Sự giàu có mang lại bất hạnh

Sự giàu có mang lại bất hạnh

Có lẽ tất cả chúng ta đều mơ một ngày nào đó sẽ trở nên giàu có, trừ những người sinh ra trong những gia đình khá giả…

2015/01/img_6884.jpg

Và có lẽ ai cũng từng mơ về việc sở hữu khối tài sản khổng lồ, lối sống xa hoa của những người giàu có và nổi tiếng, những căn biệt thự với sân vườn được cắt tỉa tỉ mỉ và những hồ bơi khổng lồ, những hòn đảo của riêng mình, xe thể thao đắt tiền, phi cơ riêng và nói chung là tiền để phung phí vào bất cứ thứ gì bạn muốn.

Vậy, điều gì đã xảy ra với những người đạt được giấc mơ đó?

Góc tối của sự giàu có

Tiền mang lại những thay đổi, đôi lúc là theo hướng tích cực, đôi lúc lại là tiêu cực.

Carol Philo đã chứng kiến cha mẹ mình, từ những người nghèo khó, biến thành những triệu phú sau khi công ty in ấn của họ làm ăn phát đạt.

Tuy nhiên lợi nhuận càng nhiều thì tham vọng cũng càng tăng.

“Mẹ tôi trở thành người mê tiền … Không có gì là đủ đối với bà,” Philo nói.

Sau một thời gian, quan hệ gia đình bắt đầu đổ vỡ.

“Là người đã chứng kiến tất cả những điều đó, tôi có thể khẳng định rằng có thể phấn đấu để sống thoải mái, nhưng để giàu có thì không nên”.

Murat Morrison cũng đồng ý với quan điểm trên.

Ông đã kiếm được nhiều tiền sau khi bán một công ty vận tải vào cuối những năm 90. Thế nhưng điều mà ông rút ra được, đó là “tiền chỉ mua sự thoải mái”.

“Sự thoải mái không tạo nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện. Tôi cảm thấy trống trải suốt nhiều năm trời. Dù sống thoải mái là điều tốt, nhưng hạnh phúc sẽ mang lại cho bạn cảm giác trọn vẹn”.

Sự giàu có cũng làm lộ ra bản chất của con người, ông Paul Buchheit nhận định.

“Nói chung nó khắc đậm hơn những tính cách mà một người đã sở hữu,” ông nói.

“Nếu bạn là một kẻ đáng ghét, việc trở nên giàu có sẽ khiến bạn trở nên đáng ghét hơn”.

“Thế nhưng nếu bạn là người sống có mục đích và muốn lẽ sống của mình không chỉ đơn thuần là chạy theo đồng tiền, thì sự giàu có sẽ giúp bạn có thêm khả năng để theo đuổi ước mơ của mình”.


Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc? Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc?

Sống với thực tế

Khía cạnh tiêu cực của sự giàu có đôi lúc có thể áp đảo những điều tích cực.

“Có lẽ khi nghe ai nói như vậy, bạn sẽ nghĩ họ nói dóc, vì bạn nghĩ người ta không có quyền than thở vì sự giàu có của mình,” một người ẩn danh, vốn đã kiếm được 15 triệu đôla sau khi bán một công ty công nghệ, nói.

“Nếu như bạn là người giàu có, bạn không có quyền được biểu lộ những bức xúc hay nhu cầu của mình trước công chúng. Người ta không nhìn bạn giống như một người thường”.

“Sự giàu có cũng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với bạn bè và gia đình. Người ta bắt đầu trông đợi được hưởng lợi từ bạn, và bạn bắt đầu tự hỏi liệu người ta có quý mến bạn thực sự, hay chỉ đến vì tiền”.

“Nếu bạn còn độc thân, việc biết được ai đó tìm đến với mình vì bản thân mình hay vì tiền còn khó khăn hơn”.

Thế nhưng phần lớn những người khác đều cho rằng sự giàu có mang lại nhiều lợi ích.

“Có nhiều tiền vẫn tốt hơn, nhưng có điều chắc chắn là sự giàu có không phải tuyệt vời như nhiều người tưởng tượng”, người này nói thêm.

Christopher Angus, một người kiếm nhiều tiền sau khi bán bốn công ty do mình thành lập, nói “tôi thà có tiền hơn là không. Bảy năm qua, tiền bạc đã cho tôi sự thoải mái và trải nghiệm mà người khác không thể có được trong cả cuộc đời.”

“Ví dụ như tôi đã đi nghỉ mát 25 lần trong một năm và đã xài hết 20 nghìn đôla chỉ trong một tối thứ Bảy”.

2015/01/img_6880.jpg

Sự cô lập

Thế nhưng sự giàu có cũng khiến cho tiêu chuẩn của bạn tăng lên.

“Ban đầu bạn lái một chiếc Audi hoặc ăn trong một nhà hàng sang trọng”.

“Nhưng sau đó bạn bắt đầu quen với điều đó và bắt đầu trông đợi vào những thứ ở tầm cao hơn, và những thứ dưới mức đó sẽ không làm bạn hứng thú nữa”.

Sự thoải mái không làm nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện

(Doanh nhân Morat Morrison)
Angus, một người từng có nhiều tiền hơn nhu cầu khi chỉ mới 20 tuổi, nói cảm giác chán ngán đến với ông rất sớm.

“Tôi cảm thấy việc có đủ tiền cho gần như tất cả mọi thứ vật chất đã khiến tôi mất hết hứng thú và động lực để đạt được những điều mình từng mong ước trước khi trở nên giàu có.”

“Một chiếc Porsche và những thứ khác không còn đáp ứng nhu cầu của tôi nữa. Ba năm sau đó tôi mua 5 chiếc Porsche và những chiếc xe thể thao khác,” Angus nói.

Tôi trở nên nghiện ngập những thứ chỉ có giá trị hình thức để thu hút sự chú ý và khiến người ta muốn giao du với mình chỉ vì những gì tôi có và những gì tôi có thể mang lại cho họ.”

Một người giàu có khác, với khối tài sản hơn 20 triệu đôla, nói với điều kiện ẩn danh rằng “tôi đã luôn muốn trở nên giàu có và thực tế tôi đã đạt được giấc mơ đó.”

“Nhưng giờ đây tôi cảm thấy dường như nó không giống những gì tôi tưởng tượng”.

“Có lẽ con người ta cần tiến tới sự giàu có một cách chậm rãi hơn để có thể làm việc và sống lành mạnh hơn”.

“Tất nhiên là một khi đã giàu có thì khó mà từ bỏ nó. Bạn sẽ muốn được như vậy mãi mãi”.

Maria Atasanov

Posted by Việt Anh
http://thanhnientudo.com

Nạn đầu gấu trong học đường VN

Nạn đầu gấu trong học đường VN

VienDongDaily.Com

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Quả thật tôi rất kinh ngạc khi đọc bản tin từ hội nghị về bảo đảm an ninh trật tự trường học cho học sinh sinh viên vừa được tổ chức mới đây của Bộ Giáo Dục – Đào Tạo, từ năm 2010 đến nay cả nước đã xảy ra 7,735 vụ học sinh sinh viên đánh nhau. Đấy là chưa kể những vụ nam nữ học sinh đánh nhau ngoài phố như đám giang hồ, mấy cô nữ sinh đánh nhau, lột sạch quần áo của bạn mà không ai thống kê hết được. Đó là một kết quả đáng cho mọi người VN giật mình. Học đường bây giờ tồi tệ đến như vậy sao?!
Ở đây tôi chưa nói đến thống kê về vi phạm pháp luật, theo Việt Báo VN: Thống kê chưa đầy đủ từ năm 2009 đến nay, tổng số học sinh và sinh viên (HSSV) liên quan đến pháp luật hình sự, trong đó các hành vi gây rối trật tự công cộng là 935 vụ, tội phạm ma túy 357 trường hợp, giết người 37 vụ, cướp , trộm cắp tài sản 6,000 vụ. Bạo lực học đường đã được kiềm chế nhưng vẫn xảy ra tại nhiều địa phương, tình hình bỏ học, bỏ nhà sống lang thang, tụ tập thành băng nhóm sử dụng dao, lê, mã tấu, kiếm… đâm, chém nhau, gây rối trật tự công cộng, phạm tội nghiêm trọng giết người, cướp tài sản đang diễn ra phức tạp

Trường Lý Tự Trọng (tỉnh Trà Vinh), nơi vừa xảy ra vụ nữ học sinh bị bạn đánh trong phòng học.

Học trò hành hạ bạn dã man ngay tại trường không ai biết

Tôi chỉ tạm kể vài vụ đánh nhau xảy ra gần đây nhất và cùng tìm hiểu sâu xa hơn về nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này tại các học đường ở VN.
Trong tuần giữa tháng Ba vừa qua dư luận bỗng bùng lên về vụ một nữ sinh bị bạn học hành hung tập thể tại Trường Trung Học Cơ Sở (THCS) Lý Tự Trọng (tỉnh Trà Vinh) vào ngày 13-Một. Tức là mãi hai tháng sau dư luận mới được biết đến khi một em quay được clip “nóng” này tung lên mạng, ngay cả các giáo viên, các bậc phụ huynh cũng chỉ biết qua màn hình máy tính. Tất cả đều tá hỏa tưởng như chuyện “trên trời rơi xuống.”
Bảy học sinh xúm nhau đánh tàn bạo một học sinh nữ nhỏ bé vô phương chống đỡ. Các học sinh này đã không học được đức tính trọng yếu để làm người là lòng nhân đạo, nên hành xử theo thói côn đồ, bản năng thú tính. Lớp trưởng sử dụng quyền thế để sai khiến “thuộc hạ” đánh người theo lệnh mình. Sáu em kia không nhận biết được lẽ phải (tức là mất lương tri) nên đã theo “tâm lý bầy đàn” để phục tùng kẻ có quyền thế mà say máu đánh người. Học sinh nam duy nhất trong nhóm này chẳng những không ra tay cứu giúp người yếu thế đang bị đám đông vùi dập mà lại phô trương sức mạnh nam nhi bằng một chồng ghế giáng xuống đầu nạn nhân cô đơn tội nghiệp.
Đông đảo học sinh trong và ngoài lớp thản nhiên đứng xem vụ hành hung tập thể mà không ai ra tay cứu giúp nạn nhân, không ai thông báo cho nhà trường để kịp thời can thiệp; nạn nhân cũng không dám hé lộ với gia đình mà cam chịu. Qua đó, có thể nhận thấy sự hung hãn mang tính bầy đàn đã tạo nên nỗi sợ hãi kinh hoàng làm tê liệt lương tri và lương tâm học sinh, khiến các em “câm lặng” trước cái ác để tự bảo vệ mình. Cha mẹ có con bị đánh còn đau hơn. Mẹ cô bé đã ngất đi, đau đớn vì đứa con mình rứt ruột đẻ ra bị đánh đập tàn nhẫn như thế. Sau đó thì bà không cho ba của bé xem clip, bà sợ ông không kiềm chế được mà tìm mấy đứa đánh con mình rồi giết chúng mất.
Những sự việc như thế cho thấy một thất bại hiển nhiên của giáo dục: những phẩm chất tốt đẹp được giảng dạy trong nhà trường không đủ sức chống lại cái ác thuộc về bản năng. Những phẩm chất được dạy dỗ lại nghiêng về sự sùng bái lãnh tụ, sự tuyệt đối tuân theo những quy định của “đoàn đội” để được trở thành “học sinh tiên tiến” mà bỏ quên quyền tự vệ chính đáng của con người, sự phản kháng khi bị áp đặt, bị đối xử bất công. Chúng ta hãy nhìn qua sự tổ chức trong một trường học với đủ các thứ ban bệ úp chụp lên đầu các cô cậu học trò.

Những tầng lớp giám sát đầy quyền lực

Nếu nhìn vào mô hình trường học ngày nay, một học sinh bình thường sẽ bị sự giám sát của khá nhiều tầng lớp: Nào là “Sao đỏ”; tổ trưởng, lớp phó kỷ luật, lớp trưởng, chi đoàn… Mỗi tầng lớp giám sát như thế lại có những “quyền hành” riêng. Điều đáng ngại nhất ở đây là việc mỗi tầng lớp giám sát đó lại bị bắt buộc phải hoàn thành chức trách của mình một cách tốt nhất mà không hề được hướng dẫn làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ đó. Và điều tất yếu xảy ra là chuyện lạm dụng quyền lực.
Mấy em trong đội “Sao đỏ” cho phép mình có quyền hoạnh họe những bạn khác, đánh giá hành vi của bạn khác theo ý tưởng chủ quan của mình. Lớp trưởng, lớp phó thì nghĩ đến chuyện sử dụng bạo lực ở nhiều mức độ khác nhau để các “thần dân” trong lớp phải tuân thủ mệnh lệnh của mình. Bí thư chi đoàn thì nghĩ đến việc sử dụng hình thức hạ bậc hạnh kiểm để buộc đoàn viên tham gia hoạt động đoàn… và cứ thế mạnh ai người đó làm với những quyền tưởng như là hợp pháp.
Trong khi đó, các giáo viên chủ nhiệm lại có khuynh hướng luôn bênh vực cho những học sinh được giao nhiệm vụ để các em này “có uy tín làm việc, phục vụ kỷ luật nhà trường.” Cho nên các em bị hành hạ thấy rõ mình bị yếu thế, đành câm nín.
Thế là những mâu thuẫn trong nội bộ học sinh bắt đầu tích tụ dần dần theo thời gian. Học sinh bình thường sẽ phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc “vùng lên” phản kháng lại sự giám sát bằng bạo lực của chính bản thân các em (nếu đủ lực) hoặc nín nhịn cam chịu (nếu không có đủ lực để phản kháng).
Và cả hai sự chọn lựa đó đều dẫn đến một kết quả giống nhau: bạo lực học đường bùng phát. Điều này dẫn đến một hệ lụy vô cùng nguy hiểm trong cuộc sống xã hội: Tương lai các em này rất có thể sẽ trở thành những cán bộ – nhân viên tận dụng tối đa quyền lực mình có để mưu lợi cho cá nhân và thói quen hành xử lạm dụng quyền lực.
Tôi còn nhớ khi còn bị nhốt ở trong các trại tù cải tạo, trong nhà tù hình sự, cai tù thường chọn một anh tù nổi tiếng du côn nhất để làm trưởng buồng. Tên này được gọi là “đầu gấu,” có quyền sai phái các tù nhân khác, cần thì đánh đấm không nương tay. Đó là cách cai trị mà bọn cai tù cho là hiệu quả nhất. Cái kiểu thành lập các ban bệ và các “chức sắc” trong hàng ngũ học sinh chẳng khác gì kiểu dung dưỡng các “đầu gấu” trong các trại tù.
Chính vì thế nên khi các em lớn lên ở các địa phương mới sinh ra những ban bệ, những quan chức đủ mọi ngành nắm quyền sinh sát với các “thần dân” trong thôn ấp. Ban bệ nào cũng có quyền hành riêng và hầu như khó có địa phương nào tránh khỏi sự lợi dụng trắng trợn quyền hành để mưu lợi ích cho riêng mình và họ hàng hang hốc nhà mình. Gần đây nhất nhiều vụ “ăn cắp” hay có thể gọi là ăn cướp trắng trợn quyền lợi của nhân dân được khui ra vô cùng tàn nhẫn đến nỗi người ta nói “ăn cả cái khố rách của dân nghèo. Tôi sẽ chứng minh trong một số báo khác.

