NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Thứ Năm Tuần Thánh được bắt đầu bằng Thánh lễ Truyền Dầu, và ban chiều, khởi đầu Tam Nhật Vượt qua, Phụng vụ đưa mỗi người đến bữa Tiệc Li của Đức Giê-su, diễn tả việc Người rửa chân cho các môn đệ, tưởng niệm việc Chúa lập phép Thánh Thể và chức vụ Linh mục.  Như vậy có quá nhiều đề tài cho người ta khai thác, học hỏi.  Tuy nhiên, giờ đây mỗi người được mời đi sâu vào cội rễ của các tưởng niệm trên, đó là tình yêu của Chúa Kitô đối với loài người.

Nhiều người đặt vấn đề, có cần Chúa phải làm việc hèn hạ, là rửa chân cho các môn đệ không?  Có phải đây là kiểu xu nịnh, như nhiều người thường đi bằng hai đầu gối để đạt mục tiêu không?  Liệu Chúa có đối xử gì tệ bạc với Giuđa không, mà sao ông lại có hành vi tồi tệ và đê hèn, đến nỗi bán Thầy của mình với giá bèo bọt 30 đồng bạc?

1. Trong bữa Tiệc Li

Đức Giêsu đã cùng ăn bữa tối quan trọng với các môn đệ, để chuẩn bị cho việc ra đi của Người.  Tất cả những sự kiện báo trước đang diễn ra trong bữa Tiệc Li này, đó là Giuđa phản bội bán Thầy với giá 30 đồng bạc, đó là Phêrô môn đệ thân tín nhất sẽ chối Chúa 3 lần.  Đề tài chủ yếu trong Phụng vụ chiều nay cũng như tuần Tam Nhật Vượt qua là tình yêu.  Tất cả việc Chúa lập phép Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh, đặc biệt là cử chỉ khiêm nhường rửa chân cho môn đệ, đều xuất phát từ tình yêu cao vời của Thiên Chúa.

Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể: Chúa đã nhập thể để đến với nhân loại, Chúa đã sinh ra trong nghèo hèn để cảm thông cuộc sống với con người, Chúa đã giảng dạy để kêu gọi và mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực, Chúa chịu chết để cứu độ tất cả mọi người.  Nhưng như thế chưa đủ, Chúa muốn làm hơn thế, để chứng tỏ tình yêu của Người: đó chính là phép Thánh Thể, mà Chúa lấy chính Máu Thịt mình để nuôi loài người.  Tình yêu của Người luôn được tiếp tục bằng việc cung cấp thức ăn thiêng liêng cho nhân loại.  Chúa muốn đi sâu vào thân xác, thấm vào máu thịt, để biến dòng máu đen ngòm tội lỗi của con người, thành dòng máu tươi hồng trong sạch của Chúa, Chúa muốn con người có sức mạnh phi thường, để họ có đủ sức vượt dặm trường, chống lại những vật cản tiến về Nước Chúa.

Đức Kitô đã lập ra chức vụ linh mục: Ôi lạ lùng huyền nhiệm, Chúa đã nên lương thực qua đôi tay linh mục thừa tác viên để phục vụ, để ban phát hồng ân, để tha thứ lỗi lầm, để giải hòa với Chúa và với nhau.  Qua tác vụ linh mục, người tín hữu được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, làm của ăn tinh thần, được giao hòa với Thiên Chúa tình yêu, được ánh sáng và sức mạnh để thăng tiến cuộc sống con người.

2. Rửa chân cho các môn đệ

Trong bữa Tiệc Li, Đức Giêsu còn thể hiện cử chỉ rất đặc biệt:  rửa chân cho các môn đệ.  Bỏ qua mọi rào cản,  những kinh nghiệm đau thương, và những mất mát sẽ diễn ra, Đức Giêsu đã đứng dậy, cởi áo ra, lấy chậu nước và rửa chân cho các môn đệ.  Người ta rất ngạc nhiên, cũng như Phêrô đã rất ngạc nhiên, tại sao Chúa làm như vậy?  Đây là một việc làm của một tên nô lệ theo thói quen người Israel. Mỗi người có thể hiểu được việc làm này của Chúa vì nhiều lí do:

Trước hết là để ứng nghiệm những gì đã viết về Đức Kitô:  Chúa là Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, Đấng đã chuộc lại loài người bằng những hy sinh của Người.  Việc Chúa tự động đứng dậy rửa chân cho họ, cũng để chứng tỏ rằng Người tự nguyện chịu chết để cứu độ nhân loại.  Những từ “cởi ra” “mặc vào” nói lên việc Người chịu chết và sống lại, việc con người đánh mất Hồng Ân Chúa khi phạm tội, và Đức Kitô đã chuộc lại ơn làm nghĩa tử của Chúa.

Việc rửa chân là bài học giáo dục, Đức Giêsu muốn nêu cao tấm gương trong cách sống mà các môn đệ phải noi theo: Sống để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, “Thầy nêu gương cho anh em, để anh em hãy làm cho nhau” (Ga.13, 15).

Rửa chân bằng nước còn nói lên việc thanh tẩy; Đức Giêsu muốn nói với con người rằng, Chúa đến để làm mới lại con người, thanh tẩy tội lỗi họ, để không những thân xác, chân tay, mà cả tâm hồn cũng nên trong sạch, loại bỏ những hiềm khích, đam mê, tội lỗi…

Việc rửa chân dạy loài người bài học khiêm nhường: Con người muốn làm lớn thống trị người khác, như hai anh em con ông Giêbêđê muốn chỗ nhất nhì trong Nước Trời.  Quyền lực vẫn là cái gì làm cho người ta cuồng nhiệt tranh giật, ngoài xã hội cũng như trong tôn giáo, xưa cũng như bây giờ, Đức Giêsu dạy các môn đệ muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ trước đã.

Cuối cùng, Đức Giêsu muốn chứng tỏ tình yêu trổi vượt của Người với nhân loại:  Chúa muốn làm tất cả vì yêu.  Một thứ tình yêu mãnh liệt không đắn đo tính toán, đã khiến Người có thể làm những điều người ta không tưởng, đó là việc quỳ xuống rửa chân cho môn đệ của mình.

3. Tình yêu đáp trả

Qua những hành vi trên đây, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy đáp trả tình yêu của Người dành cho họ:

Trước hết là hãy đón nhận: Qua việc cúi xuống rửa chân cho đầy tớ, Đức Giêsu muốn nhắc con người: những gì là trịch thượng, quyền thế, là cái tôi, là hạ cố, cần phải loại trừ:  Một Thiên Chúa quỳ xuống, để ngước mắt nhìn lên loài người, nhằm dạy người ta phải khiêm nhường đón nhận những ân sâu tận Trời của Chúa.  Chỉ khi con người biết khiêm nhường, họ mới gặt hái thành công, mới có thể đạt mục tiêu Nước Trời.  Thế gian chỉ biết hưởng thụ, chờ mong người khác hầu hạ.  Người ta thường bị cám dỗ bởi tiền bạc vật chất, ăn trên ngồi trốc.  Chúa không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ, vậy con người là ai, mà chỉ muốn người khác hầu hạ mình?

Hãy tôn vinh Thánh Thể Đức Kitô: Thánh Thể là kết quả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Qua Thánh Thể, con người được nên một với Người, sống với Người.  Chính vì thế, Thánh lễ trở thành trung tâm Phụng vụ.  Đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để tận hưởng lương thực thần hiệu này, hãy để Chúa sống với mình hằng ngày, hãy lắng nghe tiếng Chúa mời gọi:  Hãy đến mà ăn.  Đừng để Chúa cô đơn và nhục mạ bằng việc từ chối của mình.

Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người sống khiêm nhường, hi sinh và phục vụ để xứng đáng làm môn đệ Đức Kitô.

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Ai giải phóng ai?

Ai giải phóng ai?

Huy Vũ
2015-03-29

mien-bac-vn-truoc-75-413.jpg

Một anh bộ đội miền Bắc đứng gác bên này dòng sông Bến Hải trước năm 1975

Files photo

Ngày 30-04-1975 được Cộng Sản Bắc Việt rêu rao là ngày họ “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi sự “kìm kẹp” của Mỹ-Ngụy. Tới nay đã 40 năm trôi qua, ta thử nhìn lại xem ngày này: Ai giải phóng ai?

Để có câu trả lời khách quan cho câu hỏi này, có lẽ trước hết ta nên đi tìm định nghĩa của động từ “giải phóng”, sau đó điểm qua cảm nghĩ và nhận thức về cuộc sống vật chất và tinh thần của dân chúng hai miền Nam – Bắc vào thập niên 1970 của một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, cán binh v.v… là những người đã được đào tạo và hun đúc dưới mái trường XHCN khi họ có dịp vào miền Nam thăm viếng, công tác, hay sinh sống sau ngày 30-04-1975.

Qua một vài cuốn tự điển Việt-Việt, động từ “giải phóng” có thể được định nghĩa như sau: Bằng cách này hay cách khác làm cho hay giúp cho một số người nào đó thoát ra khỏi một tình trạng xấu xa tồi tệ. Nói khác đi, nếu đưa một đối tượng từ một tình trạng tốt đẹp sang một tình trạng tồi tệ, thì không thể gọi là “giải phóng” được.

Qua một số bài trên mạng, ta thấy một số tác giả đã bày tỏ quan điểm của họ về đề tài này:

Thư của một cựu “giải phóng quân”

Trong phần đầu thư, anh “cựu giải phóng quân” đã cho biết là anh ta đang tự giác “Ngụy Quân Hóa và Mỹ Cút Hóa” với lý do như sau:

“Ngụy-quân hóa vì cái gì của Ngụy tôi cũng thích, như nhạc Ngụy, sách Ngụy, nói chung là thượng vàng hạ cám gì của Ngụy đều… hiện đại. Mỹ-cút hóa là con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp ông Liên Xô để úp mặt vào đồng Đô “đế quốc” Mỹ…

“Mỹ-cút hóa vì con gái rượu của Thủ tướng Dũng thiếu gì con trai của các nhà lão thành Cách Mạng gạ gẫm cưa kéo mà cứ một hai “em chả, em chả”, cứ nằng nặc đòi lấy bằng được thằng con Ngụy đã cút theo Mỹ ngày Mỹ cút; Mỹ-cút hóa đến nỗi mấy đứa cháu tôi bây giờ mừng sinh nhật cũng hát bài Hép-Pi-Bớt-Đê (Happy Birth Day), hễ mở miệng là Ô Kê Ô Gà! Ra phố thì cứ đòi uống Cô Ca, ăn thì Mạc-Đá-Nồ (McDonald), Bơ-Gơ-Kinh (Burger King), Ken-Tơ-Ky-Phờ-Rai-Trích-Cần (Kentucky Fried Chicken)… con quan CS chỉ toàn muốn du học Mỹ Tư Bản….”

Sau đó anh CGPQ còn tỏ ra khâm phục và ca tụng quân dân miền Nam:

“Chả dấu gì Anh, sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh.

“…. nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng…”

Phần cuối thư anh kết luận:

“….nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.”

Nhà báo Huy Đức, tác giả “Bên Thắng Cuộc”:

Trong phần “Mấy lời của Tác Giả” cuốn “Bên Thắng Cuộc” HĐ cho biết sau ngày 30-04-1975 qua hình ảnh xe đò Phi Long từ miền Nam chạy ra Bắc đã khiến HĐ nhận ra được rằng dường như ở miền Nam có mức sống văn minh, phong phú và đa dạng:

“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.”

“Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giời văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dầy, Thép Đã Tôi Thế Đấy. Những chiếc máy Akai, radio cassette, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”

Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:

Trong phần đầu bài “Cảm Tạ Miền Nam, PH viết:

“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.

Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”

PH cũng đã mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản vô cùng tồi tệ:

“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.

Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.

Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”

Trong phần cuối bài thơ, PH kết luận, ngày 30-04-1975 là ngày miền Nam đã giúp cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản:

“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.

Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.

Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ

Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ

Dù không thành công cũng đã thành danh.”

Trong một bài thơ khác “Tâm sự một đảng viên” PH cho biết sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì quá tin vào lời tuyên truyền của họ:

“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh

Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin

Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”

“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại

Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn

Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn

Đang rên siết kêu than cần giải phóng.”

Khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền của bác và đảng:

“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng

Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin

Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình

Trước thành phố tự do và nhân bản.”

Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của bác Hồ và đảng Cộng, PH cảm thấy hổ thẹn với lương tâm và  đã khóc:

“Trên đường về, đất trời như sụp đổ

Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam

Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm

Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.”

Tiến sĩ Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:

Vào ngày 30-04-1975, ông Dương còn là sinh viên của trường đại học sư phạm Vinh và sau đó ông được cho vào miền Nam với nhiệm vụ:

“…mang ‘ánh sáng’ văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tồi lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì?”

Khi tới Thị trấn Cao Lãnh để nhận nhiệm sở, ông được cho ở tại khách sạn Thiên Lợi và đây là cảm nhận của ông khi sống trong khách sạn này:

“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh…”

“Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã…”

mien-bac-truoc-75-003-400.jpg

Miền Bắc trước 1975

Từ nhận thức về mức sống cách biệt giửa hai miền Nam và Bắc, cùng những sự việc đã liên tiếp xẩy ra ở miền Nam sau ngày 30-04-1975, đã buộc ông Dương suy nghĩ:

“Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…”

Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết)

Trong bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” ông Châu Hiển Lý đã nhận định vế “chiến thắng 30 tháng 04” của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

“Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”

Phần cuối bài ông Lý viết:

“Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

Sau cùng ông kết luận:

“Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.”

Nhà báo Trần Quang Thành

Trong “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu.” TQT, cựu phóng viên đài phát thanh Tiếng Nói và Truyền Hình cộng sản Việt Nam:

“Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới  chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyền truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.»

Nhà văn Dương Thu Hương

Mới đây phóng viên Tường An, đài Á Châu Tự Do, đã có trao đổi với  nhà văn Dương Thu Hương về hồi ức của bà về ngày 30-04-1975:

PVTA: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?

Bà DTH: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn. Họ (phía bên thua cuộc) có thể văn minh hơn về văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.

Tóm lại qua cảm nghĩ và nhận thức của các nhân vật trên đây, người ta có thể có được những kết luận sau đây:

–      Nhân dân miền Nam có tự do, dân chủ và no ấm.

–      Nhân dân miền Bắc nghèo khó và phải kéo cày thay trâu và nhân phẩm ngang hàng với bèo dâu.

–      Nhờ giải phóng miền Nam, nhân dân miền Bắc thấy được ánh sáng văn minh và trở về quốc gia dân tộc.

–      Nhờ “giải phóng miền Nam” mà người dân miền Bắc biết về thế giới văn minh và hội nhập vào thế giới này.

–      Đời sống của người dân miền Bắc vào thập niên 1970 thê thảm và lạc hậu đến nỗi người dân phải tranh giành nhau từng cục “phân bắc” để nộp cho hợp tác xã.

–      Xã hội chủ nghĩa là một xã hội tồi tệ và được phơi bày rõ rệt qua sự nghèo khổ của nhân dân miền Bắc và là một thời đen tối nhất trong lịch xử Việt Nam.

–      Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chỉ là cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam làm tay sai cho Nga Sô và Trung Quốc.

–      Chế độ miền Bắc là một chế độ man rợ.

–      Chế độ miền Nam là một chế độ văn minh.

Tóm lại, qua những kết luận trên đây thiết tưởng cũng tạm đủ cho người ta thấy rõ là, ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc ra khỏi sự kìm kẹp, giam hãm và đô hộ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời cũng đã giúp nhân dân miền Bắc nhận ra được rằng, chế độ cộng sản là chế độ man rợ, chẳng những đã chọc thủng con ngươi của họ, mà còn đâm thủng luôn cả màng nhĩ của họ nữa, khiến họ không nghe được và không thấy được những xã hội văn minh và tiến bộ ở thế giới bên ngoài. Do đó, họ đang bị đảng Cộng Sản Việt Nam giam hãm, kìm kẹp và đọa đày trong một “nhà tù khổng lồ” song vẫn cứ tưởng là đang sống hạnh phúc tuyệt vời trong “thiên đường cộng sản văn minh nhất hành tinh”.

Lý Quang Diệu: ‘Kiệt xuất’ do đâu?

Lý Quang Diệu: ‘Kiệt xuất’ do đâu?

TS. Đoàn Xuân Lộc Gửi cho BBC từ Anh quốc

Lý Quang Diệu có học, còn đa số lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều không có điều này, theo tác giả.

