Khi Cây Búa Nổi Giận

Khi Cây Búa Nổi Giận

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nói thật, phen này gay go đấy các bác ạ! Một đạo luật bất công và bất hợp lý bao giờ cũng phải đối diện với phong trào bất tuân dân sự của toàn xã hội. Những ngày êm ả nay còn đâu?

Lê Công Định

Tôi không có may mắn được quen biết nhà thơ Bùi Minh Quốc  lúc ông còn trẻ trung, và sung sức:

Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường.

Khi tôi được hân hạnh diện kiến người thơ thì thi sĩ của chúng ta đã già quá cỡ thợ mộc rồi, trông hom hem thấy rõ, và thơ thẩn (xem ra) cũng … yếu xìu hà:

Tuổi sáu mươi khi nghĩa đời đã thấy

Thì gian nan biết mấy cũng lên phường.

Lên là phải. Phường xã ở Việt Nam – cả nước này đều biết –  đâu phải chỉ là nơi chứng nhận giấy tờ hộ tịch (vớ vẩn) như bên xứ Lào, xứ Thái, xứ Miên hay xứ Miến … mà là chốn quan quyền. Dữ dằn thấy rõ!

Ngay cả đến ông Hồ Chí Minh mà nhận được lệnh triệu tập chưa chắc đã dám không đi, nói chi đến “cỡ” ông Bùi Minh Quốc. Không trình diện phường thì lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và (không chừng) dám lôi thôi lớn.

Đôi khi, khỏi cần phải lên tới phường cũng vẫn bị rắc rối như thường – theo tin báo Người Lao Động:

“Tối 26-3, trong lúc ông Dũng cùng nhân viên đang bán hàng, một số cán bộ phường 1 đến tịch thu tấm biển quảng cáo của quán nhưng không hề có văn bản, không có ý kiến từ cơ quan chức năng có thẩm quyền. Lý do là do tấm biển có nội dung phản cảm và nhảm nhí…

‘Tôi cố giải thích rằng đó là bảng quảng cáo với nội quy mang tính hài hước để thu hút thực khách. Không chỉ để giải trí, thư giãn mà còn nhắc nhở mọi người giữ vệ sinh chung. Tôi thấy hết sức vô lý khi họ không đưa ra lý do chính đáng nhưng vẫn lao vào gỡ bỏ rồi tịch thu tấm biển. Họ còn nói sẽ mời tôi lên phường làm việc nhưng đến chiều nay (27-3) vẫn chưa thấy phản hồi hay đưa ra lý do cụ thể’ – ông Dũng nói.”

Ảnh: Người Lao Động

Sáu ngày sau, ngày 1 tháng 4 năm 2015, sau khi có phản ứng  của dư luận, tấm biển quảng cáo đã được hoàn lại cho khổ chủ – báo Người Lao Động cho biết tiếp:

“Tiếp xúc với báo báo chí, đại diện phường 1 cho biết việc tịch thu bảng hiệu ở quán Bún Bò Gân không phải là ý kiến của UBND hay công an phường mà do lực lượng kiểm tra trật tự lòng lề đường đã vội vàng xử lý khi chưa có chỉ đạo từ trên. Phường 1 cũng sẽ họp kiểm điểm những cá nhân đã trực tiếp tịch thu bảng hiệu ở quán Bún Bò Gân.”

Ồ thì ra đây “không phải là ý kiến của UBND hay công an phường mà do lực lượng kiểm tra trật tự lòng lề đường đã vội vàng xử lý khi chưa có chỉ đạo từ trên.” Cũng “ vội vàng” và “chưa có chỉ đạo” y như vụ chặt (đại) đám cây xanh ở Hà Nội vậy, theo tường thuật của báo Pháp Luật:

“Việc thực hiện thay thế đồng loạt hàng trăm cây xanh, trong đó rất nhiều cây cổ thụ đang tươi tốt, đã vấp phải phản ứng của người dân, cũng như các nhà khoa học, chuyên gia bảo tồn trên cả nước.

Ngày 20-3, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã yêu cầu dừng việc chặt hạ cây xanh tại Hà Nội. Ngày 22-3, Chủ tịch UBND TP Hà Nội tiếp tục yêu cầu thanh tra toàn diện việc thay thế cây xanh, đồng thời tạm đình chỉ công tác một số cán bộ liên quan trực tiếp đến vụ việc kể trên…

Ngày 31-3, Bí thư Thành ủy TP Hà Nội Phạm Quang Nghị nhìn nhận việc triển khai chặt cây xanh, thay thế cây xanh đã làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Thủ đô. ‘Chúng ta phải tự phê bình, tự kiểm điểm, khẩn trương khắc phục sai sót, sự nóng vội giản đơn trong việc cải tạo thay thế cây xanh.’ –  ông Nghị nói.”

Cũng trong này 31 tháng 3 năm 1975, công nhân Công ty TNHH Pou Yuen nhận được thư  của ông Đặng Ngọc Tùng (Ủy Viên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch TLĐLĐVN) với lời lẽ hết sức mềm mỏng, tử tế và … phục thiện:

Anh chị em đoàn viên và công nhân lao động thân mến,

Trong những ngày vừa qua, một số công nhân lao động tại Công ty TNHH Pou Yuen Việt Nam (quận Bình Tân, TP HCM) đã ngừng việc tập thể để thể hiện quan điểm không đồng tình với điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần…

Trên cơ sở những nguyện vọng chính đáng của công nhân lao động, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã có báo cáo và kiến nghị với Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Thủ tướng Chính phủ đồng ý giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người lao động: Từ nay đến hết ngày 31-12, các chế độ bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành. Sau năm 2015, kiến nghị Quốc hội sửa việc chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần theo hướng để người lao động tự chọn hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần như cũ hoặc thực hiện theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Vì vậy, tôi kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên và công nhân lao động:

– Hãy yên tâm trở lại làm việc để bảo đảm thu nhập và thể hiện ý thức trách nhiệm của người  lao động đối với doanh nghiệp và xã hội.

– Không để cho kẻ xấu lợi dụng, kích động, xúi giục làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Qua hôm sau, vẫn theo báo Người Lao Động:

“Ngày 1-4, Chính phủ đã thống nhất kiến nghị sửa Điều 60 Luật BHXH; nhất trí kiến nghị QH sửa theo hướng nếu người lao động không đủ thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu thì được hưởng BHXH 1 lần.”

Ô hay, sao mới cách đó hai hôm, hôm 30 tháng 3, Thứ Trưởng Doãn Mậu Diệp còn “nhấn mạnh” rằng: “xét một cách toàn cuộc thì quy định tại Điều 60, Luật BHXH 2014 có tới 6 điểm có lợi hơn cho NLĐ.”

Cùng ngày, ông Đặng Quang Điều, trưởng ban chính sách pháp luật Tổng liên đoàn Lao động VN, cũng nói cùng một giọng: “Tổng liên đoàn đã có kế hoạch và sắp tới các cấp công đoàn sẽ triển khai tuyên truyền, phổ biến sâu rộng với công nhân ở các địa phương về những lợi ích, tính ưu việt của Luật BHXH 2014. Khi hiểu thấu đáo, người lao động sẽ đồng thuận.”

Khu Công Nghiệp Tân Hương-Tỉnh Tiền Giang, hôm 2 tháng 4. Ảnh:  FB Hành Nhân

Nhưng khi thấy người lao động nhất định không chịu “đồng thuận,” và nguy cơ đình công có thể lan rộng khắp nơi thì Chính Phủ quên ngay “6 điểm có lợi hơn” và tính “ưu việt” của Luật BHXH 2014 để sẵn sàng “kiến nghị QH sửa theo hướng nếu người lao động không đủ thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu thì được hưởng BHXH 1 lần.”

Thì ra  “mềm nắn, rắn buông”!

Vì có sự can thiệp của công luận nên ông chủ quán bún bò ở Sài Gòn thoát khỏi một phen “lên phường làm việc,” và hàng ngàn cây xanh ở Hà Nội cũng (tạm thời) thoát nạn. Tương tự, nhờ thái độ sáng suốt và cương quyết của nhân viên công ty TNHH Pou Yuen nên giới công nhân VN cũng vừa thoát khỏi một vụ cướp ngày từ tay Nhà Nước. Thấy nuốt không trôi nên đành phải ói ra thôi.

Nói chuyện ói, mửa, nôn, oẹ … nghe (e) hơi phản cảm.  Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự có cách diễn tả khác, tuy dài dòng chút đỉnh nhưng thanh lịch hơn nhiều:

Diễn tiến trong thái độ của chính quyền đối với vụ tưởng niệm Gạc Ma 14/3 và việc thực hiện kế hoạch chặt 6700 cây xanh ở thủ đô Hà Nội cho thấy hành động của nhân dân đã tác động đến chính quyền.

Sau khi đám “dư luận viên” phá rối vụ tưởng niệm Gạc Ma, khác với sự im lặng hay công khai hỗ trợ hành động phá rối, lần này chính quyền đã lên tiếng phủ nhận việc tổ chức và ủng hộ đám “dư luận viên” thô thiễn, ngu ngốc gây phẫn nộ trong nhân dân; thay vì gọi những người đến tưởng niệm là “bọn phản quốc” như các lần khác, đã tôn vinh họ là “những người yêu nước”. Tương tự, sau việc chặt phá một số cây xanh, chính quyền đã lùi bước trước phản ứng mạnh mẽ và tức thời của nhiều tầng lớp dân chúng trên đường phố và trên mạng xã hội.”

Những điều trên làm ta liên tưởng đến câu tổng kết của một nhà tư tưởng: “Nhân dân nào chính quyền ấy”.

Dân trí và ý thức của người dân Việt Nam mỗi lúc một cao mà quan trí ở xớ sở này thì vẫn vậy. Vẫn cứ tiếp tục với chủ trương xuyên suốt dối trá, lươn lẹo, lấp liếm, quanh co và hù doạ – khi cần. Với “nhân dân này” thì cái “chính quyền ấy” chả còn tí cơ may để mà tồn tại nữa.

