TẠI SAO ĐẤT NƯỚC TA NHƯ THẾ NÀY?

TẠI SAO ĐẤT NƯỚC TA NHƯ THẾ NÀY?

Phạm Văn Chính

18-04-2015

Đất nước giàu có tại thiên nhiên

Ban tặng “tiền rừng bạc biển”

Người dân cần cù lao động

Có cả một vựa lúa đồng bằng Sông Cửu Long

Và châu thổ Sông Hồng

Xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới

Đất nước ta có biết bao tài nguyên hầm mỏ, đa dạng đủ loại không thiếu một thứ gì trong lòng đất, than khoáng sản, sắt, nhôm, đồng, chì, kẽm, thiếc, titan, suốt dãy núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, có cả một hệ thống sông ngòi lớn nhỏ hoàn chỉnh, giao thông thuận tiện.

Có 3.000 km bờ biển, có một thềm lục địa vĩ đại chạy dài từ vịnh Bắc Bộ đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Bộ. Có cả hệ thống đảo ven bờ từ Bạch Long Vĩ Bắc Bộ đến đảo Phú Quốc, Nam Bộ. Đảo Phú Quốc to ngang tầm với đất nước Singapore.

Có biết bao nhiêu nhân tài trí thức, các nhà khoa học, các kỹ sư, giáo sư đủ loại cấp bậc, từ tiến sĩ, phó tiến sĩ, bùng phát nhiều như lợn con.

Còn có các nhà khoa học, nhiều bộ môn như kinh tế học, có cả một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh ở các cấp bộ như Nông-Công-Thương nghiệp, Môi trường, Y tế. v.v…

Thế mà đời sống của người dân vẫn cực khổ. Tại sao???

Về nông nghiệp

Như đã nói ở trên, lúa gạo xuất khẩu ở nước ta đứng nhất nhì thế giới. Thế nhưng, mức thu nhập của người nông dân quá thấp, các phương tiện truyền thông cho biết, mức thu nhập bình quân của người nông dân trên 500.000 đ một tháng, tương đương 25 USD.

Vì mức sống quá thấp đó đã khiến hàng trăm nghìn cô gái rời bỏ quê hương đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc. Thậm chí lấy cả những ông già tàn tật, miễn sao thoát khỏi quê hương đau khổ. Rất nhiều câu chuyện đau lòng liên quan tới chuyện lấy chồng nước ngoài khác có thể tìm thấy ở trên các bài báo chính thống.

Ở nhiều nơi, nông dân chặt bỏ nhiều loại cây như cao su, ruộng mía vì bị ép giá không có người mua. Đáng lẽ ra nhà nước phải có ban điều phối đứng ra giải quyết những bất cập phát sinh có hại cho nông dân.

Về công nghiệp

Nước ta đã có các nhà máy ra đời cách đây nửa thế kỷ, như nhà máy đầu đàn khu Gang thép Thái Nguyên, cơ khí Hà Nội còn gọi là “Trung quy mô”, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Lương Yên, cơ khí Mai Động, Đồng Tháp, Minh Nam, Giải Phóng, Pin Văn Điển, nhà Máy Cao su, thuốc lá, Xà phòng, nhà máy dệt 8/3, Diêm Thống Nhất v.v…

Ta hãy tìm hiểu xem, thành tích tiến bộ của các nhà máy này có hiệu quả không? Hàng thập kỷ nay, như mọi người đã biết, sản phẩm chính của các nhà máy gang thép Thái Nguyên là thép xây dựng chưa làm được các loại thép công nghiệp như trục ray tàu hỏa, các loại thép công nghiệp phổ thông các cỡ U-I-L lớn nhỏ và các loại tôn kích cỡ dày mỏng cán nguội, cán nóng rất cần thiết cho ngành cơ khí chế tạo vỏ ôtô, mái nhà, tàu biển, mỗi năm các xưởng đóng tàu biển phải nhập hàng triệu tấn để làm vỏ tàu.

Đó là thực trạng ngày nay của nhà máy “Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đỡ”. Còn nhà máy cơ khí Hà Nội hay gọi là Trung quy mô do Liên Xô trước đây giúp đỡ xây dựng, chuyên sản xuất các loại, máy cắt gọt kim loại như máy tiện, máy khoan, máy phay bào và các dụng cụ cắt gọt .v.v… Thời gian trôi đi lạc hậu đeo bám so với thế giới gần một thế kỷ, hiện nay không biết ở đâu? Làm gì?

Nhà máy Trần Hưng Đạo chiếm cả một khu rộng lớn bao gồm mấy tuyến phố, Bà Triệu, Thái Phiên, Mai Hắc Đế chuyên sản xuất máy Bông Sen lắp vào xe công nông 3 bánh, mấy năm qua nhà nước cũng đã cấm loại xe này lưu hành vì nó xả khói bụi gây ô nhiễm môi trường và hay gây tai nạn.

Còn các nhà máy Đồng Tháp, Minh Nam, Lương Yên hình như đã xóa sổ, còn lại các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá, cơ khí Mai Động, Giải Phóng, Pin Văn Điển đang cầm cự chờ số phận.

Nhà máy Pin ra đời cách đây nửa thế kỷ cũng chỉ sản xuất được hai loại pin Con Thỏ to đại, chưa làm được các loại pin “cúc” mỏng nhỏ sử dụng trong các đồng hồ nhỏ và đồ chơi trẻ em. Tại sao vậy? Với tình trang trì trệ, lạc hậu như vậy, làm sao công nhân, người lao động khá lên được?

Về thương nghiệp

Buôn bán trao đổi xuất nhập khẩu tổng hợp đa dạng các mặt hàng nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khoáng sản, giày dép, quần áo và các thiết bị máy móc thiết bị điện tử, y tế, giao thông, tàu bè, ô tô…

Về xuất khẩu

Nước ta là nước nông nghiệp, chiếm 80% nông sản lúa gạo xuất đi các nước trên thế giới hàng triệu tấn mỗi năm, để các “thương lái” điều hành lũng đoạn thị trường vơ vét làm giàu bắt bí nông dân, mua với giá rẻ, không khác nào “cấy lúa trên lưng” người nông dân không am hiểu nắm bắt thị trường thế giới, bán phá giá cho các đối tác nước ngoài với số lượng lớn. Thua ngay cả Thái Lan về giá cả, làm thiệt hại cho nông dân và đất nước.

Về rau quả xuất đi nước ngoài cũng bị động thua thiệt, chủ yếu xuất sang Trung Quốc. Như mọi người đã biết, hàng năm “đến hẹn lại lên”, ngót một nghìn xe chở dưa hấu và các rau quả khác mắc kẹt ở cửa khẩu Tam Thanh tắc nghẽn đường chờ làm “thủ tục” ở phía Trung Quốc, chờ lâu hàng hóa ứ đọng thối nát phải đổ đi dọc đường, năm nào cũng diễn ra như vậy, thiếu phân bổ không nắm được hợp đồng chặt chẽ với đối tác trao đổi số lượng “chính ngạch” là bao nhiêu? Còn lại “tiểu ngạch” là bao nhiêu?

Ngược lại ta nhập của Trung Quốc rau quả, khoai tây, tỏi những thứ rau quả này tẩm hóa chất quá mức an toàn có hại cho sức khỏe. Chưa kể hết được các loại thực phẩm nhiễm vi khuẩn gây bệnh như thịt gà-bò-lợn ướp lạnh không rõ nguồn gốc, kể cả các loại ngũ tạng gà lợn ôi thiu v.v… Còn về xuất khẩu mặt hàng dệt may quần áo, giày dép chủ yếu là hàng gia công cho nước ngoài vì ta không có nguyên liệu.

Thua thiệt nhiều trong lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa do sự lệ thuộc ít hiểu biết thị trường thế giới cập nhật hàng ngày, bỏ qua những thông tin bổ ích, thiếu suy nghĩ không biết làm, hàng năm đã xuất thô bao nhiêu khoáng sản kim loại quý như titan, aluminum (nhôm) v.v… với giá rẻ, làm cho đất nước nghèo đi. Vậy còn gì nữa đây?

Có lẽ xuất khẩu lao động là khả thi nhất, vì có nhiều mối lợi xóa đói giảm nghèo, người đi lao động phải nộp một khoản tiền. Nhiều người thậm chí bán cả nhà hoặc vay ngân hàng để đóng lệ phí, để đi sang các nước “tư bản bóc lột”, cũng kiếm được một số tiền kha khá đổi đời gửi tiền về cho gia đình và không ít những người bị lừa trắng tay, rơi vào cảnh bần cùng không lối thoát.

Bất kỳ ở đâu khi tiếp các lãnh đạo nước ngoài, đại diện của ta luôn kèm theo quảng bá chào hàng, lao động dư thừa giá rẻ hấp dẫn, ký kết hợp tác lao động có cả triệu người sang các nước kể cả Thái Lan, Malaysia, Singapore, Síp, thậm chí cả các nước Trung Đông thuộc châu Á như Qatar, các nước ARập rất giàu có về tài nguyên dầu mỏ nhưng ngược lại rất nghèo về đạo lý tình người. Ở nơi đó rất cần nhiều lao động để lấn biển, mở sân bay rộng lớn tầm cỡ nhất nhì thế giới; ở nơi đó thiếu văn minh đúng nghĩa của nó đối xử với lao động quá tồi tệ không có an toàn lao động, tai nạn chết chóc xảy ra thường xuyên với mức lương quá thấp so xới sức lao động bỏ ra. Nhiều người đã bỏ mạng nơi đất khách quê người vì nơi ăn ở thiếu thốn, ốm đau bệnh tật, nơi đó quả thật là địa ngục trần gian, qua các tư liệu thông tin hình ảnh cho biết.

Về nhập khẩu

Nhiều thiết bị, máy móc ta không làm được phải nhập loại có giá trị cả triệu USD, do đó nhập siêu nhiều hơn là xuất.

Nhiều thứ nhập rồi bỏ đi làm sắt vụn, đồng nát như máy bay, tàu biển, ụ nổi Vinashin và nhiều thiết bị khác không kể xiết, chỉ kể một số sự việc được các thông tin truyền thông đăng tải vừa qua. Trong nước có nhiều biển cảng, riêng cảng Hải Phòng chứa trên dưới 10.000 container siêu trường, siêu trọng loại to đổ phế liệu rác thải bỏ đi; những người mang về chứa hàng chục năm nay, chắc hẳn phải có thế lực họ không am hiểu về chuyên môn, hám lợi, thiếu cái tâm.

Về môi trường

Sức khỏe và sự sống của con người là do môi trường trong sạch, trong đó có nước và không khí, đặc biệt quan trọng với sức khỏe con người. Đất nước đang đi vào công nghiệp hóa, các nhà máy mọc lên khắp nơi, khói bụi và nước thải bừa bãi làm chết biết bao con sông, hóa chất độc hại thấm sâu vào đất, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các loại rau quả, sinh vật, cá, tôm, tép đều chết, đã xuất hiện nhiều làng ung thư, gây nên nỗi đau cho người dân ốm đau mắc bệnh ung thư. Trách nhiệm này thuộc về cơ quan chức năng bảo vệ môi trường chưa làm hết trách nhiệm với dân, các chế tài chưa mạnh không có sự đền bù cho dân ốm đau bệnh hoạn ở các làng ung thư, người dân biết kêu ai? Hầu như không có một cơ quan nào đứng ra bắt các nhà máy phải đền bù cho dân, làm sống lại các con sông chết (việc này ở miền Nam làm tốt hơn miền Bắc).

Về y tế

Đời người ai cũng ốm đau, ít nhất cũng vào viện đôi ba lần, những điều muốn nêu lên ở đây là viện phí quá đắt so với mức sống thu nhập của người dân. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam, đi khám qua loa vài cái xét nghiệm cũng mất tới 4- 5 triệu, chưa kể tiền thuốc, mức chi phí này vượt quá mức lương lao động trong một tháng của người dân. Nếu bệnh nan y phải phẫu thuật, hóa trị, xạ trị vv… ôi thôi khỏi phải nói! Số tiền chữa bệnh có thể lên đến hàng trăm triệu thậm chí cả bạc tỉ. Người lao động làm cả đời cũng không để dành được số tiền đó. Nói về thẻ bảo hiểm, có hỗ trợ gì đâu vì bệnh nhân hầu hết là trái tuyến, không có thanh toán.

Tôi đã từng là bệnh nhân phải vào viện K điều trị trong hoàn cảnh 4 người nằm một cái giường con, giá tiền nằm một ngày là 80.000 đ; giường quá nhỏ, ngồi cũng không đủ cho 4 người. Vậy ban quản lý hay giám đốc có biết không? Còn rất nhiều chuyện kiếm tiền của bệnh viện nói ra thì trang giấy này không đủ. Nói riêng về thiết bị máy móc quá cũ, hỏng luôn, bệnh nhân phải chờ đợi, tôi là người trong cuộc thấu hiểu rõ cách đối xử với bệnh nhân của bệnh viện, hầu như tất cả các bệnh viện đều quá tải. Tại sao vậy?

Ốm đau nhiều, vì môi trường, vì tai nạn, ít am hiểu phòng bệnh. Để giảm tải sự ốm đau, tốt nhất là ngành y tế có phương pháp tổng thể tuyên truyền khắp nơi trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình từ bản làng đến các xã, huyện, thành phố, dán áp phích, tờ rơi nói về cách phòng các loại bệnh. Cách làm này ít nhiều cũng có kết quả.