Trong những ngày qua báo chí quốc tế đã có rất nhiều bài viết, bình luận về ông Lý Quang Diệu. Tất cả đều khen ngợi vị Thủ tướng đầu tiên của Singapore.

Dù không đồng ý với ông về một vài vấn đề, như nhân quyền, giới truyền thông và nghiên cứu tại các nước phương Tây cũng phải thừa nhận rằng ông Diệu là một lãnh đạo tài giỏi, một chính khách lỗi lạc và một chiến lược gia tầm cỡ.

Các nguyên thủ quốc gia – từ Tổng thống Mỹ Barack Obama, Thủ tướng Anh David Cameron đến Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình – đều đánh giá cao tài năng của ông.

Dư luận và báo chí Việt Nam cũng dành cho ông một sự ngưỡng mộ đặc biệt.

Hiếm có một chính trị gia nào nhận được sự khâm phục như vậy từ dư luận, báo chí quốc tế. Cũng ít có một lãnh đạo nào cùng lúc được cả giới lãnh đạo các nước phương Tây và Trung Quốc kính trọng.

Có thể nói, trong số những người lập quốc, thế hệ lãnh đạo đầu và thậm chí hiện tại của các quốc gia từng bị thuộc địa – trong đó có Việt Nam – không một ai sánh được với ông, làm nên được những kỳ công và được mến phục như ông.

Điều gì đã giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một lãnh đạo kiệt xuất, được mến mộ như vậy?

Có học vấn cao

Có rất nhiều yếu tố giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một chính khách lỗi lạc và học vấn là một trong những yếu tố ấy.

” Ông Lê Duẩn và những người ủng hộ ông lúc đó, như ông Lê Đức Thọ, không phải là những người trí thức mà chỉ là những người thuộc tầng lớp công nông, ít học

Cựu Đại tá Bùi Tín và TS Cù Huy Hà Vũ”

Dù sinh ra trong một gia đình gốc Hoa, ông nói tiếng Anh và được học tại các trường Anh nổi tiếng ở Singapore. Là người thông minh, ông luôn là một học sinh, sinh viên xuất sắc, thường xuyên đứng đầu tại các kỳ thi và được trao nhiều học bổng danh giá.

Ông đã được nhận một học bổng vào học kinh tế, văn chương Anh và toán tại Raffles College – nay là Đại học quốc gia Singapore. Đây cũng là nơi ông gặp bà Kha Ngọc Chi, người vợ tương lai của ông và nhiều đồng nghiệp, cộng sự của ông sau đó.

Việc học của ông bị gián đoạn trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Singapore nhưng năm 1946, ông đã sang Anh vào học tại trường kinh tế London và sau đó chuyển tới trường Fitzwilliam, thuộc đại học Cambridge. Tại đây ông đạt những thành tích cao và được trao tấm bằng hạng ưu ngành luật vào năm 1949.

Trong số những người lập quốc hay thế hệ lãnh đạo đầu tiên của các quốc gia hậu thuộc địa, trong đó có Việt Nam, hiếm có ai được đào tạo bài bản, học vấn cao, và có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức, học hỏi được những tiến bộ – đặc biệt liên quan đến chính trị, luật pháp – của các nước phương Tây như ông.

Chẳng hạn, dù có đến Anh, Pháp và Mỹ, Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Ái Quốc – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh – không (được) theo học tại bất cứ một đại học nào ở ba quốc gia này.

Những thế hệ lãnh đạo tiếp theo của Việt Nam – từ Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng đến nhiều người trong dàn lãnh đạo sau – ít ai được đào tạo đàng hoàng, hay có học vấn cao hoặc theo học tại các trường đại học ở các nước phương Tây.

Trong cuộc bàn luận về vụ ‘Xét lại chống Đảng’ do BBC thực hiện vào tháng hai năm nay, cả cựu Đại tá Quân đội Bùi Tín và Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ cho rằng ông Lê Duẩn và những người ủng hộ ông lúc đó, như ông Lê Đức Thọ, không phải là những người trí thức mà chỉ là những người thuộc tầng lớp công nông, ít học.

Được học cao, được đào tạo bài bản tại những trường có uy tín của Anh là một lý do quan trọng tại sao ông Lý Quang Diệu vượt trội các nhà lãnh đạo ở các quốc gia hậu thuộc địa cùng thời với ông hay thậm chí sau ông, về nhiều mặt – đặc biệt về nhận thức, tầm nhìn.

Nhìn xa, trông rộng

Lý Quang Diệu

Ông Lý Quang Diệu là người ‘nhìn xa, trông rộng’, thực dụng, khôn ngoan, thức thời mà không giáo điều, cứng nhắc, theo tác giả.

Khi nói về ông Lý Quang Diệu, giới quan sát, nghiên cứu đều cho rằng ông là một người vừa khôn ngoan, nhạy bén, thức thời, vừa rất thực dụng.

Chẳng hạn, dù Singapore cũng từng bị thuộc địa và ông luôn muốn hòn đảo này thoát khỏi sự phụ thuộc, cai trị của Anh, ông không chỉ không phủ nhận mà còn biết tiếp thu, áp dụng những tiến bộ – đặc biệt về kinh tế, công nghệ – của Anh và các nước phương Tây khác.

Mặc dù phần lớn người Singapore – và chính bản thân ông cũng là một – người gốc Hoa, ông không chọn tiếng Hoa mà là tiếng Anh để làm ngôn ngữ chính cho đảo quốc này. Quyết định đó không chỉ giúp người dân Singapore dễ dàng tiếp xúc với các nước phát triển như Anh, Mỹ và học hỏi, tiếp nhận tri thức, công nghệ cao của phương Tây mà còn bắc cầu để những tập đoàn lớn trên thế giới đến với hòn đảo nhỏ này.

Là một trí thức, ông Lý Quang Diệu, rất coi trọng giáo dục, tri thức, trọng dụng người hiền tài. Ông chú tâm phát triển, trọng dụng nhân tài ở trong nước và luôn tìm cách thu hút chất xám, người tài từ các nước.

Đây là một điểm khác biệt lớn giữa ông và giới lãnh đạo Việt Nam. Ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi, các lãnh đạo Việt Nam thường không coi trọng – hay thậm chí sợ – tầng lớp trí thức. Việc giới văn nghệ, trí thức bị đàn áp trong vụ ‘Nhân văn – Giai phẩm’ trong những năm 1950 hay Viện nghiên cứu phát triển (IDS) buộc phải giải thể năm 2009 là hai ví dụ điển hình.

Một lãnh đạo Việt Nam được biết là rất mến phục ông Diệu và cũng được ông Diệu tôn trọng là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Điều đó cũng dễ hiểu vì cũng giống như ông Diệu, ông Kiệt là một người nhạy bén, rất coi trọng giới trí thức, văn nghệ.

” Nếu Singapore trở nên giàu mạnh vì có một vị lập quốc, một lãnh đạo có tâm, có tầm, phải chăng Việt Nam nghèo, tụt hậu vì thiếu một lãnh đạo đủ tâm, đủ tầm?

TS. Đoàn Xuân Lộc”

Hơn nữa, là một người hiểu biết rộng, thông minh ông Diệu không giáo điều, máy móc. Trái lại, ông rất thực dụng. Thay vì dựa vào một chủ thuyết nào đó để giúp Singapore tồn tại, phát triển, ông nhìn thẳng vào chính những điểm yếu, thế mạnh của Singapore và bối cảnh chính trị khu vực và cố phát huy, tận dụng tất cả những điểm đó, biến chúng thành cơ hội, thế mạnh cho đất nước mình.

Một điểm nổi bật khác, đáng trân trọng nữa nơi ông mà không phải nhà lãnh đạo nào cũng có đó là trung thực, mẫu mực, coi trọng luật pháp. Chính điều này đã giúp Singapore trở thành một quốc gia châu Á minh bạch nhất và luôn nằm trong 10 nước ít tham nhũng nhất thế giới. Có thể việc ông theo học ngành luật và tốt nghiệp xuất sắc về ngành này từ một trường đại học danh tiếng cũng tác động rất lớn đến tính cách này của ông.

Ông Diệu có nhiều tính cách, phẩm chất khác giúp ông trở thành một chính trị gia lỗi lạc. Nhưng nhãn quan biết nhìn xa, trông rộng của ông là một yếu tố quan trọng giúp ông làm nên bao điều ‘thần kỳ’ cho Singapore.

Từ một nước nghèo, kém phát triển, thiếu tài nguyên, lại phải đối diện nhiều bất ổn xã hội, chỉ trong một thời gian ngắn Singapore đã trở thành một quốc gia giàu có, văn minh, ổn định, bỏ xa tất cả các nước trong khu vực.

Chẳng hạn, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào năm 1960 – một năm sau khi ông lên nắm giữ chức Thủ tướng Singapore tự trị – ước tính thu nhập bình quân đầu người của Singapore là 395 USD. Con số đó ở miền Nam Việt Nam là 223 USD và miền Bắc Việt Nam là 74 USD.

Nhưng năm 2013, thu nhập bình quân đầu người ở Singapore lên tới 55,182 USD trong khi ấy ở Việt Nam chỉ là 1,910 USD.

Lý Quang Diệu

Cùng chia sẻ xuất phát chung là nước bị thuộc địa hóa, sự khôn ngoan của ông Diệu đã đưa Singapore vượt xa quốc gia cộng sản Việt Nam, theo tác giả.

Là một nước nhỏ, đa số người gốc Hoa nằm bên cạnh hai nước lớn (Indonesia và Malaysia Hồi giáo) và trong bối cảnh một châu Á nhiều xung đột, Singapore không chỉ tránh được chiến tranh, giữ vững được độc lập mà còn trở thành một đối tác quan trọng, không thể thiếu của các cường quốc. Thiết lập được mối quan hệ thân thiện và đặc biệt có lợi cho mình với cả Mỹ và Trung Quốc trong thời kỳ Chiến trạnh Lạnh – hay làm cầu nối giúp hai địch thù, đối thủ này đến với nhau – không phải là một chuyện dễ.

Trong khi đó, Việt Nam đã bị biến thành con cờ, nạn nhân trong các ‘cuộc chơi’, xung đột giữa các nước lớn như Liên xô – Trung quốc và Mỹ – Trung quốc.

Chính những khác biệt này làm không ít người đặt câu hỏi tại sao cùng từng là thuộc địa, kém phát triển Singapore trở nên phồn thịnh, hùng mạnh, trong khi các quốc gia khác trong vùng như Việt Nam, vẫn mãi cứ nghèo, yếu thế?

Nếu Singapore trở nên giàu mạnh vì có một vị lập quốc, một lãnh đạo có tâm, có tầm, phải chăng Việt Nam nghèo, tụt hậu vì thiếu một lãnh đạo đủ tâm, đủ tầm?

Nghèo do lãnh đạo?

Trong một lần trả lời BBC tiếng Việt gần đây, một nhà lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng không nên so sánh Việt Nam với Singapore vì hoàn cảnh (lịch sử) hai nước khác nhau và một trong những nguyên nhân chính được đưa ra để giải thích sự khác biệt ấy – và cũng gián tiếp biện hộ cho sự thua kém của Việt Nam so với Singapore – là khác với Singapore, Việt Nam phải trải qua chiến tranh.

Ít ai phủ nhận hoàn cảnh Việt Nam khác Singapore và chiến tranh gây nên nhiều hậu quả nặng nề cho Việt Nam. Nhưng cách lý giải như vậy có hoàn toàn thỏa đáng?

” Giới lãnh đạo Việt Nam quá yếu kém, không coi việc đưa đất nước trở thành hùng cường là một sứ mệnh thiêng liêng, mà chỉ biết xoay xở để sống, tồn tại.

TS. Vũ Minh Khương”

Khi bàn luận về vụ ‘Xét lại chống Đảng’ và hậu quả của nó, có ý kiến cho rằng nếu theo con đường hòa bình (hiệp thương, đàm phán giữa hai miền Nam Bắc) để thống nhất Đất nước do cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những người trí thức khác đề nghị lúc đó – thay vì dùng bạo lực (đấu tranh vũ trang) do phe của ông Lê Duẩn chủ xướng – Việt Nam có thể đã không phải trải qua một cuộc chiến dài, đẫm máu như vậy.

Nhận định này đúng hay sai để giới nghiên cứu và thời gian trả lời. Nhưng có thể nói, nếu giới lãnh đạo Việt Nam ít nhiều có được một nhãn quan như ông Diệu, Việt Nam chắc chắn đã có một hướng đi tốt hơn, giúp Việt Nam phát triển hơn, chủ quyền được bảo đảm hơn và vị thế của Việt Nam cũng được coi trọng hơn.

Chẳng hạn, nếu ngay sau biến cố 1975, Việt Nam biết áp dụng những chính sách phát triển kinh tế như Singapore đã làm sau 1965 – thay vì phải chờ mãi đến giữa những năm 1980 – khi không còn một chọn lựa nào khác – mới tiến hành cải cách kinh tế, Việt Nam chắc chắn sẽ không tụt hậu như bây giờ.

Trong một thế giới thay đổi từng ngày, 10 năm không phải là một thời gian ngắn. Trung Quốc đã có những thay đổi nhanh, phát triển mạnh phần lớn vì sau cuộc gặp với ông Lý Quang Diệu vào năm 1978, ông Đặng Tiểu Bình đã biết học từ Singapore và cho tiến hành cải cách kinh tế ở Trung Quốc.

Và nếu cải cách triệt để và toàn diện hơn trong gần 30 năm qua, có thể Việt Nam giờ cũng đã khác nhiều.

Được biết, ông Diệu – người đã từng gặp gỡ, cố vấn cho lãnh đạo Việt Nam – rất lạc quan về những tiến bộ của Việt Nam trong những năm đầu đổi mới nhưng về sau ông đã trở nên bi quan về tiến trình cải cách và tương lai của Việt Nam.

Lãnh đạo Việt Nam

Phải chăng Việt Nam sẽ mãi còn nghèo đói, tụt hậu do lãnh đạo thiếu ‘tâm và tầm’ và không dám từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, theo tác giả.

Ông Diệu và nhiều người khác tỏ ra bi quan vì – như Tiến sĩ Vũ Minh Khương nhận định khi trả lời phỏng vấn BBC gần đây – giới lãnh đạo Việt Nam ‘quá yếu kém’, không coi việc đưa Đất nước ‘trở thành hùng cường là một sứ mệnh thiêng liêng’ mà chỉ biết ‘xoay xở để sống, tồn tại’.

Một kiểu tư duy như vậy cho thấy họ không chỉ thiếu tâm huyết mà còn thiếu cả tầm nhìn.

Phải chăng vì thiếu cả tâm lẫn tầm, đến giờ – dù Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Xã hội tập trung đã thất bại ở Liên Xô, Đông Âu và ngay cả tại miền Bắc Việt Nam trước 1954 và cả nước trước 1986 – dù chấp nhận kinh tế thị trường phần nào, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định chủ nghĩa xã hội và mãi lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình?

Nếu đủ tâm, đủ tầm chắc chắn họ đã dám dẹp bỏ tất cả những gì kìm hãm sự phát triển của Đất nước, không cần phải viện đến một chủ thuyết xa lạ, lỗi thời nào đó và tự tìm ra một con đường phát triển tốt nhất, thích hợp nhất cho Việt Nam như ông Diệu đã từng làm cho Singapore.

Những ngày này lãnh đạo các nước trên thế giới sẽ tới Singapore để viếng và tham dự đám tang của ông Lý Quang Diệu – và cũng qua đó, cùng với người dân Singapore, bày tỏ sự khâm phục và ghi nhớ đóng góp của ông.

Đến bao giờ Việt Nam mới có được một vị lãnh đạo được người dân kính trọng và thế giới ngưỡng mộ như thế?

Bước tiến mới dân chủ hóa Việt Nam

Bước tiến mới dân chủ hóa Việt Nam

Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung Gửi cho BBC từ Sài Gòn

BBC

Hà Nội cây xanh

Phong trào dân chủ và xã hội dân chủ ở Việt Nam đang ‘trưởng thành’ từng ngày qua các diễn biến, theo tác giả.

Những ngày này, dư luận cả nước đang hướng sự chú ý về hai vụ việc chấn động tàn phá môi trường.

Ở Hà Nội là việc nhà cầm quyền chặt hàng loạt các cây cổ thụ, còn ở Đồng Nai là việc sông Đồng Nai bị lấp để phục vụ cho một dự án bất động sản.

