Thích to để “tự sướng”

Thích to để “tự sướng”

VienDongDaily.Com

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Trước hết để nói về hai chữ “tự sướng” gần đây hay được báo chí VN dùng trong nhiều trường hợp, nhất là những người tự chụp ảnh đều được cho là “tự sướng.” Trong năm 2013, từ này xuất hiện liên tục trên mạng Internet, đặc biệt là các trang mạng xã hội, trở thành một từ thông dụng và thời thượng.
Thật ra từ ngữ này trước đây chỉ dùng trong trường hợp người ta tự làm một cách nào đó khiến mình sung sướng (tính từ). Xin lỗi bạn đọc, hành động này khiếm nhã nên tôi không dám viết rõ ở đây. Tôi thấy dùng từ ngữ “tự sướng” cho người tự chụp ảnh có vẻ không đúng chỗ. Thí dụ Tổng Thống Nam Hàn Lee Myung-bak chụp hình theo yêu cầu của nữ cầu thủ Ji So-yun có phải để “tự sướng” không? Tất nhiên là không rồi.

Mẹ già đau đớn bên đứa con bệnh tâm thần phải xích lại nhiều năm nay, trong khi chính phủ chi hàng chục triệu Mỹ kim chỉ để “tự sướng,” không ích lợi cho ai.

Tuy nhiên trong bài này lại có vẻ đúng, bởi người ta thích to để “tự sướng” với nhau hoặc che đi cái mặc cảm tự ti “nước mình nghèo và nhỏ quá” và bản thân dân mình cũng “rách như cái mền” nên cố phồng mang trợn mắt lên để tỏ ra “mình cũng sang như các anh ở nước giàu có.”
Thí dụ như hồi giữa tháng 8/2013, đại gia Lê Ân đã mua mua chiếc giường Hoàng gia với giá hơn 6 tỷ đồng (gần $280,000), sản xuất trong hơn ba tháng và sẽ vận chuyển bằng đường hàng không về Việt Nam.
Giải thích về việc bỏ ra một khoản tiền lớn để mua giường, ông Ân khẳng định, “Giá của chiếc giường với tôi không phải là cao. Trung Quốc mua được thì người Việt Nam cũng mua được. Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngủ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền.”
Không dừng lại ở đó, đại gia Lê Ân còn cho tạc ba bức tượng của ba người vợ từng phụ bạc, ôm tài sản của ông ra đi trong khuôn viên Làng du lịch Chí Linh, Vũng Tàu.
Đã đành anh có tiền, miễn là đồng tiền lương thiện, anh chơi gì chẳng được nhưng trong khi ai cũng biết dân và nước VN còn nghèo, trong khi xã hội đều được khuyến cáo phải tiết kiệm thì những hành vi khoe khoang này trở nên xa xỉ, chướng mắt và lố bịch. Trước khi kể đến vài hiện tượng mang tính cách quốc gia nổi lên trong thời gian gần nhất, tôi kể vài kiểu chơi ngông của đại gia Việt khiến đại gia thế giới có lẽ cũng phải “chào thua” trước đại gia Việt.

Đặt trước mua quan tài $463,000

Quan tài có nhiều loại và tương đương với nó là “đẳng cấp” cùng với số tiền phải chi trả cũng khác nhau. Quan tài hạng bình thường thì không có gì phải nói và đầy rẫy. Hạng quan tài dành cho người trung lưu thì có khác hơn một chút. Còn các loại quan tài dành cho tầng lớp thượng lưu, quan chức, đại gia thì có sự khác biệt hoàn toàn. Một người am hiểu vấn đề này cho biết, với những người này, người ta sẽ đặt quan tài từ khi vẫn còn khoẻ mạnh, hoặc khi mới ngã bệnh, chứ ít khi qua đời rồi con cái mới chạy đi mua. Vì có sự chuẩn bị từ trước nên họ rất kỹ trong việc chọn lựa từ kiểu dáng, mẫu mã, vật liệu… Họ thường thuê hẳn một người thiết kế riêng, sau đó mới đưa bản vẽ đến để cửa hàng đóng.
Thường thì họ sẽ chọn gỗ Pơmu hoặc gỗ Sưa, hai loại gỗ này khá đắt tiền nhưng đúng là chất lượng tuyệt hảo. Muốn có một cỗ quan tài bằng gỗ này sẽ phải đặt trước ít nhất 3 tháng để gom nguyên liệu. Giá của nó thì thực sự là xứng tầm đại gia, ít nhất cũng phải $400,000 đến $600,000 USD/cỗ.
Đã từng có đại gia ở Hải Phòng lên tận Hà Nội đặt quan tài gỗ sưa, tiền không phải là vấn đề. Sau đó lại yêu cầu chạm khắc rồng phượng đủ thứ, dát vàng 18k, tổng chi phí rơi vào khoảng… 10 tỉ đồng ($463,000).

Kỳ công chọn nhà ướp xác và mộ phần khi còn sống

Ở Sơn Lâm, Lương Sơn, Hòa Bình, hầu như ai cũng biết đến biệt danh ‘Đức gấu.’ Ông Đức nổi tiếng không chỉ vì nuôi gấu mà còn tự mình xây dựng một trang trại, trong đó có khu lăng mộ chờ ướp xác mình. Hầm mộ ướp xác được ông Đức khởi công từ năm 2000, hoàn thiện năm 2006. Công trình nhằm hướng Tây Bắc, số bậc thang dẫn lên hầm mộ được các pháp sư tính toán cẩn thận. Ba pháp sư cao tay (hai người Việt Nam, một người Trung Quốc) cùng chọn hướng hầm mộ là Tây Bắc.
Trên quả đồi rộng trồng nhiều cây bách diệp và cây gỗ lát, phần nổi của hai hầm mộ là khối bê tông kiên cố, dài 12m, rộng 7.5m, chiều cao tính từ nền đất trang trại là 25m.
Trên bề mặt đặt thêm tấm bê tông lớn mô phỏng hình một bàn cờ tướng, bàn cờ này mới được làm thêm năm 2007. Vị trí đặt xác ông Đức được ông thiết kế sâu 18m và nằm sâu trong ngóc ngách lòng núi
Để tự ướp xác mình, ông Đức phải nghiên cứu đủ các loại tài liệu Việt Nam, nước ngoài. Những chuyến chu du hàng tháng trời tới Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc tốn hàng chục ngàn đôla để vào các bảo tàng, đến tận những trung tâm nghiên cứu ướp xác người để học hỏi kinh nghiệm.
Ông Đức cũng không ngại hao tốn công sức đi tìm các dụng cụ, nguyên vật liệu phục vụ cho việc ướp xác tốt nhất. Ông vào tận núi Bà Đen, Tây Ninh – nơi tìm thấy xác người còn nguyên vẹn để tìm hiểu địa chất, địa hình nơi đây, tìm mua tinh dầu Cổ Am, tinh dầu Gù Hương để tẩm xác.
Ông cũng tới Ninh Thuận rất nhiều lần để đặt mua than trai – một loại than rất hiếm đốt từ thân cây trai, một loài cây chỉ mọc ở Ninh Thuận, trồng cả chục năm nhưng thân cây chỉ bằng cổ chân.
Bột gạo nếp rắc lên thi thể, áo quan làm từ gỗ quý, tinh dầu ướp xác… đến nay tất cả đã được ông Đức chuẩn bị đầy đủ đặt tại lòng hầm mộ.

Chơi toàn thú dữ

Thời đại này chó Tây, chim hiếm, cá cảnh độc không còn là những con vật quý hiếm nữa. Giờ đây những vị mang thương hiệu đại gia thực thụ phải đi liền với nuôi… thú dữ. Vì thế, các đại gia cũng không ngần ngại trong việc tậu cho mình vài ba con trăn khổng lồ, rắn cực độc, gấu, hổ hay cá sấu cho “vui cửa vui nhà.”
Quan điểm của họ là mua được những con thú lạ, thú độc, càng đứng đầu danh sách đỏ càng tốt, vì thế, thú chơi này cũng được phân tầng bậc. Thường thường thì “chơi” đà điểu, heo rừng, hươu, sóc, khỉ… Còn thời thượng, tay chơi hơn thì trong bộ sưu tập phải có gấu, có hổ, báo, hay sư tử, tê giác, trăn, rắn độc… trong vườn nhà. Để củng cố thứ bậc và thể hiện đẳng cấp của mình, các đại gia sẵn sàng chi tài chính cho các chuyến săn hàng tận Lào, Campuchia, Ấn Độ hay sang tận cả các nước châu Phi. Số tiền bỏ ra không dưới hàng trăm tỉ.

Đại gia dùng 140 cây vàng dát nhà vệ sinh

Nghiện dát vàng từ thang máy tới căn nhà, ông Đường “bia” tên thật là Nguyễn Hữu Đường, Tổng giám đốc Công ty Hòa Bình (Hà Nội) đã bỏ ra 140 cây vàng để dát vàng cho cả toilet. Từ giá treo khăn, tới vòi hoa sen, vòi rửa thậm chí là cả hộp đựng giấy vệ sinh của phòng tắm được mạ vàng, khiến cho căn nhà trở nên độc và xa xỉ bậc nhất Việt Nam.

Đến kiểu chơi sang của nhà nước

Giữa tháng 3-2015, nhiều cư dân mạng chia sẻ hai tấm ảnh mang tính tương phản cao: Một chụp tượng đài Bà Mẹ Việt Nam anh hùng vừa hoàn thành ở Quảng Nam với chi phí 411 tỉ đồng ($19 triệu Mỹ kim), một chụp một bà mẹ anh hùng khốn khó trong đời thực. Hình ảnh này khiến dư luận dậy sóng. Rõ ràng công luận có lý do để phẫn nộ bởi nếu dùng khoản tiền khổng lồ ấy để giúp đỡ những bà mẹ anh hùng đang sống trong cảnh khốn khó sẽ có ý nghĩa và hiệu quả hơn nhiều. Và ngay cả những bà mẹ VN không cần phải là anh hùng nhưng gặp hoàn cảnh vô cùng khó khăn cũng cần được giúp đỡ. Họ cũng là người mẹ VN. Chẳng thiếu gì những cành đời đau thương của các bà mẹ VN.
Thí dụ như hoàn cảnh của bà Lê Thị Kỷ 74 tuổi ở xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh hàng ngày người mẹ già khốn khổ phải đi lên rừng đốn củi, nhổ rau má về bán kiếm tiền nuôi đứa con tâm thần. Hôm nào mệt không đi được, không có tiền mua con mắm, bó rau là đứa con tâm thần không chịu ăn, đập phá, đá đổ nồi cơm. Một sợi xích dài được buộc vào chân người đàn ông đó, đầu kia thắt vào cột nhà, mỗi khi anh ta cất bước dậy đi là sợi xích căng lên, khiến anh đau điếng, la hét. Bà Kỷ chỉ còn ôm mặt khóc.
Hoàn cảnh như thế có đáng được cứu giúp không? Xây đài 411 tỉ đồng to nhất Đông Nam Á để làm gì? Mới khánh thành được vài ngày, nền gạch tượng đài Mẹ Việt Nam vỡ vụn. Rồi qua thời gian dãi nắng dầm mưa, pho tượng lại phải được trùng tu, sửa chữa, ngốn thêm bao nhiêu tiền của nữa? Đúng là kiểu khoe mẽ để các quan tự sướng với nhau thôi.

Tháp truyền hình VN sẽ cao nhất thế giới

Cùng thời điểm, báo chí cũng đưa tin về việc khởi công xây dựng tượng Phật Thích Ca cao nhất thế giới (cao 81 m) khắc vào vách núi Sam tại thành phố Châu Đốc (tỉnh An Giang), ngoài ra là tháp truyền hình Việt Nam phá kỷ lục thế giới (cao 636 m) tại Hà Nội, thậm chí còn cao hơn cả tháp Tokyo Sky Tree của Nhật.
Có thể vẫn có những người tự hào về hai kỷ lục sắp thành hiện thực đó nhưng nếu suy nghĩ kỹ, bạn sẽ thấy việc xây một biểu tượng Phật giáo bề thế đi ngược lại triết lý nhà Phật về việc hạn chế khoa trương, trong lúc tư duy xây tháp truyền hình bây giờ đã trở nên lạc hậu. Đang là thời truyền hình vệ tinh và tích hợp các dịch vụ truyền thông ứng dụng công nghệ cao, chẳng có quốc gia nào xây tháp truyền hình cao ngất như trước. Ngay cả các tháp truyền hình nổi tiếng như tháp Eiffel, tháp Tokyo, tháp Seoul hiện nay chỉ để khai thác làm điểm cho khách du lịch quan sát trên cao.
Đúng là một hội chứng “phát cuồng với những cái khổng lồ.” Theo một thống kê chưa đầy đủ, hội chứng phát cuồng với những cái khổng lồ được gọi chung là gigantomania rất được ưa thích ở Liên Xô thời Stalin, ở Đức thời phát xít và ở Bắc Hàn hiện nay và bây giờ thêm “ông Việt Nam” nữa!

Văn Quang

(3-4-2015)

Việt Nam liệu đã có độc lập, tự do?

Việt Nam liệu đã có độc lập, tự do?

Văn Báu Gửi tới BBC từ Tp HCM

Chuyến đi của ông Trọng sang Trung Quốc diễn ra trước chuyến đi theo dự kiến của ông sang Hoa Kỳ.

Nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc, tôi băn khoăn Việt Nam đã thực sự độc lập, tự do hay chưa.

Ngày 30/4/1975, nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, dân tộc Việt Nam được hưởng một nền độc lập tự do hoàn toàn. Đã thắng Pháp – đệ tứ cường quốc, thắng Mỹ – cường quốc số một thế giới rồi thì còn phải sợ ai nữa?

Nhầm to! Thắng do chúng ta trực tiếp chiến đấu, nhưng không có vũ khí đạn dược, xe tăng, máy bay, tên lửa… thì đánh bằng gì? Việt Nam có tự sản xuất được những thứ ấy không? Không có viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô, không dựa vào họ, chúng ta không thắng được Mỹ!

Chính vì thế mà Trung Quốc chẳng ngán gì cái tay vừa đánh bại được nước giàu nhất thế giới ấy mà sẵn sàng “dạy cho Việt Nam một bài học”.

Láng giềng phương Bắc sau đó đã chủ động rút quân sau khi gây tổn thất nặng nề cho Việt Nam, lẽ ra Việt Nam nên lấy đó làm bài học thực sự mới phải. Phải hiểu rằng với sức của mình hiện tại, người ta muốn đánh lúc nào thì đánh, chả ai cứu được.

Đàn anh Liên Xô khi đó cũng có kịp làm gì đâu. Đến năm 1988 ở đảo Gạc Ma cũng vậy.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện đang thăm Trung Quốc, gọi là thăm nhưng thực ra là bị gọi sang một cách vội vã trước khi Việt Nam thăm Mỹ. Nó giống việc con cái phải hỏi ý kiến cha mẹ trước khi đi chơi với bạn vậy.

Nếu đã trưởng thành, có độc lập tự do thật sự thì không anh nào còn làm cái việc trẻ con ấy cả. Hóa ra Việt Nam mang tiếng là độc lập tự do (tính từ thời điểm năm 1975 thì cũng đã được 40 tuổi rồi đấy) nhưng làm gì cũng phải xin phép.

Kể cả Trung Quốc có mời sang, nhưng thời gian quá gấp cho một chuyến đi lớn như thế thì hoàn toàn có thể dời lại. Nếu đã quyết “đi chơi” với Mỹ thì cứ đi, nếu đã kiên quyết kiểu gì cũng phải thay đổi quan hệ với Mỹ thì “láng giềng thân thiết” có nói gì cũng mặc, đi về rồi tính.