Nữ sinh lớp 11 mất khả năng giao tiếp vì bị bạn đánh

Khi dư luận vẫn chưa hết bàng hoàng sau clip đánh bạn dã man của cô cậu học trò lớp 7 thành phố Trà Vinh, mới đây chương trình Chuyển Động 24h của Đài Truyền Hình VN tiếp tục đưa ra một sự việc liên quan đến bạo lực trường học, dẫn đến hậu quả là cô nữ sinh cấp 3 không thể nói được.
Cụ thể là khoảng tháng 9/2014, tại ngôi trường Trung học Tử Đà, tỉnh Phú Thọ, nữ sinh Quyên Thị Phương Hà đã bị các bạn cùng lớp đánh hội đồng chỉ vì hiểu lầm từ những dòng trạng thái trên mạng xã hội facebook. Sự việc ẩu đả này được nhà trường giải quyết ở mức độ kỷ luật, cảnh cáo các học sinh tham gia đánh nhau còn nạn nhân là em Hà cho đến nay vẫn chưa thể cất tiếng nói.
Theo cô Hằng (mẹ nạn nhân) cho biết: “Lúc con tôi bị đánh về thì đầu tóc bù xù, mặt sưng tím, môi chảy máu. Ăn cũng không ăn được, ngủ cũng không được thế nhưng bé vẫn cứ cố ăn cháo loãng rồi đi học.”
Bỗng dưng không thể nói được khiến cuộc sống của hai mẹ con vốn đã khó nay càng thêm nhọc nhằn. Hằng ngày, Hà và mẹ chỉ có thể dùng cử chỉ hoặc viết ra giấy để giao tiếp. Sáu tháng kể từ khi bị bạn đánh hội đồng cũng là gần từng ấy thời gian Hà phải nghỉ học để chữa bệnh, cô Hằng phải chạy đôn chạy đáo vay tiền chữa bệnh cho con. Theo nhận định của các bác sĩ, em Hà không thể nói là do dư chấn tâm lý và cũng không biết được bao giờ mới khỏi.

Quyền hành của trưởng lớp

Ở nhiều lớp, khi giáo viên vắng thì lớp trưởng gần như thay mặt cho giáo viên, giữ toàn quyền điều hành, thậm chí cả quyền trách phạt những học sinh khác. Ở cấp 1, nhiều thầy cô giáo chọn những em “to con” hơn bạn cùng trang lứa để làm lớp trưởng. Lý do: các bạn trong lớp nhìn bạn lớp trưởng là sợ. “To con” nên cũng nhiều sức mạnh thể chất, có thể giúp cô phạt khẻ tay bằng thước những bạn nói chuyện trong giờ học, không làm bài tập đầy đủ, chạy nhảy lung tung… “To con” nên các bạn lớp trưởng có thể “méc tội” các bạn khác với thày cô mà không sợ các bạn kia trả thù.
Như vậy, những giá trị giáo dục tốt đẹp của việc duy trì thủ lĩnh hay đội ngũ tự quản trong lớp đã bị bỏ qua, mà chỉ tận dụng cách thức này cho các mục đích không chính đáng. Từ đó, nhiều học sinh khi nắm giữ các chức vụ này cũng nhận thức sai lầm về vai trò của chính mình, ảo tưởng sức mạnh và quyền hạn của mình như một “đại ca” ngoài xã hội, từ đó hình thành “hội chứng đàn anh đàn chị” trong các trường học. Biết đến bao giờ các em học sinh mới hết sợ hãi những tên “đấu gấu” này ở nhà trường.
Dù có một phần lỗi tại gia đình các em làm ăn vất vả hoặc quá ham mê làm giàu lơ là trong việc dạy dỗ, săn sóc con cái, nhưng phần lớn thuộc về nhà trường. Bộ Giáo Dục VN có trách nhiệm gì trong tệ nạn này? Bao giờ những ngôi trường học ở VN được trả về đúng giá trị thực của nó để có thể trở thành những người tử tế, phục vụ lợi ích cho toàn xã hội chứ không cho một phe nhóm nào?

Văn Quang

(20-3-2015)

Bạo lực học đường

Bạo lực học đường

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-03-25

03252015-violence-in-school.mp3

Một cảnh học sinh đánh nhau trước cổng trường học

Một cảnh học sinh đánh nhau trước cổng trường học

Clip-from youtube

Your browser does not support the audio element.

Trong vòng chưa đầy một tháng, có đến hơn một chục video clip nữ sinh đánh nhau, cấu xé nhau được tung lên mạng và có đến vài chục video clip nam sinh lập thành bằng nhóm, dàn trận đánh nhau, chém nhau theo kiểu xã hội đen. Tất cả những video clip này đều do học sinh tải lên. Đó là chưa kể đến hơn 6000 vụ đánh nhau gây thương tích, chết người kể từ Mồng Một Tết đến nay. Và tất cả những vụ xô xát, đánh nhau trong giới trẻ Việt Nam đều có liên quan đến vấn đề giáo dục, học đường và tính dục, bạo lực do văn hóa xuống cấp.

Tính dục và giáo dục bị chằng chéo

Ông Vận, cựu giáo viên một trường phổ thông trung học tại thành phố Sài Gòn đưa ra nhận xét: “Do cái nghiệp quả của tiền duyên nhiều đời. Nó muốn làm anh chị, nó muồn làm anh hùng nên nó tranh nhau, nó cấu xé nhau, tranh nhau vậy đó. Nó muốn làm thì nó làm, mình can đâu có được. Nói nó cũng như không. Không nói được, không thể nói hết nổi!”.

Theo thầy Vận, là một giáo viên dạy qua hai chế độ chính trị, trước 30 tháng 4 năm 1975, ông vừa tốt nghiệp đại học và đi dạy chưa đầy hai năm thì thành phố có sự thay đổi lớn, ông về quê làm ruộng một thời gian dài và năm 1980, ông quay trở lại Sài Gòn, tiếp tục nộp đơn xin dạy học. Sau gần một năm chờ điều tra lý lịch, không có thành phần gia đình dính đến chế độ cũ nên ông được nhận vào dạy môn toán trở lại với điều kiện chỉ được dạy toán và không được bàn luận gì về chính trị dù bất cứ với ai.

Ông Vận chấp nhận điều kiện và đi dạy mãi cho đến năm 1990 thì về hưu. Trong suốt quá trình dạy học, ông nhận ra bầu không khí dạy và học trước và sau 1975 có thể nói là khác nhau một trời một vực. Và quá trình dạy giữa những năm trước 1988 và sau 1988 cũng khác nhau đáng kể. Càng về sau, nền giáo dục càng có dấu hiệu lụn bại, hết phương cứu chữa.

Giải thích thêm, ông Vận cho rằng hình ảnh người thầy giáo thời trước 1975 có những đặc thù mà hiện tại không có được. Sự uy nghiêm, tính mẫu mực cũng như lương tâm nhà giáo, luôn sẵn sàng cống hiến hết mình vì sự nghiệp dạy học, lấy viên phấn trắng và tấm bảng đen làm cảm hứng của cuộc đời. Chính vì thế, người thầy dạy cấp hai và cấp ba thời đó đã được gọi là giáo sư, họ được học trò và phụ huynh coi trọng, kính nễ.

Chính tình trạng bệ rạc của nền giáo dục bởi nạn mua quan bán chức, chạy bằng giả, kinh doanh kiến thức, lạm dụng tình dục học đường đã đẩy nhiều thế hệ đến chỗ thực dụng, máu lạnh và bạo lực học đường diễn ra như cơm bữa

Sự kính nễ này một phần nhờ vào cơ chế giáo dục coi trọng tính người, coi trong nhân cách và mỗi người thầy bắt buộc phải là một tấm gương về nhân cách trong xã hội đã giúp cho học trò có cảm hứng trong việc học tập, kính trọng thầy cô và luôn noi gương thầy cô như một trách nhiệm mà con người phải làm trong cuộc đời. Chính nền giáo dục với triết lý nhân bản xuyên suốt của thời đó đã tạo ra nhiều thế hệ học trò vừa thành đạt lại vừa có nhân cách lớn trong xã hội. Điều đó hiếm có và hầu như không có trong hiện tại.

Chỉ riêng không khí dạy và học trước và sau năm 1988 cũng đã có quá nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Trước năm 1988, nền giáo dục bao cấp, dù không thể so sánh với nền giáo dục nhân bản trước 1975 nhưng dù sao nó cũng không phải là một cái thị trường giáo dục lộn xộn như thời kỳ giáo dục thị trường sau này. Kể từ sau 1988, nền giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng mua bán chữ, hoạt động dạy thêm dạy kèm nở ra rầm rộ. Sau đó là thời kỳ mua bằng cấp, đút lót trong giáo dục, và gần đây nữa là tình trạng hối lộ bằng tình dục giữa học sinh và thầy giáo, giữa hiệu trưởng với các quan chức.

Chính tình trạng bệ rạc của nền giáo dục bởi nạn mua quan bán chức, chạy bằng giả, kinh doanh kiến thức, lạm dụng tình dục học đường đã đẩy nhiều thế hệ đến chỗ thực dụng, máu lạnh và bạo lực học đường diễn ra như cơm bữa. Điều đáng buồn nhất là hiện tại, những danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, giáo sư tiến sĩ… đều không được trọng vọng như những giáo viên cấp trung học thời xưa. Theo thầy Vận, đây là một vấn đề cần đặt dấu hỏi lớn về cơ chế giáo dục hiện tại.

Bạo lực tới sau

Một cô giáo tên Hà, sống tại Gò Vấp, Sài Gòn, chia sẻ thêm: “Khó nói lắm, mà về nguyên nhân thì không lẽ mình đổ thừa hết cho giáo dục nó cũng không đúng. Nói chung là do môi trường. Khó nói lắm!”.

Chuyện các nữ sinh đánh nhau, các nam sinh dàn trận chém nhau ngày càng có nguy cơ phát triển và lan rộng là một bằng chứng về nền giáo dục mua bán bằng cấp, chạy chọt và hối lộ trong nghề nghiệp đã chuyển hóa thành một thứ tệ nạn và kéo theo hàng triệu hệ lụy phía sau

Theo cô Hà, vấn đề bạo lực học đường ở Việt Nam hiện nay có thể nói là vô phương cứu chữa, nó có thể bùng phát bất kì giờ nào và lan rộng đến mức khó mà lường được. Tiếng nói của giáo viên đối với học trò hiện tại không phải là tiếng nói của một vị thầy trước lớp học mà là tiếng nói của một người bán chữ trước đám đông các thượng đế mua chữ.

Trong các thượng đế mua chữ này, có nhiều thành phần khác nhau, cũng có thể là thượng đế con nhà bình dân, cũng có nhiều thượng đế con nhà quí tộc, trọc phú, đại gia. Và yêu cầu của các thượng đế đối với người bán chữ cũng khá gắt gao. Không thiếu học sinh yêu cầu phải đổi cô giáo vì cô giáo không đủ đẹp để mình học. Đương nhiên là chuyện này hiếm nhưng đã từng xãy ra tại Sài Gòn. Thậm chí có nhiều nam sinh cấp trung học trêu ghẹo cô giáo, viết thư rủ cô giáo cùng đi phòng trọ, nhà nghỉ, khách sạn.

Khi cô giáo nhận lá thư, chỉ biết run rẩy và khủng hoảng, không dám tố cáo sự việc vì sợ trả thù. Nhiều cô bỏ trường, chuyển trường. Nhưng cũng có nhiều cô chấp nhận điều kiện của học sinh để được nhận một khoản thù lao béo bở. Chính vì môi trường giáo dục hết sức kì quặc này mà nhiều nam sinh, nữ sinh và thầy cô giáo trở thành bạn tình với nhau. Mà một khi thầy cô giáo trở thành bạn tình của học sinh thì tiếng nói của họ với nhau không còn là tiếng nói của giáo dục, nó thành tiếng nói của tình dục và luyến ái. Mối quan hệ thầy trò bị phá vỡ ngay tức khắc sau khi vào nhà trọ, vào khách sạn với nhau.

Không dừng ở đây, nhiều đường dây mua bán dâm trong học đường xuất hiện, nhiều thầy giáo, cô giáo kiêm thêm nghề tú ông, tú bà chăn dắt các nữ sinh đến với khách hàng là các quan chức thèm của lạ, thèm gặm cỏ non. Và khi điều này trở thành một thế lực ngầm, một hoạt động ngầm trong học đường thì học đường đó có thể trở thành một kiểu nhà thổ trá hình. Vấn đề giáo dục trở nên khủng hoảng và bế tắc.

Theo cô Hà, chuyện các nữ sinh đánh nhau, các nam sinh dàn trận chém nhau ngày càng có nguy cơ phát triển và lan rộng là một bằng chứng về nền giáo dục mua bán bằng cấp, chạy chọt và hối lộ trong nghề nghiệp đã chuyển hóa thành một thứ tệ nạn và kéo theo hàng triệu hệ lụy phía sau. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể nói rằng không còn cách nào để cứu chữa được nữa.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Cùng khởi điểm, vì sao tụt hậu hằng chục năm?

Cùng khởi điểm, vì sao tụt hậu hằng chục năm?

Việt-Long – RFA
2015-03-25

singapore-1945

Quân Anh trở lại Singapore- 1945

Courtesy of Wikipedia

Singapore là thuộc địa của Anh từ 1819. Bị Nhật chiếm đóng rồi kết thúc thế chiến thứ hai, Singapore vẫn là thuộc địa của Anh nhưng được Anh dành cho một số quyền chính trị và tự trị hạn chế. Mãi đến 1959 tiểu đảo này mới được tự trị rộng rãi, chỉ trừ các lãnh vực ngoại giao, quốc phòng.

Việt Nam- Singapore

Năm 1963 Singapore được trả độc lập mà không cần chiến tranh giải phóng. Thủ tướng Lý Quang Diệu vận động xin gia nhập và được sáp nhập vào Liên Bang Mã lai Á. Nhưng chỉ được hai năm, đến 1965 bị Liên Bang đuổi ra, trong tình cảnh một xứ sở hầu như không có một chút tài nguyên thiên nhiên, không lực lượng quốc phòng, nguồn nước ngọt cũng phải trông vào Malaysia, thiếu thốn đủ mọi bề. Vậy mà đến nay tiểu đảo Sư tử đã trở thành một quốc gia có thu nhập bình quân cá nhân đứng trong hàng 10 nước cao nhất thế giới, với một chính quyền trong sạch, một xã hội dân trí cao. Thử đối chiếu hoàn cảnh lịch sử hai nước, chúng ta thấy gì?

Nói về hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam và Singapore đều là thuộc địa của Pháp và Anh từ thế kỷ 19, sang thập niên 1940 bị Nhật chiếm đóng trong mấy năm. Khi Nhật thua trận, phe đồng minh tiếp quản, Singapore lại trở về dưới chế độ bảo hộ như trước, sau cùng được trả lại độc lập.

saigon-1945

Sài Gòn – 25-8-1945

Ở Việt Nam lúc Nhật đầu hàng, lực lượng Việt Minh chớp thời cơ cướp chính quyền, ép Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, quyết giành độc lập không trở lại chế độ thuộc địa. Lúc đó quân Nhật đã phục tùng Hoàng đế Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim trong khi chờ đồng minh giải giới, nhưng Hoàng đế Bảo đại không cho quân Nhật can thiệp. Khi quân Anh Pháp trở lại tiếp quản để tiếp tục chế độ bảo hộ của Pháp, thì nổ ra chiến tranh. Tình cảnh Việt Nam từ đó đã rẽ sang một ngã khác.

Trong thời gian chiến tranh 1946-1954 ở Việt Nam thì Singapore được an bình trong chế độ bảo hộ của người Anh, để rồi được trả quyền tự trị vào năm 1959, và độc lập vào năm 1963. Trong giai đoạn này ở bán đảo Mã lai có xảy ra phong trào kháng chiến giành độc lập do đảng Cộng sản Mã Lai phát động, nhưng ở quá xa những cái nôi cách mạng Nga, Tàu, nên chỉ đến năm 1960 là bị dẹp tan. Riêng Singapore vẫn được yên ổn, nhưng phải ôm lấy nền độc lập trong cô đơn từ năm 1965, một tình cảnh mà Thủ tướng Lý Quang Diệu mô tả là nỗi thống khổ của ông và của người dân Singapore. Hai nước Singapore và Việt Nam nằm trong tình cảnh hoàn toàn khác biệt, còn có gì để đối chiếu?

Sự khác biệt là hòa bình và chiến tranh, nhưng về kinh tế Việt Nam vẫn có được hơn nửa thập niên phát triển trong yên bình. Con đường phát triển của Singapore bắt đầu từ lúc quân Nhật thua trận, và đảo quốc đã phát triển mạnh theo viễn kiến của Thủ tướng Lý Quang Diệu từ 1965. Trong khi đó Việt Nam đã trải qua 6 năm khói lửa Nam Bắc phân tranh từ 1959, đến 1965 bắt đầu leo thang ác liệt với sự xâm nhập ồ ạt của quân đội Bắc Việt, và các sư đoàn quân Mỹ nhảy vào Việt Nam.