Tác hại của những dự án này đã được các chuyên gia chỉ rõ trong nhiều bài báo.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến khía cạnh pháp luật.

Cụ thể hơn là nói tới các nguyên tắc căn bản nhất của một xã hội thượng tôn pháp luật, dân chủ và công bằng, vốn đã bị vi phạm nghiêm trọng qua hai sự việc trên như thế nào.

Luật quan, luật dân

”  Qua cả hai vụ việc, nhà cầm quyền đều lừa dối người dân, tự cho rằng đã rất minh bạch dự án, đã tham khảo ý kiến người dân và đều được người dân đồng tình, nhưng sự thật, như chính báo chí trong nước đã chỉ ra, là hoàn toàn ngược lại

Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung

Đầu tiên và quan trọng nhất, khi những người có quyền muốn những người còn lại tuân thủ luật pháp, chính bản thân họ cũng phải tuân thủ luật pháp. Đối với việc chặt cây ở Hà Nội, các chuyên gia đã chỉ rõ chính quyền đã vi phạm nghị định 64/2010, luật Bảo vệ môi trường, luật Thủ đô. Còn đối với vụ lấp sông Đồng Nai, chính quyền đã vi phạm luật Tài nguyên nước và luật Bảo vệ môi trường. Thử hỏi, khi luật pháp ‘nghiêm’ không được áp dụng cho quan chức mà chỉ áp dụng cho dân thì sẽ còn ai tôn trọng luật pháp ‘nghiêm minh’ ấy nữa?

Qua cả hai vụ việc, nhà cầm quyền đều lừa dối người dân, tự cho rằng đã rất minh bạch dự án, đã tham khảo ý kiến người dân và đều được người dân đồng tình, nhưng sự thật, như chính báo chí trong nước đã chỉ ra, là hoàn toàn ngược lại.

Một xã hội công bằng phải dựa trên luật pháp chuẩn mực. Luật pháp làm ra phải được áp dụng như nhau cho tất cả mọi người, không ai được ngoại lệ và không ai được đứng trên luật pháp. Không thể đối xử với quan chức khác với dân thường. Nếu quan chức tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm mà không sợ sự chế tài của pháp luật thì đất nước chẳng sớm thì muộn sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn, vì “thượng bất chính, hạ tắc loạn”.

Thứ hai, người dân – những người được yêu cầu tuân theo luật pháp, tuân theo quyền lực chính trị, phải có tiếng nói. Nếu họ lên tiếng thì họ sẽ được chính quyền lắng nghe một cách tôn trọng. Ở vụ chặt cây tại Hà Nội, ông Phan Đăng Long, Phó trưởng Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội đã thẳng thừng là ‘không phải hỏi’ ý kiến dân gì cả.

Vụ lấp sông Đồng Nai

Dự án lấp sông Đồng Nai để phục vụ ‘phát triển địa ốc’, ‘đô thị’ đang thu hút sự chú ý của dư luận trong nước.

Còn ông Nguyễn Quốc Hùng, phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội lại không thèm trả lời 21 câu hỏi của phóng viên báo chí trong một cuộc họp báo một chiều, độc thoại của ông và diễn ra chỉ vỏn vẹn chừng mười phút.

Sự việc lấp sông ở Đồng Nai còn kịch tính hơn khi phóng viên báo Thanh Niên xin lên sân thượng nhà những người dân ở gần hiện trường để chụp ảnh nhưng đều bị từ chối với lý do “Tôi sợ”. Thậm chí phóng viên còn bị người lạ theo dõi. Tại sao người dân lại sợ hãi khi các phóng viên muốn sự thật được phơi bày? Làm sao có thể có tiếng nói khi ngay cả việc được biết sự thật cũng không thể được?

Từ đó ta thấy, xã hội Việt Nam hiện tại có hai giai cấp. Giai cấp thống trị là các đảng viên cộng sản có chức quyền không do dân bầu, đứng trên luật pháp. Và giai cấp bị trị là tất cả những người còn lại chịu sự chi phối của một thứ luật pháp bất công. Điều này cũng phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin với quan niệm nhà nước và luật pháp là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị.

Cộng hòa chính danh

” Để xảy ra hai sự việc trên, cũng như dự án bô-xít Tây Nguyên, đều là do sự vắng bóng hoàn toàn ở Việt Nam của các quy chế của một nhà nước pháp quyền, dân chủ, cộng hòa chính danh

Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung”

Để xảy ra hai sự việc trên, cũng như dự án bô-xít Tây Nguyên, đều là do sự vắng bóng hoàn toàn ở Việt Nam của các quy chế của một nhà nước pháp quyền, dân chủ, cộng hòa chính danh.

Trong đó hai yếu tố quan trọng nhất là dân không có quyền bầu ra đảng cầm quyền lãnh đạo theo chọn lựa của họ, do đó đây là nhà nước cộng hòa mạo danh.

Và thứ hai là luật pháp không chuẩn mực, được làm ra để phục vụ lợi ích của một đảng, không có hệ thống tư pháp độc lập, từ đó gây ra bất công xã hội.

Những lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm cao nhất vì họ nhận là họ có quyền lãnh đạo “trực tiếp, tuyệt đối, và toàn diện” mọi mặt đời sống xã hội.

Họ không thể đổ thừa là cấp dưới làm sai và chỉ tạm đình chỉ công tác của một vài cán bộ cấp sở, phòng.

Ở các nước dân chủ, chỉ cần một vụ việc như vậy là đã có thể khiến đảng cầm quyền phải ra đi, nhường lại quyền lãnh đạo cho đảng thắng cử.

Những bộ luật để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình đều bị nhà cầm quyền trì hoãn hoặc bóp méo, như các bộ luật về quyền tự do biểu tình, tự do lập hội, tự do báo chí…

Thiếu vắng hành lang pháp lý để tự tập hợp lại, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, để sửa đổi những bộ luật sai trái, để “biết”, “bàn”, “làm”, “kiểm tra”, những người dũng cảm lên tiếng phản đối những hành vi sai trái của nhà cầm quyền rất dễ gặp rủi ro như bị sách nhiễu, đàn áp, bắt giữ trái phép.

Lựa chọn cho Đảng

Cây xanh Hà Nội

Khách nước ngoài tham gia tuần hành bảo vệ cây xanh của người dân Việt Nam ở Hồ Thiền Quang, Hà Nội hôm 22/3/2015.

Dẫu còn đầy khó khăn như vậy, người dân Việt Nam đã không còn chấp nhận chịu đựng nữa mà bắt đầu phản kháng, không còn ở phạm vi cá nhân đơn lẻ mà đã bắt đầu đứng lại cùng nhau, lên tiếng cùng nhau để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Hãy nhìn những tấm ảnh người dân cùng nhau xuống đường biểu tình để bảo vệ cây xanh; nhìn trên cả mạng xã hội và báo chí chính thống cũng phản ứng quyết liệt với chuyện chính quyền Hà Nội chặt cây, chính quyền Đồng Nai lấp sông, với những quan chức khinh thường dân.

Nhìn vào việc người dân tự thành lập các tổ chức xã hội dân sự, không chỉ mang tính xã hội mà cả tính chính trị, ta có thể thấy việc chuyển đổi sang một xã hội dân chủ, công bằng đã bước sang một giai đoạn mới.

”  Hãy bắt đầu bằng việc trả lại quyền làm chủ cho người dân qua nhà nước cộng hòa chính danh, và tạo dựng xã hội công bằng qua luật pháp chuẩn mực

Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung”

Nếu nhà cầm quyền chọn cách đàn áp sự phản kháng của người dân, cuối cùng họ sẽ tạo ra những con người dũng cảm đấu tranh chống bất công.

Nếu nhà cầm quyền chọn cách bưng bít thông tin, lừa dối dư luận, cuối cùng họ lại đánh mất niềm tin của người dân – cốt lõi cho sự tồn tại của bất kỳ chế độ nào.

Nếu nhà cầm quyền chọn tiếp tục tước đoạt quyền làm chủ của người dân, cuối cùng họ đã buộc người dân phải đứng lên thực hiện quyền làm chủ của mình, bầu ra đảng lãnh đạo mới.

Và nếu những người lãnh đạo đảng cộng sản hiểu và thấm thía câu ca dao từ cổ xưa truyền lại “Bao giờ giặc nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa” như là lời tổng kết của dân gian với các triều đại đến rồi đi trên đất nước này thì họ sẽ hành động khác.

Và hãy bắt đầu bằng việc trả lại quyền làm chủ cho người dân qua nhà nước cộng hòa chính danh, và tạo dựng xã hội công bằng qua luật pháp chuẩn mực.

MƯU CHƯỚC

MƯU CHƯỚC

TRẦM THIÊN THU

Có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16:8). Sự khôn khéo ở đây mang nghĩa xấu, tức là mưu mô, mưu mẹo, toan tính và sắp đặt ngầm để thực hiện điều bất chính. Người ta gọi đó là mưu ma chước quỷ. Con người là sinh vật cao cấp nhất nhưng cũng nhiêu khê nhất vì luôn “biến hóa” với thất tình và lục dục (*).

Cổ nhân đã nói: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (ngậm máu phun người, trước tiên là bẩn miệng mình). Thế nhưng kẻ xấu vẫn làm, bất chấp mọi thứ. Suy nghĩ xấu dẫn tới ước muốn xấu, ước muốn xấu dẫn tới hành động xấu. MÀU liên quan SẮC. Cái gì ĐEN thì TỐI. Thánh Phaolô khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13:12). Đó là động thái đặc biệt của Mùa Chay Thánh.

Sau Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông: “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa” (St 9:8-11). Lời hứa đó của Thiên Chúa là điều diễm phúc cho cả nhân loại, vì không còn cảnh “tẩy rửa” địa cầu như thời Cựu Ước.

Thiên Chúa không hứa suông, mà Ngài cho dấu chỉ cụ thể và rõ ràng: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa” (St 9:12-15). Ngày nay, chúng ta thường thấy “cây cung” đó sau những cơn mưa to, và chúng ta gọi đó là Cầu Vồng, với bảy sắc màu lung linh rất đẹp, rất kỳ diệu.

Mỗi khi thấy Cầu Vồng, chúng ta lại được nhắc nhở về giao ước xưa, nghĩa là Thiên Chúa đã thứ tha, không trừng phạt nhãn tiền nữa. Nhưng đừng vì thế mà ỷ lại, cứ ung dung sống. Hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5).

Tạ ơn trong niềm hạnh phúc, nhưng cũng đừng quên sám hối. Mùa Chay là lời nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:6-9). Quả thật, nếu Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi (Tv 130:3).

Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Bửu Huyết của Đức Giêsu Kitô tẩy sạch mọi vết tội. Thánh Phaolô nói: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước” (1 Pr 3:18-20). Nước thật kỳ diệu, rất mềm mà rất cứng, người ta có thể “cắt” nước nhưng không thể làm “đứt” nước.

Tứ nước của Đại Hồng Thủy tới Phép Rửa, rồi Nước (và Máu) tuôn trào từ Thánh Tâm Chúa Giêsu khi lưỡi giáo đâm vào: “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền” (1 Pr 3:21-22). Tội lỗi là điều ghê tởm, ô uế lắm, nhưng may mắn chúng ta được rửa sạch nhờ Bí tích Thánh Tẩy. Và vì yếu đuối, chiếc “áo trắng” của chúng ta lại vấy bẩn, nhưng lại được “giặt sạch” nhờ Bí tích Giao Hòa (Giải Tội). Tội chồng lên tội, nhưng rồi phúc lại chồng lên phúc. Xui mà lại hên! Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục ăn chay và sám hối. Ăn chay và đền tội không chỉ cho chính mình, mà còn cho cả người khác trong tình liên đới Kitô giáo.

Trình thuật Mc 1:12-13 nói ngắn gọn về cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu chịu sau khi đã ăn chay ròng rã suốt 40 đêm ngày: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”. Trong Mt 4:1-11 và Lc 4:1-13 nói chi tiết hơn về cơn cám dỗ này: Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống, đệ nhất khoái trong tứ khoái của con người; cám dỗ thứ nhì về tính kiêu ngạo, “cái tôi” luôn là số dzách, nó có thể nổi dậy bất cứ lúc nào; cám dỗ thứ ba về danh vọng và địa vị, những thứ mà ai cũng muốn để chứng tỏ mình tài giỏi hơn người, chứng tỏ mình có “bản lĩnh”.

Đức Giêsu đã ăn chay trước khi khai mạc công việc rao giảng, điều đó cho thấy việc ăn chay luôn gắn liền với việc cầu nguyện. Việc cầu nguyện cần thiết trước khi hành động bất cứ điều gì. Một trong những điều quan trọng chúng ta cần cầu xin là “xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ” (Kinh Lạy Cha). Điều này đã được chính Chúa Giêsu dạy khi các môn đệ xin Sư Phụ dạy cách cầu nguyện.

Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Ngài nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Thời kỳ của chúng ta là thời kỳ cuối rồi. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta thấy ai mở miệng ra cũng than là “đạo đức xuống cấp” hoặc “suy thoái nhân bản”. Thật vậy, chưa cần va quẹt nhau, chỉ cần nhìn thôi, người ta có thể to tiếng hoặc ẩu đả nhau, thậm chí là rút dao đâm ngay, không hề gớm tay. Như vậy là người ta không muốn sám hối theo lời khuyên của Đức Kitô.

Người ta mưu mô và thủ đoạn, đủ dạng mưu ma chước quỷ. Văn minh tiến bộ thì tội lỗi cũng tinh vi hơn. Chắc chắn việc ăn chay, sám hối và đền tội càng cần hơn bao giờ hết. Ước gì mỗi chúng ta đều biết chân thành thú tội để được Thiên Chúa đại xá: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51:6).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết xa tránh và triệt tiêu mọi mưu ma chước quỷ, can đảm sống ngay thẳng trong tinh thần sám hối suốt đời, không chỉ trong Mùa Chay này. Xin Ngài nâng đỡ và bảo vệ chúng con trên suốt hành trình sám hối, đặc biệt trong Mùa Chay này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Thất tình: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Lục dục: [1] Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp; [2] Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai; [3] Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu; [4] Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng; [5] Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng; [6] Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn.

Suy tư Mùa Chay

Suy tư Mùa Chay


Vũ Van An

Mùa Chay năm nay quả có nhiều chuyện để suy tư: tình hình Kitô hữu tại Trung Đông, tình hình anh em Công Giáo tại Ukraine, chuyện hôn nhân và gia đình…, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hồi tâm và đổi mới con người mình.

Có điều, dưới triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, hồi tâm và đổi mới bao giờ cũng có chiều kích tha nhân, đi ra khỏi mình, gặp gỡ anh em, gặp gỡ bất cứ ai, nhất là những người thuộc các khu ngoại vi đủ loại, từ kinh tế tới tâm linh, dù cho phải bầm dập, thương tích.

Chính vì thế, trong sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Phanxicô kêu gọi ta phải hướng về người khác.

Đức TGM Aquila của Denver cho rằng về một vài phương diện nào đó, việc tràn lan các kỹ thuật truyền thông khiến người ta ít khi lưu ý tới người khác. Chỉ cần vặn nút máy truyền hình hay vào internet là thấy đủ mọi hình ảnh về các đau đớn và nhẫn tâm của con người. Nguyên số lượng khổng lồ các đau đớn cũng đủ làm ta chịu không nổi, đành tắt máy. Không có ơn thánh Chúa củng cố, ta chỉ có thể chịu được một số lượng bất nhân và đau đớn nào đó, trước khi khép lòng mình lại.

Nhưng trong sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề cập tới một khía cạnh đáng lưu ý hơn, đó là việc “hoàn cầu hóa lòng dửng dưng”. Ngài cảnh cáo ta về hiện tượng khắp trên thế giới, càng ngày càng có nhiều người hơn tự ý để lòng mình ra nguội lạnh và dửng dưng, chỉ biết quan tâm tới tiện nghi và phúc lợi riêng của mình. Ngài kêu gọi ta đấu tranh triệt hạ lòng dửng dưng này.

Ba khí cụ cổ điển của Mùa Chay đủ để ta thực hiện thành công cuộc đấu tranh trên. Ăn chay và kiêng thịt hay tiết chế các ham muốn nói chung là cách hay nhất làm tâm hồn ta dịu lại, chùng xuống. Khi sung sức và thoải mái, ta rất dễ quên khuấy các đau khổ và bất công mà những người kém may mắn hơn ta đang phải chịu; nói cách khác, ta dễ dửng dưng. Nhưng khi ta tự ý từ bỏ điều gì đó, sự hy sinh này giúp ta dễ cảm nhận các đau khổ của những người kém may mắn và tạo ra cánh cửa để Thiên Chúa bước vào chữa ta khỏi cơn bệnh dửng dưng.

