Ai giải phóng ai?: Những đóng góp của Đế chế Pháp, Mỹ Ngụy và Đảng Cộng Sản cho Việt Nam

Ai giải phóng ai?: Những đóng góp của Đế chế Pháp, Mỹ Ngụy và Đảng Cộng Sản cho Việt Nam

THĐP

Ku Búa

08-04-2015

Ảnh: Leon_Ting

32 thứ đế chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam

Chúng ta đã được dạy rằng Đế Chế Pháp đã xâm lược và đô hộ Việt Nam. Họ đã bốc lột đất nước và người dân Việt Nam để làm giàu cho nước họ. Họ không cho chúng ta tự do ngôn luận và cai trị với phương pháp ngu dân. Đó là lý do tại sao Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước. Để giải phóng đất nước và dân tộc khỏi sự cai trị ngu đần và bốc lột của Đế Chế thực dân Pháp.

Nhưng trong bài viết này, với tư cách là một người đang được thừa hưởng sự hòa bình, tôi xin nêu ra những gì mà Đế Chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam. Theo phân tích của tôi, Đế Chế Pháp đã khai sáng đất nước Việt Nam từ 4000 năm đen tối trong 1 thế kỷ mà họ đã cai trị ở đây. Dĩ nhiên, chế độ nào cũng có mặt tích cực và tiêu cực, nhưng nếu chúng ta chỉ coi Pháp là một đế chế xâm lược mà phủ nhận những gì họ đã đóng góp cho Việt Nam, đó là một sự thiếu hiểu biết và ngạo mạn. Sau đây là 32 điều và thứ mà Đế Chế Pháp đã đóng góp cho Việt Nam và sẽ bắt đầu với thứ quan trọng nhất.

  1. Quốc Ngữ (Latin hóa quốc ngữ Việt Nam) – hãy tưởng tượng người Việt Nam sẽ như thế nào nếu giờ vẫn sử dụng chữ Hán và Nôm. Đó là một điều mà không ai muốn xảy ra.
  2. Hạt cà phê – Hiện tại Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Brazil. Cà phê đóng góp tầm 3% cho kinh tế Việt Nam.
  3. Phin cà phê – Một biểu tưởng độc đáo của Việt Nam.
  4. Cà phê đá – Một loại nước uống gần như không thế thiếu vào buổi sáng. Một trong những biểu tượng ẩm thực của Việt Nam.
  5. Cà phê sữa đá – Tương tự. Cũng là 1 thứ tui phải uống vào mỗi buổi sáng. Có khi 2-3 ly 1 ngày.
  6. Văn hóa cà phê – Việt Nam tìm thêm sức sống trong những giọt cà phê là cũng nhờ Đế Chế Pháp giới thiệu.
  7. Đường rầy xe lửa xuyên Việt. Nhờ Đế Chế Pháp mà Việt Nam đã được kết nối từ nam ra bắc, hiện giờ vẫn là một trong những phương tiện vận chuyển.
  8. Quốc Lộ 1A – Khởi hành bởi thực dân Pháp. Hiện tại thì là con đường chính kết nối ba miền bắc trung nam của Việt Nam.
  9. Điện.
  10. Xe đạp.
  11. Xe máy.
  12. Xe hơi.
  13. Cao su.
  14. Bánh mì – Một biểu tượng ẩm thực và văn hóa.
  15. Nhà thờ Đức Bà – Một trong những biểu tưởng của Việt Nam, nhưng lại là một sản phẩm của Đế Chế Pháp.
  16. Thành Phố Đà Lạt – Một trong những thành phố thơ mộng nhất thế giới, được khám phá và xây dựng bởi người Pháp.
  17. Nhà Thờ Con Gà (Đà Lạt) – Khánh thành 1942. Một trong những biểu tượng của Đà Lạt.
  18. Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt (tên cũ: Trường Grand Lycée Yersin) – Thành lập năm 1927, thiết kế bởi kiến trúc sư Moncet. Một trong 1000 công trình xây dựng độc đáo trong thế kỷ 20. Một trong nhưng biểu tượng của Đà Lạt và du lịch Việt Nam.
  19. Khách Sạn Dalat Palace – Một trong những khách sạn 5 sao ở Đà lạt. Xây năm 1916, hoàn thành năm 1922.
  20. Thành Phố Sa Pa – Một thành phố du lịch thơ mộng của Việt Nam.
  21. Thành Phố Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
  22. Bến Nhà Rồng (Bảo Tàng TP Hồ Chí Minh) – Hoàn tất năm 1863. Cũng tại nơi đây, một chàng thanh niên Việt Nam tên Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu cuộc hành trình xa quê hương để tìm đường cứu nước (làm phản động thời bấy giờ).
  23. Nhà hát lớn thành phố Hồ Chí Minh – Mở cửa năm 1990. Một trong những biểu tưởng của Sài Gòn.
  24. Bưu điện trung tâm Sài Gòn – Một trong những công trình kiến trúc vĩ đại ở Việt Nam.
  25. Thành Phố Vũng Tàu – Một thành phố biển thơ mộng và là một nơi người Sài Gòn đến nhiều nhất nhờ vị trí địa lý.
  26. Bạch Dinh (Vũng Tàu) – Xây dựng thời Pháp từ 1898 tới 1916. Một trong nhưng biểu tượng cảu thành phố Vũng Tàu.
  27. Trường Petrus Ký Sài Gòn (hiện này là trường chuyên Lê Hồng Phong – TPHCM).
  28. Cầu Trường Tiền (Huế) – Một biểu tưởng của Huế.
  29. Khách Sạn Metropole Hà Nội (hiện này là Sofitel Legend Metropole Hanoi).
  30. Cầu Long Biên Hà Nội. Một trong những biểu tưởng của Hà Nội.
  31. Sự khởi nghiệp của Hồ Chí Minh – Trong thời đế chế Pháp, Pháp đã cho ông lên thuyền đi qua Pháp. Pháp đã đón nhận ông trong âm thầm và cho phép ông làm phản động trong âm thầm. Để ông có bước khởi nghiệp vững chắc vì không bị ai quy cho cái tội phản động. Sau khi về nước, một lần nữa Pháp lại cho ông làm phản động để sau này các cháu ngoan của ông lại bắt bỏ tù những đứa phản động giống ông ngày xữa. Có điều gì đó ông đúng.
  32. Âm nhạc tây phương.

Những đóng góp của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cho Việt Nam

Chế Độ VNCH không hoàn hảo và đã phải trải qua thời gia đình trị dưới sự cầm quyền của Ngô Đình Diệm. Nhưng nếu xét về tự do ngôn luận và phát triển kinh tế thì chế độ VNCH đã góp phần không thua kém Đế Chế Pháp trong việc hiện đại hóa Việt Nam.