Là người Việt Nam, tôi thấu hiểu trình độ dân trí hãy còn thấp, ít ai quan tâm đến báo chí tin tức thời sự, chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội… bỏ qua các thông tin bổ ích trong đời sống, chỉ thích các loại phim truyện tầm phào, hài hước, chuyện vui, chuyện hài vv…

Nắm được tâm lý ý dân, Bộ y tế, Bộ giao thông liên kết với Bộ văn hóa, cho ra đời những tiểu phẩm chuyên nói về cách đề phòng các loại bệnh và luật giao thông an toàn nhờ các diễn viên hề nổi tiếng đóng trong các tiểu phẩm hay clip chiếu rộng rãi trên các kênh TV hàng ngày giảm bớt chương trình quảng cáo thương mại hóa, lợi thì ít, hại thì nhiều. Các tiểu phẩm này nêu cả sai trái của người tham gia giao thông, trên các phương tiện đi bộ, đi xe đạp, xe máy, ô tô, nếu làm được những điều kể trên thì tin chắc tai nạn giao thông sẽ giảm và bệnh viện không còn nỗi lo quá tải.

Nhớ lại thời Pháp thuộc xa xưa cách đây gần một thế kỷ (70 năm) đã cho chiếu bộ phim hoạt hình ở khắp thành phố, bến xe, chợ quán. Bộ phim nói về 3 loại bệnh xã hội phổ thông như: lao phổi, tiêu chảy, sốt rét và cách phòng chống. Những ai xem đều có ấn tượng sâu sắc không thể nào quên. Tại sao Bộ Y Tế không làm được việc đó?

Ngày nay hệ thống truyền thông bùng nổ, các dạng truyền thanh, truyền hình suốt ngày đêm (24/24 tiếng) phát hầu hết các chương trình sinh hoạt chính trị.

Kỷ niệm năm này, năm kia của đất nước cũng như các ngành bộ đua nhau kỷ niệm ngày thành lập 5-10-20 năm v.v… chưa kể một số phim truyện nước ngoài quá dài, hàng trăm tập xen kẽ vào quảng cáo nhiều, còn đưa ra chương trình văn hóa giáo dục công dân.

Có lẽ truyền hình Việt Nam đứng đầu về quảng cáo so với các hãng truyền thông trên thế giới như CNV- Nhật Bản (NHK World), Dicovery, National – Geogranphic – Pháp v.v…

Nếu không sớm bừng tỉnh, mở tầm mắt nhìn ra thế giới, tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu? Nguyên nhân tại sao đất nước Việt Nam như thế này? Ở cái tuổi gần đất xa trời, sống trong tổ quốc, tôi đang tìm hiểu lý do tại sao?

Xin phép được nói rõ: Tôi là người dân (đúng nghĩa của dân thường) bị loại bỏ, không được làm ở cơ quan nhà nước, cũng không được học ở trường lớp nào, tự học nghiên cứu đa lĩnh vực khoa học, công nghệ, chế tạo, kinh tế, chính trị, văn hóa v.v… Lao động làm thợ ở các HTX thủ công từ thời bao cấp (HTX) cho đến khi HTX giải thể (tan rã). Về hưu tay trắng, không có lương hưu. Gần suốt cuộc đời “cầm búa”, đến nay mới cầm bút, viết bài này chắc chắn hãy còn nhiều thiếu sót, mong mọi người đóng góp thêm.

Phạm Văn Chính

37 Lý Nam Đế – Phường Hàng Mã

Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội

ĐT: 097.52291

Vụ biểu tình chặn QL1A: Đừng xem thường người dân

Vụ biểu tình chặn QL1A: Đừng xem thường người dân

Nam Nguyên- RFA
2015-04-17

vdb041715.mp3

traffic-blocked-620

Xe ùn tắc trên quốc lộ 1A

RFA file

Your browser does not support the audio element.

Cuộc biểu tình bạo động chặn Quốc lộ 1A trong 30 giờ từ chiều 14 đến đêm 15/4/2015, làm kẹt xe hàng chục km ngang qua huyện Tuy Phong và Thuận Nam tỉnh Bình Thuận, đã gây chấn động dư luận toàn quốc. Điểm đáng chú ý, nguyên nhân của sự phản kháng giận dữ là vì môi trường sống của người dân địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cư dân xã Vĩnh Tân huyện Tuy Phong đã phải hít thở bầu không khí ngập ngụa khói bụi xỉ than được xả thải từ Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2. Khiếu nại nhiều lần mà tình trạng ô nhiễm không giảm nên cuối cùng sự nổi giận của người dân đã bùng phát thành biểu tình và khi bị ngăn chặn thì bạo động đã xảy ra. Theo Vn Express, trong quá trình chặn quốc lộ 1A, nhiều người được cho là quá khích khi dùng đá, bom xăng (tức chai chứa xăng có nùi giẻ mồi lửa) tấn công lực lượng chức năng khiến nhiều người bị thương. Một khách sạn và 3 ô tô gần khu vực bị hư hại nặng.

Tương đồng: phản ứng của dân

Có điều gì tương đồng khi vụ biểu tình bạo động chặn QL 1A đã diễn ra không lâu sau các vụ đình công qui tụ 90.000 người ở Saigon để phản đối một điều khoản của Luật Bảo hiểm Xã hội; hay các vụ xuống đường ở Hà Nội để chống chính quyền chặt hạ cây xanh vô tội vạ. TS Nguyễn Quang A nhà hoạt động Xã hội Dân sự từ Hà Nội nhận định:

SB: “ Những phản ứng của người dân đối với quyền lợi của họ chứng tỏ người dân càng ngày càng ý thức về quyền và lợi ích của mình và họ đã cất tiếng nói lên. Nhà nước cần tạo ra những khuôn khổ pháp lý để cho người dân thể hiện tiếng nói của mình một cách hữu hiệu ôn hòa. Không có những khung khổ như thế, không có sự đối thoại như thế giữa người dân với nhà nước thì rất đáng tiếc, những việc cất tiếng nói đấy có thể có những hậu quả rất khó lường và có thể có hại cho tình hình chung của đất nước. Nếu những việc cất tiếng nói ấy dẫn đến bạo loạn, dẫn đến những thiệt hại không đáng có.”

power-plant

Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận

Ô nhiễm “khủng khiếp”

Báo điện tử Pháp luật (PLO) trong bài tường thuật ngày 16/4 ghi nhận “Cận cảnh bãi xỉ khổng lồ lộ thiên gây ô nhiễm khủng khiếp”.  Theo quan sát của nhà báo, nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 có bãi chứa vặng xỉ thải rộng tới 30.000 m2, khu vực này lộ thiên không có tường che chắn, bụi xỉ bay mịt mù vào nhà dân. Khi có gió lốc thì toàn khu vực xã Vĩnh Tân chìm trong bão bụi xỉ, trẻ em bị bệnh hô hấp khó thở. Người dân phản ánh, từ tháng 12/2014 bắt đầu bị bụi xỉ, thì toàn bộ cây trôm cây hoa màu đều không thể sống nổi. Ngay cả tôm cá trong ao cũng chết sạch.

Một người dân xã Vĩnh Tân Huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận cũng nói với Đài chúng tôi câu chuyện tương tự:

SB: “ Người ta chặn xe do hệ thống lọc bụi lọc khí của nhà máy Vĩnh Tân thải bụi than ra mỗi ngày, nó đổ ra từng đống tro bụi xỉ rồi gặp gió lớn thuận chiều bay tới người dân làm cho người dân bức xúc…”

Được biết dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 có tổng mức đầu tư 23.000 tỷ đồng, chủ đầu tư là Điện lực VN một Tập đoàn Nhà nước. Các thông tin trên mạng cho thấy trong 3 năm xây dựng thi công nhà máy này cho tới khi hoàn thành cuối năm 2013, Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước đã trực tiếp kiểm tra nghiệm thu từng giai đoạn một, bảo đảm các yêu cầu về môi trường theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế. Tuy vậy hai tổ máy với tổng công suất thiết kết 1.244 MW mới lần lượt vận hành một thời gian khoảng hơn 1 năm, mà vấn đề xả thải đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

TS Phạm Sĩ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Xây dựng từ Hà Nội nhận định:

SB: “ Công trình lớn như thế này tất nhiên phài có đánh giá tác động môi trường khi làm dự án chứ không phải là đợi xong mới xem. Nếu mà đã được nghiệm thu nhà nước thì tôi chắc rằng những thủ tục ấy là người ta đã kiểm tra. Thế nhưng trong thực tế thì nó lại diễn ra những điều như là vấn đề ô nhiễm môi trường, điều này chứng tỏ rằng việc có những kẻ hở nào đó mà họ không tuân thủ, hoặc ngay trong lúc vận hành họ bỏ qua những khâu nào đó. Ví dụ như tôi biết có nhiều khu vực thì có hệ thống xử lý nước thải nhưng người ta không dùng vì kinh phí tốn kém; họ xây ra đấy để nghiệm thu cho có chứ vận hành thì không làm. Những chuyện đó đều có cả, tôi không biết trong trường hợp này cụ thể là gì. Nhưng tôi chắc rằng trong việc vận hành có thiếu sót, có những việc không đúng theo như đã duyệt. Khi mà nhân dân đã có phản ứng như vậy thì các cấp chính quyền, đặc biệt là Bộ Tài nguyên Môi trường phải vào cuộc và nhanh nhất thì Cảnh sát Môi trường phải vào cuộc.”

Yếu tố Trung Quốc: lạc hậu, ô nhiễm

Lướt mạng ngược dòng thời gian, vietbao.vn bản tin trên mạng ngày 17/12/2010 đưa tin Ngân hàng Xuất khẩu Trung Quốc tài trợ 300 triệu USD tín dụng ưu đãi cho Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2, chưa kể vay thương mại và ODA cũng của Trung Quốc. Như vậy Tập đoàn Điện lực VN chỉ phải bỏ ra 15% tổng vốn đầu tư cho Dự án. Sự lệ thuộc nguồn vốn Trung Quốc cho nên hợp đồng tổng thầu EPC xây dựng Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 cũng được giao cho một công ty Trung Quốc là Tập đoàn Điện khí Thương Hải.

Câu chuyện Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 với các yếu tố Trung Quốc làm các chuyên gia bày tỏ sự lo ngại về công nghệ lạc hậu và ô nhiễm môi trường. TS Nguyễn Quang A nhận định:

SB: “ Vấn đề hết sức nghiêm trọng bởi vì các nhà thầu Trung Quốc viện vào chính sách của Chính phủ Trung Quốc cung cấp và dàn xếp về vốn và những người chủ đầu tư Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh thì hăm hở chấp nhận những nhà thầu như vậy. Rất đáng tiếc Việt nam có thể trở thành một cái bãi thử nghiệm cho họ và một cái bãi thực sự là để xả rác công nghệ.”

TS Nguyễn Quang A kêu gọi những người có trách nhiệm giải quyết tận gốc vấn đề ô nhiễm môi trường của Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 thay vì sử dụng công cụ truyền thông nhà nước để lý giải loanh quanh.

Đáp câu hỏi của chúng tôi là để giải quyết tận gốc vấn đề công nghệ lạc hậu của Trung Quốc, vấn đề ô nhiễm môi trường như trường hợp Vĩnh Tân 2 thì cụ thể có thể làm gì. TS Nguyễn Quang A tiếp lời:

SB: “ Việt Nam đã có những qui định về đấu thầu hoặc những qui định ngặt nghèo về các tiêu chuẩn. Nhưng rất đáng tiếc tất cả những gói thầu chìa khóa trao tay hay tổng thầu EPC…thì bản thân người chấm thầu, quyết định thầu tức các doanh nghiệp nhà nước, hay bản thân chính quyền VN đã không theo đúng những qui trình do chính họ đưa ra trong Luật Đấu thầu. Và họ chỉ tính đến cái giá mới đầu tưởng là rẻ, cuối cùng nó nảy sinh vấn đề như nhà máy nhiệt điện chúng ta đang nói tới, nó sẽ gây ra rất nhiều hậu quả. Hoặc như các nhà máy bauxite ở Tây Nguyên, những khoản đầu tư đó tưởng như là rẻ, nếu tính hết các khoản khác mà theo Luật Đấu thầu của VN bây giờ phải tính đến, thì những gói thầu đấy những nhà thầu kém chất lượng như của Trung Quốc không bao giờ thắng thầu được. Thực sự ở đây có vấn đề chính trị đứng đằng sau, cho nên dẫn đến kết quả đầu tư kém hiệu quả, tưởng như là rẻ nhưng thực sự rất là đắt đỏ .”

coal-dirt

Bụi xỉ than để bừa bãi, bay hết vào làng

Khó giải thích

Sau khi cuộc biểu tình bạo động chặn quốc lộ hơn 30 giờ trở thành một vấn đề quốc gia, theo VnExpress Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vội vàng lên tiếng yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam giải quyết. Ông Hải yêu cầu các Bộ ngành hữu quan chỉ đạo thực hiện gấp rút giải pháp sử dụng tro, xỉ tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân làm vật liệu xây dựng không nung, phụ gia xi măng…

Tại sao tác động môi trường lại không thể tiên liệu trước mà phải đợi dân biểu tình mới chữa cháy. Đây là một sự thực khó lòng giải thích.

Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân hiện nay mới chỉ có một nhà máy Vĩnh Tân 2 được vận hành, theo kế hoạch từ nay tới 2019 ở khu vực huyện Tuy Phong Bình Thuận sẽ có thêm 3 nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân khác được xây dựng để góp phần ổn định nguồn điện cho các tỉnh thành lân cận. Trong 4 nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân chỉ có dự án Vĩnh Tân 4 đang xây dựng dự trù hoàn tất vào năm 2018 là có nguồn tín dụng tài trợ của Hàn Quốc và Nhật Bản và sử dụng tổ hợp nhà thầu Hàn Quốc-Nhật Bản-Việt Nam. Các Dự án Vĩnh Tân 1 và 3 cũng tương tự như Vĩnh Tân 2 lệ thuộc nguồn vốn và tổng thầu Trung Quốc.