Trong giai đoạn từ 1954 đến khoảng trước 1965 khi chiến tranh bùng nổ lớn ở miền Nam Việt Nam, Singapore và Việt Nam Cộng hòa vẫn cùng song song kiến tạo được nền kinh tế, văn hóa, giáo dục tiến bộ hơn hẳn so với năm 1954, 1955 và so với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Bắc Việt. Việt Nam Cộng Hoà đã xuất cảng gạo, cao su, xi măng… Singapore vốn là trung tâm thương mại quốc tế từ đầu thế kỷ 20, vào năm 1965 đã đạt được bình quân thu nhập cá nhân cao hàng thứ ba ở Đông Á và từ đó phát triển nhảy vọt cho đến ngày nay.

Kinh tế Miền Nam Việt Nam bắt đầu xuống dốc từ năm 1965, khi hai miền Nam Bắc dốc hết nhân tài vật lực vào chiến tranh. Kinh tế miền Bắc Việt Nam trước sau cũng không có gì đáng kể.

Việt Nam- Korea

saigon-1975

Sài Gòn 1975

Nhìn sang một xứ Đông Á khác, Korea, có nhiều chỗ tương đồng với Việt Nam hơn là Singapore, để có thể đối chiếu và suy nghiệm. Nói Korea để chỉ cả hai xứ Nam Bắc Hàn. Sự tương đồng nằm ở chỗ Korea chia ra 2 miền nam bắc vào năm 1948, nhưng đến năm 1950 thì Bắc Hàn xâm lăng xứ miền Nam, đẩy lùi quân Nam Hàn và quân Mỹ tiếp viện xuống cuối miền Nam, chỉ còn giữ vòng chu vi Pusan. Mỹ tung thêm quân vào trận, đẩy lui quân Bắc Hàn đến biên giới Trung Quốc. Tháng 10 năm đó chí nguyện quân Trung hoa tràn vào, đánh tới vĩ tuyến 38 chia đôi hai miền. Chiến tranh kéo dài mãi đến năm 1953 mới ngưng chiến, và hai miền thi đua phát triển từ đó.

Tình trạng này mới có thể đem đối chiếu với Việt Nam từ năm 1954 trở đi.

Hoàn cảnh lịch sử hai nước có thể coi là tương đồng tính đến năm 1953, nhưng tiến trình phát triển trong hoà bình và trong chiến tranh hoàn toàn khác biệt.

Từ năm 1953 Bắc Hàn cũng có một thời gian ngắn phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, nhưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể nuôi dân mặc dù người dân Bắc Hàn chỉ được cung cấp những nhu cầu vật chất tối thiểu. Đến nay Bắc Hàn cũng chỉ hùng mạnh về quân sự, đem vũ khí hạt nhân đe doạ để đòi thực phẩm cứu đói, dân vẫn thường xuyên đói kém, phải trông nhờ hết vào Trung Quốc. Đó chỉ là kết quả của con đường xã hội chủ nghĩa với chế độ chính trị độc tài man rợ.

Nam Hàn tìm theo con đường sáng, từ thập niên 1960 đã áp dụng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, dựa vào nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài và chương trình ODA. Trong nước thì chính sách giáo dục đã đào tạo được tầng lớp chuyên viên cao cấp trong mọi lĩnh vực, phần lớn cũng nhờ ý chí cương quyết và cái tâm sáng của dân tộc Nam Hàn. Ngày nay Nam Hàn xứng đáng đứng vào hàng các quốc gia phát triển, và là một trong số ít nước giàu có nhất trên thế giới.

Yếu tố địa lý

Đối chiếu Nam Hàn với Việt Nam, bối cảnh lịch sử của hai nước đã khác biệt hẳn từ thập niên 1960 trở đi, do bối cảnh địa lý hoàn toàn khác biệt.

Tuy chia đôi nam bắc giống như Việt Nam nhưng Nam Hàn đến năm 1953 đã được hưởng thái bình dù vẫn căng thẳng, trong khi Việt Nam bị chiến tranh tàn phá đến tận năm 1975.

seoul-1980

Seoul 1980

Bắc Hàn từng gánh cuộc chiến tranh uỷ nhiệm và tiến chiếm miền Nam không thành, nhưng cũng không thể gây chiến tranh nổi dậy hay trường kỳ kháng chiến như Việt Nam vì không thể đưa quân chính quy xâm nhập qua đường biển bao quanh bán đảo Triều Tiên như Bắc Việt xâm nhập miền Nam qua đường Trường Sơn, hành lang Lào-Miên.

Nam Hàn phải cám ơn “mẹ đại dương” đã che chở để dồn hết nỗ lực vào công cuộc phát triển kinh tế. Việt Nam Cộng Hoà bảo vệ được bờ biển nhưng không thể ngăn Bắc quân trong hằng chục năm liền quyết dồn bao nhiêu thế hệ thanh niên xẻ dọc Trường Sơn, đâm mũi dáo nhọn xuống đồng bằng miền Trung, hay luồn đến Cambodia rồi lao thẳng vào hướng Sài Gòn…

Việt Nam từ khởi điểm trong hoàn cảnh lịch sử sau năm 1945 hoà bình vãn hồi, không khác các nước Á Đông, nhưng chỉ vì bối cảnh địa lý sát lưng với nước Trung Hoa Cộng sản, lại được cả Trung Quốc lẫn Liên Xô cổ võ cấp viện từ xe tăng đại pháo tên lửa đến hạt gạo và cây kim sợi chỉ, nên đã hăng hái giương lá cờ đầu, giành lấy miền Bắc về cho phe xã hội chủ nghĩa, lại thừa thắng xông lên đem 800 ngàn mạng người lìa bỏ quê nhà đi đánh chiếm miền Nam ruột thịt, lập công đầu trong thế giới Cộng sản anh em.

Một mình Việt Nam miệt mài đem xương máu đồng bào đi đòi xương máu đồng bào để tự mình giải phóng cho mình, trong khi khắp trời Á Đông nơi nơi miệt mài phát triển dân giàu nước mạnh, thịnh vượng văn minh như Singapore, Nam Hàn đã minh chứng.

Mải mê con đường ngược chiều thế giới văn minh, chẳng trách lúc phá sản chủ nghĩa, mở mắt nhìn lại, thì đã muộn sau người hằng thế kỷ.

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng kín: Hãy thắng thói vô cảm.

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng kín: Hãy thắng thói vô cảm.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng Kín Phú Cường

HÃY THẮNG THÓI VÔ CẢM

“Chúa không dửng dưng với chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có chỗ trong lòng của Ngài, Ngài biết đích danh chúng ta, chăm sóc và đi tìm chúng ta mỗi khi chúng ta bỏ Ngài. Chúa quan tâm đến mỗi người chúng ta; tình yêu không cho phép Chúa dửng dưng với những gì xảy đến với chúng ta” Đó là lời trong phần đầu của sứ điệp “Anh em hãy vững lòng” (Giac 5,8), mùa Chay 2015 của Đức Phanxicô.

Dựa trên Lời Chúa, Đức Thánh cho thấy sự ray rứt của mình về thái độ vô cảm đang diễn ra trên toàn thế giới. Với khẳng định, Thiên Chúa là Đấng không vô cảm, “Thiên Chúa không dửng dưng với chúng ta”, Đức Thánh Cha không dấu được nỗi đau thắt, khi đứng trước “hiện tượng toàn cầu hóa thói vô cảm” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Như tiếng kêu cứu thay những phận người xấu số, Đức Thánh Cha đòi cả Hội Thánh, đòi từng giáo xứ, từng cộng đoàn dòng tu, từng Kitô hữu hãy dấn thân, hãy hy sinh, hãy làm một điều gì cụ thể cho mọi người đau khổ; cho các nạn nhân của bạo quyền, bạo lực; cho việc đẩy lùi thói vô cảm, đẩy lùi sự an thân một cách độc ác của một phần lớn nhân loại.

Đức Thánh Cha thẳng thắn nói lên khao khát của mình: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo Hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo giữa lòng đại dương vô cảm!” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

I. HIỆN TƯỢNG VÔ CẢM.

Chúng ta còn nhớ giây phút cảm động trong chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng tại Philippines, giây phút một câu hỏi bất ngờ được cất lên từ miệng của một trẻ em: “Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy?”.

Đó là lời bé gái Glyzelle Iris Palomar 12 tuổi, hỏi Đức Giáo Hoàng. Em cùng một bé trai 14 tuổi là Juan Chura, đại diện những trẻ bụi đời đang được viện Tulayng Kabataan nuôi dưỡng, và là một trong nhiều nhân chứng được chọn để trình bày những hiện trạng và thách đố của xã hội lên Đức Phanxicô, trong buổi gặp gỡ dành riêng cho thanh thiếu niên, tổ chức tại Giáo hoàng Học viện Santo Tomas.

Đang phát biểu chào mừng Đức Thánh Cha, – sau khi kể hoàn cảnh mình là một bé gái bị bỏ rơi, bị vất ra ngoài lề xã hội; từng sống lang thang như bao nhiêu trẻ bụi đời; quá nhiều lần chứng kiến đồng bạn bị cha mẹ bỏ, rồi sa vào cạm bẫy của sự dữ: nghiện ngập, mãi dâm, cướp bóc, tù tội, bị giết hại, bị mọi người lên án, bị chà đạp nhân phẩm, bị chà đạp quyền sống… – em đã không thể đọc tiếp bài dọn sẵn. Em nhìn lên Đức Thánh Cha, bất ngờ đặt câu hỏi như trên. Em không thể đọc tiếp, nhắm nghiền mắt và nức nở khóc. Cố gắng lắm, em kết thúc bằng một câu hỏi khác: “Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế?”. Người ta đã phải dỗ em trước khi đưa em lên bắt tay Đức Giáo Hoàng. Ngài đã đứng dậy, bước xuống nửa đường để ôm em vào lòng.

Hình ảnh một vị Giáo hoàng rưng rưng nước mắt và bé Palomar gục mặt mình vào lòng của ngài, là hình ảnh đẹp không thể nói hết. Hình ảnh đó lập tức được loan tải rộng rãi trên tất cả các hệ thống truyền thông. Nhiều tờ báo đánh giá đây là giây phút cảm động nhất của chuyến tông du.

“Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy?”. Đó là câu hỏi của một em bé. Từ câu hỏi đắng lòng ấy, ta phải thấy những câu hỏi khác: Tại sao một trẻ thơ, một chồi non của thế giới phải ngậm ngùi cất lên câu hỏi đầy thương đau? Thế giới đã làm gì, con người đã làm gì, Hội Thánh đã làm gì cho những kẻ ngày đêm sống trong đau khổ? Đặc biệt, tất cả chúng ta có thấy trách nhiệm của mình trước đau khổ của con người, để đến nỗi, một em bé phải xót xa cất lên lời hỏi đầy thách đố cho đức tin, cho ý thức tôn giáo của cả Hội Thánh?

Chúng ta hãy ra khỏi vỏ bọc đạo đức của mình. Chúng ta hãy quan sát thế giới. Chúng ta hãy liên đới với người bị đau khổ xâu xé. Chúng ta không được đứng ngoài những gì diễn ra trong thân phận nghiệt ngã của người xấu số.

Thế giới không được phép vô cảm. Hội Thánh không được phép vô cảm. Giáo xứ và các cộng đoàn không được phép vô cảm. Từng tín hữu Kitô không được phép vô cảm.

“Em ngươi đâu?” (St 4, 9), là câu hỏi Chúa đang tra vấn từng người chúng ta. Vì đó là lời Chúa hỏi, nên chúng ta phải luôn ghi tâm khắc cốt mà sống, mà hành động để trả lời cho Chúa, nhờ sự nỗ lực dấn thân của mỗi chúng ta. Hãy chiến đấu để chiến thắng sự vô cảm hằng tồn tại nơi mỗi con người.

II. ĐỌC SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2015.

Đức Thánh Cha đòi chúng ta, không phải riêng một cá nhân nào, nhưng là toàn bộ, từ cộng đoàn Hội Thánh, các cộng đoàn giáo xứ, các dòng tu, đến từng Kitô hữu, hãy tỉnh thức, đừng để thái độ vô cảm xâm lấn, thống trị mình.

1. Hội Thánh.

Dù sự vô cảm là thái độ tàn nhẫn mà thế giới có thể gây nên cho mình, Hội Thánh không được phép sợ hãi. Hãy như Chúa Kitô, chúng ta phải đi vào lòng thế giới: “Thiên Chúa không dửng dưng đối với thế giới chúng ta, Ngài yêu thương thế giới đến độ ban Con của Ngài để cứu rỗi chúng ta. Trong mầu nhiệm nhập thể, trong cuộc sống trần thế, trong mầu nhiệm sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa, cánh cửa giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, đã mở ra một lần và luôn mãi. Giáo Hội như bàn tay giữ cho cánh cửa ấy luôn mở, qua việc công bố Lời Chúa, cử hành các bí tích, và làm chứng cho đức tin sống động nhờ đức ái (x. Gl 5,6). Nhưng thế giới lại có xu hướng thu mình lại và đóng chặt cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đi vào thế giới và thế giới đến với Thiên Chúa. Thế nên nếu Giáo Hội, như là bàn tay, có bị từ khước, bị nghiền nát và mang thương tích thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Qua việc trưng dẫn câu Kinh Thánh: “Nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau” (1Cr 12,26), Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và Hội Thánh. Không thể đơn phương chống lại căn bệnh vô cảm, chúng ta cần chiến đấu cùng toàn thể Hội Thánh.

Cả Hội Thánh nên một trong Chúa Kitô, liên kết với Chúa Kitô. Vì thế, hành động của Chúa Kitô phải trở thành hành động của cả Hội Thánh. Nếu Chúa Kitô đã cúi xuống rửa chân cho Hội Thánh, thì Hội Thánh cũng phải theo gương Chúa Kitô mà phục vụ con người. Bởi “chỉ có người nào ‘dự phần’ với Ngài (Ga 13, 18) thì mới có thể phục vụ người khác” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đặc biệt, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi hãy sống bí tích Thánh Thể. Chỉ có nơi bí tích kỳ diệu này, “chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Hãy nhớ, Chúa Kitô không vô cảm, vì thế, khi đã là thân mình Chúa, “không có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không được dửng dưng đối với nhau.‘Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau; và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy’(1 Cr 12,26)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đừng chần chừ thêm nữa, nhưng hãy bắt tay làm một cái gì đó cho người bên cạnh ngay từ bây giờ. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để bày tỏ mối quan tâm này đối với người khác. Những dấu chỉ tuy bé nhỏ nhưng cụ thể này nói lên rằng chúng ta thuộc về một cộng đoàn Hội Thánh duy nhất.