  1. Tự do ngôn luận là một điều bất khả xâm phạm. Các thành viên của các tổ chức chính trị có thể lên tiếng phản đối chính quyền công khai mà không bị bắt.
  2. Hệ thống chính trị tam quyền phân lập (Đệ Nhị Cộng Hòa 1967-1975). Khái niệm dân chủ theo cơ sở tam quyền phân lập thời đó rất xa lạ, VNCH là một ví dụ hiếm hoi.
  3. Đường lộ ở Tây Nam, tới bây giờ vẫn còn. Và nhiều đường lộ khác nữa.
  4. Giáo dục cao học đa ngôn ngữ và được quốc tế công nhận. Rất nhiều tri thức Việt Nam tốt nghiệp trong thời VNCH sau 1975 di dân vẫn được các nước khác ông nhận bằng cấp. Nhưng nếu tốt nghiệp dưới thời hậu VNCH thì không.
  5. Những bài nhạc cổ điển, chữ tình, nhạc “sến”, tới bây giờ vẫn còn được hát như nhạc Trịnh Công Sơn. Một điều khó xảy ra nếu những nhạc sĩ đó sống ở miền Bắc Việt Nam.
  6. Xe hơi La Dalat. Dưới thời VNCH Việt Nam đã sản xuất được xe hơi. Công Ty Xe Hơi Sài Gòn đã thành công trong việc nội địa hóa công nghệ và vật chất hơn 40% để sản xuất hơn 5,000 chiếc xe hơi La Dalat từ 1970 tới 1975. Đây là điều không tưởng trong một đất nước vẫn còn chiến tranh. Tới bây giờ ngành công nghiệp xe hơi Việt Nam đã thua cả Campuchia.

Những đóng góp của Đảng Cộng Sản cho Việt Nam

  1. Tượng mẹ Việt Nam Anh Hùng ở Quảng Nam, tốn 411 tỷ, đây là một công trình Mount Rushmore của Việt Nam.
  2. 50,000 tiến sĩ và 100,000 thạc sĩ các ngành nghề.
  3. Giá bất động sản cao nhất khu vực và có thể trên thế giới khi tính theo thu nhập đầu người. Một người Việt Nam bình thường phải đi làm 30-40 năm mới có đủ tiền để mua một căn nhà.
  4. Văn hóa xe máy, Việt Nam là nước có xe máy nhiều nhất với số lượng đăng ký trên dưới 30 triệu. Cứ 3 người Việt Nam thì có 1 chiếc xe máy.
  5. Số người chết vì tai nạn giao thông nhiều nhất, trung bình mỗi năm có 9,000-10,000 người chết vì tai nạn giao thông.
  6. Đồng tiền có nhiều con số “không” nhất hiện tại, chỉ sau Zimbabwe. $1 Đô La Mỹ đổi lấy hơn 21,000 Việt Nam Đồng.
  7. Giá xe hơi cao nhất về giá thị trường và dựa theo thu nhập bình quân. Trung bình 1 người Việt Nam phải đi làm 30 năm để có được một chiếc xe hơi. Giá xe hơi ở Việt Nam thường cao hơn giá thị trường thế giới gấp 3 lần vì thuế nhập khẩu cũng như chi phí vận chuyển và lợi nhuận.
  8. Việt Nam hiện tại có thể nói đã trở thành một dân tộc thiểu số lớn nhất nhì ở Đài Loan và Hàn Quốc. Hàn Quốc có hơn 60,000 phụ nữ Việt lấy chồng Hàn và Đài Loan có hơn 100,000 phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan. Nếu cộng thêm số lượng con cái từ những hôn nhân đó và số lượng lao động Việt Nam đang làm việc ở xứ sở tại, dân tộc Việt Nam là thiểu số đông nhất.
  9. Giá thuốc lá và bia rượu rẻ nhất thế giới.
  10. Xin các bạn đọc bài “23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam”.

Vậy theo các bạn, ai đã giải phóng ai?

Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông

Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông

Một tàu hải giám Trung Quốc truy đuổi một tàu của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 2014.

Một tàu hải giám Trung Quốc truy đuổi một tàu của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 2014.

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố Washington lo ngại việc Trung Quốc đang dùng sức mạnh và tầm vóc của mình để gạt ra các nước nhỏ hơn cùng có tuyên bố chủ quyền các khu vực ở Biển Đông.

Phát biểu tại một buổi họp công nhân chuyến thăm Jamaica hôm qua, ông Obama nhấn mạnh Washington quan ngại rằng Bắc Kinh không nhất thiết tuân thủ các quy định và chuẩn mực của quốc tế, buộc các nước phải chịu dưới thế của Trung Quốc.

Những dự án của Trung Quốc khẩn trương bồi đắp, cải tạo đất xung quanh các bãi đá ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông khiến các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền tại đây như Việt Nam và Philippines báo động.

Ông Obama nói: “Chúng tôi cho rằng việc này có thể được giải quyết qua con đường ngoại giao, nhưng chỉ vì Philippines hay Việt Nam không lớn như Trung Quốc không có nghĩa là những nước này có thể bị hất qua một bên.”

Tổng thống Obama nhấn mạnh Hoa Kỳ không có quan điểm riêng biệt về các tranh chấp chủ quyền, chỉ mong muốn tất cả các bên sử dụng các cơ chế sẵn có trên quốc tế để giải quyết tranh chấp.

Trung Quốc bênh vực việc họ cải tạo đất đai tại các đảo có tranh chấp, nói rằng chỉ thực hiện công tác ‘xây dựng và bảo trì.’

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, tuyên bố: “Hoạt động xây dựng và bảo trì của chính phủ Trung Quốc tại một số nơi ở quần đảo Trường Sa chỉ chủ yếu nhằm cải thiện những chức năng liên hệ của các đảo, cải thiện tiêu chuẩn sinh sống và làm việc của đội ngũ nhân sự trú đóng tại đây, đảm bảo tốt hơn chủ quyền hàng hải và lãnh thổ của Trung Quốc, giúp hoàn thành tốt hơn công tác tìm kiếm-cứu hộ, ngăn ngừa thảm họa, cứu trợ, nghiên cứu khoa học biển, theo dõi khí tượng, bảo vệ môi trường, an ninh hàng hải, các dịch vụ sản xuất đánh bắt, và những trách nhiệm-nghĩa vụ quốc tế mà chúng tôi đang thực hiện. Hoạt động xây cất liên hệ là vấn đề hoàn toàn nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, công bằng, hợp lý, hợp pháp, không ảnh hưởng và cũng không nhắm mục tiêu chống lại bất kỳ quốc gia nào, không thể chê trách vào đâu được.”

Phát biểu với báo giới hôm qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao  Mỹ, Jeff Rathke, cho biết giới chức hoa Kỳ lo rằng Trung Quốc có thể tiến hành quân sự hóa các đảo mà họ bồi đắp nhằm củng cố tuyên bố chủ quyền của họ tại những vùng có tranh chấp.

Tổng thống Obama nói bất chấp những tranh chấp với Bắc Kinh, sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đóng một vai trò tích cực trên thế giới và rằng Hoa Kỳ hoan nghênh các khoản đầu tư hỗ trợ của Bắc Kinh trên toàn cầu.

Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc có phần chắc đang xây dựng các đường băng tại những nơi từng là khu vực có cây cối rậm rạp, xây cảng cùng các nhà kho dự trữ nhiên liệu.

NỖI OAN TÔMA

NỖI OAN TÔMA

GM Vũ Duy Thống

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng.  Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma;” thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma.” Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin,” được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. Lạy Chúa Tôi, Lạy Thiên Chúa Của Tôi

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa.” Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự đặt vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.  Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông.  “Nếu tôi không thấy… tôi không tin. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ.  Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn.  Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác.  Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành.  Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn.  Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. Đừng Cứng Lòng, Nhưng Hãy Tin

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu.  Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa.  Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin.  Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả?  Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ.  Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín!  Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực.  Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt.  Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống.  Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. Phúc Cho Kẻ Không Thấy Mà Tin

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình.  Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa.  Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.  Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân.  Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa.  Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy.  Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác.  Quả là vất vả.  Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm.  Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh.  Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó.  Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh.  Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin.  Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?  Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma.  Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

GM Vũ Duy Thống

“CON CÁI KHÔNG BAO GIỜ LÀ MỘT ‘LẦM LỖI’”!

“CON CÁI KHÔNG BAO GIỜ LÀ MỘT ‘LẦM LỖI’”!

Chuyển ngữ: Trần Mỹ Duyệt

Vatican City, April 08, 2015 (Zenit.org)

Trích từ bản dịch của ZENIT huấn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi triều yết chung tại quảng trường Thánh Phêrô

Mến chào toàn thể anh chị em!

Hôm nay, kết thúc loạt bài giáo lý về gia đình, chúng ta hướng về

con cái, những hoa quả tuyệt vời

do phúc lành mà Thượng Đế đã ban cho người nam và người nữ. Chúng ta đã nói về hồng ân cao cả của con cái.

Tuy nhiên, hôm nay chúng ta bắt buộc phải nói về

“những câu chuyện buồn” mà nhiều em đang phải trải qua.

Có quá nhiều trẻ em bị loại bỏ ngay từ trong trứng nước, bị coi thường, bị tước đoạt tuổi thơ và tương lai của các em.

Một số, có thể nói là, hầu hết đã tự biện minh rằng đem chúng vào thế giới này là một lầm lỗi.

Điều này rất đáng xấu hổ!

Làm ơn, xin đừng trút bỏ những lỗi lầm của chúng ta trên con cái!

Con cái không bao giờ là một “lầm lỗi”.

Sự đói khát của các em không phải là một sai lầm, cũng như sự nghèo túng của các em. Sự mỏng dòn của các em, tình trạng bị bỏ rơi các của em cũng vậy — quá nhiều em bị bỏ rơi trên các đường phố.

Cả tình trạng dốt nát hoặc thiếu khả năng của các em cũng thế — có nhiều em không biết đến trường học là gì.

Đó là những lý do để chúng ta thương các em hơn, với lòng quảng đại lớn lao hơn.

Chúng ta đang làm gì trong những tuyên ngôn long trọng về nhân quyền của con người và của các trẻ em, nếu chúng ta trừng phạt các em vì những lỗi lầm của người lớn?

Đối với những người có trách nhiệm để điều hành, giáo dục — nhưng theo cha, tất cả chúng ta là những người lớn có trách nhiệm đối với các em, và mỗi người trong chúng ta hãy làm những gì mà anh chị em có thể làm để thay đổi tình trạng này.

Cha đang nói đến “cuộc khổ nạn” của các em.

Mỗi một em bị bỏ rơi, gạt ra ngoài lề xã hội, sống trên vỉa hè ăn xin và bằng với tất cả phương cách, không học hành, không có sự săn sóc thuốc men, đang kêu lên đến Chúa và tố cáo hệ thống mà những người lớn chúng ta đã xây nên.

Và, bất hạnh thay, những trẻ em này là mồi ngon cho tội ác,

cho những kẻ khai thác các em vào những đường dây bất chính hoặc trục lợi, hoặc huấn luyện các em cho chiến tranh và bạo động.

Trong các nước được gọi là giầu có, dù thế, trẻ em cũng đang sống trong những thảm kịch khiến các em gặp phải khó khăn do thảm họa của gia đình, thiếu giáo dục và những điều kiện sống nhiều lúc vô nhân đạo.

Trong những trường hợp này, các em bị xúc phạm đến thân xác và linh hồn!

Tuy nhiên, Chúa Cha là cha trên trời không bỏ quên một em nào trong các em! Không giọt nước mắt nào của các em bị lãng quên.

Và Ngài cũng không bỏ qua những trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm xã hội của con người, của mỗi người chúng ta, và của các quốc gia.

Một lần Chúa Giêsu đã trách mắng các tông đồ vì các ông đã xua đuổi các trẻ em mà cha mẹ chúng đã dẫn đến với Ngài, để Ngài chúc lành cho các em.

Đoạn Tin Mừng đầy xúc động:

“Bấy giờ các em được mang đến với Người để Người đặt tay trên chúng mà cầu nguyện. Các môn đệ lên tiếng trách móc dân chúng; thế nhưng Chúa Giêsu đã nói: ‘Hãy để trẻ em đến cùng Thày, đừng ngăn cản chúng; vì ớc trời thuộc về những ai giống như chúng’. Và Người đã đặt tay trên chúng rồi ra đi” (Mathêu 19:13-15).

Sự tin tưởng của những cha mẹ này và câu trả lời của Chúa Giêsu dễ thương biết bao!

Cha mong ước biết bao cho đoạn Tin Mừng này trở nên câu truyện thường ngày của các em!

Điều xác thực là, cảm ơn Chúa, những trẻ em gặp những khó khăn trầm trọng thông thường có những cha mẹ phi thường, quảng đại sẵn sàng hy sinh.

Dù vậy, không nên để những phụ huynh này bị cô đơn. Chúng ta phải nâng đỡ nỗ lực của họ, chia sẻ với  họ những giây phút vui vẻ và cái hạnh phúc được quan tâm, để họ không trở nên mồi ngon cho những phương thức trị liệu lập đi lập lại.

Trong bất cứ trường hợp nào, khi đó là vấn đề liên quan đến trẻ em, chúng ta không chỉ nghe những luận điệu bao che của luật pháp, thí dụ:

“Dù sao, chúng tôi không phải là một cơ quan an sinh duy nhất”;

hoặc “Một cách riêng tư, mỗi người được tự do hành động theo ý mình”;

hoặc “Chúng tôi không chấp nhận điều này, nhưng chúng tôi cũng không thể làm gì hơn.”

Những lời lẽ như vậy không đúng trước một câu hỏi liên quan đến các em.

Rất thường xuyên những hệ quả của đời sống bị căng thẳng bởi sự bấp bênh hoặc công việc rẻ mạt, của những giờ giấc khác thường, của phương tiện di chuyển hạn hẹp, đều đổ trên các em…

Nhưng các em cũng trả giá cho những cuộc phối hợp thiếu trưởng thành, và những chia rẽ vô trách nhiệm:

Các em đã trở thành những nạn nhân đầu tiên.

