Thắng Cuộ̣c & Thua Bạc

Thắng Cuộ̣c & Thua Bạc

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt.

Đỗ Kim Thêm

Tác phẩm Biển San Hô của nhà văn Trần Vũ vừa được khởi đăng trên  Tuần báo Trẻ, số ra ngày 12 tháng 3 năm 2015 – phát hành từ Dallas, Texas – với lời dẫn nhập của chính tác giả:

Cuối thập niên 70 cùng với những ghe vượt biển mong manh còn xuất hiện những thuyền nhiều tầng được Công an Biên phòng hộ tống ra tận cửa biển, do chính nhà nước đứng ra tổ chức dưới tên gọi Vượt biên Bán Chánh thức. Với chính sách bài Hoa, chính quyền muốn triệt tiêu “đội ngũ Hán gian” nhưng trong thực tế là những gia đình Hoa kiều đã sinh sống nhiều thế hệ trong Chợ Lớn và có cả những thanh niên Việt mua khai sinh Tàu để ra đi. Giá trung bình là 12 lượng vàng cho người lớn và 7 lượng vàng cho trẻ em, cùng hai trăm đồng “cụ Hồ” cho thị thực khai sinh ma. Ðóng cho chủ tàu và công an thị xã điểm xuất phát. Chuyến tàu MT-603 khởi đi từ Mỹ Tho đêm 29 rạng 30 tháng 5-1979 chứa 405 thuyền nhân đã đâm vào bãi ngầm Trường Sa bốn ngày sau đó. Ngày 21 tháng 6-1979 khi được Hải quân Phi Luật Tân cứu đưa vào hải đảo Liminangcong, điểm danh còn đúng 285 người. Tôi ở trong số những thiếu niên đi chuyến tàu này, ghi lại dưới dạng tiểu thuyết.

Không ai biết chính xác có bao nhiêu “con thuyền nhiều tầng” đã được công an “hộ tống” ra cửa biển, bao nhiêu người đã vùi thây dưới biển sâu, và bao nhiêu lạng vàng đã nộp cho nhà đương cuộc Hà Nội trong chiến dịch bán bãi thu vàng. Đến nay chỉ có số liệu về lượng vàng thất thu (vì cán bộ thu nhưng không trình) tại vài địa phương:

Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Bán bãi lấy vàng không phải là mẻ thu đầu tiên của bên thắng cuộc. Trước đó đã có nhiều “chiến dịch” tương tự, xin được ghi lại (tóm lược) theo theo thứ tự thời gian:

“Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.

“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường…

Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”…

Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức…

Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”…

Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa.

Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt” (Sđd, trang 71 – 80).

–  “Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.”(Sđd, trang 71 – 90).

Cũng theo ông Huỳnh Bửu Sơn:

Ngay trong ngày 1-5-1975, Cách mạng đã biết trong kho có số vàng này, nhưng phải khi ông đi học tập về thì mới chính thức bàn giao. Ông Huỳnh Bửu Sơn là một trong hai người nắm giữ chìa khóa kho vàng và trực tiếp giao vàng cho hai người, một người bộ đội tên là Duyệt, một người về sau làm giám đốc ngân hàng Cần Thơ. Kho dự trữ chứa 15,7 tấn vàng, gồm: vàng thoi FRD của Mỹ, vàng thoi Montagu của Nam Phi và vàng thoi Kim Thành, có nguồn gốc là vàng lậu do hải quan bắt tịch thu về đưa cho hãng Kim Thành đúc lại. Ngoài ra còn có các đồng tiền vàng của Mỹ, Double Eagle, mệnh giá 20 USD nhưng được làm từ một lượng vàng trị giá 420 USD; đồng Pesos của Mexico; đồng vàng Napoleon… ” (Sđd, trang 31).

Đó là chưa kể đến hàng chục ngàn cơ sở thương mại bị tịch thu hay công hữu hoá, và không biết bao nhiêu hãng xưởng, nhà cửa mà dân miền Nam đã ký giấy “hiến” cho “cách mạng” với hy vọng (mỏng manh) của đi thay người.

Kẻ bên thua cuộc thì trắng tay là chuyện tất nhiên nhưng người bên thắng cuộc – tuyệt đại đa số – cũng chả “chiếm hữu” được gì ráo. Dân quê ở hậu phương không với tay được đến chiến lợi phẩm, đã đành, các chiến sĩ ngay tại trận tiền cũng không “vơ vét” được của cải chi đáng giá – ngoài mấy cái khung xe đạp vác vai, hay vài “con búp bế nhựa, biết nhắm mắt khi năm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của …anh bộ đội phục viên may mắn” – vẫn theo lời Huy Đức.

Bỏ cái ba lô, cái khung xe đạp, và con búp bê có thể khóc oe oe ra, những chiến sĩ giải phóng quân hoàn toàn trần trụi: không học vấn, không nghề nghiệp, không không một đồng xu dính túi,  và – tất nhiên – không một tấc đất cắm dùi!

“Họ ngơ ngác tìm kế sinh nhai,” Vi Đức Hồi kể lại:

“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người khi họ tâm sự,  cảnh ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi đảng, chính quyền cơ sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng, chính quyền không thể moi đâu ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người đã tự ý đi cày ruộng cha ông của mình, thế là hình ảnh người chiến sỹ năm xưa cả nước trân trọng, mến mộ:

‘hoan hô anh giải phóng quân
kính chào anh con người đẹp nhất
lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất
sống hiên ngang bất khuất trên đời’

Nay họ đã trở thành đối tượng của đảng, chính quyền địa phương, họ được quy là công thần, gây rối, chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao cho người khác.”

Đó là hoàn cảnh “hụt hẫng” của những binh sĩ hay sĩ quan phục viên lành lặn, và may mắn. Nói chi đến đám thương binh (“nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng”)  hay những gia đình liệt sĩ.

Năm 1983 ông Nguyễn Vĩnh Rượu nhận được 90 đồng tiền chính sách, hỗ trợ vì gia đình có ba thân nhân là liệt sĩ. Số tiền này, vào thời điểm đó, mua được “gần” ba bao 555 hay Craven A. Tính cho gọn theo “chính sách” thì mỗi mạng người tương đương với một bao thuốc lá.

Ông Rượu gửi hết 90 đồng vào qũy tiết kiệm, loại không kỳ hạn và có lời. Ba mươi hai năm sau, vào ngày 31 tháng 3 năm 2015, gia đình ông Rượu mang sổ tiết kiệm đến Ngân hàng VietinBank và nhận lại được hơn 20.000 đồng. Tính luôn “cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm,” như nguyên văn lời của ký giả Tấn Tài trong bài báo (“Gửi Tiết Kiệm Một Chỉ Vàng Nhận Lại Một Ổ Bánh Mì Thịt”) trên báo Một Thế Giới, số ra ngày 2 tháng 4 năm 2015.

Bởi vậy không có gì ngạc nhiên là bốn mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đã tàn, người ta vẫn còn tiếng kêu cứu thống thiết của những gia đình thương binh hay liệt sĩ ở khắp mọi nơi. Hãy xem hoàn cảnh của bà Hà Thị Thuỷ:

“ 74 tuổi, trú tại thôn Cái Tắt, xã An Đồng (An Dương, thành phố Hải Phòng)… Thời kỳ chiến tranh, bà là thanh niên xung phong. Bà gặp và kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Viền là bộ đội. Ông Viền hy sinh năm 1968, khi con gái vừa mới sinh.

Bản thân bà là người ngoại tỉnh, gia cảnh lại neo đơn không có anh em ruột thịt, bà phải gửi con nhỏ về quê Nam Định cho mẹ già chăm sóc. Bà lăn lộn kiếm tiền gửi về cho mẹ nuôi con gái…

Trước hoàn cảnh khó khăn trên của gia đình thân nhân liệt sĩ, rất mong các cá nhân, nhà hảo tâm quan tâm giúp đỡ gia đình bà Thủy. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà Hà Thị Thủy hoặc bà Vũ Thị Hải – Trưởng văn phòng đại diện Báo Nông Thôn Ngày Nay tại Hải Phòng – số 31 Điện Biên Phủ, quận Hồng Bàng, ĐT: 0903212789; hoặc Báo Nông Thôn Ngày Nay – 13 Thụy Khuê, Hà Nội, tài khoản 1506311002117, chi nhánh Ngân hàng NNPTNT Tây Hồ, Hà Nội.”

Chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ lẫn nhau khi tha nhân lâm vào cảnh khó khăn. Tôi hy vọng sẽ không ai trù trừ, do dự hay quay lưng với gia đình bà Hà Thị Thủy chỉ vì họ là những người thuộc … bên thắng cuộc.

Người dân Việt Nam không ai thắng ai sau cuộc chiến vừa qua. Tất cả chúng ta đều thua, thua đau, sau một canh bạc bịp bởi những kẻ gian manh. Phải nhận diện rõ được kẻ thù như thế để đánh thẳng vào mặt chúng nó, và đừng …đánh lẫn nhau!

40 năm sau Chiến tranh Việt Nam: Ai vui, ai buồn?

40 năm sau Chiến tranh Việt Nam: Ai vui, ai buồn?

Nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đầu đã đặt chân tới một trại tị nạn dựng lên tại căn cứ thủy quân lục chiến Camp Pendleton ở miền nam California.

Nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đầu đã đặt chân tới một trại tị nạn dựng lên tại căn cứ thủy quân lục chiến Camp Pendleton ở miền nam California.

VOA Tiếng Việt

21.04.2015

Sau khi phải hủy bỏ kế hoạch kỷ niệm ngày 30/4 tại một căn cứ thuỷ quân lục chiến ở Nam California, người Mỹ gốc Việt ở tiểu bang California giờ đã tìm được một địa điểm mới, nơi họ có thể treo cờ và hát quốc ca Việt Nam Cộng hòa.

Hàng nghìn người đã bỏ chạy khỏi tổ quốc để tới Mỹ, và nhiều người trong số đó ban đầu đã đặt chân tới một trại tị nạn dựng lên tại căn cứ thuỷ quân lục chiến gọi là Camp Pendleton ở miền nam California.

Ông Jason Johnston, phát ngôn viên của căn cứ này, cho biết các quan chức tai trụ sở của lực lượng thuỷ quân lục chiến Mỹ nói rằng lá cờ của miền nam Việt Nam trước đây không thể được treo lên tại các cơ quan liên bang vì chính phủ Mỹ chỉ công nhận chính quyền Việt Nam hiện thời.

Trong chương trình buổi lễ tại địa điểm mới này quốc kỳ và quốc ca Việt Nam (Cộng hòa) sẽ được tôn trọng và tôn vinh với các nghi thức nghi lễ của chương trình. Mục đích chính nữa là muốn cho giới trẻ Việt Nam biết và hiểu rõ rằng từ đâu mà người Việt Nam có mặt ở Hoa Kỳ, và hiểu rõ hơn về những thành quả, những đóng góp của người Việt trong 40 năm.

Ông Nguyễn Khanh, phát ngôn viên ban tổ chức lễ kỷ niệm 30/4.

Nay thì buổi lễ sẽ được tiến hành tại một trường trung học ở thành phố Garden Grove vào ngày 25/4 tới đây.

Ông Nguyễn Khanh, phát ngôn viên của Ban tổ chức sự kiện này cho VOA Việt Ngữ biết thêm chi tiết:

“Ban tổ chức dời địa điểm về trường trung học Bolsa Grande ở thành phố Garden Grove. Đề tài của chương trình đã đổi từ “Hành trình đến tự do và vươn tới” thành “Ngày tưởng niệm quốc hận năm thứ 40”, năm thứ 40 sau chiến tranh Việt Nam, miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và hàng trăm người tị nạn Việt Nam đã rời Việt Nam để tìm đến bến bờ tự do. Chắn chắn trong chương trình buổi lễ đó tại địa điểm mới này quốc kỳ và quốc ca Việt Nam (Cộng hòa) sẽ được tôn trọng và tôn vinh với các nghi thức nghi lễ của chương trình. Mục đích chính nữa là muốn cho giới trẻ Việt Nam biết và hiểu rõ rằng từ đâu mà người Việt Nam có mặt ở Hoa Kỳ, và hiểu rõ hơn về những thành quả, những đóng góp của người Việt trong 40 năm.”

Ban tổ chức cho biết, dự trù sẽ có từ 5.000 tới 10.000 người tham gia lễ kỷ niệm đánh dấu sự kiện mà nhiều người ở Mỹ gốc Việt hiện gọi là “ngày quốc hận”.

Trong khi đó tại Việt Nam, chính quyền sẽ tổ chức diễu binh và diễu hành với sự tham gia của hàng nghìn người tại TP HCM để đánh dấu ngày được gọi là “thống nhất đất nước”.

Ngoài ra, kế hoạch kỷ niệm được đích thân Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt còn bao gồm các hoạt động văn hóa và bắn pháo hoa tại nhiều địa điểm ở nơi từng được gọi là ‘Hòn ngọc Viễn Đông”.

Bình luận về các hoạt động rầm rộ này, luật sư Lê Công Định viết trên trang Facebook cá nhân: “Chiến thắng đồng bào ruột thịt mà diễu binh lớn để làm gì, hoà giải dân tộc kiểu này ư? Nói và làm khác xa nhau bởi suy nghĩ không đúng như lời, nó thể hiện ở hành động”.

Nhà bất đồng chính kiến này viết tiếp: “Cứ gợi nhớ quá khứ đau thương bằng những buổi lễ hống hách như vậy, thì trách chi bên kia luôn nhắc đến ngày ấy như ngày quốc hận. Muốn người khác quên thù hận và gác lại quá khứ, thì chính mình phải vượt qua sự cao ngạo của kẻ chiến thắng”.

Chủ nghĩa này, chủ nghĩa kia, đã chia người Việt ra làm hai phía, và vì vậy đã xảy ra cuộc chiến. Vì vậy, bây giờ là lúc các anh chị em nên ngồi lại với nhau để mà cùng khôi phục lại đất nước. Nhưng muốn có tự do dân chủ, và khôi phục đất nước thì phải đấu tranh để chấm dứt sự độc tài của chính quyền cộng sản. Lúc đó mới hy vọng được rằng chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước được,

Blogger Điếu Cày.

​Trong khi đó, nhận định về tiến trình hòa giải dân tộc, blogger Điếu Cày nói với VOA Việt Ngữ từ Mỹ:

“Cái chủ nghĩa này, chủ nghĩa kia, đã chia người Việt ra làm hai phía, và vì vậy nó đã xảy ra cuộc chiến. Vì vậy, bây giờ là lúc các anh chị em nên ngồi lại với nhau để mà cùng khôi phục lại đất nước. Nhưng muốn có tự do dân chủ, và khôi phục đất nước thì phải đấu tranh để chấm dứt sự độc tài của chính quyền cộng sản. Lúc đó mới hy vọng được rằng chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước được, bởi vì hiện nay họ vẫn cho rằng chỉ có họ mới có quyền lãnh đạo đất nước. Như ông Võ Văn Kiệt đã nói, nước Việt Nam là của tất cả người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều có quyền đóng góp và tham gia điều hành đất nước. Nước Việt Nam không phải của riêng một cá nhân hay tổ chức chính trị nào.”

Trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm ngoái, tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh giá cao vai trò của Việt Kiều tại Mỹ trong mối quan hệ song phương.

Tổng thống Obama nói cộng đồng này là ‘một trong những nguồn sức mạnh lớn giữa hai nước’ và là ‘chất keo dính bền chặt cho quan hệ của bất kỳ hai quốc gia nào’.

Đáp lại, ông Sang cũng ngỏ lời cảm tạ chính phủ Hoa Kỳ về ‘sự chăm sóc hết sức chu đáo’ đối với người Mỹ gốc Việt hàng chục năm qua.

Trong khi hai nhà lãnh đạo phát biểu, bên ngoài Tòa Bạch Ốc, hàng trăm người gốc Việt hô to các khẩu hiệu phản đối tình trạng vi phạm nhân quyền ở trong nước – một vấn đề ông Sang thừa nhận rằng Hà Nội và Washington vẫn còn nhiều điểm khác biệt.

Trả lời VOA Việt Ngữ khi ấy, nhà lãnh đạo Việt Nam bày tỏ mong muốn rằng người Mỹ gốc Việt sẽ làm “cầu nối” nhằm thúc đẩy mối quan hệ Hà Nội – Washington.

Theo nhau leo rào vào công viên nước tắm “chùa”

Theo nhau leo rào vào công viên nước tắm “chùa”

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Hàng ngàn người đã chen nhau vào tắm “chùa” tại một công viên nước ở Hà Nội, thậm chí còn leo hàng rào sắt, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng cho bản thân.

Thanh niên nam nữ theo nhau trèo hàng rào sắt để vào tắm “chùa”. (Hình: VNExpress)

Nhiều báo ở Việt Nam cho hay buổi sáng ngày Chủ Nhật, 19 Tháng Tư, 2015, Công viên nước Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đã “mở cửa miễn phí từ 8 giờ đến 10 giờ sáng để tri ân khách hàng nhân kỷ niệm 15 năm thành lập.”

Vì người đến tắm “chùa” quá đông, đến khoảng 9 giờ sáng thì hàng ngàn người đã phải xếp hàng dài đợi tới phiên mình được vào hồ bơi. Thay vì xếp hàng, rất nhiều người, cả nam lẫn nữ, đã leo hàng rào sắt để vào bên trong, khi thời gian miễn phí đã hết, dù hàng rào sắt có nhiều móc nhọn.

Vì số lượng người quá đông quá sức chứa của hồ, người ta thấy hồ tắm đầy những người đứng san sát với nhau trong nước, không còn chỗ để bơi.

“Đoán trước tình hình, công viên đã nhờ gần 100 người thuộc trật tự phường, dân quân tự vệ để đảm bảo trật tự. Lực lượng bảo vệ của công viên gồm 70 người đã bắc loa thông báo với người dân không trèo rào nguy hiểm, hướng dẫn cho người dân đi theo trật tự. Tuy nhiên, do lượng người quá đông nên tình trạng lộn xộn vẫn diễn ra,” VnExpress kể.

Hàng ngàn người chờ phía ngoài công viên nước Hồ Tây vì cái tin cho tắm miễn phí từ 8 giờ đến 10 giờ ngày Chủ Nhật 19/4/2015. (Hình: VnExpress)

Bất cứ cái gì miễn phí ở Việt Nam cũng dễ dẫn đến cảnh xô đẩy, chen lấn, tranh cướp mà người ta thấy xảy ra hàng năm khi diễn ra các lễ hội theo tin các báo trong nước vẫn đưa. Thậm chí dẫn đến đánh nhau vỡ đầu sứt trán.

Cuối Tháng Mười, 2013, một nhà hàng Nhật Bản ở phố Đoàn Trần Nghiệp, Hà Nội, quảng cáo mời ăn sushi miễn phí ngày khai trương 24 Tháng Mười. Họ chỉ mời ăn giới hạn buổi sáng và chiều là 180 người, buổi tối là 280 người nhưng hàng ngàn người đã đến đây, đứng tràn cả xuồng lòng đường.

Những người vào được phía trong thì “chen lấn, xô đẩy chỉ mong giành được phần ăn cho mình. Thậm chí, một số khách sẵn sàng nhảy vào bếp lấy thức ăn trong đó, rồi đứng ăn luôn, không cần phục vụ,” theo bản tin VietNamNet.

VietNamNet nói rằng, “Nhiều người lấy cả khay đồ ăn nhưng chỉ ăn một miếng rồi bỏ, trong khi nhân viên cửa hàng phải ra chợ mua gấp để phục vụ khách. Sự việc đã gây xôn xao trong dư luận. Hành động chen lấn, xô đẩy của những người tham gia sự kiện được xem là thiếu văn hóa và rất đáng xấu hổ.”

Buổi chiều ngày 12 Tháng Chín, 2013, tòa đại sứ Hòa Lan tổ chức phát miễn phí 3,000 áo mưa cho người qua đường tại cửa của UBND quận Ba Đình, Hà nội.

Tuy nhiên, theo báo chí tường thuật “chỉ vài phút sau khi đại diện người Hà Lan có những lời chúc tốt đẹp tới người dân xung quanh, không khí thay đổi nhanh chóng và trở nên hỗn loạn. Mọi người tranh giành nhau, ai cũng cố gắng lấy nhiều nhất những món quà thiện chí về tay mình. Có người còn trèo lên cả sân khấu để cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán.”

Hồ tắm nghẹt người, không còn chỗ bơi. (Hình: VnExpress)

Theo VietNamNet, “Có những lúc, diễn giả gần như phải ‘hét’ lên: ‘Đề nghị mọi người không tranh giành, nếu không, chúng tôi sẽ dừng chương trình ngay lập tức!’ Chỉ 35 phút sau khi chương trình bắt đầu, 3,000 chiếc áo mưa đã được lấy sạch. Sự kiện này đã để lại những hình ảnh rất xấu của người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.”

Chỉ ít ngày trước đó tức ngày 16 Tháng Mười, 2013, “Anh Vũ Trường Chính (42 tuổi, ngụ quận Phú Nhuận, Sài Gòn – là giám đốc chi nhánh tổng công ty Xây Dựng Miền Nam). Khoảng 9 giờ 15 sáng 16 Tháng Mười, anh đi xe máy về hướng quận 1, mang theo 50 triệu đồng (tiền mệnh giá 500.000 đồng) bỏ vào túi quần bên phải cùng với chiếc ĐTDĐ iPhone 5, đến ngân hàng để nộp vào tài khoản.”

“Trong lúc anh đang chờ đèn đỏ ở giao lộ Bà Huyện Thanh Quan-Võ Văn Tần thì bất ngờ từ phía sau, anh bị 4 thanh niên thò tay móc cọc tiền. Mặc dù vậy, anh Chính vẫn cố gắng quăng xe chạy theo giằng co bọc tiền với tên cướp. Trong lúc hỗn loạn, bọc tiền rớt xuống đường bay tung tóe. Thấy vậy, nhiều người đi đường không giúp đỡ anh còn dừng lại nhặt tiền, lên xe chạy mất. Nạn nhân chỉ gom được 30.5 triệu, còn 19.5 triệu đồng bị người đi đường lấy mất,” theo VietNamNet. (TN)

Về phát biểu của PGS TS Vũ Quang Hiển: Một “truth denier” của Việt Nam

Về phát biểu của PGS TS Vũ Quang Hiển: Một “truth denier” của Việt Nam

Nguyễn Văn Tuấn

Các bạn phải chuẩn bị tinh thần! Phải bình tĩnh để đọc phát ngôn sau đây: “Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, Việt Nam không có ngược đãi đối với mọi người. Bởi vì chính sách lúc ấy của nhà nước Việt Nam là chính sách hòa hợp dân tộc. […]Thế còn việc tập trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho nó rõ chính sách của nhà nước Việt Nam thời bấy giờ. […] Chứ không có nghĩa là một chế độ tù đầy” (1). Nếu có thì giờ, nên nghe cái tape phỏng vấn và những phát biểu của ông thì sẽ rõ hơn, nhưng ý chính là như trích dẫn trên. Ai nói thế? Xin thưa, đó là Tiến sĩ Vũ Quang Hiển, phó giáo sư, sử gia của Đại học Quốc gia Hà Nội (2). Xin nhắc lại để khỏi nhầm lẫn: sử gia của Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhìn qua lí lịch khoa học (2) thì thấy đây là một sử gia rất tiêu biểu của “triều đình” (còn gọi là sử gia cung đình). Tôi nghĩ chỉ riêng câu nói đó đã đủ để ông có thêm một chức danh nói theo tiếng Anh là “truth denier”, tức là kẻ phủ nhận sự thật. Rất nhiều người, không phải là sử gia, có thể thấy ngay rằng ông đã sai lầm. Tù cải tạo là một thực tế đã xảy ra. Nhục hình, có khi tra tấn đã xảy ra. Có nhiều người chết trong các trại tù cải tạo. Tất cả những điều đó là sự thật. Ấy thế mà ông phó giáo sư sử học lại phủ nhận thì chúng ta có lí do để chất vấn tính trung thực của ông ấy, dù là tính trung thực của người làm khoa học xã hội.

Có bao nhiêu người đi tù cải tạo?

Con số tù cải tạo chính xác thì rất khó có được vì phía chính quyền nắm giữ và họ chưa tiết lộ. Nhưng trang wikipedia có hẳn một entry dành cho tù cải tạo (3). Dò theo nguồn này, chúng ta sẽ thấy một số nguồn ước tính, và con số tù cải tạo rất lớn. Đáng chú ý là một bài trên thuvienhoasen.info thấy tác giả trích dẫn tài liệu mang bí số TN/QP-14 ngày 14/2/1977 tại Cục lưu trữ Quốc phòng thì: “Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đình, bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là 1.236.569 người” (4). Rất tiếc là tác giả không cho thấy hình ảnh, nhưng hãy tạm xem đó là một nghi vấn. Tài liệu đó (4) cũng có trích dẫn tài liệu từ Viện bảo tàng VN tại San Jose với vài thống kê từ phía VNCH như sau:

  • Năm 1975, miền Nam VN có 980 ngàn quân nhân; trong số này có khoảng 9600 cấp tá + tướng, 80000 là cấp uý.
  • Cấp tướng tính đến này 30/4/1975 là 112 người, trong số này bị bắt làm tù cải tạo là 32 người, còn 80 thì di tản ra nước ngoài.
  • Cấp đại tá có 600, trong số này bị bắt cải tạo là 366 người.
  • Cấp trung tá có 2500 người, tù cải tạo là 1700 người.
  • Thiếu tá có 6500 người, tù cải tạo là 5500 người.
  • Cấp uý có 80000 người, bị bắt đi tù cải tạo là 72000 người.

Theo tác giả cuốn “Le Livre Noir du Communisme: Crimes, Terreur, Repression” của Robert Laffront thì “Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Theo đó Phạm Văn Đồng đã chỉ đạo bắt giữ con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện. Tính đến năm 1980 thì chính phủ Việt Nam công nhận còn 26.000 người còn giam trong trại. Tuy nhiên 1 số quan sát viên ngoại quốc ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn bị giam. Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị giam” (trích từ #4). Một tài liệu tổng hợp khá công phu từ những chứng nhân và học giả từ Đông Nam Á, nhóm tác giả đi đến những ước tính là có khoảng 1 triệu người bị giam giữ không được xét xử; trong số này có đến 165 ngàn người chết trong các trại tù cải tạo (5). Theo báo cáo của Quĩ Aurora thì năm 1983 có hơn 1 triệu người miền Nam đã bị bắt đi “cải tạo”. Lúc đó, Việt Nam có trên 150 trại cải tạo. Trong số trên 1 triệu đó, có khoảng 500 ngàn người được trả tự do trong vòng 3 tháng; 200 ngàn bị tù từ 2-4 năm; và 240 ngàn bị tù trên 4 năm; và vài chục ngàn tù trên 10 năm. Có thể nói thời đó, gia đình nào ở miền Nam cũng có người bị bắt đi tù cải tạo.

Địa ngục trần gian

Trại cải tạo thường được các trại viên mô tả là “địa ngục trần gian”. Có người còn nói rằng những trại ở Siberia của Stalin chưa chắc thấm gì so với trại tù cải tạo ở Việt Nam, vì thiếu thốn đủ thứ. (Thời đó thì cả nước thiếu thốn lương thực, thực phẩm và thuốc men & thiết bị y tế, chứ chẳng riêng gì trại tù.) Đã có hàng ngàn tài liệu viết về tù cải tạo, và thông tin thường rất nhất quán với nhau. Tôi không thể nào kể hết, nhưng những cuốn sách nổi bậc nhất mà tôi từng đọc qua là “Đại học máu” của Hà Thúc Sinh, “Đáy địa ngục” của Tạ Tỵ, “AK và Thập giá” của Phan Phát Huồn, sách của Duyên Anh, những bài viết của sử gia Tạ Chí Đại Trường, và các cựu sĩ quan VNCH. Riêng cuốn “Trại cải tạo” của Phạm Quang Giai có phác hoạ bằng tay những nhục hình được các nhà tù sử dụng thời đó. Những gì mà các cựu tù nhân kể qua thì thấy họ bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Như tôi nói trên, họ kể một cách rất nhất quán. Rất nhiều hồi kí kể rằng trong tù quản giáo ít khi tra tấn tù nhân, nhưng họ có cách làm cho tù nhân chết dần chết mòn: đày đoạ và bỏ đói. Như tác giả Phạm Quang Giai mô tả (có lẽ hơi quá), “Họ lôi cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiến là ác độc, là giết người.” Trong thực tế, đi tù cải tạo cũng là một cuộc tẩy não. Các tù nhân bị bắt buộc phải viết kiểm điểm liên tục, và lần nào cũng phải viết “Ðả phá chủ nghĩa đế quốc Mĩ, kẻ thù của nhân dân Việt Nam và thế giới. Sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc Mĩ; Ðế quốc Mĩ là con đỉa hai vòi: một vòi hút máu mủ nhân dân trong nước, còn vòi kia vươn sang các nước khác để hút máu mủ nhân dân các nước này bằng cách bán súng đạn, tạo ra các cuộc chiến tranh diệt chủng. Tội ác của ngụy quyền ngụy quân miền Nam, bán nước, tay sai. Chính sách khoan hồng của Ðảng, nghĩa vụ của người có tội, lao động là vinh quang. Những thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam.” Theo Hà Thúc Sinh, trong cuốn “Đại học Máu” nổi tiếng, thì khi tù nhân nhập trại họ được đưa “chỉ tiêu” như sau: ”Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.