BÌNH AN CHO CÁC CON

BÌNH AN CHO CÁC CON

Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an.”  Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an.”  Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn.  Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc.  Do đó, bình an khác với hòa bình.  Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao.  Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an.  Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.

Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông.  Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21).  Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20, 26; Lc 24, 36).

Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái.  Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.

“Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga14, 27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng.”

1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn

Chúa Giêsu Phục sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức.  Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.

“Bình an cho các con.”  Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.

“Bình an cho các con.”  Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng.  Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an.  Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống.  Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm.  Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ.  Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v… tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.

Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau.  Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất.  Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an.”

Hai họa sĩ đồng ý.  Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình.  Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng.  Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái.  Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”  Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước.  Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm.  Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an.”  Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem.”  Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở.  Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra.  Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này.  Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời.”  Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức họa này.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.

Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân.  Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính.  Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời.  Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc.  Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

“Bình an cho các con.”  Thế giới như đang sống trên một lò lửa.  Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất…  Thế gian chưa có bình an.  Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.

2. Hoa quả của Bình An

Có nhân thì có quả.  Có tranh chấp thì sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết.  Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.

Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ,  bao dung,  quảng đại,  khiêm tốn,  nhẫn nại, nhịn nhục…

Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình…  Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.

Hoa quả bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hòa thư thái trong tâm hồn.

Hoa quả bình an cũng chính là sự thật.  Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.

Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an.  Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.

Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa.  Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta.  Giáo hội cũng mong muốn như vậy.  Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em,” rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.”  Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.

Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm.  Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa,” góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.

Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc cam go sợ hãi thử thách luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

GM Vũ Duy Thống

Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus.  Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý.  Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì.  Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt.  Mặc kệ tất cả.  Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được.  Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người.  Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:

1) Đấng phục sinh có mặt trong những bước đồng hành chia sẻ

Bối cảnh của bài Phúc Âm là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh.  Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát.  Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới.  Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ.  Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá.  Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng.  Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.

Mà đâu có xong.  Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường.  Ngay trong Phúc Âm hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.

Vâng, Đấng Phục sinh là như thế.  Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ.  Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa.  Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.

2) Đấng phục sinh có mặt bằng những lời củng cố tin yêu

Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Âm cũng vẫn là thất vọng ê chề.  Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì.  Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra.  Chới với, chao nghiêng.  Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.

Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh.  Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư.  Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa.  Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Âm hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân.  Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.

3) Đấng phục sinh có mặt giữa những tấm bánh bẻ ra cho đời

Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ.  Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần.  Đấng Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại.  Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa.”  Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.

Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ.  Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui.  Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.

Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này.  Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.

Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa.  Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng.  Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta.  Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.

Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.

GM Vũ Duy Thống

HAI SẮC HOA TI GÔN

HAI SẮC HOA TI GÔN
T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-38 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa ti gôn” của ký giả Thanh Châu đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa ti gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai sắc hoa ti gôn”, ký tên T.T.Kh do một người thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa ti gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài thơ thứ nhất”, “Bài thơ đan áo” (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và “Bài thơ cuối cùng”.

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai sắc hoa ti gôn” lại xuất hiện trước “Bài thơ thứ nhất” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời”.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không?  Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ”. Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất”.  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số phụ bé nhỏ không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

Bài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha”, tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài.  Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.” Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “bài thơ đan áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem”. Xót xa, tiếc nuối…. là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b). Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai sắc hoa ti gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy?

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng” vẫn đi bên cạnh cuộc đời” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng với một thái độ lạnh lùng dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư?  Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người”, chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai dù tương lai không thuộc về tôi và bao dự định dang dở….  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân…. tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…..  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…”,  “Vẫn đi”“vẫn giấu”, một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống, nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi không mang theo được gì nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết”. Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai:  Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời.  Ái ân lạt lẽo của chồng tôi.” Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu….. không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững”, nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.” Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết”, một sự khẳng định chắc chắn đến thế nhưng không có cảnh đòi li dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ“thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem”, … không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu.  Lòng tôi còn giá đến bao giờ?”   Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng trong “Hai sắc hoa ti gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa nhưng chỉ là môi miệng để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em

Bài thơ đan áo nay rao bán

Cho khắp người đời thóc mách xem.”

Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài thơ cuối cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng.  Trời ơi! Người ấy có buồn không? với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ.  Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè.  Như tiếng chân người len lén đến”. Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo.  “Bài thơ đan áo” chỉ viết riêng cho chị chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa: “Cố quên đi nhé câm mà nín.  Đừng thở than bằng những giọng thơ”. Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ”, xót xa gì “một tâm hồn héo”, tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ”. Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn”. Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa thì bộ mặt thế gian biến đổi với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi cho dù làm thế “là giết đời nhau”. “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!” Tình đã dang dở rồi đây nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi”! Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ để giúp con người biết lựa chọn và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng – Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ“, thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian –  và Tôi”?  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

KHIÊM TỐN : CHÌA KHÓA CỦA HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG

KHIÊM TỐN : CHÌA KHÓA CỦA HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG

( GS HỒ CÔNG HƯNG )

thay hung

Khiêm tốn là đức tính thiết yếu trong đời sống gia đình cũng như xã hội, nhưng dường như ít được lưu tâm.
Con người vốn là con vật xã hội, nghĩa là chỉ có thể thành người giữa những người khác. Vì thế cuộc đời mỗi người được dệt nên bằng những mối quan hệ rất đa dạng từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Các mối tương giao này nếu được xây dựng hài hòa sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho người khác chung quanh. Tuy nhiên, bạo lực dưới mọi hình thức, như một căn bệnh xã hội đang lây nhiễm khắp nơi và trong mọi giới, làm cho môi trường sống mất an vui. .
Bạo lực còn là nguyên nhân chính làm cho rất nhiều gia đình mất hạnh phúc và đổ vở, đặc biệt nơi giới trẻ. Theo Trung tâm Tư vấn Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình, Hội Liên hiệp Thanh niên VN, thực trạng ly hôn ở các gia đình 8X (sinh 198..) đã đến mức báo động. Khảo sát hồ sơ ly hôn ở các tòa án quận huyện trong hai năm trở lại đây, người ta thấy tuổi thọ hôn nhân bình quân của thế hệ này dao động trong khoảng chỉ… 30 tháng. (1)
Các nhà tư vấn tâm lý cho rằng nguyên nhân của tình trạng trên là do giới trẻ hôm nay không biết rèn luyện cho mình những kỹ năng ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Tháng 12 vừa qua, báo Tuổi Trẻ mở mục diễn đàn “Đâu rồi, chuyện tử tế?”, với tiêu chí hướng tới việc xây dựng thói quen ứng xử có văn hóa trong thanh thiếu niên. Người đọc không khỏi liên tưởng đến bộ phim tài liệu “Chuyện tử tế”, nổi tiếng một thời (1985) của NSND Trần Văn Thủy. Theo nhà đạo diễn này, tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc nên con người trước tiên phải biết sống tử tế với nhau. Nhưng thiết nghĩ, kỹ năng ứng xử hay chuyện tử tế thật ra phải phát xuất từ một đức tính căn bản và thiết yếu hơn mà dường như gia đình và học đường ngày nay ít quan tâm trong việc giáo dục con người: lòng khiêm tốn. Nếu thói kiêu căng tiềm ẩn nơi bản tính con người từ lúc sinh ra như một nhu cầu sinh tồn, thì lòng khiêm tốn lại là một đức tính cần được rèn luyện từ khi nhỏ đến suốt đời người. Bởi vì khiêm tốn là chìa khóa đem lại hạnh phúc và thành công trong cuộc sống của mỗi người (và của cả xã hội).

1. Bạo lực tràn lan trong xã hội ngày nay là một thực trạng gây nhức nhối đối với các bậc phụ huynh và những nhà giáo dục.

Mỗi ngày chỉ cần giở tờ báo ra là có thể đọc thấy tin vài vụ bạo lực đưa đến gây thương thích, thậm chí đổ máu chết người mà nguyên nhân nhiều khi chỉ là “chuyện rất nhỏ”. Hai chiếc xe máy va quẹt nhau, một câu nói hay dáng đi gây khó chịu, một cái nhìn bị cho là “đểu”, một vụ giành gái trong quán Kaoraoke v.v… thế là một người có thể bị đâm mất mạng và một kẻ phải vào tù hỏng cả cuộc đời. Xin đơn cử trong ngày 26.11.2014, trên báo điện tử vnExpress.net, có các tin sau: “Hai gia đình hổn chiến vì tiếng đài (radio) mở to”, “Phó công an đánh hàng xóm vì bênh vợ”, “Hai chú tiểu (10 và 8 tuổi) bị đánh đập dã man trong chùa ở Phan Rang”, “Người đàn ông bị đâm chết sau va quẹt xe, gần bến xe Miền Đông”…

Cũng trong ngày hôm đó, ở Hà Nội diễn ra cuộc hội thảo “Trường học an toàn, thân thiện và bình đẳng – Thực trạng và giải pháp”. Trong buổi hội thảo này, Viện nghiên cứu Y – Xã hội phối hợp với tổ chức từ thiện Plan Việt Nam đã công bố kết quả nghiên cứu về bạo lực giới từ tháng 3 đến tháng 9.2014 với 3.000 học sinh của 30 trường THCS, THPT trên địa bàn Hà Nội. Kết quả, khoảng 80% học sinh cho biết từ trước đến nay đã bị bạo lực giới trong trường học ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong vòng 6 tháng qua…

Một tháng sau, ngày 25.12, báo Thanh Niên có bài “Dửng dưng với bạo lực học đường”, nhắc đến nhiều vụ nữ sinh đánh nhau mà chỉ cần lên google.com gõ “nữ sinh đánh nhau” thì “trong 0,26 giây đã có 761.000 kết quả liên quan đến thông tin, hình ảnh, clip nữ sinh đánh nhau”. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân chính là do trường phổ thông hiện nay quên dạy làm người. Và tờTuổi Trẻ hôm đó viết bài “Học sinh THCS đánh nhau nhiểu hơn”. Rồi tuần báo Khoa Học Phổ Thông cũng lên tiếng “Bạo lực học đường đang có chiều hướng phức tạp”.Tiếp sau, nhiều phụ huynh phản ánh chính con cái họ là nạn nhân, dẫn đến tổn thương tâm lý, có người còn đưa trường hợp lạ đời: Con bị đánh chỉ vì… học giỏi!

Theo nghiên cứu của Ts Nguyễn Minh Hoà (Đại học KHXH&NV Tp HCM), dựa trên số liệu của tòa án các quận huyện ở thành phố, 63% số người đứng đơn ly hôn là các bà vợ, mà hầu hết vì không chịu được bạo hành gia đình (2). Báo Phụ Nữ còn nêu nhiều vụ chồng “đánh đập vợ như thởi Trung Cổ” (12.1.2015). Tình trạng ly hôn nơi giới trẻ trong những năm gần đây cũng tăng rất nhanh. Theo Cục Thống Kê thành phố, tỷ lệ ly hôn ở độ tuổi dưới 35, năm 2008, 2009, 2010 và 2011 lần lượt như sau: 46,8, 58,5, 59,7 và 49,2%. Các nhà tư vấn tâm lý cho rằng đa số các đôi tân hôn này từng được nuông chiều trong gia đình và đã tự coi mình như “trung tâm vũ trụ” lúc còn độc thân. Và, sau khi kết hôn, tính vị kỷ đó đã khiến họ có thái độ thiếu quan tâm và khoan dung đối với người khác.

Chưa hết. Cũng trên mục “Đâu rồi, chuyện tử tế?” của báo Tuổi Trẻ, nhiều đọc giả nữ còn nhắc đến tệ nạn những kẻ núp sau bàn phím máy tính để “ném đá”, nói theo ngôn từ dân mạng, có khi “hùa nhau ném đá”. Họ tự tiện vào Facebook của khổ chủ, lấy ảnh đưa lên mạng làm trò đùa với những lời bình luận thô tục đầy ác ý, xúc phạm đến người khác, mà nạn nhân là phái yếu rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương, đáng được tôn trọng hơn hết. Đây là trò vô văn hóa, nếu không muốn nói là mất dạy, dường như đang được xã hội coi như “chuyện bình thường”.
Đó là chưa kể những vụ cướp của giết người, diễn ra ngày càng táo tợn và dã man với thái độ rất bình thản và lạnh lùng. Nhiều học giả đã đặt câu hỏi không biết trong lịch sử dân tộc ta vốn “dĩ hòa vi quý”, có thời nào mà con người lại độc ác với nhau như hôm nay.

2. Thói kiêu ngạo phát sinh từ một nhu cầu sinh tồn nên tiềm ẩn suốt đời nơi mỗi người và thể hiện dưới nhiều hình thức.

Trẻ sơ sinh vừa ra khỏi lòng mẹ, cất tiếng khóc chào đời. Theo y học, tiếng khóc đầu tiên là dấu hiệu an toàn làm bé nở phổi, có ích cho sự phát triển sau này. Đồng thời cũng là phản xạ tự nhiên của bản năng, là tin hiệu nhắc nhở “có tui đây” trên cõi đời này. Mà thật vậy, một trẻ thơ ra đời là trung tâm đem lại niềm vui cho cha mẹ và cả đại gia đình nội ngoại.