Các em đau khổ do thành quả của nền văn minh bởi những quyền lợi chủ quan quá khích,

và rồi khiến các em trở nên những đứa trẻ ranh mãnh nhất.

Các em thường xuyên hấp thụ sự bạo động mà các em không thể “tiêu hóa” nổi, và dưới cặp mắt của những người lớn tuổi,

các em bị bắt buộc để trở thành dầy dạn với sự suy đồi.

Ở thời đại chúng ta cũng như trong quá khứ, Giáo Hội lấy tình từ mẫu mà phục vụ các em và gia đình các em. Giáo Hội đem lại cho cha mẹ và con cái của thế giới chúng ta phép lành của Thiên Chúa, sự dịu hiền từ mẫu, kiên định chối từ và kết án mạnh mẽ.

Chúng ta không nên đùa giỡn với các em.

Hãy nghĩ xem xã hội hội sẽ ra sao để quyết định thiết lập một và tất cả những nguyên tắc này:

“Sự thật là chúng ta bất toàn và rằng chúng ta có nhiều khuyết điểm.

Tuy nhiên, khi một nghi vấn về trẻ em đến với trần gian, thì không có sự hy sinh nào của người lớn được xem là quá đắt đỏ hoặc lớn lao,

nhằm tránh cho một em khỏi phải nghĩ rằng

em là một lầm lỗi, rằng em không có giá trị

và rằng em bị bỏ rơi trước những vết thương của cuộc đời và của sự ngạo mạn của con người.”

Tuyệt vời biết bao một xã hội như thế! Một xã hội như vậy đáng được tha thứ, những lỗi lầm vô số kể — nhiều lắm, thật vậy.

Thiên Chúa phán xét đời sống chúng ta bằng cách lắng nghe những gì các thiên thần trình lại cho Ngài về các trẻ em, các thiên sứ mà “hằng chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha Đấng ngự trên trời” (xem Mátthêu 18:10).

Chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:

Các thiên thần của các em sẽ nói gì với Thiên Chúa về chúng ta?

[Original text: Italian]

[Translation by ZENIT]

http://www.zenit.org/en/articles/general-audience-on-the-passion-suffered-by-children

Mời tiếp tục vào thăm trang nhà: www.giadinhnazareth.org

Quên mình là ai

Quên mình là ai

GS Nguyễn Văn Tuấn

Không biết các bạn thì sao, chứ mỗi lần nghe tin một ông/bà “lãnh đạo” đi thăm Tàu là tôi thấy… sờ sợ. Cái xứ đó có quá nhiều cạm bẫy, và họ cũng có truyền thống lâu đời bày mưu tính kế để hãm hại người khác (và họ làm rất tốt). Nhớ lần trước, khi ông Nông đi thăm Tàu và kí kết mấy dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, mà bây giờ chúng ta biết là đã sập bẫy của Tàu. Nay đến ông Nguyễn sang đó. Sau màn tay bắt (có khi dùng cả hai tay!) mặt mừng với “bạn”, ôngtuyên bố một cách khẳng định rằng “Việt Nam hoan nghênh và mong muốn TQ tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam, nhất là có những dự án đầu tư lớn, công nghệ hiện đại tiên tiến, ưu tiên trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo, công nghiệp phụ trợ” (*). Nghe qua thì chẳng khác gì rước họ về làm tất cả cho chúng ta. Đã hơn 60 năm qua, VN đã ăn quá nhiều quả đắng của kẻ thù truyền kiếp này, vậy mà nay lại có người muốn rước họ vào để có thêm quả đắng! Không có một logic nào, không có một lương năng bình dân nào, và không có một lợi ích dân tộc nào có thể giải thích cho sự mời mọc đó.

Điều càng buồn cười hơn là ngài tổng Nguyễn hình như quên mình là ai. Bằng chứng là ông “Thay mặt Đảng và Nhà nước Việt Nam” mời cái tên họ Tập thăm VN. Tôi cứ tưởng ông là đảng trưởng, chứ đâu phải là thủ tướng hay chủ tịch Nước đâu mà thay mặt Nhà nước được. Tôi nghĩ sự việc nhỏ này nó một lần nữa nói lên sự lẫn lộn, nhập nhằng giữa độc đảng và Nhà nước, và sự nhập nhằng đó thậm chí làm cho người trong hệ thống cũng đôi khi quên mình là ai!

Nếu các bạn đã quên thì xin nhắc lại rằng chính cái tên họ Tập mà ông tổng Nguyễn mời này nó đã cho giàn khoang HD-981 xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Cũng không nên quên rằng trong thời gian “dầu sôi lửa bỏng” HD-981, khi ông tổng Nguyễn xin phép gặp nó thì nó từ chối không cho gặp, thậm chí nó còn từ chối nói chuyện qua điện thoại. Vậy mà, đùng một cái khi ông Nguyễn sắp đi thăm Huê Kì thì Tập gọi ông sang để nói chuyện! Phải nói đó là một cách thể hiện tư cách bề trên rất tuyệt vời. Nó (tên Tập) chọn thời điểm, chọn người, và chọn nội dung để nói chuyện, chẳng khác gì thượng cấp gọi thuộc hạ đến hầu chuyện vậy.

Thật ra, chuyện tên Tập thể hiện tư cách “bề trên” là chuyện của Tàu, nhưng vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam lại ngoan ngoãn để cho nó thể hiện cái tư cách bề trên đó và sẵn sàng trở thành diễn viên phụ trong vở kịch bề trên đó mới là chuyện chúng ta đáng phải suy nghĩ. Có lẽ vài lãnh đạo Việt Nam đã quên mình là ai và làm việc vì lợi ích của ai chăng?

N. V. T.
(*) http://vietnamnet.vn/…/viet-trung-duy-tri-dai-cuc-quan-he.h…

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?*

Tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?*

Quốc dân tỉnh thức

Lê Doãn Cường

“Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng” – Martin Luther King Jr.

Đêm nằm thao thức, nghĩ về sự vụ đình công, biểu tình của hàng chục ngàn công nhân [theo một số nguồn tin là 90.000] ở công ty PouYuen, quận Bình Tân mà tâm trạng bất an, không thể ngủ được. Hôm nay đã sang ngày thứ năm rồi! Họ đang phản đối Điều 60 phi lý – bất công Luật Bảo hiểm Xã hội, thông qua ngày 20/11/2014, mà tôi cũng chưa có thời gian để rà soát, liệu còn những điều luật nào kiểu vậy nữa không trong các luật mới được thay đổi này. Vì từ ngày sửa đổi Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các bộ luật, luật đã được Quốc hội chuẩn y, thông qua.

Thật không thể hiểu được! Khi mà luật còn đang trong quá trình thảo luận ở nghị trường, quý vị đại biểu của nhân dân, đại diện cho quyền lợi giai cấp công nhân đang nghĩ gì, ở đâu? Còn các luật sư, các nhà nghiên cứu luật pháp – những con người am tường về luật lệ nước Nam, các vị đang làm gì?