  1. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. 3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt. 4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng. 5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.” (6)

Có khá nhiều trường hợp bị hành hạ đến chết ở trong trại tù, nhưng không ai biết con số chính xác là bao nhiêu. Một trong những người bị chết trong tù là đồng nghiệp và đàn anh của ông Vũ Quang Hiển: sử gia Phạm Văn Sơn, người nổi tiếng với bộ Việt Sử Tân Biên. Một số thì sau khi ra tù một thời gian ngắn cũng chết do những di chứng từ thời còn bị giam trong tù. Ông Hồ Hữu Tường (một học giả nổi tiếng ở miền Nam) chết sau khi bị thả ra khỏi tù. Tạ Tỵ, một nhà văn và hoạ sĩ có tiếng là điềm đạm, mà cũng viết trong sách là “Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!” (7) Có những chuyện cười ra nước mắt. Chẳng hạn như những mẫu đối thoại sau đây cho thấy cán bộ quản giáo rất ngô nghê như thế nào. [trích] Chỉ huy trại là một người miền Nam tập kết, cấp bậc Đại úy mà các tù binh vẫn quen gọi là “ông Răng Vàng” vì nguyên hàm răng trên của ông là “kim loại màu vàng” – nói theo cách nói của “cách mạng”. Một tù binh khai: “Cấp bậc: Đại úy, chức vụ: Quyền Tiểu Đoàn Trưởng” bị “ông Răng Vàng” đập bàn, hét: “Mẹ bố, quân ngụy các anh là láo lếu: ai chẳng biết các anh là Đại úy, là có quyền, còn bày đặt khoe khoang.” Nói xong, ông ta lấy viết gạch bỏ chữ “Quyền” trước ba chữ “Tiểu Đoàn Trưởng”. Một tù binh khác khai: “Cấp bậc: Đại úy. Binh chủng: Biệt Cách Nhảy Dù” bị “ông Răng Vàng” chỉnh: “Mẹ bố, ngụy các anh là ưa khoe khoang: ai chẳng biết các anh “biết cách” nhảy dù. Nói xong, “ông Răng Vàng” lấy viết sổ toẹt hai chữ “Biệt Cách”. Một tù binh khác khai địa chỉ: “… đường Huỳnh Tịnh Của – Đa Kao”, đã phải dở khóc, dở cười khi bị một ông sĩ quan bộ đội người miền Trung “dạy dỗ” như sau: “Ngụy các anh là ưa rắc rối: “Huỳnh Tịnh – Đa Kao” là người ta hiểu rồi. Còn bày đặt là “Huỳnh Tịnh của Đa Kao” làm gì cho rắc rối.” Nói xong, ông ta bèn gạch bỏ chữ “Của” một cách ngon ơ! [hết trích]

Người phủ nhận sự thật

Câu nói của ông sử gia, phó giáo sư Vũ Quang Hiển làm tôi nhớ đến một sử gia người Anh tên là David Irving. Tôi nhớ đến ông này vì vào đầu thập niên 1990s báo chí Úc làm ồn ào khi Chính phủ Úc không cho ông nhập cảnh Úc. Rất rất hiếm khi nào Úc không cho người Anh nhập cảnh, nhưng họ cấm cảng ông Irving thì đủ biết sự việc nghiêm trọng như thế nào. Ông Irving nhiều lần kiện Chính phủ Úc về việc cấm cảng, nhưng ông không thành công. Ông Irving nổi tiếng là một người mà tiếng Anh gọi là “Holocaust Denier”, tức là không chịu tin rằng cuộc tàn sát Holocaust đã xảy ra. Ông viết nhiều sách để lí giải rằng không có những cái gọi là hầm ga mà Hitler dùng để giết người Do Thái. Sau này, ông bị toà án Áo phạt tù 3 năm vì hành vi phủ nhận cuộc tàn sát Holocaust, và xuyên tạc lịch sử. Tôi chỉ kể chuyện xưa để biết rằng ở nước ngoài sử gia mà phát ngôn theo kiểu phủ nhận sự thật lịch sử được xem là một trọng tội và có thể đi tù. Dĩ nhiên, luật ở nước ngoài không giống như luật ở Việt Nam, và đó là một điều may mắn của ngài phó giáo sư vậy. Nhưng nhìn một cách tích cực, tôi vẫn tin vào lòng tốt của ông, và hi vọng rằng một ngày nào đó ông sẽ tịnh tâm và nhìn nhận sự thật. Tuy số người bị giam giữ và chết trong tù cải tạo sau 1975 không bằng số người Do Thái bị Hitler tàn sát, nhưng nếu người Đức đủ can đảm để nhìn nhận sự thật, thì Việt Nam không nên tỏ ra can đảm nhìn nhận rằng tù cải tạo là một thực tế đã xảy ra. Chứ như hiện nay thì sự phủ nhận sự thật của ông rất bất lợi cho chính sách hoà hợp – hoà giải dân tộc của Nhà nước. ====

(1) http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2015/04/150418_vuquanghien_vietnamwar?SThisFB

(2) http://ussh.vnu.edu.vn/profile/vu-quang-hien

(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o

(4) http://www.thuvienhoasen.info/tvhsvn_tintucthoisuvn/ttts_vn-giam-giu-tu-chinh-tri-nhieu-nhat-tren-the-gioi.htm

(5) http://dartcenter.org/content/camp-z30-d-survivors#.VTNIUZSUcmc

(6) Hà Thúc Sinh, Đại Học Máu trang 100. (7) Tạ Tỵ, Đáy Địa Ngục, trang 152. Một số hình được vẽ lại trong tù cải tạo (trích từ sách của tác giả Phạm Quang Giai):

H1

Xin xem thêm:

Thư gửi ông giáo Vũ Quang Hiển (Danlambao)

Hàng loạt nhà tù trắng trợn, nhà tù trá hình được dựng lên để cùm kẹp, để cải tạo, để giáo dục, để chỉnh huấn…với đằng đẵng thời gian và muôn vàn phương thức đày ải. Cho đến con cháu, họ hàng của những người tù, những ‘cải tạo viên’ cũng bị phân biệt đối xử, bị tước bỏ bớt nhân quyền so với cái nhân quyền chung của dân tộc Việt Nam vốn đã như ‘miếng da lừa’. Đến nỗi hàng vạn, hàng triệu người phải cắn môi, gạt nước mắt giã từ bè bạn, chia tay họ hàng, từ bỏ tài sản, rời bỏ quê hương đi biệt xứ”. (Thông Luận online ngày 14-11-2007)

Tháng Tư từ hai góc nhìn

Tháng Tư từ hai góc nhìn

Người Việt kỷ niệm ngày 30 thang 4

Người Việt kỷ niệm ngày 30 thang 4

Nguyễn Hưng Quốc

18.04.2015

Lại tháng Tư. Lại thấy trên báo chí và các mạng lưới truyền thông xã hội trên internet những bài viết về một trong những biến cố lớn nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại: tháng Tư 1975. Tuy nhiên, năm nay, các bài viết, đặc biệt ở hải ngoại, dường như khác những năm trước. Trước, người ta chỉ tập trung vào sự sụp đổ của chính quyền miền Nam và những hậu quả của nó. Năm nay, bên cạnh cái nhiều người gọi là ngày “đổi đời” ấy, người ta còn tập trung vào một khía cạnh khác: 40 năm người Việt định cư ở nước ngoài.

Thì cả hai đều có quan hệ nhân quả với nhau thôi: Bởi vì chính quyền miền Nam sụp đổ nên mới có hàng triệu người liều mình vượt biên hay vượt biển để ra đi tìm tự do. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến khía cạnh sụp đổ, người ta chỉ thấy những bi kịch; khi chú ý đến khía cạnh định cư ở nước ngoài, người ta thấy những khía cạnh tích cực và lạc quan hơn. Cho nên, cùng một biến cố, tuỳ theo góc nhìn, người ta thấy những mảng màu khác hẳn nhau.

Chỉ nhìn vào khía cạnh “thua trận”, sau việc mất chính quyền là nạn độc tài và tàn bạo với cảnh hàng chục ngàn người bị lùa vào các trại lao động cải tạo, cảnh đánh tư sản mại bản, cảnh xua dân chúng vào các khu kinh tế mới đầy khổ ải, cảnh con cái của những người từng làm việc cho chế độ cũ bị kỳ thị ngay cả trong việc học vấn, và cuối cùng, cảnh hàng triệu người bỏ nước ra đi, trong đó có cả hàng trăm ngàn người bị hải tặc hoặc bị đắm tàu bỏ xác ngoài biển khơi. Ngày ấy, nói theo Võ Văn Kiệt, có triệu người vui và triệu người buồn. Nói thế là hơi nhẹ. Bởi đâu phải chỉ “buồn”. Người ta còn đau khổ, thống khổ vì những mất mát không thể bù đắp được. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người gọi đó là ngày quốc hận.

Sau ngày “quốc hận” ấy là những ngày tháng tang thương bi thảm. Về phương diện kinh tế, đời sống mọi người càng ngày càng cùng cực, ngay cả lúa gạo cũng không đủ ăn, phải ăn độn khoai, độn sắn và ăn cả bo bo từ năm này sang năm khác. Về phương diện xã hội, với chính sách hộ khẩu và sổ lương thực, mọi người bị mất cả các quyền tự do cư trú và đi lại. Về phương diện tôn giáo, người ta cũng không được quyền tự do thờ phượng: các nhà tu đào tạo tu sĩ bị đóng cửa, việc đi chùa hay đi nhà thờ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Về phương diện chính trị, tất cả các quyền căn bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ quyền tự do đi lại đến tự do hội họp, từ quyền tự do biểu tình đến quyền tự do lập đảng phái… tất cả đều bị bóp nghẹt.

Bên cạnh những sự “đổi đời” như thế, có một khía cạnh khác năm nay mới được chú ý nhiều: cộng đồng đông đúc với khoảng trên bốn triệu người Việt sống ở rải rác trên 100 quốc gia khác nhau kể từ sau năm 1975.

Nhìn từ góc độ di dân học, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có mấy đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất, trong khi các làn sóng tị nạn trên thế giới phần nhiều có tính chất khu vực, chủ yếu di cư đến một quốc gia láng giềng nào đó (ví dụ từ Iraq chạy sang Saudi Arabia, Jordan hay Turkey; từ Afghanistan chạy sang Pakistan), làn sóng tị nạn của người Việt, ngược lại, có tính chất toàn cầu: sau khi đến một quốc gia láng giềng, họ được phép tái định cư ở một quốc gia thứ ba, hầu hết là các nước Tây phương, vừa xa xăm vừa xa lạ về văn hoá (trong đó, đông nhất là ở Mỹ với gần 2 triệu; kế tiếp là Pháp với khoảng 300.000; Úc và Canada mỗi nơi trên 200.000 người).

Thứ hai, ở các quốc gia ấy, người Việt thường có xu hướng sống tập trung ở các tiểu bang hoặc các thành phố lớn và đông dân nhất.

Thứ ba, mặc dù cộng đồng người Việt hải ngoại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ di tản đến vượt biên, từ diện HO đến diện bảo lãnh gia đình, trên căn bản, yếu tố chính trị vẫn là nòng cốt: đó là một cộng đồng tị nạn.

Đặc điểm thứ nhất là một trở ngại cho quá trình hội nhập: từ một nước thuộc loại nghèo khó nhất thế giới đến sống ở một quốc gia thuộc loại tiến bộ và giàu có nhất thế giới với một ngôn ngữ và một văn hoá khác biệt, nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng và cần thời gian mới có thể ổn định được cuộc sống. Đặc điểm thứ hai làm xuất hiện những khu phố người Việt, ở đó, người Việt sống tập trung bên cạnh nhau với một bản sắc riêng khác với những người bản xứ hay các cộng đồng di dân khác. Đặc điểm thứ ba làm cho xu hướng chính trị thành một trong những yếu tố chủ đạo hình thành bản sắc của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại: dù sống ở nước ngoài lâu đến mấy, phần lớn người Việt vẫn đau đáu theo dõi những chuyển biến chính trị ở trong nước và vẫn tha thiết muốn góp phần vào việc cải thiện tình hình ở quê nhà.

Khi nhìn lại 40 năm sống ở hải ngoại, hầu hết các cơ quan truyền thông đều nhấn mạnh đến những thành tựu, từ lãnh vực khoa học, giáo dục đến các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Ở đâu cũng có những điểm son rất đáng tự hào.Phần lớn các tờ báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đều dành một số trang để đăng tải các bài viết ca tụng những người thành đạt. Ở đây, tạm gác qua một bên những cá nhân xuất sắc, chúng ta chỉ nhìn cộng đồng người Việt như một tập thể. Với tư cách tập thể, trong quan hệ với Việt Nam, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có hai đóng góp nổi bật nhất.

Thứ nhất, về phương diện kinh tế, số tiền người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam hằng năm là một nguồn doanh thu quan trọng cho Việt Nam. Chỉ tính qua con đường gửi tiền chính thức, số tiền người Việt gửi về cho thân nhân trong nước vào năm 2009 là 6.2 tỉ Mỹ kim; năm 2010 là 8.1 tỉ; năm 2011 là 9 tỉ và năm 2013 là 11 tỉ biến Việt Nam thành một trong 10 quốc gia nhận kiều hối cao nhất trên thế giới.

Thứ hai, về phương diện chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại tồn tại như một lực lượng đối kháng chế độ độc tài trong nước. Cái gọi là “lực lượng” này phần lớn khá tản mác và tự phát, không có lãnh tụ và cũng không có phương hướng hoạt động chung. Tuy nhiên, đóng góp của họ đối với cuộc tranh đấu cho dân chủ ở trong nước không nhỏ. Trong bài “Cộng đồng hải ngoại như một lực lượng đối lập” đăng trên blog này vào đầu năm 2010, tôi viết: “nếu không có những tiếng nói đối lập ồn ào và gay gắt xuất phát từ, hoặc được khuếch tán bởi, cộng đồng hải ngoại, thì những vụ tham nhũng khủng khiếp ở Việt Nam làm sao có thể phơi bày ra trước công luận? thì những kế hoạch khai thác bauxite ở Tây nguyên làm sao có thể thu hút sự chú ý của quần chúng đông đảo đến như vậy? thì những hành động lấn chiếm vùng biển Việt Nam của Trung Quốc và thái độ nhu nhược của chính phủ Việt Nam làm sao có thể làm nhức nhối nhân tâm đến như vậy? thì những vụ vi phạm nhân quyền thô bạo ở Việt Nam làm sao đến tai thế giới bên ngoài được?”

Hai khía cạnh vừa nêu mâu thuẫn với nhau: Một mặt, về chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại phản đối gay gắt chính quyền trong nước; mặt khác, về tài chính, qua việc chuyển tiền về cho thân nhân trong nước, họ góp phần làm cho chính quyền Việt Nam giàu có hơn và có nhiều điều kiện để trấn áp dân chúng hơn.

