy mây thì nghĩ là xiêm áo và nhìn hoa thì ngỡ là dung nhan của nàng.

Nhưng câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” không phải là sáng tác của chàng. Chàng vồ của Lý Bạch (*). Đó là câu đầu của bài Thanh Bình Điệu gồm 3 đoạn mà Lý Bạch viết theo đơn đặt hàng của Đường Minh Hoàng để phổ thành ca khúc hát lên khi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thưởng hoa trong cung.

Chàng, giáo sư học giả Vũ Khiêu, thấy hay quá bèn chôm luôn viết cho thành hai câu tặng người đẹp. Nham nhở hết chỗ nói.

Nếu không biết tặng cô gái trẻ cái gì thì cứ đem cả bài Thanh Bình Điệu ra đọc cho cháu nghe, rồi cà kê giảng cho cháu, khen cháu như Lý Bạch ca Dương Quí Phi cũng đã là đủ. Nhưng chàng sốt ruột quá, không biết thơ phú để làm vài câu tặng hoa hậu, bèn lôi ngay thơ Lý Bạch ra chép cạnh câu “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc” (không biết chàng mượn của ai) cho thành hai câu viết lằng nhằng giả bộ như thư pháp cho cháu phục lăn chiêng. Chàng viết láo lếu thế nào khiến cho chữ NHƯ đọc như chữ NGƯI.

Rồi chàng ký tên ở dưới và bảo cháu hoa hậu cùng ký tên ngay cạnh. Không hề có cái hoa thị kèm theo vài ba chữ chú thích nói mượn tạm một câu của Lý Bạch.

Thối không để đâu cho hết thối.

Không biết chàng học hành ấm ớ như thế nào nhưng khoe là tốt nghiệp (?) tú tài ở Hải Phòng rồi lên Hà Nội làm cu ly trong nhà thương của Pháp năm 1935. Ai cũng biết hồi ấy mà có cái bằng tú tài thì không ai đi làm lao công trong bệnh viện bao giờ. Chỉ có thứ phét lác thiếu cơ sở mới khai bố láo như thế. Rồi chàng theo cách mạng, lên rừng làm giáo sư và học giả nên mới có thứ chữ nghĩa chôm chỉa đem lòe cháu hoa hậu như khi cháu đến thăm chàng.

Chuyện thuổng thơ văn người khác thì chàng đã làm vài ba lần trước rồi chứ chuyện chôm thơ Lý Bạch nhận là của mình không phải là lần đầu. Người ta kể rằng chàng đã vồ hai câu trong đình làng An Trì thờ Ngô Quyền ở Hải Phòng có từ đầu thế kỷ thứ XIX:

Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo
Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang

Và đem nguyên văn hai câu ấy về dâng (!) lên nhà thờ tổ họ Vũ của chàng ở Mộ Trạch, Hải Dương. Chàng nhận là của chàng cho … tiện.

Nụ hôn gây “chấn động” dư luận. (Hình: Vietnamnet.vn)

Chao ôi, một giáo sư, học giả mà làm ăn như vậy hay sao. Có đạo thơ thì cũng nên chịu khó kiếm bài thơ nào ít ai biết trong mấy ngàn bài thơ Đường chứ sao lại ăn cắp ngay một câu con nít cũng biết là của Lý Bạch mà tặng hoa hậu bao giờ.

Thật là ngu hết chỗ nói. Hay là học giả ở Việt Nam thì phải như thế đấy!

Đó là chưa kể chuyện chàng từng đề nghị dùng hoa mào gà để làm biểu tượng cho nước Việt Nam. Rất may là cái đề nghị ngớ ngẩn đó của chàng đã không được hưởng ứng.

Sao lại có cái thứ học giả ngu xuẩn đến như vậy chứ !

(*)

Thanh Bình Điệu

I

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng

II

Nhất chi hồng điểm lộ ngưng hương
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang

III

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoa
Trường đắc quân vương đới tiếu khan
Giải thích xuân phong vô hạn hận
Trầm Hương đình bắc ỷ lan can

Ngô Tất Tố dịch:

I

Thoáng bóng mây hoa nhớ bóng hồng
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông

II

Hương đông móc đượm một cành hồng
Non Giáp mây mưa những cực lòng
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng?
Điểm tô nàng Yến tốn bao công

III

Sắc nước hương trời khéo sánh đôi
Quân vương nhìn ngắm những tươi cười
Sầu xuân man mác tan đầu gió
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi

Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

nguyenthituhuy

RFA

Vào thời điểm Stalin chết, ở Việt Nam có vô số sáng tác khóc thương và xiển dương nhân vật này do các văn nhân thi sĩ cộng sản chủ nghĩa viết, trong số đó nhiều câu đã trở thành “bất hủ”, vì chúng điển hình cho loại hình văn học nô dịch, điển hình cho mức độ tụng ca và dối trá thượng thặng, đặc sản của chế độ toàn trị, một hình thái chính trị chưa từng có trong lịch sử trước thế kỷ XX. Người ta vẫn sẽ còn nhắc đến những câu như: “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi Stalin” (Tố Hữu). “Đồng chí Stalin đã mất / Thế giới không cha nặng tiếng thở dài” (Chế Lan Viên)

Tôi muốn dùng đoạn thơ dưới đây của Xuân Diệu trong bài “Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin”, câu thơ in đậm là do tôi nhấn mạnh, để dẫn vào một chủ đề mà tôi sẽ trình bày trong bài này:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Mấy chữ “bát cơm miếng bánh”, mà Xuân Diệu sử dụng như một thủ pháp để nhằm ca ngợi Stalin đem lại cuộc sống no ấm cho người dân, mới thật là một sự mỉa mai đối với sự thật: Stalin bị nhân loại kết án phạm tội diệt chủng, là kẻ đã gây ra cái chết của mấy triệu người dân Ukraine trong một nạn đói được gọi là “nạn đói nhân tạo”, nạn đói được tổ chức, nghĩa là nạn đói do Stalin cố tình tạo ra, trong khoảng thời gian 1932-1933. Theo ước tính của các sử gia, có khoảng từ 2.6 đến 5 triệu người đã bị buộc phải chết trong cuộc đại thảm sát đó, họ bị buộc phải chết đói.

Vì thế, cho dù khái niệm “toàn trị” gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học xã hội, nhưng về cơ bản người ta thống nhất trong nhận định rằng Stalin và Hitler là hai lãnh tụ toàn trị, hai kẻ gây nên tội ác diệt chủng, tội ác chống lại nhân loại, và những tội ác của hai lãnh tụ toàn trị này được thực hiện gần như trong cùng một thời điểm, thời điểm đại chiến thế giới lần thứ hai.

Hai tác giả Borys Martchenko và Okexa Woropay, trong cuốn Nạn đói – Nạn diệt chủng ở Ukraine 1932-1933 (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, Publications de l’Est européen, Paris, 1983), đã mô tả cách thức tổ chức nạn đói. Họ cho biết rằng từ năm 1930, Stalin đã hoàn tất việc tập thể hóa toàn bộ tài sản nông nghiệp của nông dân ở Ukraine, toàn bộ nền xuất bản độc lập bị hủy bỏ, nhiều triệu người bị bắt trên khắp Ukraine.

Đầu 1932, chính phủ Stalin đề ra mức khổng lồ về lương thực phải giao nộp cho chính phủ, vượt quá mức thu hoạch của nông dân trong thực tế. Mùa đông 1931-1932, chính phủ trưng thu toàn bộ ngũ cốc cũng như những sản phẩm khác. Và như vậy, dĩ nhiên, người dân không còn gì để ăn. Từ mùa xuân năm 1932, nạn đói bắt đầu lan rộng, và đến hè số người chết càng ngày càng tăng lên.

Mùa thu năm đó, chính phủ ra một đạo luật nhằm cấm những người dân đói không được sử dụng ngũ cốc. Nghĩa là nạn đói được luật hóa một cách chính thức, người dân sẽ phải chết cho đúng luật. Tôi trích một đoạn trong cuốn sách của Borys Martchenko và Okexa Woropay:

“Một cuốn sách xuất bản chính thức viết về đạo luật này như sau: “Luật về bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, ban hành ngày 7 tháng 8 năm 1932, đã góp phần rất lớn trong việc củng cố chế độ nông trường tập thể. Theo quy định của luật này, các tài sản của nông trường tập thể được xếp vào hàng tài sản của Nhà nước. Tài sản của nông trường tập thể, cũng như tài sản của Nhà nước, không ai được phép xâm phạm’”( La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Và để bảo vệ “tài sản nhà nước”, những đội quân canh gác có trang bị vũ khí được thành lập, họ bắn chết không thương xót bất kỳ dám “ăn trộm” lương thực do mình làm ra nhưng mình lại không có quyền sở hữu. Nếu trẻ con ăn trộm thì bố mẹ sẽ bị kết tội. Quả là luật pháp của Stalin không để một kẽ hở nào cho người dân Ukraine được sống. Stalin đã giết người “theo quy định của luật pháp”.

Các tác giả của cuốn sách cho biết, chính phủ Stalin biết rằng cả nông dân lẫn chính quyền địa phương sẽ không giao nộp lương thực trong khi mà nhân dân đang chết đói, vì thế đã sử dụng biện pháp trưng thu cưỡng chế để thực hiện theo đúng chỉ tiêu kế hoạch mà nhà nước đề ra. Bất chấp việc lãnh đạo địa phương yêu cầu Moscou giảm kế hoạch, những đội trưng thu cưỡng chế được Nhà nước cử đến vét sạch tất cả.

“Một nhân chứng của vụ án Kravtchenko kể lại: “Năm 1932, chế độ Xô-viết ra lệnh cho tất cả các nông dân phải giao nộp đến tận hạt lúa mì cuối cùng [ở đây có cái gì giống với khẩu hiệu của Đức quốc xã về việc tiêu diệt dân Do Thái cho đến tận người cuối cùng, về cơ bản đấy đều là những cách thức hủy diệt con người –NTTH]. Sau khi nông dân đã giao hết lúa mì, những người cộng sản và bọn kẻ trộm vào trong làng, lấy đi tất cả những gì còn lại, dưa bắp cải, mỡ lá, và tiêu hủy hết. Họ đã tạo ra một nạn đói nhân tạo trong những năm 1932-1933” (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Dĩ nhiên, những người nông dân tìm cách trốn khỏi Ukraine để tự cứu mình. Nhưng chính phủ cho dựng các rào chắn khắp nơi và đuổi nông dân quay trở lại làng, nơi họ không còn gì để ăn. Những làng đói hoàn toàn bị cô lập, không y tế, không giáo dục, trẻ em không có trường học, người ốm không được chăm sóc. Hàng triệu người đã bị bỏ đói cho đến chết.

Tôi chỉ giới thiệu lại một vài chi tiết về việc Stalin đã giết người, giết hàng loạt, bằng cách bỏ đói.

Và giết nông dân chỉ là một giai đoạn trong tiến trình xây dựng quyền lực toàn trị của Stalin. Ông ta còn tiến hành nhiều cuộc thanh trừng với số lượng lớn, giết công nhân, viên chức, một nửa số nhân viên hành chính trong các lĩnh vực khác nhau bị giết, 50% đảng viên của đảng cộng sản bị thanh trừng.

Stalin, con người với tội ác chồng chất khiến cả nhân loại phải kinh hoàng, lại được ca tụng hết lời và được yêu thương tột bậc bởi các thi sĩ mà chế độ Việt Nam đương thời xếp hàng đầu:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Chữ nghĩa là gì, đối với những người làm văn chương và những người viết nói chung?

Paris, 7/3/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Đảng bức tử văn hóa, không ai khác.