Đúng là không thể tưởng tượng!

Sinh ra làm gì cái bọn “đầy bồ” chữ nghĩa, cử nhân – thạc sỹ – tiến sỹ, mà suốt ngày chỉ biết bo bo vào máng ăn, chỗ ngủ, quẩn quanh trong chuồng như những con lợn. Mang danh phận là những kẻ có học thức – tri thức, bằng này chức nọ, ăn ngon mặc đẹp, ở nhà lầu đi xe sang nhưng lại đang sống nhờ hơi thở của chính những người công nhân, những người lao động nhọc nhằn, những người được xem là ít học, lương “ba cọc ba đồng”, sống chui rúc trong những ổ tò vò, công việc bấp bênh, cuộc sống bất định.

Họ – chính họ chứ không ai khác đang tranh đấu cho xã hội này công bằng và dân chủ hơn.

Càng nghĩ lòng dạ càng rối bời…

Suốt từ Bắc chí Nam, những tháng ngày qua đã xảy ra không biết bao nhiêu sự vụ từ giặc Tàu xâm lấn biển đảo, bắt bớ ngư dân, đánh phá tàu thuyền Việt Nam đến tham nhũng, bất công – bất cập hiện diện đầy trên mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông vận tải, tài chính – ngân hàng, giải tỏa đất đai – đền bù, tư pháp và cả lực lượng vũ trang… Không phải chỉ giai đoạn bây giờ mà bao nhiêu năm rồi, những cái ung nhọt – u thối đang phát tán, triển nở rộng khắp trên mọi mặt đời sống xã hội. Những ngày gần đây là kế hoạch chặt đốn 6700 cây xanh tại Hà Nội, hàng trăm công dân Thủ đô xuống đường tuần hành phản đối [1]. Sập giàn giáo tại khu công nghiệp Formosa, khu Kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh làm 13 người chết, đây chính là đặc khu kinh tế mà nhà đầu tư Đài Loan – Trung Quốc đã thuê trong thời hạn 70 năm [2]. Rồi việc tập đoàn Sun Group thuê 200 hecta đất trên Bà Nà khai thác du lịch, ngăn cấm mọi người đi bằng con đường bộ. Muốn lên Bà Nà người dân chỉ còn cách mua vé của Bà Nà Hills với giá 500 ngàn đồng (350 ngàn với người Đà Nẵng) bao gồm phí cáp treo và phí dịch vụ du lịch. Trong lúc ấy, người ta không hề có ý định muốn tham quan hay sử dụng dịch vụ của “mấy bác” Sun Group mà chỉ muốn lên Bà Nà thưởng ngoạn, đi dã ngoại hay viếng chùa Linh Ứng [3]. Rồi mưa lũ trái mùa, xả lũ thủy điện làm hàng ngàn hecta hoa màu ngập úng, nông dân Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi mất trắng mà chưa thấy thống kê thất thoát là bao nhiêu. Trong khi đó, tỉnh Quảng Nam cho khánh thành tượng Mẹ Việt Nam anh hùng với tổng kinh phí khoảng 410 tỷ đồng, Đà Nẵng thì chi hơn 18 tỷ đồng mở tiệc toàn thành phố mừng 40 năm ngày “giải phóng”, nghe đâu người ta còn chuẩn bị xây dựng tháp truyền hình cao nhất thế giới ở Hà Nội…

Tiếp theo là dự án Bôxít Tây Nguyên, dự án gây ra nhiều tranh cãi từ bảy, tám năm nay. Theo dự tính của các chuyên gia, dự án này đã “sập bẫy giá rẻ” của nhà thầu Trung Quốc [có thể lỗ hàng ngàn tỷ đồng] trong khi VTV vẫn truyền tin lời Thủ tướng là “quốc kế dân sinh” còn Bộ Công Thương thì báo cáo – “lỗ theo kế hoạch” [4]. Lợi nhuận dân sinh đâu chưa thấy nhưng hiển nhiên, chỗ nào cũng thấy có mặt, góp công sức, cắm dùi rễ của ông “bạn vàng” Trung Quốc. Phải chăng chúng ta đang tạo công ăn – việc làm, chốn định cư cho chính sách di dân của chính phủ Bắc Kinh [chuyển dịch tầng lớp nghèo, nhận thức thấp ra nước ngoài]? Tiếp nữa là vụ việc nước giải khát của đại gia Tân Hiệp Phát có cặn bẩn, ruồi nhặng, gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Đã thế, đại gia này lại còn rất “fair play” khi bắn tin cho cơ quan an ninh, bắt quả tang người tiêu dùng đang chơi trò “tống tiền” nhà sản xuất. Rốt cuộc, nạn nhân bị truy tố với tội danh “cưỡng đoạt tài sản”, trường hợp anh Võ Văn Minh ở An Giang, anh Nguyễn Quốc Tuấn ở TP Hồ Chí Minh [5]. Đến Đồng Nai thì có dự án lấp sông “Rất kinh khủng” của đại gia Toàn Thịnh Phát. Độ kinh khủng của dự án này ở chỗ, việc triển khai có thể dẫn đến phá vỡ kết cấu dòng chảy, tác động xấu đến môi sinh tự nhiên, nguy cơ gây ra lũ lụt, biến đổi khí hậu là hiển hiện, vậy mà các nhà chuyên môn, người dân trong vùng lại không được thông qua và không hề biết tới [6]. Ngay cả trên phương diện pháp lý, việc cấp phép cho dự án của UBND tỉnh Đồng Nai cũng không căn cứ trên Luật Tài nguyên nước. Trong lĩnh vực tư pháp, thời gian qua, các án “nghi oan sai” bị phanh phui hàng loạt, tiêu biểu điển hình có vụ anh Hồ Duy Hải ở Long An, ông Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Phòng, ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang [7]. Rồi công an – an ninh bức cung, dùng nhục hình gây chết người, nghi can chết trong đồn công an chưa rõ lý do, tiêu biểu là vụ án năm công an tỉnh Phú Yên dùng nhục hình dẫn đến cái chết của anh Ngô Thanh Kiều. Luật sư Võ An Đôn, người bảo vệ gia đình nạn nhân, vì các kiến nghị đề nghị khởi tố, yêu cầu từ chức đối với mấy vị lãnh đạo công an tỉnh Phú Yên mà bị các cơ quan Nội chính tỉnh nhà gây áp lực, thanh tra văn phòng luật và kiến nghị “đòi” rút giấy phép hành nghề. Từ vụ việc này, luật sư Võ An Đôn đã nổi tiếng trong và ngoài nước, qua đó, mới thấy giá trị công lý ở nước Nam ta là “đãi cát tìm vàng”, tiếng nói của một người dân là “thấp cổ bé họng” chừng nào.

Thưa các bạn, tất cả mọi vấn đề đều ảnh hưởng, tác động đến quyền lợi của chúng ta, quyền tự do lựa chọn – quyết định các vấn đề xã hội, lợi ích xác đáng – hợp pháp của công dân. Thế nhưng, tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?