Sang Trung Quốc bây giờ người ta sẽ lại ngon ngọt, vỗ về, hứa hẹn, liệu lúc đi về quyết tâm còn được bao nhiêu? Hay lại giống anh Chí Phèo định đến rạch mặt ăn vạ nhà Bá Kiến nhưng bị tay cáo già mời vào giết gà đãi rượu thấy xuôi tai rồi lại chịu làm tay sai suốt đời cho tên gian ác đó?

Không có hy vọng?

Việt Nam và Hoa Kỳ đang có những cải thiện lớn trong quan hệ song phương.

Nhưng phải nói thật rằng kể cả có đi Mỹ trước, hiệu quả cũng không cao. Vì các lý do dễ thấy:

Thứ nhất: Mức độ Mỹ giúp đỡ chỉ tương ứng với mức độ Việt Nam cải cách. Nếu Việt Nam chỉ cải cách nửa vời hoặc hình thức thì các “gói cứu trợ” sẽ không đủ tác dụng. Việt Nam mà chưa thành đồng minh của Mỹ, nếu Việt Nam và Trung Quốc có xung đột Mỹ cũng không lấy làm buồn vì cộng sản anh em còn đánh nhau thì trách ai được nữa.

Nếu Việt Nam muốn Mỹ can thiệp mạnh, thì sự can thiệp ấy có thể sẽ đi quá mức, tức là có thể mất chế độ. Điều này lãnh đạo Việt Nam không cho phép xảy ra.

Lý do thứ hai: Đặt một khả năng viễn tưởng: Việt Nam thay đổi chế độ để làm đồng minh của Mỹ. Có Mỹ bảo trợ thì chắc chắn là hơn rồi. Nhưng cứ nhìn vào Đài Loan – đồng minh thực sự, đã bị Mỹ đẩy ra khỏi Liên Hợp Quốc sau chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Nixon đến Trung Quốc năm 1972 (chuyến thăm mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng) thì biết.

Trung Quốc dẫu sao cũng là nước lớn, và các nước quan hệ với nhau luôn phải đặt lợi ích lên trên hết. Khi cần thì những quân cờ nhỏ như quân tốt đều có thể hy sinh, đều có thể lấy ra để đánh đổi, để mặc cả.

Liệu Mỹ có thể mang quân hỗ trợ Việt Nam nếu có xung đột với Trung Quốc? E rằng là không. Nhưng nếu là Nhật Bản và Hàn Quốc thì có thể đấy, vì đây là 2 nước lớn và giàu có thuộc hàng nhất thế giới.

Ngoại giao cần phải khôn khéo, nhưng ngoại giao cũng chỉ hạn chế trên cái sức mạnh của quốc gia đó mà thôi. Mình có lớn mạnh thì tiếng nói của mình mới có trọng lượng, người ta mới nể mình.

Mới đây có ai đó nhắc lại tư tưởng độc lập của nhà yêu nước Phan Châu Trinh mà nhiều người thấy đúng quá:

“Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mưu cầu độc lập chứ không cầu viện ngoại bang dùng bạo lực giành độc lập.

Chỉ như vậy mới bảo đảm Việt Nam sẽ có một nền độc lập chân chính, lâu bền về chính trị lẫn kinh tế trong quan hệ với ngoại bang cũng như nhân dân sẽ được hưởng độc lập và tự do cá nhân trong quan hệ với nhà nước.”

Còn cứ nghèo, cứ lạc hậu thì mãi chỉ là quân tốt trên bàn cờ của các nước lớn mà thôi. Như đã nói ở trên: Có được tự do không dễ. Nghèo thì lấy đâu ra tự do. Luôn phải dựa vào người khác thì lấy đâu ra độc lập. Tại sao một nước nhỏ xíu như Singapore vẫn có vị trí đáng nể trên trường quốc tế với sức mạnh quân sự mà không cường quốc nào dám coi thường?

Tóm lại, hai khả năng để Việt Nam không sợ Trung Quốc: Thay đổi chế độ làm đồng minh với Mỹ và Phát triển thành cường quốc kinh tế đều là những khả năng xa vời.

Ngoại giao của Đảng Cộng sản cuối cùng cũng chỉ để kéo dài sự sống của chế độ và làm chậm lại quá trình gặm nhấm Biển Đông của Trung Quốc mà thôi. Nước Việt Nam rồi sẽ đi về đâu?

‘ Điều Việt Nam cần làm ngay bây giờ’

‘ Điều Việt Nam cần làm ngay bây giờ’

Giáo sư Tương Lai

“Việt Nam không thể đảm nhiệm vai trò địa chính trị quan trọng của mình cho tới khi kinh tế phát triển đầy đủ và cải cách chính trị mạnh mẽ hơn,” theo Giáo sư Tương Lai

Việt Nam cần phải tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một kế hoạch thương mại toàn diện được hỗ trợ bởi Mỹ. Hiệp định sẽ cho phép nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập hoàn toàn với thế giới hiện đại; và điều này sẽ đi cùng với viễn cảnh dân chủ hóa tốt hơn tại Việt Nam.

Quan trọng không kém, TPP, bao gồm 12 quốc gia Thái Bình Dương trừ Trung Quốc, sẽ điều chỉnh lại các mối quan hệ địa chính trị giữa các thành viên trong khu vực và giúp ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông – một đóng góp quan trọng cho chiến lược tái cân bằng của Mỹ đối với Châu Á.

Việt Nam có 3.500km đường bờ biển đối diện Biển Đông, một vùng biển mang tính trọng yếu đối với thương mại quốc tế. Gần 1/3 lượng dầu thô trên thế giới và trên một nửa lượng khí gas đã di chuyển qua đây trong năm 2013. Tuyến đường này cũng là con đường ngắn nhất từ phía tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, một chặng đường thiết yếu của hải quân nhiều nước, kể cả Mỹ.

Những điều cần khắc phục

Nhưng Việt Nam không thể đảm nhiệm vai trò địa chính trị quan trọng của mình cho tới khi kinh tế phát triển đầy đủ và cải cách chính trị mạnh mẽ hơn. Và việc đáp ứng các yêu cầu của TPP – công đoàn tự do, giảm vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, tăng cường tính minh bạch – sẽ giúp Việt Nam đi theo con đường đó.

Sau nhiều năm cô lập về mặt kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến ấn tượng sau năm 1986, khi bắt đầu mở cửa với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã đạt được một trong những tỷ lệ tăng trưởng GDP cao của thế giới trong giai đoạn 1990 – 2010.

Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007, và từ đó đã ký nhiều hiệp định thương mại quan trọng. Việt Nam đã từng là quốc gia xuất khẩu gạo và cà phê lớn thứ 2 trên thế giới trong năm 2013. Năm ngoái, Việt Nam là nước ASEAN xuất khẩu hàng đầu vào Mỹ tính bằng giá trị USD, vượt trên Malaysia và Thái Lan.

Nhưng đây chỉ là giai đoạn 1 của quá trình phát triển, dựa rất nhiều vào xuất khẩu nguyên vật liệu, các ngành công nghiệp dùng nhiều lao động và ít giá trị gia tăng. Việt Nam hiện tại đang đối mặt với nguy cơ vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Tỷ lệ tăng trưởng GDP đã chậm lại khá đáng kể trong những năm gần đây.

Việt Nam đang đứng cuối trong số các ứng cử viên gia nhập TPP về mặt phát triển kinh tế, với GDP bình quân đầu người vào khoảng 1.910 USD, so với khoảng 6.660 USD của Peru, một quốc gia xếp hạn áp chót.

TPP cung cấp một lộ trình cho giai đoạn 2 của sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu vào tháng 2 năm nay, trích dẫn hiệp định này và các thỏa thuận thương mại khác, “Các hiệp định này đòi hỏi chúng ta phải cởi mở hơn. Do đó thị trường của chúng ta cần phải trở nên năng động và hiệu quả hơn”.

Ví dụ, TPP đồng nghĩa với một sự giảm thiểu đáng kể thuế nhập khẩu áp dụng cho hàng may mặc của Việt Nam vào các thành viên TPP khác, điều này sẽ tăng cường tính cạnh tranh của các sản phẩm đó so với những mặt hàng tương tự từ Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Thái Lan. Nhưng Quy tắc Xuất xứ của TPP cũng đòi hỏi nguyên liệu sử dụng trong thành phẩm xuất khẩu cần phải được sản xuất tại địa phương.

Quy định này sẽ buộc Việt Nam phải phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và mở rộng cơ sở sản xuất của mình – cùng lúc giúp Việt Nam bớt lệ thuộc vào Trung Quốc hơn, trong bối cảnh Trung Quốc hiện đang cung cấp phần nhiều nguyên vật liệu dùng trong ngành dệt may Việt Nam.

Hiện nay ở Việt Nam các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn đang áp đảo trong các lĩnh vực chính của nền kinh tế – như ngân hàng thương mại, sản xuất năng lượng và vận tải – sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao, nạn tham nhũng đầy rẫy.

TPP cũng yêu cầu những thành viên của mình chấp nhận công đoàn lao động tự do, quyền sở hữu trí tuệ và minh bạch trong pháp luật, trong quy định và thực thi. Có lẽ điểm nổi bật nhất đối với Việt Nam là kỳ vọng của các quốc gia TPP sẽ không có các đối xử đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước, nếu không nó sẽ tạo ra những biến dạng trong thương mại. Điều này có nghĩa là cần giảm thiểu một cách đáng kể vai trò của các công ty thuộc loại này tại Việt Nam.

Hiện nay ở Việt Nam các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn đang áp đảo trong các lĩnh vực chính của nền kinh tế – như ngân hàng thương mại, sản xuất năng lượng và vận tải – sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao, nạn tham nhũng đầy rẫy.

Việc hạn chế ảnh hưởng của các doanh nghiệp này sẽ gây nên các cuộc đối đầu trực diện với một số cán bộ cao cấp có quyền lợi tài chính và bám chặt vào “ý thức hệ” để duy trì quyền lực gắn với lợi ích. Một bộ phận không nhỏ trong thế lực ấy hiện nay vẫn cố trì kéo việc chuyển đổi, nhằm đeo đuổi tình hình tồi tệ này, một phần cũng bởi vì bộ máy hành chính hoạt động kém hiệu quả.

Điều này có nghĩa là hiện nay Việt Nam đang còn, tuy không nhiều, những trở ngại gia nhập TPP.

Chẳng hạn như, nhà nước đã đồng ý cho phép công đoàn lao động độc lập tại xí nghiệp. Chính phủ gần đây cũng nỗ lực tuân theo các quy chuẩn quốc tế về nhân quyền mà trước đây họ vẫn lẩn tránh, trả tự do cho một vài nhà hoạt động xã hội nổi bật và hạn chế bắt giữ những người bất đồng quan điểm. Chính phủ cũng đang thực thi quyền sở hữu trí tuệ, với việc lực lượng công an thực thi khám xét những cơ sở hoạt động vi phạm luật bản quyền.

‘Lực cản từ Trung Quốc’

Nếu nói đến lực cản Việt Nam gia nhập TPP thì duy nhất chính là sự phá rối từ phía Trung Quốc và những người hậu thuẫn cho mưu toan đó.

Giới lãnh đạo Việt Nam đang có nhiều chuyến công du quốc tế nổi bật

Bắc Kinh đang cố chống lại chiến lược tái cân bằng của Washington đối với Châu Á – chính sách được gọi là trọng tâm của Chính phủ Obama – bằng cách thúc đẩy khu vực thương mại tự do của họ, quảng bá Giấc mơ Châu Á – Thái Bình Dương, mở ra một ngân hàng đầu tư khu vực và rót hàng tỷ đô vào các dự án cơ sở hạ tầng to lớn.

Trung Quốc cũng đang đặt rất nhiều áp lực lên các nhà lãnh đạo Việt Nam để Việt Nam không gia nhập TPP, cũng như họ đã từng làm trước khi Việt Nam ký Hiệp định WTO và hiệp định thương mại song phương với Mỹ.

Một ví dụ nổi bật là khi các thông tin với độ tin cậy ngày càng cao gần đây về chuyến đi của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Mỹ vào tháng 6 thì Bắc Kinh cũng bất ngờ mời Tổng Bí thư sang Trung Quốc tham dự cuộc họp cấp cao trong tuần này.

Chính vì vậy, với nhiều lý do về kinh tế, chính trị và chiến lược, Việt Nam không thể không gia nhập TPP.

Nhưng để làm được điều đó sẽ đòi hỏi nhiều thay đổi khó khăn về chuyển đổi cơ cấu về nhiều mặt trong đố nội, và sự chống trả với sức ép từ phía Trung Quốc đang ngày một dữ dội. Việt Nam cần, và xứng đáng nhận được tất cả sự hỗ trợ có thể từ phía Mỹ. Phải có một nỗ lực phối hợp nhất quán để đẩy lùi tham vọng bành trướng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.

Bản tiếng Anh của bài viết này đã đăng trên báo Mỹ New York Times hôm 6.4.2015.

Nên CHO hay NHẬN ?

Nên CHO hay NHẬN ?

Chuacưuthe.com

– Tin nổi bật, Công Giáo Trẻ

VRNs (07.4.2015) – Sài Gòn –  Sách Huấn Ca dạy: “Con ơi, đừng tước đoạt miếng cơm manh áo của người nghèo, đừng để kẻ khốn cùng luống công chờ đợi. Đừng làm cho kẻ đói phải buồn tủi, đừng chọc tức ai khi họ phải ngặt nghèo. Một tâm hồn đang bực bội, con đừng làm khổ thêm, đừng bắt kẻ túng thiếu đợi lâu mới được con giúp đỡ. Kẻ khốn khổ nài xin, con đừng từ chối, gặp người nghèo, con đừng ngoảnh mặt đi. Đừng làm ngơ không nhìn đến kẻ thiếu thốn, kẻo nên cớ cho người ta nguyền rủa con” (Hc 4:1-5).

CHO là TRAO TẶNG, TRAO BAN, HIẾN DÂNG,… với cả tấm lòng trân trọng và yêu quý. Một động từ đẹp, không đẹp về cách viết mà đẹp về ý nghĩa đầy tính nhân bản, đầy tình thương xót, đầy lòng thứ tha,… KHÔNG CÓ thì không thể CHO, vì người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ – dù vật chất hay tinh thần.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Ngoài Tám Mối Phúc Thật (Mt 5:3-10), một trong những ĐẠI PHÚC khó tin nhất được đề cao trong Kinh thánh là: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:35). Người cho lại hạnh phúc hơn người nhận ư? Có lộn không? Thật là ngược với trực giác và bản năng của chúng ta. Tuy nhiên, đó lại là sự thật với 5 lý do xác định lý do nên CHO hơn NHẬN.

Tuy nhiên, cũng nên nhớ lại câu nói ý vị của người Việt Nam: “Của cho không bằng cách cho”. Một câu nói rất NHẸ nhưng rất ĐAU, nhắc nhở chúng ta đừng vội… “chảnh” khi CHO ai bất kỳ thứ gì!

1. CHO LÀ VÂNG LỜI THIÊN CHÚA

Cựu ước có nhiều mệnh lệnh hơn đối với việc CHO về tài chính – cho ai, cho khi nào, cho bao nhiêu, cho cách nào, Tân ước ít mệnh lệnh này. Có thể các tác giả Tân ước chỉ cho rằng Thiên Chúa đã CHO chúng ta quá nhiều – thậm chí đã CHO chính Đức Kitô làm giá cứu độ muôn dân, nhưng việc CHO của chúng ta nên hợp lý và thoải mái. Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Anh em đã được CHO KHÔNG, thì cũng PHẢI CHO KHÔNG như vậy” (Mt 10:8). Một mệnh lệnh xem chừng quá “nhẹ” nhưng lại khó thực hành!