Đảng bức tử văn hóa, không ai khác.

canhco

RFA

Cộng đồng mạng và ai quan tâm đến những lễ hội hay sự kiện từ đầu năm tới giờ không khỏi băn khoăn với câu hỏi, tại sao người dân tôi hôm nay lại như thế này?

Không ít ý kiến cho rằng do quản lý yếu kém, do dân trí thấp và do chạy theo lợi nhuận nên kéo theo sự xuống cấp của lễ hội. Nhìn chung dù lý do gì thì cái hại tiềm ẩn ngày một lan rộng sẽ đến một ngày nào đó khiến cả nước sẽ bơi trong một chiếc ao khổng lồ ô nhiễm văn hóa. Ao chứ không phải là sông vì sông thì còn chảy ra biển, được tái tạo lại sinh khí, nhưng bơi lội trong ao thì chỉ tự mình ăn lấy mình, gậm nhấm thành quả do mình tạo ra và tiêu hóa rồi bài tiết nó.

Không một phép lạ nào có thể cứu những sinh vật đang chết lâm sàng trong chiếc ao tù văn hóa ấy, nơi mà tự thân mỗi cá nhân bơi uể oải tìm kiếm chút thực phẩm văn hóa chưa bị ô nhiễm ngày càng hiếm hoi và đang mất hẳn.

Văn hóa nếu không là thực phẩm cho người nghèo thì chí ít nó cũng là sức sống tinh thần nuôi dưỡng tâm tính của tầng lớp dân chúng thấp kém nhất qua các lễ hội dân gian. Văn hóa bị tổn thương chính là khởi đầu của ý thức cộng đồng đang bị xâm hại. Tới một lúc nào đó khi phản ứng cộng đồng tê liệt thì thành phần bần nông sẽ là vùng đất hoang hóa sơ khai dễ dàng nảy sinh nhanh chóng bất cứ một hủ tục nào mà trước đây loài người nỗ lực tiêu diệt chúng.

Văn hóa giống như tất cả các chủ thể khác, luôn đi kèm và dính liền với chính trị, nói gọn lại là chính thể của một nhà nước. Văn hóa Việt Nam từ khi Đảng cầm quyền đến nay gần một thế kỷ, đã tạo nên một khuôn mặt mới, khó thể nói là tốt hơn hay xấu hơn nhưng cái đáng nói là nó có kết quả không thể chối cãi: Đảng đã rất thành công trong công tác biến văn hóa thành công cụ phục vụ cho đảng và mọi hoạt động văn hóa đều do đảng định hướng, điều hành và chỉ đạo.

Chỉ cần nhìn qua các hoạt động mang tính văn hóa đều thấy nơi nào được tổ chức trọng thể, đông người nơi ấy không thể thiếu vắng các khuôn mặt cộm cán trong chính quyền tham dự từ cắt băng khánh thành cho tới đọc diễn văn khai mạc. Người dân không để ý tới vì đối với họ chờ thêm năm mười phút nghe bài đọc ngớ ngẩn của một chủ tịch cũng đáng với cuộc vui mà họ chờ đợi. Cái tác hại không phải ở bài diễn văn mà sự thả lỏng những hành vi nháp nhúa đang làm băng hoại văn hóa.

Đầu năm là văn hóa cung đình của ông Nông Đức Mạnh.

Hàng ngàn bài viết phê phán chiếc ngai vua của ông cựu TBT xem ra không đáng cho nhà nước để ý. Guồng máy đảng đang chạy tối đa lo bảo vệ chính mình hơn là lên tiếng về cung cách xa hoa của một ông vua tập thể. Sự im lặng ấy cho thấy giai cấp giữa người dân và vua chúa không thể san bằng như nguyên tắc chống phong kiến mà nó được công khai tuyên truyền.

Nhà nước im lặng xem như không biết. Một mảnh vỡ văn hóa về cung cách sống rơi ra có gì đáng nói?

Một ông Vũ Khiêu đại diện cho nền văn hóa tiếm đoạt đang được chính quyền đỡ đầu không thể nói là bình thường. Những huy hiệu cao quý, bằng khen tráng lệ, hay huân chương hoành tráng ông Khiêu nhận được từ các lãnh đạo cao nhất của Đảng cho thấy Đảng đang lái chiếc xe kiến thức Việt Nam vào đầm lầy ngu dốt. Những câu thơ trộm đạo, những hành vi nhố nhăng cộng với thành tích bất hảo của ông ta được nhà nước sùng bái cho thấy trình độ của hệ thống đã cán mức chịu đựng của người dân có học.

Văn hóa trộm đạo ấy khi được vinh danh cũng là lúc người dân cùng nhau bịt mặt biến thành cướp biển trước mắt nước ngoài, đặc biệt là phương Bắc nơi bị ông Khiêu thẳng tay ẳm trọn thơ phú quý giá của họ.

Một cá nhân thì gọi là trộm có văn hóa, còn một tập thể thì chế độ có từ riêng ấn tượng hơn: cướp có văn hóa!

Người phát biểu câu ấy là đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Phó trưởng ban Tuyên giáo Hà Nội Phan Đăng Long.

Khi cho rằng hàng ngàn người chen lấn để cướp cho bằng được lộc thánh là cướp có văn hóa, Đảng đã khuyến khích mọi thành phần xã hội hãy tham gia cướp bóc trong tất cả các lễ hội (Dĩ nhiên không ngoài phạm vi lễ hội) thì ngay bản chất cái lễ hội được khoác chiếc áo văn hóa ấy đã có thêm phạm trù cướp bóc. Giống như ông Vũ Khiêu và ông Nông Đức Mạnh, có gì khác nhau?

Đảng không những làm ngơ, im lặng trước các câu hỏi có liên quan đến việc trộm cắp hay ăn cướp văn hóa công khai, mà còn âm thầm khuyến khích một cách rất tự giác, những văn hóa âm tính mang nặng hủ tục từ Tàu. Nhà nước đã lập hẳn ra những cơ quan nghiên cứu về bói toán mang danh phong thủy và đổ tiền vào đấy không thương tiếc để cơ quan này tuyên truyền cho những điều mà người dân ngu đang cùng với quan chức mỗi năm chờ có dịp thi hành chuyện cướp bóc.

Các cơ quan bói toán ấy hiên ngang tư vấn cho người dân cách đúng nhất khi may mắn xin, hay giật được ấn về nhà. Ông Nguyễn Mạnh Linh, Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc Viện quy Hoạch và Kiến trúc đô thị chỉ dẫn người dân: “Nếu muốn sử dụng hiệu quả hơn theo phong thủy, tùy theo mục đích sử dụng mà dán ở các vị trí khác nhau, như năm 2015 để tăng tài lộc thì dán ấn ở chính Bắc”.

Hướng chính Bắc nếu tính từ Hà Nội sẽ đâm thẳng sang Trung Quốc, nơi mà câu chuyện phong thủy được nâng lên hàng quốc sách.

Định hướng văn hóa không phải chỉ trong lễ hội mà ngay cả những hoạt động văn hóa khác mang tính quốc tế Đảng cũng không hề quên.

Cách đây hai ngày báo Dân Trí chạy tít: “Trong phần thi trang phục dân tộc tại cuộc thi Nam vương toàn cầu 2015, thí sinh của Việt Nam đã gây ấn tượng với bạn bè quốc tế khi mang đến trang phục bộ đội.”

Ai là người định hướng cho thí sinh Nguyễn Văn Sơn mặc áo quần bộ đội ngoài những người trong đảng? Cậu thanh niên ấy có muốn mặc bộ quân phục nghèo nàn, không ít thì nhiều đã nhuộm máu ấy trình diện trước mặt báo chí quốc tế hay không là câu hỏi không khó trả lời.

Câu hỏi đặt ra quần áo bộ đội có thể được xem là trang phục dân tộc hay không?

Không khó để nói rằng trang phục dân tộc không dính gì tới quần áo quân đội, vật cốt giúp người lính dấu mình trước kẻ thù, ngược lại hoàn toàn với trang phục dân tộc, vốn tôn vinh tính thẩm mỹ, văn hóa ăn mặc và nhất là lòng yêu chuộng hòa bình của bất cứ quốc gia nào.

Lấy chiến tranh đi thi biểu tượng hòa bình và hữu nghị chỉ có Đảng mới dám làm, bất kể cái nhìn rẻ rúng của cộng đồng quốc tế.

Đúng như báo Dân Trí đã xỏ xiên, “đây là một hành động gây ấn tượng với bạn bè thế giới”. Cái văn hóa bị nhuộm đỏ ấy của Việt Nam làm sao họ không ấn tượng cho được vì chính nó đã làm cho cuộc thi nhơ nhuốc?

LS Nguyễn Thanh Lương: Công lý tùy thuộc ý muốn của người cầm quyền

LS Nguyễn Thanh Lương: Công lý tùy thuộc ý muốn của người cầm quyền

Luật sư Nguyễn Thanh Lương

Luật sư Nguyễn Thanh Lương

Trà Mi-VOA

07.03.2015

Thêm một luật sư tại Việt Nam buộc phải bỏ nghề sau các hoạt động bênh vực và tranh đấu bảo vệ nhân quyền.

” Cơ chế tam quyền phân lập mà thế giới đã tìm ra 500 năm mà Việt Nam không có, nếu có chỉ là hình thức. Đó là những nguyên lý cơ bản mà tôi tiếc là Việt Nam không có

LS Nguyễn Thanh Lương”

Nhiều năm nay, nguyên Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre Nguyễn Thanh Lương được mọi người biết đến như một luật sư bảo vệ miễn phí cho người nghèo, nông dân, công nhân, và những dân oan bị mất đất đai.

Ông cũng nằm trong số rất ít trong tổng số hàng chục ngàn luật sư trong nước mạnh dạn tham gia các vụ án chính trị ‘nhạy cảm,’ bênh vực những nhà tranh đấu dân chủ, các nhà hoạt động cổ xúy nhân quyền và chống Trung Quốc như trường hợp của sinh viên Nguyễn Phương Uyên-Đinh Nguyên Kha, thầy giáo Đinh Đăng Định, và blogtger Tạ Phong Tần.

Ông vừa tuyên bố từ giã sự nghiệp từng dày công xây dựng và theo đuổi với 20 năm hành nghề luật gồm 4 năm làm luật gia và 16 năm làm luật sư sau 4 năm khởi nghiệp làm thanh tra công an TPHCM.

Quyết định của luật sư Lương tiếp nối sự ra đi của các đồng nghiệp trước đó như Huỳnh Văn Đông, Lê Trần Luật, các bản án của luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, luật gia Phan Thanh Hải, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, và trường hợp đang bị sách nhiễu của luật sư Võ An Đôn ở Phú Yên một lần nữa khiến dư luận chú ý tới những hiểm nguy, thách thức đối với giới luật sư bênh vực nhân quyền trong nước.

Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Thanh Lương về sự ra đi của ông và những tâm tư trăn trở về giới hạn của vai trò người luật sư trong nền tư pháp còn nhiều lỗ hổng hiện nay.

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Khát khao của tôi muốn trở lại về nghề trong tương lai, nhưng trước mắt phải ‘tạm dừng’ để chuyển qua một cái nghề khác, đó là nghề công chứng, để nhẹ đi những xung đột, những áp lực. Áp lực là vì mình đã bảo vệ những vụ án chính trị xung đột, đụng chạm, đối kháng với nhà nước, với cơ quan-tổ chức đảng cộng sản. Những phát biểu của tôi có khả năng dẫn tới những chuyện ngoài ý muốn. Cụ thể như điều 258 ‘xâm phạm lợi ích hợp pháp” của tổ chức, công dân, nhưng đối với “lợi ích nhà nước” thì không có khái niệm hợp pháp hay bất hợp pháp gì hết. Cho nên những tiếng nói thẳng, nói thật nếu làm ảnh hưởng tới uy tín nhà nước thì sẽ không tồn tại. Tôi đã thấy những điều đó. Đó là những áp lực nên tôi phải tự rút lui trước. Nghề luật sư có nhiều vấn nạn. Ví dụ như luật sư chỉ được gặp bị can trong trại giam 1 tiếng đồng hồ theo văn bản chỉ đạo của Bộ Công an cách đây 16 năm vẫn tồn tại. Vấn đề đó, theo tôi, đã vi phạm hiến pháp, luật lao động, luật của luật sư, nhưng vẫn tồn tại. Đó là một minh chứng. Rồi ai cản trở, ngăn cấm hoạt động của luật sư thì không có chế tài. Ngược lại, luật sư mà vi phạm sẽ bị xử phạt. Có quy định về hàng trăm hành vi của luật sư/tổ chức luật sư sẽ bị xử lý. Nghề luật sư chưa được đảm bảo quyền hành nghề cho đúng mức.