‘TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng’

‘TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng’

Chuyến thăm Mỹ dự kiến của ông Nguyễn Phú Trọng được thông báo công khai trước chuyến thăm tới Trung Quốc, theo nhà quan sát.

Lãnh đạo Trung Quốc ‘vội vã’ mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc ngay trước chuyến đi được dự kiến của ông Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ vì ‘lo sợ’ chuyến đi này gây bất lợi cho quan hệ Trung – Việt và lợi ích của Trung Quốc, theo nhà quan sát từ Hà Nội.

Cũng ý kiến quan sát này hôm 04/4/2015 nói với BBC giới phân tích đã nhận thấy ngay sau khi dự kiến đi thăm Hoa Kỳ của lãnh đạo Đảng Việt Nam được công bố, mà theo đó, ông Trọng sẽ ghé thăm Hoa Kỳ và tiếp kiến với lãnh đạo Mỹ vào tháng 5/2015, đồng loạt các đài báo, truyền thông nhà nước của Trung Quốc đã ‘hạ giọng’ và ‘thôi chỉ trích’, ‘nói xấu’ Việt Nam.

Trao đổi với BBC hôm thứ Bảy từ Hà Nội, nhà nghiên cứu quan hệ Việt – Trung, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Trung Quốc, ông Dương Danh Dy nói:

“Cách đây khoảng độ nửa tháng, tức trước khi người ta tuyên bố chuyến đi của ông Trọng quảng mươi, mười lăm ngày, báo chí, các đài chính thống của Trung Quốc, không viết những bài xấu về Việt Nam nữa.

” Tại sao Trung Quốc lại cần mời ông Trọng đi bằng được, mà ông Trọng cũng phải đi? Theo tôi, phía Trung Quốc thấy rằng rất ngại chuyến đi của ông Trọng sang Mỹ và họ muốn rằng trước khi ông Trọng đi Mỹ thì phải sang Trung Quốc đã

Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy”

“Và tôi bắt đầu thắc mắc không biết có chuyện gì đây? Hóa ra cuối cùng là chuyện ông Trọng đi, chuyện đó chứng minh điều gì? Chuyện đó chứng minh rằng ông Trọng đi Trung Quốc không phải là chuyện bàn bạc kế hoạch từ trước, như là chuyến ông đi Mỹ, mà chuyện đó là bất lợi.

“Hai bên gặp gỡ với nhau thế nào không biết, nhưng mà mới quyết định gần đây thôi, thì đấy là điểm mà chúng ta phải thấy.”

‘Chuyến đi bất ngờ’

Và nhà quan sát này tiếp tục phân tích vì sao Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc, ông Tập Cận Bình lại ‘vội vàng’ mới ông Trọng như vậy.

Ông Dương Danh Dy nói tiếp:

“Từ cái đó đặt ra vấn đề là gì? Thế thì tại sao Trung Quốc lại cần mời ông Trọng đi bằng được, mà ông Trọng cũng phải đi?

“Theo tôi, phía Trung Quốc thấy rằng rất ngại chuyến đi của ông Trọng sang Mỹ và họ muốn rằng trước khi ông Trọng đi Mỹ thì phải sang Trung Quốc đã.”

Và cựu Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Trung Quốc phân tích tiếp về ‘mục đích’, ‘động cơ’ của việc mời ‘gấp’ này, ông Dy nói thêm:

“Cái thứ nhất, nó làm cho chuyến đi của ông Trọng không quan trọng, không ý nghĩa với thế giới nữa, theo tôi nghĩ như vậy.

“Cái thứ hai là qua chuyến thăm này, chưa biết hai bên sẽ bàn bạc ép nhau những gì, thế và những cái gì nên, những cái gì không được làm với Mỹ chẳng hạn…

“Trung Quốc họ luôn sẵn sàng, họ không từ một thủ đoạn nào để mà ép mình (Việt Nam) đâu, cho nên tôi nghĩ rằng chuyến đi của ông Trọng, từ cái đó tôi thấy rằng, nó không phải là một chuyến đi dự định từ trước, mà là chuyến đi bất ngờ.”

‘Một thói quen?’

” Tàu (TQ) đang ăn hiếp các nước nhỏ, thế thì để tránh sự ăn hiếp, tôi sẵn sàng tìm lấy những lực lượng để ủng hộ chúng tôi, chống lại sự ăn hiếp. Liệu anh có dám nói như thế với nhân dân Mỹ, với chính phủ Mỹ không?

Giáo sư Nguyễn Khắc Mai”

Cũng hôm thứ Bảy, một nhà quan sát khác về tình hình chính trị, xã hội Việt Nam nêu quan điểm về lý do tại sao ông Trọng theo dự kiến đã nhận lời tới thăm Trung Quốc gặp ông Tập Cận Bình trước khi được cho là tới Mỹ gặp lãnh đạo Mỹ như tin tức cho hay gần đây.

Từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Minh Triết Việt Nam, nói với BBC:

“Tôi nghĩ rằng đấy là một thói quen của Đảng Cộng sản đi thăm những anh nào mà họ cho là quan trọng trước. Giống như trước đây phải đi Liên Xô, sau rồi mới đi Trung Quốc, thì cũng là lập lại cái kiểu như vậy để tỏ ra rằng mình có lập trường kiên định.

“Nhưng tôi không quan tâm việc đi anh nào trước, anh nào sau, vấn đề là lập trường chính trị của anh có đàng hoàng không. Anh đến đâu anh cũng nói rõ dân tộc tôi là thế này, anh đã vi phạm những này, và chúng ta phải sòng phẳng trong chuyện này, và ông ta (Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng) phải nói rõ ràng những vấn đề như vậy.

Quan hệ Việt - Mỹ

Tổng thống Hoa Kỳ Obama đã từng mời Chủ tịch nước VN Trương Tấn Sang thăm Mỹ hồi cuối tháng 7/2013.

“Thế còn có thể sang Mỹ sau cũng được, nhưng mà ông phải nói ‘chúng tôi cần sự liên minh’ với Mỹ để đối trọng lại với thái độ lấn lướt, ăn hiếp. Mà từ ‘ăn hiếp’ là quốc tế nói, chứ không phải ta (Việt Nam) nói.

“Tàu (TQ) đang ăn hiếp các nước nhỏ, thế thì để tránh sự ăn hiếp, tôi sẵn sàng tìm lấy những lực lượng để ủng hộ chúng tôi, chống lại sự ăn hiếp. Liệu anh có dám nói như thế với nhân dân Mỹ, với chính phủ Mỹ không?

“Và nếu anh nói được như vậy, chúng tôi cho rằng như thế mới xứng đáng là người lãnh đạo quốc gia,” nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nói với BBC.

‘Xu thế khó đảo ngược’

” Lập trường của Việt Nam trong việc muốn chơi, muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ và muốn tiến sâu trong quan hệ trên một số mặt trong quan hệ với Mỹ, thì tôi chắc là không thể nào Trung Quốc ép được

Ông Dương Danh Dy”

Hôm 04/4, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cho rằng ‘chắc chắn’ Trung Quốc sẽ gây sức ép với Việt Nam, tuy nhiên theo ông áp lực này vẫn khó thay đổi được ‘xu hướng’ Việt Nam có thể xích lại gần hơn trong quan hệ với Hoa Kỳ.

Ông Dy nói: “Sang Trung Quốc, thì dù Trung Quốc có ép, có dụ dỗ, ép thế này thế kia.

“Nhưng tôi chắc rằng là lập trường của Việt Nam trong việc muốn chơi, muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ,

“Và muốn tiến sâu trong quan hệ trên một số mặt trong quan hệ với Mỹ, thì tôi chắc là không thể nào Trung Quốc ép được,” cựu Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc nói với BBC.

Tin cho hay, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng theo dự kiến sẽ thăm Trung Quốc từ ngày 7/4-10/4/2015 theo lời mời của ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư đảng cộng sản, Chủ tịch Trung Quốc.

Chuyến đi này được thực hiện trước chuyến đi của ông Trọng tới Hoa Kỳ, dự kiến diễn ra vào tháng Năm.

Cuối tháng 7/2013, trong một diễn biến liên quan quan hệ Mỹ – Việt, Tổng thống Obama đã từng mời Chủ tịch nước Việt Nam, ông Trương Tấn Sang có chuyến thăm chính thức cấp nhà nước tới Mỹ.

“Định cư” và “tị nạn”: trường hợp Kim Phúc

“Định cư” và “tị nạn”: trường hợp Kim Phúc

Nguyễn Văn Tuấn

04-04-2015

Cô Kim Phúc và Nick Út trong lần nói chuyện tại 1 nhà thờ ở quận Cam ngày 3/6/2012. Photo: Ngọc Thu

Cô Kim Phúc và Nick Út trong lần nói chuyện tại 1 nhà thờ ở quận Cam ngày 3/6/2012. Photo: Ngọc Thu

Sắp đến ngày 30/4 báo chí VN đang đi tìm những nhân vật lừng danh một thời. Báo Người đô thị có phóng sự ảnh về Phan Thị Kim Phúc, nhưng có một thông tin tôi thấy không đúng và có thể làm người đọc hiểu sai vấn đề. Trong ảnh, phóng viên chú thích rằng “Kim Phúc cùng con trai và chồng (phía sau). Năm 1992, trong chuyến nghỉ trăng mật ở Moscow, Nga sau khi kết hôn, vợ chồng Kim Phúc xin định cư tại Ajax, Ontario, Canada.” (1) Sự thật thì không phải như thế; sự thật là Kim Phúc và chồng xin tị nạn chính trị tại Canada.