Trong quá trình phát triển, đứa trẻ cảm thấy mình được thừa nhân một cách rõ rệt nhờ tình thương và sự chăm sóc của người thân, đặc biệt của bà mẹ. Vì thế, để chu toàn thiên chức làm mẹ, người nữ được Trời phú một bộ não bén nhạy hơn nam giới trong việc nhận biết tiếng khóc của con mình. Nhưng đến một độ tuổi nào đó, nếu mọi đòi hỏi của bé được đáp ứng dễ dàng thì cái tôi nơi trẻ cũng bắt đầu phát triển. Từ đó, việc dạy dỗ dần trở trên khó khăn, đưa đến những biểu hiện của thói tự tôn và kiêu căng. Theo nhà giáo dục nổi tiếng thế giới người Ý, nữ bác sĩ Maria Montessori, 6 năm đầu là thời kỳ quan trọng nhất của đời người, vì trong thời kỳ này diễn ra quá trình phát triển nhân cách và trí tuệ một cách mạnh mẽ nhất. Đến năm sáu tuổi, một đứa trẻ luôn được nuông chiều, lớn lên sẽ dễ hư hỏng và ra đời thành người gàn bướng cố chấp, tự ái vặt, không làm chủ cuộc đời mình. Đa số thanh thiếu niên phạm pháp và nghiện ngập hút sách đều thuộc diện này. Có thể nói, như một qui luật, cha mẹ nào quá e ngại vì con mình khóc khi còn nhỏ thì mai sau sẽ khóc nhiều vì con.

Đặc biệt, nếu đứa trẻ chẳng may sinh ra và lớn lên trong một gia đình mang nặng não trạng hơn thua, chỉ coi con mình là số một, quen che đậy và dung dưỡng hành động xấu của con, thói tự tôn huynh hoang nơi trẻ không được cha mẹ lưu tâm uốn nắn mà còn khích lệ, thì tính kiêu căng lại càng tăng trưởng, thể hiện dưới nhiều hình thức: bệnh nổ, chảnh, phách lối, xấc láo, vô ơn, đua đòi, khoe khoang, chơi ngông, háo thắng v.v..

Vì thế kiêu căng trước tiên là thói hư tật xấu của những “ông bà trời con” muốn gì được nấy trong gia đình, có thể gọi là một thứ bệnh ấu trĩ, rồi tiếp tục tiềm ẩn nơi con người trưởng thành, dù thuộc giới nào (3), như căn bệnh mãn tính, cho đến suốt đời. Đặc biệt nơi người có nhiều tiền của, nổi tiếng hay có quyền lực, phát sinh nhiều biến tướng đa dạng như áp đặt quan điểm chủ quan một cách độc đoán bất chấp sự thật, phát ngôn những lời tự mãn dao to búa lớn, phô trương sự xa hoa phù phiếm, chức danh hay bằng cấp (kể cả bằng giả, bằng dởm và bằng ma), bệnh chạy theo thành tích ảo, thi đua thực hiện các công trình hoành tráng nhất nước, thậm chí nhất châu lục và thế giới, trong khi đất nước còn nghèo v.v… Suy cho cùng, âu đó cũng là những cách lên tiếng “có tui đây” của căn bệnh ấu trĩ mà thôi!

3. Lòng khiêm tốn là một đức tính tập thành và phải tập từ khi nhỏ cho đến suốt đời

Trước tiên, khiêm tốn không phải là tự hạ mình xuống hay cho mình kém cỏi hơn người, theo định nghĩa thường gặp trong nhiều sách tự điển. Thật ra đó chỉ là biểu hiện của mặc cảm tự ti. Khiêm tôn chủ yếu là thái độ sống phù hợp với sự thật. Mà sự thật là “vô nhân thập toàn”, ai cũng có khuyết điểm và sai lầm. Sự thật là khả năng và sự hiểu biết của mỗi người đều có giới hạn, nên cần phải thường xuyên học hỏi. Sự thật là mọi người sinh ra đều có quyền sống như nhau và có phẩm giá cần phải được tôn trọng. Vì thế giáo dục lòng khiêm tốn trước tiên cũng là giáo dục lòng yêu quí và tôn trọng sự thật, bắt đầu từ trong gia đình.

Thói kiêu căng làm cho trẻ luôn cố gắng gây ấn tượng về những giá trị mà thật ra mình không hề có. Từ đó, dần dần nảy sinh tình trạng mà triết học gọi là “ngụy tín” (mauvaise foi), nghĩa là tự lừa dối mà mình không biết. Vì thế người thiếu lòng khiêm tốn chẳng những khó nhận biết sự thật mà còn rất sợ sự thật.

Giáo dục trong từ Education của phương Tây có nguyên ngữ La-tinh là ex-ducere, (làm cho xuất ra) có nghĩa giúp trẻ phát huy những giá trị tiềm ẩn nơi mình. Triết lý phương Đông cũng quan niệm như vậy trong câu “xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo”. Tính ở đây là toàn thể tiềm năng do Trời phú cho một người (thiên mệnh chị vị tính). Như vậy, “bá nhân bá tính”, mỗi người nhận lấy cái tính khác nhau, thì không thể có việc so sánh hơn thua, mà chỉ nổ lực phát huy cái tính đó.

Đối với con cái chẳng may bị khiếm khuyết về thể chất hay tinh thần, cha mẹ cần tạo nơi nó lòng tự tin để vượt khó, không chút mặc cảm, đặc biệt dạy cho con biết rằng kẻ có lòng nhân xứng đáng làm người và đáng đươc quí trọng hơn hết. Hay nói theo đạo diễn Trần Văn Thủy, “hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người – người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm…”. Bởi vì thiếu sự tử tế, “một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn”.

Có lẽ cũng trong tinh thần đó, bắt đầu năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định không cho điểm và xếp hạng ở bậc tiểu học, giáo viên chỉ có nhận xét để phát hiện những cố gắng của học sinh và động viên khích lệ các em phát triển năng lực và phẩm chất đạo đức một cách tự nhiên, tránh được áp lực về điểm số và thành tích. Có người cho đây là một bước đột phá trong phương pháp giáo dục mà thật ra đã được áp dụng từ lâu ở nhiều nước.
Giáo dục trong gia đình vừa là một khoa học và một nghệ thuật để giữ sự cân bằng giữa yêu thương và uy quyền. Cha mẹ theo dỏi thái độ của con đối với trẻ cùng trang lứa, đặc biệt trẻ nghèo để kịp uốn nắn sửa đổi. Nhất là dạy cho con tránh thói ba hoa và tự đồng hóa giá trị mình với các vật dụng mình có, đồng thời biết chia sẻ niềm vui với bạn giỏi giang hơn mình và đồng cảm với bạn kém may mắn. Tuy nhiên, những lời khuyên răn đó chỉ có tác dụng giáo dục thật sự khi đi kèm với gương sáng của cha mẹ. Cha mẹ có lỗi với nhau hay với con cái, cần biết chân thành nói lời xin lỗi.

4. Lòng khiêm tốn là chìa khóa của hạnh phúc

Cuộc sống của mỗi người, dù ở lứa tuổi nào, đều nhằm mục đích mưu cầu hạnh phúc cho bản thân. Và để đạt được mục đích này, sức khỏe, sắc đẹp, bằng cấp, tiền tài, quyền lực và danh vọng chỉ là phương tiện, nghĩa điều kiện cần chứ chưa đủ, bởi vì hạnh phúc xuất phát từ cái tâm con người.
Hạnh phúc là thái độ tâm lý thoải mái trước những sự việc xảy ra cho mình, là cảm nhận bằng lòng với những gì mình đang có. Theo các nhà tâm lý, trong suốt cuộc đời mỗi người, hầu hết các sự việc (90%) không phải do bản thân mình chủ động gây nên, mà chỉ đón nhận. Vì thế thái độ đón nhận mới quan trọng để đem lại đau khổ hay hạnh phúc..
Thời bao cấp, lương thực còn khó khăn, vào dịp trước Tết, người viết đặt mua từ Chợ Đào, gạo nàng thơm đặc sản để làm quà cho bạn bè và người thân. Có người nhận quà đã mắng vốn thẳng thừng: Bộ nó tưởng tui đói sao cho gạo? Một biểu hiện rõ ràng của mặc cảm tự ti. Thay vì vui vẻ với món quà tình nghĩa để gia đình có nồi cơm trắng bốc thơm trong ngày đầu năm mới, người đó đã tự gây đau khổ cho mình và làm cho người khác mất vui, khi suy diễn kẻ cho có ý khinh khi mình.

Nhờ nhận thức đúng về giá trị thật của mình, người khiêm tốn thoát được mặc cảm tự tôn và tự ti vốn là nguyên nhân gây nên dằn vặt, đau khổ, vở mộng nơi người cao ngạo vì mình không được thừa nhận như mình tưởng. Nếu kẻ kiêu căng thường than phiền vì những điều không vừa ý thì người khiêm tốn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng thấy được ơn nghĩa hay cơ hội để học hỏi. Vì thế lòng khiêm tốn giúp con người biết sống giản dị và chan hòa nên luôn cảm nhận được hạnh phúc trong tầm tay, ở từng giây phút hiện tại của cuộc đời. Chỉ cần biết mình mạnh khỏe cũng đủ hạnh phúc rồi, như dân gian thường nói “Ăn được ngủ được là tiên”. Trong tình yêu và hôn nhân cũng vậy, người khiêm tốn biết bao dung và tôn trọng lẫn nhau làm cho mối giao ước giữa hai người được bền vững, bởi vì sự khinh thường là kẻ thù số một giết chết tình yêu. Và trong gia đình hạnh phúc, không có lý lẽ hơn thua mà chỉ có sự nhường nhịn và yêu thương.

Chứng kiến sự thành đạt của bạn bè, người thân, hàng xóm…, thay vì đố kỵ ganh ghét, người khiêm tốn biết chia sẻ niềm vui, để cùng vui với kẻ vui. Và chi có lòng khiêm tốn mới giúp con người biết đồng cảm với nổi đau của đồng loại trong thân phận làm người. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa hứa đem lại hạnh phúc cho người biết đồng cảm: “Phúc cho kẻ có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt, 5, 2-12).

Thử so sánh thái độ của người kiêu ngạo và kẻ khiêm tốn trước bệnh hoạn. Người kiêu căng che giấu bệnh của mình, thậm chí không muốn người thân gọi điện hay đến thăm hỏi. Trái lại người khiêm tốn đón nhận bệnh tật, kể cả cái chết với thái độ bằng lòng, thanh thản, hay nói theo Nhà Phật, coi Sinh, Lão, Bệnh, Tử như qui luật tất yếu của cuộc sống (4).

Tóm lại, có thể nói hạnh phúc trên cõi đời này dường như chỉ dành cho người có lòng khiêm tốn.

5. Lòng khiêm tốn là điều kiện để thành công, trong phạm vi cá nhân cũng như trên bình diện xã hội

Dân gian có câu “thất bại là mẹ thành công”, vì nhờ rút được bài học kinh nghiệm để có thể thành công trong lần sau. Nhưng chỉ có người khiêm tốn mới nhìn nhận mình thất bại, còn kẻ kiêu ngạo thường cố chấp, đổ thừa cho người khác hay cho những điều kiện khách quan, chứ không chịu thừa nhận sự yếu kém của mình. Vì thế sự thất bại là hậu quả tất yếu của tính kiêu ngạo và khiêm tốn là đức tính không thể thiếu để thành công trên đường đời
Người viết có anh bà con mở tiệm sửa xe và máy nổ ở một thị trấn nhỏ đìu hiu trên QL27. Người chủ luôn nghĩ bà con phải cần đến mình, mỗi lần sửa xe là như ban ơn cho khách. Hậu quả khách giảm dần và tiệm phải đóng cửa. Sau đó ít lâu, một đứa cháu cũng mở ở đó một tiệm sửa xe như thế mà lại rất thành công, chỉ vì nghĩ một cách đơn giản khách hàng nuôi sống mình. Ông chủ mới này còn cất công đến từng nhà có xe, xin đến ủng hộ. Sự thành công là kết quả của một thái độ biết người biết ta, vừa khôn ngoan và khiêm tốn.
Khiêm tốn cũng là đức tính của các bậc vĩ nhân từng cống hiến cho sự tiến bộ của nhân loại, Nhân trận đại dịch hạch ở Hong Kong năm 1894, bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) được cử từ Việt Nam sang và ở đây ông khám phá trực khuẩn dịch hạch trong điều kiện khó khăn, phải lén dựng lều tranh trong nghĩa trang để nghiên cứu. Sau đó, một nhà bác học khác đã.cướp công kết quả của ông. Yersin không màng danh vọng nên không hề lên tiếng đòi công lý, nhưng cuối cùng giới khoa học thế giới đã thừa nhận công trình của ông và trực khuẩn gây dịch hạch mang tên ông “Yersinia pestis”. Đúng như lời người xưa: “Chí nhân vô kỷ, Thần nhân vô công, Thánh nhân vô danh” (Trang Tử) (Chí nhân không xá mình, thần nhân không kể đến công mình, thánh nhân không màng đến tiếng tăm, tên tuổi)

Trên tạp chí Nghiên Cứu & Phát Triển sô 3-4 (110-111) tháng 7.2014 của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế, trong bài “Tổng thuật thói hư tật xấu người Việt”, tác giả Trần Văn Chánh nhắc đến câu nói của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình”. Sau đó, ông nhận xét từ 60 năm nay, đọc khắp các sách biên khảo và giáo khoa, không đâu thấy có một chữ nào nêu tính xấu của người Việt, nước Việt. Ngay cả khi tái bản các tác phẩm cũ, nhà xuất bản cũng cắt bỏ hết những đoạn “nói xấu” về người Việt. (5). Trái lại, chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng, trong sáng… (6) Thậm chí có nhà văn còn bịa tên tác giả nước ngoài viết cả cuốn sách ca ngợi hết lời “Người Việt cao quý”. Một hiện tượng văn hóa dường như chưa từng có trên thế giới (7).

Thiết nghĩ giấu diếm, che đậy những thói hư tật xấu và sự yếu kém của mình là “chuyện không tử tế”, thể hiện tính cao ngạo. Ngược lại cần khiêm tốn và trung thực nhận ra, rồi quyết tâm khắc phục chúng mới là điều kiện tiên quyết và thiết yếu để một dân tộc tiên bộ, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.