Trà Mi: Người luật sư có nhiệm vụ bảo vệ người khác, nhưng bản thân họ trong các trường hợp bị trù dập, trả thù, bất công thì luật định ra sao?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tại điều 91 hay điều 6 Luật luật sư có quy định nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở luật sư. Nhưng thực tế không có chế tài. Thế giới luật sư còn nhiều vấn đề trăn trở lắm. Còn những người có quan điểm bất đồng với nhà nước cũng không được quyền xét xử công khai. Người thân của họ và những ai quan tâm đâu có được tham dự phiên tòa. Cái ‘công khai’ đó là nửa vời. Luật sư không được tham gia tố tụng ngay giai đoạn điều tra ban đầu, giai đoạn truy tố.

Trà Mi: Ngoài những trăn trở khi còn hành nghề, bây gìờ ra khỏi nghề rồi, ông có những tâm tư như thế nào?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Ra khỏi nghề, hàng ngày tuy làm công chứng nhưng hàng ngày tôi vẫn tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo, cho dân oan. Tôi vẫn làm với tư cách của một công dân, một luật gia, cũng soạn thảo đơn từ này kia. Nhưng ở đây mình giúp với góc độ khuyến khích của xã hội. Ở quê tôi, người dân sau mấy chục năm nay vẫn khó khăn. Họ cũng không rành phải ký chữ ký như thế nào. Đa số còn nhiều hạn chế, thấy thương, thấy cuộc sống họ sao lao nhọc quá.

Trà Mi: Ông có hối hận gì không trên con đường ông đã đi?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: ‘Lịch sử không có chữ nếu’. Tôi không có tiếc nuối gì hết. Tôi chỉ trông chờ thời gian, mong mỏi xã hội được cởi mở hơn, ưu ái hơn thì nghề luật sư mới có tiếng nói hơn, mới có hiệu quả, tác dụng. Tiến bộ của pháp luật không có làm ảnh hưởng sự phát triển của xã hội. Bản thân tôi từng tâm huyết với xã hội. Tôi từng đứng đơn tố cáo trạm thu phí Xa lộ Hà Nội ở quận 2 TPHCM. Tới nay trạm này vẫn còn, không ai trả lời tôi hết. Có điều cho tôi biết rằng nếu tôi tố cáo sai thì chắc chắn tôi đã phải trả giá. Ở đây dù không có phản ứng đó, nhưng mong mỏi bảo vệ cho hàng triệu người tiêu dùng hàng ngày bị thu phí oan uổng không đạt kết quả. Điều này làm tôi hiểu rằng công lý chưa hẳn thuộc về lẽ phải, mà nó thuộc về ý chí của người cầm quyền. Tôi hiểu điều đó nên không thể ngây thơ mà tin cậy nhiều quá, thôi phải rút lui. Nếu làm hết lương tâm, chức năng nghề nghiệp của một luật sư tâm huyết thì có thể đi tù.

Trà Mi: Ông nói không hối hận gì, nhưng vuột khỏi tầm tay một sự nghiệp dày công xây dựng và theo đuổi, chắc chắn khó tránh khỏi cảm giác tiếc nuối. Trên suốt chặng đường sự nghiệp, ông tiếc nuối nhất điều gì?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tôi tiếc nuối không riêng cho cá nhân tôi mà cho cả xã hội này. Đó là sự lắng nghe của nhà nước, của những người có thẩm quyền. Bởi vì tất cả những đóng góp, phản biện, bất đồng không có nghĩa là xấu. Nhưng tiếc là những ý kiến đó không được tiếp thu mà thậm chí còn bị tiêu diệt. Tôi tiếc điều đó làm cho xã hội không phát triển.

Trà Mi: Trong số các điểm yếu của pháp luật Việt Nam hiện nay, điểm nào theo ông là cấp thiết cần phải sửa đổi ưu tiên hàng đầu?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Nói vấn đề này thì mênh mông lắm. Phải nói từ cái chóp bu, từ nguyên tắc nguyên lý lãnh đạo. Nhiều người cũng đã nói về nguyên lý lãnh đạo của đảng cộng sản, tức điều 4 Hiến pháp, và điều 13 bảo vệ an ninh quốc gia nghiêm cấm các hành vi nhằm xóa bỏ giai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Theo tôi, thời chiến có thể tập trung quyền lực vào thống nhất một đảng, nhưng với thời bình theo quy luật cạnh tranh mà áp dụng độc đảng thì lỗi thời. Thôi thì tôi hy vọng một ngày nào đó những nhà lãnh đạo sẽ xem xét lại theo quy luật của lịch sử. Cơ chế tam quyền phân lập mà thế giới đã tìm ra 500 năm mà Việt Nam không có, nếu có chỉ là hình thức. Đó là những nguyên lý cơ bản mà tôi tiếc là Việt Nam không có.

Trà Mi: Các luật sư bảo vệ những tiếng nói trái chiều hay thể hiện quan điểm bất đồng với nhà nước thường gặp rủi ro, hoặc đi tù, hoặc bị trù dập, hoặc phải bỏ nghề. Ông nghiệm ra điều gì từ thực tế này?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tôi nghiệm ra điều thúc đẩy xã hội phát triển hay kiềm hãm chính là chính trị. Đối với luật sư, tuy tôi nghỉ rồi, nhưng tôi vẫn mong mỏi các cơ quan thấy được chỗ tồn tại yếu kém, cụ thể là nghị định 98 cho phép luật sư chỉ tham gia có 1 giờ, hai là các chế tài đối với luật sư thì quá nhiều mà bảo vệ thì không có. Điều này tôi đã vận động nhiều trên các tờ báo của nhà nước, nhưng tiếng nói đó tôi thấy còn lạc lõng quá.

Trà Mi: Nhìn vào các trường hợp luật sư bị nhắm mục tiêu, nhiều người cho rằng nghề luật sư trong nước là một nghề nguy hiểm, nhưng có người phản biện rằng hàng chục ngàn luật sư hành nghề đó có sao đâu, chẳng qua chỉ là mấy ông luật sư ‘chống đối’ ‘cá biệt’ mới bị thế thôi. Ý kiến luật sư thế nào?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Nếu luật sư làm hết tâm huyết mà không nhìn trước, nhìn sau thì đương nhiên sẽ bị chuốc hậu quả. Còn những luật sư không có tâm huyết, theo kiểu quân bình chủ nghĩa thì sẽ không gặp rủi ro. Nhưng xã hội cần phải có những người tiên phong, những người cất tiếng thì mới phát triển được. Còn những người toan tính, thủ lợi thì đương nhiên họ sẽ yên ổn hơn. Trong một xã hội còn nhiều trăn trở, biến động, nhiều vấn đề về đạo đức, về vật chất thì sẽ có những tình huống như vậy.

Trà Mi: Các hành vi mà nhà nước gọi là ‘chống đối’, ‘chống tham nhũng’, ‘chống tiêu cực’ đều có kết cục khá buồn. Không chống gì cả thì yên thân, có phải đây là con đường ông đang lựa chọn?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Không. Tôi lựa chọn làm nghề công chứng cũng là một hình thức tôi giúp người dân. Tham gia một số vụ án chính trị về xâm phạm an ninh quốc gia, tôi đủ hiểu, nó giống như một thước đo về văn minh, tiến bộ xã hội. Nếu mình không  nhìn hết mà cứ tiếp tục thì sẽ bị trượt dốc đến cái điều xấu nhất. Thành ra tôi phải tự điều chỉnh lấy.

Trà Mi: Có thể hiểu nôm na là mình điều chỉnh xã hội không được thì tự điều chỉnh mình cho thích hợp với xã hội?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Dạ đúng vậy.

Trà Mi: Nhưng nếu mỗi người tự điều chỉnh mình theo xu hướng chung của xã hội như vậy thì liệu xã hội này sẽ đi về đâu, ông có bao giờ suy nghĩ tới điều đó?

“… Xã hội cần phải có những người tiên phong, những người cất tiếng thì mới phát triển được. Còn những người toan tính, thủ lợi thì đương nhiên họ sẽ yên ổn hơn. Trong một xã hội còn nhiều trăn trở, biến động, nhiều vấn đề về đạo đức, về vật chất thì sẽ có những tình huống như vậy

LS Nguyễn Thanh Lương”

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Có, nhưng mọi việc tôi nghĩ phải chờ thời gian. Nhanh hay chậm, trả giá đắt hay ít để lịch sử xem xét.

Trà Mi: Cách đây hơn chục năm không nghe tới khái niệm luật sư nhân quyền, giờ đã có. Nhưng liệu nó có phát huy rộng rãi thành đoàn luật sư nhân quyền, hội luật sư nhân quyền, hay thậm chí là hiệp hội luật sư nhân quyền hay không trước những áp lực, trở ngại hiện nay mà ông là một trong những người đã gặp rồi buộc phải rút lui?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Có thể xã hội sẽ tự phát lên vì nhu cầu, nhưng cũng sẽ có những sự cọ xát nhiều. Nhà nước không thay đổi, cởi mở chính sách thì đương nhiên phải vậy thôi vì đó là quy luật. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.

Trà Mi: Với những bạn trẻ đang hành nghề hoặc mới vào nghề, ông có tâm tình gì muốn chia sẻ, một luật sư bảo vệ người nghèo đã phải ‘cáo quan về ở ẩn’?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Mong sao các bạn sống và hành nghề sao cho không hổ thẹn với lương tâm là được. Cá nhân tôi, trước khi vào nghề, tôi nghĩ hành nghề để tạo một cuộc sống ấm no gia đình vì bản chất tôi là một nông dân, tôi muốn cải tạo số phận đi lên hòa nhập, bình đẳng với mọi người trong xã hội. Nhưng sau khi vào nghề, tôi có khuynh hướng quan tâm về xã hội, cộng đồng, và người nghèo nhiều hơn. Đôi khi tôi còn muốn xả thân quên đi sinh mạng của mình nữa.

Trà Mi: Lúc hành nghề ông tự thấy mình thay đổi rất nhiều, muốn đóng góp cho xã hội. Giờ ra khỏi nghề rồi, ông có hy vọng gì không?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Ra khỏi nghề rồi, nguyện vọng ấp ủ của tôi vẫn canh cánh còn đó. Tôi vẫn hy vọng một ngày nào đó môi trường pháp lý cho luật sư hoạt động được thông thoáng hơn bởi vì lúc đó thao tác của luật sư mới có tác dụng nhiều hơn. Nói cụ thể, từ ‘dân chủ’ không xuất xứ từ Việt Nam. Nó là những từ ngữ từ bên ngoài du nhập vào. Cho nên, khái niệm đó hơi xa lạ, là điều mới mẽ, là sự vận động phát triển của xã hội chứ không phải đương nhiên mà có đâu.

Trà Mi: Cảm ơn luật sư rất nhiều đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này. Mong ông đạt thành hy vọng của mình trong thời gian sớm nhất.