2. CHO LÀ PHỤC TÙNG THIÊN CHÚA

Vâng lời (vâng phục, tuân phục, thanh tuân) là một nhân đức. Vâng lời liên quan việc “từ bỏ mình”, tức là khi vâng lời thì người ta phải bỏ ý riêng, đề cao ý người khác, vì khi vâng lời là “chết” cho chính mình. Vâng lời cũng là một trong ba lời khấn chính của các tu sĩ. Mỗi động thái vâng lời đều có giá trị cao trong cuộc đời Kitô hữu: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Chúa Giêsu cũng hành động chỉ vì vâng lời: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39). Đó là vâng phục.

3. CHO LÀ THỂ HIỆN TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

CHO là động thái tốt đẹp và hoàn hảo: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1:17). Quả thật, xét cho cùng thì “tất cả đều là Hồng Ân” (Rm 4:16). Những gì không thuộc về mình, vậy tại sao cứ GIỮ khư khư làm “tư sản” mà lại không muốn CHO? Miệng nói YÊU Thiên Chúa mà lại không muốn CHO thì làm sao có thể gọi là tình yêu đúng nghĩa? Nếu chỉ nói suông thì chúng ta chỉ là “thùng rỗng kêu to” (x. 1 Cr 13). Người ta nói: “Tiền là tiên, là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân”. Vậy chúng ta nghĩ gì về Thiên Chúa khi chúng ta dùng tiền bạc?

4. CHO LÀ RAO TRUYỀN THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ

Thiên Chúa là Đấng-tự-hiến, sẵn sàng trao ban tất cả: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Đó là lý do mà Tông đồ Phaolô muốn khuyến khích chúng ta nên CHO, dẫn chứng sống động bằng chính Đức Kitô: “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Chúa Giêsu giàu đức tin, giàu yêu thương,… nên Ngài muốn chúng ta cũng phải như thế. Khi chúng ta hy sinh, chịu đau khổ, nhịn nhục,… vì lợi ích của người khác, đó là chúng ta biết CHO vì đức ái, là loan báo Tin Mừng và nên giống Đức Kitô.

5. CHO LÀ TIN TƯỞNG THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

Nỗi sợ là rào cản khiến chúng ta không muốn CHO. Tại sao? Sợ cho quá nhiều, sợ uổng phí, sợ mình bị thiếu hụt,… Khi biết CHO là biết hy sinh, chúng ta bày tỏ đức tin và niềm tín thác vào Thiên Chúa vì chắc chắn Ngài luôn quan phòng và lo liệu đủ cho chúng ta. Đây KHÔNG là ĐIÊN RỒ, mà là ĐỨC TIN. Nhiều Kitô hữu đã tìm được niềm vui trong công việc từ thiện, công việc tông đồ. Đó là cách bẻ tấm-bánh-cuộc-đời-mình và TRAO CHO tha nhân: “Cơm bánh của bạn, hãy đem thả trên mặt nước, về lâu về dài, bạn sẽ tìm lại được” (Gv 11:1). Thiên Chúa quan phòng sẽ lo liệu nếu chúng ta vâng lời Ngài và tin tưởng: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 22:).

Có những điều nghịch lý được Kinh Thánh đề cập: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi. Có lúc cho đi mà con không được lợi, có lúc cho đi lại được trả gấp đôi. Đôi khi vinh quang đem lại nhục nhã, kẻ thấp hèn lại được ngẩng đầu hiên ngang. Có kẻ sắm nhiều mà tốn ít, nhưng thực ra phải trả gấp bảy lần. Người khôn ngoan nói ít cũng gây được thiện cảm, lời hoa mỹ của kẻ ngu đần chỉ là thứ đổ đi. Ích gì cho con quà biếu của đứa khờ dại: nó biếu một mà trông được mười. Nó cho thì ít, trách mắng thì nhiều, miệng oang oang như thằng mõ, hôm nay cho mượn, ngày mai đã đòi” (Hc 20:9-15). Vậy mà không phải vậy. Trong đó đầy triết lý sống mà chúng ta phải miệt mài học cả đời!

Biết CHO là sống khôn ngoan, bởi vì “khôn ngoan chính là cây sự sống đối với người nào nắm được khôn ngoan” (Cn 3:18). Sự sống đề cập ở đây là sự sống đời đời, sự sống vĩnh hằng.

TRẦM THIÊN THU

Những kinh nghiệm tôi học được từ người Do Thái

Những kinh nghiệm tôi học được từ người Do Thái

Nguoi-viet.com

Luật Sư Trần Thái Văn

LTS – Luật Sư Trần Thái Văn có bằng hành nghề ở California từ năm 1994, và hiện đang hành nghề luật tại Newport Beach, California. Từ năm 2004 đến năm 2010, ông là dân biểu tiểu bang California đại diện Địa Hạt 68 ở Orange County, và là người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ làm việc trong quốc hội một tiểu bang. Trước đó, ông là nghị viên và là phó thị trưởng thành phố Garden Grove, California.

Luật Sư Trần Thái Văn. (Hình: Trần Thái Văn Facebook)

Không ai có thể lớn lên mà không trải qua điều mà các nhà khoa học xã hội và nhà tâm lý học gọi là ngày “định mệnh.” Đó là một ngày, có thể do lịch sử hoặc cá nhân tạo ra, mà nó có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với số phận, cá tính, và tương lai, của một con người. Đối với hầu hết người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là những người còn nhớ những định mệnh trong cuộc đời, chắc chắn họ không bao giờ quên ngày 30 Tháng Tư, 1975, ngày mà Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam. Đây cũng là ngày chúng ta rời bỏ quê hương đi tìm tự do.

Ngày 25 Tháng Tư, 1975 là một ngày định mệnh đối với tôi, khi gia đình tôi vội vã rời Sài Gòn, trên chiếc phi cơ vận tải C-130 của Không Quân Mỹ, vào lúc sáng sớm, bay ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất. Lúc đó, tôi chỉ mới 10 tuổi, và đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy quê hương.

Tháng Tư tới đây sẽ là ngày tôi xa quê hương 40 năm. Tuy vậy, trong ký ức của mình, ngày định mệnh đó vẫn còn khắc sâu trong tiềm thức của tôi, như thể là nó mới xảy ra hồi tuần trước.

Thời gian trôi nhanh, vào Tháng Tư, 1988, đúng 13 năm sau ngày Sài Gòn thất thủ, tôi lại có một cơ hội chứng kiến sự vui mừng và hiểu ý nghĩa thật sự một nền độc lập quốc gia, của một dân tộc từng bị khuất phục và bị trục xuất ra khỏi quê hương của họ trong hơn 2,000 năm. Dân tộc này, được gọi một cách mỉa mai là “dân tộc được Chúa chọn,” ý nói đến người Do Thái, giống như cuộc di tản của người Việt Nam hải ngoại, có mặt hầu như ở khắp nơi trên thế giới trong nhiều thế kỷ. Ngày nay, có cả người Hoa gốc Do Thái, hoặc có người gốc Do Thái sinh trưởng tại Ethiopia.

Chính lúc gặp người Do Thái ở Israel mà tôi nghiệm ra được niềm tự hào của một dân tộc từng bị đàn áp, nhưng vẫn tranh đấu và có được độc lập, trong khi số phận lại không mỉm cười với dân tộc Việt Nam, vẫn còn sống trong chế độ độc tài và tham nhũng, và chế độ này vẫn tiếp tục đàn áp chính người dân của mình. Cả hai sự kiện lịch sử trái ngược này lại tái hiện trong cùng một tuần lễ tôi có mặt tại Israel.

Tháng Tư, 1988, tôi và tám nhà lãnh đạo cộng đồng gốc Châu Á khắp Hoa Kỳ được tổ chức World Zionist Organization (WZO) mời sang thăm Israel trong 10 ngày. Đây là một tổ chức quốc tế góp phần vào việc thành lập quốc gia Israel ngày nay. WZO gọi đây là một “chuyến đi nghiên cứu” (study tour). Phái đoàn chúng tôi có một cố vấn cao cấp của Thống Đốc California George Deukmejian, một chỉ huy cảnh sát ở Philadelphia, và một giám sát viên ở San Francisco County.

Trên thực tế, chính phủ Israel, qua các tổ chức bán chính phủ như WZO, thường mời nhiều phái đoàn chính trị đến Israel như là một cách hiệu quả vận động ý kiến của người dân Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng các chính sách với các quốc gia Ả Rập, trong khi tạo nên mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ qua các chuyến đi như vậy.

Tôi không biết tại sao mình được WZO mời đi trong chuyến này. Lúc đó, tôi mới 23 tuổi, là một phụ tá đặc biệt cho Thượng Nghị Sĩ California Ed Royce, và cũng là thành viên trẻ nhất trong phái đoàn. Tuy nhiên, tôi chấp nhận lời mời. Trong phái đoàn còn có một người Việt Nam khác nữa mà trước đó tôi chưa bao giờ gặp, nhưng sau này nhanh chóng trở thành người bạn thân. Đó là nhạc sĩ và MC nổi tiếng Nam Lộc, lúc đó là giám đốc chương trình phục vụ người tị nạn của tổ chức thiện nguyện Catholic Charities, thuộc Tổng Giáo Phận Los Angeles. Chúng tôi là hai người Việt Nam duy nhất trong phái đoàn thăm viếng một quốc gia có một lịch sử đầy biến động, người dân trải qua nhiều hy sinh, nhưng hồi sinh nhanh chóng và tạo được cho đất nước một chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng thế giới. Đối với tôi, chuyến thăm Israel giúp tôi khám phá nhiều sự ngạc nhiên vô cùng ý nghĩa, cùng với nhiều phát hiện rất sâu sắc.

Luật Sư Trần Thái Văn (thứ ba từ phải) ngồi trong nhà hàng
Đại La Thiên ở Jerusalem, Israel. (Hình: Trần Thái Văn cung cấp)

Chúng tôi bay máy bay của hãng El Al, một hàng không quốc gia Israel, và nhóm chúng tôi đáp xuống phi trường Ben Gurion nằm ở ngoại ô Tel Aviv vào ngày 26 Tháng Tư. Lúc đó, người Do Thái đang chuẩn bị kỷ niệm quốc khánh lần thứ 40, từ năm 1948 đến năm 1988. Đó là một chuỗi sinh hoạt kỷ niệm kéo dài cả năm trời, không chỉ cho sự tồn vong trong 40 năm, mà còn là một sự thừa nhận những thành tựu của người Do Thái khắp thế giới.

Điều gây chú ý nhất và đầu tiên của tôi đối với đất nước này, một nơi có thời tiết nóng và khô giống như San Bernardino County, là những quốc kỳ có ngôi sao của David – biểu tượng của quốc gia – bay phất phới dọc đường từ phi trường về đến trung tâm Jerusalem, dài khoảng 35 dặm. Ngôi sao của David, màu xanh dương, là điều gây ấn tượng sâu đậm của Israel đối với tôi. Tôi có cảm tưởng rằng, người Do Thái cũng vô cùng tự hào với lá cờ của họ. Và họ có quyền treo, bất cứ ở đâu.

Trong thời gian ở Jerusalem, thủ đô của Israel, chúng tôi được đi thăm nhiều tòa nhà chính phủ, với các viên chức chính quyền và quốc hội, gọi là “Knesset.” Chúng tôi cũng thăm một số bệnh viện, viện bảo tàng, và trường học. Qua tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội Do Thái, từ chính trị gia cho tới giới giáo dục, phái đoàn biết được thêm nhiều về lịch sử của Israel, cuộc đấu tranh của họ, và cuộc xung đột đang xảy ra với các quốc gia láng giềng Ả Rập, đe dọa xóa sổ quốc gia nhỏ bé này.

Có một điều lý thú là anh Nam Lộc và tôi khám phá có hàng trăm người tị nạn Việt Nam đang sinh sống ở Israel. Chúng tôi được biết, sau năm 1975, trong số người Việt Nam ra đi tìm tự do khắp thế giới, có một số đến định cư tại Israel. Lúc đó, Thủ Tướng Menachem Begin đồng ý nhận gần 300 người Việt từ các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Dù bị nhiều người Do Thái phản đối, Thủ Tướng Begin nhắc nhở họ rằng Israel có bổn phận đạo đức giúp những người tị nạn Việt Nam này. Ông nói rằng, trước đó không lâu, chính người Do Thái sống không tổ quốc ở Châu Âu và Bắc Phi vì họ cần lánh nạn, để không bị Đức Quốc Xã giết hại. Quyết định của Israel nhận người Việt Nam là một hành động nhân đạo cao đẹp mà chỉ có dân tộc từng bị đàn áp mới thấu hiểu nổi số phận của một dân tộc khác đang bị đàn áp.

Trong một buổi ăn tối ở Jerusalem, chúng tôi được mời ăn tại một nhà hàng Trung Hoa địa phương, nhưng người chủ và điều hành nhà hàng lại là một người Việt tị nạn, tên Lê Quang Phong, cựu phi công QLVNCH, từng lái trực thăng trong cuộc chiến Việt Nam. Không ai trong chúng tôi biết nhà hàng này, hoặc chủ nhân của nó, trước khi đến ăn. Quả là một sự tình cờ là nhà hàng này do một người Việt điều hành. Anh Phong rất vui mừng khi gặp anh Nam Lộc và tôi, những đồng hương từ Hoa Kỳ xa xôi đến thăm Jerusalem và ăn tối ở nhà hàng của anh, tên là Đại La Thiên. Ngay lập tức, cả ba chúng tôi chia sẻ sự gắn bó đặc biệt biệt này, từ một nơi rất xa quê hương Việt Nam. Tuy nhiên, vì là đồng hương với nhau, chúng tôi có những điểm giống nhau về chính trị, văn hóa, di sản, và ngôn ngữ.

Vào lúc đó, tự nhiên tôi cảm thấy buồn kỳ lạ, ba chúng tôi, cũng như hàng triệu người Việt Nam khác, sống rải rác tại khắp các quốc gia, cách Việt Nam cả ngàn dặm, và lúc đó, chúng tôi đang ở Israel, sắp sửa chứng kiến hai sự kiện quan trọng – quốc khánh lần thứ 40 của Israel và ngày miền Nam Việt Nam thất thủ – trong cùng một tuần lễ. Tôi thắc mắc, tại sao lịch sử lại tàn nhẫn đến thế. Niềm vui của một quốc gia này lại xảy ra cùng lúc với nỗi đau của một quốc dân khác.

Tôi còn nhớ rất rõ một chuyện xảy ra trong lúc ăn tối ở Đại La Thiên, làm nhiều người trong phái đoàn rơi lệ, nhất là ba người Việt Nam chúng tôi – anh Phong, anh Nam Lộc, và tôi. Đó là lúc anh Phong bước ra khỏi nhà bếp để gặp một thực khách. Thế là anh Nam Lộc và tôi đề nghị chúng tôi cùng hát một bài hát bằng tiếng Việt tặng cho các bạn gốc Châu Á trong phái đoàn và các bạn người Do Thái. Tôi báo cho mọi người biết chúng tôi sẽ hát một bài hát để tưởng niệm ngày miền Nam Việt Nam thất thủ, đúng vào ngày hôm sau. Cả ba chúng tôi bước đến giữa bàn và bắt đầu hát, kiểu “A cappella,” bài hát duy nhất mà tôi còn nhớ lời. Đó là bài

“Việt Nam, Việt Nam.”
Việt Nam, Việt Nam, nghe từ vào đời,
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi,
Việt Nam nước tôi…”

Chắc chắn đây không phải là chỗ hát bài này, nhưng đối với tôi, sự kiện này vô cùng ý nghĩa. Sau khi chấm dứt, tôi ngồi xuống, cảm thấy nghịch lý và vô cùng xúc động. Tôi đang ngồi trong một nhà hàng Trung Hoa ở Jerusalem, do một người Việt Nam tị nạn làm chủ, mừng ngày độc lập lần thứ 40 của Israel, trong lúc nhớ lại ngày kỷ niệm số phận của quê hương tôi, qua cái ngày số phận nghiệt ngã đã đến với hàng triệu đồng bào của tôi. Tôi nhận ra rằng, cho dù tôi ở đâu, hoặc đang làm gì, trong thâm tâm, tôi vẫn là người Việt Nam.