2. Các giáo xứ và các cộng đoàn.

Bắt đầu từ lời hỏi: “Em ngươi đâu?” của sách Sáng thế, Đức Thánh Cha đòi từng giáo xứ, từng cộng đoàn phải trả lời những câu hỏi cấp thiết của ngài: “Những gì đã nói về Giáo Hội hoàn vũ thì cũng phải được áp dụng cho đời sống của các giáo xứ và các cộng đoàn. Các tổ chức Giáo Hội này có giúp chúng ta cảm nghiệm được mình thuộc về một thân mình duy nhất hay không? Một thân mình lãnh nhận và chia sẻ những gì Thiên Chúa muốn ban tặng? Một thân mình biết nhận ra và chăm sóc những phần tử yếu đuối nhất, nghèo khổ nhất và bé nhỏ nhất? Hay chúng ta trốn chạy vào một tình yêu phổ quát, ôm trọn cả thế giới mà lại không nhìn thấy người nghèo Lazarô ngồi trước cửa nhà đóng kín của chúng ta? (x.Lc 16,19-31)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đức Giáo Hoàng nhắc nhở chúng ta, ngay cả các thánh trên thiên quốc, dù đã hoàn thành cuộc đời trần thế, dù đã chiến thắng thói vô cảm, vẫn “không hoan hỉ vì đã quay lưng với những đau khổ của trần thế để vui mừng trong cảnh huy hoàng của riêng mình” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Để minh chứng rằng,“các thánh vẫn đồng hành với chúng ta trên đường lữ thứ”, niềm vui của các ngài chưa trọn vẹn, khi “tình yêu chưa thấm nhập vào toàn thế giới”, Đức Thánh Cha đã nhắc đến lời một vị thánh trẻ nổi tiếng: “Thánh Têrêsa Lisieux, tiến sĩ Hội Thánh, đã bày tỏ xác tín rằng niềm vui trên trời về chiến thắng của Tình yêu chịu đóng đinh vẫn chưa trọn vẹn bao lâu còn một người trên trần thế phải chịu đau khổ và khóc than: ‘Con hy vọng rằng ở trên trời con sẽ không phải ngồi không, mong ước của con là vẫn tiếp tục làm việc cho Giáo Hội và cho các linh hồn’ (Thư 254 ngày 14.7.1897)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Các thánh trên trời mà còn “không phải ngồi không”, thì nhất thiết, chúng ta không được phép chểnh mảng bổn phận. Đức Thánh Cha đề nghị hai cách để giáo xứ và cộng đoàn dấn thân cho sự không vô cảm: 1. Liên kết với các thánh “trong chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh”, để đủ sức mạnh “vượt thắng thói vô cảm và cứng lòng”, 2. “Ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo Hội” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

3. Mỗi tín hữu.

Từ gợi hứng của thánh Giacôbê, “Anh em hãy vững lòng!” (Giac 5,8), Đức Giáo Hoàng đưa ra nhận xét:“Cả trong tư cách là những cá nhân, chúng ta cũng bị cám dỗ sống vô cảm. Khi bị chìm ngập trong những tin tức và hình ảnh kinh hoàng về đau khổ của con người, chúng ta thường cảm thấy mình hoàn toàn không có khả năng giúp đỡ” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Từ nhận xét ấy, Đức Phanxicô đặt vấn đề: “Phải làm gì để không bị vướng vào cái vòng xoáy khốn cùng và bất lực ấy?”. Ngài đòi mỗi cá nhân hãy giải quyết vấn đề tưởng chừng bất lực ấy, dựa trên ba nền tảng:

a. Cầu nguyện:“Chúng ta có thể hiệp thông cầu nguyện với Giáo Hội ở trần thế và Giáo Hội trên thiên quốc. Chúng ta đừng coi thường lời cầu nguyện có sức mạnh của biết bao người hiệp nhất với nhau! Sáng kiến 24 giờ cho Chúa, mà tôi mong ước sẽ được cử hành vào các ngày 13-14 tháng Ba trong toàn Giáo Hội, cả ở cấp giáo phận, sẽ là dấu chỉ cho thấy cần thiết phải cầu nguyện” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

b. Bác ái: “chúng ta có thể giúp đỡ bằng những việc bác ái, cho những người ở gần cũng như những người ở xa Giáo Hội, qua nhiều tổ chức bác ái của Giáo Hội. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để bày tỏ mối quan tâm này đối với người khác, qua những dấu chỉ –tuy bé nhỏ nhưng cụ thể– nói lên rằng chúng ta thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

c. Hoán cải: “đau khổ của người khác là một lời mời gọi hoán cải, vì sự thiếu thốn của họ nhắc nhở tôi rằng cuộc đời tôi rất mong manh, và tôi lệ thuộc vào Thiên Chúa và anh chị em mình. Nếu chúng ta khiêm tốn cầu xin ơn Chúa và chấp nhận những giới hạn của mình, thì chúng ta sẽ tin tưởng vào những khả năng vô biên mà tình yêu của Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta. Và chúng ta có thể chống lại cám dỗ của ma quỷ khi tưởng mình có thể cứu thoát bản thân và thế giới bằng sức riêng mình” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Màu tím Mùa Chay diễn tả sự sầu khổ và lòng thống hối trong tâm hồn. Nhờ đó, mỗi Kitô hữu trở về cùng Thiên Chúa tình yêu. Ý thức thân phận mỏng dòn của mình, ta “đừng sợ”, nhưng can đảm nhìn lên Thánh giá, cậy nhờ sự chuyển cầu của Đức Maria, triều thần thánh và mọi anh chị em nơi dương thế, mà gắng sống chính tình yêu của Chúa, như Chúa yêu ta.

Với lòng chân thành, muốn thực tâm đẩy lùi thói vô cảm, từng người hãy cùng vị Cha chung tha thiết cầu nguyện: “xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa (kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu)” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Nhờ đó, con tim mỗi người trở nên đền thờ Chúa Thánh thần, Đấng dẫn dắt ta đi trên những nẻo đường tình yêu, đến với anh chị em bằng việc chia sẻ chính bản thân ta. Rồi nhờ đến cùng anh chị em, ta nhận ra sự nghèo nàn của chính mình vốn cần được Thiên Chúa làm cho đầy tràn.

Có nhận ra sự nghèo nàn của mình, ta càng dễ dàng để Chúa ưốn nắn. Nhờ đó, ta “có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại, một con tim không thu mình lại, không vô cảm hay rơi vào cám dỗ của nạn toàn cầu hóa thói vô cảm” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

III. DỤ NGÔN NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU (x.Lc 10, 30-37).

Năm 2015, năm Đời Sống Thánh Hiến. Chúng ta hãy hồi tâm để ăn năn tội về những lỗi phạm đến đời thánh hiến và trong đời thánh hiến của chúng ta. Tôi thiết nghĩ, hình ảnh tư tế, Lêvi trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu đáng để chúng ta suy nghĩ mà cãi thiện đời sống, mà ăn năn thống hối theo tinh thần mùa chay, mà chết cho con người cũ, phục sinh con người mới trong ơn phục sinh của Chúa Kitô.

Kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô cảm của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…”.

Tư tế là ai? Lêvi là ai? Đó là những người tương đương bậc “chân tu” thời đại. Họ là giám mục, linh mục của Chúa.

Qua hình ảnh tư tế, Lêvi, đã làm ngơ, đã thể hiện sự vô cảm đến độ độc ác trước thực trạng của người bị cướp đánh có nguy cơ mất mạng sống, trở thành một gương mù, một phản chứng lớn vô cùng đối với chính đời dâng hiến của họ.

Mặc dù Chúa không trực tiếp kết tội, nhưng trong mấy từ “tránh qua bên kia mà đi”, cho thấy Chúa không bằng lòng. Tại sao lại tránh?

“Tránh qua bên kia” nghĩa là người bị tấn công đang bất động ngay dưới chân mình, cản bước mình. Ngay dưới chân nên mới phải “tránh” mà đi!

Họ đã bước vào đời hiến dâng, họ dạy người khác phải hy sinh, phải hướng thiện, phải chấp nhận bỏ mình vì tha nhân, sao chính họ lại không hiến thân?

Họ dạy phải nhân từ, phảy yêu thương, sao họ vô cảm trước nỗi đau của đồng loại?

Thôi thì hãy cố tìm lý lẽ tốt để biện minh giúp những người đang bị “kết tội”: Họ sợ hãi! Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ nhiễm ô uế.

Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào người ngoại giáo, nhất là đụng chạm vào xác chết sẽ bị nhiễm ô uế.

Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua bên kia mà đi”.

Dù vậy, sự “kết tội” Chúa quy cho những nhà “chân tu” của dụ ngôn, khó có ngôn từ khả dĩ giúp họ có thể “chạy tội”.

Mặt khác, vì lời Chúa dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”, và các tư tế, Lêvi xưa không được phép sợ mà “tránh sang bên kia”, thì những nhà “chân tu” ngày nay càng không được phép vô cảm.

Thế nhưng, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như sợ không được xây nhà thờ mà đành nhắm mắt làm ngơ trước cảnh bất công của giới cầm quyến.

Hoặc vì quyền lợi tư riêng mà ngậm miệng trước cảnh người nghèo bị áp bức. Hoặc vì để dễ sống, để yên thân sống mà không thèm đếm xỉa gì đến những anh chị em đang bị đố kỵ, bị rẻ rúng, bị chà đạp quyền sống…

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị “cướp” như hình ảnh người bị cướp trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu.

Đó là những bào thai không phương thế tự vệ, vẫn bị giết, bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ không thương tiếc. Cho đến nay, dù mỗi năm Hội đồng Giám mục Việt Nam họp hai lần, vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức nào phản đối, hay chí ít là kiến nghị về luật cho phép phá thai. Chính do luật này, mà ngày nay Việt Nam đã “được nâng lên” hàng “top” thế giới. Thật mỉa mai! Thật chua xót! Một quốc gia nghèo, lạc hậu, không phải vươn lên hết nghèo, hết lạc hậu, mà lại “vươn lên” hàng đầu về thảm trạng phá thai.

Đó là những trẻ em bị cướp mất tuổi thơ khi người ta buộc các em phải lao động nặng nhọc, phải tham gia vào con đường tội ác, phải đem chính giá trị tuổi thơ của mình phục vụ những kẻ mang hình người nhưng lương tâm thú tính trong các nhà chứa, trong các đường dây tình dục… Và còn biết bao nhiêu mảnh đời trẻ thơ phải chấp nhận sống chui rúc ở bãi rác, gầm cầu, phố chợ…

Đó còn là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, mất định hướng sống, mất niềm hy vọng sống. Cũng có thể họ là những người sống lương thiện, nhưng bị nghi ngờ, bị hiểu lầm, bị chèn ép, bị bóc lột, bị hiếp đáp…

Đó còn là những cụ già bị bỏ quên trên góc phố, bị mất tất cả sức lao động, nhưng vẫn phải lê thân từng ngày đội nắng, đội mưa bán vé số, lượm ve chai, ngửa tay xin lòng trắc ẩn của mọi người…

Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lẽ ra chúng ta phải mang trong lòng mình, khắc sâu trong nội tâm mình tình yêu của Thiên Chúa, thái độ âu yếm, cảm thông của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa dạy yêu thương để sống nhân ái hơn, quan tâm hơn, gần cận anh chị em của mình hơn…

Trong khi đó, nhiều người không đứng trong hàng ngũ “chân tu” như chúng ta, thậm chí họ chỉ là người ngoại giáo như người Samari ngoại giáo, lại sống đức tin, sống lời của Chúa, sống phù hợp thánh ý Chúa, sống đúng theo lề luật Chúa.

Thật trớ trêu, thật mâu thuẫn, và đáng xấu hỗ cho những người sống đời thánh hiến có thói vô cảm của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn: Bởi họ luôn là biểu tượng của những người sống gần Thiên Chúa, nhưng hình như lòng họ không có Chúa bao nhiêu. Còn những người Samaritanô giữa đời, cứ tưởng nơi lòng họ “chất đời” nhiều hơn “chất Chúa”, thì hành động của họ lại cho thấy lòng họ “đầy Chúa”.

Chúng ta chỉ hãy mang hình ảnh người ngoại giáo Samaritanô hiên ngang sống cho đức tin, hiên ngang lao vào mọi mặt trận của đời sống con người để đánh phá mọi thứ “cướp”, trả lại cho con người cuộc sống yên bình, hạnh phúc.

Bất cứ khi nào ý thức mình là người sống trong đời tu, ý thức mình đã hiến dâng cho Chúa, thì càng can đảm bênh vực sự thật, công lý, tình yêu, con người… Hãy loại trừ hình ảnh tư tế, Lêvi ích kỷ, chỉ tìm vinh thân mà bỏ qua mọi điều tốt phải thực thi, không hề đoái hoài đến những con người bất hạnh, dù họ có ở ngay trước mắt mình.

Càng sống lâu trong đời tu, những người đã thánh hiến cho Chúa càng phải học lấy tinh thần bất khả nhượng của các thánh Tử Đạo Việt Nam, mà đối đầu trước mọi gai chướng, mọi thương đau, mọi cùng cực, mọi bẻ bàng của nhiều anh chị em quanh mình.

Tất cả chúng ta, dù là tu sĩ, hay linh mục, đã là Kitô hữu, hãy đào tạo lương tâm mình thành người hữu dụng cho Thiên Chúa, cho Hội Thánh và cho cuộc đời. Hãy đào tạo mình thành người có tâm, biết chạnh lòng thương, biết nhìn đến nhu cầu của con người, không sống vô tâm, không sợ hãi bất cứ điều gì. Vì chính khi sống vì hạnh phúc của người khác, ta sẽ bắt gặp hạnh phúc của chính mình.

Chúng ta hãy đinh ninh luôn luôn lời Chúa kết luận cho dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu: “Hãy đi, và làm như vậy” (Lc 10, 37), để dấn thân, để can đảm, để ra khỏi chính mình, để sáng danh Chúa, để làm cho không còn tình trạng “cướp”.

Chiều ngày áp lễ thánh Giuse

18.3.2015

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới

Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới


Nguyễn Hưng Quốc

Trên thế giới, trong nửa sau thế kỷ 20, không có chính khách nào thành công và được ngưỡng mộ như là Lý Quang Diệu (1923-2015).

Thành công đầu tiên là ông nắm quyền lực trong một thời gian rất lâu. Có thể nói ông là một trong những thủ tướng dân cử tại vị lâu nhất trên thế giới, trong hơn 30 năm, từ 1959 đến 1990. Sau đó, với chức bộ trưởng danh dự (senior minister) và người hướng dẫn các bộ trưởng khác (minister mentor), ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong việc phác hoạ chính sách phát triển cho Singapore. Từ năm 2011, ông chính thức rút lui khỏi bộ máy cầm quyền, nhưng vẫn tiếp tục làm dân biểu Quốc hội, ở đó, tiếng nói của ông vẫn được lắng nghe một cách đặc biệt, một phần vì thủ tướng đương nhiệm, Lý Hiển Long, là con trai của ông, phần khác, quan trọng hơn, vì những ý kiến của ông bao giờ cũng được xem là khôn ngoan và sắc sảo không những chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế.

Thành công thứ hai của Lý Quang Diệu là ông đã làm cho đảng Hành động Nhân dân (People’s Action Party – PAP) do ông sáng lập với một số bạn bè từ năm 1954 trở thành một đảng cầm quyền có uy tín và sức mạnh hầu như vô địch tại Singapore trong suốt 60 năm qua. Trong cuộc bầu cử năm 1963, đảng của ông chiếm 37 trên tổng số 51 chiếc ghế Quốc hội; trong các cuộc bầu cử sau đó, từ năm 1968 đến 1980, đảng của ông chiếm toàn bộ số ghế. Chỉ từ năm 1984 trở đi, trong Quốc hội mới thấp thoáng có vài ba chiếc ghế thuộc phe đối lập. Cho đến nay, đảng Hành động Nhân dân vẫn giữ ưu thế tuyệt đối trong Quốc hội.

Thành công thứ ba và cũng là thành công to lớn nhất của Lý Quang Diệu là, trong suốt mấy chục năm, ông đã biến Singapore từ một quốc gia nhỏ xíu, nghèo đói và lạc hậu trở thành một trong những quốc gia phát triển và có thu nhập trên đầu người thuộc vào hạng cao nhất trên thế giới.

Xin lưu ý Singapore là một trong vài quốc gia nhỏ và có mật độ dân cư cao nhất thế giới. Với diện tích khoảng 700 cây số vuông, Singapore chỉ bằng một nửa thành phố Đà Nẵng của Việt Nam. Cái đảo quốc này không có đất cho nông nghiệp, thậm chí, không đủ nguồn nước ngọt để sử dụng, hầu như không có bất cứ một thứ tài nguyên nào cả. Vào những năm mới được tự trị cũng là lúc Lý Quang Diệu mới lên làm Thủ tướng, Singapore là một quốc gia rất nghèo nàn với trình độ dân trí rất thấp, hơn nữa, lại bị chia rẽ trầm trọng về sắc tộc. Sự chia rẽ trầm trọng đến độ Malaysia không muốn nhận Singapore làm một thành viên trong Liên bang Malaysia dù hầu hết các chính khách tại Singapore, kể cả Lý Quang Diệu, khao khát điều đó: Hầu như mọi người đều cho, với những bất lợi về phương diện địa lý và một số dân ít ỏi như vậy, Singapore rất khó phát triển và bảo vệ được chủ quyền của mình sau khi được Anh trao trả độc lập.