MÙA CHAY, MÙA ĐỔI MỚI

MÙA CHAY, MÙA ĐỔI MỚI

LM Phêrô Nguyễn Văn Hương

lent

Mùa Chay là thời gian thuận tiện nhất để mỗi người kitô hữu đổi mới con người và đời sống của mình. Đổi mới là quy luật của sự phát triển và tiến bộ.  Chúng ta quan sát thiên nhiên trong những ngày mùa đông giá lạnh, cây cối trở nên cằn cỗi, trơ trụi và xem ra như không còn sức sống.  Nhưng khi mùa xuân về, khí trời ấm áp, cây cối bừng dậy sức sống, chúng đâm chồi nảy lộc, trổ hoa muôn màu sắc trông thật đẹp mắt.  Thiên nhiên và sự sống xung quanh chúng ta thật kỳ diệu!  Qua sự kiện này, chúng ta nhận thấy rằng đổi mới là quy luật của phát triển nơi thiên nhiên.

Đối với người kitô hữu, đổi mới là quy luật của sự nên thánh.  Vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đổi mới mỗi ngày, đổi mới liên lỉ, đặc biệt khi chúng ta bước vào một năm mới và nhất là bước vào Mùa Chay thánh.  Tuy nhiên, chúng ta thử hỏi rằng chúng ta cần phải đổi mới như thế nào?

Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ đổi mới ở bên ngoài như thay đổi dáng dấp, cách ăn mặc, hay nơi chốn sinh sống, nhưng Ngài mời gọi chúng ta phải đổi mới triệt để từ bên trong, đổi mới toàn bộ con người và đời sống của chúng ta.

Để thực hiện được điều đó, thánh Phaolô trình bày về sự đổi mới triệt để và toàn vẹn mà chúng ta có thể tóm tắt qua 3 bước sau đây:

 

1/ Bước thứ nhất, đổi mới là cởi bỏ con người cũ

Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham hố lừa dối” (Eph 4, 22).  Theo thánh Phaolô, cởi bỏ con người cũ là cởi bỏ “con người thuộc hạ giới,” con người sống theo xác thịt với những hành vi: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy.  Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5, 20-21).

Danh sách các thói xấu mà thánh Phaolô đưa ra ở đây chỉ có tính cách tượng trưng, nhưng các tính hư tật xấu này cũng đủ để cản ngăn con người tiến lên với Thiên Chúa.  Chúng là các dây xích cầm buộc con người trong vòng tục lụy và gây ra biết bao nhiêu hậu quả khổ đau cho cuộc sống mỗi người.

Mùa Chay là cơ hội quý báu để chúng ta cởi bỏ con người cũ, từ bỏ các thói hư tật xấu này trong chúng ta.  Nếu không từ bỏ chúng, sẽ không có sự tiến bộ về nhân đức, và như thế chúng ta sẽ không được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.  Chính vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải lột bỏ con người cũ với các tội lỗi và đam mê xấu xa nguy hại ấy để mặc lấy đời sống mới theo Thánh Thần hướng dẫn.

 

2/ Bước thứ hai là “phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4, 23)

Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba quyền năng và cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con.  Ngài là Đấng đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.”  Ngài hoạt động trong chúng ta trong mọi trạng huống: như cuồng phong biến đổi, như nước thanh tẩy, như hơi thở ban sự sống, như lửa “đốt cháy” tâm can, như dầu tăng sức mạnh.

Chúng ta cần Chúa Thánh Thần biến đổi con người yếu hèn của mình, đổi mới tâm trí của chúng ta. Bởi vì mọi sai lầm bắt nguồn từ suy nghĩ sai và thiếu hiểu biết của chúng ta đối với đường lối của Thiên Chúa.  Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần biến đổi tâm trí, nghĩa là biến đổi cái nhìn, tư tưởng, quan điểm, nghĩ suy của con người cũ, để có cái nhìn và suy nghĩ của Thiên Chúa, hướng tới sự thật và tình yêu, để thăng hoa trở nên người mới mạnh mẽ, hăng say, đầy tràn nhiệt huyết hơn.

 

3/ Bước thứ ba là mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô

“Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4, 24). Thánh Phaolô quả quyết rằng: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được Rửa tội để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gl 3, 27). Ngài cũng mời gọi: Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13, 14).

Quả thế, Đức Giêsu là con người mới và kiểu mẫu cho chúng ta.  Mỗi người kitô hữu được tạo dựng và tiền định để trở nên giống Chúa Kitô.  Nếu cởi bỏ con người cũ là lột bỏ những thói hư tật xấu, thì trở nên con người mới là mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, mặc lấy trong mình những tâm tình của Chúa Kitô, đó là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và tha thứ cho nhau (x. Cl 3, 12-14).

Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ đời sống cũ, mặc lấy đời sống mới bằng cách rèn luyện các nhân đức, thực hành những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã dạy, sống như Chúa đã sống.  Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể được biến đổi toàn bộ con người chúng ta theo khuôn mẫu là Chúa Kitô, từ suy nghĩ, phán đoán, tình cảm, con tim, động lực sống và cả cách hành xử của chúng ta.  Đó là con người mới, nhân cách mới, đời sống mới trong Chúa Kitô.

 

Kết luận

Cha Anthony de Mello trong cuốn “The Song of the Bird” có kể câu truyện về Sufi Bayazid, ông nói về chính mình như sau: Tôi là nhà cách mạng, khi tôi còn trẻ và tất cả lời cầu nguyện của tôi với Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.”   Khi tôi tới tuổi trung tuần và nhận thấy rằng nửa đời người đã qua đi mà không đổi thay được một tâm hồn nào.  Tôi đã thay đổi lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con ân sủng để thay đổi những người liên hệ và gặp gỡ con, như gia đình và bạn bè của con và con sẽ được an lòng.”  Bây giờ, tôi đã già và ngày giờ sắp hết, lời cầu của tôi: “Lạy Chúa, xin cho con ân sủng để thay đổi chính con.”  Nếu tôi cầu nguyện điều này ngay từ khởi đầu, tôi đã không phí uổng cuộc đời của mình.

Câu chuyện trên đây muốn nói với chúng ta rằng: sự thay đổi chính mình là sự thay đổi quan trọng nhất.  Nếu muốn thay đổi thế giới, chúng ta phải bắt đầu từ sự thay đổi chính mình.  Mùa Chay là mùa đổi mới.  Hội Thánh kêu gọi các tín hữu canh tân cuộc sống, từ bỏ lối sống cũ, con người cũ, để sống đời sống mới, công chính và thiện hảo hơn theo mẫu gương Chúa Kitô.

Ước mong mỗi người kitô hữu biết sử dụng và sống thời gian Mùa Chay thánh này như là cơ hội để đổi mới chính mình trở nên thành con người mới trong Chúa Kitô.


LM Phêrô Nguyễn Văn Hương

Mùa chay 2015

Chút ánh sáng cho cuộc đời,

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”,
Cất tiếng hát cho một Người.
Có mắt biếc soi nụ cười.
Tươi như cánh hoa tình ái.

(Nhạc: Les amoureux qui passent – Lời: Nam Lộc – Một thời để yêu)

Trần Ngọc Mười Hai

(Gv 7: 13-15)

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”, là thời để yêu sao? Có chắc thế không, hỡi bạn già tên Nam Lộc? Sao tôi đây, hát cũng nhiều lời lẽ của bạn vẫn từng viết, hoặc trích-dịch, mà vẫn cứ thấy cuộc lại ra khác, như câu hát tiếp theo do bạn diễn-tả:

“Đã biết nói yêu một lần
Sẽ thấy đớn đau thật gần
Sẽ thấy nắng phai nhạt dần
Khi vương vấn trong tình yêu.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Thôi thì, cứ coi là thế đi. Thôi thì, cứ coi như hành-xử của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa mới đây, đối với Giáo-triều La Mã, cũng hệt thế.  Thôi thì, cũng cứ hát như thế để rồi ta lại thêm vào đó lý-do khiến mình hát nó vào lúc này, để làm nền. Như câu tiếp, còn đáng kinh khiếp hơn:

“Đời là một thời để yêu
Yêu trong bóng đêm lẻ loi
Yêu cho bao nỗi đắng cay
Yêu cho quên từng ngày tháng

Tình là một lần được mơ
Mơ trong bóng đêm lẻ loi
Có những chiếc lá úa rơi
Rồi chơi vơi vào trời tối ..”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Phải thế không? “Tình là một lần được mơ? Mơ trong bóng đêm lẻ loi”? Mơ sao được, khi tình còn đó rất thực, chứ chẳng phải là giấc mơ hay giấc mộng gì ráo trọi.

Phải thế không? Khi chính đấng chủ quản Giáo Hội ở Rôma, lại đã dám dùng dao nhọn mổ xẻ để dứt bỏ khối u của căn bệnh? Mơ thế nào đây, khi chính miệng Đức Giáo chủ lại nói ra lời lẽ rất đáng khiếp sợ, tương tự như:

“Giáo-triều được kêu gọi cải-tiến, luôn cải-tiến và tăng-trưởng trong hiệp-thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng Giáo triều cũng như mỗi thân thể con người cũng có thể bị bệnh, hoạt-động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây, tôi muốn liệt-kê vài căn-bệnh có thể xảy ra, là những bệnh của Giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của Giáo-triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa-mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn-bị lãnh-nhận bí-tích Hoà-giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh…” (x. Mười Lăm Căn Bệnh của Giáo triều Rôma cần chữa trị www.chuacuathe.com 22/12/2014 ở “các mục chính”

15 căn bệnh của Giáo triều đã được kể. Con dao mổ xẻ đã và sẽ được dùng đến để làm công việc của vị chữa lành, trong Hội thánh. Vấn-đề ở đây hôm nay, không là: kể đi kể lại những bệnh-tật của Giáo-triều hay cá nhân nào ở trong đó, để rồi sẽ bị dứt bỏ, như từng thấy hôm trước qua sự việc “Đức Phanxicô cách chức tư lệnh vệ-binh Thụy Sỹ” (x. www.bbc.co.uk.anzeigen 22/12/2014)

15 căn-bệnh nói ở đây, không chỉ là bệnh của Giáo-triều La Mã, như mọi người từng biết đến. Nhưng, (lại chữ “nhưng” rất đáng sợ) vấn-đề cần cứu xét ở đây, là câu kết thúc của Đức Phanxicô, về căn-bệnh ấy, như sau:

“Căn bệnh và cơn cám dỗ ấy cũng là nguy-cơ của mỗi Kitô-hữu, mỗi giáo-xứ, cộng-đoàn, dòng tu, các phong-trào Giáo-hội trên bình diện cá-nhân và cộng-đoàn. Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân-lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này…” (xem thêm Trần Đức Anh OP, tin Vatican 22/12/2014 đọc vào những ngày rong chơi ở Tibet & Nepal cuối năm 2014)

Điều cần bàn ở đây, là ta cứ “phiếm” thêm cho rộng đường dư-luận để rồi đi đến một kết-cuộc khá tốt đẹp, trong đời người.

Điều, mà bạn và tôi, ta cứ muốn bàn và cứ thế mà làm vào lúc này, là nhìn vào những chuyện vui tươi, tích cực có giòng chảy thi-ca, âm-nhạc để gợi hứng cho một cuộc sống đầy lạc quan hơn.

Nghĩ thế rồi, xin mời bạn và mời tôi, ta hát tiếp những câu ca đầy ý-nghĩa, rất như sau:

“Có biết đắng cay một lần

Mới tiếc nuối ân tình này

Mới biết nhớ mong từng ngày

Như khi thấy nhau lần cuối


Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..


Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Nói thế rồi, bần đạo nay xin “phiếm” tiếp về những chuyện xảy ra trong đời mình/đời người, như sau:

Bần đạo có người anh rể cũng họ Phạm tên đệm có chữ Duy nhưng tên gọi lại Cử, Phạm Duy Cử hẳn hòi, chứ không không phải Duy Cường, Duy Quang hoặc Duy Nhượng rất nổi cộm xưa nay… Giáng Sinh 2014 vừa rồi, anh viết cho bần đạo những giòng chữ “để đời” về tình hình và tâm tính của người cao niên, như thế này:

Tôi và chị của chú vẫn bình thường, rất rảnh việc nên hay tranh cãi (không phải là cãi nhau đâu) về đủ mọi thứ việc thời sự, quốc nội, quốc ngoại, chuyện ngày nay/ngày xưa. Ai cũng muốn thắng. Phán bảo như cha cố, là bệnh của người già. Tôi có đi hỏi các bạn già của tôi về chuyện này, thì mọi người cho biết đây là bệnh rất hay lây, nhà nào cũng bị không biết bên đó có bị vậy hay không?” – và hình như các bà đều thắng cả mà mấy ông bạn tôi cũng y hệt như thế.” (Trích thư viết tay của người anh rể họ Phạm trong gia đình họ Trần, hôm 24/12/2014 đang ở Mỹ)

Rất đúng là như thế, phải không hỡi bạn và tôi? Nay, hãy đi vào đời, sẽ  được nghe những truyện kể rất dễ nể, nhưng ít được nghe. Vậy thì, xin mời bạn mời tôi, ta cứ thử nghe xem rồi suy nghĩ về câu chuyện cũng thoáng chốc như sau:

“Tôi ngồi cùng người bạn trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice, Ý, thành phố của ánh sáng và nước.

Khi chúng tôi thưởng thức cà phê, một người đàn ông bước vào và ngồi xuống chiếc bàn trống bên cạnh chúng tôi. Anh gọi người phục vụ và nói:

– Hai ly cà phê, một ly trên bức tường kia.

Chúng tôi khá quan tâm khi nghe gọi thức uống như thế và quan sát thấy người đàn ông được phục vụ một ly cà phê nhưng trả tiền cho 2 ly. Khi anh đi khỏi, người phục vụ dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Trong lúc chúng tôi còn ngồi đó, hai người đàn ông khác vào quán và gọi 3 ly cà phê, 2 ly trên bàn và 1 ly trên tường. Họ uống 2 ly cà phê nhưng trả tiền cho 3 ly và rời đi. Lần này cũng vậy, người phục vụ làm tương tự, anh dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Có điều gì đó làm chúng tôi thấy lạ và khó hiểu. Chúng tôi uống hết cà phê, trả tiền rồi rời đi. Vài ngày sau, chúng tôi có dịp quay lại quán cà phê này. Trong lúc chúng tôi đang thưởng thức cà phê, một người đàn ông ăn mặc tồi tàn bước vào. Khi anh ngồi xuống ghế, anh nhìn lên tường và nói:

– Một ly cà phê trên tường.

Người phục vụ mang cà phê đến cho anh với sự tôn trọng như thường lệ. Người đàn ông uống cà phê và đi khỏi mà không trả tiền. Chúng tôi ngạc nhiên chứng kiến tất cả sự việc, lúc người phục vụ tháo một mảnh giấy trên tường và bỏ nó vào thùng rác.

Giờ thì chúng tôi không còn ngạc nhiên nữa – sự việc đã rất rõ ràng. Sự tôn trọng tuyệt vời dành cho người nghèo được thể hiện bởi các cư dân ở thị trấn này đã làm đôi mắt chúng tôi đẫm lệ. Hãy suy ngẫm những điều người đàn ông này mong muốn. Anh bước vào quán cà phê mà không phải hạ thấp lòng tự trọng… Anh không cần xin một ly cà phê miễn phí… không cần hỏi hay biết về người đang cho anh ly cà phê này… anh chỉ nhìn vào bức tường, gọi thức uống, thưởng thức ly cà phê của mình và rời khỏi quán. Một ý nghĩ thật sự đẹp. Có lẽ đây là bức tường đẹp nhất mà bạn từng nhìn thấy. (truyện kể rút từ điên thư trên mạng năm 2015)

Kể như thế, là kể về những sự-kiện xảy ra trong đời, với mọi người. Tiếp đến là những đoạn ngắn cũng được kể trên mạng do bạn bè chuyền cho nhau trong lúc “trà dư tửu hậu” rất một “thời để yêu và để…cãi” như truyện kể ở bên dưới:

Một ông nhà binh nhanh chân phát biểu truớc:

– Các ông có biết không?  mỗi cuối tuần tôi chở vợ đi chợ, tôi đẩy xe theo sau bà.  Mua đầy xe, tôi hỏi bả “Về chưa?”  Bả nói ông chở cho tôi lại chợ khác mua một chai nước mắm.  Tôi hỏi  “Sao bà không mua ở đây luôn.”  Bả nói:  “Ở đây nước mắm tới $2.99, còn chợ kia chỉ có $2.88”. Từ chợ nầy đến chợ kia lái xe 45 phút, bả quên tính tiền xăng. Tôi với bả bắt đầu… cãi.

Ông nhà binh chen vô:

– Còn tôi, khi lái xe, tôi quẹo tay phải, bả nói sao ông không quẹo tay trái. Tôi chạy nhanh, bả kêu tôi chạy chậm lại. Tôi chạy chậm, bả nói ông chạy như rùa bò. Tôi nói: “để tôi order hãng xe Toyota chế cho bà xe có 2 tay lái, để bà khỏi lái xe bằng miệng”.  Và, thế là cãi nhau.

Ông nhà bếp lắc đầu và kể chuyện ông nghe đuợc như sau:
– Có ông kia lái xe chở bà vợ ngoài xa lộ,chạy nhanh, bị cảnh sát quay đèn chận lại.  Cảnh sát hỏi “Ông có biết lỗi gì không?”  ông chồng chưa kịp trả lời, bà vợ tươm tướp la lên!  “Tôi đã nói ông rồi, ông chạy bạt mạng 7, 8 chục miles có ngày bị phạt mà ông không chịu nghe.”
Ông chồng  giận dữ la bà vợ:
– Để tôi lo, bà im cái mồm bà lại đi.
Không ngờ ông Cảnh Sát này là người Việt, nghe được tiếng Việt, hỏi bà vợ:
– Bộ ông chồng bà ở nhà cũng nạt nộ bà như vậy phải không?
Bà vợ liền trả lời:
– Đâu có.  Bữa nào ổng uống rượu say, ổng mới la như vậy.

Ông chồng nhận 1 ticket vượt tốc độ và 1 ticket uống rượu lái xe. Thế là vợ chồng lại cãi nhau.

Ông nhà binh nghe nói nãy giờ nhảy vô:
– Bà ngoại con Tép của tôi cũng không thua ai.
Bả nói với tui: “Sao tôi thấy ông ở Mỹ mấy chục năm rồi mà không hội nhập đuợc gì hết.”
Tôi tức quá:
– Bà không thấy tôi hội nhập sao? Ai cao máu, tôi cũng cao máu, ai cao mỡ, tôi cũng cao mỡ, ai tiểu đường, tôi cũng tiểu đường, tôi còn hơn nguời ta cái thấp khớp nữa.  Bà còn muốn tôi hội nhập gì nữa?
– Bà ngoại còn  nói: “Ý tôi muốn nói là ông không biết galant như nguời Mỹ, mở cửa xe cho vợ, mua bó hoa tặng vợ ngày Birthday, ngày Valentine.” …
– Trời ơi! Tôi cũng  muốn mở cửa xe cho bà lắm chứ, nhưng sợ người ta nhìn vào, người ta nói: “Thân bà một đống, cọp ăn 3 ngày không hết, bộ bà đó bị bịnh bại liệt gì mà không mở cửa xe được”. Còn birthday của bà, tôi mua cho bà 1 bó rau muống, 1 bó hành, 1 bó ngò, bà còn muốn gì nữa.

Thế là ông bà ngoại của con Tép bắt đầu cãi.

Ông nhà văn nãy giờ ngồi trầm ngâm,cuời mím chi, chậm rãi kể:
– Có một ông chồng đi sau xe chở quan tài của vợ đưa ra nghĩa trang. Ông bạn đi gần bên thấy ông này sao cái miệng nhép nhép như đọc kinh. Ông bạn tò mò đến gần hơn, thì nghe ông này không phải đọc kinh, mà ông ấy đang hát. Ông bạn hỏi: “Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát?”
Ông chồng trả lời:

– Từ ngày cuới bả đến giờ, chỉ có hôm nay tôi đi chung với bả mà không cãi nhau”

Ông nhà bếp chen vô một chuyện khác.Ông kể năm rồi, ông phải mổ van tim. Bà vợ ngồi kế bên than:  “Ông ơi, ông chết tôi chết theo”

Ông hoảng hồn: “Thôi bà ơi, để tôi đi một mình cho thanh thản, khỏi phải đi chung, khỏi phải cãi với bà.” (lại vẫn trích những câu truyện vụn vặt trên mạng)

Kể gì thì kể. Truyện gì cũng kể và cũng cứ kệ. Bạn và tôi ta cứ bàn và cứ kể cho nhau những chuyện vui buồn trong ngoài nhà Đạo, để còn sống. Sống vui tươi, mạnh-mẽ đời hôn-nhân vợ-chồng, cũng nên thêm đôi điều từ nhà mô-phạm nọ ở Úc rất như sau:

“Ngày nay, khi lấy nhau, người ta lại cứ chịu áp-lực từ nhiều phía. Với nền văn-hoá chú-trọng nhiều vào sự chất đầy cho bản thân mình được nhiều thứ, những thứ đòi có sự đồng-đều cho mọi người và mọi nhà, thì khó có thể duy-trì tình thương-yêu được sống sót. Thành thử ra, mọi kỳ-vọng trước đây ở hôn-nhân cũng đổi thay đã rất nhiều. Và từ đó, mỗi bên mỗi phía trong các cặp phối-ngẫu ở nhiều nơi, nay khác biệt nhiều về những trông mong và kỳ vọng cho chính mình. Kỳ vọng, có được sự quân-bình tinh-tế giữa sự phụ-thuộc và độc-lập. Giữa cả việc chăm lo săn sóc cho người phối ngẫu phiá bên kia, lẫn việc người kia phải lo phải chăm cho chính mình, phía bên này. Những kỳ vọng về nhu-cầu riêng rẽ lẫn rất chung của cả hai. Thành thử, trong hôn-nhân luôn có sự dè chừng và căn dặn: đừng phá bỏ con tàu chuyên chở hai chúng mình là hai người đồng hội đồng thuyền, suốt cả đời. Bởi, nếu bạn làm vậy thì một trong hai chúng ta sẽ bị chìm. Thật cũng không đáng để làm thế”. (xem thêm Margie Ulbrick, Keeping Love Alive, The Majellan Family October-December 2014, tr. 13-15)

Mỗi lần nhắc đến “một thời để yêu và để ghét, có…cãi vã”, bần đạo đây lại nhớ Sách Giảng Viên ở Cựu Ước, có những đoạn và những câu nói rất rõ về lập trường tư-tưởng còn sớm sủa, chưa ai nghĩ. Những lời tương-tự còn hằn in trong tâm trí của mỗi người.

Nhưng, giở sách này ra đọc, bần đọc lại cứ dán mắt vào những câu, như sau:

Hãy ngắm xem việc Thiên Chúa làm :
Người đã bẻ cong, nào ai uốn thẳng được ?
Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng.
Ngày bị rủi ro, hãy gẫm mà xem :
Ngày nào cũng do Thiên Chúa làm nên,
vì thế con người không thể khám phá
những gì sẽ xảy ra sau khi mình nhắm mắt xuôi tay.
Xét lại quan điểm truyền thống về sự thưởng phạt
Trong đời phù du, tôi đã thấy hết cả:
có người công chính bị tiêu vong dù sống công chính,
có kẻ gian ác lại sống lâu dù làm điều ác.