Tất cả những cảm nhận trái ngược của tôi khi ở Irael cũng cho tôi một hy vọng cho đồng bào tôi. Tôi suy luận, nếu người Do Thái phải mất đến 2,000 năm lưu vong trước khi trở về cố quốc, vậy thì, cộng đồng người Việt hải ngoại có thể đạt được điều này, hy vọng với thời gian ngắn hơn, để giúp Việt Nam thật sự có tự do, độc lập, và dân chủ. Tôi rất ngưỡng mộ người Do Thái, nhưng tôi cũng rất tin tưởng vào những người Việt Nam rất kiên nhẫn và tháo vát.

Đêm không ngủ tại bờ biển Tel Aviv, Israel. Người ôm đàn là nhạc sĩ Nam Lộc. (Hình: Trần Thái Văn cung cấp)

Anh Phong rất vui khi gặp anh Nam Lộc và tôi, và anh muốn dành thời gian nhiều hơn cho chúng tôi. Anh đề nghị mời những người Việt Nam sống ở vùng Jerusalem-Tel Aviv, rồi tổ chức một “đêm không ngủ” vào đêm tối 29 Tháng Tư. Anh Nam Lộc và tôi đồng ý ngay vì chúng tôi cũng muốn biết về đời sống của người Do Thái gốc Việt.

Khoảng 20 người Việt địa phương vui vẻ gặp chúng tôi tại một điểm hẹn trên bờ biển Tel Aviv, có đàn guitar, lửa trại, dầu, và nhiều thức ăn như thịt bò, cá, cua, và bánh mì, để nướng dã chiến. Thực ra, dù chúng tôi tưởng niệm ngày mất nước, nhưng ai cũng được no bụng!

Đối với tôi, một thanh niên Việt Nam mới 23 tuổi, ngồi trên bãi cát trắng ở bãi biển Tel Aviv, nhìn ra biển Địa Trung Hải, cùng đồng hương nói lên lòng khao khát cho quê hương, một quốc gia bị mất và bị lỡ cơ hội, qua những âm thanh buồn của đàn guitar, là một kỷ niệm không bao giờ quên được. Chúng tôi ngồi ở bãi biển suốt đêm, cho tới trước khi bình minh, chia sẻ những câu chuyện và kinh nghiệm cá nhân, tái xác quyết nguồn gốc Việt Nam của chúng tôi. Chúng tôi tâm sự. Chúng tôi hát. Chúng tôi cười. Chúng tôi khóc. Anh Nam Lộc hát một trong những bài hát nổi tiếng nhất do anh sáng tác, bài “Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt,” với lời hát vô cùng thấm thía về người Việt lưu vong sau khi cuộc chiến kết thúc. Giống như người Do Thái ở Israel, chúng tôi muốn nghiêm túc chia sẻ những ước vọng này, cho một đất nước và thế hệ mai sau tươi sáng hơn.

Trong suốt thời gian ở Israel, tôi kết bạn với một hướng dẫn viên người Do Thái trong đoàn, tên là Ben Edelstein, sinh ra và học ở bên Anh. Tôi không thể bao giờ quên được người đàn ông này, một người Anh lịch thiệp, có kiến thức rộng về Israel, cả về lịch sử và chính trị từ cổ xưa cho đến hiện đại của Israel. Ông nói tiếng Anh với một giọng Anh phong nhã và độ chừng hơn 60 tuổi. Ông nói với tôi rằng ông từng chiến đấu chống lại Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến. Ông cũng tình nguyện và được huấn luyện trở thành phi công Hoàng Gia Anh, lúc ở khoảng tuổi tôi. Chuyến bay đầu tiên của ông là đối đầu với không quân Đức Quốc Xã.

Thời gian phục vụ trong quân đội của ông Ben Edelstein trong Đệ Nhị Thế Chiến rất đáng chú ý, nhưng lại không lý thú và vô cùng ý nghĩa bằng việc ông định cư tại Israel khi tôi khai thác ông qua đề tài này. Ông nói với tôi rằng, là một công dân Anh, ông và gia đình thực ra không liên quan gì, thậm chí không cần phải đến sống ở Israel, từng thuộc về Palestine trước năm 1948. Tuy nhiên, vì là người gốc Do Thái, ông cảm thấy có trách nhiệm phải tham gia bảo vệ độc lập quốc gia, giúp thành lập một nhà nước Israel cho những người cùng dòng máu Do Thái khắp thế giới.

Trong cuộc chiến giành độc lập từ năm 1946 đến năm 1948, ông tình nguyện gia nhập tổ chức Haganah, tiền thân của Lực Lượng Phòng Vệ Israel (IDF), chiến đấu trong việc thiết lập quốc gia Israel ngày nay. Với kinh nghiệm thời Đệ Nhị Thế Chiến, ông đã đáp lời kêu gọi của chính phủ Israel để huấn luyện các phi công mới ra trường, vì đây là một lực lượng rất quan trọng trong việc bảo vệ Israel.

Điều làm tôi đáng nhớ nhất về ông Ben Edelstein không chỉ là tài năng và kinh nghiệm quân sự của ông, mà ông có một bề dày đáng kể. Chắc chắn, chính ông là người giúp xây dựng lực lượng IDF hiện đại. Bài học đáng nhớ nhất mà tôi học được từ người đàn ông người Anh này là ông rất tự hào và cảm thấy vinh dự về nguồn gốc Do Thái của mình. Ông không ngại hy sinh cho chính nghĩa của người dân, cho ngay cả một quốc dân trước đây không có gì cả. Ông chiến đấu cho những gì ông tin là dân tộc của ông muốn và xứng đáng được hưởng. Ông nói với tôi rằng, trong thời gian chiến đấu cho độc lập của Israel, có nhiều thanh niên và thiếu nữ trẻ gốc Do Thái, những người giống như ông, từ khắp nơi ở Châu Âu và Châu Mỹ trở về Palestine, để cống hiến cho công cuộc hồi phục quê hương Do Thái, ngay cả họ chưa bao giờ đặt chân lên mảnh đất được biết tới là Israel.

Câu chuyện cá nhân của ông Ben Edelstein giúp tôi ghi nhận được những gì đang xảy ra cho công cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ của người Việt, đang được tiếp diễn tại hải ngoại và quốc nội. Xét về một mặt nào đó, người Việt may mắn hơn người Do Thái vì đã có một quốc gia rồi. Chúng ta không cần tạo ra một quốc gia khác. Chúng ta chỉ không có một chính quyền hợp pháp đại diện cho các khát vọng của dân tộc Việt Nam. Trước năm 1948, người Do Thái không có gì cả. Thế nhưng, bây giờ họ có cả hai, dù trải qua các cuộc tàn sát và diệt chủng của Đức Quốc Xã và tại các quốc gia họ sinh sống trong 2,000 năm lưu đày.

Israel là miền đất hứa của người Do Thái, và người Do Thái khắp thế giới, cho dù đang sống cách xa Jerusalem bao nhiêu, họ luôn có ý định giữ lời nguyền xây dựng một quốc gia cho chính họ. Ông Ben Edelstein có chia sẻ truyền thống Do Thái này với tôi, đặc biệt là thời kỳ trước khi nhà nước Israel ngày nay được thành lập, bằng một điệp khúc có hàng thế kỷ, mà người Do Thái mỗi khi gặp nhau thường trao đổi, đó là, “Hẹn gặp ở Jerusalem năm tới!” Đây là một lời cam quyết rất quen thuộc, nó có ý nghĩa tinh thần nhiều hơn là chuyện có mặt ở Jerusalem, một miền đất mà người Do Thái coi rất linh thiêng, giống như một lời cầu khẩn mong tất cả người Do Thái sống trong hòa bình, công bằng, và công lý. Đây là một cam quyết về danh tánh của người Do Thái và những gì họ mong muốn. Đó là lý do tại sao họ nói với nhau một cách hùng hồn: “Hẹn gặp ở Jerusalem năm tới!”

Để tưởng niệm 40 năm ngày miền Nam Việt Nam thất thủ, chúng ta nên tận dụng cơ hội này, như là một thời điểm để tái xác quyết sự đòi hòi cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. Đối với người Việt Nam, 40 năm có thể là một thời gian chờ đợi quá lâu, nhưng lại không thấm vào đâu so với 2,000 năm chờ đợi của người Do Thái trước khi họ đến được miền đất hứa. Bổn phận và trách nhiệm tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ tại Việt Nam phải được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong lúc thế hệ cha anh chúng ta đang từ từ qua đi.

Thực ra, chúng ta cần có hàng ngàn người Việt Nam có tinh thần vững chắc như ông Ben Edelstein. Chúng ta đang có nhiều người Việt như ông Ben Edelstein, cả ở trong lẫn ngoài nước, và họ cần sự giúp đỡ của chúng ta. Mỗi người chúng ta, những người Việt hải ngoại, có trách nhiệm không được quên tại sao chúng ta có mặt ở đây, và cần làm gì cho những đồng bào còn đang sống mỏi mòn dưới ách Cộng Sản. Trách nhiệm này còn bao gồm dạy dỗ con cháu chúng ta không bao giờ được quên mình là ai, bài học lịch sử đau khổ của các bậc cha anh, và trách nhiệm của mình trong việc tạo ra một sự an bình, công bằng, và công lý, trên quê cha đất tổ.

Việt Nam không có con đường nào khác hơn là phải thay đổi để tốt hơn. Bánh xe lịch sử và sự phát triển của văn minh sẽ nghiền nát bất cứ ai cản trở con đường này. Vấn đề chỉ là thời gian, và phần lớn, nó tùy thuộc vào các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở Việt Nam có đủ sự can đảm và thực sự muốn hủy bỏ cái lý thuyết dựa trên sự chuyên chế, dối trá, và tàn bạo. Thời gian không đứng về phía họ. Là những người yêu chuộng tự do, chúng ta hãy chia sẻ với tất cả người Việt Nam sự khao khát này, bằng câu nói, “Hẹn gặp nhau ở Sài Gòn năm tới!” Tôi chắc chắn ông bạn Ben Edelstein của tôi sẽ hoàn toàn đồng ý.

Một thời gian bị đánh mất trong lịch sử

Một thời gian bị đánh mất trong lịch sử

Lê Diễn Đức

Trong sự tồn tại của một dân tộc, có những giai đoạn lịch sử vinh quang, nhưng cũng có giai đoạn tăm tối, không tương xứng với tầm vóc và sự phát triển của dân tộc. Giai đoạn tăm tối ấy có thể xem là thời gian bị đánh mất.

Nước Cộng hoà Ba Lan có một truyền thống dân chủ lâu đời. Bản Hiến pháp được thông qua vào ngày 3 tháng 5 năm 1791, là bản Hiến pháp hiện đại đầu tiên ở châu Âu và thứ hai trên thế giới (sau Hiến pháp năm 1787 của Mỹ).

Quốc hội Ba Lan thông qua Hiến pháp ngày 3 tháng 5 năm 1791 – Ảnh tư liệu

Ba Lan giành lại độc lập năm 1918, sau Thế chiến thứ nhất, với tư cách nền Cộng hoà Ba Lan II.

Ngày 1 tháng 9 năm 1939 phát xít Đức tấn công Ba lan, mở màn cho Chiến tranh Thế giới II. Chính phủ Ba Lan buộc phải rời khỏi Ba Lan và thành lập Chính phủ lưu vong có trụ sở ở London trong những năm 1939-1990, là sự tiếp nối hợp pháp của nền Cộng hoà II.

Chiến tranh Thế giới II kết thúc, thoát khỏi ách đô hộ của phát xít Đức thì Ba Lan lại bị gạt qua sự áp bức khác không kém phần khắc nghiệt: đất nước bị áp đặt sự cai trị của một nhà nước Cộng sản độc tài toàn trị, được gọi là “Cộng hoà Nhân dân Ba Lan”, từ năm 1945 đến 1989.

Chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989. Sau cuộc bầu cử tổng thống tự do với thắng lợi thuộc về Lech Walesa, nhà chức trách của Cộng hòa Ba Lan lưu vong kết thúc nhiệm vụ và Tổng thống lưu vong R. Kaczorowski đã chuyển giao quốc hiệu cho Tổng thống dân cử Lech Walesa.

Tổng thống Cộng hoà Ba Lan lưu vong R. Kaczorowski trao quốc hiệu cho Tổng thống Lech Walesa – Ảnh: PAP

Nhà nước Ba Lan dân chủ ra đời và về mặt chinh thức, được gọi là nền Cộng hoà Ba lan III.

Như vậy thời gian từ 1945 đến 1989, nhà nước “Cộng hoà Nhân dân Ba Lan” đã không được ghi vào sự kế tục của Nhà nước Cộng hoà. Một thời gian 44 năm bị đánh mất trong lịch sử của dân tộc Ba Lan!

Nước Việt Nam kém may mắn hơn!

Ngày 17 tháng 4 năm 1945 Chính phủ của “Đế quốc Việt Nam” đứng đầu là Trần Trọng Kim được thành lập và được vua Bảo Đại phê chuẩn. Đây là nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và thống nhất trên danh nghĩa và ra mắt quốc dân ngày 19 tháng 4.

Mặc dù đây là thể chế do Nhật dựng lên, không có thực quyền, nhưng có thể là một cơ hội cho Việt Nam chuẩn bị đầy đủ khả năng nhận lãnh hay đòi hỏi độc lập hoàn toàn khi thế chiến thứ II kết thúc, giống như nhiều nước châu Á khác.

Tuy nhiên, Đế Quốc Việt Nam chỉ tồn tại trong 5 tháng, từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945 cho tới khi bị Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xoá bỏ.

Cuộc kháng chiến chống Pháp đưa đến việc ký kết hiệp định Geneve và từ năm 1954 Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền cai trị trên miền Bắc, còn ở miền Nam một chính thể Cộng hoà ra đời. Mặc dù đây là một chính quyền thân Mỹ nhưng nó đảm bảo những yếu tố cơ bản của một nhà nước Cộng hoà.

Ở một khía cạnh nào đó có thể xem nền Cộng hoà ở miền Nam là sự kế tục nền Cộng hoà “Đế quốc Việt Nam” của Thủ tứơng Trần Trọng Kim.

Quốc kỳ cho Việt Nam Cộng hoà được sử dụng khá tương đồng với quốc kỳ của Đế quốc Việt Nam, nền vàng ba sọc đỏ.

Quốc kỳ của “Đế quốc Việt Nam” năm 1945 – Ảnh: Wikipedia

Theo Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam và cắt viện trợ quân sự khiến Việt Nam Cộng hoà phải đương đầu với cuộc đánh chiếm miền Nam bằng bạo lực của Bắc Việt và cả khối cộng sản.

Tháng 4 năm 1975, Bắc Việt chiến thắng. Đảng Cộng sản Việt Nam thống trị trên cả nước. Nền Cộng hoà non trẻ của Việt Nam tại miền Nam chấm dứt.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện tập thể hoá nông nghiệp, di dân đi kinh tế mới, cải tạo công thương, ngăn sống cấm chợ, áp dụng chế độ phân phối lương thực trên cả nước, bắt giam giữ cải tạo hàng trăm ngàn quân cán chính của Việt Nam Cộng hoà và phân biệt đối xử tàn bạo với gia đình và con em họ… Chủ trương và chính sách khắc nghiệt này đã khiến cả triệu người phải dứt bỏ quê hương, đối diện với cái chết, ra đi tìm tự do ở xứ sở khác.