Liên quan đến vấn đề giao thông, cần nói trước tiên là sự nhũng nhiễu, vòi tiền của cảnh sát giao thông, vòi không được thì tìm cách “núp lùm” để bắt quả tang người dân sai phạm. Có lẽ, đây không phải là phương thức hành xử của những người muốn xây dựng xã hội văn minh, thượng tôn pháp luật; nó là cách thức để gặt hái chỉ tiêu hoặc muốn “kiếm tí” từ “ông chủ” của mình. Đã thế, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thuyên, Cục trưởng Cục CSGT Đường bộ – Đường sắt, còn phát biểu rất khẳng khái “nhận dăm ba chục, một vài trăm chưa thể gọi là tham nhũng”. Trong lúc đó, số người tử vong vì tai nạn giao thông năm 2014 là gần 9000 người, năm 2013 là 9369 người [8], vượt quá số tử vong vì chiến sự tại Ucraina – 6600 người [theo số liệu của chính quyền Kiev, còn số liệu của LHQ đến 11/2014 là 4317 người]. Rõ ràng, không thể nói cuộc sống ở Việt Nam là an toàn, là không bất ổn. Người dân đi ra đường không sợ tai nạn giao thông thì cũng lo trộm cắp, cướp giật. Trộm cắp, cướp, hiếp, chém giết thì thông tin nhan nhản, ngày nào cũng giăng đầy các mặt báo.

Nhìn đến kinh tế, giáo dục, là các lĩnh vực trọng yếu của xã hội, cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Từ lâu, trên thị trường, đã tràn ngập hàng hóa chứa hóa chất độc hại xuất xứ từ ông “bạn vàng” Trung Quốc, đủ các loại: rau, củ, quả, hàng tiêu dùng, may mặc, v.v. Chúng đa phần giá rẻ, phù hợp với lớp đối tượng thu nhập trung bình – thấp tại Việt Nam, và không ngoại lệ người giàu vẫn phải xài hàng Tàu độc hại. Nền kinh tế, một mặt, không chế tác được sản phẩm công nghiệp để bước ra sân chơi thế giới, mặt khác, cũng không sản xuất nổi sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp FDI. Cuối năm rồi, nhân việc tập đoàn Samsung đưa ra danh mục 170 phụ kiện cung ứng mà không tìm được nhà cung cấp Việt Nam thỏa mãn yêu cầu, ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, đã khẳng định với bàn dân thiên hạ “chúng ta sản xuất được ốc vít rồi!”. Sản xuất được đấy, nhưng có đáp ứng được các tiêu chuẩn công nghiệp và chuỗi giá trị của Samsung hay không là chuyện khác. Chúng ta đang “đá cùng sân” với các bạn quốc tế, chúng ta không thể tự sống, tự sản xuất hay tự tiêu dùng theo kiểu tự mình, theo các chuẩn mực của riêng mình được, thưa các đồng chí! Giờ đây, bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chính là gạo, cà phê, thủy sản, dệt may và nguyên liệu thô, đất nước ta còn có thế mạnh về xuất khẩu lao động phổ thông, trọng về cơ bắp. Phụ nữ thì sang các nước láng giềng làm ô-sin, kẻ nhẹ dạ cả tin thì bị lừa làm gái, nhiều người ở trong nước làm hàng hóa cho quý ngài từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan sang chọn vợ [9]. Theo số liệu từ Đồng hồ nợ công thế giới tháng 3/2015, nợ công hiện tại của Việt Nam chiếm 46,7% GDP và tính trên đầu người là 972,2 USD, tốc độ tăng nợ hằng năm là 10,1%. Trong khi GDP bình quân đầu người là gần 2000 USD/năm, trong khu vực ASEAN ta hơn Lào, Campuchia, Đông Timo và Myanmar nhưng đồng thời, nợ công gộp trên GDP chỉ đứng sau Singapore, Malaysia và Lào [10]. Việt Nam, rõ ràng, không thể so sánh với Singapore và Malaysia khi GDP bình quân đầu người của họ khoảng 58.000 USD và 12.000 USD.

Tôi tự hỏi mình, chúng ta lấy gì để chi trả?

Mỗi người chúng ta một năm làm ra 2000 USD, trả nợ gần 1000 USD còn hơn 1000 USD, liệu có đủ trang trải cho mọi nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hay không? Đó là chưa kể, ngay từ lúc bạn sinh con ra, bản thân nó đã phải gánh trên mình món nợ 1000 USD mà người chi trả không ai khác chính là bạn. Người khác vay vì có năng lực tài chính, còn mình – năng lực gì mà đòi trả nợ? Nếu bạn là người ưu việt – xuất sắc, tôi không nói; bằng ngược lại, bạn cũng như tôi – những con người với trí tuệ và năng lực bình thường, một khi mà “rừng vàng biển bạc” không còn nữa, một khi mà môi trường dân sinh của chúng ta càng ngày càng tệ hại, khi đó bạn chỉ còn cách đem sức “trâu” ra để “cày cuốc” ngày đêm. Chưa trả được, món nợ này sẽ truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ năm 2011 lại đây, tốc độ nợ công tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ, mỗi năm bình quân 20% trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,8% [11]. Theo các chuyên gia kinh tế, cách tính nợ hiện tại là theo kiểu Việt Nam [theo định nghĩa của Luật Quản lý nợ công] còn theo định nghĩa quốc tế thì phải trên 100% GDP, vượt xa ngưỡng nợ công 65% GDP mà Chính phủ đưa ra [12]. Đó là các chỉ số vĩ mô còn trong thực tế, thuế phí vẫn tăng đều đều, vật giá liên tục leo thang…

Cách đây 6 tháng, Ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đã có một phát khiến chúng ta không thể không suy nghĩ: “Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại Việt Nam làm ông chủ, làm quản lý, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin”.

Thưa các bạn, vì đâu đất nước ta nên nỗi?

Cũng nhân vụ việc con “ốc vít” của tập đoàn Samsung, có người tếu táo rằng: “Việt Nam chỉ sản xuất được giáo sư, tiến sỹ chứ không giỏi làm sạc pin, ốc vít”. Thật vậy, theo thống kê năm 2013, Việt Nam có khoảng 9.000 GS và PGS, 24.300 TS, 101.000 thạc sỹ, trong đó có 5,6% GS/PGS công tác trong các trường đại học, hơn 9.000 TS là giảng viên các trường cao đẳng, đại học [13]. Vậy số GS/PGS, TS còn lại đi đâu? Câu trả lời chỉ có thể là ở các viện, các hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan chính quyền. Chưa có một số liệu thống kê cụ thể nào nhưng một điều chắc chắn rằng, người Việt ta vốn sính trọng bằng cấp, háo danh, sỹ hảo nên các vị chức vụ thấp bé chưa có hàm – vị thì mua điểm, chạy bằng, đi thầy. Khi có hàm – vị rồi thì không làm công tác giảng dạy, nghiên cứu [đương nhiên, vì làm gì có kiến thức] mà muốn trở thành nhà quản lý, lãnh đạo. Hàm – vị chỉ còn là cái mác để leo cao còn chức tước với họ mới là cái đích thật. Chức tước càng cao, oai quyền càng lớn, người ta càng hãnh tiến với đời.