Nghịch lý ấy ai cũng biết nhưng không phải dễ giải quyết.

NGỘ NHẬN

NGỘ NHẬN

Tác giả: Huệ Minh

Tiễn người bạn thân về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nhìn chiếc quan tài dần dần đi xuống để vào lò thiêu tôi cùng bao nhiêu người thân thiết của người quá cố quặn lòng. Mới đó còn ăn, còn uống, còn giận, còn hờn, còn vui … với nhau đó nhưng rồi người bạn phải từ biệt ra đi để lại bao nhiêu người thương nhớ. Cách riêng, người bạn đã để lại những gì mà sau chuỗi đời dài ky cóp.

Tiễn bạn ra đi, tôi lại nghĩ về phận đời, phận người.

Con người sống trong cõi nhân sinh vẫn thường hay ngộ nhận về cuộc đời, về chính bản thân mình. Có những điều con người tưởng rằng rất chắc về danh vọng, về tiền bạc, về quyền lực mà mình đang có nhưng rồi không chắc chút nào cả bởi lẽ sống trong cõi nhân gian này không thể nào tránh được chuyện “vật đổi sao dời”. Có một điều chắc mà con người phải nắm lấy, phải đi đến và không thể nào thoát được đó là cái chết như cái chết của người bạn thân mới ra đi.

Cái chết là cái chắc nhất mà con người phải gặp và khi chết thì coi như tất cả những gì mình có đều để lại nhưng nhiều người đã ngộ nhận rằng mình lột da sống mãi.

Thực tế và rất thực tế trong cuộc sống là có những chuyện mà người ta tưởng chừng là cầm chắc trong tay nhưng không hẳn là như thế.

Cần gửi một ít đồ lạnh về Sài Gòn, gọi điện để nhờ xe khách đi tuyến đường ngang nhà tôi ở về Sài Gòn. Cứ tin chắc rằng khoảng 2 tiếng hay hơn 2 tiếng đồng hồ thì xe sẽ đến Sài Gòn và gia đình ra nhận đồ như những lần đã từng gửi. Hơn 2 giờ đồng hồ không thấy nhà xe điện lại. Sốt ruột vì khá lâu mà không thấy gọi ra nhận đồ. Điện thoại cho tài xế thì biết được rằng xe của anh bị hư ngay trên đường cao tốc. Hành khách đã chuyển xe khác để về nhà cho kịp thời gian. Hàng của tôi dĩ nhiên phải nằm lại trên xe và dù gia đình có muốn ra lấy cũng không ra được vì xe đang nằm trên đoạn đường cao tốc xe gắn máy không vào được. Thế là đành chịu cho đến khi có xe nào đó cùng hãng đi ngang qua chuyển vào Sài Gòn giúp.

Thế đó ! Tưởng chừng hàng sẽ đến nhưng cứ phải sống trong tâm trạng chờ và đến chiều hàng mới đến. Tất cả những gì mình muốn và tưởng chừng nằm chắc trong tay mình nhưng không được như thế.

Nhớ lại ngày xưa đi làm cho một công ty. Thân quen và yêu mến công ty đó đến độ xem công ty cũng như mọi thành viên trong công ty ấy như gia đình thứ hai cạnh gia đình ruột thịt của mình. Có khi vì tình vì nghĩa còn coi trọng những thành viên trong công ty đó còn hơn cả gia đình của mình nữa.

Chuyện công ty ấy vẫn còn in mãi trong tâm trí tôi dẫu rằng giờ tuổi cũng đã cao.

Tưởng chừng dưới cái vỏ bọc êm ả bình an thanh thản làm việc giúp cho đời giúp cho người đó lại là một cuộc thanh trừng nội bộ. Càng ngày càng ngày khi phát hiện ra cuộc thanh trừng gay gắt đó nhân viên quèn như chúng tôi rất buồn và đau nữa nhưng cũng chẳng làm gì được vì mình không có tiếng nói cũng như có nói cũng chẳng ai chịu nghe.

Năm bảy năm qua đi, ban giám đốc mới được thay thế. Tưởng chừng “vết xe đổ” của bộ sậu cũ là bài học quý giá cho ban lãnh đạo mới nhưng rồi nó cũng chẳng khá hơn. Tất cả bộ máy điều hành cũng dùng đến chiêu cách phe cánh để đạt được mục tiêu của nhóm lợi ích mình.

Những thăng trầm trong công ty đó, anh em chúng tôi đã học được bài học ngộ nhận mà nhiều người dường như cũng thấy nhưng hình như không thấy. Chuyện là ban giám đốc cũ cứ nghĩ rằng triều đại của mình viên mãn cho đến ngày tận thế cũng như của cải, quyền lực của nhóm mình vĩnh viễn nhưng kỳ thực nó không phải là như vậy. Giờ đây những người ngộ nhận rằng tất cả những gì mình xây dựng sẽ tồn tại mãi với thời gian. Nhưng, trong cuộc sống có gì tồn tại mãi đâu mà mơ.

“Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó !” Câu nói thật hay ông bà ta để lại. Tất cả những gì người trước làm thế nào với mọi người trong công ty thì người sau cũng làm thế. Tiếc thay là những người mới đã không sửa lại con đường của những người cũ đã đi. Tất cả những điều đó cho thấy rằng người ta vẫn cố tình và cố gắng xây dựng triều đại của mình theo lợi ích của nhóm mình bằng mọi giá mà người ta quên rằng cái gì cũng có thời có hạn và rồi cái gì cũng qua đi.

Tôi chia sẻ với một đàn anh đi trước tôi rằng chưa nghĩ đến chuyện triều đại, chuyện xây dựng cơ đồ và cứ nghĩ rằng công trình của mình vĩnh viễn thì hãy nhớ đến thời gian và phận người.

Đời người thật vắn ! Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày mà con người ta phải gần đất xa trời hơn. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày người ta gần đến cái chết hơn.

Sự thật là ai ai cũng chết chắc !

Chính cái sự thật chết chắc đó khép đời con người lại với biết bao nhiêu mộng vàng.

Chớ gì mỗi người năng nghĩ đến cái sự thật chết chắc của đời mình để bớt đi cái gọi là tham sân si ở đời cũng như hành xử với anh chị em đồng loại cách bao dung hơn, tha thứ hơn. Nghĩ và sống với cái chết kề cạnh bên mình hy vọng sẽ làm cho con người bớt đi cái ngộ nhận tồn tại mãi chế độ của mình, triều đại của mình, danh vọng của mình.

Huệ Minh

Để có một đời sống vui tươi, hạnh phúc.

Để có một đời sống vui tươi, hạnh phúc.

Tác giả: Phùng văn Phụng

Một người bạn gởi cho tôi: 7 bước đến hạnh phúc, đọc đi đọc lại nhiều lần thấy rất là thắm thía, rất là chí lý, chỉ cần cảm thông nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, thương xót nhiều hơn. Hiểu biết là một chuyện. Thực hành mới là khó. Ai thực hành được thì người đó có hạnh phúc.

7 bước đến hạnh phúc là:

1) Suy nghĩ ít lại, Cảm nhận nhiều hơn!

2) Bớt đi khó chịu, Mỉm cười nhiều hơn!

3) Nói ít lại, Lắng nghe nhiều hơn!

4) Xem ít lại, Hành động nhiều hơn!

5) Phán xét ít lại, Chấp nhận nhiều hơn!

6) Phàn nàn ít lại,Trân trọng nhiều hơn!

7) Sợ hãi ít lại, Yêu thương nhiều hơn!

Ba mươi ba lúc vui của Kim Thánh Thán

Nhà phê bình Trung Hoa ở phái ấn tượng, ở thế kỷ 17,nhân một lúc ngồi buồn trong một ngôi miếu, nhìn mưa rơi liên miên mà nhớ  lại những phút vui trong đời mình .

1) Mùa hè, tháng bảy, mặt trời ngừng ở giữa trời, không có gió mà cũng không có mây, sân trước sân sau hực lên như lửa, không một con chim nào dám bay lại. Mồ hôi đổ khắp mình, chảy như suối. Cơm dọn trước mặt mà ăn không được. Bảo trải chiếu nằm trên đất, nhưng chiếu ướt nhẹp,

ruồi bay lại đậu ở cổ, ở mũi đuổi không đi. Đương lúc không biết làmsao, bỗng mây đen kéo tới, sấm nổ vang như trăm vạn tiếng trống, tiếng kèn của đạo quân. Mái nhà nước xối như thác. Mồ hôi ngưng chảy, đất khô như quét, ruồi bay đi hết, ăn cơm đuợc. Cũng chẳng khoái ư.?

2) Vợ vui vẻ lấy cây trâm vàng để cho chồng đổi rượu đã bạn được ba ngày. Chẳng cũng khoái ư?

3) Đêm ngồi một mình trong thư phòng đương bực mình vì nghe tiếng con chuột sột soạt không biết gậm đồ vật nào hay nhấm cuốn sách nào. Bổng thấy chú mèo dữ, đuôi ngoe nguẩy. Nghe tiếng kêu chít một tiếng, con chuột bỏ đi. Chẳng cũng koái ư?

28) Mở cử sổ cho ong bay ra cũng chẳng khoái ư?

30) Thấy chiếc diều đứt dây cũng chẳng khoái ư?

31) Nhìn cảng đốt đồng, chẳng cũng khoái ư?

32)  Trả hết nợ cũng chẳng khoái ư?

Trích Sách ” Sống Đẹp”  của Lâm Ngữ Đường

Cảm giác hạnh phúc nhiều khi rất đơn giản mà con người của mình làm thành phức tạp, phải không?

Nếu không bị đi “cải tạo” đi tù trong các trại “học tập” của cộng sản, không bị bỏ đói triền miên, không có miếng cơm nào trong bụng lâu dài 9, 10 tháng, 5, 10 năm thì  đâu có cảm giác hạnh phúc, vui tươi khi được ăn cơm với muối rang mà tưởng chừng ăn cơm với đường cát.

Quên:

Quên không phải là việc làm đơn giản. Muốn quên đi cần phải tập luyện. Suy cho cùng nếu ta không quên các lỗi lầm của người khác, tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác vì nhớ lỗi lầm của người khác thì thiệt hại nhiều nhất chính là bản thân mình.

Tha thứ:

Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nylon sạch và một bao tải khoai lang đến lớp. Sau đó thầy bảo chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai lang viết tên người đó và ngày tháng năm rồi bỏ nó vào túi nylon.

Sau vài ngày có nhiều khoai lang, túi trở nên vô cùng nặng.

Sau đó thầy lại yêu cầu chúng tôi phải luôn mang cái túi theo bên mình, tối ngủ cũng phải để túi bên cạnh. Sự phiền phức phải mang vác cái túi, nhất là về tinh thần lúc nào cũng phải nhớ đến nó.

Qua thời gian, khoai tây bị phân hủy thành một chất lỏng nhầy nhụa. Đây là cái giá mà chúng ta phải trả cho việc khư khư ôm lấy giận hờn trong lòng.

Trong thâm tâm chúng ta thường cho rằng tha thứ là món quà đối với người được tha thứ, như bạn thấy đấy, đây rõ ràng là món quà cho chính chúng ta.

Tin mừng theo thánh Mat-thêu: ” Bấy giờ ông Phê-rô đến gần đức Giê-su mà hỏi rằng: ” Thưa Thầy  nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy. (Mt 18 câu 21,22)

Nghĩa là tha thứ mãi mãi.

Khi Chúa Giê su bị đóng đinh, bấy giờ Chúa nói: ” Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc.23: 34)

Yêu kẻ thù:

Chúa Giê-su dạy rằng :” Ngươi phải yêu mếm Đức Chúa , Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn điều răn đó. (Mc 12 câu 30-31)

Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên Trời cũng tha lỗi cho anh em,. (Mc 11, câu 25)

Ngài cũng dạy rằng: ” Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” ( 1 Ga 4, câu 8)

Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu người thân cận và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em, hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.(Mt 5, câu 43-44)

Nếu chúng ta thực hành được ba điều trên QUÊN, THA THỨ và YÊU KẺ THÙ chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.

Nhiều khi sức con người có giới hạn. Với sức con người chúng ta không làm được, nhưng nếu chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa toàn năng, với sự giúp sức của Thiên Chúa, chúng ta có thể làm được.

Phùng văn Phụng

18 April 2015

Trăn trở của một sinh viên gửi Bộ trưởng Giáo dục

Trăn trở của một sinh viên gửi Bộ trưởng Giáo dục

Tác hại của thiếu hụt tư duy phê phán

Đối với giới trẻ, thứ nhất, việc thiếu đi tư duy phê phán sẽ làm suy giảm khả năng tiếp thu kiến thức. Suy giảm khả năng tiếp thu kiến thức bởi như cháu đã phân tích ở trên, khi không phải đặt câu hỏi hay phản biện, học sinh sẽ cảm thấy ít hứng thú hơn với giờ học vì lúc đó họ chỉ là một cái máy ghi chép, tiếp thu kiến thức một cách rất thụ động.

Thực tế chứng minh rằng những hoạt động mang tính tương tác lúc nào cũng thu hút được sự quan tâm, chú ý của chúng ta hơn những hoạt động khác. Minh chứng rõ ràng cho điều này là không mấy ai mất tập trung khi đang chơi điện tử cả nhưng khi nghe giảng hay xem phim thì khả năng người nghe hay xem mất tập trung cao hơn nhiều.

Thứ hai, kiến thức sẽ không lưu lại lâu trong đầu nếu được thu nạp một cách thụ động. Có hai điểm khác biệt lớn giữa một người học gạo và một người học năng động với tư duy phê phán. Người học gạo thường có khả năng đọc vanh vách mọi chi tiết đã được học còn người kia thì thường chỉ nắm được một lượng nhỏ các chi tiết nhưng nắm rất vững kiến thức cơ bản nên từ đó có thể suy luận rất tốt.

Người học gạo thường quên những thứ mình học rất nhanh còn người kia thì không. Vì sao? Vì người học gạo chỉ cố nhồi nhét mọi thứ để giành được điểm còn người kia vì thật sự đam mê tìm tòi, học hỏi nên họ năng động trong việc thu nạp kiến thức của mình, thậm chí họ phải phản biện lại các ý kiến đối lập để bảo vệ lập trường, quan điểm của mình và những gì mình đã được học. Thế nên không có gì lạ khi những người có tư duy phê phán tốt lại nhớ lâu hơn và vận dụng kiến thức đã được học một cách tốt hơn.