Thế mà, chỉ mấy chục năm sau, dù dân số vẫn rất thấp (hiện nay khoảng 5 triệu rưỡi), Singapore đã trở thành một trong những quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới. Đó là quốc gia có thu nhập trên đầu người thuộc loại cao nhất trên thế giới; có những trường đại học được xếp vào hạng ưu tú nhất trên thế giới; nơi có môi trường làm ăn thuận lợi và dễ dàng nhất trên thế giới, quốc gia ít tham nhũng và minh bạch nhất thế giới; nơi có hãng hàng không và phi trường được xem là uy tín nhất thế giới; một hải cảng tấp nập nhất thế giới; những đường phố sạch sẽ nhất thế giới, v.v…

Sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc của Singapore xuất phát từ nhiều lý do nhưng hầu như tất cả các nhà phân tích chính trị và nghiên cứu lịch sử đều đồng ý với nhau ở một điểm: lý do quan trọng nhất là sự lãnh đạo khôn ngoan của Lý Quang Diệu. Ông được xem là người lập quốc, một vị cha già của dân tộc. Nhắc đến Singapore, nhiều học giả gọi đó là Singapore của Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew’s Singapore).

Khác với các “vị cha già” (founding father) khác, từ Mao Trạch Đông đến Fidel Castro, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh, những kẻ chỉ đẩy đất nước vào chiến tranh hoặc khốn cùng, “vị cha già” Lý Quang Diệu làm cho đất nước ông càng ngày càng văn minh và giàu có, được cả thế giới kính trọng.

Với tư cách một kiến trúc sư, người xây dựng một nước Singapore hiện đại, không phải Lý Quang Diệu không có khuyết điểm. Khuyết điểm nổi bật nhất của ông là độc tài. Ông trấn áp những người đối lập, tìm mọi cách để ngăn chận sự phát triển của xã hội dân sự, ưu tiên cho những thành phần ưu tú, để cho gia đình ông nắm giữ những chức vụ cao cấp trong bộ máy chính quyền cũng như trong lãnh vực kinh tế, có những chủ trương khắc nghiệt để bảo vệ một Singapore trong sạch và lành mạnh. Tuy nhiên, phần đông dân chúng vẫn hài lòng với sự độc tài ấy. Họ hiểu nguyên nhân của sự độc tài là từ thiện chí muốn, một, tạo nên một hệ thống quản trị tốt và hữu hiệu và hai, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá đất nước của Lý Quang Diệu. Bởi vậy, biết ông độc tài, người ta vẫn yêu mến và kính trọng ông. Có thể nói, Lý Quang Diệu là một trong những nhà độc tài khả ái và khả kính hiếm hoi trên thế giới. Hầu như tất cả các lãnh tụ trên thế giới, khi nói về ông, bao giờ cũng tỏ vẻ đầy tôn trọng. Các tổng thống Mỹ, từ Richard Nixon đến Bill Clinton và George H.W. Bush; các thủ tướng Anh, từ Margaret Thatcher đến Tony Blair, đều nhiệt liệt khen ngợi ông.

Nhưng sự thành công của Lý Quang Diệu không dừng lại ở phạm vi Singapore. Ông được xem là một nhà chiến lược thiên tài ở châu Á. Nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, thường xin ý kiến của ông trong nỗ lực hiện đại hoá đất nước của họ. Ở phạm vi quốc tế, một trong những đóng góp nổi bật của Lý Quang Diệu là đưa ra khái niệm bảng giá trị Á châu (Asian virtue) với nội dung chính là: khác với Tây phương nơi các bảng giá trị được xây dựng trên chủ nghĩa cá nhân, ở châu Á, dưới ảnh hưởng của Nho giáo và các nền văn hoá bản địa, tinh thần tập thể cao hơn hẳn, ở đó, người ta tìm kiếm sự đồng thuận hơn là cạnh tranh, nhắm đến cái chung hơn cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước cao hơn quyền lợi của gia đình và quyền lợi của gia đình cao hơn quyền lợi của bản thân. Dĩ nhiên, người ta thừa biết quan điểm này của Lý Quang Diệu chỉ là một sự biện hộ cho các chính sách bị xem là độc tài và độc đoán của ông. Biết vậy, nhưng người ta cũng không thể không ghi nhận là với quan điểm ấy, ông trở thành một thủ lãnh tinh thần của châu Á, một Kissinger ở Phương Đông, như nhận định của một số học giả.

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Chuacuuthe.com


VRNs (25.03.2015) – Sàigòn – Một đoạn video lan truyền trên các trang mạng xã hội có độ dài gần 5 phút mô tả cảnh một cô giáo quát tháo một học sinh nữ, yêu cầu nữ sinh này đứng lại nhưng em đã bỏ chạy, ngay lập tức cô đã chạy lên ghế, rượt đuổi em học sinh ngay trong lớp học. Sau khi cô giáo bắt được nữ sinh này thì cô liên tục tát vào mặt, đánh vào đầu với những lời lẽ lăng mạ trước sự chứng kiến của nhiều em học sinh khác cùng lớp.

Trong đoạn video cũng cho thấy, một nữ sinh khác đã lên tiếng bảo vệ nữ sinh này sau khi chứng kiến cảnh cô giáo hành hung bạn, nhưng cô giáo tiếp tục dùng những lời lẽ đe dọa cả hai em học sinh.

Sau khi đoạn video trên được loan tải thì có nhiều phản ứng gay gắt về nền giáo dục VN sau gần 40 năm dưới thời XHCN.

Hông Trân thốt lên: “Giáo viên gì mà thiếu nhân cách quá!”. Thanh Pho Hao Hoa kêu lên: “Cô giáo kiểu gì vậy, dạy học sinh như thế này không thể chấp nhận được.” Trungthu Nguyen nói cụt lủn: “Cô giáo với nền giáo dục của cộng sản.”

Nhiều bạn đọc khác đau lòng khi nhìn thấy cô giáo rượt đuổi, hành hung học sinh và lo lắng hơn cho vận mệnh đất nước khi thế hệ trẻ đã và đang sống dưới nền giáo dục định hướng bạo lực, vô cảm và vô trách nhiệm của nhà cầm quyền cs gây ra suốt gần 40 năm qua.

Tuyen Nguyenngoc chán nản: “Một nền Giáo dục quá tồi tệ nhự vậy đủ để đánh giá sự phát triển của một đất nước ra sao…” Cong Hung phẫn nộ: “Trăm năm trồng người XHCN là đây! Người lớn đang dạy bạo lực cho trẻ nhỏ!”. Bùi Văn Tiến nói: “Hành vi ứng xử của Nhà giáo tác động trực tiếp đến hàng triệu học sinh được ví như ‘trang giấy trắng’, gián tiếp đến hàng chục triệu con người trong xã hội.”

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ‘bạo lực học đường’ càng ngày càng gia tăng ở độ tuổi học sinh. Đó là nhận xét của bạn Nhuhoa Nguyen, bạn này nói tiếp: “Chỉ mới có 40 năm ‘trồng người’ thôi, còn tới ’60 năm’ nữa mới đủ ‘Trăm năm trồng người’. Có thể từ bây giờ tới 60 năm nữa sẽ có cảnh bạo lực từ trường Mẫu giáo.”

Còn bạn đọc Phạm Gia Bình phản ứng mạnh: “Không thể tưởng tượng nổi. Cô giáo như vậy, thì bảo sao xã hội không loạn. Bộ giáo dục sẽ phản ứng ra sao đây? Với hành vi như vậy, cô giáo trên đã vi phạm một loạt các quy định như: đạo đức và tư cách nhà giáo, vi phạm luật bảo vệ trẻ em, lăng nhục và đe dọa tính mạng người khác, hành hung xâm phạm thân thể người khác. Với các vi phạm trên cô giáo trên phải bị đuổi việc và xử lý theo đúng pháp luật. Nếu cơ quan bảo vệ pháp luật không chủ động tham gia thì gia đình học sinh nên kiện cô giáo ra tòa.”

Tuy nhiên, rất nhiều bạn đọc khác lại đồng tình và thông cảm với cách hành xử của cô giáo trong đoạn video trên, bởi vì họ cho rằng, ngày nay, các em học sinh cứng đầu cứng cổ, cãi chày cãi cối, tính tình hung hăng… nên cần phải trừng trị thẳng tay như vậy.

Kelvin Anhvu nói: “Cô giáo đánh học sinh là sai nhưng gặp học sinh như thế này thì bực không chịu được. Ai đời, cô nói trò đứng lại thì trò không thèm nghe, còn cãi cả cô nữa, chẳng xem giáo viên ra gì.” Xa Que tiếp lời: “Đứng vào địa vị của cô giáo mới hiểu, bởi vì học sinh thời nay cái tốt thì không chịu học, mà cái xấu thì học rất nhanh.” Ước Mơ Nhỏ cho biết: “Cô giáo không như thế này thì làm sao mà trị được lũ học sinh hư hỏng. Phải có người như thế để chúng nó phải sợ mà lo lắng học hành chứ. Học sinh giờ mất nết lắm, không trị sẽ hư hỏng. Khổ cho các thầy cô giáo.”

Cũng có một số bạn đọc khác cho rằng, dư luận không nên đổ hết mọi tội lên đầu giáo viên. Kaoh Hmin Neugyn cho ý kiến: “Ngày trước, thầy cô giáo cũng đánh và trừng phạt học sinh bằng cách nằm lên bàn roi nện, khẻ tay, quỳ gối, viết phạt… nhưng học sinh thời đó không ngỗ nghịch, hay trả treo như bây giờ. Do đó, không thể buộc tội nhà giáo.”

Thế nhưng, bạn đọc tên là Diana Vuong không đồng tình với ý kiến của Kaoh Hmin Neugyn, bạn này nói: “Đồng ý với anh Kaoh là không nên đổ hết lỗi cho Thầy Cô Giáo. Một phần do gia đình, một phần do xã hội nhưng Thầy Cô Giáo ít nhất cũng phải làm gương cho học trò, tác phong đứng đắn một chút chứ ai mà rượt đuổi, đánh học trò như kẻ vô ý thức như vậy.” Còn bạn đọc Rock Xuyên Màn Đêm đặt lại vấn đề với Kaoh Hmin Neugyn: “Dù học sinh có hỗn láo như thế nào đi chăng nữa, thì cách hành xử của cô giáo như vậy có đúng không?”.

Như vậy là, chỉ qua một số bình luận tiêu biểu chúng tôi trích dẫn trên đã đủ cả những nguyên nhân từ chế độ chính trị, xã hội, luật pháp, xưa và nay, phê phán, ủng hộ… Thế nhưng, vấn đề cần đặt ra làm thế nào để không còn tái diễn những vụ việc tương tự thì lại ít người nêu lên. Phải chăng tâm lý chấp nhận sống chung với cái ác đã ngấm dần vào mỗi người dân VN, khiến mỗi người dân chỉ còn biết phê phán khi sự việc đã xẩy ra, còn xắn tay áo lên ngăn chặn sự ác từ trước khi chúng có thể hình thành thì thuộc nhiệm vụ người khác, mà dân gian thường mỉa mai ‘đã có đảng và nhà nước lo’! Người ta chỉ vẽ lên khẩu hiệu ‘tiên học lễ…’, còn Luật Giáo dục thì qui định hẳn một điều cấm ‘truyền bá tôn giáo…’. Trong khi xưa nay có ai nghe tôn giáo truyền bá điều ác? Người ta phát động học tập đạo đức…, nhưng đạo đức ấy đòi hỏi phải đấu tranh giai cấp, phải sử dụng bạo lực, phải trấn áp, phải cuớp, phải giành, phải đấu tố, phải giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Vâng, ‘gieo hạt nào, gặt quả ấy’.

Huyền Trang, Pv VRNs

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Tien Phan

RFA

NYC149403.jpg 

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975 

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta không thể bỏ qua Tết Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa năm 1972.

Miền Nam trước 1975 đang sống một cuộc sống bình yên, mọi người dân đều được Dân chủ, được bày tỏ chính kiến của mình và được tham gia bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng cộng sản Bắc Việt không chịu để yên cho người dân Miền nam, không chịu thực hiện hai hiệp định họ đã đặt bút ký vào đó mà lại vi phạm trắng trợn rồi để lại biết bao tang tóc, đau khổ cho hàng ngàn, hàng triệu gia đình Miền Nam trong đó có gia đình tôi.

Và đây là một ký ức, một câu chuyện hoàn toàn sự thật, không hề hư cấu dù một ý nhỏ nào của gia đình tôi trong những ngày tháng đó.

Bà Nội tôi sinh ra được năm người con, hai gái và ba trai. Trong năm người con đó có Ba tôi, tất cả đều phục vụ cho chế độ VNCH. Ba người con trai và một người rể tham gia Quân đội VNCH, còn một người con dâu tham gia bên hành chánh ở Quận thuộc tỉnh Quảng Tín. Với gia đình tôi thời kỳ đó là một niềm vinh hạnh nhất. Rồi chiến tranh, một cuộc chiến phi lý huynh đệ tương tàn đã cướp đi tất cả những con người đó. Để lại biết bao tang thương, ly tán và bất hạnh cho gia đình tôi, khi tôi mới vừa lên năm tuổi.

Cái tháng 3 đen của gia đình tôi là tháng 3/1972. Trong một tháng mà gia đình bà nội tôi phải chịu mất đi vĩnh viễn sáu người. Ngày đó mặc dù còn rất nhỏ nhưng tôi vẫn còn nhớ nội tôi phải đội trên mái đầu đến sáu chiếc khăn tang. Có sự tang thương nào bằng, có sự mất mát nào lớn lao đến thế, có nỗi đau nào bằng nỗi đau mẹ mất con, vợ mất chồng và con mất cha?

Đầu tháng 3/1972. Một tin như sét đánh vào gia đình tôi là Chú tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khe sanh, Quảng Trị trong Thiết đoàn tăng thiết giáp đã hy sinh. Lúc đó chú tôi mới tròn 27 tuổi và thím tôi đang mang thai được 7 tháng.

Ba tôi đang công tác ở đơn vị quân vận đóng tại Đà Nẵng nghe tin đó và đưa cả gia đình tôi về lập bàn thờ cho chú tôi ở quê nhà nội tôi là tỉnh Quảng Tín. Lập xong bàn thờ cho chú tôi thì Ba tôi nhận được lệnh hành quân ra Quảng trị. Nghe Má tôi kể lại là lúc đó cộng sản bắc việt đang tấn công thành cổ Quảng Trị dữ dội lắm và VNCH đang ra sức đánh để tái chiếm lại. Đơn vị Ba tôi phải vận chuyển nhu yếu phẩm và vũ khí đạn dược ra để tiếp tế cho Thuỷ Quân Lục Chiến thời bấy giờ đang giành giật lại từng tấc đất.

Ba tôi đi hành quân được một tuần lễ thì một thông tin báo về cho gia đình tôi như sét đánh tiếp là đoàn chiến xa của Ba tôi đã bị cộng sản Bắc việt chặn đánh tại cầu Mỹ Chánh. Tất cả đoàn xe lọt vào ổ phục kích cộng sản nên đã bị thiêu rụi không còn một chiếc nào trở về được do pháo kích dữ dội của cộng sản. Lúc bây giờ Má tôi, Nội tôi và cả gia đình tôi như chết lặng đi trong cơn tuyệt vọng và tan gtóc. Rồi sau đó một di ảnh và một cái bàn thờ nữa đã đặt ở nhà nội tôi với mùi khói hương u ám, chết chóc bao trùm lên cả gia đình tôi. Từ mẹ già, vợ hiền đến con thơ ai nấy đều chít trên đầu những chiếc khăn tang trắng.

Lúc ba tôi tử trận thì má tôi đang có bầu sắp sanh hai em tôi (thai song sinh). Mặc dầu đau thương cực độ nhưng gia đình tôi hy vọng sẽ đến nơi lửa đạn khốc liệt đó để tìm xác ba và chú tôi đem về với đất mẹ. Nhưng hoàn toàn tuyệt vọng cho dù chỉ cần mong mỏi tìm thấy được chút gì còn lại của hai cái thân xác ba và chú tôi. Tất cả hai con người đó, hai thân xác đó không còn chút gì để tìm thấy được nữa.

Bất hạnh không dừng lại ở đó với gia đình tôi. Ngày đó cả gia đình tôi đều dồn vào mỗi công việc là đi tìm kiếm cho bằng được thân xác của ba và chú tôi đem về đất mẹ. Tất cả những nơi nào nghe ngóng được là Quân lực VNCH thu gom chiến trường và đưa xác của tử sĩ về vùng an toàn là gia đình tôi đều tìm đến. Nhưng tất cả đều tuyệt vọng, không tìm được chút gì còn sót lại cả. Nỗi đau chồng chất nỗi đau.