Kết luận; Lòng khiêm tôn cần được giáo dục từ trong gia đình và học đường

Khi bạo lực xảy ra thường xuyên và tràn lan trong xã hội nhiều hơn lúc nào khác, thì chắc chắn phải có những nguyên nhân sâu xa mà những người có trách nhiệm điều hành đất nước không thể làm ngơ hay phân bua lấp liếm. Việc truy tìm nguyên nhân của hiện tượng bạo lực trên, xin nhường cho các nhà nghiên cứu tâm lý xã hội và lịch sử (8).
Ở đây chỉ xin đề cập đến phạm vi hạn hẹp mà vinh quang của công việc giáo dục con người trong gia đình và nhà trường.
Bạo lực dù dưới hình thức nào cũng đều xúc phạm đến phẩm giá con người, phát sinh từ thói cao ngạo đưa đến lòng tự ái, thù hận, đố kỵ, ganh ghét … Đặc biệt người sử dụng vũ lực gây tác hại đến thân thể người khác thật ra là kẻ yếu thế, không còn biết lý lẽ và trở về với bản năng thú tính. Vì thế kiêu ngạo dù ở Đông phương hay Tây phương hay trong bất cứ tôn giáo chân chính nào, đều được coi như đầu mọi tội lỗi và là nguyên nhân khiến con người không thể hạnh phúc và thành công trên đường đời. Trái lại người khiêm tốn chẳng những biết tôn trọng đồng loại mà còn nổ lực đem lại hạnh phúc cho người chung quanh, nhất là những người kém may mắn. Thái độ tôn trọng trẻ con, phụ nữ, kẻ già, người khuyết tật luôn được đánh giá như thước đo trình độ văn minh của một xã hội
Điều đáng mừng là trong xã hội chúng ta ngày nay, hơn bao giờ hết cha mẹ lo cho con cái rất nhiều. Tiếc rằng các lo toan đó chỉ nhắm đến những điều phụ, kể cả mộng ước (hảo huyền?) con mình trở thành một Đặng Thái Sơn hay một Ngô Bảo Châu, mà quên đi cái chính yếu là làm sao cho con cái được sống hạnh phúc trên cõi đời này. Muốn được như vậy, trên hết mọi việc, cha mẹ trong gia đình và thầy cô ở nhà trường cần chú tâm dạy cho trẻ thành “người tử tế”, nghĩa là có lòng nhân hậu và khiêm tốn.
Bước đầu xin mạo muội đề nghị một giải pháp thật dễ dàng. Trong các giao tiếp, trước tiên ở gia đình và học đường, tập cho con em chúng ta thói quen nói với nhau, tùy hoàn cảnh tương ứng, ba từ đơn giản: Xin lỗi (Sorry, Pardon), Cảm ơn (Thank you, Merci) và Xin vui lòng (Please, S’il vous plait).
Mong lắm thay!

Hồ Công Hưng

(tháng 1.2015)
___________________________________
(1) Báo động tình trạng 8X ly hôn, Báo Phụ Nữ 6.2008
(2) “Hôn nhân – Gia đình trong xã hội hiện đại” (Nhà xuất bản Trẻ, 2000, tr. 80)
(3) Ngay trong giới cái bang (ăn xin) là thành phần thấp nhất trong xã hội, cũng phân chia cao thấp, cái bang nhiều túi phải hơn cái bang ít túi. Và trong chuyện nhậu nhẹt, điều chả hay ho gì, các lưu linh thời nay cũng tranh hơn thua về tửu lượng, nên không ít người “ra đi” giả từ bạn nhậu sớm.
(4) Theo nguyên ngữ, khiêm tốn trong tiếng Anh (humility) hay tiếng Pháp (humilité) bắt nguồn từ humus của tiếng La Tinh có nghĩa là đất cát, nhắc nhỡ con người từ cát bụi rồi sẽ trở về cát bụi như lời bài hát khá nổi tiếng của Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, Để một mai tôi về làm cát bụi”. Hay trong ca khúc “Trở về cát bụi” của Lê Dinh: “Người nhớ cho, ta là cát bụi, trở về cát bụi. Xin người nhớ cho!”.
(5) Trong quyển Việt Nam sử lược, xuất bản năm 1919, ở phần đầu sách, tác giả Trần Trọng Kim đã đưa ra những nhận xét về tính tốt, xấu của người Việt, nhưng trong bản in tái bản năm 1999, NXB Văn Hóa Thông Tin đã cắt bỏ hết những đoạn “nói xấu” về người Việt.
Có thông tin Gs Trần Quốc Vượng và Gs Cao Xuân Hạo khi còn sống từng có ý định viết một cuốn sách về “Người Việt xấu xa” tương tự như nhà văn Bá Dương viết tác phẩm “Người Trung quốc xấu xí”, xuất bản tại Đài Loan và được tái bản tại Trung Quốc trong thập niên 80 thế kỷ trước. Nhưng cả hai đã qua đời trước khi thực hiện ý định trên.
(6) Trong bộ phim “Chuyện tử tế” nêu trên, đạo diễn Trần Văn Thủy kể chuyện ông đi quay phim về công việc lao động nặng nhọc của một ông thợ làm gạch. Ông thợ chạy ra quát tháo và đuổi đoàn làm phim đi. Ông ta nói “Tại sao các ông không quay cảnh thực xem chúng tôi đang sống như thế nào? Các ông chỉ tô vẽ những điều không có thật, còn chúng tôi sống như thế nào thì mặc kệ”. Đó là dấu ấn của nền văn nghệ minh họa, khi người nghệ sỹ sáng tác theo đơn đặt hàng, theo những gì mà “người ta” muốn. Để làm mặt này sáng đẹp hơn, họ phải tạm lờ tịt cái mặt kia của đời sống đi, coi như không thấy. Nhưng như thế là không tử tế.
(7) Ai cũng biết Do Thái là dân tộc thông minh, từng sản sinh nhiều nhân vật xuất chúng trong mọi lãnh vực. Với số dân khoảng 15 triệu (trên khắp thế giới), chỉ bằng 0,2 – 0,3 % dân số toàn cầu, nhưng lại chiếm 32% giải Nobel. Ở nước Mỹ hiện nay, 1/3 triệu phú, 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu là người Do Thái. Đầu xuân 2014, người viết có dịp tham quan Do Thái một tuần lễ, đi khắp đất nước nhỏ bé này, để chứng kiến nhiều điều kỳ diệu. Đi theo đoàn là một anh chàng Do Thái gốc Đức, tên là Roni, nói trôi chảy 7 thứ tiếng, từng dạy đại học, nhưng thích nghề hướng dẫn du lịch hơn. Trong một lần trao đổi về sự thành công của người Do Thái, giải đáp một câu hỏi của người viết, ông quả quyết chưa hề có một văn bản hay tài liệu nào nhắc đến việc dân tộc ông tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Trong phương pháp dạy con của người Do Thái, việc giáo dục lòng khiêm tốn, từ trong gia đình, được đặt lên hàng đầu như điều kiện để học hỏi và tiến bộ. Người Do Thái thường tự nhủ: Thất bại không phải vì mình nhỏ yếu mà vì tự cho mình lớn mạnh
(8) Chỉ xin nhắc quan điểm của nhà văn Nga Maxim Gorki (1868-1936), ông tổ của trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong cuốn “Những suy tư không hợp thời” (Untimely Thoughts, Pensées Intempestives) viết năm1918, nhưng mãi đến năm 1988, tức 70 năm sau, mới được xuất bản ở Liên Xô cũ. Mặc dù là bạn của Lênin và Stalin, tác giả đã can đảm phê phán cuộc “Cách mạng nửa với”, “đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng”, tạo nên môi trường đấu tranh chính trị làm nảy sinh rất nhanh “các loại cây gai của sự thù địch độc hại, các nghi kỵ xấu xa, các sự lừa dối trơ trẽn, vu khống, các thói háo danh bệnh hoạn và sự khinh thường nhân cách…”. Gorki còn viết thêm: “Đối với tôi, lời kêu gọi “Tổ quốc bị lâm nguy” không đáng sợ bằng lời kêu gọi “Hởi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”

Người Việt thích nổ

Người Việt thích nổ

Nguyễn Hưng Quốc

Năm 2011, nhân các thảm họa xảy ra tại Nhật, giới cầm bút hay nói đến văn hóa ứng xử của người Nhật, từ đó, ít nhiều liên hệ đến người Việt.

So sánh người Việt và người Nhật, chắc chắn chúng ta thua nhiều thứ. Nhưng có một điều chúng ta nhất định không thua: tật nổ.

Tôi không nói đến từng cá nhân. Từ góc độ cá nhân, ở đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp những kẻ khoác lác. Người Việt Nam chưa chắc đã hơn. Thậm chí còn thua nữa là khác. Ở đây, tôi muốn nói đến người Việt với tư cách một tập thể.

Sống ở Úc khá lâu, tôi chỉ nghe người Úc, từ giới chính trị gia đến giới trí thức hay giới bình dân, hay nói Úc là một quốc gia may mắn (lucky country), nhưng thường thì người ta nhấn mạnh thêm: May mắn, chưa đủ; Úc cần phải trở thành một quốc gia giàu kỹ năng (clever country), hoặc, hơn nữa, một quốc gia giàu sáng kiến (smart country). Đất rộng và nhiều tài nguyên thiên nhiên, chưa đủ; người Úc cần có chiến lược thật sáng suốt để khai thác và tận dụng những của cải Trời cho ấy.

Ở Việt Nam thì ngược lại. Ở đâu chúng ta cũng nghe những tiếng nổ um trời. Trên báo chí. Trên tivi. Trên các đài phát thanh. Về địa thế thì Việt Nam nằm ở điểm giao lưu của hai nền văn hóa cổ kính và lớn nhất châu Á: Trung Hoa và Ấn Độ. Về thiên nhiên thì “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Về lịch sử thì đánh thắng hết đế quốc này đến đế quốc khác. Về đảng và lãnh tụ thì là “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại”. Còn về con người thì toàn là anh hùng, ra ngõ là gặp ngay anh hùng, khiến cả thế giới đều ngưỡng mộ; ngưỡng mộ đến độ nhiều người ngoại quốc cứ mơ ước có một phép lạ nào đó biến mình thành… người Việt Nam.

Nhiều người đã phê bình cái tính thích nổ ấy. Sớm, thẳng thắn và cay đắng nhất là Nguyễn Duy trong bài thơ “Nhìn từ xa… Tổ quốc” sáng tác năm 1988, trong đó có mấy câu:

xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?
[…]
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học

lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
[…]
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…

Tuy nhiên, ở đây, tôi sẽ không bàn đến khoảng cách giữa những điều người ta tuyên truyền và thực tế. Tôi chỉ muốn tập trung vào một sự nghịch lý khác: trong sự khoác lác của người Việt, đặc biệt của bộ máy tuyên truyền, có cái gì như thiếu tự tin, nếu không muốn nói thẳng ra là tự ti. Mà thật ra, về phương diện tâm lý, sự khoác lác thường xuất phát từ sự tự ti hơn là tự hào thực sự. Và vì tự ti cho nên khi khoác lác, người ta hay cầu cạnh đến một số thế lực khác, chủ yếu là từ người ngoại quốc.

Chuyện báo chí Việt Nam đánh bóng tên tuổi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cách đây mấy năm là một ví dụ điển hình (1). Người Việt khen nhau, người ta thấy chưa đủ. Người ta cần một người ngoại quốc. Nếu không có người ngoại quốc có thẩm quyền thì người ta bắt đại một ông chuyên về rác và các loại chất phế thải. Nếu không có thật thì người ta bịa. Tiêu biểu nhất là vụ Vũ Hạnh bịa ra cái tên A. Pazzi, một người Ý, khi in cuốn Người Việt cao quý ở Sài Gòn vào năm 1972. Sau này, Vũ Hạnh tiết lộ là động cơ chính thúc đẩy ông viết cuốn sách ấy là để kích động lòng tự hào dân tộc, từ đó, gián tiếp tiếp sức cho phong trào phản chiến và chống Mỹ do cộng sản chủ trương lúc ấy. Nhưng để kích động lòng tự hào dân tộc mà lại phải mượn một cái tên ngoại quốc, kể cũng mỉa mai quá, phải không?

Những chuyện mượn danh và uy tín của người ngoại quốc để tự khen mình hoặc để chứng minh điều gì đó là đúng nhan nhản trên sách báo và ở các hội trường tại Việt Nam. Trong viết lách, nhiều người cho việc trích dẫn một tác giả Việt Nam khác là xoàng. Trích dẫn, phải trích dẫn một tác giả ngoại quốc mới là sang. Không đọc được ngoại ngữ thì trích dẫn qua trung gian của một tác giả Việt Nam khác nhưng lại giấu nhẹm tên tuổi tác giả Việt Nam ấy đi!

Chán.

***

Chú thích:

  1. Xem bài ““Báo chí nước ngoài” ca ngợi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng? Thật ra chỉ là một trò lừa bịp!” của Nguyễn Tôn Hiệt trên http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=11922 và bài “Thông Tấn Xã Việt Nam biến rác thành vàng để lừa bịp nhân dân” cũng của Nguyễn Tôn Hiệt trên http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=11928.

Báo TQ công kích VN ngay sau chuyến thăm của ông Trọng

Báo TQ công kích VN ngay sau chuyến thăm của ông Trọng

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng

VOA Tiếng Việt

14.04.2015

Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn thân Trung Quốc rồi, không có gì thay đổi đâu, trừ phi sau này có những người khác lên làm Tổng bí thư …  Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay thân Trung Quốc quá và sợ Trung Quốc quá nên nó làm cái gì cũng không dám phản đối

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Một ấn phẩm của tờ Nhân dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mới lên tiếng cho rằng Việt Nam đang lợi dụng cả Bắc Kinh và Washington để phục vụ cho mục đích riêng và điều đó sẽ đẩy Hà Nội vào “tình thế nguy hiểm”.