Khó chính xác để nói có bao nhiêu người đã bỏ mình trên biển. Có nguồn dẫn con số 200 ngàn nhưng một số nguồn khác ước tính 500 ngàn – 600 ngàn người chết ngoài biển. Năm 1981 hội Chữ thập đỏ quốc tế ước đoán phân nửa số người vượt biển chết dưới tay hải tặc.

Một cộng đồng người Việt hải ngoại được tạo nên, ngày mỗi lớn mạnh và có ảnh hưởng tại các nước bản xứ. Sự căm thù và bất hợp tác với nhà nước cộng sản của cộng đồng này xuất phát từ những mất mát nêu trên.

Nhà nước Cộng sản đã áp đặt một bộ máy công an trị trên cả nước, dùng bạo lực để đàn áp mọi tư tưởng phản kháng, tước đoạt các quyền cơ bản của con người mà trước hết là quyền bầu cử tự do, tự do ngôn luận, tự do lập hội…

Có thể nói không cường điệu rằng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, nơi mà an ninh theo dõi kiểm soát, chi phối từng hoạt động của mỗi người. Chỉ sự ngoan ngoãn, tuân phục mới có thể mang lại yên lành. Một chế độ bất nhân và vong bản, chỉ đáp ứng ít nhiều về vật chất nhưng hoàn toàn giam hãm tư tưởng của con người trong một của học thuyết ngoại lai, không tưởng: học thuyết Mác-Lenin.

Chẳng biết khi nào chế độ Cộng sản ở Việt Nam mới sụp đổ, nhưng là một chế độ đi ngược với xu thế của nhân loại tiến bộ, chắc chắn sẽ bị xoá sổ. Đã hình thành những tiếng nói phản kháng, đã có sự thức tỉnh của nhiều đảng viên trong guồng máy và sự chán nản của dân chúng đối với nhà nước cộng sản.

Nếu giống như Ba Lan, khi chế độ cộng sản được thay thế bằng một nhà nước Cộng hoà dân cử. Lúc ấy nhìn lại lịch sử chúng ta có thể kết luận rằng, thời gian cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam là thời gian bị đánh mất. Một thời gian bi thảm, chứa chất đầu thù hận, chia rẽ và đau thương của người Việt.

© Lê Diễn Đức

VN xử lại vụ công an đánh chết người

VN xử lại vụ công an đánh chết người

  • 7 tháng 4 2015

Bản án sơ thẩm hồi năm ngoái đối với các 5 sỹ quan công an đã khiến dư luận phẫn nộ vì bị cho là quá nhẹ

Tòa án tỉnh Phú Yên bắt đầu xét xử sơ thẩm lần hai vụ năm công an dùng nhục hình gây chết người.

Trong khi đó, luật sư bảo vệ cho bên bị hại nói ông hy vọng phiên tòa lần này sẽ đưa ra bản án ‘nghiêm minh hơn’.

Năm bị cáo trình diện trước tòa sáng 7/4, trong đó có bốn cựu công an TP Tuy Hòa và một cựu lãnh đạo trinh sát tỉnh Phú Yên, bị truy tố về tội ‘Dùng nhục hình’, theo các báo trong nước,

Ông Lê Đức Hoàn, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra công an TP Tuy Hòa, người từng xuất hiện trong những lần xét xử trước với tư cách nhân chứng, cũng bị truy tố về tội ‘Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng’ trong phiên tòa lần này.

Báo Thanh Niên dẫn cáo trạng được đọc tại tòa cho biết ngày 13/5 năm 2012, năm bị cáo Nguyễn Thân Thảo Thành, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Nguyễn Minh Quyền đã bắt giữ ông Ngô Thanh Kiều vì nghi ngờ trộm cắp.

“Do bức xúc trước thái độ khai báo của Kiều, các bị cáo đã có hành vi khóa tay, dùng gậy cao su đánh, không cho Kiều ăn dẫn đến hậu quả Ngô Thanh Kiều tử vong”, cáo trạng cho biết.

“Hành vi của các bị cáo trên đủ yếu tố cấu thành tội ‘Dùng nhục hình’, Điều 298 Bộ luật hình sự.”

Phiên tòa sơ thẩm hồi năm ngoái đã gây phẫn nộ cho dư luận trong nước sau khi đưa ra mức án chỉ từ 1 năm án treo đến 5 năm tù cho các bị cáo.

Kết quả phiên xét xử này đã bị tòa phúc thẩm hủy bỏ sau đó.

‘Nghiêm minh hơn’

Trả lời BBC ngày 7/3, Luật sư Võ An Đôn, người bảo vệ cho bên bị hại, nói ông hy vọng rằng phiên tòa lần này sẽ “nghiêm minh hơn lần trước”.

“Các phiên tòa trước đó đã bỏ sót nhiều tội danh và các bản án được đưa ra cũng không thỏa đáng”, ông nói.

” Sự ủng hộ từ công chúng đã giúp tôi mạnh mẽ và quyết tâm nhiều hơn để đấu tranh cho công lý

Luật sư Võ An Đôn, người bảo vệ cho bên bị hại”

“Thi thể nạn nhân có tổng cộng 72 vết thương, 12 vết trên đầu, nội tạng bị đánh dập hết.”

“Trong khi đó, các bị cáo chỉ nhận đánh mỗi người có 2 đến 3 cái, còn vết thương trên đầu thì không ai nhận”.

“Cần phải có người bị quy trách nhiệm cho những vết thương này”.

Đến dự phiên tòa sáng 7/4 có vợ, con, các chị và cha mẹ của nạn nhân, ông Đôn cho biết.

Cũng theo ông, các bị cáo xuất hiện tại phiên tòa lần này với khuôn mặt ‘nghiêm trang, sợ sệt hơn trước”.

Phiên tòa sơ thẩm lần này dự kiến sẽ kéo dài từ 3 đến 5 ngày, ông nói thêm.

‘Quyết tâm hơn nhờ dư luận’

Hồi tháng 12 năm ngoái, truyền thông trong nước dẫn thông tin từ Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư Phú Yên cho biết công an, Viện Kiểm sát và Tòa án Nhân dân TP Tuy Hòa đã gửi kiến nghị “xử lý vi phạm” của Luật sư Đôn trong quá trình tranh tụng bảo vệ bên bị hại trong vụ án.

Văn bản cáo buộc ông Đôn “có lời lẽ thiếu văn hóa, xúc phạm đến người tham gia tố tụng vụ án và nhiều đồng chí đương nhiệm” và “tạo thành điểm nóng không tốt trong dư luận xã hội”.

Luật sư Đôn xác nhận với BBC đã bị gây áp lực sau phiên phúc thẩm hồi năm ngoái.

Tuy nhiên ông cũng cho biết sự ủng hộ từ dư luận đã khiến ông “quyết tâm” hơn.

“Sau phiên phúc thẩm lần trước, phía công an và viện kiểm sát tỉnh đã muốn tịch thu chứng chỉ hành nghề của tôi,” ông nói.

“Nhưng sau khi bị dư luận gây sức ép, họ đã không dám làm gì nữa.”

“Sự ủng hộ từ công chúng đã giúp tôi mạnh mẽ và quyết tâm nhiều hơn để đấu tranh cho công lý.”

NIỀM VUI PHỤC SINH

NIỀM VUI PHỤC SINH

Những ngày u ám đã qua.  Những đòn roi, tiếng hò hét đòi đóng đinh, những tranh luận gay gắt, tiếng chửi rủa, sỉ vả, tiếng búa chan chát, những giọt máu, vòng gai… chỉ qua một đêm là đã trở thành dĩ vãng.  Người thỏa mãn với quyền lực của mình thì vui tươi vì đã loại trừ được một cái gai trong mắt. Người sợ hãi thì giam mình trong những gian phòng tối.  Những cao trào hay ồn ào của sự kiện một người nổi tiếng bị đóng đinh cũng qua đi.  Mọi người lại trở về với cuộc sống bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy đến.  Lịch sử của cuộc đời Giêsu tưởng là đã chấm hết với những khăn liệm và ngôi mộ lạnh lẽo thê lương.  Ai ngờ, chính từ nơi cõi chết ấy, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng của Người.  Từ lòng đất âm u, Người đã cho bừng dậy muôn nơi những phúc ân rạng rỡ.

Sáng sớm hôm ấy, có một số người phụ nữ yêu mến Giêsu lặn lội chạy ra mồ khi trời còn chưa tỏ.  Trên đường đi, các bà còn lo lắng không biết phải đẩy tảng đá lấp mồ như thế nào, để có thể vào trong xức dầu thơm cho xác Chúa.  Trong nhãn quan của các bà, rõ ràng là Giêsu đã chết.  Nhưng vừa ra đến mồ, các bà kinh hãi vì tảng đá đã được dịch sang chỗ khác.  Lại còn có các Thiên Sứ sáng chói ánh hào quang cho biết là Đức Giêsu đã sống lại rồi.  Các bà vội chạy về báo cho các môn đệ.  Hai ông Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy ra và chứng thực những gì mà các bà kể lại.  Bà Maria Madalena chưa kịp hoàn hồn, cứ ngỡ ai đánh cắp xác của Thầy mang đi.  Bà đứng đó mà khóc.  Sau khi được tiếng gọi của Đức Giêsu lay động, bà vui mừng hớn hở, chạy về loan tin khắp nơi.  Một niềm vui khác hẳn chợt bừng lên trong bà và những ai chứng kiến, một niềm vui có âm vị chưa từng có trong đời.  Niềm vui ấy là niềm vui do cảm nghiệm được sự sống thần linh, niềm vui được cảm nếm trước hạnh phúc Thiên Đàng, nếm được một sự sống thật, sự sống của chính Thiên Chúa.

Các bạn trẻ thân mến,

Sự kiện Chúa chết và sống lại đã xảy ra cách đây khá lâu xét về mặt lịch sử.  Nhưng ơn phục sinh của Ngài vẫn luôn có đó và tuôn tràn khắp nơi, trong con tim và khối óc của mỗi người.  Có một hạt giống bị chôn vùi vào lòng đất, nay trổ sinh thành một chồi non mơn mởn, chứa đựng bên trong bao sức sống khác.  Mùa đông đã qua đi, mùa xuân đến kéo theo muôn chim vui ca hót tưng bừng, ngàn hoa đua nhau khoe sắc.  Xã hội có thể có những lúc khủng hoảng, nhưng rồi mọi chuyện cũng tốt lên.  Cuộc sống của chúng ta có thể có những khoảng thời gian u ám, tưởng như không sao vượt qua được, nhưng rồi một tia hy vọng chợt đến, giúp ta lấy lại thế quân bình, và tiếp tục sống những ngày tháng vui và hạnh phúc.  Thánh Thần chưa bao giờ thôi hoạt động.  Những sự sống mới lúc nào cũng nảy sinh.  Nơi góc đá khô cằn bên sườn núi, ta vẫn thấy có những cành hoa dại cố gắng vươn ra.  Nơi những triền dốc chơ vơ giữa trời, thấp thoáng vẫn có nhành cây nhỏ uốn mình theo gió.  Nơi sa mạc khô cháy và hoang vu, vẫn có những ốc đảo xanh rì rợp bóng mát.  Những dấu hiệu tự nhiên như thế cũng tỏ lộ phần nào quyền năng mãnh liệt của Thiên Chúa vượt lên trên sự chết rợn người.

Sự phục sinh của Giêsu cho chúng ta thấy những gì mà trước kia Ngài nói với chúng ta không sai chút nào.  Rằng nếu con người chịu chết đi cho những lụy tục của mình, con người sẽ được sống.  Rằng muốn đi đến vinh quang, con người phải đi qua thập giá.  Rằng niềm tin và tình yêu sẽ chiến thắng tất cả.  Rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô đối vô song.  Rằng chỉ cần ta một lòng tín thác vào Chúa và vâng nghe Lời Người thì Người sẽ cho ta thấy Người tuyệt diệu biết bao khi dẫn ta qua những màn đêm của chết chóc.  Dẫu có khi đứng trước những hy sinh, ta có phần sợ hãi, buồn phiền, thậm chí là chùn chân, nhưng nếu ta tiếp tục tín thác và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp trong tay Chúa, ta sẽ được Người thưởng công bội hậu.

Để có thể trở thành một con bướm xinh, con sâu phải chịu đau đớn chui ra khỏi cái kén.  Để có thể trở thành một con chim sải cánh giữa trời bao la, những mệt mỏi khi cố gắng thoát ra khỏi cái vỏ là điều không thể tránh đối với nó.  Thành công nào cũng đòi phải có hy sinh.  Phục sinh nào cũng đòi phải bước qua thập giá.  Ước gì Chúa Phục Sinh ban thêm sức cho chúng ta, để chúng ta dám vượt thắng con người ù lì và nhát đảm của mình, dám hy sinh vì công lý, vì đạo nghĩa, vì Đức Kitô ngõ hầu chúng ta có thể được cùng Người sống lại trong vinh quang.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Dân sinh và Dân quyền

Dân sinh và Dân quyền

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-04-06

04062015-welfare-n-right-people.mp3

Mới khánh thành nhưng công trình tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng hơn 400 tỷ đồng gạch nền dưới chân tượng đài bị bong tróc, bể nát

Mới khánh thành nhưng công trình tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng hơn 400 tỷ đồng gạch nền dưới chân tượng đài bị bong tróc, bể nát

Hoituthienquangnam.com

Your browser does not support the audio element.

Những điều bệ rạc và nhà lãnh đạo

Một dự án vĩ đại dù có bị phản đối nhưng cuối cùng cũng hoàn thành, đó là tượng đài Bà mẹ Việt nam được khánh thành tại tỉnh Quảng nam trong tuần qua. Ngay sau lễ khánh thành, sân lát đá trước tượng đài đã bị hư hại. Nhưng đó không phải là điều quan trọng mà blogger Tưởng Năng Tiến nhìn thấy qua tượng đài đồ sộ nhất Đông Nam Á này. Cái ông thấy là những người phụ nữ Việt Nam ủng hộ và hy sinh cho những người cộng sản ngày xưa nay được đền bù bằng các tượng đài và không có gì khác.

Lúc đói, mỗi người sẵn lòng giúp cho Nhà Nước hàng ngàn cân gạo; khi no, Đảng và Chính Phủ cũng không ngần ngại giúp lại cho nhân dân hàng ngàn tượng đài, nặng hàng ngàn tấn, với kinh phí hàng ngàn tỉ bạc chi từ tiền thuế của họ.

Nhưng tượng đài Bà mẹ Việt nam không phải là cái nhất duy nhất mà Việt nam thực hiện chỉ trong vòng một năm qua, người ta còn phải kể đến nào là cái bánh chưng lớn nhất, tô hủ tíu lớn nhất,… và trong tương lai còn có tháp truyền hình cao nhất thế giới nữa. Những cái nhất ấy, cộng với những nhiễu nhương khác như tranh giành đánh nhau trong lễ hội, xếp hàng hàng giờ đồng hồ để được ăn miễn phí, sự thờ ơ của dân chúng … được Viết từ Sài gòn gọi là những điều bệ rạc, và đặt câu hỏi là ai đã biến người dân Việt nam trở nên một trạng thái không phải là con người như thế?

Tác giả tìm kiếm nguyên nhân ở thời bao cấp, và kết luận rằng không thể đổ lỗi cho người dân, mà chính giới lãnh đạo phải chịu trách nhiệm vì đã đưa đất nước tới chỗ hỗn độn như ngày nay.

” Những nhà lãnh đạo Việt nam họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại

ông Lý Quang Diệu “

Liên quan đến trách nhiệm đó của nhà cầm quyền, và cũng nhân lúc một nhà lãnh đạo lịch sử người châu Á là ông Lý Quang Diệu bên Singapore qua đời, nhà văn Phạm Thị Hoài đăng lại bức thư của ông Lý gửi bà Thủ tướng Anh Margaret Thatcher cách đây mấy mươi năm về thảm trạng thuyền nhân Việt nam lúc ấy. Trong bức thư này ông Lý viết rằng:

Những nhà lãnh đạo Việt nam họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại.