NYC149404-350.jpg

Những người mẹ mang con di tản ngày 30/4/1975. Hiroji Kubota/Magnum Photos

Có lẽ do đau buồn quá nhiều, tuyệt vọng quá nhiều và đi lại tìm kiếm quá nhiều nên má tôi và người bác dâu của tôi đã không giữ được những sinh linh trong bào thai non nớt đó. Cả hai đều sanh ra nhưng những sinh linh vô tội đó không sống được trên cõi đời này nữa. Bác dâu tôi cũng mang thai song sinh như má tôi. Bốn con người vô tội nữa cũng ra đi vĩnh viễn.

Như vậy là trong tháng 3/1972 gia đình tôi đã mất đi sáu người. Cuộc chiến phi lý này đã cướp đi những gì bình yên và hạnh phúc nhất của một gia đình trong nhiều gia đình ở miền nam lúc bấy giờ. Hậu quả của nó để lại không hề quên lãng được. Những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi sống làm sao trong nhũng ngày loạn lạc còn lại. Bà Nội tôi như điên dại, Má và Thím dâu tôi như chết rồi, còn chúng tôi thì ngơ ngác, ngây thơ và bơ vơ cứ hỏi sao Ba không về hả Má.

Ngày 30/4/1975. Sài gòn thất thủ, kẻ ở người đi, kẻ cười người khóc, ly tan ly tán. Trước ngày Sài gòn thất thủ, gia đình tôi chỉ còn lại hai người đàn ông duy nhất mà gia đình có thể dựa vào đó để mà sống những ngày còn lại đó là Bác tôi và người Dượng chồng cô tôi. Lúc đó đang còn ở Quân đội VNCH. Nhưng rồi họ cũng mất đi từ cái tháng 4 đen đó. Sau 30/4 không còn một tin tức gì với hai người đó nữa. Không biết họ đã sống chết như thế nào?  Sau 30/4 gia đình tôi chỉ còn lại bà già, goá phụ và trẻ mồ côi mà thôi. Cuộc chiến này đã cướp hết những gì gia đình tôi đã có trước đây và mất đi từ năm1972 đến 1975.

Bốn mươi năm trôi qua, bốn mươi năm thành trẻ mồ côi cha. Thời gian chừng ấy  đủ để một đứa trẻ lúc đó đến bây giờ cũng ngoài 40 tuổi suy ngẫm, nhận thức mà đem vào ký ức. Bốn mươi năm một gia đình toàn bà già và con nít sống trong chế độ cộng sản.

Tôi không muốn nhắc lại quá khứ tang thương này của gia đình tôi và nhiều gia đình giống như vậy ở miền nam. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, tội ác vẫn là tội ác. Không có ai có quyền bóp méo. Mọi người cứ thử tưởng tượng một người mẹ hàng đêm không ngủ mà trên tay cứ cầm chiếc đèn dầu heo hắt đi quanh nhà mà gọi tên con, cho dù những đứa con đó đã bỏ mẹ già, bỏ vợ con ra đi đã hơn 10 năm rồi. Đến lúc nhắm mắt lìa đời ở tuổi 84 như bà Nội tôi cũng chỉ có một mình trên giường, không con, không cháu và không một lần thắp được cho những đứa con mang nặng đẻ đau một nén nhang trong đêm giá lạnh vì tất cả đã chết mà không hề có mộ phần.

Cuộc chiến này đã cướp đi linh hồn và cả thể xác những đứa con của Nội tôi. Còn nhiều nỗi đau nữa mà những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi phải chứng kiến và gánh chịu. Tôi không than thở vì tôi ý thức được rằng đó là hậu quả của một cuộc chiến mà anh em, cha con bắn giết nhau để phục vụ cho một chủ nghĩa. Tôi chỉ muốn thức tỉnh những ai đó còn chút lương tri của con người, còn chút suy nghĩ về đồng loại của mình mà đang là lãnh đạo, có quyền chức, có điều kiện, được học hành thì hãy thức tỉnh lại để dân tộc này bớt khổ đau, trao lại cho nhân dân quyền dân chủ thực thụ như bao dân tộc dân chủ cường thịnh khác trên thế giới này.

Tôi cũng xin khẩn thiết kêu gọi những ai mà đã ra đi tìm được cuộc sống tự do ở hải ngoại hãy nghĩ về những đứa trẻ mồ côi của đồng đội mình đang ở trong nước hay ngoài nước mà động viên, an ủi và ủng hộ cho cuộc đấu tranh nhân quyền của dân tộc này.

Có trách nhiệm hơn với đất nước, với dân tộc, với chủ quyền lãnh thổ, với những đứa trẻ mồ côi đã chết hay còn sống như tôi dù chỉ một lời chia sẻ hay động viên an ủi. Ít ra cũng làm chúng ấm lòng và biết được cha ông chúng đã ngã xuống không phi nghĩa mà chúng đã chịu miệt thị, cô đơn và phân biệt hơn 40 năm rồi. Tôi cũng kêu gọi tất cả những đứa trẻ mồ côi cha hay mẹ trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 hãy liên lạc, chia sẻ, giúp đở nhau để làm điều gì đó không phụ lòng cha mẹ mình đã nằm xuống cho đất nước.

Chúng tôi mong muốn sao một Việt nam thực sự Tự Do Dân Chủ, Đoàn Kết Dân Tộc, cùng nhau xây dựng đất nước cường thịnh để đủ mạnh về quân sự, vững chắc về kinh tế cùng nhau bảo vệ và chống lại giặc ngoại xâm. Để trẻ em như chúng tôi ở những ngày 40 năm về trước được học hành, được tự do thực thụ và được sống trong vòng tay yêu thương, che chắn của cha mẹ.

Chuyện THỜI CƠ

Chuyện THỜI CƠ

Phạm Đình Hưng

Author: muoisau || Tags: Biên Khảo |

Bằng chứng bán biển cho Tàu của việt cộng, còn gọi là công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Bài đọc suy gẫm: Chuyện THỜI CƠ – tác giả Phạm Đình Hưng. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.

Lưu Bang và Chu Nguyên Chương (phải) trong sử Tàu

Người xưa đã dạy: Sự thành công của các vấn đề quốc gia đại sự tùy thuộc vào ba yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Trong bài viết nầy, tôi chỉ nêu lên yếu tố thiên thời tác động đến nền chánh trị Việt Nam trong thế kỷ 20.

Thiên thời là thời cơ do Thượng đế tạo ra với bàn tay của con người hành động theo sự sai khiến của Đấng Tạo hóa. Trong lịch sử của Trung Hoa cổ thời, thiên thời đã giúp cho Lưu Bang, một đình trưởng thích cờ bạc rượu chè, trở thành người khai lập nhà Hán, một triều đại lâu dài nhứt của nước Tàu và là niềm hãnh diện của người Hán; thiên thời cũng đã giúp cho một con người du thủ du thực như Chu Nguyên Chương trở thành Minh Thái tổ. Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng cho thấy thời cơ đã đưa đẩy một số người không có văn hóa cao lên địa vi lãnh đạo và quyền uy của nước Việt Nam trong thời dân chủ đúng theo chủ trương và đường lối của đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt nặng hồng hơn chuyên và xem trí thức không có giá trị bằng một cục phân :
– Một cán bộ Đệ tam quốc tế cộng sản cấp thừa hành và đảng viên đảng Cộng sản Trung quốc chỉ có trình độ tiểu học đã leo lên ngồi trên ghế Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam cho đến mãn đời: Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh;
– Một công nhân đường sắt học lực tiểu học có quyền lực tột đỉnh của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam ngự trị như một ông vua tại Bắc bộ phủ từ năm 1969 đến khi qua đời năm 1986: Lê Duẫn
– Một cai đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) có trình độ tiểu học đã ngự trên ngai vàng An Nam Quốc Vương: Lê Đức Anh;
– Một thợ thiến heo đã trở thành Tể tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam : Đỗ Mười;
– Một người đi bộ đội từ lúc 18 tuổi đã leo lên ngôi vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam (đại nhân số 1 của đất nước có 4,000 năm văn hiến) : Lê Khả Phiêu;
– Một người dân tộc Choang của Trung Quốc trong tỉnh Quảng Tây đã chiếm ghế Chủ tịch Quốc Hội trong 5 năm và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam trong 10 năm : Nông Đức Mạnh;
– Một tên vô lại phá xóm phá làng đã được làm Bộ trưởng bộ Công An của Nội các Phạm văn Đồng trong nhiều thập niên: Trần Quốc Hoàn;
– Một người trẻ ít học đi làm lao động chân tay ở nước ngoài khi trở về nước được bầu cử làm Bí thơ Tỉnh ủy Bắc Giang kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam: Nông Quốc Tuấn (con Nông Đức Mạnh, cháu nội Hồ Chí Minh).

Tại Việt Nam, trong cuộc tranh chấp về ý thức hệ giữa hai khuynh hướng Cộng sản quốc tế theo Nga-Hoa và khuynh hướng tự do dân chủ theo Tây phương, đảng Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng các thời cơ thuận lợi kể sau để cướp chánh quyền năm 1945, chiếm miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và thống trị cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay:
1- Thời cơ thứ nhứt: Hội kiến giữa Hồ Chí Minh và Archimedes Patti

Hồ Chí Minh và nhóm OSS Hoa Kỳ tại chiến khu Cao Bắc Lạng và Thiếu tá Archimedes Patti hồi thế chiến thứ 2 (dưới, phải).

Trong thời gian công tác tại Hoa Nam (1940-1943) với tư cách đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Quang (Hồ Chí Minh) đã có cơ hội gặp Thiếu tá Archimedes Patti, Trưởng Phái bộ OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của Central Intelligence Agency, tại Vân Nam. Lúc đó, Hồ Chí Minh là điệp viên Lucius cộng tác với Hoa Kỳ tại Hoa Nam. Trong dịp gặp mặt Hồ Chí Minh, Thiếu tá Patti đề nghị huấn luyện và trang bị võ khí cho đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp để Hồ Chí Minh có một lực lượng võ trang trong chiến khu Cao Bắc Lạng giúp Hoa Kỳ chống Nhựt. Ngoài sự giúp đỡ của OSS, Hồ Chí Minh còn được Trung tướng Không quân hồi hưu Claire Lee Chennault (1893-1958), Chỉ huy trưởng Phi đội Flying Tigers (Cọp Bay) tặng cho một số súng lục khi ông ta đem giao trả một phi công Mỹ nhảy dù xuống chiến khu Cao Bắc Lạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng đội Võ Trang Tuyên Truyền và võ khí do Hoa Kỳ cung cấp để cướp chánh quyền năm 1945. Vào mùa thu năm ấy, đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp là một lực lượng võ trang có nhiều võ khí hơn các chánh đảng và tổ chức chánh trị khác.

2- Thời cơ thứ hai: Nhựt bổn đầu hàng Hoa Kỳ
Sau ngày quân đội chiếm đóng Nhựt đảo chánh nhà cầm quyền Pháp (9-3-1945) và Hoàng đế Bảo Đại tuyên cáo nước Việt Nam độc lập (11-3-1945), Nội các Trần Trọng Kim đã được thành lập lần đầu tiên tại Việt Nam với các nhân vật có trình độ văn hóa cao. Trong khi Nội các Trần Trọng Kim đang tiến hành các chương trình xây dựng đất nước vừa mới thu hồi độc lập, ngày 15-8-1945, Nhựt hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vài ngày sau khi Hoa Kỳ tàn phá hai thành phố Hiroshima và Nagasaki với hai trái bom nguyên tử cở nhỏ. Tại Hà Nội, ngày 19-8-1945, đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ sử dụng bạo lực cướp chánh quyền từ trong tay Nội các Trần Trọng Kim và vua Bảo Đại. Tại Sài Gòn, một nhóm nhỏ đảng viên cộng sản Đệ tam quốc tế gồm có Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Nguyễn, Cao Đăng Chiếm v.v…đã sử dụng đoàn Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức ngoại vi cuả đảng Cộng sản Việt Nam, để cướp chánh quyền vài ngày sau Hà Nội. Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đã bị buộc phải thoái vị để tránh khỏi nội chiến giữa người Việt Nam theo đuổi hai khuynh hướng chánh trị khác nhau.
Mặc dầu đã cướp được chánh quyền nhưng vì thiếu chánh nghĩa và bất hợp pháp, ngụy quyền Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1949 đã không được bất cứ một quốc gia nào trên thế giới công nhận, kể cả Liên Xô.

Lợi dụng tư thế và phương tiện của nhà cầm quyền, cán bộ cộng sản Đệ tam quốc tế ở khắp nơi trong nước nhận được chỉ thị của Hồ Chí Minh ra tay tiêu diệt ngay tất cả đảng viên Đệ tứ quốc tế cộng sản, các trí thức yêu nước nổi tiếng, các nhà hành chánh lỗi lạc và nhiều nhân tài tinh hoa của dân tộc cũng như lãnh tụ các đảng phái quốc gia giữa lúc quân đội viễn chinh Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam: Thượng thơ Phạm Quỳnh, Tổng đốc Ngô Đình Khôi, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Trần văn Thạch, Huỳnh văn Phương, Dương văn Giáo, vợ chồng Hồ Vĩnh Ký, Lê Bá Cang, Lê văn Tình, Đào Sanh Long, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Nhượng Tống v.v…

Hình ảnh một số những nhân tài của Việt Nam bị việt cộng sát hại

Mặc dầu đã bị quân Pháp rượt chạy ra khỏi Sài Gòn từ tháng 9 năm 1945, bọn Cộng sản Đệ tam quốc tế dưới mặt nạ Việt Minh, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tại Quảng Tây năm 1941, tiếp tục giết chết một cách dã man nhiều nhân vật tôn giáo, chánh trị và quân sự có uy tín: Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Khâm sai Đại thần Nguyễn văn Sâm, Giáo sư Hồ văn Ngà, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thọ, một số đông chức sắc và đạo hữu Cao Đài Tây Ninh, viên chức xã ấp (Ban Hội tề) và rất nhiều thường dân bị chụp mũ oan ức là Việt gian, gián điệp của Pháp. Thân hào, nhân sĩ, trí thức là mục tiêu chém giết của bọn bần cố nông bị đảng Cộng sản tuyên truyền xúi dục.
Tại Hà Nội, Bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp đã mời Thứ trưởng bộ Quốc Phòng Vũ Hồng Khanh cùng ký kết với Jean Sainteny, Đại diện Cao Ủy Pháp Leon Pignon, Tạm Ước ngày 6-3-1946 để thực hiện sách lược “rước Pháp, đuổi Tàu” nhằm mục đích tận diệt lực lượng võ trang của Việt Cách và Việt Quốc sau khi quân đội của Lư Hán rút về Tàu.

Phan Văn Hùm bút danh Phù Dao (phải), là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tại Việt Nam.

Nói tóm lại, người cộng sản Việt Nam đã gọi hành động cướp chánh quyền năm 1945 là cuộc Cách mạng mùa Thu. Đúng là một cuộc Cách mạng mùa Thu chết vì đảng Cộng sản Việt Nam đã giết chết quá nhiều đồng bào ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp để tóm đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến và cướp công đấu tranh của quần chúng yêu nước tham gia kháng chiến giành độc lập cho dân tộc Việt Nam.

Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo và Nhượng Tống (phải), nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam.