Trong một bài bình luận đăng ngày 13/4, tờ Hoàn cầu Thời báo viết: “Hà Nội không những đang lợi dụng sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ để hưởng lợi, mà còn đang tìm cách dùng ảnh hưởng của bên này để chống lại bên kia. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đang lợi dụng Trung Quốc để chống lại nỗ lực của Mỹ nhằm tiến hành một cuộc cách mạng màu ở Việt Nam, và lợi dụng Hoa Kỳ để chống lại các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”, tờ báo viết.

Tờ báo từng nhiều lần đả kích Việt Nam còn cho rằng Hà Nội đang sử dụng chiến thuật “hai mặt” mà không có ai chống lưng, và điều đó rốt cuộc sẽ  làm cho Việt Nam “lâm vào tình thế nguy hiểm”.

Bài của Hoàn cầu Thời báo được đăng tải ít lâu sau khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng kết thúc chuyến thăm cấp cao tới Trung Quốc mà phụ bản của tờ Nhân dân Nhật Báo nói rằng gồm “gồm 1/3 Bộ Chính trị của Việt Nam”.

Ông Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, nói với VOA Việt Ngữ rằng lời lẽ của tờ báo thuộc nhà nước Trung Quốc không có gì lạ:

“Trung Quốc phải ngang ngược như thế mới là Trung Quốc chứ. Nó phải xỏ xiên, đểu cáng như vậy mới là Trung Quốc chứ. Trung Quốc họ sẵn sàng, họ không từ một thủ đoạn nào để ép mình đâu”.

Hoàn cầu Thời báo viết rằng Bắc Kinh coi 2015 là “một năm quan trọng để thực thi một loạt các chương trình do ban lãnh đạo đề ra”, thế nên “Trung Quốc không muốn sự bất đồng về vấn đề lãnh hải với Việt Nam cản trở” điều đó. “Việt Nam nên trói mình vào tầm nhìn lớn này,” tờ báo viết.

Phụ bản của Nhân dân Nhật báo nói thêm: “Đảng cộng sản cầm quyền (ở Việt Nam) không sẵn lòng và không thể đi tới mức cực đoan là đối đầu trực diện với Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải”, và rằng “Việt Nam mong muốn hòa giải hơn là Trung Quốc”.

Khi được hỏi liệu có phải Việt Nam hiện đang ở thế kẹt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nói với VOA:

“Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn thân Trung Quốc rồi, không có gì thay đổi đâu, trừ phi sau này có những người khác lên làm Tổng bí thư. Hiện nay ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn ngả về phía Trung Quốc, không có cái gì đứng giữa hai nước đâu. Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay thân Trung Quốc quá và sợ Trung Quốc quá nên nó làm cái gì cũng không dám phản đối. Đến Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng lo sợ về chuyện nhân dân Việt Nam ghét Trung Quốc thế. Ông Nguyễn Phú Trọng cứ đi thôi, nhưng mà đi cũng không có gì thay đổi đâu”.

Trong chuyến thăm cấp cao kéo dài 3 ngày tới Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thừa nhận rằng trở ngại lớn nhất giữ hai nước hiện nay “chính là sự tin cậy chính trị chưa cao, chủ yếu là do bất đồng trong cách ứng xử, giải quyết vấn đề trên Biển Đông”.

Ngay trong khi lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đang có mặt ở Trung Quốc, hôm 9/4, Bắc Kinh khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa)”.

Trả lời câu hỏi về các hình ảnh vệ tinh do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Quốc tế ở Mỹ công bố, cho thấy Trung Quốc đang bồi đắp và xây dựng ở bãi đá mà Việt Nam gọi là Vành Khăn, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh tuyên bố rằng “việc xây dựng đó hoàn toàn thuộc chủ quyền của Trung Quốc và hợp pháp”.

Theo bà Oánh, sau khi xây dựng xong, các hòn đảo sẽ còn phục vụ nhu cầu “phòng thủ quân sự”. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama bày tỏ quan ngại rằng Trung Quốc đang “cậy nước lớn” để mạnh tay với các nước nhỏ hơn trong vấn đề biển Đông. Ngay sau đó, chính quyền Bắc Kinh đã lên tiếng phản pháo phát biểu đó.

Việt Nam chưa liên tiếng đáp trả lại những lời chỉ trích của báo chí Trung Quốc cũng như các tuyên bố về biển Đông mới đây của quốc gia láng giềng phương Bắc.

Loa & Pháo Hoa

Loa & Pháo Hoa

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui!

Nguyễn Chí Thiện

Tôi vừa đọc xong một bài viết hơi buồn: “Gửi Tiết Kiệm Một Chỉ Vàng Nhận Lại Một Ổ Bánh Mì Thịt”. Xin tóm lược:

Vì gia đình có ba thân nhân là liệt sĩ nên năm 1983 ông Nguyễn Vĩnh Rượu nhận được 90 đồng tiền chính sách, hỗ trợ. Ông mang số tiền này gửi vào qũy tiết kiệm, loại không kỳ hạn và có lời.

Ba mươi hai năm sau, vào ngày 31 tháng 3 năm 2015, gia đình ông Rượu mang sổ tiết kiệm đến Ngân hàng VietinBank và nhận lại được hơn 20.000 đồng. Tính luôn “cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm,” theo như nguyên văn trong bài báo của ký giả Tấn Tài:

“Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Võ Minh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Đà Nẵng, cho biết thời gian qua cũng có một số người đưa sổ tiết kiệm ‘tuổi đời’ 20-30 năm đến rút tiền và ngân hàng vẫn giải quyết cho khách hàng bình thường. ‘Phần lớn số tiền trong các sổ tiết kiệm rất nhỏ, qua lần đổi tiền lại càng nhỏ hơn. Ngân hàng Nhà nước đã dồn toàn bộ số tiền này qua một tài khoản riêng để giải quyết khi khách hàng đến nhận tiền’ –  ông Minh cho biết.

Chúng tôi đặt câu hỏi: Có hợp lý không khi vào thời điểm mở sổ, số tiền người dân gửi có giá trị khá lớn nhưng tới giờ nhận cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm. Ông Minh cho rằng đây không phải là Nhà nước o ép người dân mà là do giá trị đồng tiền bị sụt giảm. Ngân hàng Nhà nước đã có hướng dẫn rất rõ ràng về việc chi trả này.”

Sổ tiết kiệm của ông Rượu giờ chỉ còn giá trị làm “kỷ niệm”. Ảnh và chú thích: T.TÀI

Thiệt là “rõ ràng” hết biết luôn! Vậy mà tác giả bài viết thượng dẫn vẫn cẩn thận chụp lại phóng ảnh sổ tiết kiệm của ông Nguyễn Vĩnh Rượu, do Ngân Hàng Nhà Nước cấp, cùng với lời chú thích rằng nó chỉ còn giá trị để làm … “kỷ niệm.”

Tất nhiên, đây là một kỷ niệm (rất) buồn của người dân với nhà nước Việt Nam

Tuy thế, theo VTV:

“Vào 21h hôm nay (28/3), những màn pháo hoa rực rỡ đã thắp sáng bầu trời Đà Nẵng chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Thành phố.

Chương trình bắn pháo hoa kéo dài 15 phút với 100 giàn pháo, trong đó có 2.000 quả pháo tầm thấp. Đây là lần đầu tiên chương trình bắn pháo hoa nhân các dịp lễ, tết tại Đà Nẵng không chỉ ‘dồn’ hết về dọc hai bờ sông Hàn ở khu vực trung tâm Thành phố như những năm trước đây, mà còn diễn ra ở các vùng xa để phục vụ người dân. Những điểm bắn pháo hoa tại Đà Nẵng lần này gồm: trên cầu Nguyễn Văn Trỗi; sân vận động quận Ngũ Hành Sơn; trước trụ sở UBND quận Liên Chiểu và trước trụ sở Ủy ban MTTQ huyện Hòa Vang. Nhờ đó, không chỉ người dân và du khách tại Đà Nẵng mà cả người dân Quảng Nam và các khu vực lân cận cũng nô nức đón xem pháo hoa.

Thời tiết vào đêm diễn ra pháo hoa tương đối quang tạnh, thuận lợi để người dân mãn nhãn với những màn pháo hoa đầy màu sắc, cùng hòa vào không khí vui tươi phấn khởi mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố.”

Chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời. Ảnh & chú thích: Lao Động

Trong số hàng ngàn người dân Đà Nẵng “hòa vào không khí vui tươi phấn khởi mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” và “chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời,” tôi e không có những người thân trong gia đình ông Nguyễn Vĩnh Rượu. Không lẽ họ lại “tươi vui phấn khởi” sau một cuộc chiến tương tàn, với vài ba thân nhân đã trở thành liệt sĩ mà (chung cuộc) “chiến lợi phẩm” chỉ là … một ổ bánh mì kẹp thịt?

Theo VNEXPRESS thì Đà Nẵng/Quảng Nam “là địa phương có nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.234 người.” Tính rẻ ra thì địa phương này, ít nhất, cũng phải có 11.234 gia đình liệt sĩ. Liệu có bao nhiêu người trong số những gia đình này vừa tươi vui phấn khởi,” vừa gặm bánh mì kẹp (thịt) vừa  … “chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời” để “mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” của mình?

Hẳn không mấy ai vô tâm đến thế.

Tuy thế, trước đó hai ngày, cũng theo VTV:

“Đúng 21h ngày 26/3, bầu trời thành phố Huế đã rực sáng với những màn pháo hoa đầy màu sắc. Khoảng 1.000 quả pháo được bắn tầm cao, kéo dài suốt 15 phút, thu hút sự chú ý của hàng nghìn người dân và du khách.

Đây là một trong chuỗi các hoạt động ý nghĩa được tổ chức, nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế.”

Thành phố Huế lung linh trong sắc pháo hoa. Ảnh và chú thích: Tạp Chí Sông Hương

Trong “không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế” và trong số “hàng nghìn người dân và du khách” ngắm nhìn “thành phố Huế lung linh trong sắc pháo hoa” (chắc) cũng không có mấy thân nhân liệt sĩ, cũng như thân nhân của những gia đình nạn nhân đã bị qúi vị liệt sĩ trói tay rồi đập chết (mấy mươi năm trước) đâu.

Về “số liệu về các hố chôn tập thể” trong vụ “Thảm Sát Huế Tết Mậu Thân,” Wikipedia: ghi nhận như sau:

“Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.

Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống.

Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:

‘Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:

  • Tổng số dân sự tử vong: 7.600 – chết lẫn mất tích
  • Chiến trường: – 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
  • Nạn nhân của những vụ giết tập thể:

1.173 – số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968

809 – số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 37 năm 1969

428 – số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) – tháng 9 năm 1969

300 – số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969

100 – số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969

1.946 – mất tích (tính đến năm 1970)’

Theo soạn giả Matthew White ghi lại trong Atrocities: The 100 Deadliest Episodes in Human History (Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại) thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông trích dẫn từ các nguồn khác nhau cho rằng “đã có 2.800 người bị giết và 3.000 người mất tích do Việt Cộng thực hiện”.

Theo Gareth Porter, một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người, chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)”

Ảnh: http://i.ytimg.com/vi/1CaSTPIRP0o/maxresdefault.jpg

Vẫn theo Wikipedia:

Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế. Việc phát hiện hố chôn xảy ra khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và đóng ở Huế một tháng, sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòaQuân đội Hoa Kỳ.[

Cho đến nay, tài liệu từ cả phía Việt Nam và Mỹ vẫn quy trách nhiệm cho nhau về nguyên nhân và tính xác thực của sự kiện này. Trong khi đó, các nhóm phản chiến và nhiều học giả phương Tây khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị khuếch đại và ngụy tạo để phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.”

Tôi tạm thời “chưa” bận tâm (lắm) về chuyện “trách nhiệm” của phe nào trong vụ thảm sát hàng chục ngàn người trong vụ Mậu Thân. Tôi chỉ (trộm) nghĩ rằng tại một vùng đất đã xẩy ra một trong “100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại” thì chính quyền địa phương, hàng năm, nên tổ chức một buổi lễ tưởng niệm những nạn nhân – bất kể bên nào.

Không làm được như vậy, đã đành, mà còn thực hiện “những màn pháo hoa đầy màu sắc … nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế” thì e đây là một chuyện (rất) thất nhân tâm – nếu chưa muốn nói là ngu xuẩn – nhất là khi ngân qũi quốc gia (phần lớn) nếu không đến từ kiều hối, từ tiền viện trợ, tiền bán rừng, bán khoáng sản thô hay tiền vay mượn của nước ngoài.

Công du Bắc Kinh, Việt Nam được gì?

Công du Bắc Kinh, Việt Nam được gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-04-14

04142015-what-vn-got-th-cn-visi.mp3

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trao đổi cùng ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 07 tháng tư, năm 2015

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trao đổi cùng ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 07 tháng tư, năm 2015

AFP

Your browser does not support the audio element.

Chuyến đi Bắc Kinh của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn đã kết thúc bằng các bài viết ca tụng sự hợp tác của hai nước từ các kênh chính thức của Trung Quốc, tuy nhiên trên hệ thống truyền thông dòng chính của Việt Nam hầu như không có bài viết quan trọng nào ca ngợi những gì mà phái đoàn đạt được, nhất là về vấn đề Biển Đông. Mặc Lâm ghi nhận ý kiến từ các chuyên gia, trí thức trong và ngoài nước về sự kiện kiện này.