Cuối cùng, tư duy phê phán kém sẽ kìm hãm sự sáng tạo và phát triển. Chẳng phải nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein đã nói rằng “một nhà sáng chế đơn giản là một cậu học trò không quá nghiêm túc việc học của mình” hay sao? Nói cách khác, nếu chúng ta không dám phản biện, không dám nghĩ xem liệu những gì mình được học có thật sự đúng hay không, nếu chúng ta không dám thử phá cách và đi con đường riêng của mình thì sẽ chẳng bao giờ có phát minh gì mới cả vì chúng ta đơn giản chỉ đang giẫm lên vết chân của cha anh mà thôi.

ham dự chương trình Họp mô hình Liên Hợp Quốc (Model United Nations) ở Stockholm vào năm 2012 ạ
Ngô Di Lân tham dự chương trình Họp mô hình Liên Hợp Quốc (Model United Nations) ở Stockholm năm 2012. Ảnh: NVCC.

Là những cá nhân đầy tham vọng, chúng ta luôn muốn tiến về phía trước, luôn muốn phát triển và làm được điều gì đó lớn lao. Đây sẽ là điều không thể có được khi thiếu tư duy phê phán hùng biện. Apple thành công là Steve Jobs có tư duy phê phán tốt, ông ta dám nghĩ khác đi và bước trên con đường của riêng mình. Thử hỏi Apple có thành công của ngày hôm nay hay không nếu người lãnh đạo của họ chỉ cố đuổi theo Microsoft mà không có những sáng kiến của riêng mình?

“Tre già, măng mọc”, những người trẻ ngày hôm nay sẽ là trụ cột của xã hội mai sau. Nếu lúc còn trẻ họ không phát triển tư duy phê phán, khó có thể hy vọng họ sẽ phát triển cách tư duy này khi đã trưởng thành, khi họ đã là rường cột của xã hội. Và đối với xã hội, các tác hại của việc thiếu tư duy phê phán còn nguy hiểm hơn nhiều lần.

Khi chúng ta không có thói quen tư duy phê phán và bắt đầu quen chấp nhận mọi thứ mình được dạy là chân lý thì hệ quả tất yếu sẽ là cả một hệ thống ỳ ạch và nặng nề. Sức ỳ của hệ thống có thể sẽ đe doạ sự sống còn của một quốc gia, một xã hội khi đối mặt với những yêu cầu phải cải cách để thích nghi với những chuyển biến đang diễn ra xung quanh. Điều này có thể thấy rõ trong những năm cuối cùng của Đế chế Trung Hoa dưới thời nhà Thanh.

Đối mặt với sự xâm lược của thực dân phương Tây và những chuyển biến trong hệ thống quốc tế, nhà Thanh đối mặt với hai lựa chọn để tồn tại: giữ nguyên hiện trạng hay cải cách theo phương Tây. Cải cách cuối cùng đã không diễn ra đủ nhanh và kịp thời để cứu vãn triều đại này bởi sức ỳ của hệ thống lúc đó đã quá lớn. Những người làm quan từ nhỏ tới lớn chỉ được đọc sách của các đức thánh hiền như Khổng tử mà không được dùng tư duy phê phán nên hệ quả là họ nghiễm nhiên cho rằng những gì mình đã được học là chân lý không thể thay đổi.

Chính vì thế, khi những cải cách thiết yếu mâu thuẫn với Khổng giáo thì họ chấp nhận không cải cách để bảo vệ “chân lý” của mình. Sự bảo thủ và thiếu tư duy phê phán cuối cùng đã dẫn đến cái mà người Trung Quốc thường gọi là “một thế kỷ ô nhục”. Đây là bài học đáng để chúng ta suy nghĩ trong lúc này, khi cải cách về mọi mặt: giao thông, giáo dục, y tế, kinh tế đang hết sức cấp bách.

Có lẽ bức tranh về nền giáo dục Việt Nam cháu vẽ ra tồi tệ hơn so với thực tế. Có lẽ cháu đã nói hơi quá lên và phóng đại những cái xấu lên nhiều lần so với mức thực tế. Và hơn gì hết, cháu mong đó là sự thật bởi như vậy thì vẫn còn chưa quá muộn, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi giáo dục. Hơn lúc nào hết, cháu mong Bộ trưởng hãy tìm mọi cách để đẩy mạnh tư duy phê phán trong nhà trường.

Ngô Di Lân (20 tuổi) đang là sinh viên năm thứ 2 ngành Quan hệ quốc tế ở ĐH Maastricht (Hà Lan). Từ lớp 1 đến lớp 8, Lân học ở Việt Nam. Năm lớp 9 em sang Thuỵ Điển học và sau đó nhập học ĐH Maastricht. Học kỳ này Lân đang học ở Mỹ theo chương trình trao đổi và tháng 8 quay về Hà Lan để năm sau thi tốt nghiệp.

Ngô Di Lân

2015: Trật tự thế giới mới

2015: Trật tự thế giới mới

Nguoi-viet.com

Việt Nguyên/Người Việt

Bốn mươi năm trước, Hoa Kỳ không giữ lời hứa với chánh quyền VNCH để Việt Cộng vi phạm hiệp định Paris 1973, kết quả là quân Cộng Sản tiến chiếm Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam ngày 30 tháng 4, 1975.

Sau chiến thắng, đảng CSVN huênh hoang: Ðế quốc Mỹ đại bại, chiến tranh Việt Nam báo hiệu ngày tàn của Ðế Quốc Mỹ, chiến lược toàn cầu của Mỹ phải thay đổi, xã hội chủ nghĩa sẽ toàn thắng trên khắp thế giới với chủ thuyết tất thắng Mác Lê Nin.


Sức mạnh quân sự và văn hóa Hoa Kỳ vẫn tiếp tục trấn áp các quốc gia trên thế giới. (Hình: Getty Images)

Hoa Kỳ bỏ đồng minh VNCH năm 1975, tái phối trí để nhắm về khối Xô Viết. Thất bại ở Việt Nam là thất bại tạm thời của Hoa Kỳ. Việt Nam Cộng Hòa bị tư bản Hoa Kỳ bán đi như bán cổ phần của một công ty bị thua lỗ trong thị trường chứng khoán để giữ lại các cổ phần các công ty tốt. Huênh hoang sau chiến thắng, Cộng Sản Việt Miên Lào bị cô lập. Mười bốn năm sau các chính quyền Ðông Âu sụp đổ bắt đầu từ Ðông Ðức với bức tường ô nhục Bá Linh bị giật sập. Hai năm sau Xô Viết tan rã. Mười năm sau, biến cố 11/9 ở Nữu Ước đưa đến chiến tranh A Phú Hãn năm 2001, tiếp theo là chiến tranh Iraq năm 2003. Hoa Kỳ lún sâu ở Trung Ðông năm 2015, Nga với Putin làm lộng ở vùng Hắc Hải, Trung Cộng đang lên với quyền lực quân sự và kinh tế đi dọa các nước làng giềng ở biển Ðông và Nam Thái Bình Dương, một lần nữa thế giới lại đặt vấn đề “Ðế Quốc Mỹ đang giãy chết như Ðế Quốc Anh sau Thế Chiến Thứ Hai.”

Từ sau Thế Chiến Thứ Nhất, hơn 100 năm bộ mặt chánh trị Hoa Kỳ không thay đổi dù chánh quyền dưới sự lãnh đạo của các tổng thống đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa. Từ sau Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ vẫn đứng vững dù Xô Viết biến thành Nga hay chiến tranh nóng tiếp diễn trên nhiều phần đất trên thế giới dưới nhiều hình thức tôn giáo, chủng tộc, độc tài, v.v… Hoa Kỳ chỉ bị đứng khựng hay thối lui nhiều lần trong các thập niên 1960, 1970, 1980 ngoài thất bại ở Việt Nam năm 1975. Bước lùi rõ rệt nhất là ở Nam Mỹ từ Nicaragua, Venezuela, Brazil, Ecuador, Bolivia hay Mexico nhưng những bước lùi ấy nặng về chánh trị và ý thức hệ hơn là về kinh tế. Các quốc gia Brazil, Venezuela nghiêng về dân chủ xã hội chủ nghĩa nhưng không đối đầu được với nền kinh tế tư bản của anh Hoa Kỳ khổng lồ ở Bắc Mỹ nói chi là các nước nhỏ như Ecuador hay Bolivia. Ngay đến Mexico một nước lớn cũng không đứng độc lập được với Hoa Kỳ.

Sức mạnh quân sự và văn hóa Hoa Kỳ trấn áp các quốc gia trên thế giới. Giới trẻ yêu chuộng văn hóa Mỹ từ phim ảnh, văn chương cho đến âm nhạc. Hoa Kỳ vẫn giữ các căn cứ quân sự trên toàn thế giới với con số không ai rõ ngay cả đến ông Ron Paul cựu ứng cử viên tổng thống đảng Cộng Hòa chỉ ước tính 900 căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên toàn thế giới trong 130 quốc gia ngược với thống kê khác trên 148 quốc gia với hơn 160,000 lính thường trực can thiệp bất cứ lúc nào bất cứ nơi nào khi quyền lợi của Hoa Kỳ bị thách thức, những căn cứ quân sự trong thới chiến tranh lạnh không bị hủy bỏ cũng như quân Hoa Kỳ vẫn chiếm đóng vùng phi quân sự giữa Nam và Bắc Hàn dù hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp vào Bắc Hàn.

Khối Liên Hiệp Âu Châu với 28 thành viên tạo được một hệ thống liên quốc gia với các cơ sở tài chánh và chánh quyền như Hội Ðồng Liên Hiệp Âu Châu, Tòa Án Âu Châu, Ngân Hàng Trung Ương từ năm 1993 có cả công dân Âu Châu với đồng Âu Châu vẫn không độc lập với Hoa Kỳ. Chủ quyền của các nước Âu Châu chỉ đứng trên bề mặt. Sau Chiến Tranh Lạnh, Ðức trở thành quốc gia hùng mạnh nhất Châu Âu về mặt kinh tế và chiến lược với bà Angela Merkel làm thủ tướng vẫn bị Hoa Kỳ chi phối trên nhiều lãnh vực nhất là lãnh vực quân sự. Bà Angela Merkel đã nhũn nhặn từ chối lãnh đạo liên hiệp Âu Châu dù Ðức đang dẫn đầu Châu Âu về kinh tế. Bà đứng trung gian hòa giải giữa Hoa Kỳ và Nga, một phần bà học bài học của Hilter hồi Thế Chiến Thứ Hai một phần vì sức mạnh quân sự của Ðức đứng dưới cả Nam Hàn.

Anh vẫn tự hào độc lập với Hoa Kỳ, là đồng minh xuyên Ðại Tây Dương, nhưng qua các trận chiến ở A Phú Hãn và Iraq, thủ tướng Tony Blair đi theo sự lãnh đạo của Hoa Kỳ như một nước chư hầu.

Khối Âu Châu với đồng Euro tùy thuộc Hoa Kỳ khi cơn khủng hoảng tiền tệ xảy đến cho Hy Lạp. Trong hồi ký mới năm 2014, cựu Bộ Trưởng Tài Chánh Hoa Kỳ Timothy Geithner đã tiết lộ là các nhà lãnh đạo Âu Châu đưa giải pháp cứu Hy Lạp với số tiền rất nhỏ, Hoa Kỳ phải ra lệnh Âu Châu “bơm” 500 tỷ Euros vào kinh tế Hy Lạp. Với cơn khủng hoảng mới ở Hy Lạp của chánh quyền Syriza, liên hiệp Âu Châu tiếp tục làm theo những gì Hoa Kỳ yêu cầu.

Chiến tranh A Phú Hãn và Iraq, được gọi là chiến tranh chống khủng bố từ thời T. T. George W. Bush. Chiến tranh ấy cho thấy Hoa Kỳ lún sâu ở Trung Ðông. Chương trình xây dựng quốc gia A Phú Hãn và Iraq của Hoa Kỳ thất bại ngay từ bước đầu khi Hoa Kỳ giải tán quân đội Iraq sớm. Các nền tảng xã hội căn bản bị phá vỡ. Giống như ở Việt Nam trước 1975, chánh phủ Hoa Kỳ kết tội chánh quyền A Phú Hãn tham nhũng. Hoa Kỳ không thành công trong việc xây dựng quốc gia dân chủ tự do nhưng Hoa Kỳ đã thành công chia rẽ thế giới Hồi Giáo và Á Rập, chấm dứt tinh thần quốc gia của của khối Á Rập.

Chiến tranh chống khủng bố thất bại. Bin Laden bị giết nhưng nhóm quốc gia quá khích khủng bố Hồi Giáo ISIS xuất hiện lớn mạnh. Quốc gia Hồi Giáo Iraq (Islamic State of Iraq, ISI) sau thêm Syria vào thành ISIS đôi khi gọi là ISIL (Levant, bao gồm rộng hơn gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Do Thái, bán đảo Á Rập và Lebanon) cầm đầu bởi Abu Musab al – Zarqawi người Jordan phụ tá cho Bin Laden, khối Hồi Giáo Sunni chủ trương giết hết Hồi Giáo Shia. Zarqawi muốn thành lập quốc gia Hồi Giáo thay cho đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) từ khi đế quốc nay sụp năm 1912. Ða số Hồi Giáo muốn có quốc gia Hồi Giáo kể cả Nam Dương (62% ủng hộ). ISIS đã kiểm soát được diện tích vùng Tây Iraq và Bắc Syria lớn hơn cả nước Anh, quân đội gia tăng dù Hoa Kỳ tăng gia đánh bom. Từ 15 tháng sáu, ISIS kiểm soát thành phố Mosul lớn thứ hai sau thành phố Baghdad, Iraq. ISIS cai trị bằng chánh sách đàn áp, công an trị cùng các biện pháp dã man như Cộng Sản vào thời kỳ quá độ Mao, Stalin, Hồ Chí Minh. Dân Iraq thích ISIS vì thuế đánh nhẹ 2.5%, không còn thấy hỗn loạn và tham nhũng như chánh quyền Iraq.