(Gv 7: 13-15)

Thế mới biết, như câu đầu tiên dẫn vào Sách này, lại thấy nói:

“Đây lời ông Côhelét, vị vua ngự ở Giêrusalem, đã từng nói:

“Phù vân, quả là phù vân.

Tất cả chỉ là phù vân.

Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả

dưới ánh nắng mặt trời?

Thế hệ này đi, thế hệ kia đến,

nhưng trái đất mãi mãi trường tồn.5

Mặt trời mọc rồi lặn;

mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên.”

(Gv 1- 1-4)

Thế mới biết, cả đến trời trăng, tinh tú hùng-hổ là thế, cũng đều phù-vân, chóng qua.

Thế mới hay, có là gì đi nữa, rồi cũng hết và cũng chóng qua/giả dối, thế mới tỏ. Bởi, có là gì đi nữa, rồi thì cái “gì” đó cũng qua đi, như con người và cuộc đời. Vậy thì, tội gì mà không nghĩ và hát những lời hay ho, ý-nhị như tác giả trên từng mời hát những lời như thế:

Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Hát thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ thế mà hãnh-tiến, hiên ngang mà sống mãi. Sống như những người từng hãnh-diện về cuộc sống của chính mình, trong giản đơn, hài hoà, đầy sức sống. Sống thế rồi, ta và người lại sẽ hiên ngang cùng đứng lên cùng người khác sống vui, sống mạnh, sống rất vững trong Đạo/ngoài đời cũng vui tươi, đáng sống cả một đời.

Bần đạo đây chắc chắn một điều là: dù có “một thời để yêu và để…cãi”, thì giờ phút cuối vẫn cứ như câu kết trong bài hát:

“Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn quan-niệm là như thế.

Mãi trong đời.

Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,

Tin Mừng Ga 3: 14-21

Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.

“Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,”

“Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng,

Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Mùa Chay hôm nay, nhà thơ thấy chơi vơi trên chín từng mây, đầy khí hậu. Trời linh thiêng, ánh sáng tan vào hư lãng, đổi sắc mầu. Tan, là để kêu gọi dân con rày cải hối.

Trình thuật thánh Gioan hôm nay, kêu gọi mọi người hãy cải hối. Hối cải, trong tuân giữ mọi điều răn. Điều răn hôm nay, Thầy Chí Thánh chú trọng đến tình thương đặc biệt, rất đặc biệt:“Thương yêu Thầy, sẽ được Cha của Thầy yêu mến.” (Ga 3: 21).

Trình thuật, nay cũng đề cập một lúc hai chủ đề: hăng say cải hối/ yêu mến giữ giới răn. Ở bình diện cao hơn, thánh Gio-an có nói: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngài trở nên nhân-tố cứu độ của Chúa Cha. Ngài cứu độ, không phải duy nhất cho phạm nhân nào đó, từng nên tội. Mà, toàn bộ tình huống đầy lỗi phạm, của thế trần. Chúa nhật hôm nay, còn là Chúa nhật Hồng, nhằm dẫn dắt ta đến gần hơn, vào với ơn cứu độ, rất đích thực.

Trình hôm nay, thánh sử lại đã so sánh Đức Chúa với Môsê. Cả hai đấng, là nhân-tố trong chương trình cứu độ, cho dân Ngài. Cụ thể, là Do Thái dân xưa cũng từng phiền than/oán trách cảnh huống mình hứng chịu. Chính vì thế, Môsê mới giơ cao “rắn đồng trên gậy”, như được kể trong Cựu Ước: “Nếu rắn cắn nhằm ai, người ấy cứ trông lên rắn đồng này, là được sống.” (Ds 21: 9)

Thánh sử còn thấy nơi đây, cũng một ảnh hình việc Chúa nâng cao chính mình Ngài, như rắn đồng. Với thánh Gio-an, “nâng cao” ở đây, bao gồm việc Ngài tự nâng chính Ngài trên thập giá. Và cả, việc Ngài được tự nhấc mình lên cao với Chúa Cha. Trong quang vinh. Vĩnh hằng. Bằng vào tiến trình cứu độ trọn vẹn, ai tự nâng nhấc/ngước mình lên với Chúa qua tin yêu/giùm giúp, sẽ lĩnh nhận cuộc sống vĩnh cửu, Ngài hứa ban. Và, cuộc sống thân thương Nước Trời như thế, sẽ không bị lấy đi.

Ở đây, tất cả đều là dấu hiệu chứng tỏ tình yêu của Đức Chúa. Tình yêu Ngài, được thể hiện qua việc Cha hy sinh Người Con của Ngài, để con người hưởng được cuộc sống an vui, vĩnh cửu. Đức Chúa chấp nhận hy sinh, là để cứu/chữa, chứ không phải để phê bình/lên án thế giới loài người. Quả vậy, chẳng người nào tự nhấc mình đặt để nơi vòng tay yêu thương của Đức Chúa, mà lại bị phê bình, lên án. Và, cũng chẳng khi nào là “quá trễ” để ta đặt mình vào động thái tự nâng nhấc, trong niềm tin yêu, của Nước Trời.

Trái lại, ai khước từ, dù chỉ một niềm tin thôi, cũng sẽ bị lên án ngay khi đó. Việc lên án, không nhằm đeo đuổi hướng nhắm những người đang theo niềm tin nào khác. Đạo khác. Tín ngưỡng khác. Hoặc, cả đến thị kiến khác, về cuộc sống. Việc phê bình/lên án chỉ xảy ra, đối với ai cương quyết chọn bóng tối, hơn là lựa sự sáng. Chọn bóng tối, tức: sống đời tệ bạc, có những hành vi phi luân lý. Như: giận hờn, ghét ghen, thay vì yêu thương. Hận thù/trả đũa, thay vì tha thứ. Hoặc, như: tham lam bạc tiền/vơ vét của cải, thay vì san sẻ. Nhận thật nhiều, cho thì ít. Ít cho, những gì liên quan đến sự sống. Ít cho, những gì mình trân quý.

Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ. Sẽ cùng họ, tiến về cùng Chúa.       

Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa.

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai. Lên án. Bình phẩm. Chính những người này, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ. Bởi những thành kiến. Huý kỵ. Và ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

Bài đọc 2, gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu. Ngang qua ta, mà thôi.

Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự. Trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người.

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Vietnam map

Vietnam map

Trà Mi-VOA

06.03.2015

Văn hóa, đạo đức của người Việt đã xuống dốc tới mức ‘chạm đáy.’ Đó là nhận xét của một Giáo sư-Tiến sĩ Khoa học danh tiếng trong nước chuyên nghiên cứu văn hóa-xã hội Việt Nam trên 20 năm nay.

Bình luận của Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận-Ứng dụng thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Trần Ngọc Thêm, được đưa ra giữa lúc cách hành xử hung hãn, bạo lực, giành giựt của người Việt đang gia tăng báo động và hình ảnh người Việt càng ngày càng trở nên xấu xí hơn trong mắt của nhau và của bạn bè quốc tế.

GS-TS Trần Ngọc Thêm đã dành cho VOA Việt ngữ cuộc trao đổi phân tích nguyên nhân và đề ra những khuyến nghị nhằm giải quyết vấn nạn xã hội nhức nhối này.

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Cách hành xử của con người càng ngày càng tệ hại. Nguyên nhân thứ nhất là do việc chạy theo đồng tiền, chạy theo vật chất. Cái này dính tới kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường không phải làm nên cái này. Cũng là kinh tế thị trường nhưng ở nhiều nước phát triển khác không có những chuyện lộn xộn như thế. Vấn đề ở chúng ta là các hệ giá trị đang bị đảo lộn. Các giá trị văn hóa truyền thống vốn thích nghi với môi trường ổn định, làng xã, nông nghiệp-nông thôn đang bị phá vỡ. Cái cần phải có, hệ giá trị mới của một xã hội đô thị, công nghiệp, hội nhập chưa hình thành xong. Vì vậy, xung đột dẫn tới sự đảo lộn. Lẽ ra phát triển kinh tế phải song hành với văn hóa. Văn hóa là nền tảng cho phát triển kinh tế. Nhưng ở ta, đáng tiếc là vế thứ hai chưa làm được.

VOA: Làm thế nào có thể thoát khỏi những cái chưa hay, chưa đẹp của nền văn hóa nông nghiệp trong thời đại xã hội công nghiệp hiện nay, thưa GS?

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Chúng ta thoát là thoát khỏi những tật xấu không còn thích hợp nữa, những hậu quả của văn hóa truyền thống mà giờ không thích hợp trong môi trường mới. Cần phân tích đầy đủ các nguyên nhân. Nguyên nhân kinh tế không đi cùng văn hóa là một. Nguyên nhân khác nữa là luật pháp của ta không nghiêm. Cho nên, cần phải thúc đẩy sự phát triển văn hóa, xây dựng văn hóa con người và phải xây dựng một nhà nước pháp quyền, tất cả tuân thủ theo luật pháp. Việc thứ ba, về mặt quản trị xã hội, do ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, trong mọi mối quan hệ có sự thiêng vị, không công bằng, không minh bạch, dẫn tới người dân có những uẩn ức, không hài lòng nhưng không giải thoát ra được ở đâu, kết quả là rất dễ xảy ra những điều như đang thấy. Cũng từ văn hóa truyền thống tạo ra tính cộng đồng ‘hội chứng đám đông.’  Ví dụ khi tham gia lễ hội, chỉ cần một người dùng sức mạnh chân tay thì dễ lây lan.

Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn

Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn

Đặng Hoàng Giang Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Hà Nội

  • 4 tháng 3 2015

BBC

Cảnh phân phát quà cho trẻ em dân tộc thiểu số

Từ sau khi đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai khánh thành, lượng khách tới Sapa tăng đột biến. Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, ô tô và xe khách biển số 29 và 30 chen chúc nhau nhích từng tí một trên những con phố dốc và hẹp ở trung tâm, rú ga giữ máy, bấm còi inh ỏi.

Buổi tối, ở quảng trường nhà thờ, nhạc disco được mở to hết cỡ, tiếng bass làm vạt áo rung bần bật. Các buổi sáng, du khách chen lấn nhau để xuống thung lũng “thăm quan” các bản, lượng iPad nhiều hơn số lợn con nằm vầy đất ven đường.

Không còn nhìn thấy núi non gì nữa vì hai bên đường đã kín hàng quán bán đồ lưu niệm. Trẻ con Hmong xếp hàng đợi được phát bánh kẹo như là khỉ trong sở thú.

Những đứa bạo dạn hơn thì đi giật lùi trước mặt khách, chúng từ chối kẹo, chỉ nhận tiền, và đồng thanh kêu như những cái máy vô hồn, tiếng Kinh không sõi “cô cho hai nghìn, cô cho hai nghìn”. Một cộng đồng và một vùng thiên nhiên đã đánh mất nhân phẩm của mình vì du lịch.

Đi du lịch là một sở thích khá mới của người Việt. Tới tận giữa những năm 1990, Sapa vẫn còn là một thị trấn xanh, yên tĩnh và thanh bình, du khách chủ yếu là người nước ngoài. Hồi đó, không có một người Kinh nào quan niệm leo lên đỉnh Phan Si Pang là một việc đáng làm, đấy là việc chỉ người Hmong “phải” làm để mưu sinh.

Cũng giống như ở phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ II, phong trào đi du lịch của người Việt dần dần lớn mạnh khi có đủ ba yếu tố hội tụ.

Thứ nhất, thu nhập đã vượt qua những nhu cầu tối thiểu. Thứ hai, quỹ thời gian rộng rãi hơn, người ta không phải đầu tắt mặt tối lo cho cuộc sống nữa. Thứ ba, cơ sở hạ tầng, nghĩa là phương tiện đi lại, dịch vụ khách sạn và ăn uống, đã tốt lên, để cho việc xê dịch không còn vất vả nữa.