Đây phải chăng là cái vòng luẩn quẩn của giáo dục Việt Nam, của trí thức xã hội Việt Nam?

Có người đã phải than, số lượng GS – TS chúng ta nhiều nhất Đông Nam Á, nhưng không có trường ĐH nào vào “Top 500” trường ĐH hàng đầu của thế giới. Mới gần đây, Học viện Chính trị Bộ quốc phòng vừa trao bằng tiến sỹ các chuyên ngành Lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng, chủ nghĩa Mác – Lê cho 36 vị “ưu tú” nữa. Có lẽ người ta đang chạy đua đến thành tích 20.000 TS vào năm 2020 của Bộ Giáo dục để đủ sức chắp cánh cho nền giáo dục Việt Nam. Người ta đang hậm hực vì một đất nước hơn 90 triệu dân mà số lượng các bài báo công bố quốc tế hằng năm chỉ khoảng bằng một trường đại học ở Thái Lan. Theo nguồn dữ liệu từ viện Thông tin Quốc tế ISI, trong năm 2012, Việt Nam có 1731 bài báo công bố quốc tế, trong khi của Thái Lan là 5804 bài, Malaysia – 7828 bài và Singapore – 10125 bài [14]. Theo thống kê của Bộ KH-CN, trong 5 năm (2006 – 2010) Việt Nam có 5 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ, năm 2011 không có cái nào, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á khác như Singapore – 647 bằng sáng chế, Malaysia – 161, Thái Lan – 53 và Philippines – 27 bằng sáng chế [15].

Trông lên rồi cũng phải trông xuống, trong nước, có người hai – ba bằng đại học, bằng cao học vẫn thất nghiệp dài. Cử nhân, thạc sỹ bươn chải đủ nghề để kiếm sống, làm bưng bê, bồi bàn, phụ bếp cũng không thiếu. Chất lượng đào tạo không đảm bảo, sinh viên ra trường thiếu kiến thức, kỹ năng, không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Sách vở giáo dục trẻ em bị khui ra hàng loạt những sai sót vô tất trách, thiếu nhân bản, mang tính dung tục, kích động bạo lực. Học sinh, sinh viên thuộc sử Tàu hơn sử Việt, hâm mộ diễn viên, người mẫu hơn các vị anh hùng dân tộc. Tình trạng bạo lực học đường xảy ra liên miên, nam sinh cũng như nữ sinh, từ đánh nhau đến đánh ghen, lột đồ, v.v. Học trò thì đánh chửi thầy cô, mà thầy cô thì cũng không thua kém, thậm chí còn làm tiền, làm tình từ những học sinh, sinh viên. Sách vở giáo khoa, chương trình học tập thì cải cách, sửa đổi liên tục. Nền giáo dục quốc dân rơi vào khủng hoảng hệ thống, thiếu triết lý giáo dục căn bản, áp đặt định hướng chính trị, không phát huy được tư duy tự do, phản biện, sáng tạo nên luôn loay hoay ở nhóm chót, bảng xếp hạng khu vực ASEAN. Những ai còn quan tâm đến giáo dục, xin hãy tìm đọc các bản kiến nghị năm 2004, 2009 của GS Hoàng Tụy cùng những trí thức khác để hiểu rõ hơn về thực trạng giáo dục Việt Nam.

Hiện tại, nhắc đến Việt Nam người ta hay nhắc đến kỷ lục. Chúng ta có rất nhiều kỷ lục “Top nhất” trong khu vực và thế giới như tô hủ tiếu lớn nhất, cái bánh chưng – bánh dày – bánh xèo to nhất, cây cầu đẹp nhất, ngôi chùa lớn nhất, giá bất động sản cao nhất, giá thịt heo – thịt bò, giá sữa, giá thuốc Tây đắt nhất, lãi suất “khủng” nhất, tỷ lệ nạo phá thai cao nhất, tai nạn giao thông nhiều nhất, trộm cắp vặt nhiều nhất, tiêu thụ bia nhiều nhất, GS – TS nhiều nhất, tướng lĩnh nhiều nhất, năng suất lao động thấp nhất, v.v. Nhưng các chỉ số phát triển thuộc về thế giới văn minh thì luôn trong “Top bét” [các chỉ số về chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, sự thịnh vượng, phát triển con người].

Có thể nói, nhiều không kể xiết mà tôi chỉ có thể lược ra đây một số. Thực trạng xã hội Việt Nam rất cần đến sự quan tâm, sẻ chia thông tin và trao đổi nhận thức của mọi người, cần sự thức tỉnh của lương tri để gánh vác, xây dựng môi trường dân sinh [16].

Trong khi đó, chúng ta:

Nam thanh, nữ tú hâm mộ K-pop thì khóc lóc, sung sướng vì thần tượng xứ Hàn mà không biết những anh hùng “vị quốc vong thân” trong Hoàng Sa 1974, Biên giới Việt Nam 1979, Gạc Ma 1988. Nhớ đến những lễ tiệc đình đám, sự kiện rình rang của “hot girl”, “hot boy” showbiz mà quên đi những công lao to lớn của các bậc tiền liệt Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Thanh niên, sinh viên không lô đề, cá độ, bài bạc thì cũng nhậu nhẹt bù khú, chơi game thâu đêm suốt sáng, ngày nào cũng như ngày nào. Tiền của bố mẹ thì tiêu xài hoang phí, đua đòi theo những mốt thời thượng, quỹ thời gian không lo học hành tích lũy kiến thức mà thả hồn vào những thứ vô bổ, tụ tập ngắm gió, thưởng mây. Trong lúc đó, người là cha mẹ, là cô dì, chú bác, anh chị ngày này qua ngày khác chỉ biết đến tiền, nghĩ đến tiền, hùng hục kiếm tiền và chỉ cần tiền. Người ta lấy chữ “tiền” làm mục tiêu đeo đuổi, dùng chữ “tiền” làm phương tiện tiến thân, người ta xem nó như là một đức tin, cả xã hội tha hóa vì nó. Kẻ chức trách, cán bộ, Đảng viên thì tìm cách chạy chọt, đút lót, xây dựng ban bệ – ô dù, lo đường thăng quan tiến chức, miệng lưỡi phân bua, chối bỏ trách nhiệm, ganh ghét – đố kỵ lẫn nhau, lừa trên dối dưới, quỵ lụy với kẻ trên mà quan quyền với người dưới. Thân là công bộc của dân, hưởng lương từ nhân dân mà không đoái hoài đến cuộc sống quốc dân, âu lo việc nước, ưu tư xã hội. Lúc nào cũng chăm chăm tìm cách kiếm chác, vun vén tư lợi, “đục nước béo cò” rồi về vườn vui thú điền viên; kẻ giàu sang hơn thì xuất dương ra ngoại quốc, nhởn nhơ vui sống. Người làm đầu tư, kinh doanh thì “lót tay”, phong bì tạo mối quan hệ kiếm ăn, trục lợi, chân trong – chân ngoài cấu kết nhau, tranh chia phần trăm, đục khoét của công. Túm năm tụm bảy lại, nào là rượu bia, gái đẹp, chứng khoán, xe hơi, địa ốc; ngoài ra, chẳng còn đề tài gì hữu ích hơn để bàn. Đám được gọi học vấn, tri thức “đầy mình” – kẻ háo danh thì bon chen chốn quan trường thị phi, hưởng lộc dân mà tưởng nhờ ơn đảng, lúc nào cũng khư khư bảo vệ “sổ lương hưu”. Đứa bồi bút thì “khua môi múa mép”, đem chữ nghĩa lòe bịp thiên hạ, ức hiếp người trung chính. Kẻ hiểu biết thì tặc lưỡi “ốc không mang nổi mình ốc lại còn làm cọc cho rêu”, mặc kệ mớ đời, thân ta – ta cứ sống, không khi nào dám trườn mình ra khỏi vỏ. Lên mạng xã hội thì khoe ngực – khoe mông, khoe mẽ sự giàu sang sung túc, thú vui – tiêu khiển mà chẳng mảy may bận tâm gì đến thực tình quốc gia, thân phận con người. Bao nhiêu năm học hành, đèn sách mà chỉ chầu chực lương tháng – thưởng năm, tối về khuây khỏa vợ con, lấy “du sơn ngoạn thủy” làm niềm vui lẽ sống.