Nội dung này lập tức được hàng chục trang FB và blog đăng lại.

Nhưng ông Lý cũng là nhân vật được nhiều nhà nước được xem là độc tài lấy làm gương. Người ta cho rằng có thể duy trì duy nhất một đảng như đảng Nhân dân hành động của ông Lý để đạt được phồn vinh của một đất nước.

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết rằng ông Lý là một nhà lãnh đạo giỏi vì đã tạo nên đất nước Singapore, nhưng lại là người thầy dở vì những học trò tự nguyện của ông là những nhà độc tài.

Và ở những đất nước độc tài đó người ta chưa thấy Singapore nào xuất hiện.

Nay, ngay tại chính đảo quốc sư tử người ta cũng tự hỏi là tương lai của đất nước này sẽ như thế nào! Nhân đám tang ông Lý, mọt cậu học trò Singapore chỉ trích ông và bị bắt giam! Nhà báo Huy Đức từ Việt nam trông sang và cảnh báo rằng người dân Singapore còn phải làm rất nhiều việc để sửa đổi nó nếu muốn thành phố 5 triệu dân này mang gương mặt của họ thay vì chỉ mang gương mặt của chỉ một gia đình, một “cha già”.

Dân sinh và dân quyền

Trở lại tiêu đề những điều bệ rạc mà chúng tôi mượn ý của blogger Viêt từ Sài gòn, thì ngẫm cho cùng nó cũng xảy ra trong thời gian khá dài, điều đáng nói trong tuần qua là những sự kiện liên quan đến môi trường và dân sinh.

Hàng nghìn công nhân Công ty Pouyen Việt Nam (TP HCM) đã xuống đường tuần hành phản đối quy định bảo hiểm mới trong 5 ngày qua. 31/3/2015

Hàng nghìn công nhân Công ty Pouyen Việt Nam (TP HCM) đã xuống đường tuần hành phản đối quy định bảo hiểm mới trong 5 ngày qua. 31/3/2015

Thoạt đầu là cuộc biểu tình chống chặt hạ cây xanh tại Hà nội, rồi đến việc ngăn lấp sông Đồng Nai bị tạm ngừng, và mới nhất là câu hỏi về dự án Bauxite Tây Nguyên lỗ hay lời, có hại môi trường hay không, lại trở lại làm sôi động báo chí.

Đã có một sự phản kháng xảy ra trong xã hội Việt nam đòi môi trường sống tốt hơn, hoặc với hình thức phản kháng trực tiếp là cuộc biểu tình vì cây xanh ở Hà nội, hay thông qua báo chí, dù vẫn còn bị nhà nước kiểm soát.

Và hơn 100 ngàn công nhân tại các khu công nghiệp ở Sài Gòn, Long An, Tiền Giang đình công chống luật bảo hiểm xã hội. Các blogger nói rằng cuộc đình công này của công nhân khác những cuộc đình công của họ chống giới chủ, lần này chống lại một chính sách của nhà nước.

” Qua hai sự kiện trên, (biểu tình chống chặt cây xanh và chống luật bảo hiểm xã hội) chúng ta có thể thấy rằng người dân đã cam chịu, đã nhẫn nhục quá lâu, nhưng cuối cùng thì họ cũng đã thức tỉnh. Đất dưới chân của những kẻ độc tài đã bắt đầu rung chuyển

Trang Bauxite Việt nam”

Blogger Cánh Cò viết rằng đã có một áp lực lớn hơn từ phía người dân để giành lại quyền của mình.

Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự  thì nói rằng đó là sự chuyển mình từ cam chịu sang phản kháng

Trang Bauxite Việt nam viết:

Qua hai sự kiện trên, (biểu tình chống chặt cây xanh và chống luật bảo hiểm xã hội) chúng ta có thể thấy rằng người dân đã cam chịu, đã nhẫn nhục quá lâu, nhưng cuối cùng thì họ cũng đã thức tỉnh. Đất dưới chân của những kẻ độc tài đã bắt đầu rung chuyển. Sẽ không có gì là bất thường nếu một ngày đẹp trời nào đó, không phải 90.000 mà 100.000, 200.000… con dân đất Việt xuống đường đòi xóa bỏ điều 79, 88 và 258 của Bộ luật hình sự nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Người ta nhớ lại rằng chính trang Bauxite Việt nam là nơi khởi nguồn của cuộc đấu tranh chống dự án Bauxite Tây nguyên cách đây hơn 6 năm của các nhân sĩ trí thức Việt nam. Và người ta thấy trong những ngày đầu tháng tư này các nhà khoa học vẫn không mệt mỏi cất lên tiếng nói phản biện về sông Đồng Nai, về dự án tinh lọc quạng nhôm trên đất Tây nguyên, nơi được dự báo sẽ là Sông khô hồ cạn, nếu các chính sách phát triển kinh tế cứ tiếp tục được thực hiện một cách độc đoán xem thường nhận thức và kiến thức của xã hội.

Nhân những cuộc biểu tình đòi dân sinh trong tuần qua, một blogger đồng thời cũng là một nhà tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng là cô Phạm Thanh Nghiên ở Hải phòng được một bạn đọc cật vấn là tại sao cô không hoạt động như những người đòi cây xanh ở Hà nội hay đòi bảo hiểm ở Sài gòn, tức là những điều mà người dân quan tâm, mà lại mơ những chuyện lớn lao là nhân quyền quá to tác. Cô Phạm Thanh Nghiên trả lời:

Nhưng bên cạnh, có những điều người dân không quan tâm. Chính vì không quan tâm cho nên chúng ta phải sống mà không có quyền. Và vì không có đầy đủ quyền nên mới nảy sinh những vấn nạn về Dân Sinh. Cho nên mới có mặt trận Nhân Quyền. Đó là một mối quan hệ hệ quả mang tính tất yếu song nhiều người vẫn ngộ nhận là có thể tách bạch được.

Khôn ngoan, Bối rối, và E ngại!

Trong những diễn từ giải quyết vụ cây xanh ở Hà nội, bài phát biểu của ông Bí thư Thành ủy Hà nội Phạm Quang Nghị được blogger Người Buôn Gió đánh gia là khôn ngoan đầy bản lĩnh nhất.

Người Buôn Gió phân tích rằng ông Nghị đã làm cho người ta nghĩ rằng chuyện chặt cây xanh là chuyện nóng vội, do đó nó trở thành không quan trọng nữa.

Rồi cuối cùng ông Nghị cũng cho rằng cuộc biểu tình bảo vệ cây xanh cũng bị kích động và xúi giục từ bên ngoài.

Người Buôn Gió kết luận rằng:

Nói thật thì hiếm có vị lãnh đạo nào trong BCT đủ bản lĩnh đứng ra để lèo lái sự việc đổ vỡ thành không có gì như ông đã làm.

Nhưng không phải phản ứng nào của cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản lại được đánh giá là khôn ngoan như ông Nghị. Tờ Petro Times lại bị giới blogger nói là đã bối rối khi không biết đưa tin như thế nào về vụ biểu tình bảo vệ cây xanh. Và cũng không phải blogger nào cũng nói là ông Nghị khôn ngoan khi ông nói rằng ông không lường được người dân. Câu nói này lại làm cho nhiều người lo lắng cho cái ghế của ông Nghị và tương lai chính trị của ông vì rằng tại sao ông làm lãnh đạo mà lại không lường được dân? Sự lo lắng này càng tăng thêm khi người ta đặt câu hỏi là tại sao báo chí Việt nam lại được tự do đưa tin về biểu tình đến thế, một điều vốn là điều cấm kỵ trong thể chế cộng sản? Người ta nghi có một âm mưu gì đó nhằm tấn công vào ông Bí thư thành ủy.

” Nhưng bên cạnh, có những điều người dân không quan tâm. Chính vì không quan tâm cho nên chúng ta phải sống mà không có quyền. Và vì không có đầy đủ quyền nên mới nảy sinh những vấn nạn về Dân Sinh. Cho nên mới có mặt trận Nhân Quyền

Cô Phạm Thanh Nghiên”

Một tin vui được các blogger đấu tranh cho nhân quyền đón nhận trong tuần qua là việc Việt nam đang từng bước thực hiện Công ước chống tra tấn mà mình đã cam kết.

Blogger, nhạc sĩ Tuấn Khanh cho biết rằng có hy vọng là quyền lực của giới công an sẽ bị giảm với những điều luật về giam giữ sẽ ra đời trong thời gian tới.

Nhưng Tuấn Khanh đón nhận tin đó với sự cẩn trọng, ông viết rằng một lực cản đầy âm mưu vẫn hậu thuẫn cho bóng tối, vì rằng vẫn có sự e ngại từ một thể chế đặt mọi thứ trên nền tảng bạo lực.

Như để minh họa cho sự cẩn trọng đó của Tuấn Khanh, Luật sư Võ An Đôn viết về vụ án lạm dụng bạo lực của công an mà ông sắp thụ lý, rằng đó là một cuộc chiến không cân sức!

Mọi thứ không dừng lại ở đó

Viết về bản báo cáo của Tập đoàn than khoáng sản Việt nam được đưa ra để biện minh cho hiệu quả kinh tế của dự án Bauxite Tây Nguyên, nhà khoa học Tô Văn Trường mượn hai câu thơ của thi hào La Fontaine

Người hiền triết kẻ cuồng điên,

Mơ trong khi thức là tiên trên đời

Một biện minh dành cho một dự án lớn hơn, vĩ đại hơn, dự án cộng sản độc đảng tại Việt nam trong mấy mươi năm qua cũng đã và đang được đưa ra.

Nhân cái chết của ông Lý Quang Diệu, người ta nhắc lại câu hỏi của ông rằng Mục tiêu tối hậu của nền chính trị là gì? Ông trả lời rằng đó là cuộc sống của người dân có được cải thiện hay không! Trong một lần trao đổi với chúng tôi về mô hình độc đảng hay đa đảng, một cựu quan chức Việt nam cũng nói rằng hệ thống chính trị nào thì cũng phải nhắm đến việc giàu mạnh của dân chúng.

Theo Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, nếu như thế thì dường như nền chính trị Việt nam đã thất bại, vì dường như mục tiêu của nền chính trị này chỉ nhằm vào việc duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của đảng cộng sản mà thôi.

Nhưng có blogger lại nói rằng việc tranh cãi nhau về dự án Bauxite trên báo chí chính thống, hay là việc báo chí công khai sự bối rối của giới lãnh đạo thủ đô Hà nội trong việc chặt cây xanh, hay tin về việc cả trăm ngàn công nhân đình công… . đã là một điều đáng hy vọng.

Còn Blogger nhạc sĩ Tuấn Khanh thì viết Hãy tin rằng mọi thứ không dừng lại ở đó.

Biển Đông: Kissinger Muốn Dâng Cho TC

Biển Đông: Kissinger Muốn Dâng Cho TC

Vi Anh

Không phải đến hôm nay mà ngay trong và sau Hội nghị Paris 1972, nhiều người trong giới sĩ phu miền Bắc đã nhìn Kissinger với cái nhìn không mấy thiện cảm. Với tất cả sự láu cá trong đường đi nước bước nhằm rút nước Mỹ đang đang trong thế kẹt ra khỏi miền Nam Việt Nam một cách danh dự, ông Kít chắc là dương dương đắc ý coi mình là một đại công thần của Mỹ quốc lúc bấy giờ. Nhưng ông có biết đâu trong con mắt người Việt Nam có lương tri, ông là hình ảnh một “kỳ phùng” xứng tài xứng đức với cái kẻ ngồi đối thoại với ông trong suốt mấy năm trời ở chiếc bàn bầu dục tại nước Pháp mà dân chúng nửa nước phía Bắc mỗi khi trà dư tửu hậu vẫn thầm bảo nhau: “Tên gian hùng”. Nhưng một bên chỉ là thứ gian hùng ranh vặt, cho nên sau đó thì ngồi chầu 3 tỷ 2 đô la hứa hão để rồi vẫn cứ ôm lấy mô hình XHCN mà đưa con dân nước mình xuống hố. Còn một bên là gian hùng có hạng, làm cho nước Mỹ thoát khỏi bế tắc, tiếp tục giữ được vị trí siêu cường. Tất nhiên, đã là gian hùng thì thế nào cũng có cái giá cho mỗi hành động của mình. Kissinger những tưởng cô lập được LBXV khi thò bàn tay ra nâng đỡ Trung cộng, ông ta có ngờ đâu chính tính toán của mình đã giúp cho Trung Cộng một thời cơ quý hơn vàng để phất lên, sau hơn ba thập kỷ nghiễm nhiên trở thành một cường quốc, làm mưa làm gió ở phương Đông, một mặt ép hai dân tộc có nền văn minh lâu đời là Tây Tạng và Tân Cương vào con đường đồng hóa như tất cả những dân tộc hàng nghìn năm qua đã phải trở thành người Hán, mặt khác thò cái lưỡi ra quyết chiếm trọn Biển Đông, ngày càng đẩy các nước Đông Nam Á vào thế bị phụ thuộc.

Bỗng chốc nước Mỹ phải đối mặt với hai kẻ thù là Nga và Tàu cùng rất mạnh – lưỡng đầu thọ địch; cũng bỗng chốc cả một phương Đông đang yên bình bị đánh thức bởi tiếng rú của một con chó sói già vừa được Kissinger tiêm cho mấy liều thuộc tăng trưởng nên trở nên hùng hổ, vừa gào rú vừa chạy quanh khắp tứ phía lục địa Á Châu, phía nào cũng cố tè một bãi nước đái khai mùi Đại Hán để đánh dấu lãnh thổ vốn ấp ủ từ lâu trong bộ não chó đầy dục vọng của mình.

Thế đấy. Công lao của ngài Kissinger đối với nhân loại hay nói đúng hơn là cái phần nhân loại đang mỏi cổ ngóng trông một chút công lý nào đấy của thế giới văn minh sẽ cứu vớt được số phận của họ, rốt cuộc là thế đấy. Kít là kẻ làm chính trị chuyên nghiệp nên thủ đoạn có thừa, nhưng bên trong con người ông ta hẳn cũng có sẵn cái gene lừa thầy phản bạn, là một căn tính mà các dân tộc phương Đông xưa nay vốn không bao giờ coi trọng, vì con người phương Đông vẫn lấy “bản thiện” làm đầu. Thế mà ông ta vẫn không chịu ngậm miệng lại, vẫn hùng hồn tuyên bố Mỹ nên làm hòa với Trung Cộng để cùng nhau chia chác ở Biển Đông, thực dụng và cạn tàu ráo máng đến thế thì “treo giải nhất” chứ còn ai tranh hơn được với ông ta nữa. Bài viết của Vi Anh là tiếng nói phẫn nộ chính đáng của lương tâm người Việt đáp trả cái kẻ đã chà đạp lên lợi ích cả một dân tộc, cho đến tuổi lú lẫn này rồi mà vẫn còn nguyên một cục tham vọng không suy suyễn.