Ăn chay cũng giúp ta nhận ra mình quá lấy mình làm trung tâm, và nhận ra các khuyết điểm của mình, dẫn mình tới bí tích hòa giải, nơi Thiên Chúa phục hồi ta trở lại địa vị làm con cái của Người. Cảm nghiệm được trở về với gia đình Thiên Chúa này hiển nhiên sẽ làm cái giá băng của tâm hồn ta tan biến, giúp ta nhìn mọi người như anh chị em…

Thói quen gia tăng cầu nguyện trong Mùa Chay cũng giúp ta cởi mở cõi lòng và phá tan dửng dưng. Nó làm thế nhờ nối kết ta với Chúa và hướng ta về cõi sống đời đời mà ta vốn được dựng nên để thụ hưởng. Đây là cảm nghiệm của Thánh Augustinô. Trước nhất, nhờ nghe Thánh Ambrôsiô thuyết giảng, nhưng điểm ngoặt là lúc ngài nghe một đứa trẻ hát câu “Hãy cầm lên mà đọc”. Tin rằng đây là lệnh truyền của Chúa, ngài cầm lấy cuốn Sách Thánh, mở ra trúng đọan thư Rôma 13:13-14: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. Cảm động về lời khuyên này, Thánh Augustinô cương quyết rời xa con đường say sưa, hưởng dục và ghen tương, mặc lấy Chúa Kitô…

Đọc Sách Thánh hàng ngày, như lời khuyên của Đức Phanxicô, nhân Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay vừa qua, có thể dẫn ta tới cùng một cảm nghiệm như trên, giúp ta ra khỏi mình và sống cho người khác.

Đức GH Phanxicô cũng cung hiến cho ta một lối đấu tranh chống dửng dưng khác là liên kết ta với hiệp thông các thánh. “Cùng với các thánh… ta trở thành thành phần của hiệp thông này trong đó, dửng dưng bị đánh bại nhờ tình yêu”. Trong hiệp thông này, ta được dự phần vào chiến thắng của Chúa Kitô đối với hận thù, dửng dưng và cứng lòng.

Sau cùng, ta có thể đấu tranh chống dửng dưng bằng cách hiến tặng những ai nghèo về tinh thần và vật chất. Có lẽ điển hình dửng dưng hiển nhiên nhất là khi ta bước qua hay lái xe qua một người vô gia cư và làm ngơ họ. Một số trong chúng ta tự đặt một khoảng cách giữa ta và những người túng thiếu vì mình cảm thấy bất lực không giúp gì được họ. Nhưng nếu bạn dành cho họ một cuộc chuyện vãn không thôi, nguyên việc này cũng đã mở rộng cõi lòng bạn rồi.

Đức Phanxicô dạy rằng: nhờ các hành vi bác ái, ta cảm nghiệm được “lời mời gọi hồi tâm, vì nhu cầu của họ nhắc ta nhớ tới những bất trắc của chính cuộc sống ta và sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa và các anh chị em ta”.

Mùa Chay là mùa chết lành sống khỏe

Kathleen Hirsch, một phụ tá giáo sư tại Boston College và là một nhà hướng dẫn tĩnh tâm, có một suy tư khác về Mùa Chay: Mùa này giúp ta chuẩn bị chết lành! Người chuẩn bị chết lành không hẳn là người sẽ chết sớm.

Bà kể câu truyện về một người giáo dân trong xứ đạo của bà. Cứ tạm gọi người nữ giáo dân này là Lan đi. Hai năm trước đây, Lan theo một đoàn hành hương qua Đất Thánh. Ở đấy, nàng tiết lộ với anh chị em cùng đoàn rằng 4 ngày trước đó, nàng được chẩn đoán mắc chứng ung thư tụy tạng và bác sĩ cho nàng hay sau khi viếng nơi Chúa Giêsu từng giảng dạy và làm phép lạ, nàng sẽ về nhà chờ chết.

Cả đoàn đặt tay lên nàng và trong suốt hành trình hành hương, họ luôn ở gần nàng. Về nước, họ tiếp tục gặp nhau và tiếp tục chăm sóc Lan, lái xe đưa nàng đi nhà thờ hoặc tới bệnh viện, đem đồ ăn tới cho nàng. Lan tiếp tục đi nhà thờ. Ngồi cạnh nàng, tác giả đau đớn nhìn nàng lảo đảo cố gắng đứng lên hay ngồi phịch xuống ghế hoặc với chai nước tu cho đỡ cơn khát do thuốc men tạo ra. Một ai đó luôn có mặt để giúp nàng lên chỗ rước lễ.

Nhiều tuần trôi qua, tác giả bắt đầu nhận thấy tuy cơn bệnh đang dần lấy đi cơ thể trước đây khỏe mạnh của nàng, nàng vẫn cố gắng xuất hiện ở nhiều nơi, có khi còn nhiều hơn trước. Nàng tới sớm để ngồi hàng đầu trong tuần lễ trang phục của London, tóc nàng chải gọn gàng, móng tay chăm sóc kỹ. Y phục được điều chỉnh cho vừa với cơ thể đang tóp lại dần của nàng.

Nhưng các thay đổi bên trong mới đáng kể. Lan trở nên rạng rỡ trông thấy, hơn trước nhiều. Một điều gì đó rạng sáng qua con người nàng. Khi nàng cười, đôi mắt xanh của nàng sáng lên, cả một thiên hà ánh sáng xuất hiện. Trước đây, vốn là một nhà chuyên nghiệp dè dặt, chọn người để quen thân, nay Lan trở thành người sẵn sàng ôm hôn, rất chân thực lưu tâm tới bất cứ ai khác. Nàng không muốn nói về chính nàng (“ồ, chuyện ấy đâu có thích thú gì”)…

Điều tác giả biết thêm là: 3 tháng đến rồi đi, rồi 1 năm rưỡi nữa qua và được tin nàng vừa qua thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Tình cờ một hôm gặp nàng, tác giả bảo “Chị quả là một phép lạ đang bước đi”. Nàng chỉ ôn tồn đáp lại “Phép lạ ư, chữ ấy làm em sợ. Nó quá lớn đối với đời em lúc này. Hàng ngày, em cám ơn vì khi thức giấc thấy mình còn sống. Điều ấy đủ cho em rồi”.

Tác giả không cho biết thêm chi tiết nào khác, nhưng trích dẫn lời Henri Nouwen nói rằng Mùa Chay giúp ta lưu ý đến tầm quan trọng của việc chết lành. Nhà tư tưởng này cho rằng câu hỏi cần đặt ra là làm sao để đời ta mang ích lợi lại cho những người ta để lại sau lưng?

Tác giả cho rằng cần phân biệt điều đôi lúc đáng muốn và điều thực sự lâu bền. Vấn đề là phải tái sắp xếp. Các tập ghi chép, các máy cuộn tóc, những lọ nước hoa của tác giả sẽ kết thúc ở những bãi đắp đất (landfills) nơi những con mòng biển tha đi chiếc bóp đầm tác giả mang theo tới những cuộc khiêu vũ đầu đời hôn nhân. Nếu thời gian ở hoang địa, ta làm tốt, giống như Lan và những vị ẩn tu thời xa xưa, ta sẽ không làm thế vì nhịn những thỏi xôcôla thơm phức hay những ly rượu ngọt lịm trong 40 ngày, mà là vì ta đã học đôi chút về cách làm thế nào để chết lành.

Làm việc Mùa Chay cho đúng là chay tịnh những trò chơi điên khùng của cái tôi: hãnh diện và ghen tương, những vương miện rách nát, những chua cay châm chọc, những thèm muốn tính dục…

Về những tiết chế sâu sắc đó, nhà văn Gertrud Mueller Nelson, trong cuốn “Nhẩy Múa Với Thiên Chúa” (“To Dance With God”), có viết:

“Những điều thiện ác bị đơn giản hóa mà trước đây ta từng biết đến không còn giá trị nữa… Bỗng nhiên, ta đối diện với một hoàn cảnh tại cái nơi ta thấy mình yếu thế nhất và ta biết đây là thử thách. Ta đang hướng tới cái chiều đi xuống của cuộc đời và ta ý thức được cái chết của mình. Trên con đường này, ta chết cả hàng trăm cái chết nhỏ. Ta chết khi vươn tay ra với người khác, mà không hòng gì được tuyên dương hay đền trả. Ta từ bỏ việc kiểm soát người khác và dành cho họ cuộc sống mà họ vốn sinh ra để sống…

“Chỉ khi nào đã đi hết các chiều sâu của việc tự biết mình và ý thức được cái hỏa ngục mà chính ta đã tự tạo cho mình, chỉ khi ấy ta mới yêu thương bằng việc đồng hóa với người khác, chỉ khi ấy, ta mới có thể bắt đầu trỗi dậy”.

VIẾT LẠI CUỘC XỬ ÁN CỦA CHÚNG TA

VIẾT LẠI CUỘC XỬ ÁN CỦA CHÚNG TA

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Khi kể về cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu, Thánh Kinh tập trung rất nhiều vào cuộc xử án Ngài, mô tả dài và chi tiết.

Và mô tả đó thật vô cùng sâu cay.  Chúa Giêsu bị xử án, nhưng lại được viết ra như thể, tất cả mọi người đang bị xử án, chứ không phải Ngài.  Các nhà cầm quyền Do Thái, những người đã lên kế hoạch bắt Ngài đang bị xử án vì lòng ghen tức và bất lương của họ.  Nhà cầm quyền Rôma, những người nắm quyền quyết định trong vụ này, đang bị xử án vì sự mù quáng về đạo của họ.  Các đồng bạn và những người đương thời của Chúa Giêsu đang bị xử án vì sự yếu đuối và phản bội của họ.  Những người thách Chúa Giêsu thể hiện quyền năng thiêng liêng của mình để xuống khỏi thập giá, họ bị xử án vì đức tin thiển cận của họ.  Và, cuối cùng nhưng không phải nhẹ tội, là chính mỗi chúng ta đang bị xử án vì sự yếu hèn, ghen tương, mù quáng tôn giáo và đức tin thiển cận của mình.  Đoạn viết về cuộc xử án Chúa Giêsu đọc ra như một bản kể tội phản bội của chúng ta.

Gần đây, Giáo hội đã cố để giúp chúng ta nắm bắt được điều này bằng cách đọc các đoạn Thương khó trong ngày Lễ Lá và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.  Ngày nay, trong nhiều nhà thờ, bản Thương khó được đọc theo cách phân vai, một người kể chuyện, một người đóng vai Chúa Giêsu, vài người khác đóng vai những người tham dự trong việc bắt giữ và xử án Chúa, và cả cộng đoàn đọc to lời của đám đông. Làm thế này không thể nào hợp lý hơn được nữa, vì một cộng đoàn trong bất kỳ giáo hội Kitô nào, và chúng ta, từng người trong cộng đoàn đó, bằng hành động hay lời nói, theo vô số cách khác nhau, đang họa lại hoàn hảo những hành động và lời nói của những người đương thời với Chúa Giêsu cùng với sự yếu hèn, phản bội, ghen tức, mù quáng tôn giáo, và đức tin sai lầm.  Chúng ta cũng vô số lần lên tiếng buộc tội Chúa Giêsu bằng chính lối sống của mình.

Ví dụ như, đây là cách chúng ta làm thế trong lời nói: Trong trình thuật theo thánh Matêô, trong cuộc xử án, Philatô ra trước mặt dân, những người chỉ mới năm ngày trước đã tung hô Chúa Giêsu là vua, nói với họ rằng, theo thông lệ vào ngày lễ Vượt qua, ông sẽ thả một tù phạm Do Thái.  Lúc đó, trong tù có một tên sát nhân hết sức bỉ ổi là Barabbas.  Philatô hỏi đám đông: “Ta sẽ tha cho ai, Giêsu thành Nazareth hay Barabbas.”  Đám đông la lên: “Barabbas!”  Philatô mới hỏi họ: “Vậy ta sẽ làm gì với Giêsu thành Nazareth?”  Đám đông đáp lời: “Dẫn hắn đi.  Đóng đinh hắn!”  Chúng ta có thể làm một phép ngoại suy rất rõ ràng thế này: Trong mọi lựa chọn luân lý của mình, lớn hay nhỏ, xét cho cùng, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện cũng là câu mà Philatô đã hỏi đám dân: Ta sẽ thả ai cho các người, Giêsu hay Barabbas?  Lòng nhân từ hay thói bạo lực?  Bỏ mình hay quy kỷ?

Cũng đám dân đó đã nói với Philatô rằng: “Chúng tôi chẳng có vua nào cả, ngoại trừ Ceasar!”  Khi nói thế, họ đang chối bỏ niềm hi vọng của mình về Đấng Messiah để đổi lấy sự an toàn tạm thời.  Chúng ta cũng nói như thế, mỗi khi, vì lợi lộc của mình, chúng ta bán rẻ những lý tưởng cao hơn, và chọn lấy cái thứ yếu.

Cũng vậy, quá thường xuyên, chúng ta lặp lại những lời của đám dân đang thách Chúa Giêsu bị treo trên thập giá bằng những lời: “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá, cứu lấy chúng ta, và cứu cả ngươi nữa.”  Chúng ta cũng nói như thế bất cứ lúc nào chúng ta cầu nguyện như thể đang thẩm xét sự hiện hữu và tốt lành của Thiên Chúa, nếu chúng ta có một câu trả lời theo ý mình thì đó là Chúa yêu chúng ta, còn không, chúng ta sẽ bắt đầu hoài nghi Ngài.

Dĩ nhiên, cũng như vậy với hành động của chúng ta:  Như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có xu hướng ở bên Ngài khi mọi chuyện tốt đẹp, khi cám dỗ không quá mạnh, và không phải đối diện với những đe dọa thực sự, trực tiếp đến mình.  Nhưng cũng như môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có khuynh hướng chối bỏ và phản bội khi mọi chuyện trở nên khó khăn và nguy hiểm.  Hơn nữa, như các người có quyền đến bắt Chúa Giêsu với đèn đuốc sáng, chúng ta cũng thường thích soi rọi ánh sáng của mình lên Đấng là Ánh sáng của mọi Ánh sáng, và như những người đến bắt Chúa Giêsu, chúng ta có khuynh hướng mang theo gậy gộc và gươm giáo, sẵn sàng giao tranh, khi đến gặp Vua Hòa bình.

Nói chung, khi đọc trình thuật về Cuộc Thương khó và Cái chết của Chúa Giêsu, khuynh hướng bộc phát của chúng ta là lên án gay gắt những người dự phần trong việc bắt giữ, xử án, và kết án Ngài: Làm sao họ không nhìn ra được mình đang làm gì?  Tại sao họ quá mù quáng và ghen tức như thế?  Làm sao họ chọn lấy một bảo đảm sai lầm thay vì chốn nương ẩn vĩnh hằng bên Chúa?  Làm sao họ chọn một kẻ sát nhân thay vì Đấng Messiah?  Làm sao mà các môn đệ quá dễ dàng chối bỏ Chúa?

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng chẳng có nhiều thay đổi đâu.  Chọn lựa của những người trong cuộc xử án và kết án Chúa Giêsu, cũng chính là những chọn lựa mà chúng ta đưa ra ngày hôm nay.  Và gần như mọi ngày, chúng ta chẳng làm gì tốt đẹp hơn họ, vì, với sự mù quáng và tư lợi, chúng ta vẫn và quá thường xuyên, nói rằng: Dẫn hắn đi.  Đóng đinh hắn vào thập giá!  Thế đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Từ cây xanh đến con sông, một tội ác không thể tha thứ

Từ cây xanh đến con sông, một tội ác không thể tha thứ

Lê Diễn Đức

Nếu đến thành phố St. Petersburg, ta mới thấy được tầm nhìn xa của Pie Đại đế trong việc quy hoạch đô thị.

Cách đây hơn 300 năm, vào năm 1703, Pie Đại đế đã phát lệnh khởi công xây dựng thành phố Sankt Peterburg. Vào lúc ấy phương tiện đi lại thông dụng là xe ngựa, vậy mà hơn 300 năm sau, những con phố chính ở khu trung tâm với cây xanh và vỉa hè rộng thênh thang vẫn đủ mở những con đường hai chiều, mỗi chiều hai ba lằn xe hơi. Kinh nghiệm của Pie Đại đế sau những cuộc đi thăm viếng phuơng Tây cùng với đầu óc viễn kiến đã làm cho S. Petersburg trở thành một thành phố du lịch đẹp nổi tiếng nước Nga.