3- Thời cơ thứ ba: Trung Cộng toàn thắng tại Trung Hoa
Sau khi đánh bại Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông đã thành lập nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1-10-1949 và công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh vào tháng 1 năm 1950. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên thiết lập bang giao với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vì Hồ Chí Minh là cán bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc. La Quy Ba, cán bộ chánh trị của đảng Cộng sản Trung quốc, đã được Bắc kinh gởi sang miền thượng du Bắc Việt để làm Cố vấn cho ngụy quyền Hồ Chí Minh. Trong hai năm 1950 và 1951, người đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc mang bí danh Hồ Quang nay trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trở về Tàu cầu xin viện trợ quân sự để đánh Pháp vì “bộ đội Việt Minh đã chiến đấu trong vòng vây của quân Pháp” (theo lời các cố vấn quân sự Tàu) và chính bản thân Hồ Chí Minh cũng suýt bị quân Pháp bắt sống.
Vì quyền lợi lâu dài của Đại Hán, Bắc kinh đã tích cực giúp đỡ đảng Cộng sản Việt Nam, một chi bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc, về cả hai mặt quân sự và chánh trị. Đoàn Cố vấn quân sự Tàu do Đại tướng Trần Canh chỉ huy đã được cấp tốc gởi sang Việt Nam. Nếu không có sự trực tiếp tham chiến của Đại tướng Trần Canh và chí nguyện quân Tàu áp dụng chiến thuật biển người thì Việt Minh làm sao có thể bắt sống được hai Đại tá Pháp Le Page và Charton trong chiến dịch biên giới năm 1950? Nếu không có sự tham chiến của Pháo binh Trung Quốc dưới quyền chỉ huy của tướng Tàu Vi Quốc Thanh thì Võ Nguyên Giáp làm sao có thể chiến thắng Thiếu tướng Pháp De Castries tại Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954? Nếu không có ý kiến của Thủ tướng Anh Winston Churchill chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào trận đánh Điện Biên Phủ thì các ổ trọng pháo của Vi Quốc Thanh và các sư đoàn bộ đội của Việt Minh còn nguyên vẹn hay không trong mưa bom của các phóng pháo cơ B29 Hoa Kỳ?

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa Hồ Chí Minh về Bắc bộ phủ ngự trị miền Bắc Việt Nam. Cái giá phải trả lần đầu cho viện trợ quân sự của Trung Quốc là công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đã qua đời từ lâu nhưng công hàm bán nước nầy vẫn để lại những di hại nghiêm trọng cho đất nước và dân tộc Việt Nam: mất chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không khai thác được những tài nguyên phong phú của biển cả (hải sản, dầu khí và các khoáng sản dưới đáy biển Đông).

Dưới quyền chỉ đạo của Thái thú Trung Quốc La Quý Ba, Bắc Việt đã chánh thức tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước khi ban hành Hiến pháp 1959. Tuân hành chỉ thị của Trung Quốc, Bắc Việt đã tiến hành Cải Cách Ruộng Đất từ năm 1951 đến năm 1956 dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Tàu để giết hại vô số địa chủ, phú nông và thân hào nhân sĩ ở nông thôn miền Bắc, Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp để cướp ruộng đất và tài sản của nông dân, đàn áp, trừng phạt và tù đày các trí thức, nhà báo và văn nghệ sĩ, tập trung cải tạo các quân nhân, công chức của chế độ Quốc Gia Việt Nam không di tản vào Nam và lùa gia đình của họ về các vùng thâm sơn cùng cốc để khai hoang sinh sống lây lất cho đến hết kiếp người.

Về mặt kinh tế, Bắc Việt cộng sản đã áp dụng chế độ mậu dịch quốc doanh và chế độ tem phiếu, đánh tư sản mại bàn và cải tạo công thương nghiệp để dẹp bỏ tư doanh.
Về mặt an ninh nội chính, Bắc Việt cộng sản triệt để thực hiện chế độ công an trị và vay mượn chế độ hộ khẩu của Vệ Ưởng (còn gọi là Thương Ưởng) bên Tàu từ thời Chiến Quốc.

Sau khi nhưộm đỏ miền Bắc, đảng Cộng sản Việt Nam âm mưu thôn tính miền Nam, ngụy tạo ra lý do thống nhứt đất nước để thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1960 và một số tổ chức chánh trị của các trí thức thiên tả có nhiệm vụ đánh phá, khuấy rối an ninh trật tự của Việt Nam Cộng Hòa theo khuynh hướng tự do dân chủ của Tây phương. Nịnh bợ hai quan thầy Nga-Hoa để nhận viện trợ đánh miền Nam, Bắc Việt cộng sản luôn luôn gọi Trung quốc là Trung quốc vĩ đại, Liên Xô là Liên Xô vĩ đại. Trong các đại hội của đảng Cộng sản, Bắc Việt không bao giờ quên treo trên cao hình ảnh của Josef Stalin và Mao Trach Đông bên cạnh hình của Karl Marx và Vladimir Lenin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chiêm ngưỡng, thờ phượng. Tuy nhiên, kể từ thập niên 1950, Bắc Việt đã chịu ảnh hưởng của Trung quốc nhiều hơn Liên Xô vì Stalin đã giải tán Đệ tam quốc tế cộng sản từ năm 1943, không công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh trước năm 1950 và cũng không viện trợ quân sự cho đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945-1954). Tình đồng chí Việt-Xô càng thêm suy giảm sau khi Stalin qua đời, nhứt là từ khi Nikita Khrushev (1953-1964) kế vị Stalin nêu cao chủ trương xét lại chủ nghĩa cộng sản để sống chung hòa bình với chế độ tư bản. Dưới sự trị vì của Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam rất dị ứng với Nikita Khrushev vì vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên xô đã công khai chỉ trích nhà độc tài khát máu Josef Stalin, thần tượng của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

Nói tóm lại, sau khi toàn dân Việt yêu nước đã đứng dậy đánh đuổi thực dân Pháp, Bắc Việt đã mất độc lập đối với Trung Cộng, nhân dân miền Bắc Việt Nam mất tự do và không có hạnh phúc trong kiếp sống lầm than đói khổ và bị Công An kềm kẹp ngày đêm. Ngay cả các đảng viên cộng sản cao cấp như Bí thơ Vũ Đình Huỳnh, Thiếu tướng Lê Liêm, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Viện trưởng Hoàng Minh Chính, Thứ trưởng bộ Công An Lê Hồng Hà v.v…cũng bị trù dập, tù đày khi hưởng ứng chánh sách Đổi Mới của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushev.

Hình ảnh tội ác cộng sản giết hại dân trong những đợt cải cách ruộng đất tại miền bắc.

4- Thời cơ thứ tư: Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Ngày 23-8-1963, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi một công điện qua Sài Gòn ra lịnh Đại sứ Cabot Lodge đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của miền Nam Việt Nam. Công điện nầy đã không trình Tổng Thống John F. Kennedy xét duyệt. Người quyết định đảo chánh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm là Thứ trưởng bộ Ngoại Giao Averell Harriman vì hai lý do:
– Đại nhân đảng Dân Chủ Hoa Kỳ Harriman không ưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm;

– Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đem quân chiến đấu sang Nam Việt Nam, lo ngại mất chánh nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của nhân dân miền Nam.

Ngày 1-11-1963, cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tiến hành thuận lợi dưới sự chỉ huy của Trung tá CIA Lucien Conein. Ngày 2-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát trên đường tướng Mai Hữu Xuân áp giải hai đại nhân vật nầy từ nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn về bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm một số tướng lãnh và Đại tá đã hủy bỏ Hiến pháp ngày 26-10-1955 và giựt sập nền Đệ nhứt Cộng Hòa.

Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một đối thủ chánh trị lợi hại, đã bị giết chết, Hồ Chí Minh cười to và nói đại ý như sau: Trời đã giúp ta, khiến cho Hoa Kỳ khờ dại giết chết Ngô Đình Diệm.
Lời phê phán của Hồ Chí Minh rất đúng. Thật vậy, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại, không có một lãnh tụ nào của các chế độ chuyển tiếp có đủ bản lãnh và uy tín để đối phó với Hồ Chí Minh. Mặt khác, quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hủy bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược của ông Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã giúp cho cán binh cộng sản ung thối nông thôn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng sự suy yếu rõ rệt của Việt Nam Cộng Hòa sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu qua đời để tăng cường xâm nhập miền Nam, sử dụng con đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Để cứu nguy Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã lập tức đổ quân vào miền Nam Việt Nam, kể từ tháng 2 năm 1965. Đúng như lời cảnh giác của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam đã gây ra một công luận bất lợi cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trên chánh trường thế giới. Phong trào phản chiến đã phát triển ngày càng mạnh mẽ tại Hoa Kỳ, đòi hỏi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Báo chí và hệ thống truyền thông Mỹ không ngớt chỉ trích gay gắt Việt Nam Cộng Hòa một cách bất công.

5-Thời cơ thứ năm: Hoa Kỳ quan hệ ngoại giao với Trung quốc.
Tháng 2 năm 1972, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã đến Thượng Hải hội kiến với Mao Trạch Đông, Chủ tịch đảng Cộng sản Trung Quốc. Một thông cáo chung đã được công bố tại Thượng Hải để chánh thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Trước khi hội kiến với Mao Trạch Đông, Tổng Thống Nixon đã ghi trong sổ tay hai nhượng bộ đối với Trung quốc: Đài Loan và Nam Việt Nam. Đổi lại, Trung quốc sẽ cho giới tư bản Mỹ đầu tư tại nước rộng lớn nầy và buôn bán sản phẩm giữa hai nước. Ngoài thông cáo chung Thượng Hải, Tiến sĩ Henry Kisssinger, Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, còn nói thẳng với Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc Vụ Viện Trung quốc: Hoa Kỳ đã bang giao với Trung quốc thì cũng có thể quan hệ bình thường với Bắc Việt. Để thực hiện sự nhượng bộ đối với Trung quốc tại Nam Việt Nam, Tiến sĩ Kissinger đã đi đêm với Lê Đức Thọ, Cố vấn Phái đoàn hòa đàm của Bắc Việt, và chấp nhận hầu hết các điều khoản của bản dự thảo hiệp định Paris do Lê Đức Thọ soạn thảo. Hoa Kỳ đã cưỡng bách Việt Nam Cộng Hòa phải chấp thuận bản dự thảo hiệp định nầy. Để dẹp bỏ sự chống đối của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu, Đại tướng Alexander Haig, Phụ tá của Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon đã không ngần ngại đe dọa mạng sống của Tổng Thống một nước đồng minh. Hiệp định Paris ký kết ngày 27-1-1973 là một bản án khai tử Việt Nam Cộng Hòa, một hiệp định quốc tế được long trọng ký kết trước sự hiện diện của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc bởi 12 quốc gia trong đó có 5 nước thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An để rồi bị xé bỏ ngay sau đó không một ai thương tiếc. Tiếp theo việc ký kết hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã chấm dứt viện trợ quân sự và tất cả các khoản viện trợ khác cho Việt Nam Cộng Hòa, cưỡng bách sự từ chức của Tổng Thống dân cử Nguyễn văn Thiệu để thúc đẩy nhanh chóng sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Sự thay đồi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã giúp cho Hải quân Trung quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa ngày 19-1-1974 trước sự bàng quang vô cảm của Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và ngầm cho phép cộng sản Bắc Việt xua 13 sư đoàn công khai vượt vĩ tuyến 17 bất chấp hiệp định quốc tế Geneve ký kết ngày 20-7-1954 để tràn ngập miền Nam. Bắc Việt cộng sản đã chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Việt Nam nhưng đã vi phạm trắng trợn hai hiệp định Geneve và Paris. Tuy nhiên, Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và các nước đã ký kết hai hiệp định quốc tế nầy đều đồng tình làm ngơ trước sự vi phạm luật pháp quốc tế nầy. Nếu Hoa Kỳ không chuyển giao miền Nam Việt Nam cho đế quốc cộng sản phương Đông và không chấm dứt mọi viện trợ thì làm sao Bắc Việt cộng sản có thể thôn tính Việt Nam Cộng Hòa?
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, kẻ chiến thắng đã thiết lập một chế độ cộng sản độc tài độc đảng ngự trị toàn cõi Việt Nam cho đến ngày nay. Dưới quyền lãnh đạo chuyên chế của Lê Duẫn, Việt Nam đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” để đem lại nghèo đói cho quảng đại quần chúng, đưa vô số người dân vào ngục tù và triệt tiêu tất cả quyền tự do căn bản của dân tộc Việt. Mô hình cai trị của miền Bắc xã hội chủ nghĩa lập tức áp đặt trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Cái giá phải trả cho sự thôn tính miền Nam là 10 tỷ Mỹ kim mua các võ khí nặng của Liên Xô và 300 tỷ Mỹ kim mua các phương tiện chiến tranh khác của Trung Cộng. Riêng đối với Trung Cộng, đảng Cộng sản Việt Nam đã phải trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ, quần đảo và biển Đông.
Tự hào đã chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975 sau khi đánh đuổi phát xít Nhựt năm 1945 và thực dân Pháp năm 1954, đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai phơi bày lý lịch cộng sản của mình và tự nguyện làm tiền đồn tại Đông Nam Á của chủ nghĩa cộng sản quốc tế với tên nước rất hách dịch: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng sau khi đế quốc cộng sản Liên Xô sụp đổ năm 1991, Cộng sản Việt Nam đã khấu đầu thần phục đế quốc cộng sản Đại Hán, đồng thời khúm núm ngữa tay cầu xin viện trợ của các cựu thù Hoa Kỳ, Nhựt bổn, Pháp, các nước Tây Âu và các định chế tài chánh quốc tế. Vì mưu cầu quyền lực và tích lủy tài sản riêng tư khổng lồ của họ cho các đời con cháu, các lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã tình nguyện làm Thái thú cho Trung quốc và âm thầm sáp nhập dần dần toàn bộ lãnh thổ và biển Đông của Việt Nam vào Trung quốc để biến thành một quận huyện của Hán tộc theo yêu sách của Giang Trạch Dân tại hội nghị Thành Đô năm 1990.

Bản đồ đế quốc Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu Châu từ 1206 -1294 suy tàn.

KẾT LUẬN
Trong 5 thời cơ kể trên, Hoa Kỳ đã tạo ra 3 thời cơ thuận lợi cho đảng Cộng sản Việt Nam khai thác để làm chủ đất nước Việt Nam và thiết lập tại Hà Nội một triều đình phong kiến có toàn quyền ban bố chức vị, vàng bạc và đất đai cho một thiểu số cán bộ, đảng viên cộng sản (3 triệu người) trong tổng số 90 triệu đồng bào trong nước. Trong cuộc nội chiến giữa người Việt Nam kéo dài 30 năm (1945-1975), đảng Cộng sản đã đạt thắng lợi cuối cùng nhờ bất chấp luật pháp quốc tế và có viện trợ hùng hậu của Trung quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các lãnh tụ cộng sản cũng biết lợi dụng các thời cơ thuận lợi để cướp được chánh quyền trong cả nước.

Về mặt tâm linh, chính Thượng đế đã thiết lập mọi chánh quyền trên quả đất nầy để giúp dân lành và diệt trừ hung bạo. (Roma 13:1-4). Nếu không giúp dân lành mà lại sử dụng bọn xã hội đen gian ác, bất lương để cướp của, giết người, đánh đập hà hiếp lương dân, chánh quyền đó chắc chắn sẽ bị diệt vong vì không làm đúng nhiệm vụ do Thượng đế giao phó. Ngoài ra, Thượng đế cũng đã phán rằng không có đế quốc nào không suy tàn (Daniel 2:24-49). Tự cổ chí kim, các đế quốc hùng mạnh như đế quốc Assyria (Assyrian Empire), Babylon (Babylonian Empire), Ba Tư (Persian Empire), La Mã (Roman Empire), Mông Cổ (Mongolian Empire) , Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire), Liên Xô (Soviet Empire) đã lần lượt sụp đổ. Ngày tiêu vong của đế quốc cộng sản Hán tộc (Han Empire) phương Bắc không còn xa. Chế độ cộng sản Việt Nam cũng sẽ cùng chung số phận của quan thầy Bắc kinh.

Phạm Đình Hưng

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

Trần Quí Cao

Sự Việc Đã Xảy Ra

Những ngày giữa tháng 3/2015, người dân Hà Nội bỗng thấy cây xanh các tuyến phố bị đốn hạ tràn lan và không thương tiếc. Tìm hiểu người ta mới biết:

Sở Xây dựng Thành phố Hà Nội đề xuất thành phố cho thay thế 6.700 cây, thời gian thực hiện trong 3 năm (2015 – 2017), dự tính kinh phí khoảng 60 tỷ đồng. Chấp nhận đề xuất, sau đó chính quyền Hà Nội tiến hành đốn cây, bất chấp những lời kêu gọi dừng lại của nhiều thành phần dân chúng thủ đô. Trong vòng 3 ngày, theo báo PetroTimes, có khoảng 2.000 cây bị đốn. Dọc con phố Nguyễn Chí Thanh, hơn 400 gốc cây, xác cây nằm la liệt. Trong số các cây bị đốn hạ, có rất nhiều cây đang mạnh khỏe, to đẹp.