Trung Ðông tan vỡ từ sau Thế Chiến Thứ Nhất lại tan vỡ hơn từ khi Hoa Kỳ can thiệp vào Iraq. Cách Mạng Mùa Xuân Á Rập bây giờ đã vào quá khứ. Syria có thể chia 3, Iraq cũng có thể thành 2 hay 3 quốc gia. Hoa Kỳ ủng hộ Hồi Giáo Shia ở Iraq chia rẽ Sunni. Xem Iran (đa số Hồi Giáo Shia) là quỷ chỉ có hại cho Hoa Kỳ vì không có sự ủng hộ của Iran Hoa Kỳ không cai trị được Iraq, chỉ có Iran ra lệnh cho lãnh tụ Shia Muqtada al – Sadr cộng tác với Sunni, không có sự cộng tác của Iran Hoa Kỳ không ổn định được A Phú Hãn và Iraq. Hiệp ước về nguyên tử với Iran ngày 2 tháng 4, 2015, có nhiều điều khoản khó thực hành nhưng hiệp ước phá vỡ chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Iran trong 36 năm. Chấm dứt chiến tranh lạnh với Iran, Hoa Kỳ bớt lệ thuộc vào dầu hỏa của Saudi Arabia và nội chiến Syria và Yemen ở Trung Ðông có thể kết thúc. Hoa Kỳ từ trước đến nay vẫn giữ tiêu chuẩn kép ở Trung Ðông, với hiệp ước nguyên tử Israel không độc quyền vũ khí nguyên tử, một vũ khí quốc gia nào cũng muốn nhưng có rồi không ai dám xài! Hoa Kỳ gây rối ở Trung Ðông mở cánh cửa cho Trung Cộng. Trong khi Putin đã bớt áp lực quân sự ở Ukraine vì giá dầu xuống và vì áp lực của Âu Châu, Trung Cộng thừa nước đục thả câu nhảy vào Trung Ðông. Sau khi TT Obama gia tăng thời hạn rút quân ở A Phú Hãn, TT Ghani qua Bắc Kinh được Tập Cận Bình gọi “Ghani là bạn cũ của Dân Trung Hoa,” thời đại cộng tác mới bắt đầu với 327 triệu Mỹ Kim viện trợ cho A Phú Hãn đến năm 2017. Công ty đồng (China Corporation Copper) ký khế ước 4.4 tỷ trong khi 70 công ty Mỹ chỉ có khế ước 75 triệu Mỹ kim. Trung Cộng biểu diễn quyền lực mềm với sức mạnh kinh tế gây lo ngại cho các quốc gia láng giềng đang phát triển nhưng cái họa da vàng Trung Quốc còn xa. Kinh tế Hoa Kỳ và Trung Cộng tùy thuộc lẫn nhau, giới lao động làm việc cho tư bản Mỹ nằm ở Trung Hoa. Tất cả con số về kinh tế cho thấy Trung Cộng vẫn thua xa Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vẫn đứng đầu trên các lãnh vực dược phòng, không gian, điện toán, dụng cụ y khoa. 100 đại công ty trên thế giới không có tên công ty Trung Hoa. Công ty xuất cảng hàng đầu của TH do ngoại quốc làm chủ. Ở Hoa Kỳ số triệu phú là 42.5%, Nhật 10.6%, Trung Hoa 9.4%, Anh 3.7%, Thụy Sĩ 2.9%, Ðức 2.7%, Ðài Loan 2.3%, Ý 2%, Pháp 1.9%. Sức mạnh mềm thua Hoa Kỳ còn tiềm lực quân sự của Trung Cộng chỉ dọa các nước láng giềng như Việt Nam, chưa so được với tiềm lực quân sự của Hoa Kỳ.

“Trong cái mạnh, có cái yếu.” Trung Cộng đang lên nhưng Tập Cận Bình trong bụng đã có mối lo. Nền kinh tế lớn nhất thế giới là nền kinh tế đang có chiều đi xuống. Trong quí chót năm 2014, có nhiều hãng xưởng đã không trả tiền cho công nhân, biểu tình chống đối đình công 3 lần nhiều hơn so với cùng thời kỳ năm 2013. Kinh tế Trung Hoa có thể đi xuống nhanh hơn dự tính mặc dù hãng xưởng sản xuất vẩn đứng đầu thế giới, công nhân già nhanh kém sản xuất vì chính sách một con, nhiên liệu nguyên liệu ít dần mặc dù chánh quyền Trung Cộng khai thác tài nguyên ở Phi Châu. Tiền vay của các hãng lên cao hơn lợi tức trong khi Tập Cận Bình thành lập ngân hàng phát triển, quỹ xây dựng hạ tầng đường lụa, (Silk Road) ngân hàng xây dựng hạ tầng Á Châu tổng cộng 240 tỷ Mỹ Kim, với sự cổ võ của Henry Kissinger, để thay thế ngân hàng và quỹ tiền tệ thế giới.

Cầm đầu đảng Cộng Sản với hơn 80 triệu đảng viên, Tập Cận Bình được gọi là Tập Ðại Ðại, như đại ca của Mafia, giữ hơn 10 chức vụ từ chủ tịch nhà nước, tổng bí thư Ðảng, chủ tịch ủy ban quân quản, chủ tịch ủy ban ngoại giao, kinh tế, an ninh, quốc phòng, công an nhân dân, mạng thông tin. Sự rối loạn đến từ trong nội bộ. Như Người hùng của họ Tập là Tống Giang trong truyện Thủy Hử, có tinh thần cầm đầu đảng cướp Tập Cận Bình chống dân chủ hóa như Hoa Kỳ. Trong hai lần họp với phó Tổng Thống Joe Biden năm 2011 và 2012 Tập Cận Bình đã tuyên bố không chấp nhận giá trị dân chủ Tây Phương và nhân quyền. Thanh trừng nội bộ đảng, họ Tập nhà độc tài nhất từ sau Mao Trạch Ðông đã điều tra trên 10,000 cán bộ, trong năm 2014 hơn 100,000 đảng viên cao cấp mất chức vì tội tham nhũng nhưng thật sự tham nhũng chỉ là cớ để loại chân tay bè đảng không trung thành.

Trong nội bộ chủ tịch Tập Cận Bình cảnh cáo “Mỹ đang toa rập lật đổ chế độ CSTQ qua diễn tiến hòa bình” nên từ đầu năm 2015 Tập Cận Bình đã cho thấy bàn tay sắt, đóng mạng lưới chống đối nhiều hơn năm 2014, đối lập không có chỗ đứng trong “xã hội hài hòa.” Các cơ quan vô vị lợi NGO bị xem là tay chân của bọn Mỹ, các hãng Microsoft, Cisco, Intel là “chiến sĩ của chánh quyền Hoa Kỳ,” CIA và cơ quan dân chủ NED đứng đằng sau các cuộc biểu tình đòi Dân Chủ ở Hồng Kông (cách mạng Dù) và ở Ðài Loan. Tập Cận Bình độc tài đứng một mình vì “Xô Viết đã sụp đổ năm 1991 là vì không có kẻ nào mạnh đứng đối đầu chống lại bọn phản động.”

Ðối ngoại, với các nước láng giềng Tập Cận Bình như bọn cướp Lương Sơn Bạc. Cộng tác với Nga nhưng từ từ bỏ Putin sau khi Nga gây chiến tranh ở Ukraine, trục lợi qua chánh sách cô lập kinh tế của Putin, Tập Cận Bình quay mặt về Hoa Kỳ yêu cầu TT Obama “lập quan hệ song phương bình đẳng mới” nhưng TT Obama đã từ chối không chấp nhận chánh sách của Trung Cộng chiếm những hòn đảo và tranh chấp biển Ðông. Chánh sách cướp dần từ không phận, hải phận, xây giếng dầu, xây phi trường trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các đảo trên vùng Nam Thái Bình Dương, đã bị TT Obama chánh thức phản đối.

Hiểm họa độc tài của Tập Cận Bình đã khiến các đảng viên CSTQ trung kiên lo sợ, theo chu kỳ Trung Hoa sẽ có một cuộc cách mạng đẫm máu. Họ chủ trương thay vì đóng cửa với thế giới bên ngoài và đe dọa các nước láng giềng, Trung Hoa cần thay đổi chế độ bằng phương pháp hòa bình biến đảng CSTQ thành đảng xã hội cánh tả như các đảng xã hội ở các nước Tây Phương. Giai cấp trung lưu đang lên ở Trung Hoa không phải là đối tác đáng tin cậy cho đảng CS.

Thế giới cố dự đoán “Ðế quốc Mỹ đang giãy chết” nhưng như Frederick Hayek, kinh tế gia giải Nobel, nhận định: “kinh tế chỉ huy luôn luôn thất bại.” Con đường kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa của TC đang giẫy chết trước khi đế quốc Mỹ giẫy chết.

Cuộc tái định cư của cựu tù nhân chính trị

Cuộc tái định cư của cựu tù nhân chính trị

Nguoi-viet.com
Nhìn lại quãng đường tị nạn và hội nhập


Huy Phương & Võ Hương-An

(Chân Dung H.O. & Những Cuộc Ðổi Ðời)

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cộng Sản Bắc Việt, tức nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, núp dưới ngụy danh Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đã cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa và cai trị đến nay vừa đúng 40 năm (1975-2015).

Trong 40 năm độc tài toàn trị, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã lập nên nhiều “thành tích” đáng xấu hổ trong lịch sử dân tộc cũng như trước mắt quốc tế, trong đó có hai “thành tích” lớn tới mức đánh động lương tâm dân tộc các nước dân chủ văn minh, khiến họ phải ra tay can thiệp. Ðó là việc bỏ tù hàng trăm ngàn người thua cuộc trong các nhà tù khổ sai, ngụy danh là trại cải tạo, mà không xét xử; và tạo nên một xã hội áp bức trong đói kém, bần cùng, khiến cả triệu người phải bỏ nước ra đi để tìm tự do, bất kể hiểm nguy đến tính mạng.

Gia đình H.O. Phan Cảnh Cho và H.O. Hoàng Văn Ngọ được nhân viên
thiện nguyện Hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị Nam Cali đón tiếp
ngày 20 tháng 7, 1993 tại phi trường John Wayne. Chú ý đến chiếc
rương sắt (X) phía dưới, vật dụng lên đường quen thuộc của nhiều
gia đình H.O. (Ảnh tài liệu do Huy Phương cung cấp)

Chưa có một nước nào trên thế giới mà sau một biến động quân sự và chính trị lại đưa tới những làn sóng di dân tị nạn ào ạt lên đến hàng triệu người như Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, khiến thế giới phải phát sinh ra những từ ngữ mới để nói lên thực trạng bi thảm đó. Họ gọi những người liều chết ra biển lớn tìm tự do trên những con thuyền mỏng manh bất chấp sóng gió, hải tặc, là những boat people (thuyền nhân) và thời đại này của Việt Nam là the age of uprooting (thời đại trốc rễ). [1] Họ học được những từ ngữ mới, như trại tù khổ sai thì Cộng Sản gọi là trại học tập cải tạo, re-education camps và tù nhân được gọi là học viên! Thật là mỉa mai chữ nghĩa!

Lịch sử tị nạn Việt Nam hoặc lịch sử cộng đồng người Việt hải ngoại vào hậu bán thế kỷ XX là một đề tài lớn, đòi hỏi sự nghiên cứu lâu dài và rộng rãi. Cuộc tái định cư của cựu tù nhân chính trị (ex-political prisoners) hay cựu tù cải tạo (ex-reeducation camp detainees) và gia đình, thường được gọi một cách dung dị là “đi H.O.” (đọc: hát-ô).

“Tại sao và từ bao giờ chúng ta có mặt trên nước Mỹ?” Tại Hoa Kỳ, sau tháng 4 năm 1975, mới chỉ có khoảng 125,000 người Việt, là số tị nạn đầu tiên do Hoa Kỳ giúp di tản hoặc tự tìm đường thoát thân khi Sài Gòn hấp hối; đến năm 1980, con số này lên 231,000 người; và đến năm 2012, cộng đồng Việt Nam tại Mỹ lên đến gần 1.3 triệu, trở thành di dân Châu Á đông vào hàng thứ 4 của nước Mỹ, chỉ sau Ấn Ðộ, Philippines và Trung Quốc. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ chiếm hơn một nửa tổng số người Việt có mặt trên thế giới và 72% trong số này đã mang quốc tịch Hoa Kỳ.[2]

Thành phần tạo nên cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ gồm có:

– Thuyền nhân (vượt biên, vượt biển);

– Ðoàn tụ gia đình;

– Con lai;

– Cựu nhân viên chính phủ Mỹ, cựu nhân viên sở Mỹ;

– Cựu tù nhân chính trị (cựu tù cải tạo), thường được gọi là thành phần H.O.

Có thể nói rằng nước Mỹ là xứ sở của di dân và tị nạn. Ðầu thập thập niên 1990, sự nhập cư của lớp cựu tù chính trị và gia đình đã đẩy số người Việt di dân lên cao rõ rệt, và sau vài năm bở ngỡ, lúng túng ban đầu trong việc điều chỉnh cuộc sống mới trên đất mới, những gia đình H.O. bắt đầu đi vào ổn định nơi ăn chốn ở, học hành và công ăn việc làm. Lần hồi, bước vào thế kỷ 21, di dân tị nạn H.O. bắt đầu vươn vai đứng dậy, có những đóng góp cho quê hương mới cả về vật chất cũng như trí tuệ, khi lớp con cái H.O. được trang bị kiến thức đầy đủ ngang tầm cở bản xứ, đã hội nhập một cách tự tin và bình đẳng.

Mỗi một tù cải tạo là một số phận. Ðến khi được trở thành một H.O. và cùng gia đình đi tái định cư tại Hoa Kỳ cũng là mỗi H.O. một số phận. Có thể nói cuộc đời của mỗi H.O. mang dấu ấn hai lần “cải tạo” với ý nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau.

Lần đầu, CSVN “cải tạo” trong ý đồ tiêu diệt bằng cách đầy đọa tù nhân cho chết dần chết mòn trong tù để khỏi mang tiếng tàn bạo, dã man, đối với thế giới. Nếu người tù may mắn sống sót trở về với gia đình thì ý chí tự do, quật cường cũng đã bị thui chột để chỉ còn là một kiếp sống thừa; thêm vào đó, chính sách cải tạo cũng gián tiếp bần cùng hóa gia đình tù cải tạo bằng sự phân biệt đối xử ngoài xã hội.

Lần “cải tạo” thứ hai, do Hoa Kỳ chủ trương, nhằm giúp đở tái tạo người cựu tù chính trị và gia đình, tái lập một cuộc đời mới, đầy đủ nhân cách và phẩm giá, với mọi điều kiện thuận lợi trong xã hội mới để khả dĩ vươn lên.

Trong khi cùng chịu chung một chính sách ngục tù nhưng mỗi một tù nhân là một số phận, mỗi một trại cải tạo là một thế giới, thậm chí, cái thế giới bé nhỏ đó khi thay đổi người điều hành hay thay đổi nơi chốn, cũng có thể trở thành là địa ngục trần gian hay một nơi giam giữ còn tính người, có thể sống qua ngày, nghĩa là có đa dạng tù đày.


Chú thích:

[1]: Hataipreuk Rkasnuam and Jeanne Batalova, Vietnamese Immigrants in the United States, http://www.migrationpolicy.org/article/vietnamese– immigrants- united- states

[2]: http://www.vietnam.ttu.edu/resources/vietnamese– american.php

Trăng đang nằm trên sóng cỏ,

“Trăng đang nằm trên sóng cỏ,”

Cỏ đùa trăng đến bên ao,

Trăng lại đẫm mình xuống nước,

Trăng nước đều lặng nhìn nhau.

Đôi ta bắt chước thì sao?””

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch

Bắt chước thì sao”? Mấy năm về trước, tôi có dịp cũng đi xem nghệ sĩ bi hài thuộc Dòng Tên, là Michael Moynahan trình diễn vở kịch câm mang tựa đề “Bi hài và nỗi thống khổ”, kể về giờ phút cuối của Đức Kitô ở trần thế. Vào kịch, là sự xuất hiện của một anh hề với nụ cười quên tắt trên môi. Anh biểu diễn các màn tung bóng ngay trước mặt khán giả, rất đẹp mắt.