Năm 1990 nước Đức thống nhất. Một phần tư lãnh thổ hợp nhất với ba phần từ còn lại, đã ngốn hàng ngàn tỷ D Mác mà vẫn không thể cân bằng được mức sông Đông-Tây. Chi phí lớn nhất cho tiến trình hội nhập Đông Đức với Tây Đức là giải quyết bảo vệ môi sinh, thậm chí một số nhà máy phải đóng cửa vì mức độ xả nước thải công nghiệp ra sông gây ô nhiễm quá lớn.

Ba Lan, nơi tôi sống nhiều năm, sau khi gia nhập Liên minh châu Âu năm 2005, đã nhận được hàng chục tỷ euro cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, tiền đầu tư cải thiện môi trường chiếm tỷ trọng rất cao, nếu không nói là nhiều nhất.

Chặt đốn cây ở Ba Lan trong thành phố cần phải có giấy phép của cơ quan chức năng nhưng không phải đối với loại cây nào cũng có thể cho phép. Chặt đốn cây xanh có tuổi trên 10 năm trong sân vườn nhà của mình cũng đòi hỏi phải có giấy phép. Tiền phạt cho những vi phạm tổn hại cây xanh được quy định cao đến mức gần như phi lý.

Sau khi chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ vào năm 1989, từ thập niên 90 đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, thủ đô Warsaw như một công trường xây dựng. Quy hoạch và phát triển thành phố từ cấu trúc của xã hội chủ nghĩa cũ thật khó khăn. Khắp nơi, ở đâu cũng thấy cần cẩu, người ta xây những khu nhà mới hay những ngôi nhà cao chọc trời ở giữa trung tâm, các nhà ga tàu điện ngầm mọc lên, nhưng tôi không nhìn thấy một cây xanh nào bị đốn, mà chỉ thấy các thảm cỏ và cây xanh được trồng thêm.

Quy hoạch và phát triển đô thị đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn cho hàng chục, hàng trăm năm sau. Nếu chỉ làm đến đâu biết đến đấy, theo lối ăn xổi ở thì, thì tương lai không biết sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho đủ để cứu vãn môi trường bị huỷ hoại.

Kế hoạch chặt đốn 6.700 cây xanh ở Hà Nội là thể hiện cái nhìn một chiều ở tầm rất thấp.

Tôi chưa thấy hay nghe nói có một thành phố nào trên thế giới chặt đốn hàng ngàn cây xanh cổ thụ đồng loạt và vội vã như thế.

Vấn đề thay những cây quá già, bị sâu mọt, có thể gây hiểm hoạ giao thông, ở đâu người ta cũng làm, nhưng chỉ thay thế những cây xấu ấy bằng cây khác, tuyệt nhiên không có tình trạng đốn hàng trăm cây trên một con phố, kể cả những cây còn xanh tốt như ở Hà Nội. Nếu cây cối gây cản trở cho các dự án phát triển đô thị thì công trình buộc phải bảo quản tối đa cây xanh và có biện pháp di dời thích hợp.

Cây xanh là lá phổi của thành phố. Những cây xà cừ, cây sấu, hoa sữa với tuổi thọ cả trăm năm, mang trên mình những thăng trầm lịch sử, che chắn mưa gíó, mang bóng mát cho con người, là một trong những nét đặt thù của thủ đô Hà Nội trữ tình và lãng mạn.

Bỗng nhiên bị tước đoạt vô căn cứ một phần dưỡng khí, người Hà Nội nổi giận, biểu tình phản đối quả thật hợp lý. Chưa cần nói tới việc đằng sau kế hoạch chặt đốn cây có nhữmg lợi ích mờ ám nào của các quan chức lãnh đạo thành phố Hà Nội mà công luận đang đòi hỏi phải làm rõ.

Khi câu chuyện cây xanh Hà Nội vẫn đang là chủ đề nóng thì nghe nói người ta đang cho phép doanh nghiệp tư nhân lấp sông Đồng Nai.

Hệ thống sông Đồng Nai cung cấp nước sinh hoạt cho 18 triệu người thuộc 11 tỉnh thành gồm Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắk Nông, Ninh Thuận và Bình Thuận.

Nước sông Đồng Nai đang có các chỉ số ô nhiễm vượt quy chuẩn. Chất lượng nước từ con sông này đang bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ, vi sinh, kim loại nặng…  Các nhà khoa học, cơ quan chức năng đều khẳng định nguyên nhân là do nguồn nước thải từ các khu công nghiệp, dân cư… và sự quản lý yếu kém của các cơ quan liên quan.

Theo ông Lê Văn Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nước và Môi trường (Bộ Xây dựng), hệ thống sông Đồng Nai đang bị ô nhiễm trầm trọng. Mỗi ngày con sông tiếp nhận trên 500 ngàn mét khối nước thải công nghiệp từ trên 60 khu công nghiệp và gần 2 triệu mét khối nước thải sinh hoạt từ các khu đô thị, trong đó trên 60% nước thải công nghiệp và 85% nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý. Dự kiến đến năm 2020, tổng lượng nước thải đô thị, nước thải công nghiệp thải ra sông Đồng Nai mỗi ngày có thể lên đến gần 4,5 triệu mét khối.

Ông Tuấn cho rằng, nếu các tỉnh thành trong lưu vực không có đột phá trong xử lý nước thải, bảo vệ nguồn nước thì hệ thống sông Đồng Nai sẽ càng ngày càng ô nhiễm nặng nề và có nguy cơ trở thành dòng sông “chết”!

Thế mà, gần đây, nhà chức trách Đồng Nai bằng quyết định 2230/QĐ-UBND ngày 21/07/2014 và quyết định số 2827/QĐ-UBND ngày 15/09/2014, đã cho phép Công ty Toàn Thịnh Phát lấp một phần sông Đồng Nai để thi công dự án “Cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng Nai”, còn có tên là dự án “The Pegasus Riverside”.

Công trình này có chiều dài 1,3 ki lô mét, từ Công viên Nguyễn Văn Trị đến cầu Rạch Cát, thành phố Biên Hòa, dự kiến hoàn thành vào năm 2022 với tổng mức đầu tư là 3 ngàn 200 tỷ đồng.

Tổng diện tích đất của dự án là  84 ngàn mét vuông, trong đó phần lấn sông hơn 77 ngàn 200 mét vuông, chiếm trên 90% diện tích, đoạn lấn ra sông xa nhất đến hơn 100m (đoạn từ cầu tàu nhà máy nước Biên Hòa), theo báo Xây dựng điện tử thuộc Bộ Xây dựng.

Thông thường về nguyên tắc xây dựng, thiết kế ven sông, biển bao giờ cũng dành đất để làm hành lang bảo vệ có khi đến 50 mét. Đây là điều bắt buộc và không một dự án nào, nhất là dự án thương mại, có thể vi phạm. Cho phép công ty Toàn Thịnh Phát đầu tư, nhà chức trách Đồng Nai đã đạp bỏ lên nguyên tắc cơ bản nhất.

Dự án lấp sông sẽ bê tông hóa lòng sông làm thay đổi dòng chảy, ảnh hưởng đến hệ sinh vật và làm mất đi cơ chế tự bảo vệ, tự làm sạch của dòng sông. Điều đáng quan ngại nữa là khi dòng chảy thay đổi thì sẽ làm xói lở bờ bên kia, đặc biệt nguy hiểm đối vời khu dân cư đông đúc…

Nhà chức trách Đồng Nai đã không lấy ý kiến của người dân mà cũng không hề hỏ ý kiến các chuyên gia của Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai. Ông Bùi Cách Tuyến đã nói với báo giới: “Họ làm độc lập. Chúng tôi không được tham vấn. Với tư cách là Phó chủ tịch Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai, tôi không biết và với tư cách là Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường, tôi cũng không hay về dự án này.”

Hiện vẫn chưa có phương án cụ thể nào trong một ngày gần để xử lý tổng thể nước sông Đồng Nai trước nguy cơ ô nhiễm, thì việc cho lấp một phần sông dáng thêm một đòn cho dòng sông “chết” hẳn!

Cái giá để phục hồi đối với sông Đồng Nai rồi sẽ rất khủng khiếp, chắc chắn lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh tế sẽ không thể đủ để bù đắp cho chi phí cải thiện môi trường.

Vì những quyền lợi ích kỷ hôm nay, nhà chức trách Hà Nội và Đồng Nai đã xem nhẹ hậu quả từ những quyết định ấu trĩ và ngu xuẩn. Vì đồng tiền mà thiển cận, làm ngơ trước hiểm hoạ huỷ diệt môi trường là tội ác.

Hãy xem lại lương tri và tỉnh ngộ khi còn kịp!

© Lê Diễn Đức – RFA

Vương sầu nơi nao, ý thắm tàn mau,

“Vương sầu nơi nao, ý thắm tàn mau”,
Chưa nguôi yêu dấu, mắt đã hoen mầu thương đau.
Khóc lúc đêm thâu.
Ôi tiếng lòng lơ láo, đón làn nước mắt ngày nào.”

(Nhạc Chopin: Tristesse – Lời Việt: Phạm Duy: Sầu)

(2 Cor  2:7, 14)

Trần Ngọc Mười Hai

Nhạc Chopin hay là thế, mà sao người viết lời Việt lại đặt tên là “Sầu”, nghe cũng rầu. Nhạc rất tuyệt, lời lẽ tình tứ chứ nào có nghĩa sầu đau hay sầu mộng đâu. Không tin ư? Vậy thì, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm ý nhạc có tình-tiết rất như sau:

“Khúc tình đầu, hẹn về sau.
Lắng về môi xưa, bỗng thấy buồn đưa.
Xa xôi là nhớ, lúc duyên ra đời trong mơ.
Tiếng hát đương tơ,
Ta muốn níu em về với dòng châu.
Ta hướng hết u sầu đến đời sau,
Ta muốn tìm mau tới cõi nào nương náu.
Cho ta vừng sao, giá băng như niềm đau.
Xót xa như tình mới,
(Khóc cười cho)
Tâm hồn lên khơi,
Sẽ thấy sầu nguôi.
Cho ta tìm tới kiếp vô biên chẳng tàn phai
Cất tiếng qua đời.”

(Sầu/Tristesse – bđd)

Vẫn biết rằng: hễ cứ “sầu” thì phải như thế! Như thế, tức: sự thể nghe ra cũng sầu mà không buồn. Và, chẳng rầu đến nỗi nào đâu. Xem như thế, tức: sự thể bạn và tôi đây tuy vẫn nghe, nhưng đừng nên mường tượng rằng đó chính là mối sầu buồn, ở đời, đến với người.

Ừ thôi. Không tin hoặc không chịu tin, thì bạn và tôi, ta cứ lặng nhìn đời ở câu kết, sẽ thấy:

“Ta sẽ thoát linh hồn giữa nẻo xa.
Ta hoá kiếp nên lời hát bài thơ.
Ta biến thành tâm tư mối tình tan vỡ.
Cho ta thành mơ,
Sống yên trong nghìn thu.
(Sầu/Tristesse – bđd)

Thế mới biết, nên phát khiếp. Khiếp, là bởi: “Thoát linh-hồn giữa nẻo xa”, tựa hồ tình-tiết của những vị từng “kinh”-qua giai-đoạn sầu/buồn, ở đời.

Thế mới khiếp, nên đã biết: đời người không chỉ mỗi chuỗi ngày đớn đau/sầu buồn, rất lã chã. Thế mới tường, còn là chuỗi ngày có vui và có buồn như ngày-dài-cuộc-đời mà người người người từng trải qua cơn binh-biến, nhưng vẫn bình an, tươi vui.

Tươi và vui, như lập-trường của người viết ở dưới đây:

“Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát. Hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc nồng, như bài hát ở các xứ đạo nói tiếng Anh lại vẫn ca những lời như: “How Great Thou Art”, nghe chưa chuẩn cho lắm. Chí ít, là tiểu khúc, ở câu 3 qua đó tác giả lại vẫn dẫn ý rằng: “Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau vẫn cứ là. Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết, Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.”

Vâng, tiểu khúc trên, dù có mang cả một truyền-thống ý-nghĩa thế nào đó, lại vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như một hành-động chuộc lại những tội và lỗi, do Cha muốn.

Nhận định như thế, tức bảo rằng: khổ đau và sự chết của Đức Giêsu là giá “chuộc mạng” mà Ngài quyết thanh-trả cho bọn xấu, để ta chia-sẻ sự sống với Cha. Như một chọn lựa rất đúng, cái chết của Đức Giêsu phải được coi như hành-động duy-nhất làm Cha nguôi giận về tội thờ ơ của con người. Chính vì thế, nên Cha vẫn thương-yêu loài người như trước.

Nhạc ướt át như thế, đôi lúc cũng làm ta hãi sợ. Có sợ hãi, nên mới kiểm-tra xem lời ca/ý nhạc, có hợp và chuẩn với thần-học ta nghe dạy, hay không. Một đằng, thần-học nhà Đạo vẫn khẳng định rằng: tình thương-yêu đặc-biệt Chúa tặng ban, lại vẫn cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, còn diễn tiến qua mọi thăng trầm cuộc sống, khi vui cũng như lúc buồn, mới đúng.

Đằng khác, khi ca hát, ta thường kể nhiều về nỗi khó, buồn phiền được Chúa gánh chịu. Xem như thế, há chẳng phải ta vẫn chủ trương rằng: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao-dung, cứ đẩy Người Con Thân Yêu của Ngài vào nỗi chết tủi nhục sao? Há ta lại coi đây như phương-cách có-một-không-hai khiến Ngài hài lòng, hay sao? (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Tư ngày Lễ Lá năm B www.suyniemloingai.blogspot.com 29/3/15)

Nhạc “Sầu” cho người yêu dấu, đôi lúc làm người nghe liên-tưởng đến tình-huống sống Đạo của những người quyết theo Chúa phải suy-tư, nghĩ-ngợi. Nhiều lúc/nhiều khi, còn lung lay/bối rối, nên mới thực-hiện cuộc sống thật rất khác. Khác, như nhận-định của vị linh-mục dẫn ở trên, nay tiếp tục nhận-định:

“Đời sống đức tin của người đi Đạo, đôi lúc làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay được nhắc nhớ, rằng: Đức Chúa ở trên cao vẫn thương-yêu hết mọi người, dù con người lầm lỡ, lỗi phạm nhiều mấy đi nữa.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, nhiều trường hợp, việc ấy không phải do họ mà ra. Nhưng, do người khác đối xử với họ không theo “phép” Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người” một cách lạ kỳ, buồn bã hay rất “Sầu”? Người khác đây, lại có thể là người biết nhiều, hiểu nhiều.

Nhưng, đứng từ góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình và cho rằng: Đức Kitô là nạn-nhân của thánh ý Cha khi Ngài chấp-nhận đau khổ và cái chết. Hiểu như thế, tức bảo rằng: Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải hy-sinh. Vẫn muốn Con chuộc mạng, để đổi chác tội-phạm của con người, hòng tha thứ cho họ, sao?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ-nhận mà bảo rằng: mình là nạn-nhân của Đức Chúa, cũng không chừng. Giả Cha muốn Đức Kitô phải chịu khổ-đau và chết-chóc, thì về phía ta sao cứ buồn khi lĩnh-nhận đau-khổ tưởng-chừng-như-quá-nặng?

Suy-tư như thế này, sẽ tạo thêm nghi ngờ rằng: bài Thương khó thánh Mác-cô ghi, có thể đã nhấn mạnh lên tính miễn-cưỡng/bó buộc của Đức Chúa khi Ngài chấp-nhận khổ-đau/sầu buồn ư? Quả là, thánh sử có nhắc đến việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo/túi cơm. Làm bạn với bọn “phản phé”. Làm thầy những người chối-từ sự thật, bỏ của chạy lấy người, nhưng không thể hiểu như thế đưọc. Không thể theo khuynh hướng này được.