Có lẽ tôi phải nói qua về cái “tị nạn” để các bạn hiểu chút. Thời thập niên 1980 trong các trại tị nạn ở Thái Lan, các nhân viên thiện nguyện và người đi trước lúc nào cũng dặn dò người đến sau là phải chứng minh tư cách tị nạn chính trị. Tiếng Anh là “political refugee“. Trong thực tế thì khi các viên chức phỏng vấn người xin đi tị nạn cũng xoáy vào những thông tin để đương sự khai cho hợp với tư cách đó. Đại đa số người Việt không có vấn đề gì, nhưng những người như người Việt gốc Tàu có khi có vấn đề. Vấn đề là khi họ đến trại tị nạn, họ vênh mặt lên và khai rằng họ là “Chinese” (người Hoa) chứ không phải người Việt. Có lẽ họ nghĩ người Hoa cao hơn người Việt? Mà, đối với các viên chức phương Tây thì nếu họ là người mang quốc tịch Tàu, họ không có tư cách tị nạn chính trị, và giao họ về cho … China! Nhiều người chết dở sống dở vì lời khai người Hoa đó, nhưng lời khai đó cũng nói lên phần nào bản chất của một số người Hoa là họ không trung thành gì với VN cả cho dù họ sinh ra và lớn lên và mang quốc tịch Việt Nam. Câu chuyện đó nói rằng rất quan trọng phải phân biệt “định cư” và “tị nạn”. Cho đến nay ở Úc sự phân biệt đó vẫn quan trọng, và theo đó nếu đương sự chứng minh được là tị nạn chính trị thì được phép cho vào Úc tị nạn, còn không thì bị gửi qua Kampuchea.

Quay lại câu chuyện của Kim Phúc, một thời nổi tiếng là “em bé Napalm” trong bức ảnh do phóng viên Nick Út chụp vào năm “mùa hè đỏ lửa” (1972). Bức ảnh nói lên sự dã man của chiến tranh và bom đạn, làm xúc động cả thế giới, và Mĩ bị phản đối dữ dội. Bức ảnh cũng đem đến cho Nick Út giải thưởng danh giá. Sau 1975, Kim Phúc được giới tuyên truyền VN sử dụng như là một vật thể cho tuyên truyền chống Mĩ. Chính Kim Phúc từng viết “The Communists had other plans, and used me as a propaganda tool” (người cộng sản có kế hoạch khác, và họ dùng tôi như là một công cụ tuyên truyền) (2).

Cô được Nhà nước ưu ái cho đi học ở Cuba vào năm 1986. Theo Kim Phúc kể lại (1), cô gặp người chồng tương lai ở Cuba, và sau khi thành hôn, họ được phép đi Moscow. Sau khi thành hôn họ được phép đi hưởng tuần trăng mật ở Moscow. Trên đường từ Moscow về lại Cuba, máy bay tạm đáp ở Newfoundland (Canada) để tiếp nhiên liệu, và nhân dịp này Kim Phúc và chồng xin tị nạn chính trị ở Canada. Trước đó, Kim Phúc đã có ý định xin tị nạn chính trị, nhưng cô chưa nói cho chồng biết. Hai vợ chồng được chấp nhận cho tị nạn và họ sống ở Ontario từ đó cho đến nay. Kim Phúc còn cho biết cô trở thành một tín đồ đạo Tin Lành từ đó.

Tôi nghĩ phóng viên báo Người đô thị thừa biết Kim Phúc xin tị nạn chính trị, chứ không đơn thuần “xin định cư”, nhưng phóng viên phải viết như thế để được đăng báo. Tôi có cảm giác cho đến nay, sau 40 năm ngày thống nhất đất nước, Nhà nước VN vẫn chưa chấp nhận hai chữ “tị nạn”, và do đó, họ không muốn nhắc đến hai chữ đó trên báo chí (?)

Nhưng “định cư” và “tị nạn” chính trị khác nhau xa. Sự kiện “thuyền nhân” tị nạn là một vết nhơ trong lịch sử VN (chưa bao giờ người Việt bỏ nước ra đi nhiều như thế), nó nói lên bản chất của chế độ thời đó, và do đó, nhiều người trong chính quyền cũng như nhiều người ngoài Bắc vẫn chưa thoải mái khi nói về người tị nạn. Cho đến ngày nay, không ít người miền Bắc vẫn cho làn sóng người Nam vượt biển đi tị nạn là những kẻ chạy theo bơ thừa sữa cặn của đế quốc. Dĩ nhiên, người biết chuyện chỉ thấy tội nghiệp cho những kẻ có suy nghĩ như thế. Đối với họ thì không thể nào nói gì thêm được do tế bào trí tuệ đã bị đột biến hư hỏng rồi. Và, chính những kẻ có suy nghĩ như thế này là lực cản để người trong và ngoài nước hoà giải, hoà hợp — tôi nghĩ thế.

Lí do Kim Phúc xin tị nạn thì có thể đọc trong bài qua chính chữ của cô ấy (2), nhưng thiết nghĩ các bạn không đọc cũng thừa thông minh hiểu tại sao Kim Phúc quyết định như thế. Thời đó ở miền Nam có câu “cái cột điện mà biết đi, chúng cũng đi”. Tuy nhiên, sự việc nhỏ này có ý nghĩa lớn, bởi vì thế hệ sau vẫn cứ nghĩ là Kim Phúc xin định cư ở Canada, và đó là một sự nói dối làm cho sự thật lịch sử bị lệch lạc. Nhiều người đòi hỏi khi viết sử phải dựa vào thông tin chính thống và điều đó cũng chẳng có gì sai (có lẽ họ mới đọc một cuốn sách giáo khoa nào đó bên phương Tây dạy về sử học nên đòi hỏi như thế), nhưng ở VN cái gọi là “thông tin chính thống” thường bị xuyên tạc, làm cho lệch lạc, và đổi trắng thay đen. Câu chuyện của Kim Phúc trên báo chí VN chỉ là một nhắc nhở người đọc nên cảnh giác trước những thông tin gọi là “chính thống”.

====

(1) http://nguoidothi.vn/vn/news/chuyen-hom-nay/noi-mang-toan-cau/4012/-em-be-napalm-ngay-ay-bay-gio.ndt

(2) http://arts.lgontario.ca/lestweforget/essays/kim-phuc-phan-thi/

Giáo Hoàng: hòa bình cho Syria và Iraq

Giáo Hoàng: hòa bình cho Syria và Iraq

Giáo hoàng Francis

Đức Giáo hoàng Francis kêu gọi hòa bình và tình bác ái, trong buổi lễ thánh hôm Chủ Nhật Phục Sinh tại Vatican.

Giáo Hoàng Francis kêu gọi hòa bình “trên hết” ở Syria và Iraq trong thông điệp truyền thống vào ngày Chủ Nhật Phục Sinh.

Ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế giải quyết “thảm họa nhân đạo to lớn” ở cả hai quốc gia này.

Đức Giáo Hoàng cũng kêu gọi hòa bình tại vùng Thánh Địa (Holy Land), Ukraine, Libya, Yemen, Nigeria, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo.

Và một lần nữa ngài đề cập cuộc bức hại các Kitô hữu ở nhiều quốc gia.

Phát biểu trước đám đông tín đồ trên quảng trường St Peter còn ướt đẫm do trời mưa, Giáo Hoàng Francis nói:

“Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, đấng chiến thắng trên sự chết, hãy khai sáng cho những khổ đau của nhiều anh chị em chúng ta đã bị bách hại vì làm sáng danh Chúa, cũng như khai sáng cho tất cả những người chịu đựng bất công do hậu quả của các cuộc xung đột và bạo lực đang diễn ra.

Chúng ta yêu cầu hòa bình, trên hết, cho Syria và Iraq, để những tiếng gầm thét của vũ khí có thể chấm dứt và các mối quan hệ hòa bình có thể được phục hồi

Giáo Hoàng Francis

“Chúng ta yêu cầu hòa bình, trên hết, cho Syria và Iraq, để những tiếng gầm thét của vũ khí có thể chấm dứt và các mối quan hệ hòa bình có thể được phục hồi trong các nhóm khác nhau vốn đã tạo nên những đất nước đáng yêu này.”

Thông điệp của Giáo hoàng Francis cũng cầu nguyện để cộng đồng quốc tế không phải chứng kiến những ‘bi kịch nhân đạo to lớn’ đang diễn ra ở hai quốc gia trên, cũng như trước tấn thảm kịch dẫn tới ‘vô số thường dân’ đang phải chạy tỵ nạn.

‘Iran và Kenya’

Giáo Hoàng nói những lời cầu nguyện và tâm tư của ngài cũng hướng tới với các thanh niên đã thiệt mạng trong vụ thảm sát hôm thứ Năm tuần trước tại Đại học Garissa University College ở Kenya.

Đề cập thỏa thuận khung về chương trình hạt nhân của Iran đã đạt được gần đây tại thành phố Lausanne của Thụy Sĩ, Giáo hoàng bày tỏ hy vọng rằng đây có thể là “một bước dứt khoát hướng tới một thế giới an toàn hơn với tình huynh đệ”.

Giáo hoàng Francis

Giáo hoàng Francis cũng làm chủ một buổi lễ hôm thứ Sáu tuần Thành, tại đó ngài đã lên án vụ giết hại các Kitô hữu ở một đại học tại Kenya tuần này.

Kết thúc diễn thuyết, Đức Giáo Hoàng nói:

“Chúng ta kêu gọi hòa bình và tự do cho những người đàn ông và phụ nữ đang phải chịu đựng các hình thức nô lệ dù cũ hay mới do các tội phạm cá nhân hay tổ chức gây ra.

“Hòa bình và tự do cho các nạn nhân của những người buôn bán ma túy, những người thường liên minh với các thế lực mà lẽ ra nên bảo vệ hòa bình và hòa hợp trong gia đình nhân loại.

“Và chúng ta cũng yêu cầu hòa bình cho thế giới, thoát khỏi bàn tay của những thương lái vũ khí.”