Tiếp đó, là cảnh đám quân binh bước đến, dẫn Đức Kitô ra trình diện bá quan thiên hạ; để rồi, bọn họ đóng đinh Ngài lên cây khổ giá hình chữ thập. Tay hề chứng kiến cảnh tượng đầy kịch tính ấy với nỗi niềm sao xuyến, hãi sợ. Khi thấy Đức Kitô thực sự đã chết, đám quân binh ra về, không đợi gì thêm.

Nhưng, tay hề vẫn nán lại, ngồi bệt xuống dưới chân khổ giá. Anh bắt đầu gỡ bỏ các dấu đinh còn sót nơi tay và chân Chúa. Xong, đặt thi hài Ngài nằm sõng lên đùi anh, hệt như bức la Pietà nổi tiếng của nhà điêu khắc Mi-Kê-Lăng-Gê-lô.

Tay hề xót xa, rơi nước mắt khi phải chứng kiến cái cảnh Đấng Công Chính bị đóng đinh trên khổ giá, hình chữ thập. Cùng lúc ấy, đám quân binh quay lại, thấy tay hề còn ngồi đó thẫn thờ khóc cho thân phận của Đức-Chúa-làm-người. Chúng vực xốc anh dậy, đóng đinh anh lên cây thập tự thay cho Chúa. Tay hề đau đớn, chịu đựng được một lúc, rồi cũng trút hơi cuối cùng trên thập tự bằng gỗ cứng. Sần sùi.

Khi quân binh đi rồi, Đức Chúa trỗi dậy, Ngài trở về với sự sống khác thường. Ngài hướng mắt nhìn tay hề đã cùng chịu cũng một thân phận khổ ải như Ngài, bèn đến gỡ bỏ các đinh khoen đóng xác, đỡ anh xuống. Ôm gọn anh vào lòng, cứ để như thế mãi chốn thiên thu, miên trường.

Xem trình diễn vở kịch câm hôm ấy, tôi thấy như có tiếng thở dài rơi lệ, ở đâu đó nơi người dự khán. Chẳng có ai trong họ, lại cứng lòng đến độ trơ như đá; hoặc, không nhỏ giọt lệ ướt mi, trước bi hài kịch đầy xót thương. Ai oán.

Thật ra, chữ “xót thương” là cụm từ lấy từ tiếng “Compati” của La ngữ, mang ý nghĩa chịu đựng. Khổ ải. Tuyệt nhiên, cụm từ này không mang ý nghĩa thương hại, đồng cảm; hoặc sớt chia nỗi buồn bực, gì hết. Cũng vậy, cụm từ “buồn bã”, “xót xa” bên tiếng Việt lại bao hàm lập trường xa cách.

Đứng ở ngoài. Chẳng có liên hệ mảy may nào dính dự đến kinh nghiệm bản thân; hoặc, những cảm xúc hướng vào bên trong. Cụm từ ‘xót thương’, mang nặng một ‘cảm xúc’ của những người đồng cam đồng chịu, cũng một thân phận. Thân phận, mà Vị Mục Tử Nhân Hiền đã tự gánh lấy cho Ngài. Và, đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa Phục Sinh, rất hôm nay.

Giả như, ta xứng đáng để trở thành những người dám dấn bước, theo chân Đức Kitô, hẳn là ta cũng sẻ san cùng một tâm trạng, ngày Thứ Sáu Chịu nạn. Tuy thế, Chúa Nhật Phục Sinh, nay mang ý nghĩa thật rõ nét. Đó là: Chúa Cha đã trung tín với Con Một Ngài thế nào, thì Ngài cũng một lòng chung thủy đối với ta, hệt như thế.

Những năm tháng gần đây, nhiều vị Giám mục, vẫn được gọi là Mục tử nhân hiền ở giáo hội địa phương. Các ngài cũng bị chĩa mũi dùi, nhìn xoi mói khía cạnh đời sống tu đức của mỗi vị. Việc bị quan tâm/lưu ý như thế, cũng chẳng có gì là lạ. Bởi, tất cả chúng ta, dù ở cương vị nào đi nữa, vẫn đang sống cuộc đời của đạo-hữu chân-chính dõi bước chân mềm, đi theo Chúa.

Theo Chúa, còn có nghĩa là: nhận lãnh trách nhiệm, về những gì mình đã làm, và cả những gì mình không chịu làm. Xét như thế, các mục tử ở giáo hội địa phương, cũng không nằm trường hợp ngọai lệ.

Quả thật, các mục tử nhân hiền ở địa phương đã phải trải qua nhiều thời kỳ cam go, buốt óc. Đàn chiên dân Chúa, nay được huấn luyện theo tiêu chuẩn khá cao. Chẳng ai còn chịu để cho đấng chăn dắt mình, bắt phải rập khuôn, duy trì não trạng của thú đàn, vô tri giác. Không. Ai trong chúng ta cũng muốn biết về vị mục tử chăn dắt mình. Ai cũng muốn nghe tiếng mời gọi thân thương của các vị đang chăn dắt.

Thân thương, là tình thân biểu lộ ra ngoài lòng thương yêu, ta cần có. Biết quan tâm phấn đấu, đòi thực hiện cho bằng được sự chính đáng, công bình đến với các nạn nhân, ở khắp nơi. Đặc biệt hơn, là: nạn nhân đang bị chính Giáo hội mình làm cho thương tật.

Hẳn là, ai cũng muốn cam kết rằng: những gì vị mục tử nhân hiền ở địa phương phán quyết hoặc hành xử, nhất nhất đều phải rập khuôn lời lẽ và cử chỉ hiền hậu của Đức Chúa, tức Vị Mục Tử Nhân Hiền rất đích thực.

Những năm về trước, hẳn chúng ta có cảm giác choáng váng, thất vọng khi thấy một số –cũng may còn rất ít -các vị mục tử ở địa phương lợi dụng danh thơm tiếng tốt của Giáo hội, đã nhân danh quyền lực và vị thế xã hội của Đạo mình, đã lấy đi gương lành đạo đức lẫn nghĩa vụ pháp lý, tài chánh để rồi đã khiến cho thành viên trong đàn chiên bé nhỏ, đang bị thương tổn.

Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan nhắc nhớ ta về vai trò và bản chất cần có của các vị lãnh đạo trong Hội thánh Chúa. Đức Giêsu không so sánh các vị lãnh đạo ấy như ông hoàng bà chúa nơi cung điện cao sang, quyền quý hoặc như thống đốc, quan toàn quyền ở tiểu bang. Hình ảnh Chúa đưa ra hôm nay, là: vị mục tử thân thương, nhân hiền.

Mục tử, chính là người chăn dắt rất tận tình, thật dễ thương. Các vị này, dám ngủ lại với đàn chiên nhỏ bé của mình, cả vào chốn đồng hoang trống vắng, rất hiểm nguy. Mục Tử Nhân hiền mà Đức Ktiô ám chỉ, là người biết rất rõ chiên đàn của mình. Rõ đến độ, Ngài dám hy sinh cuộc sống của mình, cho bầy đàn mình chăn dắt.

Tham dự Tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho chiên đàn mình có lãnh đạo xứng đáng với lòng ngưỡng mong. Cầu mong sao, các vị lãnh đạo có lòng nhân thân thương trong sáng, biết khơi dậy nơi ta cũng một tình cảm, như các ngài đã ứng xử với chiên đàn bé nhỏ, của mình. Có như thế, các ngài mới đích thực là Mục tử thân thương, nhân hiền.

Có như thế, mới là lãnh đạo “chính chuyên”. Công chính. Biết ân cần phục vụ. Phục vụ, để đàn chiên mình luôn vui sống. Sống an vui, hiền hoà. Ân cần, trước mọi nhu cầu thiết thực của đàn chiên bé nhỏ. Nhất là lúc này, khi bầy lang sói vẫn rình rập, ở đâu đó. Thứ sói lang mang hình thù, mã số rất thời thượng, những Dan Brown, Tom Hanks ở sân khấu-cuộc đời, đầy nhiễu nhương.

Lm Richard Leonard sj –

Mai Tá lược dịch

Ngồi, dưới trăng lắng im nghe lòng ta,

“Ngồi, dưới trăng lắng im nghe lòng ta”,

Thổn thức bao chuyện ngày qua… sầu đau

Hỡi người dấu yêu, sao đành nỡ quên…

Sao đành tình ta vỡ tan, như cánh chim lìa bay?

(Breakfast at Tiffany’s Moon River – Phạm Duy: Dưới Trăng)

(2Cor 13: 5-10)

Trần Ngọc Mười Hai

Thật ra thì, có “ngồi dưới trăng lắng im nghe lòng ta” cách mấy đi chăng nữa, đã chắc gì mình thấy lại được hồn mình đang “thổn thức bao chuyện ngày qua…sầu đau”, đâu chứ!

“Sầu đau” không, vẫn là chuyện của người viết khi ông lại đã hát thêm, rằng:

“Lòng, đắm say những khi ta gần nhau,

Ngồi dưới ánh trăng dịu êm ….cùng mơ.

(Dưới Trăng – bđd)

Ấy đấy, là vấn đề. Sầu đau hay buồn vương, chán chường vẫn là chuyện thời đại, của nhiều người. Những chuyện như thế, nay len lỏi vào tâm tư các vị xưa nay từng sống với quyền-cao-chức-trọng, cũng hệt thế.

Sầu đau hôm nay, có thể là chuyện vẫn xảy đến với nhà Đạo, khi nhiều vị ở đó vẫn quan-tâm đến chuyện phù-phiếm, chóng qua như so-sánh chuyện nổi-danh/nổi-tiếng hoặc nổi cộm được toàn thế-giới hâm-mộ, như hôm rồi nhà báo Úc, viết những giòng như sau:

“Sau 2 năm vẫn ‘trụ’ ở cương vị giáo-chủ cả một đạo, Đức Phanxicô nay đạt tỷ-lệ nổi tiếng/mến-mộ đến 90%, vượt xa Đức Bênêđíchtô 16 và coi là đấng được nhiều người ưu-chuộng nhất hành-tinh.

Đức Phanxicô dự-định ghé thăm thủ-đô Washington, New York và Philadelphia vào tháng 9 năm 2015, nên tin này đã làm người Mỹ tìm cách lập khảo-sát nhằm thu-thập số phiếu bầu ngài là “vị Giáo-hoàng được lòng người Mỹ nhất” lên đến 57% số phiếu bầu.

Theo hãng thăm dò dư-luận Pew Research Centre, thì tiếng-tăm của Đức Phanxicô nay gia-tăng rất nhiều nội hai năm qua. Từ ngày khởi-đầu triều-đại Giáo-hoàng, ngài khởi-phát chỉ mới 58% vào độ tháng 9/2013 nhưng đến năm 2014, tỷ-lệ này lên đến 66% và năm 2015 đạt 70%, ngay ngày đầu. Với người Công-giáo đi lễ đều đặn, thì các vị lại bầu cho Đức Phanxicô một tỷ-lệ đến 95% số phiếu tuyên-dương ngài là chủ chăn được người ưa-chuộng nhiều nhất. Và, trong số các người này, nhiều vị lại hoàn-toàn đồng-ý với ngài, trong mọi chuyện…

Theo nghiên-cứu/khảo-sát do công-ty Pew Research Centre thực-hiện từ ngày 18 đến 22 tháng Hai 2015 trên điện-thoại nhà và di-động đã chuyển đến 1504 người lớn tuổi trên toàn quốc đã nắm được con số trên.” (tin trên The Catholic Weekly 22/3/2015, tr. 15)

Bàn về chuyện người người rất ưa-thích Đức Phanxicô như thế quả quá đúng. Và ở đây, ta cũng không có gì để bàn cãi với tranh-luận. Thế nhưng, nếu cứ theo tin tức và bảng điểm do báo/đài truyền-thông Mỹ loan đi, thì chỉ như thế thôi.

Thế thôi, nghĩa là chỉ mỗi con số và con số nói lên cũng chỉ chút ít thực-tại, trong khi đó sự thật rất thực có thể lại rất khác. Thực-tại đích-thật khác, là ở chỗ: không thấy báo/đài nào chấm điểm hoặc so-sánh tính khiêm-nhu/lành-thánh của ‘đấng bậc’ ở chốn trời-cao-mây-trắng-toát-rất-tít-mù là Giáo hội Công-giáo của mình, hết.

Bởi, có làm thế cũng bằng thừa, vì: vào những tháng ngày gần đây, người đi đạo cũng nghe/biết nhiều về tình-hình phong thánh các đấng bậc lại đã gia-tăng nhiều đến độ có người gọi đó là “Lạm phát chất thánh”…

Gia-tăng như thế, nghĩ cũng phải, vì các ngài tuy chưa quá vãng hoặc đã xa lìa cõi thế-trần này những cũng được người đời gọi bằng danh xưng thật rất thánh quá mức đến nỗi các vị, khi được bầu làm giáo-chủ một đạo, là đạt ngay danh hiệu quí-hiếm: Đức “thánh” Cha, ngay thôi. Thế nghĩa là: các ngài dù chưa hoạt-động gì bao lăm cũng đã là thánh rồi, để rồi khi chết lại cũng trở-thành ‘thánh’, gấp đôi mà thôi.

Thôi thì, có gọi các ngài là Đức “thánh” Cha hay không, cũng đâu là chuyện quan-trọng. Điều quan-trọng với Giáo-hội hôm nay, là: Giáo-hội ta có còn đặt nặng khía-cạnh “quyền-lực” vào vị-thế của các đấng bậc đứng đầu một Giáo-hội hay không, mà thôi!

Bàn việc này, cũng nên tạt qua ý/lời của đấng bậc vi vọng cỡ bậc thầy thần-học ở chốn miền khá thấp nhưng lại là bậc thày của 4 đại học Công giáo ở Hoa-Kỳ đến 40 năm tròn, là Lm Kevin O’Shea CSsR, như sau:

“Bài Thương Khó do thánh Máccô ghi, khi nói Đức Giêsu bị giới quyền cao chức trọng người La Mã hạch-hỏi xem Ngài có đích-thực là Vua-dân-Do-thái, tức là người có quyền chức tương-đương nơi dân Ngài, không. Sở dĩ Philatô hỏi thế, là vì ông bị đám Do thái có quyền-chức là các thượng-tế trong đạo cứ bủa vây, xúi giục ông làm những việc như vậy. Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn lặng-thinh không nói lời nào, là bởi như ngôn-từ của Trình-thuật Tin Mừng cho thấy: Ngài không trả lời theo hướng họ đưa ra, vì Ngài không thuộc hệ-thống cầm-quyền như họ.