Do sự phản đối dữ dội của dư luận, Hà Nội phải dừng việc đốn cây.

Thái Độ Không Thèm Nghe Ý Dân của Chính Quyền Hà Nội

Trước khi có lệnh tạm dừng việc đốn cây và điều tra, giới cầm quyền Hà Nội tỏ thái độ không bận tâm với những ý kiến phản đối. Đáp lại phản ứng của các tầng lới dân chúng thủ đô, ông Phó trưởng ban tuyên giáo Hà Nội Phan Đăng Long tuyên bố việc chặt cây không cần phải hỏi dân. Thái độ nhà cầm quyền rõ ràng là không nghe ý dân. Không thèm nghe.

Thực ra việc không thèm nghe ý kiến của đám dân đen đã là thói quen của nhà cầm quyền độc tài độc đảng. Khi ý đảng và lòng dân khác nhau, nhà cầm quyền bất chấp lòng dân. Do đó, chính quyền đã tiến hành biết bao nhiêu việc gây tổn thất về tiền của, tính mạng và đau thương cho dân chúng!

Một Số Chính Sách Tàn Hại Vì Không Nghe Theo Ý Dân

Từ sau 1975, từ khi đảng Cộng Sản cai trị toàn thể đất nước theo chế độ độc đảng và toàn trị, nhà cầm quyền đã thi hành bao nhiêu chính sách tàn hại ghê gớm cho đất nước, bất chấp lòng dân? Hãy cùng xem lại:

1) Chính sách bắt “Ngụy Quân Ngụy Quyền” vào trại Học Tập Cải Tạo. Thực chất của chính sách này là bỏ tù không xét xử các viên chức chính quyền và quân đội chế độ Sài Gòn. Sau khi Việt Nam thống nhất, lẽ ra chính quyền cần thi hành chính sách thu phục lòng dân, kéo hai miền tổ quốc xích lại gần nhau, thì chính sách này lại đẩy hận thù của hai miền lên cao ngất. Hậu quả tai hại của hận thù và chia cắt lòng người vẫn còn tồn tại rất lớn sau 40 năm!

2) Chính sách Cải Tạo Tư Sản Mại Bản, Tư Sản Công Thương Nghiệp. Thực chất của chính sách này là tịch thu tài sản do người dân miền Nam gầy dựng để ban phát cho viên chức của đội quân chiến thắng. Chính sách này tiêu diệt nền tảng sản xuất, kinh doanh của miền Nam, cả cơ sở vật chất lẫn tầng lớp con người có khả năng, kéo theo cả nước đói nghèo 15 năm sau đó.

3) Chính sách Xóa Bỏ Văn Hóa Phẩm Phản Động Đồi Trụy. Thực chất của chính sách này là xóa bỏ tất cả kiến thức, tư tưởng, triết thuyết chính trị không thuộc hệ thống tri thức ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản; các thông tin về thế giới các nước Tự Do, về chính quyền miền Nam trước ngày thua trận. Thậm chí nó còn xóa bỏ cả các kiến thức thuộc lãnh vực kỹ thuật không do hệ thống các nước chủ nghĩa cộng sản sản xuất ra!

Sự nghèo nàn tri thức và suy thoái về đạo đức, văn hóa, giáo dục, học thuật… hiện nay có phần đóng góp nào của chính sách này?

4) Chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ”. Thực chất của chính sách này là ngăn cấm người dân mang từng lạng (1 lạng = 100 gam) gạo hay thịt từ tỉnh này sang tỉnh khác. Các bạn trẻ hiện nay khó có thể tưởng tượng một việc vô lí tới như vậy có thể xảy ra trên toàn quốc. Chính sách này đã biến vùng đất trù phú của tổ quốc – đồng bằng sông Cửu Long, từ vựa lúa gạo của thế giới thành nơi đói kém, thiếu gạo, dân chúng phải ăn độn khoai, bo bo… trong nhiều năm.

5) Chính sách phân biệt các thành phần thí sinh trong tuyển sinh đại học. Thực chất của chính sách này là tận diệt nhân tài của chế độ miền Nam thua trận.

6) Và bao nhiêu chính sách khác nữa…

Mỗi chính sách ban ra, đất nước bị kéo ngược chiều tiến văn minh của nhân loại, và tiếng oán than của dân chúng cao ngất trời. Nhưng các chính sách ấy vẫn được thi hành và kéo dài rất nhiều năm mặc cho lòng dân uất ức và căm phẫn.

Nếu ý kiến của dân chúng được lắng nghe, bao thảm họa do chính sách đã được ngăn chận.

Làm sao nhà cầm quyền lắng nghe ý dân? Và hơn nữa, làm theo ý dân?

Không thể trông chờ vào một nhà lãnh đạo cao cấp riêng lẻ nào đó. Chú ý rằng vấn đề không nằm ở cá thể, mà ở quần thể, xã hội. Kinh nghiệm nhân loại về chính trị xã hội dạy rằng: cần phải tổ chức xã hội sao cho nhà cầm quyền phải nghe và làm theo ý dân. Nếu nhà cầm quyền không nghe và không làm theo ý dân, dân chúng sẽ có quyền phế truất họ, đưa nhà cầm quyền khác thay thế.

Muốn vậy đất nước phải được tổ chức sao cho:

1) Có nhiều hơn một đảng. Các đảng thay nhau trong vai trò cầm quyền và đối lập để kiểm soát và hợp tác lẫn nhau, và dân kiểm soát chính quyền

2) Người dân thực sự kiểm soát việc trao quyền cho đảng biết làm theo, và làm một cách hữu hiệu, ý dân, lòng dân.

Muốn vậy, dân chúng nhất thiết phải có các quyền tự do căn bản dưới đây:

1) Quyền Tự Do ứng cử và bầu cử

2) Quyền Tự Do lập hội, lập đảng

3) Quyền Tự Do ngôn luận, Tự Do báo chí

Khi người dân giành được các quyền Tự Do đó, hệ quả tất yếu sẽ là:

1) Không còn độc đảng.

2) Tam quyền phân lập.

3) Xã hội được quản lí trong tinh thần pháp trị.

3) Lực lượng vũ trang không còn trung thành, bảo vệ bất kì một đảng nào mà chỉ trung thành, bảo vệ tổ quốc.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì các lời nói như “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” hay “quyền lực thuộc về nhân dân”, chính quyền “của dân, do dân, vì dân”… chỉ là những lời trống rỗng và/hay dối trá.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì sự việc chặt cây tại Hà Nội chỉ là chuyện nhỏ, thậm chí rất nhỏ.

Các dự án hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vẽ ra, thông qua một cách khuất tất để lấy tiền dân chia nhau.

Những món nợ hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vay để lại núi nợ cho con cháu, ngăn cản đường tiến lên của chúng.

Phong hóa dân tộc suy đồi, đạo đức dân tộc xuống cấp, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mất đi.

Việt Nam ngày càng lạc hậu so với lân bang như Thái Lan, Mã Lai…

Từng phần lãnh thổ đất liền và biển đảo dần dần rơi vào tay Trung Cộng. Đất nước ngày càng lệ thuộc toàn diện vào nước Trung Quốc bạo ngược…

So với viễn cảnh khủng khiếp trên, việc “đốn cây giữa lòng thủ đô” chẳng là chuyện hết sức nhỏ hay sao?

T.Q.C.

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

Chuyện kể rằng khi quân Mông Cổ mở mang bờ cõi đến vùng Ba Tư, họ bắt được một tu sĩ công giáo.  Quân Mông Cổ giải vị tu sĩ đến gặp Thành Cát Tư Hãn.  Thấy người tù binh đeo một cây thánh giá trước ngực, vị đại hãn hỏi về ý nghĩa của dấu hiệu này. Thế là vị tu sĩ nhân cơ hội ngàn vàng kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho cả triều đình Mông Cổ nghe.  Vị đại hãn tỏ ra thích thú, cho đến khi nghe đoạn thương khó.

Khi nghe đến chuyện Chúa Giêsu bị phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, rồi bị đóng đinh, càng lúc khuôn mặt của đại hãn càng lộ vẻ tức giận.  Đến lúc vị tu sĩ nói: “Chúa Giêsu kêu lớn: Elôi, Elôi lamma sabác thani” (Mc 15:34), Thành Cát Tư Hãn gầm lên: “Rồi sao nữa?”  Sau khi nghe chuyện Chúa Giêsu gục đầu tắt thở, màn đền thờ xé làm đôi, rồi viên đại đội trưởng tuyên bố “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:38), đại hãn trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế Thượng đế của các ngươi đã làm gì?”  “Ngài có sai quân binh trên trời xuống tàn sát những kẻ giết con của Ngài không?”

Khi thấy vị tu sĩ lắc đầu, Thành Cát Tư Hãn khoát tay đuổi ông ra và không muốn nghe thêm nữa.  Đại hãn bình luận: “Một chủ tể mà không bảo vệ được con của ngài, một quân vương mà không trả thù cho con của ngài, thì có gì mà đáng kính phục.” Và dĩ nhiên là Thành Cát Tư Hãn không theo đạo.

****************************

Tội nghiệp vị đại hãn chưa có dịp nghe đoạn kết câu chuyện, vì nếu đã được nghe, có lẽ ông đã có một kết luận khác. Còn chúng ta, dĩ nhiên là chúng ta biết hết câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Chúa chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại.  Nhưng chúng ta có thật sự hiểu câu chuyện này không? Chúng ta có thực sự hồi hộp theo dõi từng tình tiết một, như vị đại hãn đã làm không?

Có lẽ vì chúng ta nghe quá nhiều lần nên có khi đã không còn tâm tình cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường tử nạn.  Có lẽ vì chúng ta biết Chúa sẽ sống lại nên khó cảm nghiệm được cảm giác của người nghe câu chuyện lần đầu. Bi thương, hùng tráng, giận dữ, chua xót, mất mát, đau buồn, v.v…  Những cảm giác đó mới chính là những gì chúng ta cần được cảm nghiệm trong Tuần Thánh này.  Kể từ hôm nay, chúng ta được mời cùng đi với Chúa Giêsu, với Mẹ của Ngài, từng ngày một, từng bước một, vào trong câu chuyện Thương Khó.

Cuộc Thương Khó giúp tôi ý thức sự giới hạn của lý trí khi tôi không có câu trả lời cho những vấn nạn của cuộc đời:  Tại sao tôi mất việc?  Tại sao gia đình tôi đổ vỡ?  Tại sao con cái tôi hư hỏng?  Tại sao em tôi bị bạo bệnh?  Tại sao bạn tôi chết khi còn quá trẻ?  Tại sao và tại sao?  Đó là những vấn nạn, đôi khi không có câu trả lời.  Nhìn lên Chúa, Chúa im lặng.  Nhìn sang Phật, Phật nhắm mắt.  Hỏi những người thông thái, họ lắc đầu: Không biết!  Phải chăng lúc đó tôi cũng kêu lên rằng: Lạy Chúa sao Chúa bỏ con?

*********************************

Bạn thân mến,

Đau khổ là một thực tế không thể chạy trốn trong kiếp người. Tôi chỉ có thể trực diện với nó khi tôi biết Con Thiên Chúa cũng đã đi qua cái chung cuộc tồi tàn nhất của kiếp người. Bị bạn bè bán đứng, bị người thân chối bỏ.  Thân phận Ngài còn thua xa tên tội phạm Barabba.  Con Thiên Chúa đã chết một cách thầm lặng trần truồng trên thập giá.  Đứng dưới chân thập giá, có mấy người nhỏ lệ?  có bao nhiêu người hả hê?  Nếu Con Thiên Chúa, Đấng vô tội mà còn bị người đời đối xử thế đó, thì làm sao tôi là môn đệ Ngài có quyền đòi hỏi cái gì khác hơn.  Nếu Thiên Chúa đã im lặng khi Con của Ngài bị giết, thì làm sao tôi có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lên tiếng khi tôi gặp đau khổ.

Chúa Giêsu đã mang lấy một số phận nghiệt ngã hơn chúng ta nhiều lắm.  Thế nên khi gặp đau khổ hoạn nạn, tôi đừng vội trách Chúa sao lại gửi cho con thập giá quá nặng nề.  Không, Thiên Chúa không phải là tác giả của hình phạt dã man độc ác đó.  Chính con người chúng ta nghĩ ra những trò độc ác, những hình phạt dã man để hại nhau, giết nhau. Và rồi chính con ngưòi đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đó nữa.

Nhưng phần Ngài, sao Ngài lại chấp nhận như thế?  Phải chăng khi chọn chén đắng của cuộc đời, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy đau khổ và sự chết không phải là tiếng nói sau cùng?  Phải chăng Ngài muốn chia sẻ thân phận mỏng dòn yếu hèn của chúng ta?  Đúng như lời thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).  Quả thế, Con Thiên Chúa đã cúi mình xuống để nâng chúng ta lên với Ngài.  Dù chúng ta phải đi qua con đường khổ giá, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đi một mình.  Qua những người chung quanh, Chúa Kitô ghé vai cùng vác thập giá cùng chia sẻ cuộc đời với chúng ta.

Chủ Nhật Lễ Lá hôm nay cũng còn gọi là Chủ Nhật Thương Khó.  Đây là chủ nhật đặc biệt nhất trong năm vì có đến hai bài Phúc âm được đọc.  Một bài Phúc âm về reo hò mừng vui của việc đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem… và sau đó là bài Phúc âm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bắt đầu từ âm muu nộp Chúa của Giuđa cho đến lúc táng xác Chúa.

Hai bài Phúc âm với hai tâm tình trái ngược.  Dân chúng hôm trước thì tung hô, mấy hôm sau thì đả đảo. Các môn đệ hôm trước thì hãnh diện đi với Thầy, vài hôm sau trốn chui trốn nhủi.  Các kinh sư và Biệt phái hôm trước thì e dè, vài bữa sau thì hả hê.  Tâm tình của con người là thế đó.  Và Chúa Giêsu biết điều đó.  Ngài chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả.

Thật dễ dàng để suy tư về ý nghĩa của Tuần Thương Khó, nhưng không thật dễ dàng để cảm nghiệm được những đau đớn của Tuần Thương Khó.  Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy để những cảm giác đau đớn, giận dữ, khó chịu, kinh sợ, v.v… nổi lên trong lòng chúng ta.  Những cảm xúc này thật cần thiết để mỗi khi bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng mạ hay bị kết án, bị trù dập hay bị sỉ nhục, bị chế diễu, bị lột trần hay bị đóng đinh, chúng ta có thể nhìn lên thập giá với một niềm an ủi.

Ước gì mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thương Khó với tâm tình cuả Chúa Giêsu, để rồi khi chúng ta cùng chết đi với Ngài, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài.

Xin cầu chúc bạn một Tuần Thánh được cử hành trong niềm tin và ân sủng của Đấng đã chịu chết vì chúng ta. Amen.

Antôn-Phaolô

Anh chị Thụ Mai gởi

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

DI CHÚC CỦA CỰU THỦ TƯỚNG LÝ QUANG DIỆU VIẾT ĐIỀU GÌ?

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

“XIN PHÁ BỎ NGÔI NHÀ TÔI SAU KHI TÔI CHẾT”

Thơ Trần Mạnh Hảo

Ghi chú : Vì an ninh, Singapore có luật các nhà xung quang ngôi biệt thự của cụ Lý Quang Diệu không được phép xây cao hơn ngôi nhà của người cha đẻ ra đất nước Singapore .

Không được dùng nhà này làm nhà tưởng niệm tôi sau khi tôi mất
Hãy đập ngôi nhà tôi cho hàng xóm được cao tầng
Rồi trồng cỏ cây thành công viên xanh mát
Còn chút lòng này xin được hiến dâng

Không còn lời nào ca ngợi Lý tiên sinh được nữa
Cụ khiêm nhường giống hệt một thường dân
Cụ đã biến Singapore thành thiên đường dưới thế
Bằng tất cả thiên tài và một tấm lòng nhân…

Sài Gòn 22 h 10’ ngày 23-3-2015
T.M.H.

Chú thích ảnh : 1- Lý tiên sinh sinh thời . 2- Ngôi nhà của cụ Lý Quang Diệu trong di chúc chúc cụ để lại : xin đập ngôi nhà này cho các nhà xung quanh được xây cao tầng và biến nó thành công viên cây xanh công cộng.