Hai ngày trước, trong một buổi lễ Thứ Sáu Tuần Thánh tại Roma, Đức Giáo Hoàng đã lên án những gì ông gọi là sự “im lặng đồng lõa” về việc giết hại các Kitô hữu.

Buổi lễ này diễn ra chỉ một ngày sau khi gần 150 người đã thiệt mạng trong cuộc tấn công vào trường đại học ở Kenya do các chiến binh Hồi giáo thực hiện.

Trong đó, các chiến binh này được cho là đã tách riêng các tín đồ Kitô giáo ra và biến họ thành các nạn nhân.

Vatican

Hàng ngàn tín đồ, tín hữu đã đội mưa để lắng nghe thông điệp của Giáo Hoàng.

Tìm Đấng Phục Sinh

Tìm Đấng Phục Sinh

– Tin nổi bật, Bài Giảng

150404_Empty-Tomb-Picture-09

(Đại Lễ Phục Sinh, năm B)

Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tô
i để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”
.

Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).

Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).

Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Ngườiđược ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.

Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17).

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).

Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!

Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).

Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!

Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!

Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)

Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.

(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759): httpv://www.youtube.com/watch?v=76RrdwElnTU

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Năm 1998 tôi mất đứa con gái cưng Marie-Lou, đang mơn-mởn trong lứa tuổi dậy thì. Marie-Lou đột ngột qua đời trong một tai nạn lưu thông do một tên tài xế bất cẩn say rượu gây ra.

Làm sao giải thích cho được và diễn tả cho cùng tâm tình ngổn-ngang rách-nát ruột gan của một người cha trong một hoàn cảnh tương tự??? Đứa con gái cưng duy nhất của bạn – một phần của chính bạn – bỗng dưng bị cướp mất sự sống chỉ vì một tên say rượu không kiểm soát được lay lái của hắn??? Cơn giận của tôi đùng-đùng nổi lên. Một niềm uất-hận vô bờ giáng xuống trên cái tên tài xế say rượu đã cướp trọn gia sản tinh thần quý báu nhất đời tôi! Tôi nghĩ rằng cuộc sống chấm dứt đối với tôi. Không còn gì trên cõi đời này là quan trọng đối với tôi! Tất Cả thực sự đã chấm dứt theo sau cái chết của đứa con gái cưng duy nhất.

Suốt thời gian chờ đợi cuộc xét xử tên tài xế sát nhân, tôi như người sống trong cơn mê. Tôi mong sao mau đến cái ngày quan tòa kết án tên sát nhân hầu tôi có thể hả giận và trút bỏ được cơn hận thù chồng chất trong lòng! Thế nhưng tôi đã lầm. Sự thật không phải như vậy. Quan tòa kết tội nhưng cơn giận trong lòng tôi vẫn không dứt. Tôi vẫn lê-thê tiến bước với cái giận dữ nung-nấu trong tâm hồn. Cho đến một ngày, 3 năm sau cái chết của đứa con gái cưng, một cuộc gặp gỡ đã làm đảo lộn tất cả.

Năm ấy tôi thường xuyên viếng thăm một người bạn bị bệnh nặng đang nằm điều trị nơi nhà thương. Bỗng một ngày – trong một lần viếng thăm bạn – tôi chạm mặt một phụ nữ trẻ tuổi khoảng đôi mươi. Nàng ngồi xe lăn nhưng toàn thân nàng lại toát ra một niềm vui sống dạt dào. Rồi một ngày nơi phòng đợi nàng bỗng vui vẻ kể cho tôi nghe lý do tại sao nàng phải ngồi xe lăn. Nàng đang đi môtô thì bị một tài xế lái ẩu chạy băng đèn đỏ đụng vào! Nghe nàng kể đến đây lòng tôi lại đùng đùng nổi giận, nhớ đến câu chuyện đau thương của chính mình! Người phụ nữ vui tươi kể tiếp. Trong vòng 18 tháng, kể từ khi tai nạn xảy ra, nàng không hề nuôi mối hận thù nào đối với người tài xế bất cẩn đã gieo tai họa cho nàng. Trái lại, nàng cảm thấy tri ân THIÊN CHÚA vì đã cho nàng niềm hạnh phúc vẫn còn sống bên cạnh Mẹ Cha và những người thân yêu. Rất có thể, nếu nàng bi-quan thù hận đời thì càng gây thêm nỗi đau đớn cho Cha Mẹ. Điều này không mang ích lợi nào cho ai hết: cho chính nàng cũng như cho các người thân yêu của nàng.

Lẳng lặng lắng nghe người phụ nữ trẻ tuổi – ngồi xe lăn – bày tỏ tâm tình, tôi bỗng như người vừa thoát ra khỏi cơn mê. Cho đến lúc đó, tuyệt đối tôi không thể nào tha thứ cho tên tài xế đã giết chết đứa con gái của tôi. Giờ đây, Caroline – tên người phụ nữ trẻ tuổi – dạy tôi bài học:

– THA THỨ là lãnh nhận niềm an bình nội tâm.

Ở đây – trong trường hợp của tôi – THA THỨ không phải là giải hòa với tên tài xế sát nhân mà là GIẢI HÒA với chính tôi. Khi tha thứ tôi được giải thoát khỏi hận thù và kể từ đó tôi có thể cùng với hiền thê nhắc lại bao kỷ niệm thân thương về đứa con gái dấu yêu đã sớm từ bỏ chúng tôi. THA THỨ trao ban cuộc sống mới cho tình yêu phu thê của hai vợ chồng chúng tôi.

Quả thật, từ hận thù đến THA THỨ chỉ có một bước nhỏ, vậy mà tôi đã phải mất đến 3 năm mới bước được, nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời với một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật.

(Chứng từ của ông Jean-Michel người Pháp).

… “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của THIÊN CHÚA, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được thứ tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin THIÊN CHÚA chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Sách Huấn Ca 27,1/28,1-7).

(“Annales d’Issoudun”, Janvier/2008, trang 9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 2/3/2015

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

dongten.net

(Bài viết dựa trên Tin Mừng: Ga 20,1-18)

– Cháu chào bà Maria Madalena.

IVANOV_YAV_HRISTA_MARI1

Chào cháu. Bà rất vui vì được cùng cháu nói về biến cố Chúa Giêsu sống lại. Đó là kỷ niệm đẹp nhất mà bà hằng ghi nhớ.

– Vâng, cháu thấy bà yêu mến Chúa Giêsu thật nhiều! Lúc trời còn tối mịt vậy mà bà đã hối hả ra mộ để thăm Người.

Cháu biết không, suốt ngày Lễ Vượt Qua, bà lo lắng thật nhiều vì không thể đi ra mộ xức dầu thơm cho Người, không thể chăm lo phần mộ của Người. Vả lại, đi theo Người trong suốt Cuộc Thương Khó, bà thấy thương Người lắm, nhưng chẳng thể làm gì được để cứu Người. Chính vì vậy nên khi Người được mai táng, bà muốn làm điều gì đó cho mộ phần của Người. Suốt cả đêm hôm ấy, giấc ngủ bà cứ chập chờn, chỉ mong sao chóng qua ngày mới để có thể chạy liền ra mộ.

– Cháu thấy các môn đệ kia lo sợ giới lãnh đạo Do Thái vì các ông có mối tương quan thân thiết với Giêsu. Họ sợ bị vạ lây. Nhưng hình như bà không chút sợ hãi?

Thú thực là trong những ngày ấy, người ta chẳng để tâm đến các bà đâu. Bởi thế, bà cùng với mẹ Maria và vài người phụ nữ đạo đức có cơ hội theo sát Chúa hơn trong Cuộc Thương Khó. Và Bà cũng đã chứng kiến Giêsu được mai táng cách nào.

Vâng, bà vui lòng kể cho cháu chi tiết hơn về việc Chúa Giêsu phục sinh và hiện ra lần đầu tiên với bà?

Ồ, đấy là một kinh nghiệm quý nhất trong đời bà. Số là sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà với mấy chị em nữa đi đến mộ. Các bà vừa đi vừa dò đường vì trời còn rất tối! Trên đường không một bóng người. Vừa đi các bà vừa bàn tán với nhau: “Chị em mình làm sao lăn tảng đá lớn lấp cửa mộ ra để vào trong mà xức dầu thơm cho Người?” Nhưng chuyện không ngờ đã xảy ra. Vừa đến mộ thì một cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt các bà: tảng đá đã bị ai đó lăn ra. Bà vội nghĩ ngay đến chuyện chẳng lành xảy đến cho thi hài của Thầy mình, nên bà liền chạy về gặp ông Phêrô và Gioan. Bà nói: “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”

– Thế hai ông có tin lời bà không? Và họ đã làm gì?

Lúc đầu hai ông chưa hiểu lắm, nhưng sự hối hả và hoang mang của bà khiến hai ông cũng vội vã đi ra mộ. Bà chạy theo sau. Khi ra đến nơi, hai ông ấy chứng kiến ngôi mộ trống, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Ðức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Lúc ấy, có vẻ như Gioan đã tin điều gì đó. Khi đến nơi, bà thấy hai ông vừa thẫn thờ vừa lo lắng. Không lo lắng sao được khi xác Thầy không còn nữa, không thẫn thờ sao được trước cảnh tượng vượt tầm kiểm soát của các ông, cho dẫu Kinh Thánh có nói đến việc Ðức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. Thế rồi, hai ông lủi thủi trở về nhà.

– Chuyện gì đã xảy đến cho bà lúc ấy?

Lúc ấy bà buồn lắm, chỉ biết đứng ngoài mộ mà khóc, khóc như một em bé bị mất cha, mất mẹ. Lòng bà nát tan và chẳng biết phải làm gì! Bà chỉ biết nhìn vào ngôi mộ trống mà khóc thôi. Nhưng đang khi nhìn, bà thấy hai người mặc áo trắng tinh ngồi ở nơi đặt thi hài của Ðức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Sau này bà mới biết họ là các thiên thần. Họ hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà nức nở thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”

– Thế họ có nói cho bà biết kẻ nào đánh cắp thi hài Giêsu không?