Bằng không, sẽ có người ngờ rằng: thánh Mác-cô ám-chỉ là: Đức Chúa hoảng sợ trước cái chết ô-nhục, đang trờ tới. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng kêu “Lạy Cha!”, tức là Ngài cất lên lời tả oán cốt cứu Ngài khỏi cơn “Sầu” và muộn phiền, hay sao? Cuối cùng, hiểu theo hướng này, hẳn sẽ có người lại cứ nghĩ: Đức Giêsu đã nhận “làm theo ý Cha”, nhưng vào phút cuối, Ngài lại thấy mình như bị bỏ rơi trên thập giá, chứ? Không. Đó không là thần học của Đạo Chúa. Đó không là triết-lý của dân-gian tình người…” (x. Lm Richard Leonard sj, bđd)

Theo như điều được đấng bậc dẫn-ở-trên lên tiếng bảo: thần-học nhà Đạo, bao giờ cũng nên suy-nghĩ cho chín-chắn, để hướng-dẫn người đi Đạo sống thực đời đi Đạo bằng những tươi vui đích-thị như ý-định Ngài tỏ-lộ cho biết.

Hệt như thế, nếu là người viết nhạc thì cũng nên cẩn trọng kẻo lại mất cả ý-nghĩa của thập-giá là: không “sầu/buồn” dù đang ở vào mùa chay kiêng/tịnh khẩu, rất Phục Sinh. Bởi, tinh-thần Phục Sinh trong suốt đời, không có nghĩa: cứ phải hát những bài “sầu/buồn” chảy nước mắt trong mùa “Tím”.

Tinh-thần Phục-sinh phải có ở những điều được bậc thày ở Úc, lại nhận-định tiếp:

“Đọc kỹ đoạn Kinh Sách trong đó nói: Đức Chúa chấp-nhận thánh-ý của Cha tại Vườn Dầu âu-sầu, day-dứt thay vì hiểu theo hướng xấu, rồi đổ riệt mọi lỗi/tội cho Cha, có lẽ ta nên coi đây như một khẳng định, rằng: Đức Kitô vẫn một lòng chung-thủy với đường-lối Ngài tuân-thủ trong hành xử với Cha và với con người. Ngài vẫn một mực tuân-phục thánh ý của Cha. Tuân phục cho đến chết. Tuân và phục, đến độ thương-yêu con người đến hơi thở cuối.

Có như thế, Đức Giêsu mới trấn-át được giới chức trong đạo/ngoài đời, thời bấy giờ. Ngài qui-chiếu khẳng-định nòng-cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được Ngài, ngoài việc ra tay ám hại Ngài. Xem như thế, thì: qua việc chấp-nhận cái chết trong tuân-phục, Ngài hy-sinh đến phút cuối ngõ hầu chứng-tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến mức nào.

Điều này cho thấy: Đức Giêsu đã sống thực tư-cách “người” của Ngài. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền-lực đen tối dẫn đến nỗi chết thể xác rất nhục hơn bao giờ.

Ngày hôm nay, có kinh qua nỗi thống-khổ của thập-giá, và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá mình phải trả, khi giáp mặt thực-trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu-cầu của “Vương Quốc Nước Trời” bình an, công chính.” (Lm Richard Leonard sj, )

Nhận-định về nỗi “Sầu” nhè nhẹ của nhà Đạo, như đấng bậc nhà mình từng tô vẽ. Nhận-định về nỗi “Sầu” đời người, trong đó con người lại cứ hát những lời ca vẫn cứ bảo:

“Vắng tanh như đời gió.
Ðắm trong tình cũ.
Bóng ta còn nhớ.
Thiên thu sầu u.”

(Sầu/Tristesse – bđd)

Nhận-định như đấng bậc lành thánh ở mọi thời, còn là nhận-định rất rõ như sau:

“Vì vậy, tốt hơn,

anh em phải tha thứ và an ủi,

kẻo người đó bị chìm đắm trong nỗi ưu phiền quá mức chăng.

Cho nên, đối với người đó,

tôi khuyên anh em

hãy đặt tình bác ái lên trên hết.”

(2Cor 2: 7)

Thành ra, dù hát nhiều về nỗi “Sầu” của ai đó, có lẽ cũng đừng để họ và mình chìm đắm trong nỗi “Sầu” buồn “quá mức chăng”. Nhưng trái lại, người đi Đạo và sống Đạo thực, lại cứ phải thực-hiện những điều được đấng thánh hiền-lành, chủ-trương như sau:

“Tạ ơn Thiên Chúa,

Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô,

tạ ơn Người

là Đấng đã dùng chúng tôi

mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô,

như hương thơm,

lan toả khắp nơi.

(2 Cor 2: 14)

Vâng. Đúng thế. Ta và người chỉ có thể tham-dự vào sự-khải-hoàn trong Đức Giêsu Kitô, mà thôi. Và tham-dự như thế, chỉ có thể cảm tạ liên-hồi về những sự và những việc Ngài làm vì tình thương-yêu người và mình, suốt mọi thời.

Vâng. Chỉ có thể hiểu nỗi “Sầu” của người đời, không là chuyện thiên-thu tự chuốc lấy những phiền muộn do tự mình hoặc người khác. Mà, phải đặt tình bác-ái lên trên hết. Bởi, chỉ có tình bác-ái mới giải-quyết được hết mọi sự và mọi việc.

Chỉ có lòng từ-bi nhân-hậu với chính mình và mọi người mới khiến người và khiến mình nghĩ đến “hương thơm lan toả khắp nơi” vào mọi thời. Hương thơm chỉ lan toả khắp mọi nơi vào mọi thời, khí hương đó là hương tình thương, hoặc còn gọi là tình người người, rất yêu đời, mà thôi.

Vâng. Người viết lên ý-nhạc và chính lời ca, vẫn diễn-tả một sự và một việc rất như thế, dù có “sầu” nhưng không buồn. Sầu-nhưng-không-buồn, lại chính là nỗi sầu chóng qua, nhè nhẹ, không trì-chiết. Sầu ấy, chỉ là “sầu” ở lời nói chóng qua, rồi sẽ khác. Nỗi “Sầu” ấy, sẽ và vẫn chỉ là những tình-tự được người nghệ-sĩ diễn tả không chỉ bằng lời, mà bằng giọng hát rất mượt mà, tình-tứ như sau:

“Ta sẽ thoát linh hồn giữa nẻo xa.
Ta hoá kiếp nên lời hát bài thơ.
Ta biến thành tâm tư mối tình tan vỡ.
Cho ta thành mơ,
Sống yên trong nghìn thu.
(Sầu/Tristesse – bđd)

Vâng. “Sầu” ở đây, tình-tự ấy, còn được diễn tả bằng thơ văn, truyện kể vẫn kéo dài câu chuyện đời, với mọi người. Chuyện đời, là những chuyện cười ra nước mắt tuy rất nản nhưng không “Sầu”. Bởi lẽ, có sầu thì làm sao cười được, như nhận-định của bậc thày dạy khác từng đặt vấn-đề “sầu buồn” tội phạm, những đền bù, vào một tóm gọn tình hình Hội thánh như sau:

“Nay, cũng nên đặt vấn-đề thế này: mọi người công-nhận rằng biến-cải là hành-động thuận theo ý Chúa. Xem thế thì, biến-cải đây phải chăng là cải-hoán chốn gian-trần? Hoặc, việc đó chỉ là cải-biến căn-bản ở trên trời, chứ không phải trần-thế? Phải chăng, Thiên-Chúa sai phái Đức Giêsu xuống thế làm người, là để cứu ta ra khỏi vòng cương-toả của ác-thần/sự dữ, lúc này? Hoặc, cốt để đưa ta vào chốn miền nào đó (tựa như thiên-đàng) ở đó không có ác-thần/sự dữ cần loại bỏ?

Và, để phá-bỏ mọi thúc-bách từ xã-hội, hoặc để ban cho ta trạng-huống thiên-đàng sau thời sống với xã-hội trần-gian, qua đó ta không còn nghĩ về những thúc-bách như mình hiện ở trần-gian, không? Phải chăng việc gặp gỡ Đức Kitô trước tiên là gặp Ngài trong hoàn-cảnh hiện-tại ta đang sống; hoặc: ta chỉ gặp được Ngài vào lúc đang và chỉ sau khi chết, mà thôi không? Ta có sống đích-thực điều Chúa dạy trước khi chết, không? Ta có chết, trước khi mình vẫn sống chứ? Phải chăng, Chúa gỡ bỏ trạng-huống khốn-khổ ta thường gặp ngay bây giờ? Hoặc, Chúa chịu-đựng trạng-huống ấy lúc này, là để gỡ bỏ nó cho ta được phục sinh/trỗi dậy thực sự?

Có điều là, tư-duy thời hậu-Công-đồng Vatican 2, lại tiếp-nhận cung-cách sống “ở dưới đất”, nên mới thất-bại khi quan-hệ với truyền-thống và những người có nhu-cầu khẩn-thiết, sâu-sắc. Sự việc này, tựa như “xối nước” lên đường-lối sống Đạo theo kiểu thông-thoáng. Thế nên, từ đó, mới cần tái rao-truyền Phúc Âm cho tín-hữu nào còn sống như thế. Cần đào sâu, sự việc gần cận tính hiện-đại hơn. Nói theo cung-cách sử-học, thì: sống kiểu này, là để định-vị chính mình vào mẫu-mã của địa-cầu trần-gian như nghị-trình Thời Khai-sáng từng tạo ra, lúc đó.

Từ Công Đồng Vatican 2 đến nay, lại thấy nhiều cuộc-chiến cứ diễn ra bên trong vùng đất Giáo-hội. Cuộc-chiến này, là thứ thánh-chiến vẫn tiếp-tục như cuộc chiến kéo dài 30 năm, thời Phục-Hưng. Chủ-thuyết sống Đạo cách thông-thoáng, lại đưa thêm uy-lực cả vào trong đó. Nay, nó hiện-diện trong cuộc thiết-dựng đạo-giáo và lý-lịch nền-tảng đa-văn-hoá theo tầm-cỡ rất toàn-cầu. Ngõ hầu tránh né một cuộc chiến đích-thực lại sẽ xảy ra; hoặc ít ra, lại cũng như các chính-phủ dân-sự vẫn coi đạo-giáo có hiệu-quả tương-đương và xứng đáng được lợi-lộc dân-sự so với thể-chế dân-chủ.

Điều này, do chủ-thuyết “duy-lý” vốn không cởi mở và chấp-nhận ảnh-hưởng từ “truyền-thống siêu-nhiên”.

Cũng thế, các đại-học theo kiểu của người Anh và người Đức có truyền-thống hậu-Phục-hưng và các thể-chế “chuyên-nghiệp”. Tức, có nghĩa: nói về thời-đại mới khai phá, thì các thần-học-gia khi xưa thường là giám-mục hoặc các thày Dòng khắc-kỷ, chứ không phải bậc thày giảng dạy, như ngày nay. Thế nên, do bởi muộn-phiền gây ra do nền giáo-dục thông-thoáng, hiện-đại và lề-lối suy-tư then chốt, các đấng bậc thày dạy về Đạo lâu nay được huấn-luyện theo truyền-thống như thế, vẫn dắt dìu kẻ-tin vào tầm-hướng nhiều sai lạc…” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR, “Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa”, dịch-phẩm đang in)

Thì ra là như thế. “Sầu” nhưng không buồn ở nhà Đạo đôi khi cũng mang ý-nghĩa rất khác lạ. Khác và lạ, hơn thời trước cũng rất nhiều. Khác và lạ, khiến mọi người trong cuộc hoặc “ngoài luồng” vẫn hay đặt thành vấn-đề, khá lung-khởi. Khác và lạ, như một chuyện phiếm những Đạo vào đời, cần khai-triển.

Khai-triển bằng nhiều cách tương-tự như trường-hợp dung truyện kể để minh-hoạ cho vấn-đề đang đặt ra. Truyện để kể, không chỉ cười xoà rồi thôi, nhưng khiến người đọc và nghe suy-nghĩ nhiều như câu truyện ở dưới được đặt cho cái tên vô-thưởng-vô-phạt như chuyện “Tôi kể bà nghe”:

“Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau buồn cười lắm!

Chúng mình bên nhau cả đời chưa chán,

Chúng nó bên nhau tính tháng, tính ngày.

Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau lạ lắm thay

Thời chúng mình, cái nắm tay cũng làm cả làng dị nghị,

Chúng nó thì nhận lời hôm trước, hôm sau đã đưa nhau vào nhà nghỉ,

Làm cái chuyện động trời!

Tôi kể bà nghe…

Chẳng biết tôi với bà đã quá lỗi thời,

Hay là vì lũ trẻ bây giờ học đòi tân tiến.

Chúng nó nghĩ yêu là phải hết mình dâng hiến,

Thế là mặc sức cho đi mà chẳng nghĩ đến cha mẹ, họ hàng…

Tôi kể bà nghe…

Ngày xưa chúng mình tìm hiểu nhau đứng đắn, đàng hoàng,

Bây giờ lũ trẻ nứt mắt ra, học cấp ba đã học đòi yêu đương dấm dúi,

Điện thoại tân thời, áo quần cũn cỡn, xe số xe ga…chúng nó đưa nhau

vào bờ, vào bụi…

Chẳng ra cái thể thống gì!

Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau rất lạ kỳ.

Chúng nó bảo yêu say đắm, yêu hết mình,

mà chẳng có bao nhiêu đôi đi được với nhau đến cùng trời cuối đất.

Chúng nó lướt qua cuộc đời nhau như chẳng có gì để mất,

Biến “Tình yêu” thành cái định nghĩa hết sức tầm thường…

Tôi kể bà nghe…

Tôi với bà tình thương mến thương

Hơn sáu chục năm trời mà thấy vẫn còn chưa đủ…

Lũ trẻ bây giờ chán rồi bỏ nhau, thất tình khóc xong rồi ngủ,

Sáng mai tỉnh dậy lại tươi tắn rêu rao :”Tìm một nửa thất lạc của đời

mình”.

Tôi kể bà nghe…

Ngày xưa chúng mình cứ phải cân nhắc bên hiếu, bên nghĩa, bên tình.

Bây giờ chúng nó nhắm mắt đưa chân mà chẳng một lần nhìn lại,

Chúng nó cứ mù quáng buông mình trôi đi mãi

Chẳng biết đâu mới là giới hạn, để dừng lại cho những tháng ngày sau…

Tôi kể bà nghe…

Tuy chúng mình già nhưng chẳng yếu lắm đâu!

Trái tim tôi với bà vẫn còn đập những nhịp nguyên lành cho những yêu thương ngọt ngào phía trước,

Lũ trẻ bây giờ trao cho nhau trái tim đã bao lần bị ném, vùi, vỡ xước…

Rồi chúng nó tự hỏi mình, đau khổ tại vì đâu?

Tôi kể bà nghe…

Tại vì chúng nó không biết trân trọng nhau!

Ở thời của chúng mình, cái gì vỡ thì cùng nhau hàn gắn,

Chúng nó thích tân thời, chúng nó ham vứt đi để mua cái mới…

Nên chúng nó chẳng giữ được cái gì bền vững vượt thời gian…

Tôi kể bà nghe…

Có một câu nói dân gian:

“Dẫu cho chẳng có bạc vàng,

Bên anh chỉ có mình nàng, anh vui!

Người ta sống ở trên đời,

Quý nhân, trọng nghĩa, là người an yên”.

Và người kể lại vẫn cứ thêm những lời-bàn-rất-Mao-Tôn-Cương, rằng:

Hạnh phúc đơn giản chỉ là sự tồn tại của mình…

Được ai đó nhận ra – Bắt gặp – Và giữ lấy…

Hạnh phúc đơn giản chỉ là 1 câu nói quan tâm…

Không cần ngọt ngào nhưng đừng giả tạo…(xem truyện kể ở điện-thư mới nhận được)

Vâng. Có lẽ cũng như thế, nếu bạn và tôi, ta định nghĩa nỗi “Sầu”, khó đoán. Tuy, “Sầu” đó, buồn đây chẳng giống nhau chút nào, như nỗi “sầu” thiếu hạnh-phúc ở tuổi trẻ-người-non-dạ” rất hôm.

Vâng. Hạnh-phúc cuộc đời người vẫn cứ giản-đơn như bao giờ. Ở với người.

Trần Ngọc Mười Hai

Nay không còn trẻ nữa

Nên cũng chẳng cần nghe chuyện

Tôi kể bà nghe

ở đâu đó rất gần đây.

Tình đã chết, có mong gì sống lại

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.

(Dẫn từ thơ Trần Dạ Từ)

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ, thôi. Nhớ Phục sinh, là nhớ rằng ơn cứu độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục sinh, còn là nhớ lời gọi mời đổi mới tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục sinh, không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại, nhưng còn phải tác động lên điều mình tin lên tình thương yêu, rao giảng.