Bauxite Việt Nam

Không biết có tiền cừu hậu hận gì quốc gia dân tộc Việt Nam, mà Tiến sĩ Kissinger, Cựu Ngoại trưởng kiêm Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ thời Tổng thống Richard Nixon của Mỹ thời Chiến Tranh VN, đã đi đêm với TC, bức tử và dâng Việt Nam Cộng hòa cho Trung Cộng. Không biết có phải Kissinger có phải là đầu thai từ Tướng Tàu Thoát Hoan kiếp trước bị quân dân Việt Nam đánh đuổi không còn manh giáp, chạy thục mạng phải chui vào ống đồng để quân Tàu khiêng trốn về Tàu hay không, mà kiếp này Kissinger hết trả thù Việt Nam thời Chiến Tranh VN bức tử Việt Nam Cộng hòa, thời VN Cộng sản Trung Cộng giành giựt Biển Đông của VN, Kissinger đề nghị nên theo ý kiến của Cố Chủ tịch TC Đặng tiểu Bình, hai nước Mỹ và Trung Cộng ngưng căng thẳng để cùng nhau khai thác vùng này, cùng hưởng lợi. Đây thật là một đề nghị đưa ra không đúng chỗ, tai hại cho Mỹ, thiệt hại cho các nước đồng minh và đối tác của Mỹ trong vùng, và chỉ có lợi cho TC.

Một, đây là một đề nghị thật không có gì vô duyên, mất lịch sự cho bằng, làm khi đi dự tang lễ mà họp báo tuyên bố một cách vô thẩm quyền, vô tư cách. Nhưng Cựu Ngoại trưởng Kissinger nay đã 92 tuổi, chứng nào vẫn tật nấy. Ngày 28/03/2015 nhơn khi đi dự tang lễ của Cựu Thủ tướng Singapore Lý quang Diệu, Ông Kissinger đề nghị Mỹ và TC nên ngưng căng thẳng để cùng khai thác Biển Đông cùng có lợi.
Hành động vô duyên, bất lich sự, thực dụng đến buồn nôn này của Ô Kissinger không phải ông làm một cách riêng tư, mà ông mở cả một cuộc họp báo tại Singapore trong khi quốc gia đô thị Singapore này đang làm quốc tang cho vị Thủ tướng lâu đời này với cả triệu người Singapore để tang, xếp hàng chờ cả 7, 8 tiếng tiễn biệt.
Ông Kissinger không giấu giếm lập trường sùng bái Chủ tịch Đặng Tiểu Bình của TC, và thân TC của ông. Ông họp báo đưa ra lời khuyên Trung Quốc và Hoa Kỳ nên theo gương cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình để giảm thiểu tình trạng căng thẳng, liên quan đến các tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh với các láng giềng tại vùng Biển Đông.
Hai, đây là một đề nghị tai hại cho nhân dân và chánh quyền Mỹ đương thời. Với đề nghị này của Ô Kissinger, chiến lược chuyển trục quân sự của Mỹ sang Á châu biến Mỹ thành một “thực dân kiểu mới”, cùng tham lam, cùng khai thác, cùng chia chác quyền lợi đất đai, tài nguyên biển đảo của các nước Á châu Thái Bình Dương với TC. Đề nghị này của Ông Kissinger phủ nhận chánh nghĩa, lời tuyên bố của TT Obama, Ngoại trưởng Hillary, Kerry Mỹ nói đến đây là để bảo vệ tự do hàng hải quốc tế, giúp gìn giữ nguyên trạng, ổn định của địa lý chánh trị Biển Đông. 50% hàng hóa của thế giới di chuyển qua vùng biển này, trong đó có của Mỹ và các nước đồng minh và đối tác của Mỹ.
Ba, đây là một đề nghị làm mất lòng tin của các nước Á châu Thái Bình Dương đối với Mỹ. Thời Ô Kissinger đương quyền, ông nói thêm, nói bớt, giấu đầu giấu đuôi đối với Tổng thống, Quốc hội và công luận Mỹ để đi đêm như con thoi và “móc ngoặc” riêng tư với TC. Hậu quả là, phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hòa, làm vô nghĩa 58.000 quân nhân Mỹ đã hy sinh mạng sống và hàng trăm ngàn quân nhân, dân chính khác đã hy sinh một phần thân thể cho lý tưởng tự do, dân chủ của Hoa Kỳ ở VN.

Hậu quả là, các nước trong vùng mất lòng tin nơi Mỹ. Phi đuổi Mỹ ra khỏi hai căn cứ hải quân và không quân của Phi. Dân Chúng Nam Hàn, Nhựt biểu tình đòi quân đội Mỹ “Yankees go home”.
Nhân dân và chánh quyền Mỹ sau thời Kissinger lương tâm bị cắn rứt, phải tình nguyện cho định cư tất cả những thuyền nhân dính líu với chế độ VNCH đồng minh với Mỹ.
Chánh quyền Mỹ chịu khó [chịu] khổ, chịu tốn kém mật đàm, đàm phán với CS Hà nội để đưa quân dân cán chính VNCH bị CS đày đi tù cải tạo không ngày ra được đi tỵ nạn chánh trị ở Mỹ theo chương trình HO và ODP.
Và chính những tay Phản Chiến nổi danh như Jane Fonda cũng tự thú sai lầm, nhiều lần sám hối.
Còn TC thì trỗi dậy, trừng lên trở thành đối thủ đáng gờm của Mỹ trên thế giới.
Ba, đây là một đề nghị giúp TC kẻ cướp trở thành ông chủ hưởng lợi nhiều nhứt ở Biển Đông. Chính Mỹ cũng từng tuyên bố bản đồ 9 đoạn liếm mất 90% Biển Đông mà TC tự ý đưa ra là phi lý, phi pháp, không có một căn cứ sử ký, địa lý, pháp lý nào. Nhưng Ô Kissinger lại đề nghị Mỹ ngưng căng thẳng cùng khai thác là mặc thị chấp nhận TC là sở hữu hay đồng sở hữu với Mỹ.

Nhưng xét về địa lý gần xa, chi phí khai thác, vận chuyển, đề nghị của Kissinger coi như giao trứng cho ác là TC. Trong việc làm ăn ba đồng xa không qua một đồng gần. Biển Đông gần TC, cả chục lần hơn so với Mỹ, mọi chi phí khai thác, chuyên chở của TC đều thấp cả chục lần hơn đối với Mỹ. Hưởng lợi trên Biển Đông, TC chắc chắn chiếm phần ăn của con sư tử.
Nên dư luận chung của các nhà bình luận, lời khuyên của ông Kissinger lấy từ “tư tưởng” của Ông Đặng Tiểu Bình TC, là một đề nghị tiếp tay cho TC gồm thâu Biển Đông, khống chế toàn bộ Biển Đông. Ai cũng thấy đề nghị của Kissinger là chủ trương của TC luôn nói ra như chủ trương giải quyết mọi tranh chấp trên nguyên tắc song phương, không cho nước thứ ba (hàm ý là Mỹ) xen vào. Hoàn toàn khác lập trường của chánh quyền Mỹ giải quyết đa phương, đúng theo luật pháp quốc tế về biển.

clip_image002
Bốn và sau cùng, có học mà không có hạnh là bại hoại của tâm hồn. Người có học mà không có hạnh làm tội lỗi thì tinh vi, trầm trọng hơn người ít học. Nên trong hình tội học người ta phân biệt tội phạm cổ trắng do người làm việc bằng đầu óc, tội lỗi trầm trọng, tai hại nhiều hơn và cổ xanh do người làm việc chân tay. Nên cách đây không bao lâu, vào ngày Thứ Năm 29-1-2015, trong cuộc điều trần của Tiểu ban Ngoại giao của Uỷ ban Đối ngoại của Mỹ, nhóm hoạt động xã hội CodePink đã bất thần trương biểu ngữ, đưa ra cây còng, và hô to các khẩu hiệu đòi đưa Henry Kissinger ra tòa vì đã bán đứng Việt Nam cho CS và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20, gây nên tai họa tàn khốc cho nhiều dân tộc.

clip_image004

Medea Benjamin, người đồng sáng lập tổ chức CodePink nói “Henry Kissinger phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người. Ông ta là một kẻ sát nhân, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, và là một kẻ côn đồ. Ông ta cần phải được đưa ra trước vành móng ngựa tại Hague”. Anna Kaminski, thành viên của nhóm CodePink nói với báo chí. “Di sản thật sự của Kissinger để lại chỉ là sự hủy diệt. Ông là nhân vật phản diện vĩ đại của Mỹ”. Nửa thế kỷ sau, tàn dư từ những bài toán của Henry Kissinger vẫn còn làm tan nát con người và các đất nước này. Đặc biệt sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở Miền Nam Việt Nam đã trở thành một vết nhơ khó quên trong lịch sử của Hoa Kỳ. Nhà văn Jon Queally, người bảo vệ hành động của nhóm CodePink nói rằng “Những trang sử đẫm máu đó chính là di sản của Kissinger. Cái chết. Sự tàn phá. Đau khổ. Cùng cực.
Thượng nghị sĩ John McCain đã phản ứng dữ dội với những người biểu tình đã làm náo loạn buổi điều trần này./.

V.A.

__._,_.___

Nguồn: http://vietbao.com/a235837/bien-dong-kissinger-muon-dang-cho-tc

Ảnh: mượn trên Internet.

​Thiếu đói khắp nơi…

​Thiếu đói khắp nơi…

báo Tuổi trẻ

TT – “Một hôm tôi xuống thăm người dân xã Hòa Nghĩa, huyện An Thụy, Hải Phòng thì thấy nhà nào cũng đói. Có gia đình ba cháu đói lả trên giường mà chẳng thấy người lớn…

Tôi hỏi cha mẹ các cháu đâu, bọn trẻ trả lời bố mẹ cháu ra bãi biển mò tôm cá về bán đong gạo”.

Ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, hồi tưởng về những năm tháng đói kém  – Ảnh: Q.V. – tư liệu

Nhắc nhớ những ngày khó khăn này, ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, vẫn ngậm ngùi suy tư. Ông tâm sự hồi đương chức chủ tịch rồi bí thư Tỉnh ủy Hải Phòng phải chứng kiến nhiều cảnh như vậy. Người dân phải tìm mọi cách để xoay xở miếng ăn.

“Ám ảnh việc kiếm cái ăn!”

“Không biết lúc nào cha mẹ các cháu mới về đến nhà, mà có kiếm được gì để ăn không, tôi bảo tài xế về gấp nhà tôi lấy gạo nấu ngay cho các cháu ăn lại sức” – vừa tâm sự, ông Đoàn Duy Thành vừa giở lại những tài liệu ố màu thời gian.

Hồi còn kháng chiến, ông nghĩ dân mình chỉ cần có đất là không lo, thế mà hòa bình người dân có đất vẫn cứ đói triền miên. Ruộng quê ông xưa cày cấy bình thường cũng được 100kg lúa mỗi sào đất, bây giờ cũng ruộng ấy chỉ được 40kg lúa. Ở các thửa ruộng khác lão nông tri điền cũng chẳng làm khá hơn.

Cày cho mình thật sự mọi người hăng hái đổ mồ hôi, cày cho hợp tác xã cuối vụ tính điểm còn không đủ thóc nuôi con, chẳng ai hăng hái nổi. Ông Thành đi tham quan các tỉnh lúa khác tình hình cũng chẳng khá hơn. Nông dân vẫn phải ăn bo bo, khoai độn, cháo nấu với thân chuối mỗi ngày.

Ở Hải Phòng, ông Thành kể: “Kinh tế hợp tác xã chỉ bảo đảm được 20% cuộc sống xã viên, mọi người phải bổ ra ngoài kiếm sống. Ngay trên ruộng hợp tác xã rộng lớn dân cũng chỉ làm qua loa cho xong để còn về làm ruộng 5% thuộc về mình. Quanh đi quẩn lại mọi người triền miên ám ảnh việc kiếm ăn”.

Cũng như nhiều địa phương khác, chỉ qua 10 ngày đầu tháng cửa hàng gạo Hải Phòng chẳng còn gì bán cho cán bộ công nhân viên, kể cả bo bo. Thành phần có lương, có tem phiếu đã vất vả, người dân lao động càng khó sống hơn.

Hồi tưởng năm tháng vật vã kiếm ăn hầu như ai cũng có kỷ niệm khó quên. Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc học – con trai cố bộ trưởng giáo dục Nguyễn Văn Huyên, tâm sự: “Hồi ấy đồng lương eo hẹp quá. Ở Hà Nội cả nhà tôi người là giáo sư, viện phó, người là tiến sĩ này nọ đều phải xoay xở kiếm thêm.

Khoảnh sân nhà tôi trở thành vườn – chuồng đúng nghĩa, chỉ còn thiếu mỗi ao, mà nếu có thể đào được thì chắc chúng tôi cũng đào rồi. Từ mẹ tôi, vợ một bộ trưởng đến con cái, dâu rể đều lăn ra nuôi heo, gà vịt, trồng nấm, sắn dây. Tối tối mọi người còn cặm cụi phân từng hạt đậu phộng bỏ vào bọc nilông đem bán kiếm thêm mấy hào”.

Tiến sĩ Huy bùi ngùi nhớ mẹ mình hồi ấy đã lớn tuổi mà đêm đêm vẫn thức khuya nối len, đan mũ, khăn quàng để vun vén thêm nồi cơm cho cả nhà ba thế hệ.

“Đến giờ tôi vẫn có thói quen ăn cơm nguội bữa sáng, mà hồi ấy có chén cơm là quý lắm. Chỉ mẹ già và con còn nhỏ mới được ưu tiên, chúng tôi vẫn phải ăn độn bo bo” – tiến sĩ Huy tâm sự mình vẫn nhớ “hương” phân gián trong chén bo bo.

Người dân TP.HCM sốt ruột chờ mua gạo – Ảnh: Q.V. – tư liệu

Cứu đói!

Nhiều nơi ở miền Nam mấy trăm năm chưa từng có chuyện thiếu miếng ăn, thế mà người dân thời kỳ này cũng phải bươn chải xoay gạo từng bữa. Cả xã hội vật vã kiếm ăn. Cả sinh viên cũng không thể toàn tâm ngồi ghế giảng đường.

Thầy giáo Nguyễn Xuân Thiệu, Trường tiểu học Nguyễn Văn Nguyên, huyện Đức Huệ, Long An, kể năm 1986 mình rời quê đi học sư phạm ở thị xã Tân An. Tiếng là ngành sư phạm được bao cấp hơn ngành khác, nhưng suốt thời gian dài người thầy này chỉ ăn hai bữa

mỗi ngày, thậm chí một bữa. “Lương” sinh viên sư phạm 13kg gạo, sau được quy tiền. Cầm số tiền đó mà ra ngoài ăn dè sẻn nhất cũng chỉ năm ngày đã thiếu, nên 25 ngày còn lại là nồi cơm sinh viên tự nấu và độn đủ thứ từ bo bo đến bắp, khoai mì… Tất cả trông vào gạo nhà quê tiếp tế, nhiều đợt không có phải nấu cháo húp với muối ớt chứ không được nước mắm ớt.

Hồi tưởng thời kỳ thiếu đói, ông Lê Văn Triết – nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại – ray rứt kể có những cuộc họp Chính phủ, Quốc hội thật nặng nề chuyện miếng cơm người dân.

Một lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa họp Quốc hội bị chất vấn: tại sao tỉnh lúa Bắc Trung bộ lại để dân đói trầm trọng? Vị cán bộ này khóc ròng giữa Quốc hội và thừa nhận địa phương bất lực…

Ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, cũng có kỷ niệm ngậm ngùi Tết Nguyên đán năm 1988 với hơn 100 người chết đói ở Thanh Hóa vì tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát chung lại thêm mất mùa nặng ở địa phương.

Tuy nhiên, theo ông Thành, con số này vẫn chưa đầy đủ vì nhiều nơi báo cáo thiếu. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng mới nhận chức định vào Nam ăn tết, phải ở lại Hà Nội lo chuyện cứu đói. Hai ông gặp nhau ngày tết mà nặng trĩu nỗi lo.

Là nhân chứng trong đoàn cán bộ cứu đói Thanh Hóa, ông Nguyễn Thành Thơ – tức Mười Thơ, nguyên phó bí thư Thành ủy TP.HCM – kể vừa xuống ga xe lửa đã sốc với cảnh dân lén lút bán gạo với giá đắt gấp nhiều lần bình thường.