Không, họ không nói gì nữa! Nhưng khi định hỏi họ kỹ hơn thì bà cảm nhận có ai đó đứng phía sau mình. Bà ngoái lại, thấy một người làm vườn. Bà trông ông ấy vừa quen vừa lạ. Ông ấy hỏi: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà cảm thấy ông ấy có vẻ hiểu tâm trạng của bà lúc này, nên mới hỏi lại: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Bà vừa hỏi vừa chỉ cho ông ấy thấy ngôi mộ trống. Đúng lúc ấy, ông ta gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghĩa là ‘lạy Thầy’).

-Xin lỗi, cháu có chút tò mò. Sao bà biết là Thầy Giêsu mà đáp lại như thế?

Cháu à, bà không thể nào quên được tiếng gọi ấy. Lúc đi theo Thầy, bà thường được nghe tiếng gọi thân quen ấy. Giọng nói của Thầy luôn trìu mến để mời gọi chúng ta kết thân với Người. Vì là tiếng gọi của tình yêu nên Người muốn gọi đích danh! Lúc này, bà không tin vào mắt mình nữa! Bà vui mừng ôm chầm lấy Người, không để cho Người xa bà nữa, không để ai lấy Người đi xa bà nữa. Ôi, Chúa Giêsu đã phục sinh và đang ở với bà. Đó là sự thật!

Bà đang còn ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Phục sinh thì Ðức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’”. Trái tim bà tràn ngập niềm vui, lòng bà chứa chan hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh và hiện ra với bà. Sau đó, Chúa Giêsu liền biến mất, bà lập tức đi loan báo Tin mừng trọng đại này cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!”. Bà muốn lặp đi lặp lại thật nhiều lần: “Tôi đã thấy Chúa!”, muốn kể lại những điều Người đã nói với bà để mọi người tin rằng Chúa đã sống lại. Nhờ đó, muôn dân được cứu độ!

– Cháu thấy bà thật có phúc vì Chúa Phục sinh đã ưu ái hiện ra với bà trước tiên!

Đúng thế! Bà vẫn luôn cảm tạ Người đã đến trong cuộc đời bà và ân thưởng cho bà sự sống bất diệt. Bà nghĩ thời đại nào Chúa Giêsu cũng đang hiện ra với từng người. Có điều, họ có nhận ra Người đang hiện diện hay không mà thôi. Bà chắc chắn với cháu một điều, những ai đụng chạm và gặp được Giêsu Phục sinh, người ấy sẽ có sự sống, có tình yêu và có ơn cứu độ nơi mình.

Ước gì cháu cũng rộng mở trái tim để đón nhận Tin mừng phục sinh của Giêsu đến trong cuộc đời của cháu. Chúc cháu luôn nhận được ơn lành của Chúa Phục sinh!

– Cháu cảm ơn lời chúc tuyệt vời của bà! Cảm ơn bà thật nhiều, người đã gặp Chúa Phục sinh đầu tiên!

Mừng Chúa Phục Sinh 2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Câu hỏi trong Tuần Thánh

Câu hỏi trong Tuần Thánh

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (03.04.2015) – Roma, Italia – Một bạn trẻ gửi đến một câu hỏi: Thưa cha, tại sao thánh Phêrô và ông Giuđa cả hai cùng phạm tội. Người thì bán Chúa, người thì chối Chúa. Cả hai ông đều sám hối và mỗi người lại chọn một hành động khác nhau?

The Jews Passover

Phần trả lời chỉ là những suy tư cá nhân dựa trên chính những bản văn Kinh Thánh.

Trước hết, chúng ta cần ghi nhận rằng hành vi nộp Thầy của ông Giuđa Iscariốt là một tội trọng đáng phải chết vì có liên quan đến chính tính mạng của Đức Giêsu. Còn hành vi chối Thầy của Phêrô không đến đáng phải chết, nó liên quan đến sự trung thành và lòng can đảm của Phêrô đối với Đức Giêsu mà thôi. Nói cách khác, hành vi của Giuđa dẫn đến giết người, hành vi của Phêrô dẫn đến sự chối bỏ tương quan đức tin vào Thầy Chí Thánh. Như vậy, chúng ta có thể thấy bản chất của vấn đề khác nhau hoàn toàn. Cho nên sự so sánh hay việc đặt song song giữa tông đồ Phêrô và tông đồ Giuđa Iscariốt, do đó hệ quả của hành vi của hai tông đồ này là không công bằng. Chúng ta hãy xét từng trường hợp.

1. Sự thể chối Thầy và hành vi “sám hối” của tông đồ Phêrô

Các bản văn Kinh Thánh tường thuật lại sự việc chối Thầy của Phêrô là Mátthêu 26,69-75; Máccô 14,66-72; Luca 22,56-62; và Gioan 18,15-27. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy cách tường thuật của các tác giả sách Tin Mừng có sự khác nhau đáng kể. Tin Mừng Nhất Lãm, tức là Mátthêu, Máccô và Luca đều kể là Phêrô chối Thầy ba [3] lần trước khi gà gáy lần thứ hai [2]; trong khi đó, Gioan kể lại ba lần nhưng không có sự liên tục, và khi Phêrô chối lần thứ ba, tức thì gà gáy (x. Ga 18,17.25.27).

Tin Mừng Nhất Làm thuật lại rằng sau khi Phêrô chối Thầy ba lần thì gà gáy lần thứ hai, ông nhớ lại lời Thầy đã nói: “Trước khi gà gáy lần thứ hai, anh sẽ chối Thầy ba lần”, và Phêrô đi ra và ông khóc thảm thiết (Mt 26,75: Lc 22,62); và ông sụp mình xuống và khóc lóc (Mc 14,72); trong khi đó, Gioan không nói đến sự kiện Phêrô khóc, và chỉ kể lại đơn giản: và tức thì gà gáy (Ga 18,27).

Chúng ta để ý: ở đây cả bốn sách Tin Mừng không trực tiếp nói đến việc Phêrô “sám hối”, nghĩa là các tác giả Tin Mừng không dùng một động từ hay danh từ có nghĩa “sám hối” để chỉ cho hành vi ăn năn trở lại của Phêrô. Các tác giả Nhất Lãm chỉ đơn giản nói ông Phêrô ra ngoài và khóc lóc, thế thôi. Tuy nhiên, hành động “ra ngoài, sụp xuống, khóc lóc thảm thiết” của Phêrô có thể hiểu được chính là hành vi sám hối ăn năn của ông.

Tại sao Phêrô lại có khả năng ăn năn trở lại? Chúng ta hãy xem vài yếu tố. Thứ nhất, Phêrô đã được chính Thầy Giêsu báo trước và cho biết dấu hiệu: “Thật, Thầy bảo anh, nội trong đêm nay, trước khi gà gáy, anh sẽ chối Thầy ba lần” (Mt 26,34; Mc 14,30; Lc 22,34; Ga 13,38). Thứ hai, trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã bảo đảm cầu nguyện cho sự trở lại của Phêrô: “Simôn, Simôn, này Satan đã đòi cho được anh em mà quày cho một trận như sàng lúa; nhưng Thầy đã cầu xin cho anh, ngõ hầu lòng tin của anh khỏi bị tiêu diệt. Phần anh, một khi đã trở lại, anh hãy củng cố anh em của anh.” (Lc 22,31-32).

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Phêrô đã được ban cho một nội lực để trở lại và nội lực này được chính Chúa bảo đảm cho ông. Hơn nữa, sức mạnh nội tại này cũng đã có sẵn nơi Phêrô rồi, khi ông dõng dạc tuyên bố: “Dẫu phải chết với Thầy, tôi cũng sẽ không chối Thầy” (Mt 26,35; Mc 14,31); hoặc: “Thưa Thầy, làm một với Thầy, dẫu phải đi đến tù ngục và tử hình, tôi cũng sẵn sàng” (Lc 22,33); hay: “Thưa Thầy, tại sao tôi không thể theo Thầy ngay bây giờ? Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì Thầy!” (Ga 13,37).

Thế nên, chúng ta nhận ra rằng để chọn lựa một hành động không phải là một quyết định nhất thời, nhưng là hệ tại cả một hành trình sống như thế nào, cả trong tâm tư và nơi hành động. Chính do tâm tư và hành động của mình mà người ta rút ra được kết quả của đời sống, đúng như Đức Giêsu đã nói: “Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt.” (Mt 7,17-18).

Hình ảnh Phêrô trong Tin Mừng không chỉ nói riêng về Phêrô, nhưng còn nói về mọi tín hữu trong đời sống đức tin vào Đức Giêsu Kitô ở mọi thời và mọi nơi. Trong những lúc gặp gian truân và bị bách hại, ta thật sự có đủ mạnh mẽ trung thành và can đảm tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô?

2. Sự thể “bán” Thầy và hành vi “tự sát” của tông đồ Giuđa Iscariốt

Bây giờ chúng ta xét đến trường hợp của ông Giuđa Iscariốt. Tôi để hai từ “bán” và “tự sát” trong ngoặc kép là muốn có một sự thận trọng trong cách sử dụng hai từ này.

Hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt xuất hiện trong Tin Mừng ngay từ đầu đã thấy thấp thoáng số phận đen tối của ông. Trong danh sách Mười Hai Tông Đồ, ông là người đứng sau cùng và được nhận diện ngay: “Giuđa Iscariốt, cũng là kẻ đã nộp Người (Đức Giêsu)” (x. Mt 10,4; Mc 3,19; Lc 6,16). Tên của ông được nhắc đến khoảng 20 lần trong bốn sách Tin Mừng. Động từ paradidomi, trao nộp, xuất hiện khoảng 37 lần trong cả bốn sách Tin Mừng thường ám chỉ và áp dụng cho Giuđa Iscariốt. Hình như trong các tường thuật Tin Mừng, Giuđa chỉ lên tiếng có hai lần: một lần liên quan đến tiền bạc (x. Ga 12,4-6) và một lần khi Đức Giêsu thông báo rằng có một người trong Nhóm Mười Hai sẽ nộp Người, Giuđa đã hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ là tôi?” Đức Giêsu trả lời: “Anh nói đó” (Mt 26,25).