Những yếu tố đó làm thay đổi thái độ của người ta với việc di chuyển, chuyển từ quan điểm “xểnh nhà ra thất nghiệp” tới chỗ coi việc ra khỏi nhà như một thú vui, một sự hưởng thụ.

Thậm chí, để thoát khỏi cái buồn chán của cuộc sống công sở hàng ngày ở một thành phố lớn, người ta còn tìm tới cái vất vả như một cuộc chạy trốn ngắn ngủi, tất nhiên bởi người ta biết là cái vất vả này là hữu hạn về mặt thời gian, và các rủi ro nằm trong vùng được kiểm soát. Các phong trào phượt, phong trào đạp xe, phong trào “leo Phan” ra đời.

Lũ lượt đi chơi

Cái đang xảy ra ở Sapa là sự hoành hành phá phách của hiện tượng du lịch đại trà (mass tourism) và chính sách phát triển phục vụ nó.

Giờ đây, tình hình đã khác hẳn. Năm ngoái có gần 4 triệu lượt người Việt đi du lịch nước ngoài, cộng với 40 triệu lượt khách nội địa, tổng lại là bằng một nửa dân số quốc gia. Nhìn xung quanh, ta thấy mỗi gia đình đều lên kế hoạch cho một vài chuyến đi trong năm. Với người Việt trung lưu, du lịch đã trở thành một sinh hoạt cơ bản, như mua sắm hay đi nhà hàng.

Khoảng khắc cho đồ đạc lên ô tô để lên đường bao giờ cũng là một trong những khoảnh khắc phấn khởi nhất của cả gia đình trong năm, và hình ảnh người bố trẻ lái xe trên xa lộ, người mẹ trẻ gọt hoa quả ở ghế bên cạnh, ở đằng sau là hai đứa con chụm đầu chơi iPad, truyền tải một trong những cảm giác sống viên mãn nhất của Việt Nam đầu thế kỷ 21.

Du lịch là con ngỗng đẻ trứng vàng với nhiều địa phương, họ giàu có lên trông thấy nhờ vào nguồn thu từ du khách, nếu “giàu có” được đo bằng số lượng nhà cao tầng mới xây và số ô tô chạy trên đường. Cái mất mát thì không ai lượng hoá được. Thờ ơ hoặc không ý thức được mặt trái xấu xí của du lịch, phần lớn các chính quyền địa phương tiếp tục cổ suý vô điều kiện cho “ngành công nghiệp không khói” này như một hướng phát triển văn minh và tiến bộ.

Cái đang xảy ra ở Sapa là sự hoành hành phá phách của hiện tượng du lịch đại trà (mass tourism) và chính sách phát triển phục vụ nó. Chính sách này có thể được gói gọn trong một mục tiêu: càng nhiều khách càng tốt. Để tiếp tục với ví dụ Sapa: số lượng khách tới đây vào năm 1991 là 2 000.

Năm 2002, con số này là 60 000 người. Nhưng riêng trong đợt nghỉ Tết Nguyên đán 2015 vừa rồi số du khách đã là 50.000 người.

Sapa đang bị phá hủy vì cách làm du lịch?

Trong cuốn “Quá tải: kinh doanh du lịch bùng nổ”, tác giả Elizabeth Becker gọi du lịch là một ngành công nghiệp toàn cầu tàn bạo, một con dao hai lưỡi, hứa hẹn thu nhập và việc làm cho bên chủ nhà, và các trải nghiệm để đời cho bên khách, nhưng cùng lúc cũng có sức tàn phá khủng khiếp với môi trường, văn hoá và cộng đồng.

Số phận của các địa điểm du lịch tầm cỡ khác của Việt Nam cũng tương tự như Sapa. Ở vịnh Hạ Long, mỗi ngày 20.000 du khách được đưa đến và chuyển đi như gà con trên băng chuyền, sau khi trực tiếp xả thẳng phế thải của mình xuống dưới biển.

Ở Phú Quốc, mùi nắng gió, mùi nước mắm, các đồn điền tiêu, những làng chài, tâm hồn và cá tính của hòn đảo, đang biến mất dần. Thay vào đó là chi chít hàng quán, biển hiệu rối rắm, như một thị trấn vô hồn bất kỳ nào khác.

Người ta xẻ rừng quốc gia để đặt vào đó các lâu đài nhái kiểu cổ tích châu Âu chóp nhọn loè loẹt xanh đỏ, những cây thông và bãi cỏ ôn đới lạ lẫm với khí hậu địa phương, biến một thiên đường nhiệt đới tự nhiên thành một “thiên đường” bê tông nhân tạo.

Du lịch đại trà là một hiện tượng toàn cầu, nhưng nó gây ra tác hại nhiều nhất ở các nước đang phát triển, vì sức chống cự của những nước này, cả từ nguồn lực tài chính lẫn trình độ quản lý yếu kém hơn. Ở Angkor Wat, gần đây các ngôi đền bắt đầu bị lún vì mực nước ngầm hạ thấp do mức tiêu thụ nước của các khách sạn liên tục tăng lên.

Ám ảnh nhất với tôi là Vang Viêng ở Bắc Lào. Nằm bên bờ sông Nam Song, được vây xung quanh bởi các dãy núi đá vôi trùng điệp, cái làng nhỏ duyên dáng và xinh xắn này bỗng nhiên trở thành nơi các thanh niên phương Tây tập kết để ăn chơi như không có ngày mai. Họ tụ tập ở các bar trải dài 4 km dọc bờ sông, ăn pizza trộn với cần sa, nốc whisky đựng trong các bát ô tô nhựa, nhảy nhót trong tiếng nhạc rầm rầm, rồi nằm trong xăm ô tô lao mình xuống nước xoáy để tiêu khiển. Sau mấy chục ca tử vong chỉ trong vòng một năm, chính phủ Lào phải ra tay dừng cuộc vui lại.

Mức sống chung cao lên, các đường bay giá rẻ ra đời, càng tạo điều kiện cho du lịch đại trà phát triển. Thậm chí, người ta bắt đầu dùng tới thuật ngữ “du lịch siêu đại trà” (mega-mass tourism) để mô tả hiện tượng này.

Đầu thế kỷ 21, Giáo hoàng John Paul II phê phán du lịch đại trà là một hình thức bóc lột mới, nó “biến văn hoá, các nghi lễ tôn giáo, và các lễ hội dân tộc thành những sản phẩm tiêu dùng” khi khách du lịch tìm tới những cái mới lạ một cách hời hợt và không muốn tiếp xúc thực sự với văn hoá bản địa.

Thật vậy, trong trường hợp Sapa, điều quan trọng nhất với các du khách là câu hỏi ăn lẩu cá hồi ở đâu và mua rượu táo mèo chỗ nào. Không ít người lên đây vì bạn rủ đi để “có người uống cùng cho khỏi buồn.” Văn hoá, thể hiện qua đám người dân tộc ăn mặc sặc sỡ và những cái ruộng bậc thang, sẽ chỉ là cái phông cho các bức selfie.

Chả ai bỏ công ra tìm hiểu về lịch sử, tín ngưỡng, xung đột xã hội, hoàn cảnh kinh tế của người dân ở đây. Có lẽ yếu tố “văn hoá” duy nhất mà khách quan tâm là cái chợ tình như là cái gì man di đáng yêu của “bọn nó”, nhưng đằng nào nó cũng biến mất từ nhiều năm nay rồi – cũng vì du lịch.

Đấy là chưa nói tới chuyện sắp tới sẽ có nhiều hội thảo, tập huấn, tổng kết, liên hoan v.v… được tổ chức ở Sapa, ngạch này gọi là du lịch – công việc (business tourism). Loại du khách này thường không đi cùng gia đình, nên chắc lúc đó sẽ mọc lên nhiều tiệm massage và karaoke thư giãn với các cô gái miền Tây Nam Bộ đổ về cạnh tranh với con gái địa phương.

Chầu rìa trên quê hương?

Nhìn những gì người ta đang tiếp tục làm với Sapa mà thấy đau lòng. Các khách sạn khổng lồ tám, chín tầng vẫn đang xẻ núi mọc lên, nhiều khi chỉ cách cái bên cạnh một con phố nhỏ, xe không quay được đầu.

Đảo qua một vòng trên báo chí, cũng thấy nhắc tới các “thách thức” du lịch ở Sapa, nhưng hoá ra đó chỉ là các vấn đề “cháy” phòng và khan hiếm chỗ đỗ xe. Chính quyền địa phương cam kết sẽ ưu tiên giải quyết để “Sapa ngày một vui hơn.”

Sắp tới, cáp treo sẽ làm hàng trăm người đang khuân vác phục vụ khách leo núi mất việc. Họ sẽ ra nhập đám vợ con họ đang lang thang hàng ngày ở thị trấn.

Cáp treo lên đỉnh Phan Si Pan cũng đang được thi công. Ở độ cao 3000 m, người ta đang phá đá để tạo ra một khu vực rộng gần 8 ha, một diện tích rất lớn ở độ cao chênh vênh đó. Quần thể ga đến sẽ có “khu dịch vụ du lịch, khu tham quan, công viên văn hoá tâm linh và một tượng Phật khổng lồ”.

Cáp treo có công suất 2000 người một giờ, nghĩa là khi đi vào hoạt động sẽ cho phép mười mấy nghìn người lên đỉnh núi mỗi ngày, quanh năm, ngày nào cũng như ngày nào, thay vì con số hiện nay chỉ là mấy chục người một ngày leo đường bộ, và chỉ trong 6 tháng mùa khô.

Còn những người dân tộc, những người thực ra là chủ từ bao đời của vùng núi này, họ được gì từ tất cả những cái này? Hiện nay, mỗi du khách tới Sapa sau khi bỏ ra 1 triệu đồng cho việc đi lại, khách sạn, ăn uống – tất cả chảy vào túi người Kinh, kể cả tiền cho một chai nước trắng – thì mới bỏ ra 10 nghìn mua mấy cái đồ thổ cẩm của người dân tộc. Thậm chí nhiều hướng dẫn viên du lịch còn dẫn khách tới các cửa hàng bán thổ cẩm nhập từ Trung Quốc vì họ được hoa hồng từ đây.

Người thiểu số đang ra rìa ngay trên quê hương họ

Và như vậy, những người Hmong, người Dao, người Tày, người Giáy, sẽ chủ yếu là đứng chầu rìa ở ngay trên quê hương họ. Sắp tới, cáp treo sẽ làm hàng trăm người đang khuân vác phục vụ khách leo núi mất việc. Họ sẽ ra nhập đám vợ con họ đang lang thang hàng ngày ở thị trấn.

Họ sẽ không để cho du khách yên, sẽ táo tợn, sẽ đeo bám quấy rầy cho tới khi khách mua hàng mới thôi, sẽ hét “no money, no photo.”

Buổi trưa, khi các đoàn khách bận rộn với món lợn mán nướng bên trong các quán ăn, họ sẽ ngồi trên bậc thềm bên ngoài, ngước nhìn lên để thấy ngọn “Hủa Xi Pan” của mình, một biểu tượng của thiên nhiên hùng vĩ, nóc nhà chung của họ từ hàng trăm năm nay, bỗng nhiên trở thành một điểm hành hương Phật giáo mới để cho những người ở đâu tới khấn lậy và nhét tiền vào tay tượng, xa lạ và thô bạo với không gian văn hoá của họ.

Có thể dừng lại cỗ máy khổng lồ mang tên “phát triển” này được không? Tôi không chắc. Bởi nó đang được đốt bởi lòng tham. Các doanh nghiệp thì say lợi nhuận. Chính quyền thì say tăng trưởng GDP.