Lo nhiều hơn vui

Trước khi chính thức sang Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Hoa kỳ Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn một phái đoàn hùng hậu sang Bắc Kinh. Đây là lần thứ sáu ông Trọng sang Trung Quốc nhưng có lẽ đây là lần ông được tiếp đón hết sức trọng thể với nghi thức ngoại giao dành cho một nguyên thủ quốc gia mà Bắc Kinh ưu ái dành cho ông. Những nghi thức lễ tân đặc biệt đã cho thấy thái độ xoay chuyển đầy ý nghĩa của lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.

Người ta còn nhớ chỉ vài tháng trước đây khi Trung Quốc mang giàn khoan HD-891 vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam ông Trọng từng yêu cầu nói chuyện với ông Tập Cận Bình nhưng không được đáp ứng. Lần này, sự hào phóng của Trung Quốc được truyền thông nước này hết lời tâng bốc cho thấy cục diện đã khác. Phải chăng Trung Quốc muốn lôi kéo Việt Nam trở lại quỹ đạo của họ trước khi bị Hoa Kỳ kéo ra khỏi vòng quay mà hơn nửa thế kỷ qua Đảng Cộng sản Việt Nam không cách nào thoát ra được?

Tuy nhiên, căn cứ trên những gì mà truyền thông Trung Quốc đưa ra trong 4 ngày công du Bắc Kinh của TBT Nguyễn phú Trọng, trí thức Việt Nam tỏ ra thất vọng và lo lắng nhiều hơn trước. Theo Tân Hoa Xã cho biết hai nước đã đồng ý trên nguyên tắc hoạt động của “Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển” các lĩnh vực ít nhạy cảm, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển này trong năm 2015.

” Đây là chỉ dấu cho thấy sự hợp tác để cùng khai thác, một đặc điểm hợp tác mà Trung Quốc luôn nắm cán đối với Việt Nam trong nhiều thập niên qua bởi sự lệ thuộc quá sâu vào hệ thống chính trị cũng như nguồn vốn, khoa học kỹ thuật của Việt Nam cách nhau quá xa so với Trung Quốc.”

Đài phát thanh CRI của TQ cũng bình luận về con đường tơ lụa trên biển và cho rằng quan hệ Trung-Việt chiếm vị trí quan trọng trong bố cục lớn về ngoại giao xung quanh của Trung Quốc trên nguyên tắc cùng thương lượng, cùng xây dựng, cùng chia sẻ. Nhận xét về vấn đề này PGS TS Hoàng Ngọc Giao cho biết:

-Về câu chuyện “con đường tơ lụa trên biển” thì tôi thấy tham gia vào con đường tơ lụa trên biển của họ cũng lại là cái trò dùng kinh tế để che đậy các mưu đồ về chiến lược, về quân sự, địa chính trị. Một mặt thì họ xây đảo, mặt khác họ tung tiền ra gạ các nước trong khu vực làm con đường tơ lụa trên biển, họ bỏ ra mấy chục tỷ đô la thế nhưng mà nếu đứng từ lợi ích dân tộc để phân tích thì ta được lợi gì trong “con đường tơ lụa”? trong khi vấn đề chủ quyền biển đảo của chúng ta vẫn đang dần dần bị họ gậm nhấm. Họ đang gậm nhấm, họ xây cả một đảo Gạc Ma, rồi đảo Chữ Thập đảo Gaven…họ làm cả căn cứ quân sự lớn trên đấy. Không phải mai mốt nữa mà rõ ràng hiện nay sự hiện diện đấy nó không chỉ là xâm chiếm mấy cái đảo mà nó án ngữ toàn bộ đường ra Biển Đông của mình.

Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết vào ngày 08 tháng 5 là các tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan 981 đặt sâu trong vùng biển thuộc chủ quyền  của Việt Nam đã sử dụng vòi rồng để tấn công các tàu tuần tra Việt Nam và liên tục đâm chúng, làm bị thương sáu người.

Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết vào ngày 08 tháng 5 là các tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan 981 đặt sâu trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đã sử dụng vòi rồng để tấn công các tàu tuần tra Việt Nam và liên tục đâm chúng, làm bị thương sáu người.

Mai mốt tàu thuyền ngư dân của mình sẽ ảnh hưởng. Trước khi họ chưa có sự hiện diện thường xuyên ở đấy thì họ đã cấm đánh bắt cá, họ làm khó ngư dân mình, họ cướp tàu, họ đánh đắm tàu mình…khi mà họ có sự hiện diện thường xuyên thì toàn bộ vùng đo làm sao còn nơi sinh sống cho ngư dân? Đấy là chưa kể nếu họ lập vùng thông báo bay kiềm soát về hàng không nữa thì như vậy vể mặt địa chính trị. An ninh mà nói thì đó là một đe dọa thực sự rất lớn đối với chủ quyền biển đảo của chúng ta.

” Họ đang gậm nhấm, họ xây cả một đảo Gạc Ma, rồi đảo Chữ Thập đảo Gaven…họ làm cả căn cứ quân sự lớn trên đấy. Không phải mai mốt nữa mà rõ ràng hiện nay sự hiện diện đấy nó không chỉ là xâm chiếm mấy cái đảo mà nó án ngữ toàn bộ đường ra Biển Đông của mình

PGS TS Hoàng Ngọc Giao”

Bên cạnh những thỏa thuận thúc đẩy đầu tư mà Việt Nam khẩn khoản đề nghị, Trung Quốc cho biết sẵn sàng đưa những tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này sang Việt Nam trong đó có tập đoàn sản xuất thiết bị viễn thông Huawei. Theo dõi vụ này GS Nguyễn Văn Tuấn từ Sydney đưa ra mối quan tâm của ông:

-Tập đoàn Hoa Vi (Huawei) là một tập đoàn chính phủ Trung Quốc được xem là có những thương vụ không rõ ràng. Chính phủ Úc, Canada và theo tôi biết cả chính phủ Mỹ cũng vậy đã tẩy chay tập đoàn này không cho họ đầu tư cơ sở vật chất ví nó có thể đe dọa an ninh đất nước của họ. Thế nhưng ở Việt Nam chúng ta thì tình hình rất khác, chúng ta chào đón công ty đó có vẻ rất nồng nhiệt và theo thực tế như tôi biết thì công ty này đã tứng làm ăn với Việt Nam trong quá khứ, rất nhiều bộ phận viễn thông, trang thiết bị viễn thông cũng nhập từ Hoa Vi cả…thành ra tất cả những cái đó nó làm cho mình quan tâm đến an ninh của Việt Nam

Trí thức trong nước đặc biệt quan tâm tới cụm từ “nhận thức chung” mà Thông cáo chung đã nêu lên. Bàn về vấn đề này, GS Nguyễn Ngọc Trân nguyên đại biểu Quốc Hội cho biết nhận xét của ông:

-Cái nhận thức chung là hai bên cùng thức hiện chứ không phải nhận thức chung thì chỉ một mình Việt Nam thực hiện mà Trung Quốc cũng phải thực hiện nữa. Như ông Thủ tướng có trả lời các đại biểu quốc hội ở Kiên Giang tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vừa rồi là “mình hợp tác vừa đấu tranh với Trung Quốc buộc họ cũng phải thực hiện theo những điều ước mà luật pháp quốc tế vá Công ước về Luật biển năm 1982 có DOC và COC.

Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Gạc Ma, ảnh chụp từ vệ tinh ngày 15/11/2014.

Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Gạc Ma, ảnh chụp từ vệ tinh ngày 15/11/2014.

Chuyến thăm vừa rồi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là một hoạt động đối ngoại của mình nó không phải là toàn bộ hoạt động đối ngoại của mình trong vấn đề Biển Đông mình phải vửa hợp tác vừa đấu tranh. Đấu tranh trên cơ sở nào. Đấu tranh không có nghĩa chỉ đối đầu mà thôi còn có vấn đề hợp tác, vấn đề nhận thức chung nhưng mà không đủ, còn phải có luật pháp quốc tế, phải có Công ước luật biển mà đây chính là cơ sở đề mình cùng với những nước khác có cùng quyền lợi chung trên Biển Đông.

Riêng PGS TS Hoàng Ngọc Giao thì đặt câu hỏi:

-Nhận thức chung hay còn gọi là nhận thức chung của lãnh đạo, thế bây giờ nhân dân chả biết nhận thức chung của lãnh đạo cao cấp là gì? chả thấy công bố gì cả. Hai bên nhận thức chung với nhau như thế nào thì đây cũng là một dấu hỏi lớn.

Hành động coi thường của Trung Quốc

Mặc dù nói lời ngon ngọt với Việt Nam như vậy nhưng khi phái đoàn của TBT Nguyễn Phú Trọng đang trên đường về nước thì Trung Quốc công khai vén bức màn xây dựng các căn cứ quân sự trên đảo Vành Khăn nơi họ chiếm của Việt Nam trước đây. GS Nguyễn Văn Tuấn nhận xét:

” Thái độ của Trung Quốc rõ ràng chơi với mình không đẹp. Trong khi họ đón ông Tổng bí thư có thể nói là rất trọng hậu thế nhưng khi đoàn của ông Tổng bí thư chưa về tới Việt Nam thì họ đã xây dựng nhiều công trình ở đảo Vành Khăn như chúng ta đã biết

GS Nguyễn Văn Tuấn”

-Thái độ của Trung Quốc rõ ràng chơi với mình không đẹp. Trong khi họ đón ông Tổng bí thư có thể nói là rất trọng hậu thế nhưng khi đoàn của ông Tổng bí thư chưa về tới Việt Nam thì họ đã xây dựng nhiều công trình ở đảo Vành Khăn như chúng ta đã biết. Khi được hỏi tại sao họ làm như vậy thì họ trả lời rất ngênh ngang tuyên bố đó là đảo của họ nên họ muốn làm gì thì làm! Thực ra những đảo đó họ đã cướp từ Việt Nam, nếu dùng chữ “cướp” thì có lẽ cũng không quá đáng.

Cái cách mà họ nói như vậy tôi thấy điều thứ nhất, nều nói nhẹ một chút thì nó rất bất lịch sự với đoàn của Việt Nam. Nếu nói nặng hơn một chút thì tôi nghĩ rằng thì đó là thái độ xem thường mình. Tôi rất ngạc nhiên phía Việt Nam không thấy ai lên tiếng trên báo chí, công luận nên tôi rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ mình nên có thái độ song phẳng và bình đẳng hơn ví tất cả các việc làm của họ thì phía Việt Nam đều im lặng, thậm chí không dám nhắc đến, ai cũng bức xúc nhưng nhà nước cứ giữ im lặng thì thái độ và hành vi này làm cho Trung Quốc họ lấn tới.

Tất nhiên khi nói cứng rắn bình đẳng không có nghĩa là mình đòi hỏi họ phải làm tất cả những chuyện mình muốn nhưng ít ra mình cũng phải lên tiếng để cho họ thấy rằng mình có chủ quyền và phải tôn trọng mình chứ không thể lấn lướt tới hoài như vậy được

Từng là Vụ trưởng của Ban biên giới chính phủ có lẽ PGS TS Hoàng Ngọc Giao không lạ gì sự trở mặt của Trung Quốc trong khi tranh chấp với Việt Nam, ông cho biết:

-Đây là một chiến thuật của Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam họ vừa xoa lại vừa lấn tới, họ vừa xoa vừa đánh mình. Có hai ý mà tôi thây không ổn, ông Tập Cận Bình ông ấy nói rằng hai bên phải có cách tiếp cận mới, có ý tưởng mới cho cái quan hệ Việt Trung. Chúng ta thấy gì? Quan hệ Việt Trung cho đến nay họ xâm lấn biển đảo của mình, họ gây nhiều chuyện với mình, với ngư dân mình thế mà bây giờ lại kêu gọi cách tiếp cận mới, ý tưởng mới. Có nghĩa những cái gì đã xảy ra thì không đề cập lại. Đó là chiến thuật mà nói rõ hơn là một âm mưu theo cái kiều vừa đấm vừa xoa, dường như phớt lờ đi chuyện tồn tại. Họ dùng cái từ “kiểm soát tranh chấp ở trên biển”. Thế nào là kiểm soát? Cùng nhau kiểm soát là thế nào? Phải giải quyết chứ?

Phải chăng cùng nhau kiểm soát là giữ nguyên cái hiện trạng này đừng để chuyện tranh chấp này được giải quyết, còn họ thì cứ có lợi. Theo tôi điều này không ổn.

Giới chuyên gia về vấn đề Biển Đông lo ngại rằng những gói kinh tế mà Trung Quốc đem ra nhử Việt Nam sẽ làm cho một số lãnh đạo tin rằng lần này họ có thiện chí hơn trước, tuy nhiên so với những gì mà Việt Nam mang về từ Bắc Kinh thì không ai có thể lạc quan, vì kinh nghiệm quá nhiều vào những gì mà Trung Quốc đã từng làm trong vấn đề Biển Đông.

Bạn sẽ dạy con trẻ thế nào về sự thật và lịch sử Việt Nam?

Bạn sẽ dạy con trẻ thế nào về sự thật và lịch sử Việt Nam?