Vậy Giuđa có “bán” Thầy không? Và cách ông chết (tự vẫn) thế nào?

Chúng ta hãy đọc cách Tin Mừng tường thuật về ý định của Giuđa nộp Đức Giêsu và hãy chú ý từng chi tiết. Tin Mừng Mt kể: “Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi thứ gì?” Họ quyết định cho ông ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, ông cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu” (Mt 26,14-16).

Chúng ta để ý: Giuđa không hề ngả giá về số tiền bao nhiêu (một số bản dịch dịch là: quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? thì không chính xác!), ông chỉ hỏi các thượng tế cho ông cái gì để ông nộp Đức Giêsu thôi. Và chính các thượng tế đã quyết định cho Giuđa ba mươi đồng bạc!

Tin Mừng Mc kể: “Và Giuđa Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe ông nói, họ rất mừng và hứa cho một món tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc 14,10-11).

Thánh Máccô cũng kể rằng Giuđa đến với các thượng tế với ý định là để nộp Đức Giêsu. Các thượng tế biết thế thì vui mừng lắm và còn hứa cho ông Giuđa một món tiền. Như vậy, theo Máccô, ông Giuđa cũng không ngả giá tiền và thậm chí cũng không cần phải điều kiện gì. Tiền là do các thượng tế hứa cho ông, vậy thôi.

Tin Mừng Luca thì thuật lại chi tiết hơn nhưng bi kịch hơn: “Satan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai. Ông đi và trao đổi với các thượng tế và lãnh binh Đền thờ về cách thức nộp Người cho họ. Và họ rất mừng và đồng ý sẽ cho ông một món tiền. Ông ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22,3-6).

Cách tường thuật của thánh Luca cho chúng ta thấy tình cảnh của Giuđa đã trở nên bi đát: Satan đã nhập vào Giuđa! Tin Mừng Gioan cũng kể lại chi tiết này trong bữa Tiệc Ly: Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simôn Iscariốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2) và “Ông vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào ông. Đức Giêsu bảo ông: ‘Anh làm gì thì làm mau đi!’” (Ga 13,27).

Qua cách trình bày của các sách Tin Mừng trên đây, chúng ta nhận thấy thế này: Giuđa có ý định nộp Đức Giêsu, chứ không hề có ý định bán Đức Giêsu. Nhưng tại sao Giuđa lại nộp Thầy? Các Tin Mừng không cho biết lý do. Các thượng tế là những người hăm hở vui mừng khi biết tin Giuđa sẽ nộp Đức Giêsu cho họ và chính các thượng tế đã hứa cho Giuđa tiền, Mátthêu nói rõ là cho ba mươi đồng bạc. Còn Satan thì lẻn vào tâm hồn ông Giuđa. Và ông Giuđa tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu. Khi dịp thuận tiện đến, ông Giuđa đã dùng nụ hôn để phản bội Thầy (x. Mt 26,48-49; Mc 14,44-45; Lc 22,47-48).

Vậy là ông đã vì tiền và dùng tình yêu (nụ hôn) để phản bội Thầy. Hành động của Giuđa được các Thượng tế và hàng niên trưởng hậu thuẫn bằng cách cho tiền và Satan thì lẻn vào trong tâm hồn ông Giuđa. Tóm lại, hành động của ông Giuđa bị dẫn dắt bởi Thần Tiền và Thần Dữ!

Bây giờ chúng ta đọc đoạn kết cuộc đời của ông Giuđa Iscariốt: ông đã chết cách nào?

Giuđa không có cái may mắn được đảm bảo cho sự ăn năn trở lại. Thay vào đó, những lần nói về ông hay nhận xét về ông thì quả là đen tối. Ở Tin Mừng Gioan 6,70 Đức Giêsu nói: “Không phải là Thầy đã chọn anh em tất cả là Mười Hai sao? Vậy mà một trong anh em lại là quỉ sứ!” Và tác giả Tin Mừng Gioan nhận xét: “Người nói về Giuđa, con của Simôn Iscariốt. Vì y là kẻ sẽ nộp Người, y là một người trong Nhóm Mười Hai” (Ga 6,71). Ở Gioan 12,4-6, Giuđa được nhắc đến như thế này: “Giuđa Iscariốt, một trong các môn đệ của Người, kẻ sẽ nộp Người mới nói:Tại sao lại không bán dầu thơm ấy ba trăm đồng quan mà bố thí cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì y bận tâm đến người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ túi tiền, nên có gì bỏ vào thì y phỗng mất.” Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại lời Đức Giêsu nói về Giuđa như sau: “Con Người ra đi như đã viết về Người; nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp! Thà người ấy đã chẳng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24; Mc 14,21; Lc 22,21). Như vậy, số phận của Giuđa thật là tồi tệ!

Trong Tân Ước, có hai chỗ thuật lại cái chết của ông Giuđa, nhưng hai cách thuật truyện về cái chết của ông rất khác nhau. Mátthêu kể: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội. Nhưng họ nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Và ông đã ném bạc vào Đền thờ, đoạn lui về mà ra đi treo cổ.” (Mt 27,3-4).

Sách Công vụ lại kể: “Trong những ngày ấy, Phêrô đứng dậy giữa các anh em – một đám đông tề tựu lại, lối một trăm hai mươi người – và nói: ‘Thưa anh em, Kinh Thánh phải được ứng nghiệm, lời Thánh Thần đã dùng miệng Đavid để tiên báo về Giuđa, kẻ đem đường cho những người đến bắt Đức Giêsu. Y đã từng được liệt vào số chúng tôi, cùng đã được thông phần vào công việc phục vụ này. Vậy y đã lấy tiền công phi nghĩa mà tậu một thửa đất, và nhào đầu xuống, y đã vỡ bụng, lòi ruột ra. Sự ấy, mọi người ở Giêrusalem đều biết, khiến thửa đất kia đã được gọi – theo tiếng của họ – là Hakeldama, nghĩa là Ruộng máu! Vì trong sách Thánh vịnh đã viết: ‘Trại của nó hãy thành hoang vu, và đừng có ai ở lại trong đó. Và: Chức vụ của nó, kẻ khác hãy cất lấy!” (Cv 1,15-20).

Chúng ta tự hỏi: tại sao cùng là một cái chết, Mátthêu lại kể một cách và sách Công vụ lại kể cách khác? Theo Mátthêu, sau khi Giuđa ném tiền vào Đền thờ, ông đi ra và đi treo cổ (dịch sát nghĩa tiếng Hylạp là: tự treo mình lên); còn theo sách Công vụ thì Giuđa sau khi đã mua một thửa đất (trong khi đó theo Mátthêu thì chính các thượng tế mua thửa đất [x. Mt 27,6-10]), ông đã nhào đầu xuống, bị vỡ bụng và lòi ruột ra. Vậy thực tế thì ông Giuđa chết cách nào? Chúng ta không biết chính xác!

Tuy nhiên, ở đây chúng ta nên đọc sát bản văn Mátthêu để hiểu Giuđa và hiểu ý của tác giả sách Kinh Thánh (cách trình thuật truyện về cái chết của ông Giuđa trong sách Công vụ xin hẹn đọc ở một dịp khác).

Chúng ta đọc kỹ ý của ông Giuđa ở Tin Mừng Mátthêu: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội.

Ông Giuđa hối hận, chứ không phải là ông “sám hối”. Động từ hối hận chỉ xuất hiện trong Tân Ước 6 lần (x. Mt 21,29.31; 27,3; 2 Cr 7,8.8; Dt 7,21). Hành động đầu tiên của việc hối hận của Giuđa là đem “trả lại ba mươi đồng bạc”; hành động thứ hai là ông thú nhận tội lỗi của mình: “Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội”. Lời thú tội của ông vô cùng quan trọng: Đức Giêsu là Đấng vô tội! Và ông Giuđa trả lại ba mươi đồng bạc là trả lại cho các thượng tế điều họ đã hứa cho ông. Điều các thượng tế hứa cho ông lại là giá máu của người vô tội. Như vậy, ý định ban đầu của ông Giuđa không phải là ông muốn treo cổ, mà là ông đem trả lại tiền và thú nhận tội lỗi của ông. Nhưng tại sao ông lại phải treo cổ?

Chúng ta đọc tiếp: “Nhưng họ [các thượng tế và hàng niên trưởng] nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Ah, thì ra các thượng tế và hàng niên trưởng đã phủi tay! Ông Giuđa phải tự liệu bằng cách treo cổ!

Trình thuật của Mátthêu chương 27,3-10 về cái chết của ông Giuđa vọng lại rất nhiều chỉ dẫn Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta có thể đọc được âm hưởng trong các sách Ngôn sứ Giêrêmia các chương 18,2-18; 19,1-15; 32,6-9 và sách Ngôn sứ Zacaria 11,12-13. Về cái chết treo cổ của Giuđa, chúng ta có thể đọc được trong câu chuyện của ông Akhithophel trong sách thứ hai Samuel chương 17. Ông Akhithophel bàn mưu với Absalôm để đuổi theo và hạ sát vua Đavid. Nhưng cuối cùng kế của ông Akhithopel không được chấp nhận. Khi “Akhithophel thấy người ta không làm theo lời bàn của mình, thì thắng lừa, lên đường đi về nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất trong phần mộ của cha y.” (2 Sam 17,23). Ở đây, ông Giuđa đã không được các thượng tế và hàng niên trưởng chấp nhận việc trả lại tiền và lời thú tội của ông, ông đã ném tiền lại mà ra đi thắt cổ!