Lúc đong gạo, vài hạt bị vương vãi dân tranh nhau lượm. Ông Mười Thơ hỏi cán bộ tỉnh: “Địa phương có gạo dự trữ không?”. Người này thở dài: “Còn một ít dự trữ, nhưng chỉ đủ cho cán bộ, nhân viên ăn thôi”.

Đi vào vùng thiếu đói Thanh Hóa, ông Mười Thơ tiếp tục sốc với những góc bếp không một hạt gạo nào, có nhà chỉ còn một vài củ khoai mì, bắp, thậm chí chỉ có những rổ lá cây dại mà dân vào rừng kháng chiến như ông cũng không biết có ăn được không.

Bà Cao Thị Hảo – nguyên cục phó Cục Cung cấp lương thực Bộ Lương thực – đi kiểm tra tình hình phân phối lương thực ở Thanh Hóa ám ảnh mãi cảnh: “Một bà cụ chống gậy từ trong nhà ra đón chúng tôi. Bà đi được vài bước thì ngã quỵ xuống không đứng lên nổi. Tôi hỏi người con thì nghe câu trả lời nhiều ngày nhà không còn gì ăn, bà cụ lả vì đói”.

Bà Hảo kể những thời điểm thiếu đói nghiêm trọng đến mức xe chở gạo miền Nam ra Hà Nội nhưng cứ phải đỗ dọc đường vì không thể qua được các nơi thiếu đói gay gắt như Thanh Hóa, Nghệ An. Chính bà Hảo phải điện khẩn cấp về Bộ Lương thực xin ứng ít gạo, bo bo để tạm cứu đói cho dân.

Nền kinh tế tập thể nông dân chỉ tồn tại trên giấy và trên hình thức do cấp ủy địa phương sợ trung ương nên phải làm. Nông dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đoàn sản xuất hay hợp tác xã. 

Năm 1976 sản lượng lúa bình quân trên một người dân là 211kg thì đến năm 1980 chỉ còn 157kg. Kế hoạch năm năm 1976-1980 nâng tổng sản lượng lúa lên gần gấp đôi vào khoảng 21 triệu tấn, nhưng đến năm 1980 chỉ đạt được khoảng một nửa, chưa bằng mức 11,827 triệu tấn của năm 1976.

…Do không thu mua được lương thực, người dân các thành phố phải ăn độn. Thủ đô Hà Nội khẩu phần định lượng được mua giá cung cấp 0,40 đồng/kg vốn đã ít ỏi (13 kg/người/tháng), đến tháng 3-1978 thực tế chỉ còn được 4kg gạo, còn lại là khoai lang, sắn khô… Chưa bao giờ tình trạng thiếu hụt lương thực lại trầm trọng như vậy, kể cả thời chiến. Thường trực Ban bí thư Nguyễn Duy Trinh phải điện khẩn các tỉnh nông nghiệp Hải Hưng, Hà

Bắc, Thái Bình, Hà Nam Ninh bằng mọi cách “làm nhiệm vụ chính trị” cung cấp gạo cho Hà Nội. Từ tháng 4 năm đó, số gạo đủ để bán cho mỗi nhân khẩu cũng chỉ bằng 40% tiêu chuẩn định lượng.

Nhà nghiên cứu ĐẶNG PHONG

Việt Nam còn ăn xin đến bao giờ?

Việt Nam còn ăn xin đến bao giờ?

Nguyễn Văn Tuấn

Chuyện lãnh đạo nước mình đi ăn xin dài dài không đợi bác Nguyễn Văn Tuấn nói, thằng Tàu nó đã vạch mặt chỉ tên từ lâu.

Còn nhớ, ngày trước cứ mở đài Bắc Kinh ra là nghe Tàu nó réo chửi mình: “Việt Nam là tên ăn mày quốc tế vô liêm sỉ”.

Ngẫm kỹ ra thì từ khi cách mạng về, kể đã mấy chục năm, Đảng mình, các lãnh tụ nước mình có hai cái tài đặc biệt, xưa nay hiếm: Một là tài đi ăn xin, hai là tài … sống lâu. Kìa, xem bác Phạm Văn Đồng, bác Đỗ Mười, bác Lê Đức Anh… đều sống ngót nghét cả trăm tuổi. Ít hơn một chút thì có bác Phiêu U 90 rồi mà vẫn lặn lội suốt từ Nam chí Bắc, hễ đâu có chuyện hiếu hỉ là có bác. Rồi bác Nông Đức Mạnh U 80 mà răng vẫn chắc, môi vẫn đỏ, còn phong độ hơn cả vận động viên thể hình. Có lẽ bác này phải thọ đến 200 tuổi chứ chẳng chơi. Các bác đày tớ cứ phong độ như thế suốt cả thế kỷ trong lúc đám 90 triệu ông chủ cứ thi nhau lăn đùng ra chết, hết chết vì tai nạn giao thông lại đến chết vì ung thư, tiểu đường, ho lao. Bệnh viện người nằm đè lên người như xếp cá trong nồi. Ô hay, các bác cứ sống lâu như vậy còn dân thì tranh nhau chết như vậy rồi ra còn ai cho các bác lãnh đạo? Còn ai để đi trên con đường mang tên Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu…

Trở lại với chuyện Việt Nam ăn xin. Nhục thì nhục rồi, nhưng nước mình không phải là ngoại lệ. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều là những kẻ ăn xin có hạng, ăn xin lẫn nhau và ăn xin các nước ngoài hệ thống XHCN, nghĩa là ăn xin các nước tư bản. Hồi còn Liên Xô, họ đã phải nuôi báo cô hàng loạt nước XHCN vệ tinh. Điển hình nhất là Cu Ba. Rồi Bắc Triều Tiên cũng sống nhờ vào bầu sữa Trung Quốc. Khi thiếu đói quá, họ phải buôn lậu vũ khí và thuốc phiện để tồn tại qua ngày.

Không ăn xin sao được khi mà năng suất lao động thấp nhất khu vực, tham nhũng cao nhất khu vực? Không ăn xin sao được khi mà số cán bộ của một xã ở Thanh Hóa (500 người), xấp xỉ một cơ quan quản lý của khối EU trông coi mấy trăm triệu công dân EU ? Không ăn xin sao được khi mà chỉ một cái Văn phòng trung ương Đảng đã có tới gần 3000 nhân sự và chi tiêu mỗi năm hàng trăm triệu USD ?

Bauxite Việt Nam

Thật ra, đó là câu hỏi của người đại diện JICA (Quĩ Hợp tác Quốc tế của Nhật) dành cho phía Việt Nam trong cuộc họp báo hai ngày trước ở VN (1). Điều vui vui là phóng viên đặt câu hỏi rằng Quốc hội VN về tài trợ của Nhật có ràng buộc (như phải thông qua hay dùng nhà thầu Nhật), ông đại diện nói rất thẳng là “Tôi nghĩ đến câu chuyện Việt Nam lúc nào không cần ODA nữa. Đến nay Việt Nam đã nhận ODA 20 năm. Bao giờ Việt Nam không cần cần nữa? 10 năm hay 20 năm nữa?” Có thể hiểu câu đó một cách nôm na là: các anh còn ăn xin đến chừng nào nữa, 10 năm hay 20 năm? Đã ăn xin mà còn cao giọng đòi hỏi! Phải nói rằng đó là một lời bình rất thật, hơi trịch thượng, và có thể làm cho người có tự trọng cảm thấy rất nhục.

Ông đại diện JICA không chỉ mắng là ăn xin đến khi nào, mà còn gõ đầu cảnh cáo về tình trạng tham nhũng hối lộ. Ông nói thẳng thừng: “Nếu có vụ tham nhũng nữa, Nhật sẽ ngưng viện trợ ODA cho VN“. Bất quá tam. Thú thật, đọc câu đó thoạt đầu tôi cứ tưởng là chuyện “Cá Tháng Tư”, chứ có ngờ đâu là tin thật. Cảm giác đầu tiên dĩ nhiên là thấy nhục nhã, bởi vì để cho một nước khác nói thẳng như thế, nói trong tư thế của kẻ bề trên. Nhưng nghĩ lại thì thấy cũng … đáng. Quen thói “ăn không chừa thứ gì” (lời của một quan chức cao cấp) thì cũng phải đến ngày bị người ngoài mắng cho một trận nên thân. Chỉ tội đa số người dân Việt phải hứng chịu sự khinh bỉ của người khác.

Tại sao người Nhật họ có thể nói thẳng như thế? Câu trả lời là vì họ là người chủ nợ lớn nhất của Việt Nam. Trong quá khứ và cho đến nay, Nhật đã tài trợ cho VN rất nhiều. Một bài báo năm ngoái cho biết trong thời gian 20 năm qua, Nhật đã hỗ trợ cho VN 20 tỉ USD (2), và con số vẫn còn tăng. Chỉ riêng năm 2014 Nhật đã tài trợ cho VN gần 2 tỉ USD, có lẽ là nguồn tài trợ lớn nhất cho VN (?). Có lẽ chính vì thế mà Nhật có tư cách cảnh báo VN như cha cảnh báo con: cứ tối ngày phung phí thì coi chừng, nghe chưa con! Thật ra, nói là tài trợ, nhưng thực tế là vay, và thế hệ con cháu phải trả số tiền vay này trong tương lai.

Nhưng VN không chỉ nhận từ Nhật, mà còn từ một nguồn quan trọng khác là Ngân hàng Thế giới (WB). Tôi thử tra số liệu của WB thì thấy tiền vay ODA từ WB qua các thời gian như sau:

1995-1999: 2.94 tỉ USD
2000-2004: 3.59 tỉ USD
2005-2009: 4.11 tỉ USD

Số tiền này rất lớn so với các nước khác. Thật ra, các nước như Phi Luật Tân và Nam Dương thì họ giảm vay ODA (riêng Thái Lan và Mã Lai thì không thấy vay ODA nữa, chắc là họ đã “ok”). Số liệu của Nam Dương:

1995-1999: 1.39 tỉ USD
2000-2004: 419 triệu USD
2005-2009: 67 triệu USD

và Phi Luật Tân:

1995-1999: 531 triệu USD
2000-2004: không vay
2005-2009: 5.14 triệu USD

Ngay cả Lào cũng có xu hướng giảm vay ODA. Năm 1995-1999, Lào vay 414 triệu USD, đến năm 2005-2009 thì còn 409 triệu USD. Còn Kampuchea thì chỉ vay khoảng 700 đến 800 triệu USD mỗi 5 năm, và không thấy tăng.

Tất cả những con số trên cho thấy VN là nước vay rất nhiều từ WB, và xu hướng đang tăng (xem biểu đồ). Nếu dân số năm 2014 là khoảng 89.7 triệu, thì tính trung bình số tiền vay (5 năm) là 46 USD mỗi người dân. Có lẽ vì vay nhiều thế, nên có chuyên gia tính toán rằng hiện nay, mỗi người Việt nợ 900 USD (?).

Biểu đồ về số tiền vay ODA từ Ngân hàng Thế giới trong thời gian 1995-2009 của Việt Nam, Nam Dương, Lào, và Phi Luật Tân. Đơn vị là triệu USD.

VN vay nhiều nhưng “ăn” cũng nhiều. Nguồn tin từ Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì cho biết trong các nước mà WB tài trợ, thì VN là nước bị than phiền nhiều, đứng hàng thứ 2 (chỉ sau Ấn Độ). Người ta than phiền VN ăn hối lộ, ăn chận tài trợ của WB. Lĩnh vực bị than phiền nhiều là giao thông vận tải, viễn thông và công nghệ thông tin, và cấp nước (4). Đã ngửa tay ăn xin mà còn tham nhũng! Chính vì thế mà VN bị khinh bỉ trên trường quốc tế.

Thuỵ Điển đã cúp viện trợ. Vài nước khác cũng đang sắp cúp viện trợ cho VN. Cuối cùng thì có lẽ VN nhờ vào kiều hối, nhưng số này cũng sẽ giảm vì thế hệ thứ 2 người Việt ở nước ngoài sẽ không có gắn bó gì với VN, và họ sẽ chẳng gửi tiền về VN nữa.

Quay lại câu hỏi nhức nhối (ăn xin đến khi nào), nên nhớ rằng viên đại diện Nhật không phải là người đầu tiên nói như thế. Ông Lê Đăng Doanh, trong một buổi báo cáo cho Trung ương Đảng, đã nói thẳng, không màu mè (5):

Ngày 01 tháng 12 này cũng có một cái Hội nghị tài trợ. Tôi xin báo cáo rất chân thành với các anh là ra đấy chỉ khổ tâm thôi. Nhiều thằng nó nói với tôi là chúng mày định ngửa tay đi ăn xin đến bao giờ nữa? Chúng mày là người thông minh, có học, về mặt nào đấy chúng mày không kém gì chúng tao cả… Tại sao chúng mày cứ ăn xin miết thế. Chúng mày giỏi thế mà chúng mày nghèo lâu đến như thế là thế nào? Chúng mày cứ đề ra cái mục tiêu là đến bao giờ chúng mày đừng có đi ăn xin nữa được không? Nó nói với tôi trắng trợn và thẳng lắm chứ, y nguyên như tôi nói với các anh chị.”

Ông nói thêm:

Nó bảo mày phải nghĩ đi, mà phải nghĩ cả phẩm giá, tư cách của mày đi xem mày là thế nào đi, lúc nào rồi dân tộc của mày sẽ như thế này sao? Trí tuệ như thế này, truyền thống như thế này, sao mày ăn xin hoài thế? Ta cứ tưởng nó cho tiền mãi là vinh dự. Tôi thấy vinh dự vừa phải thôi, chứ trong thâm tâm tôi như muối xát vào ruột chứ không đơn giản đâu. Vì nó nói đến như thế. Thằng không nói thì trong thâm tâm nó cũng nghĩ thế cả, thằng bỗ bã thì nó nói toẹt vào mặt chứ không phải đơn giản đâu. Cho nên, có người nói với tôi là, vậy thì bây giờ mình có lãnh đạo ASEAN được không, tức ông phải trả lời trước hết ông lãnh đạo thì ông có tiền ông bao thằng khác không? Hai là ông có cái học thuyết gì để hướng dẫn cho người ta không? Thứ ba nữa là ông muốn lãnh đạo thì thằng Washington và thằng Bắc Kinh nó có tin ông không? Hai thằng ấy mà nó không tin ông nó cho ông mấy chưởng thì lúc bấy giờ, ông chưa lãnh đạo nó đã cho ông què cẳng rồi. Thì thôi, bây giờ coi như ông đừng lãnh đạo; chứ ông mà lên tiếng, ông mạnh mồn ra tiếng lãnh đạo, hò hét thì đừng là nó cho ông mấy chưởng ngay chứ không phải không đâu. Mà nó có nhiều võ hơn mình, nhiều tiền hơn mình, nhiều công cụ hơn mình”.

Hãy đọc và suy nghĩ! Ai làm cho đất nước này và con người Việt Nam nhục như thế, để cho thiên hạ mắng mình ngay trong đất nước mình và mắng trên mặt báo.

_____

(1) http://laodong.com.vn/kinh-te/nhat-ban-co-the-cham-dut-cho-viet-nam-vay-von-oda-neu-con-xay-ra-hoi-lo-311314.bld

(2) http://globalanticorruptionblog.com/2014/04/16/the-scandal-of-corruption-in-development-aid/

(3) http://data.worldbank.org/indicator/DT.ODA.ALLD.CD

(4) http://www.thanhniennews.com/business/vietnam-world-bank-projects-blighted-by-corruption-37838.html

(5) http://www.wright.edu/~tdung/LeDangDoanh_02_11_2004.htm

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2015/04/03/3689-viet-nam-con-an-xin-den-bao-gio/#more-146622