– Tin nổi bật, Blog Thành Viên

VRNs (14.4.2015) – Sài Gòn  – Cấp 1, cấp 2, cấp 3 tôi là một trong số những đứa học trò cưng của môn sử bởi vì tôi luôn “thuộc làu” những bài học lịch sử bằng tất cả tình yêu quê hương, yêu đất nước VN hào hùng với những trang sử đầy ắp chiến công, chiến thắng. Chỉ có điều hơi khó khăn khi phải thuộc nằm lòng những con số chính xác: Quân ta đã bắn chết bao nhiêu tên địch, bắn rơi bao nhiếu chiếc máy bay, thu gom được bao nhiêu loại vũ khí…Khổ lắm, với tôi những con số cứ rối loạn, rối tung cả lên nhưng không thuộc lòng là không được nếu muốn bài thi đạt điểm cao tuyệt đối…

Rồi lịch sử trong những trang sách giáo khoa đã nuôi dưỡng trong tôi sự thù hận, tôi hận bọn Mỹ, bọn Ngụy ghê ghớm. Tuổi thơ đầy ắp những dấu hỏi sao bọn Mỹ, bọn Ngụy lại ác đến thế? Khi phải đọc và thuộc lòng những đoạn mô tả hình phạt tra tấn khủng khiếp bọn Mỹ Ngụy dành cho các chiến sĩ cách mạng là hầu như tôi đều sợ đến mức nổi da gà, rùng mình và ám ảnh mãi với những hình ảnh khủng khiếp…Chúng khiến cho tâm hồn tôi, tuổi thơ tôi nhuốm đầy máu bạo lực, sự sợ hãi và cả sự hận thù sâu sắc…

Một bài toán dạy con trẻ tính bạo lực. Ảnh FB Bạch Cúc

Một bài toán dạy con trẻ tính bạo lực. Ảnh FB Bạch Cúc

Rồi tôi yêu Hồ Chủ Tịch, yêu tha thiết vì Bác giỏi quá. Tôi không hiểu sao Bác có thể nói được 29 thứ tiếng…Đêm đêm tôi nằm mơ thấy Bác, tôi thuộc lòng những “Câu chuyện kể về Bác Hồ” với niềm tự hào và vinh dự ngất ngưởng khi được chọn đi thi kể chuyện về Bác…
Khoảng cấp 3, tôi nhớ mãi một cuộc tranh luận ngắn giữa ba mẹ và người chị ruột của tôi. Chị ấy là giáo viên dạy sử, trong bữa cơm gia đình chị ấy dõng dạc tuyên bố đất nước Việt Nam thật thanh bình, không có chiến tranh, không có khủng bố và nói chung các nước trên Thế Giới đầy ắp sự bất an, chỉ có Việt Nam là số một an toàn và hòa bình… Tôi nhớ rõ ràng cảm giác nghẹn sững sờ của cha mẹ tôi, ông bà cố nói một vài câu phản biện lại điều đó nhưng trước cử chỉ hùng hồn và sự khẳng định mạnh mẽ của chị, ông bà đành chốt câu cuối thế này: Cha mẹ sống qua hai chế độ, cha mẹ biết và hiểu rõ nhất chế độ nào tốt, chế độ nào không tốt. Chỉ có điều có nói bây giờ con cũng không chịu tiếp nhận, có lẽ rồi trong tương lai con sẽ nhận ra sự thật và sẽ hiểu…Có điều gì đó băn khoăn, hoài nghi trong lòng tôi, có những dấu hỏi to dần, to dần và chưa có lời giải đáp…

Thằng nhỏ con tôi đi nhà trẻ về ngêu ngao bài hát ” Ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng”, rồi đêm đó nó nằm mơ thấy Bác y như mẹ ngày xưa. Sáng sớm nó hồ hởi nói với tôi với một giọng vô cùng hạnh phúc là mẹ ơi con mơ thấy Bác Hồ, con yêu Bác Hồ lắm…Trong lòng tôi bỗng quặn lên một nỗi niềm khó tả, nó như giọt nước tràn ly khiến tôi hét lên một câu vô nghĩa và nói một điều chẳng hay ho gì với thằng nhỏ, rồi những ngày sau đó, con tôi luôn nắm áo tôi và hỏi, mẹ ơi mẹ nói Bác Hồ như vậy nghĩa là sao?…

Bạn sẽ dạy cho con bạn, cho trẻ nhỏ về lịch sử Việt Nam thế nào đây? Bạn sẽ nói sự thật hay nói theo những điều dối trá theo sách vở mà bao năm qua nó đã hủy hoại nhận thức của bạn, và kế tiếp là hủy hoại thế hệ con của bạn? Bạn dạy thế nào? Dạy bằng cách nào khi ở trường con bạn vẫn phải học và trả bài thuộc làu làu theo giáo trình lịch sử? Bạn làm ngơ hay cố gắng giải thích? Con bạn sẽ tin bạn hay tin cô giáo, tin nhà trường vì sự sợ hãi và áp lực của việc học tập?…
Bạn có muốn những thế hệ tiếp theo sẽ là những con cừu y chang bạn? Bạn có muốn con bạn khi bắt đầu trưởng thành, khi tới thời điểm nhận ra chân lý và sự thật thì đồng thời cũng là lúc cảm thấy vô cùng tức giận, thấy hụt hẫng và hoàn toàn mất niềm tin? Tôi từng cảm thấy buồn giận cha mẹ mình, tôi tự hỏi sao cha mẹ không dạy tôi sự thật mà cha mẹ là người biết rõ nhất. Sao cha mẹ không chia sẻ sớm với tôi về lịch sử đất nước này, dân tộc này và định hướng cho tôi tự tìm hiểu, tự so sánh và tự tìm ra chân lý bằng tư duy của chính mình. Tôi đã bị bịt mắt quá lâu trong một đường hầm đen tối để rồi tôi hoang mang, hụt hẫng, đau đớn khi phải lần mò từng bước, lần mò tìm lại từng chút ánh sáng của sự thật để trở thành như ngày nay, tôi thật sự tiếc vì đã mất quá nhiều thời gian…

Bạn hãy dạy cho con trẻ, những thế hệ sau bạn biết tôn trọng sự thật và chân lý…Đừng chần chừ, đừng ngại ngần, đừng sợ hãi khi nhắc đến sự thật bởi sự thật là chân lý. Dù bạn có cố né tránh hay che đậy sự thật thì sự thật vẫn vây quanh bạn, tác động đến bạn và nhắc nhớ cho bạn biết rằng, bạn đã hèn nhát với chính bản thân mình và đang rất tàn nhẫn với các thế hệ mai sau…
Muốn đất nước thay đổi bạn phải thay đổi, điều thay đổi dễ dàng nhất là hãy dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận nó và đồng hành giúp con bạn, giúp những người trẻ tiếp nhận sự thật càng sớm càng tốt. Nếu tất cả các bậc làm cha làm mẹ trên toàn nước Việt Nam này can đảm nói sự thật với con mình và giúp con quay lưng với dối trá thì tôi tin rằng đất nước này sẽ sớm thay đổi, thật thế!

FB Bạch Cúc

Gió mới cho ngày 30/4

Gió mới cho ngày 30/4

Đỗ Kỳ Đăng Gửi cho BBC từ thành phố Seattle, Hoa Kỳ

2015 đánh dấu 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) là cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Theo tôi, ước mơ cho một cuộc sống tốt đẹp và một tương lai tươi sáng của người Việt Nam khắp ba miền đã bị lợi dụng bởi những chính trị gia với những con bài chủ nghĩa xã hội hay tự do dân chủ. Khởi đầu từ những ước muốn được thay đổi, người dân Việt đã chọn những con đường khác nhau để đi tới ước mơ đó. Nhưng những ước mơ đã bị đánh cắp. Những tương lai hứa hẹn đã được thay thế bằng những nỗi đau, những mất mát, những hận thù truyền đi nhiều thế hệ, những kỳ thị và phân biệt tồn tại qua hai thế kỷ.

Tôi là một du học sinh Việt Nam chưa đầy 18 tuổi, sinh ra trong một nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa bởi một gia đình Việt Nam Cộng Hòa. Tôi có những người ông đứng cả hai bên chuyến tiến trong cuộc nội chiến đó. Tôi cũng có những người bà trở thành góa phụ, một mình chèo chống nuôi nấng các con. Tôi có những người bạn có bố làm công an cho chính quyền hiện tại. Tôi cũng có những người bạn có bố vượt biên và bị bắt bỏ tù.

“Đừng thay nhau giành lấy cây búa để tự làm đau mình, hãy cùng nhau tìm cách làm sao cho tương lai Việt Nam được huy hoàng.”

Ngày 30 tháng 4, tôi nên có cảm tưởng gì đây?

Ai đúng, ai sai, ai gây ra cuộc chiến, v.v. là chuyện của lịch sử. Mà lịch sử thì luôn có tranh cãi, và tranh cãi được tạo ra bởi con người. Khi người ta vẫn khư khư ôm lấy niềm tin của mình một cách tuyệt đối như một tâm linh tính ngưỡng, cuộc tranh cãi sẽ không có hồi kết. Cuộc nội chiến hai mươi năm có thể trở thành một cuộc khẩu chiến một ngàn năm. Cuối cùng chúng ta, những người Việt Nam, sẽ được gì? Nên nhớ rằng khi chúng ta lỡ tay dùng tay cầm búa đánh vào ngón tay cầm đinh thay vì cây đinh, cái tay cầm búa sẽ buông búa ra và xoa vào cái tay cầm đinh chứ tay cầm đinh không giật cây búa lại để trả thù. Đừng thay nhau giành lấy cây búa để tự làm đau mình, hãy cùng nhau tìm cách làm sao cho tương lai Việt Nam được huy hoàng.

Câu hỏi cấp thiết nhất mà chúng ta cần giải đáp là làm gì để phát triển Việt Nam thành một con hổ của châu Á và giải quyết hằng hà các vấn đề chướng tai gai mắt mà chúng ta đã nghe đi nghe lại đến phát chán từ báo đài.

Cải cách tư duy thế hệ trẻ bằng những cách làm khác?

Giới trẻ Việt Nam là chìa khóa. Giới trẻ là mục tiêu. Đa số giới trẻ không quan tâm chính trị, họ không quan tâm tự do dân chủ, không quan tâm Đảng và nhà nước, không quan tâm quyền bầu cử, không quan tâm kinh tế vĩ mô.

Giới trẻ thích thời trang, thích xem hài, thích chân dài, v.v. Vì sao? Chính trị quá chán. Chính trị là việc của những ông già thích nói, nói, nói và nói. Nói liên miên, nói chuyện trên trời dưới đất, chuyện đâu đâu, chuyện không liên quan gì tới giới trẻ cả! Nói chuyện chính trị kiểu Đảng và nhà nước thì ai cũng đã nghe đầy tai rồi. Nói chuyện kiểu khác thì nhiều bạn trẻ coi là phản động, rồi tạo ra một mớ lùm xùm chửi nhau inh ỏi trên Internet.

” Muốn đánh thức giới trẻ khỏi cảnh thờ ơ chính trị phải làm đúng cách. Thứ nhất là tin chính trị phải thiết thực. Thứ hai là phải vui và hấp dẫn. Thứ ba là càng súc tích cáng tốt. Thứ tư là phải khách quan và trung lập.”

Điều mà giới trẻ quan tâm là việc làm. Việc làm gắn liền với giáo dục và kinh tế. Nếu những vấn đề về việc làm cho nhiều đối tượng từ sinh viên đại học cho tới công nhân trẻ sẽ giúp họ quan tâm hơn về hệ thống giáo dục và nền kinh tế.

Muốn đánh thức giới trẻ khỏi cảnh thờ ơ chính trị phải làm đúng cách. Thứ nhất là tin chính trị phải thiết thực. Thứ hai là phải vui và hấp dẫn. Thứ ba là càng súc tích cáng tốt. Thứ tư là phải khách quan và trung lập.

Một điều nữa là vấn đề ăn uống, sức khỏe của Việt Nam. Đây là điều báo chí lề phải có thể làm được để giúp thay đổi tình hình. Nếu các vị cứ tiếp tục đăng và nhấn mạnh tính trầm trọng của những vấn đề về ăn uống, thực phẩm với thuốc trừ sâu quá nhiều, v.v. cùng với những lời bình luận là chính phủ thiếu những cơ quan khách quan, hiệu quả, và những luật bảo vệ người tiêu dùng như những nước khác. Giới trẻ sẽ lên tiếng và chính phủ phải hành động.

Một điều quan trọng không kém để phát triển giới trẻ là phải cải cách tư duy của họ, cho họ tiếp cận thông tin, kiến thức nhiều nguồn, và phải có hệ thống thư viện hiệu quả toàn quốc.

Phải tạo cho người Việt Nam có tư duy phê phán, phải biết sử dụng nhiều nguồn để tìm hiểu, xác minh thông tinh chứ không thể mãi nghe theo một chiều và tin ngay vào nó được. Khi nghe thông tin thì họ phải thắc mắc về nguồn thông tin, số liệu được thống kê bởi ai, khảo sát bao nhiêu người. Khi đọc một bài bình luận thì họ phải thắc mắc tác giả là ai, có trình độ chuyên môn, hiểu biết tới cỡ nào, khách quan cỡ nào.

Các nhà yêu nước nên tài trợ các khóa huấn luyện tư duy này. Các nhà dịch thuật hãy dịch những sách kinh doanh, kinh tế, khoa học, công nghệ, lối sống, tư duy từ những tác giả phương Tây càng nhiều càng tốt. Các trang báo lớn hãy tạo một mục giới thiệu sách như các tờ New York Times, Wall Street Journal, Guardian vẫn thường làm. Hãy sử dụng diễn viên, ca sĩ, danh hài để giới thiệu và bình luận sơ bộ về sách. Chúng ta cần có hệ thống thư viện toàn quốc với sách hay, sách mới cập nhật. Có thể thực hiện một thư viện trực tuyến với ebook để tiết kiệm chi phí.

Có như vậy mới truyền cảm hứng và điều kiện công bằng cho mọi người trẻ Việt Nam có thể tiếp xúc với các nguồn tri thức khác nhau để khám phá và theo đuổi đam mê của mình khắp các ngành nghề từ khoa học-kỹ thuật tới công nghệ, truyền thông, hay kinh doanh nghệ thuật.

Có như vậy thì Việt Nam mới phát triển để trở thành một nơi đáng sống, một đất nước đáng tự hào và xứng với tiềm năng của mình.

Chuyện ngày 30 tháng 4 chúng ta có thể quay lại bàn sau cũng đâu có muộn!