Liên quan đến tội nhận tiền hối lộ làm đổ máu người vô tội, chúng ta đọc được trong sách Luật Môsê: “Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Xh 23,7-8). Và: “Đáng nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: Amen! Đáng nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa: Amen!” (Đnl 27,24-25).

Hành động của Giuđa đi đến Đền thờ, gặp các thượng tế và hàng niên trưởng, trả lại tiền và thú nhận tội lỗi là hành vi “đền tội” của của ông qua trung gian các tư tế (thượng tế) có thể được hiểu chiếu theo Luật Môsê (x. Lv 5). Nhưng các thượng tế đã từ chối hành vi “đền tội” của Giuđa, do đó tội của ông không được tha, và hậu quả là Giuđa phải lãnh lấy sự nguyền rủa chiếu theo Luật Môsê. Ông đã phải tự treo cổ!

Đọc trong cách trình bày này của Mátthêu, chúng ta mới hiểu được tình cảnh “bi đát” của cái chết của ông Giuđa. Giuđa đã để cho Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nhưng cũng chính Thần Của và Thần Dữ này lại thể hiện ở một khuôn mặt khác nơi các Thượng tế (hàng tư tế) và hàng niên trưởng (các nhà lãnh đạo). Chính họ đã ghét và cố tình từ chối sự thật và sự công chính!

Tóm lại, hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt gợi lên cả một hành trình của mỗi một đời người trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhiều khi ta hay có thói quen “mặc định” cho ông Giuđa là kẻ “bán Chúa” và “thằng Giuđa phải sa hỏa ngục” (sic!) và biết bao nhiêu những thêu dệt về hình ảnh của ông thường là quá đáng. Tuy nhiên, ta lại ít phản tỉnh rằng rất nhiều khi hình ảnh Giuđa lại là chính ta.

Ở những xã hội lấy chủ nghĩa duy vật và vô thần làm nền tảng cho sự lãnh đạo và phát triển, thực chất chẳng vô thần đâu, nhưng là đang bị Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nơi đời sống tôn giáo, không thiếu gì các vị “thượng tế” và hàng “niên trưởng” thời đại chỉ biết giữ cho được cái “ghế”, cái “chức vị” của mình, thích được người ta ca tụng, vỗ tay hoan hô, vòng hoa đeo xúng xính; nhưng lại rất ngại lên tiếng bênh vực người nghèo, bênh vực những kẻ bị áp bức và bị bóc lột. Họ là những người ghét sự thật và sự công chính; đôi khi họ nại vào những lý do tôn giáo để chối từ bổn phận ngôn sứ trước những bất công xã hội.

Thế nên, hình ảnh Giuđa không chỉ là Giuđa, nhưng có liên quan đến chính ta!

Roma, Tuần Thánh 2015.

Vincent M. Phạm Cao Qúy, CSsR.

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

– Tin nổi bật, Bài Giảng

VRNs (03.04.2015) – Sài Gòn- Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều qua, Thứ Năm Tuần Thánh tại  nhà tù Rebibbia ở Rôma

Thứ năm này, Đức Giêsu đồng bàn với các môn đệ, để mừng kỷ niệm lễ Vượt Qua. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe có một từ quan trọng là tâm điểm về những gì Chúa Giêsu đã làm cho tất cả chúng ta. “Ngài yêu thương họ cho đến cùng (x.Ga 13,2). Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này không giới hạn, yêu đến cùng. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu vô hạn. Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu chúng ta. Ngài yêu tất cả chúng ta đến hiến mạng sống của Ngài. Vâng, Ngài trao ban sự sống của Ngài cho tất cả chúng ta. Và mỗi người trong chúng ta có thể nói rằng: “Ngài ban sự sống của Ngài cho tôi”. Ngài đã hiến thân mình cho từng người trong anh chị em, cho tôi cho mỗi người, từ người trước hết cho tới kẻ sau rốt vì tình yêu của Ngài là dành cho từng cá nhân chúng ta.

Tình yêu của Chúa Giêsu không bao giờ lừa dối vì Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu, cũng như không bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ, Ngài không bao giờ mỏi mệt ôm chúng ta vào lòng. Đây là điều trước hết tôi muốn nói với anh chị em: Chúa Giêsu yêu mỗi người trong anh chị em “đến cùng.”

Và rồi Ngài làm một việc mà các môn đệ không hiểu đó là rửa chân cho họ. Đó là phong tục vào thời đó khi người ta đến nhà ai, bàn chân họ dơ bẩn vì bụi đường. Không có con đường nào lót đá như bây giờ cả!

Và ở lối vào của ngôi nhà, khách bộ hành sẽ phải rửa chân. Người nô lệ sẽ làm việc này cho khách. Đó là công việc của kẻ nô lệ. Và Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, như một người nô lệ. Và Ngài nói với Phêrô: “Những gì Thầy đang làm, bây giờ anh em không hiểu nhưng sau này anh em sẽ hiểu” (Ga 13, 7).

Tình yêu của Chúa lớn đến nỗi Ngài trở nên như kẻ nô lệ để phục vụ chúng ta, để chữa lành chúng ta, để làm sạch chúng ta. Và hôm nay, trong Thánh Lễ này, Giáo hội muốn các linh mục rửa chân cho 12 người, tượng trưng cho 12 môn đệ vào lúc đó. Tâm hồn chúng ta phải xác tín chắc rằng khi Chúa rửa chân cho ta, Ngài đã tẩy sạch mọi thứ cho chúng ta, Ngài thanh tẩy chúng ta! Ngài cho chúng ta cảm nhận một lần nữa về tình yêu của Ngài.

Trong Kinh Thánh có một câu từ miệng ngôn sứ Isaia diễn tả về Thiên Chúa rất đẹp. Câu ấy nói rằng: “Không người mẹ nào quên con của mình. Dẫu cho có người mẹ nào quên con mình, thì Ta cũng không quên ngươi!” (Is. 49:15). Đó là cách Thiên Chúa yêu chúng ta.

Và tôi sẽ rửa chân 12 người trong anh chị em tượng trưng cho tất cả anh chị. Tất cả mọi người trong anh chị em! Tất cả mọi người sống ở đây. Nhưng tôi cũng có nhu cầu được Thiên Chúa làm sạch. Anh chị em hãy cầu nguyện trong Thánh lễ hôm nay để Thiên Chúa cũng làm sạch những rác rưởi trong tôi, để tôi có thể trở thành kẻ đầy tớ của anh chị em, kẻ đầy tớ phục vụ tất cả mọi người như chính Chúa Giêsu.

Hoàng Minh, VRNs

Cầu Nguyện

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”

(Trích trong PRIER)

Gx. Thiên Thần

IMG_5142

60 cách để biết mình là người gốc VN.

60 cách để biết mình là người gốc VN.

1. Là học trò giỏi điểm cao trong lớp.

2. Môn học chính là: Y Khoa, Kỹ Thuật hay Kế Toán..

3. Có nhiều bằng Ðại Học, hay ít nhất một bằng.

4. Nếu học nhạc sẽ học piano.

5. Bàn ăn ở nhà phủ bằng tấm nhựa.

6. Bếp ở nhà bọc bằng giấy nhôm.

7. Bếp núc lúc nào cũng dính mỡ.

8. Ðánh trứng bằng đũa.

9. Ðể giầy ngoài cửa.

10. Máy rửa chén dùng để đựng bát đĩa.

11. Nhà lúc nào cũng có bình thuỷ trữ nước nóng.

12. Ðun nước sôi để nguội để dành uống.

13. Ăn trong bếp để tránh làm dơ bàn ăn.

14. Nấu ăn không đo, mà lường bằng mắt.

15. Ðể dành túi shopping bag để bỏ rác.

16. Nấu cơm bằng nồi điện.

17. Xào bằng chảo.

18. Dành nhau trả tiền trong tiệm ăn.

19. Vo gạo ít nhất là hai lần trước khi nấu cơm.

20. Húp canh sùm sụp.

21. Không sấy khô áo quần trong máy mà phơi.

22. Ủi lấy quần áo của mình.

23. Thích cháo tiều mìn tản (hột vịt vạn niên).

24. Nấu lấy cơm ăn dù ghét vào bếp.

25. Dùng credit card nhưng cuối tháng thanh toán hết.

26. Cất hết tiền vào một trương mục tiết kiệm.

27. Mua thiệp giáng sinh sau mùa để được bớt nửa tiền, dành xài cho năm tới.

28. Rửa bát bằng tay vẫn chỉ dùng nước lạnh.

29. Cố ăn để khỏi vứt đồ thừa.

30. Dùng hộp nhựa margarine để trữ đồ ăn trong tủ lạnh.

31. Mua giấy đi cầu thật nhiều lúc sale để dành.

32. Sưu tập lọ shampoo nhỏ của khách sạn khi đi du lịch.

33. Mang theo đồ ăn lên xe mặc dù chỉ lái một chặng ngắn..

34. Bao nylon ở siêu thị bọc đồ ăn để dành trong tủ lạnh .

35. Dùng bịch đường lấy Second Cup khi uống cà phê.

36. Nhả xương ra bàn trong tiệm ăn ở phố Tầu.

37. Ông Bố nghĩ mình lúc nào cũng có thể sửa bất cứ cái gì hư trong nhà.

38. Bà Mẹ lái xe Mercedes đi kiếm đồ sale.

39. Nhiệt độ trong nhà lạnh mùa lạnh, nóng mùa nóng.

40. Tranh nhau hát Karaoke.

41. Mở sách directory ra tìm số phone, chứ không chịu tốn 50 xu quay số 411.

42. Ăn tôm cả vỏ.