Bài đọc 1, thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, thánh nhân san sẻ với mọi người về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm, thánh nhân biết đích xác Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các thánh, trong niềm vui đầy tràn. Và, các thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để, ai nấy cùng vui như Ngài. Với Ngài.

Bài đọc 2, Phaolô, một Pharisêu cương nghị, từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về cùng Chúa, ngay trên đường đi Đamát. Hồi hướng trở về, thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.

Qua kinh nghiệm, Phaolô thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự, về cuộc sống của Đức Giê-su và về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực mình có để phục vụ, theo cung cách khi trước hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.

Trình thuật, nay kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và thánh sử kể về sự kiện Maria Magdala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9). Tin và hiểu, như hai vị tông đồ trên đường Emmaus, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.

Suy cho cùng, ta hiểu Phục sinh không đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục sinh, không là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy, như đã thấy Chúa bị đóng đinh như sự-kiện lịch-sử mà là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục sinh, nay sống lại để đi vào cung cách mới, của sự sống.

Các văn bản sau ngày Chúa Phục sinh, cho thấy: Ngài không được các tông đồ gần cận, nhận thức trước. Ngài ở những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh phải được hiểu, là Ngài mang nơi Mình Ngài, một hình thức tân tạo. Mang cung cách hoàn toàn mới mẻ để hiện hữu ở với ta. Và, cung cách mới, đó là cộng đoàn dân con hiện thân Nước Trời, ở trần gian, tức tương quan dân của Chúa.

Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người nữ phụ đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại, với chị. Với mọi người.

Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và, khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều, khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui, vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà, chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.

“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được thánh Gio-an nhiều lần nhắc đến. Vườn, là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm (Kn 2: 23). Vườn, là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc (Ga 19: 41). Vườn, là khu lưu giữ chiên đàn, Chúa nói đến (Ga 10: 1-5). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con, đều ở đây ở trong vườn.

“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và, ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa. Một Hội Thánh Chúa ở địa phương.

“Tôi đã thấy Chúa!”, lời kể của Maria Mác-đa-la, người nữ phụ từng phạm lỗi, rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng, với Tin Mừng, lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo, không chỉ là chuyển giao triết lý của lòng tin. Mà còn là, san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.

Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời, của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời theo một kiểu như Phêrô thánh nhân, Maria Mácđala và đồ đệ khác. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay.

Đọc thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là, thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt qua, người Do Thái có thói quen đổ bỏ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men, vừa mới cất.

Thói quen đổ bỏ bánh lên men này, vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố gây lũng đoạn bột. Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tinh tuyền, và chân thật.” (1Cr 5: 6)

Về lại bài đọc 1, từ sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh, mà thôi. Nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho càng nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm vì nếu  chỉ liên hoan Phục sinh thì mới có nửa phần. Mà, với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày. Là, ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người. Vào mọi ngày.

Lời thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về, việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về, “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” (Cv 10: 40-41), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh, quang vinh.

Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh, là thông điệp gì? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự thánh lễ mỗi Chủ Nhật, như người dưng? Bởi, thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi, để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo, cho cho con dân Ngài biết  Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng, để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.

Trong tinh thần mừng Chúa Sống Lại, ta hãy cúng nhau ngâm lại lời thơ trên, rằng:

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết

Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ

Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ

Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.

(Trần Dạ Từ)

Sống lại, với mọi người vẫn là sống trỗi dậy từ mối tình đã chết. Tình chết với nhân-gian, người phàm hay bạn hữu thân thương ở Nước Trời, vẫn cần sống lại, mãi mãi, rất thiên thu.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Trần Trung Đạo

Cựu Thủ tướng Cộng Hòa Singapore Lý Quang Diệu được đưa vào bệnh viện hôm 5 tháng 2 vì bịnh viêm phổi trầm trọng. Chỉ vài hôm sau, ông được chuyển qua hệ thống duy trì sự sống (life support). Theo nhiều nguồn tin, hai năm trước đây ông đã thêm vào di chúc một đoạn trong đó ông không muốn kéo dài sự sống vô nghĩa bằng cách này. Theo thông báo của chính phủ Singapore “ông qua đời trong thanh thản” tại Tổng Y Viện Singapore lúc 03:18 sáng, giờ địa phương thứ Hai 23/3/2015, thọ 91 tuổi. Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên của Singapore và mất vào năm kỷ niệm 50 năm độc lập của quốc gia này.

Các thành tựu kinh tế

Về đối ngoại, hầu hết các chính trị gia thế giới từ Margaret Thatcher của Anh trước đây đến Barack Obama của Mỹ hiện nay đã từng ca ngợi Thủ tướng Lý Quang Diệu. Ông có một tầm nhìn rất xa không chỉ vào tương lai Singapore mà cả chính trị khu vực Á Châu và Thái Bình Dương. Từ đầu năm 1994, Lý Quang Diệu đã thấy trước sự căng thẳng trong vùng biển Đông.

Về đối nội, mặc dù nhiều chính sách cứng rắn của Lý Quang Diệu tạo nên nhiều tranh luận và phê bình, ông có một niềm tin vững chắc vào khả năng lãnh đạo của chính mình và tiềm năng của nhân dân Singapore để cùng đưa quốc gia rất nhỏ bé và bị bao quanh bởi các quốc gia thù địch thành một trong những nước giàu có nhất thế giới. Ngày nay, Singapore, quốc gia có dân số 5.5 triệu, là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất thế giới, một trong năm cảng thương mại bận rộn nhất thế giới và có lợi tức đầu người cao thứ ba trên thế giới.

Một danh sách dài của những bảng danh dự mà các thống kê, các tổ chức kinh tế, tài chánh, thương mại quốc tế dành cho Singapore trong nhiều lãnh vực. Chẳng hạn, World Bank xếp Singapore vào hạng nhất trên thế giới về dễ dàng làm thương mại (The ease of doing business) và giữ vị thứ này suốt 7 năm liền; Singapore được xếp hạng ba trên thế giới về quốc gia cạnh tranh nhất (Most competitive country in the world); Singapore đứng hạng nhất về bảo vệ tài sản trí tuệ (The best protection of intellectual property); WHO (World Health Organization) năm 2010 xếp Singapore hạng nhì về tỉ lệ tử vong thấp trong thiếu nhi; Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International: Corruption Perceptions Index) năm 2010 xếp Singapore vào hạng quốc gia trong sạch nhất. Và rất nhiều bảng danh dự quốc tế khác.

Thành tựu lớn nhất của Lý Quang Diệu chưa hẳn là thành tựu kinh tế

Reihan Salam, Chủ bút điều hành của National Review Institute và tác giả nhiều tác phẩm chính trị, trong phân tích và cũng là kết luận Thành Tựu Lớn Nhất Của Lý Quang Diệu Chưa Hẳn Là Thành Tựu Kinh Tế của Singapore (Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success) đăng trên National Review sáng 23/3/2015 vừa qua.

Theo Reihan Salam, trong những năm trước 1959, xã hội Singapore chịu đựng tình trạng xung đột chủng tộc giữa các sắc dân Ấn, Mã Lai và Trung Hoa không chỉ về kinh tế mà trong cả văn hóa, tôn giáo. Ngoài ra, sự phân liệt trầm trọng diễn ra trong sinh hoạt chính trị với đa số thành phần CS và thân Cộng là người gốc Hoa trong khi đa số thành phần chống Cộng là gốc Mã Lai. Thế nhưng, ngày nay có thể nói không một quốc gia nào mà nơi đó người dân thuộc thành phần thiểu số cảm thấy an toàn hơn tại Singapore và gần một nửa số người đang sống yên ổn tại Singapore vốn sinh ra tại nước ngoài. Sự an toàn, ổn định và hòa hợp đó sẽ không xảy ra nếu quốc gia này nằm trong tay CS. Thành tựu lớn nhất của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu, do đó, phải là thành tựu ngăn chận được sự phát triển của phong trào CS tại Singapore.

Lịch sử phong trào CS tại Mã Lai và Singapore

Năm 1927, năm cán bộ CS Trung cộng được phái tới Mã Lai để thành lập đảng CS Nanyang (Mã Lai, Singapore) với tầm hoạt động bao gồm cả Thái Lan, Đông Dương và các thuộc địa Đông Ấn thuộc Hòa Lan. Năm 1930, Đệ Tam Quốc Tế CS (1919-1943) tổ chức một hội nghị tại Singapore, giải tán đảng CS Nanyang và thành lập đảng CS Mã Lai. Cùng thời gian này, đảng CSVN cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế được thành lập.

Địa bàn hoạt động của đảng CS Mã Lai bao gồm Mã Lai, Singapore và lan rộng tận Thái Lan. Chương trình hành động của đảng CS Mã Lai gắn liền với điều kiện chính trị tại Trung cộng và đảng CSTQ bởi vì đa số đảng viên CS Mã Lai là người gốc Hoa. Những năm hòa hoãn giữa đảng CSTQ và Quốc Dân Đảng Trung Hoa để chống Nhật, đảng CS Mã Lai có cơ hội hoạt động mạnh hơn. Năm 1939, đảng CS Mã Lai có khoảng 40 ngàn đảng viên với một nửa số đó hoạt động tại Singapore. Tài liệu của đảng CSVN không ghi thống kê của năm 1939 nhưng trong giai đoạn 1935 đảng chỉ có 600 đảng viên. So sánh để thấy, hoạt động của đảng CS Mã Lai lúc bấy giờ mạnh đến dường nào.

Các đảng CS thuộc Đệ Tam Quốc Tế, trong đó có Việt Nam và Mã Lai, thực thi một chiến lược giống nhau do Lenin vạch ra trong Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được chấp thuận tại đại hội Đệ Tam Quốc Tế lần thứ nhất vào năm 1919 và Luận Cương về Vấn đề Dân Tộc và Thuộc Địa do Lenin đọc tại đại hội của Đệ Tam Quốc Tế CS lần thứ 2 vào năm 1920. Chấp hành đường lối quốc tế đó, đảng CS tại các nước thuộc địa dùng cơ hội hợp tác với chính quyền chống ngoại xâm để phát triển đảng một cách công khai. Mã Lai-Singapore chống Anh, Trung Hoa chống Nhật và Việt Nam chống Pháp. Đảng CS mượn chiếc cầu chống thực dân và lợi dụng lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân để đạt mục đích tối hậu là thiết lập chế độ CS trên phạm vi cả nước.

Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai có máu Việt Nam

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, đảng CS Mã Lai tuyên bố hợp tác với chính quyền bảo hộ Anh để bảo vệ Singapore. Nhiều đảng viên CS Mã Lai được Anh huấn luyện quân sự. Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai nhưng thực chất là một gián điệp làm việc cho nhiều cơ quan tình báo chống CS. Y có máu Việt Nam với cha là người Việt và mẹ là người Hoa. Lai Teck sinh tại Việt Nam và có tên thật là Trương Phước Đạt. Y từng làm việc cho cơ quan mật thám Pháp và xâm nhập đảng CSVN. Sau khi toàn thành nhiệm vụ Pháp chuyển Lai Teck sang cho tình báo Anh và tình báo Anh chỉ thị y xâm nhập vào đảng CS Mã Lai năm 1935. Lai Teck có một tiểu sử đầy kỳ bí và nhiều câu hỏi về nhân vật này vẫn chưa được ai trả lời thỏa mãn.

Khi Singapore rơi vào tay Nhật, Tổng bí thư Lai Teck bị Nhật bắt và trong giai đoạn này y lại bí mật hợp tác với Nhật. Sau Thế chiến thứ hai, Lai Teck vẫn tiếp tục hoạt động trong đảng CS. Mãi cho đến 1947, khi quá khứ bị phanh phui, Lai Teck bỏ trốn sang Thái. Chin Peng, Tổng bí thư mới của đảng CS Mã Lai yêu cầu các đảng viên CS Thái và CS Việt Nam đang hoạt động trên đất Thái truy lùng Lai Teck. Cuối cùng, một tổ ám sát CS Thái tìm ra và siết cổ y chết tại Bangkok. Xác của Lai Teck được ném xuống sông Chao Phraya năm 1947. Năm đó Lai Teck 44 tuổi.

Cộng sản Mã Lai và Singapore sau Thế chiến thứ hai

Giống như tại Việt Nam, khi Nhật rút lui nhưng Đồng Minh chưa đến, các nhóm CS Mã Lai xuất hiện, nhất là trong các khu người Hoa. Các đảng viên CS này được chào đón như những anh hùng cứu tinh dân tộc. Đảng CS tịch thu vũ khí do Nhật để lại và tuyển dụng đảng viên một cách công khai. Những “trung đoàn” CS trong thời chiến mỗi đơn vị chỉ hơn một trăm lính đã lên đến con số 6 ngàn trong một thời gian ngắn.

Khi chính quyền bảo hộ Anh được tái lập tại Singapore và ra lệnh đảng CS Mã Lai phải giao nạp vũ khí và giải tán các “trung đoàn” CS. Đảng CS buộc phải đồng ý giải tán nhưng cũng giấu đi nhiều vũ khí. Theo lịch sử đảng CS Mã Lai, các “trung đoàn” phải giải tán vì thiếu hàng ngũ cán bộ chính trị viên để nắm vững phần tư tưởng của đảng viên, nhưng dù sao đó cũng là một quyết định sai lầm của đảng. Trong khi đó tại Việt Nam, đảng CS lợi dụng khoảng trống cuối Thế chiến thứ hai để chiếm Hà Nội và vài thành phố khác qua biến cố gọi là “Cách mạng Mùa Thu”.

Sau thời kỳ Lai Teck, Chin Peng, 27 tuổi, một lãnh đạo CS Mã Lai gốc Hoa lên nắm quyền Tổng bí thư và chuyển sang đấu tranh bạo động, bao gồm ám sát và khủng bố. Chính quyền phản ứng mạnh qua các chiến dịch truy lùng các lãnh đạo đảng nhưng Chin Peng trốn thoát. Đảng CS Mã Lai thành lập một tổ chức ngoại vi có tên Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Mã Lai. Chính quyền Mã Lai áp dụng chính sách cắt nguồn tiếp tế cho CS bằng cách đưa dân về các “Khu tân lập” được bảo vệ an ninh chặt chẽ. Sau lần đàm phán thứ nhất để giải quyết xung đột trong hòa bình thất bại, các lực lượng CS rút lui dần về biên giới Thái. Theo ước đoán của Bộ Ngoại giao Mỹ, số đảng viên CS Mã Lai trong giai đoạn này chỉ còn vào khoảng 2 ngàn người. Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho Mã Lai ngày 31 tháng 8 năm 1957 nhưng vẫn tiếp tục bảo hộ Singapore.

Lý Quang Diệu và CS Singapore

Năm 1950, sau khi học xong ngành luật tại Fitzwilliam College, Cambridge, Anh, và hoàn tất chương trình thực tập luật, Lý Quang Diệu được nhận vào luật sư đoàn Anh nhưng ông đổi ý định hành nghề ở Anh và về nước. Chàng luật sư 27 tuổi Lý Quang Diệu trở lại quê hương mang theo một tấm lòng yêu nước, lý tưởng công bằng xã hội, ý chí quyết tâm và tầm nhìn xa vào tương lai Singapore.

Lý Quang Diệu là một trong ba người thành lập Đảng Hành động Nhân dân Singapore (People Action Party, gọi tắt là PAP) vào ngày 21 tháng 11, 1954. Mục đích chính của PAP là bảo đảm an ninh quốc gia mà không phải sử dụng bạo lực và xác định trong tuyên ngôn thành lập “PAP sẵn sàng hợp tác một cách thành thật với các đảng phái chính trị khác để đạt đến mục tiêu độc lập thật sự cho đất nước”.

Trong cuộc bầu cử tháng Năm 1959, PAP thắng lớn. Singapore thành quốc gia tự trị trong khuôn khổ Commonwealth và Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên với Thống đốc Sir William Allmond Codrington Goode là Quốc trưởng. Theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý 1962, Singapore sáp nhập vào Liên Bang Mã Lai. Việc chọn gia nhập Liên Bang Mã Lai phát xuất từ mối lo ngại thiếu tài nguyên và ngoài ra, một số chính trị gia cũng quan tâm đến việc Singapore có thể trở thành một quốc gia CS. Tuy nhiên chỉ trong vòng 3 năm, Quốc hội Mã Lai với số phiếu 126 trên 126 loại Singapore ra khỏi liên bang. Thủ tướng Lý Quang Diệu đứng trước một tương lai Singapore đầy bất ổn. Ngay cả trong nội bộ PAP, vài năm trước, các thành viên sáng lập cũng đã chọn con đường tả khuynh cho riêng họ.