Đức Giêsu muốn giải-thoát nhân-loại không vì mục-đích đưa nhân-loại ra khỏi chốn “lỗi tội” mà còn đưa ra khỏi mạng-lưới quyền-lực vốn dĩ muốn gài bẫy những người cùng một vai-trò, ở trong đó. Điều này cho thấy: có nhận-thức đích-thực từ ảnh-hưởng của cơ-chế xã-hội trong mọi quyết-định về chính-trị.

Đặc quyền/đặc lợi, là cha đẻ ra quyền-lực, mà quyền-lực lại đẻ ra bức-bách, bức bách đẻ ra sức mạnh. Đương nhiên cùng một lúc, hệ-thống quyền-bính không buộc phải trở-thành một thứ “dê tế-thần” cốt bào-chữa cho các hành-xử của người có vai-trò lãnh-đạo, ở cấp cao. Nhưng, chính họ là người có bổn-phận đứng lên chống lại áp-lực của xã-hội như thế, trước mặt mọi cơ-chế bất công.

Thành-ngữ do thánh Máccô sử-dụng cốt để mai-mỉa/phản-bác lối khuynh-loát, cũng là ngôn-từ để nói rằng: thủ-lãnh cấp cao nơi công-quyền lại cũng là nô-lệ của nhiều thứ. Chương 10 câu 44-45 còn thấy đầy những ngôn-từ chính-trị mang tính hạt-nhân ban đầu, mà tiếng Hy-Lạp gọi là “protos”, vẫn ở cạnh chữ “nô-lệ”, tức “doulos”“diakonen”, tức “phục vụ”. Ngay chữ đầu đã có nghĩa trở-thành “nô-lệ” rồi. Quan-điểm này, thật triệt-để; do cụm từ “doulos” không chỉ nói về giai-tầng thấp ở cơ-cấu quyền-lực mà thôi, nhưng còn diễn-tả như sự trượt-vuột khỏi cơ-cấu nắm quyền và có uy-lực đầy mình. Từ-vựng ấy, cũng không diễn-tả giai-tầng cao xa nhất, hoặc giai-tầng thuộc loại thứ-yếu hoặc chót hết, hiểu theo nghĩa cơ-cấu quyền-lực. Đó, là thứ gì trái-nghịch hẳn. Là mặt trái, tức: thông-điệp đầy mỉa-mai/châm-biếm vốn dĩ nằm bên trong cơ-cấu quyền-lực rồi. Nói cách khác, đây thực sự là những người biến thành nô-lệ cho quyền-lực. Họ cần được giao cho đám thiếu quyền-lực nhất…” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR, Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài chan-chứa, Chương 2 phần 4, nxb Hồng Đức sẽ phát hành vào hạ tuần 4/2015)

Đề-cập đến vấn-đề Giáo-hội và quyền-lực, vẫn luôn là chuyện nóng bỏng, rất khó lòng. Khó, là bởi khi ai đó đã ở bên trong guồng máy có quyền và có lực rồi, thường sẽ có khuynh-hướng hỗ-trợ cả hai bên, tất tần tật. Nói thế, tức diễn tả cách nào đó để bảo rằng: đôi bên đều như nhau và ngang nhau.

Đề-cập chuyện thế-quyền và thần-quyền, là ta đi vào những chuyện nóng bỏng, càn dễ “cháy” hơn nữa. Cháy, cả trong lẫn ngoài. Cháy, từ trên xuống dưới, mà ngôn-ngữ đời thường vẫn bảo đụng vào sẽ “từ chết đến bị thương, thôi.”

Thật ra thì, đề-cập đến sự nổi tiếng khi nắm gọn vai trò chóp bu ở thế-quyền hay thần-quyền cũng đừng quên lời Đấng Thánh-hiền còn đó, vẫn gọi mọi người hãy đọc đi rồi tự xét, như sau:

“Anh em hãy tự xét xem

mình có còn sống trong đức tin hay không.

Hãy tự kiểm điểm.

Anh em chẳng nhận thấy là

có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?

Trừ phi anh em đã thua trong cuộc kiểm điểm này.

Tôi hy vọng rằng anh em sẽ nhận thấy

là chúng tôi đây không bị thua.

Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa

cho anh em đừng làm điều gì trái,

không phải để tỏ ra chúng tôi thắng,

nhưng để anh em làm điều thiện,

cho dù chúng tôi như bị thua.

Vì chúng tôi không thể làm gì chống lại sự thật,

nhưng chúng tôi chỉ có thể hoạt động cho sự thật.”

(2Cor 13: 5-8)

Nhắc nhớ lời thánh-hiền xưa căn-dặn, hẳn cũng thừa. Thừa hơn nữa, là khi lời nhắn ấy lại gửi đến đấng-bậc vị-vọng trong giáo-hội rất thánh của Đức Chúa. Nhắc nhở đôi điều gửi đến những ai còn có tham-vọng “làm lớn” hoặc nổi-tiếng như cồn ở đâu đó, có lẽ cũng chỉ nên nhắc và nhở bằng truyện kể hoặc tin tức…mình, ở đời thôi.

Nhưng trước khi cứu xét những sự việc như thế, tưởng cũng nên trở về với lời ca mà người nghệ-sĩ ở nhà từng dịch ra lời Việt và hát thêm, rằng:

“Ngồi dưới trăng lắng im nghe lòng ta

Thổn thức bao chuyện ngày qua… sầu đau

Hỡi người dấu yêu, sao đành nỡ quên…

Sao đành tình ta vỡ tan như cánh chim lìa bay?

Lòng đắm say những khi ta gần nhau,

Ngồi dưới ánh trăng dịu êm cùng mơ…

Con thuyền trôi về đâu dưới trăng vàng?

Cớ sao một mình ta ngồi dưới ánh trăng lẻ loi,

buồn vấn vương… chán chường…”

(Dưới Trăng – bđd)

“Buồn vấn-vương, chán-chường” có là tâm-trạng của người đời ở đời, sau khi đứng ‘trụ’ chốn cao trong phong-trào nào đó, tức ‘tiếng tăm’ của mình đã nổi đình/nổi đám suốt một thời, nhiều năm tháng như cặp đôi “đồng tính” ở địa-hạt thời-trang, nay có vấn-đề như sau:

“Chuyện đạo-đức trong sinh-hóa tuần vừa qua, lại xảy đến từ sàn diễn thời-trang ở Milan, nuớc Ý cho tới buổi phỏng-vấn tập-san Panorama ở đây nói về cặp bài trùng tạo mẫu thời trang là Stefano Gabbana và Domenico Dolce đã đả-kích hôn-nhân đồng tính luyến ái, thụ thai ống-nghiệm IVF và chuyện thay mẹ đẻ để sinh-sôi nảy nở…

Dolce và Gabbana từng chung sống như cặp tình nhân đồng-tính đến 20 năm, nhưng đã chia tay cách nhẹ nhàng vào năm 2005, dù đạt thành-công như người chung-phần đối-tác trong thương-vụ. Khi được hỏi, quý vị có muốn làm cha theo cung-cách nào đó không, thì Dolce trả lời ngay rằng:

“Tôi là người đồng-tính luyến-ái, nên không thể có con được… chúng ta sinh ra có cha có mẹ, hoặc ít ra là như thế, còn các trẻ không có cha có mẹ theo nghĩa tự-nhiên như thế, thì tôi gọi là “trẻ con sinh tự phòng dược, hoặc trẻ chế-biến tổng-hợp, sinh từ buồng trứng thuê mướn, do chọn tinh-trùng từ danh-mục hàng-hoá…”

Không những thế, nhà tạo mẫu Domenico Dolce, 57 tuổi lâu nay tự nhận là người Công-giáo vẫn còn đi nhà thờ khá đều-đặn, lại nói:

“Không thể tính chuyện sinh con theo cách thuê mướn tử-cung hoặc dùng hoá-chất mà tạo thành được. Cuộc sống, là giòng chảy tự-nhiên có những điều trong đời, ta không được phép thay đổi nó, mới đúng. Nếu quý vị sinh ra từ cung lòng người mẹ và do tinh-trùng của người cha đích-thực hoặc ít ra phải như thế. Làm khác đi, thì đó chỉ là đứa con từ phòng dược, tức trẻ được chế-biến theo cách tơ sợi tổng-hợp, thuê mướn tử-cung của ai khác, hoặc tinh-trùng được chọn từ tập danh-mục thương-mại, mà thôi.”

Trong khi đó Stefano Gabbana lại bảo:

“Gia đình không là ‘mốt’ thời-trang. Gia-đình phải có nghĩa siêu-nhiên gần gũi thân-thương của người nhà…” Vào lúc đó, Dolce lại đã thêm ý của Gabbana: “Đồng-công kiến-tạo là động-thái của tình yêu. Ngay các chuyên-gia tâm-thần cũng đang phải đối đầu với ảnh-hưởng của cuộc thực-nghiệm do mình tạo ra, nữa.”

Chuyện xảy ra là, khi nghe biết câu chuyện như thế, thì thần-tượng đồng-tính luyến-ái người Anh là ngài Elton John, tức cha của hai đứa trẻ sinh từ bà-mẹ-thuê-mướn thay cho mẹ ruột đã phản-ứng một cách rất nóng-giận và bảo rằng: sao các anh lại dám qui về các đứa con thân-yêu tuyệt-vời của tôi, rồi đặt tên cho chúng là trẻ bé sinh từ tơ sợi tổng-hợp? Các anh thật đáng xấu hổ chỉ biết chĩa tay vào ống nghiệm IVF thôi. Tư-duy của các anh nay lỗi thời rồi, hệt như thời-trang do các anh tạo ra nay không còn ăn khách nữa. Từ nay, tôi sẽ không thèm mua đồ Dolce & Gabbana tạo mẫu về mặc đâu..” (X. Michael Cook, Dolce & Gabbana spark internet frenzy over IVF, BioEdge 21/3/2015)

Xem thế thì, chuyện nổi đình/nổi đám đầy tiếng tăm suốt nhiều năm, đã trở-thành vấn-đề với nhiều người, những hỏi rằng: được thế đến bao lâu. Nổi cồn như thế, có làm cho bản-thân người nổi tiếng thêm được chút hạnh phúc nào không? Hoặc, có giúp người nổi tiếng trở-thành lành/thánh lâu năm không?

Trả lời câu hỏi gay-go/hiểm hóc này, thật cũng khó. Khó, là bởi những người như bạn và tôi, có lẻ ta chưa bao giờ được thế. Nên, thay vì trả lời cho đích-đáng, có lẽ cũng nên đi vào vùng trời truyện kể, để xem: có thể may ra cũng có trường hợp tương-tự.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đọc thử truyện kể sau đây, rồi sẽ thấy:

“Truyện rằng:

Ngày xưa, có một họa sĩ tên là Ranga, một người siêu việt, vẽ được rất nhiều kiệt tác đáng ghi nhớ khiến ai cũng dều khen ngợi.

Ông mở một lớp học mỹ thuật để dạy nghề cho mọi người và cũng để tìm đệ tử nối nghiệp. Ông không mấy khi khen ngợi ai, cũng không bao giờ đề cập đến thời gian của khóa hoặc. Ông nói, một học trò chỉ có thể thành công khi ông hài lòng với kỹ năng và hiểu biết của người đó. Ông truyền cho học trò những phương pháp đánh giá, ước định của ông, và chúng cũng độc đáo như những tác phẩm của ông vậy. Ông không bao giờ thổi phồng tầm quan trọng của những bức tranh hay sự nổi tiếng, mà ông luôn nhấn mạnh đến cách xử sự, thái độ với cuộc sống của học trò.

Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn. Ông Ranga rất hài lòng về Rajeev.

Một ngày kia, sau bao nhiêu cố gắng, Rajeev được ông Ranga gọi đến và bảo:
-Ta rất tự hào về những tiến bộ mà con đã đạt được. Bây giờ là thời điểm con làm bài thi cuối cùng trước khi ta công nhận con thực sự là một họa sĩ tài năng. Ta muốn con vẽ một bức tranh mà ai cũng phải thấy đẹp, phải khen ngợi.

Rajeev làm việc ngày đêm, trong rất nhiều ngày và đem đến trình thầy Ranga một bức tranh tuyệt diệu. Thầy Ranga xem qua rồi bảo:

-Con hãy đem bức tranh này ra đặt ở quảng trường chính, để tất cả mọi người có thể chiêm ngưỡng.

Hãy viết bên dưới bức tranh là tác giả sẽ rất biết ơn nếu bất kỳ ai có thể chỉ ra bất kỳ sơ suất nào trên bức tranh và đánh một dấu X vào chỗ lỗi đó. Rajeev làm theo lời thầy: đặt bức tranh ở quảng trường lớn với một thông điệp đề nghị mọi người chỉ ra những sơ suất.

Sau hai ngày, Ranga đề nghị Rajeev lấy bức tranh về. Rajeev rất thất vọng khi bức tranh của mình đầy dấu X. Nhưng Ranga tỏ ra bình tĩnh và khuyên Rajeev đừng thất vọng, cố gắng lần nữa. Rajeev vẽ một kiệt tác khác, nhưng thầy Ranga bảo phải thay đổi thông điệp dưới bức tranh. Thầy Ranga nói phải để màu vẽ và bút ngay cạnh bức tranh ở quảng trường và đề nghị mọi người tìm những chỗ sai trong bức tranh và sửa chúng lại bằng những dụng cụ để vẽ ấy.

Hai ngày sau, khi lấy tranh về, Rajeev rất vui mừng khi thấy bức tranh không bị sửa gì hết và tự tin đem đến chỗ Ranga. Ranga nói:

-Con đã thành công vào ngày hôm nay. Bởi vì nếu chỉ thành thạo về mỹ thuật thôi thì chưa đủ, mà con còn phải biết rằng con người bao giờ cũng đánh giá bừa bãi ngay khi có cơ hội đầu tiên, cho dù họ chẳng biết gì về điều đó cả. Nếu con luôn để cả thế giới đánh giá mình, con sẽ luôn thất vọng. Con người thích đánh giá người khác mà không nghĩ đến trách-nhiệm hay nghiêm-túc gì cả. Mọi người đánh những dấu X lên bức tranh đầu tiên của con vì họ không có trách nhiệm gì mà lại cho đó là việc không cần động não. Nhưng khi con đề nghị họ sửa những sơ suất thì không ai làm nữa, vì họ sợ bộc lộ hiểu biết – những thứ mà họ có thể không có. Nên họ quyết định tránh đi là hơn. Cho nên, những thứ mà con phải vất vả để làm ra được, đừng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi đánh giá của người khác. Hãy tự đánh giá mình. Và tất nhiên, cũng đừng bao giờ đánh giá người khác quá dễ dàng.” (truyện kể do St sưu-tầm gửi lên mạng)

Kể thế rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta cứ đi vào giòng chảy những nghĩ suy để rồi tự mình rút ra bài học để đời cho mình, cho người, và cả đấng bậc trên cũng như dưới, rất Nước Trời.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày

Nhiều nghĩ suy

Về những tiếng tăm

nổi cộm một thời

rồi cũng xẹp

trong âm-thầm.