43. Chỉ gọi điện thoại viễn liên bằng cách rẻ nhất và giờ rẻ nhất.

44. Chỉ phone bố mẹ khi cần thiết chứ không phone để hỏi thăm sơ.

45. Chỉ thích lái xe Ðức hoặc xe Nhật.

46. Nhịn cho thật đói trước khi đi ăn buffet.

47. Ðã từng bị vào hội mua CD.

48. Không bao giờ chịu bàn về đời sống riêng tư của mình với cha mẹ.

49. Không dùng khăn lau mặt và khăn tắm mầu trắng.

50. Đậu xe ở stop light vừa nói cell phone vừa móc mũi.

51. Đi chợ thấy quả gì cũng bóp thử

52. Đến hàng trái cây trong supermarket là bốc nho lủm

53. Vào Cosco hay rủ nhau đi ăn food samples
54. Đến đâu cũng tự động ngồi chồm hổm, hai đầu gối đụng lỗ tai (ngã tư chẳng hạn)

55. Nấu ăn hay lén bỏ bột ngọt Ajinomoto

56. Ăn steak hay cắt trước ra thành miếng nhỏ

57. Vào nơi công cộng hay ăn nói oang oang như chỗ không người

58. Lái toàn các loại xe xịn high performance, nhưng lại chạy chậm nhất thế giới (sơ đụng sảng)

59. Khi vào parking lot, đậu tại chỗ và nghểnh cổ tìm chỗ trống, cản đường mọi người.

60. Băng qua đường sảng và giơ tay cản xe incoming, hoặc vẫy tay xin lỗi.

10 tố chất cơ bản người Việt

Theo Viện nghiên cứu Xã hội học Hoa Kỳ thì người Việt có 10 tố chất cơ bản sau :

1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.

2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó với các khó khăn trước mắt, thiếu tầm tư duy dài hạn và khả năng biện luận chủ động.

3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.

5. Ham học hỏi, hiểu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, người Việt ít khi học tập vì đam mê kiến thức (nhỏ thì học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm).

6. Cởi mở và hiếu khách, song không bền.

7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang).

8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh khó khăn, bần hàn, còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất hiếm thấy.

9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, để tiểu tiết làm hỏng đại cuộc (ham cái lợi gần mà quên việc lớn).

10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, hai người làm thì kém, ba người làm thì hỏng).

Làn sóng ‘bất tuân dân sự’ lan tới Việt Nam?

Làn sóng ‘bất tuân dân sự’ lan tới Việt Nam?

Thuật ngữ “bất tuân dân sự” ngày càng được nhắc tới nhiều hơn ở trong nước sau cuộc phản kháng chính quyền Bắc Kinh của nhiều người dân Hong Kong, đa số là thanh niên và sinh viên, hồi cuối năm ngoái.

Thuật ngữ “bất tuân dân sự” ngày càng được nhắc tới nhiều hơn ở trong nước sau cuộc phản kháng chính quyền Bắc Kinh của nhiều người dân Hong Kong, đa số là thanh niên và sinh viên, hồi cuối năm ngoái.

VOA Tiếng Việt

Những cuộc xuống đường rầm rộ, đẩy chính quyền ở cả nam lẫn bắc vào thế buộc phải thương lượng những ngày qua, đã khiến giới quan sát lạc quan nhiều hơn về một làn gió mới từ xã hội dân sự ở Việt Nam.

Hàng nghìn công nhân, thậm chí có báo nói là hàng chục nghìn người, làm việc cho công ty Pou Yuen của Đài Loan, đã tuần hành ở Sài Gòn để phản đối chính sách bảo hiểm xã hội mới.

Cuộc biểu tình ôn hòa quy mô lớn hơn nhiều lần so với những đợt đình công trước đây gây đình trệ hoạt động tại khu công nghiệp Tân Tạo, khiến nhà nước phải tìm cách trấn an và xoa dịu.

Đích thân Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh – Xã hội đã có buổi đối thoại trực tiếp với đại diện các công nhân hôm 31/3.

Nhưng hiện vẫn chưa rõ kết quả của cuộc làm việc nhằm hóa giải căng thẳng này. Một tờ báo đưa tin công nhân đã “vỗ tay đồng tình”, trong khi tờ khác lại đưa tin rằng “cuộc đối thoại bất thành”.

Thuật ngữ “bất tuân dân sự” ngày càng được nhắc tới nhiều hơn ở trong nước sau cuộc phản kháng chính quyền Bắc Kinh của nhiều người dân Hong Kong, đa số là thanh niên và sinh viên, hồi cuối năm ngoái.

Luật sư Nguyễn Văn Đài đồng tình với nhận định cho rằng người Việt đang học hỏi các phương thích tranh đấu bất bạo động từ nhiều nơi khác trên thế giới.

“ Do vậy, tôi cho rằng đây chỉ là một sự khởi đầu. Tôi nghĩ rằng từ giờ tới cuối năm, hay sang năm, thì phong trào bất tuân dân sự, phong trào xuống đường khi có một sự kiện nào đó, sẽ mạnh mẽ và trở nên dữ dội hơn.

Luật sư Nguyễn Văn Đài nhận định.”

Nhà bất đồng chính kiến này nói: “Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet, đặc biệt là các trang mạng xã hội, những thông tin về các cuộc biểu tình, các cuộc đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người ở khắp nơi trên thế giới, đều được chuyển tải tới người dân ở trong nước, đặc biệt là giới trẻ. Thế nên nó tác động rất nhiều đến tâm lý. Khi những sự kiện tương tự, hay những sự kiện xảy ra ở trong nước, tác động trực tiếp tới người dân, thì họ biết rằng họ phải làm gì đó để bảo vệ quyền lợi của họ, giống như là người dân trong khu vực cũng như trên thế giới từng làm”.

Ông Đài nói thêm: “Do vậy, tôi cho rằng đây chỉ là một sự khởi đầu. Tôi nghĩ rằng từ giờ tới cuối năm, hay sang năm, thì phong trào bất tuân dân sự, phong trào xuống đường khi có một sự kiện nào đó, sẽ mạnh mẽ và trở nên dữ dội hơn”.

Luật sư Đài nói thêm rằng tình hình kinh tế, xã hội ở Việt Nam ngày càng xuống cấp, tác động trực tiếp tới người dân, nên công nhân ở Sài Gòn “xuống đường với thái độ quyết liệt hơn để đòi hỏi quyền lợi cho bản thân”.

Ông cũng nhấn mạnh tới quyết tâm bày tỏ thái độ bảo vệ môi trường của người dân Hà Nội trong vụ chặt cây xanh gây tranh cãi vừa qua, khiến chính quyền thủ đô buộc phải dừng triển khai việc thay thế cây.

Dù các cuộc diễu hành vì cây xanh thu hút sự tham gia của nhiều người với sự hậu thuẫn của truyền thông trong nước, trả lời báo chí mới đây, Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị lại cho rằng “có trang mạng kích động nhân dân xuống đường biểu tình, nhân danh bảo vệ cây xanh nhưng thực ra là chống chế độ”.

Blogger Anh Chí, người mới xuống đường kêu gọi chính quyền Hà Nội minh bạch hóa thông tin về vụ chặt cây, không đồng tính với ý kiến của ông Nghị.

“ Có lẽ là các ông ấy quá chủ quan, đánh giá quá thấp sự hiểu biết và bản lĩnh của người dân bây giờ. Người dân bây giờ tự nhận thức được điều gì đúng, điều gì sai, chứ không phải do ai kích động cả.

Blogger Anh Chí nói.”

Nhà hoạt động xã hội này nói: “Có lẽ là các ông ấy quá chủ quan, đánh giá quá thấp sự hiểu biết và bản lĩnh của người dân bây giờ. Người dân bây giờ tự nhận thức được điều gì đúng, điều gì sai, chứ không phải do ai kích động cả. Thực tế, dự án này đi ngược lại chủ trương mà chính quyền đưa ra. Họ chặt cây mục, cây cong, cây xấu, gây nguy hiểm thì đó là chuyện bình thường. Nhưng thực tế, họ lại chặt những cây rất to, những cây tuổi tới trăm năm, mấy chục năm”.

Blogger Anh Chí nói thêm: “Ông bí thư thành ủy Hà Nội nói là có phần tử kích động, thì tôi nói thẳng đó chính là những quan chức chịu trách nhiệm phát ngôn. Chính những lời nói của họ kích động nhân dân vì người dân cảm thấy bị xúc phạm, bị lừa dối và bị coi thường. Việc bảo vệ môi trường sống, tài sản chung, việc chung của xã hội, người dân phải có quyền tham gia. Chứ còn đảng cộng sản Việt Nam hay phía chính quyền, chỉ là một nhóm người rất ít trong xã hội này. Họ không thể nào làm hết được”.

Trong một bài viết đăng tải hôm nay, 1/4, với tựa đề “Mở rộng dân chủ qua cách lắng nghe dân”, tờ Tia sáng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng cuộc đình công của công nhân hay xu hướng phản đối của người dân Hà Nội trước việc chính quyền triển khai chặt hạ 6.700 cây xanh trong thành phố là “những ví dụ cho thấy nhà nước chỉ tiếp thu tiếng nói của người dân khi chính sách đã hoặc sắp sửa đi vào đời sống, và nhân dân hầu như không được thông tin từ sớm để có cơ hội tham gia góp ý dự thảo chính sách”.

Trong khi đó, nhận định trên Facebook về cuộc đình công của công nhân công ty Pou Yuen, luật sư Lê Công Định viết: “… Nói thật, phen này gay go đấy các bác ạ! Một đạo luật bất công và bất hợp lý bao giờ cũng phải đối diện với phong trào bất tuân dân sự của toàn xã hội. Những ngày êm ả nay còn đâu?”

Chính phủ Việt Nam tháng trước đã đề nghị cho phép lùi trình luật Biểu tình thêm một năm rưỡi so với dự kiến trước đó.

Dự luật này được nhiều người kỳ vọng sẽ hợp pháp hóa việc xuống đường bày tỏ quan điểm và nguyện vọng của người dân.