Các thành phần CS và tả khuynh trong lãnh đạo PAP

Hai thành viên sáng lập khác là Fong Swee Suan và Lim Chin Siong có lập trường tả khuynh trong lúc Lý Quang Diệu quyết tâm ngăn chận mầm mống CS phát sinh trong xã hội Singapore. Lý Quang Diệu biết rõ rất đông lãnh đạo và đảng viên PAP bị ảnh hưởng CS và việc chấp nhận sự ủng hộ của cánh CS chẳng khác gì ngồi trên lưng cọp nhưng ông tin tưởng vào khả năng và có một niềm tin kiên định vào mục đích sống của đời mình. Muốn đưa Singapore trở thành một quốc gia cường thịnh, trước hết phải xóa bỏ mọi tàng tích CS còn tồn đọng từ quá khứ và ngăn chận mọi mầm mống phát sinh của ý thức hệ CS tại Singapore. Tất cả chính sách đối nội của Lý Quang Diệu đều tập trung vào mục đích đó.

Đảng PAP tập hợp những thanh niên Singapore trẻ, có tinh thần độc lập và liên kết với các nghiệp đoàn, nhưng như Lý Quang Diệu giải thích, sự liên kết này chẳng khác gì một loại “hôn nhân hợp đồng” vì ông chỉ biết nói tiếng Anh nên cần các đảng viên biết nói tiếng Tàu trong giới lao động thân CS.

Lim Chin Siong, một trong ba người thành lập, có giọng nói hùng hồn và thu hút người nghe đã đắc cử Dân biểu Quốc Hội đơn vị Bukit Timah khi chỉ mới 22 tuổi. Năm 23 tuổi Lim Chin Siong và Lý Quang Diệu đại diện cho Singapore để thảo luận về hiến pháp tại London.

Những hoạt động tả khuynh quá khích của Lim Chin Siong đã làm cho hai lãnh đạo PAP xa nhau rất sớm. Lý Quang Diệu tố cáo Lim Chin Siong là CS và dựa vào Sắc Luật An Ninh Quốc Nội (Internal Security Act) bỏ tù đồng chí sáng lập PAP này nhiều năm không xét xử.

Mặc dù Lim từ chối là CS, các hành vi của y như việc đọc diễn văn trong lễ tưởng niệm Joseph Stalin và kế hoạch lật đổ chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore sáp nhập vào Mã Lai cho thấy chủ trương CS hóa Mã Lai bao gồm cả Singapore nằm trong ý định của Lim và mục tiêu của đảng Barisan Sosialis do y thành lập. Dù sao, sau khi Lim Chin Siong chết ngày 5 tháng Hai 1996, Lý Quang Diệu bày tỏ sự kính trọng về quyết tâm, tận tụy với lý tưởng dành cho đồng chí sáng lập PAP vừa qua đời.

Fong Swee Suan, một thành viên sáng lập khác của PAP cũng có lập trường thân CS. Không giống Lý Quang Diệu học hành đổ đạt, Fong Swee Suan bị trục xuất ra khỏi trường trung học vì tham gia đình công. Fong dành hết thời gian còn lại cho các hoạt động của giới thợ thuyền. Trong thời gian PAP lãnh đạo Singapore, Fong Swee Suan là Bộ trưởng Bộ Lao Động. Tháng Bảy 1961, Lý Quang Diệu yêu cầu Fong Swee Suan từ chức vì có liên can đến việc kêu gọi Singapore tự trị. Fong bị bắt tháng Hai 1963, giam tại Mã Lai và được phóng thích vào tháng Tám 1967. Fong có niềm tin sâu xa rằng giới công nhân là giới bị áp bức bóc lột và nghiệp đoàn là phương tiện để giới công nhân đấu tranh giải phóng áp bức bóc lột. Ông thừa nhận là một người xã hội chứ không phải là CS.

Sau khi giới hạn các thành phần CS và tả khuynh trong hàng ngũ lãnh đạo PAP, và ổn định chính trị quốc nội, Lý Quang Diệu thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ quốc tế. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc 1965 và ASEAN 1967.

Lý Quang Diệu và Cộng Sản Tàu

Có lẽ không ai có ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn Lý Quang Diệu về hiểm họa CS Tàu tại Singapore. Hầu hết, nếu không muốn nói tất cả đảng viên CS hoạt động tại Singapore là người Hoa. Do đó, tách rời Singapore ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng càng xa càng tốt. Ông học về lý thuyết CS tại Anh một cách nghiêm túc và nhiều lần khẳng định chủ nghĩa CS không cần thiết là một phương tiện để giành độc lập và chủ nghĩa CS không thể xây dựng Singapore thành một nước cường thịnh về mọi mặt.

Vào những năm đầu thập niên 1960, trong lúc các nhà lãnh đạo CSVN phải sang chầu Trung Cộng hàng năm để xin súng đạn, Lý Quang Diệu từ chối ngay cả việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện pháp cứng rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore ra khỏi Liên bang Mã Lai là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của bán đảo này và ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng Sản với hậu thuẩn tích cực của Trung Cộng.

Khi Đặng Tiểu Bình phát động bốn hiện đại hóa, Lý Quang Diệu mở rộng các quan hệ các quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Cộng vì lợi ích của Singapore nhưng vẫn chưa thiết lập các quan hệ chính trị trên tầm mức quốc gia. Mặc dù công khai bày tỏ sự kính phục dành cho Đặng Tiểu Bình và được mời thăm Trung Cộng nhiều lần, mãi đến tháng 10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, Lý Quang Diệu mới thiết lập ngoại giao hoàn toàn. Singapore là nước cuối cùng ở Đông Nam Á thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và mặc dù công nhận Trung Cộng, Lý Quang Diệu đồng thời cũng duy trì một quan hệ tốt với Đài Loan.

Quan hệ thương mại với Trung Cộng, tránh phê bình chế độ chính trị CS tại Trung Cộng không có nghĩa Lý Quang Diệu thừa nhận cơ chế CS là đúng. Lý Quang Diệu hiểu CS hơn nhiều lãnh đạo quốc gia khác vì chính ông đã từng tranh đấu một cách gian nan để ngăn chận CS tại Singapore cũng như đã từng phát biểu về lâu về dài nền dân chủ Ấn Độ sẽ giúp cho quốc gia này vượt qua Trung Cộng.

Một số học giả Trung Cộng như Lu Qi gọi Lý Quang Diệu là hanjian (Hán Gian) khi kết án ông Lý đã buộc người dân Singapore sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính và kết quả làm cho đa số người dân Singapore gốc Hoa ngày nay không biết tiếng Tàu. Nhưng tên học giả này quên rằng Lý Quang Diệu là Singapore chứ không phải là Trung Hoa và lại càng không phải Hán. Quyết định duy trì tiếng Anh làm ngôn ngữ chính ngay từ thời gian mới độc lập là một phần trong tầm nhìn xa của họ Lý để chuẩn bị cho Singapore dễ dàng hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa năm chục năm sau.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Lý Quang Diệu và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu Á đã lợi dụng chính sách chống CS của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh tế với Mỹ, nhờ đó, không chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở châu Á như Nam Hàn, Đài Loan cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian ngắn được thế giới ca ngợi như là những con rồng châu Á.

“Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”

Như Joseph Chinyong Liow, thuộc Viện Nghiên Cứu Brookings, phân tích trong bài bình luận Lý Quang Diệu, con người và giấc mơ hôm 22 tháng 3 vừa qua, chính lý tưởng và tầm nhìn đã giúp Lý Quang Diệu đưa Singapore từ một quốc gia bị trị, phân hóa chính trị, CS hoành hành, xung đột chủng tộc, thiếu thốn tài nguyên thiên thiên trở thành một nước hiện đại, được nhân loại khắp năm châu kính nể.

Lý Quang Diệu, một lần, thừa nhận đã có can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân nhưng như ông biện luận “Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”. Đúng thế, lịch sử Singapore hiện đại đã chứng minh một cách hùng hồn rằng Lý Quang Diệu có lẽ là lãnh đạo có lập trường quốc gia duy nhất không những tồn tại mà còn xóa bỏ được cả một hệ thống CS tại Singapore và đưa đất nước ông thăng tiến vượt lên trên phần lớn nhân loại.

Trần Trung Đạo

Tham khảo:

– Lee Kuan Yew: The Crucial Years, Alex Josey, Marshall Cavendish International 2012, p10-p15.
– National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist International, Lenin, 5 June, 1920 (https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jun/05.htm)
– The Cold War in Asia (1945-1990), National Archives of Australia, 2007
– Malayan Communist Party
(http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Communist_Party)
– Workers’ Party of Singapore
(http://en.wikipedia.org/wiki/Workers%27_Party_of_Singapore)
– Internal Security Act (Singapore) http://en.wikipedia.org/wiki/Internal_Security_Act_(Singapore)
(http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success
– Barisan Sosialis (http://en.wikipedia.org/wiki/Barisan_Sosialis)
– Lim Chin Siong (http://en.wikipedia.org/wiki/Lim_Chin_Siong)
– Lee Kuan Yew, Early Political Career (http://en.wikipedia.org/wiki/Lee_Kuan_Yew#Early_political_career.C2.A0.E2.80.93_1951_to_195)
– Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success (http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success)
– Fong Swee Suan (http://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_2013-07-29_173512.html)
– Lai Teck (http://en.wikipedia.org/wiki/Lai_Teck)
– Singapore (http://en.wikipedia.org/wiki/Singapore)
– Malaysia (http://en.wikipedia.org/wiki/Malaysia)
– Lai Teck – the traitor of all traitors, Barry Wain, 2011 (http://heresthenews.blogspot.com/2011/01/lai-teck-traitor-of-all-traitors.html)
– Was Lee Kuan Yew an Inspiration or a Race Traitor? Chinese Can’t Agree (http://www.chinafile.com/reporting-opinion/media/was-lee-kuan-yew-inspiration-or-race-traitor-chinese-cant-agree)

Sự giàu có mang lại bất hạnh

Sự giàu có mang lại bất hạnh

Có lẽ tất cả chúng ta đều mơ một ngày nào đó sẽ trở nên giàu có, trừ những người sinh ra trong những gia đình khá giả…

2015/01/img_6884.jpg

Và có lẽ ai cũng từng mơ về việc sở hữu khối tài sản khổng lồ, lối sống xa hoa của những người giàu có và nổi tiếng, những căn biệt thự với sân vườn được cắt tỉa tỉ mỉ và những hồ bơi khổng lồ, những hòn đảo của riêng mình, xe thể thao đắt tiền, phi cơ riêng và nói chung là tiền để phung phí vào bất cứ thứ gì bạn muốn.

Vậy, điều gì đã xảy ra với những người đạt được giấc mơ đó?

Góc tối của sự giàu có

Tiền mang lại những thay đổi, đôi lúc là theo hướng tích cực, đôi lúc lại là tiêu cực.

Carol Philo đã chứng kiến cha mẹ mình, từ những người nghèo khó, biến thành những triệu phú sau khi công ty in ấn của họ làm ăn phát đạt.

Tuy nhiên lợi nhuận càng nhiều thì tham vọng cũng càng tăng.

“Mẹ tôi trở thành người mê tiền … Không có gì là đủ đối với bà,” Philo nói.

Sau một thời gian, quan hệ gia đình bắt đầu đổ vỡ.

“Là người đã chứng kiến tất cả những điều đó, tôi có thể khẳng định rằng có thể phấn đấu để sống thoải mái, nhưng để giàu có thì không nên”.

Murat Morrison cũng đồng ý với quan điểm trên.

Ông đã kiếm được nhiều tiền sau khi bán một công ty vận tải vào cuối những năm 90. Thế nhưng điều mà ông rút ra được, đó là “tiền chỉ mua sự thoải mái”.

“Sự thoải mái không tạo nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện. Tôi cảm thấy trống trải suốt nhiều năm trời. Dù sống thoải mái là điều tốt, nhưng hạnh phúc sẽ mang lại cho bạn cảm giác trọn vẹn”.

Sự giàu có cũng làm lộ ra bản chất của con người, ông Paul Buchheit nhận định.

“Nói chung nó khắc đậm hơn những tính cách mà một người đã sở hữu,” ông nói.

“Nếu bạn là một kẻ đáng ghét, việc trở nên giàu có sẽ khiến bạn trở nên đáng ghét hơn”.

“Thế nhưng nếu bạn là người sống có mục đích và muốn lẽ sống của mình không chỉ đơn thuần là chạy theo đồng tiền, thì sự giàu có sẽ giúp bạn có thêm khả năng để theo đuổi ước mơ của mình”.


Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc? Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc?

Sống với thực tế

Khía cạnh tiêu cực của sự giàu có đôi lúc có thể áp đảo những điều tích cực.

“Có lẽ khi nghe ai nói như vậy, bạn sẽ nghĩ họ nói dóc, vì bạn nghĩ người ta không có quyền than thở vì sự giàu có của mình,” một người ẩn danh, vốn đã kiếm được 15 triệu đôla sau khi bán một công ty công nghệ, nói.

“Nếu như bạn là người giàu có, bạn không có quyền được biểu lộ những bức xúc hay nhu cầu của mình trước công chúng. Người ta không nhìn bạn giống như một người thường”.

“Sự giàu có cũng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với bạn bè và gia đình. Người ta bắt đầu trông đợi được hưởng lợi từ bạn, và bạn bắt đầu tự hỏi liệu người ta có quý mến bạn thực sự, hay chỉ đến vì tiền”.

“Nếu bạn còn độc thân, việc biết được ai đó tìm đến với mình vì bản thân mình hay vì tiền còn khó khăn hơn”.

Thế nhưng phần lớn những người khác đều cho rằng sự giàu có mang lại nhiều lợi ích.

“Có nhiều tiền vẫn tốt hơn, nhưng có điều chắc chắn là sự giàu có không phải tuyệt vời như nhiều người tưởng tượng”, người này nói thêm.

Christopher Angus, một người kiếm nhiều tiền sau khi bán bốn công ty do mình thành lập, nói “tôi thà có tiền hơn là không. Bảy năm qua, tiền bạc đã cho tôi sự thoải mái và trải nghiệm mà người khác không thể có được trong cả cuộc đời.”

“Ví dụ như tôi đã đi nghỉ mát 25 lần trong một năm và đã xài hết 20 nghìn đôla chỉ trong một tối thứ Bảy”.

2015/01/img_6880.jpg

Sự cô lập

Thế nhưng sự giàu có cũng khiến cho tiêu chuẩn của bạn tăng lên.

“Ban đầu bạn lái một chiếc Audi hoặc ăn trong một nhà hàng sang trọng”.

“Nhưng sau đó bạn bắt đầu quen với điều đó và bắt đầu trông đợi vào những thứ ở tầm cao hơn, và những thứ dưới mức đó sẽ không làm bạn hứng thú nữa”.

Sự thoải mái không làm nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện

(Doanh nhân Morat Morrison)
Angus, một người từng có nhiều tiền hơn nhu cầu khi chỉ mới 20 tuổi, nói cảm giác chán ngán đến với ông rất sớm.

“Tôi cảm thấy việc có đủ tiền cho gần như tất cả mọi thứ vật chất đã khiến tôi mất hết hứng thú và động lực để đạt được những điều mình từng mong ước trước khi trở nên giàu có.”

“Một chiếc Porsche và những thứ khác không còn đáp ứng nhu cầu của tôi nữa. Ba năm sau đó tôi mua 5 chiếc Porsche và những chiếc xe thể thao khác,” Angus nói.

Tôi trở nên nghiện ngập những thứ chỉ có giá trị hình thức để thu hút sự chú ý và khiến người ta muốn giao du với mình chỉ vì những gì tôi có và những gì tôi có thể mang lại cho họ.”

Một người giàu có khác, với khối tài sản hơn 20 triệu đôla, nói với điều kiện ẩn danh rằng “tôi đã luôn muốn trở nên giàu có và thực tế tôi đã đạt được giấc mơ đó.”

“Nhưng giờ đây tôi cảm thấy dường như nó không giống những gì tôi tưởng tượng”.

“Có lẽ con người ta cần tiến tới sự giàu có một cách chậm rãi hơn để có thể làm việc và sống lành mạnh hơn”.

“Tất nhiên là một khi đã giàu có thì khó mà từ bỏ nó. Bạn sẽ muốn được như vậy mãi mãi”.

Maria Atasanov

Posted by Việt Anh
http://thanhnientudo.com