Các du khách thì tham các trải nghiệm mì ăn liền, được tưởng thưởng mà không phải lao động. Họ muốn “chỉ cần 15 phút để lên nóc nhà Đông Dương”, chụp selfie giữa rừng già mà vẫn đi guốc cao gót được, nhẹ nhàng như vào Paris Deli.

Nhưng cũng như với mọi thứ khác trên đời, sự tham lam sẽ phá huỷ hết. Lòng tham sẽ biến con ngỗng vàng mang tên du lịch thành một con quái vật. Các nhà chuyên môn đã nói nhiều về cú nổ bong bóng của các điểm đến sau thời kỳ tăng trưởng nóng vô độ.

Với cách làm du lịch hiện nay, sẽ tới lúc Sapa giống muôn vàn những chỗ khác: vô bản sắc, ô hợp, nhân tạo và rẻ tiền. Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn, một sự thảm hại cho cả người ở đó lẫn người tới thăm.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả từ Hà Nội.

 

Tại sao liên minh không phải là một chọn lựa?

Tại sao liên minh không phải là một chọn lựa?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-03-03

000_Was8869550.jpg

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (phải) tiếp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Washington DC hôm 02 tháng 10 năm 2014 (ảnh minh họa).

AFP PHOTO / Mandel NGAN

Your browser does not support the audio element.

Việt Nam có nên liên minh với nước khác để tự bảo vệ cho chính mình hay không là câu hỏi đang cần được trả lời nhất trong hoàn cảnh hiện nay khi Trung Quốc tiến hành xây dựng hàng loạt đảo nhân tạo trên vùng biển đang tranh chấp, trong đó có các đảo mà nước này chiếm đóng trái phép của Việt Nam.

Việt Nam vẫn còn cơ hội?

Trong thời gian gần đây khi Trung Quốc công khai xem thường dư luận thế giới cho xây dựng quy mô một loạt những đảo nhân tạo lớn trên các dãy đảo đá tại quần đảo Trường Sa. Những căn cứ này có khả năng biến thành cứ điểm quân sự uy hiếp cả một vùng Biển Đông rộng lớn đang có tranh chấp với nhiều nước trong đó có Việt Nam.

Quyết tâm chiếm trọn trung tâm vùng biển của Trung Quốc không phải đến bây giờ, sau khi kinh tế trở nên vững mạnh Bắc Kinh mới nảy sinh ý đồ mà đã từ lâu, ít nhất là năm 1988 khi xua quân đánh chiếm quần đảo Gạc Ma của Việt Nam thì mục tiêu này đã được đặt ra. Từ đó đến nay, thời gian ưu đãi thêm cho nước này cộng với thái độ lưỡng lự của Việt Nam khiến sự ham muốn chiếm đóng trọn vẹn khu vực tranh chấp, tức là chiếm trọn túi dầu khổng lồ của vùng Biển Đông không còn yếu tố nào cản trở.

” Theo tôi việc liên kết với các nước có cùng lợi ích trong khu vực Biển Đông là sự cần thiết. Có lẽ sự cần thiết này không phải bây giờ nó mới đặt ra mà ngay từ khi những động thái đầu tiên của Trung Quốc khi đưa dàn khoan HD 981 vào vùng biển của chúng ta.
-PGS Hoàng Ngọc Giao”

Hầu hết các chuyên gia quân sự cũng như các tờ báo quốc phòng của thế giới đều đánh giá sự quyết đoán này là cách mà Trung Quốc phủ đầu các nước nhỏ khi công khai thực hiện kế sách đưa mọi chuyện vào sự đã rồi khiến việc chống đối của các nước ngày càng yếu ớt thêm. Trong vòng vài năm tới Bắc Kinh hoàn toàn khống chế cả một vùng Biển Đông mà không một nước nào có thể lên tiếng chứ đừng nói là hành động cụ thể ngoại trừ một nước duy nhất có khả năng ngăn chận sự tham lam ấy là Việt Nam.

Việt Nam vẫn còn cơ hội nếu quyết định ngay từ bây giờ công khai tuyên bố liên kết với các nước trong vùng và sẽ tiến tới liên minh với các nước lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn quốc và Úc hầu mượn sức của liên minh sẵn có này ngăn chặn vòng đai pháo đài nổi đang thắt chặt chung quanh mình.

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất cam kết không liên minh quân sự, không dựa vào nước này để chống nước kia, Ukraina cũng đã từng như thế khi nền chính trị luôn bị con gấu Nga khống chế, áp lực lên phần đất này.

Tuy nhiên Ukraina đã thấy dã tâm của Nga và quốc hội nước này đã mạnh dạn quyết định bãi bỏ cam kết tự mình trói mình ấy.

Vào ngày 23 tháng 12 năm 2014 Quốc hội Ukraina đã có số phiếu áp đảo 303/ 8 ủng hộ bãi bỏ quy chế không liên kết mà nước này đã thông qua vào năm 2010 lúc ấy dưới sức ép của Nga nhằm ngăn cản Ukraina gia nhập NATO.

Việt Nam hoàn toàn có thể tự mình quyết định như Ukraina nếu đủ can đảm vượt qua vòng vây vô hình của điều được gọi là 16 chữ và 4 tốt buộc chặt bước đi trong nhiều thập niên qua.

000_Hkg9812263.jpg

Vùng đảo Gạc Ma nhìn từ trên cao, ảnh minh họa chụp hôm 15/5/2014.

Với quan hệ ngày càng mở rộng, Hoa kỳ chắc chắn đón nhận Việt Nam như một thành viên tích cực để sức mạnh Trung Quốc bị chặn đứng ngay tại cửa ngõ châu Á Thái Bình dương. Các nước khác như Nhật Bản, Philippines hay Hàn Quốc sẽ ủng hộ nhanh chóng quyết định này vì họ biết rõ khả năng của Việt Nam trong vai trò cản bước chân nam tiến của Trung Quốc trong hàng ngàn năm qua.

Phó GSTS Hoàng Ngọc Giao, nguyên Vụ trưởng Ban biên giới Chính phủ chia sẻ Việt Nam nên liên kết với các nước trong khu vực trước khi có một quyết định nào đó nhằm khẳng định quyết tâm của mình:

“Theo tôi việc liên kết với các nước có cùng lợi ích trong khu vực Biển Đông là sự cần thiết. Có lẽ sự cần thiết này không phải bây giờ nó mới đặt ra mà ngay từ khi những động thái đầu tiên của Trung Quốc khi đưa dàn khoan HD 981 vào vùng biển của chúng ta thì nó đặt ra sự cần thiết là ngoài nỗ lực đấu tranh bằng ngoại giao, đấu tranh bằng pháp lý thì Việt Nam cần phải có sự liên kết hợp pháp với các nước khác như Philippines, Malaysia hay các nước trong ASEAN để làm sao thúc đẩy tiếng nói của các nước nhỏ trong vùng Biển Đông để hạn chế, kiềm chế chính sách bành trướng xâm lược xuống phía Nam của Trung Quốc.”

Vì sự sống còn của chính mình

Cái bóng của Trung Quốc dù sao cũng không thể xóa đi trong một lúc, tuy nhiên cái bóng ấy tự nó sẽ nhạt dần khi quyết tâm của Việt Nam mạnh lên vì sự sống còn của chính mình. Đại tá Nguyễn Đăng Quang cho rằng Việt Nam có thể tự bảo vệ mình mà không sợ va chạm vào cam kết, ông cho biết:

“Tôi cho rằng cái chủ trương không liên minh với nước nào đó để chống lại nước thứ ba thì cũng có thể hiểu là Việt Nam có thể sẵn sàng liên minh với một nước khác để bảo vệ chủ quyền đất nước thì cái đó là điều bình thường thôi, Việt Nam nên làm theo điều đó miễn là Việt Nam không liên minh với nước A để chống lại nước C, thế nhưng tôi sẵn sàng liên minh với nước B để bảo vệ chủ quyền đất nước thì đó là quyền hạn và là điều nên làm.”

Trong khi đó Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã Hội Việt Nam cho rằng quan niệm không liên minh đã lỗi thời vì hành vi xây đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể sánh với việc kẻ cướp đã vào nhà:

” Cứ chơi bài ngửa, chỉ liên minh với Mỹ thôi chứ ASEAN như một bị khoai tây chẳng ý nghĩa gì đâu. Duy nhất trên hành tinh này chỉ có mình Mỹ thôi. Mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ mở toang cánh cửa ra. Phải tiến tới quan hệ Mỹ Việt mà trên bạn bè dưới liên minh.
-Thiếu tướng Lê Văn Cương”

“Quan niệm không liên minh với nước nào khác để chống lại nước thứ ba đã lỗi thời rồi. Khi kẻ cướp nó đã vào đến sân nhà mình mà người trong nhà nói rằng không, chúng tôi không cần hàng xóm láng giếng giúp đỡ gì cả, tự tôi tôi sẽ chiến đấu thôi. Mà bằng cách nào? Bằng cách tôi nhân nhượng nó, tôi hòa hoãn với nó tôi cứ lùi dần lùi dần lùi đến độ để thế giới người ta nghi ngờ không biết Việt Nam có định chiến đấu chống lại Trung Quốc hay không thì làm sao người ta ủng hộ mình?”

Hoa Kỳ dù vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết nhưng quyết tâm trở lại Châu Á Thái bình dương của Nhà Trắng không phải là lời nói suông nhằm đe dọa Trung Quốc. Những hành động cụ thể của Hoa Kỳ trước hai đồng mình lâu đời là Nhật Bản và Philippines trong những năm qua có thể cho Việt Nam thấy chính sách đối ngoại sáng suốt là chìa khóa làm cho đất nước vững chãi trước dã tâm của nước lớn để từ đó có thêm thời gian và tiền bạc để phát triển đất nước, thay vì phải đối phó nhiều mặt cả ngoài lẫn trong như hiện nay.

Thiếu tướng Lê Văn Cương, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Bộ Công an khẳng định sức mạnh ấy của Hoa Kỳ, đất nước duy nhất ông cho là có thể đứng mũi chịu sào trước phương Bắc:

“Thật ra mà nói thì thế này, cứ chơi bài ngửa, chỉ liên minh với Mỹ thôi chứ ASEAN như một bị khoai tây chẳng ý nghĩa gì đâu. Duy nhất trên hành tinh này chỉ có mình Mỹ thôi. Mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ mở toang cánh cửa ra. Phải tiến tới quan hệ Mỹ Việt mà trên bạn bè dưới liên minh, cứ nói thẳng như thế.

Trung Quốc rất sợ Mỹ. Trên hành tinh này Trung Quốc chỉ sợ Mỹ thôi. Bây giờ cho ăn kẹo Bắc Kinh cũng không dám đụng tới Mỹ vì đụng tới Mỹ là tự sát. Bản chất của họ là dọa nạt cưỡng bức những kẻ yếu chứ còn đối với kẻ mạnh như Mỹ thì cho họ ăn kẹo chocolate họ cũng không dám đụng tới Mỹ.

Chúng ta không  liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc, hoàn toàn không, nhưng cùng tạo một sức mạnh như thế khi cần thiết thì ứng phó với hành động của Trung Quốc. Nói thẳng với Trung Quốc chơi bài ngửa: Việt Nam không liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc nhưng chúng tôi cần sức mạnh của Mỹ để răn đe mọi thế lực ngoại bang muốn xâm lược Việt Nam.”

Qua những nhận định vừa được đưa ra, ước muốn liên minh đang là nhu cầu bức thiết nhất hiện nay của đa số nhân sĩ trí thức và ngay cả trong quân đội. Khi Việt Nam không thể tự mình đủ sức bảo vệ đất nước thì liên minh là phương cách duy nhất đúng đắn của một nhà nước biết đặt sự an nguy của dân tộc lên trên tất cả.