Thử hỏi các người có hổ thẹn với các bậc tiền nhân của dân tộc hay không? Có thấy vô trách nhiệm với con cháu mình mai sau hay không? Các người có biết thẹn với chính lương tri của mình không?

Thưa các bạn!

Ông Napoléon người Pháp quốc đã từng nói: Thế giới chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”.

Chúng ta, thấy việc chướng tai gai mắt, bất công – bất cập mà nhắm mắt làm ngơ, bàng quan vô tâm, tưởng giữ mình lấy phận thanh cao – là đang làm điều phi nghĩa. Chứng kiến những sai trái, xấu xa, phi pháp, phi nhân – yếu hèn không dám lên tiếng trung lương lại còn thu vén lợi riêng, hòa mình, tiếp tay là mang tội đồng lõa – đó là kẻ bất nghĩa.

Xã hội tha hóa không phải vì cái xấu, cái ác nhởn nhơ mà vì chính chúng ta – những con người nhu nhược không dám đấu tranh với chúng, không đủ khí dũng nói lên hai tiếng “công lý”.

Thưa tất cả các bạn!

Mặc định trong não trạng chúng ta là sự sợ hãi cường quyền, cố thủ trong căn tính chúng ta là chủ nghĩa vị kỷ, chúng ta vô tâm vì thiếu nhận thức tinh thần trách nhiệm.

Kính thưa các bạn!

Một dân tộc không thể tự cường khi người dân không có tinh thần tự cường. Một quốc gia không thể tự cường khi các công dân không có ý thức tự cường. Mỗi một công dân tự cường chính là nền tảng để xây dựng quốc gia tự cường, đó là tiền đề để kiến thiết quốc gia thịnh vượng.

Công dân tự cường – là người có tinh thần quốc dân, đó phải là sự kết hợp cân bằng – hài hòa giữa quyền lợi cá nhân, trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc.

Cuộc sống cá nhân của con người luôn bao gồm hai nhu yếu căn bản là vật chất và tinh thần, vật chất thì hữu hình mà tinh thần thì vô hình. Vật chất – đó chính là cái “lợi” [nghĩa là cái ích lợi, cần thiết] mà bất cứ ai trong chúng ta cũng cần, cũng muốn có, muốn sở hữu nó để tồn tại. Đó là nhu yếu về tiền bạc, nhà cửa, lương thực – thực phẩm, áo quần, vật dụng cá nhân và gia đình. Có những cái vật chất là sở hữu riêng bạn [lợi riêng, lợi cá nhân], do công sức lao động của bạn tạo ra nhưng đồng thời – có những cái vật chất do thiên nhiên ban tặng, do sự chung góp lại một cách đồng thuận của tất cả mọi người để sử dụng cho mục đích chung, cho lợi ích toàn thể xã hội [lợi chung]. Đó chính là sông núi, đất đai, biển đảo, khí hậu và cũng có thể là cầu cống, đường xá, văn phòng, phương tiện đi lại trang thiết bị của nhóm hội, tổ chức, cơ quan nhà nước. Còn tinh thần là gì? Xin thưa, nó xuất phát từ chữ “quyền” của bạn. Chúng ta sinh ra, ai cũng có “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [Tuyên ngôn Độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, 1776]. Tinh thần [tinh thần cá nhân] là nhu yếu thỏa mãn về cảm xúc cá nhân, an toàn cuộc sống, mong muốn tư hữu, được tôn trọng, được tự do thể hiện, tự do suy tưởng và mưu cầu hạnh phúc, lý tưởng cá nhân. Để đạt được tinh thần cá nhân chúng ta cần đến “quyền” [quyền cá nhân]. “Quyền” – là năng lực đòi hỏi, khát khao từ ý chí tự nhiên của con người. Đó là cái mặc nhiên ta có, không ai ban phát cho mà thành, không ai được phép tước đoạt nó trừ phi – bản thân mình tự hạn chế và chỉ mình – tự nguyện hạn chế nó để chung sống trong cộng đồng và xã hội. Và “quyền” là phổ quát, nghĩa là tất cả mọi người sinh ra đều có các quyền như nhau, đều cùng mong muốn, khát khao được tôn trọng, được tự do, được học tập, v.v. Không ai, không bất cứ một ai – được phép coi quyền cá nhân của mình tôn quý, giá trị hay uy quyền hơn của người khác [bình đẳng]. “Quyền” cũng chính là công cụ, là khí giới của mỗi người để tích lũy, duy trì và bảo vệ cái lợi cá nhân, cái “lợi” của cộng đồng và xã hội. Trên thực tế, hầu hết chúng ta chỉ lo nghĩ và vun vén lợi cá nhân chứ không phải quyền cá nhân. Thế nhưng, một khi miếng cơm manh áo [tức “lợi”] bị đụng chạm, xâm phạm trực tiếp – khi đó, người ta mới biết và sử dụng đến “quyền”. Trường hợp đình công ở công ty PouYuen, vụ anh Ngô Thanh Kiều và nước ngọt Tân Hiệp Phát là những ví dụ. “Lợi” có thể làm thõa mãn trước mắt nhưng “quyền” làm cho cuộc sống viên mãn lâu dài. Sở hữu “quyền”, bằng công sức lao động chính mình bạn sẽ thu được “lợi” một cách thỏa đáng. Ngược lại, không đủ “quyền” hoặc không có “quyền”, “lợi” – hoặc đã bị cắt xén mà chúng ta không hề hay biết hoặc chỉ còn là cái người ta ban phát cho mình. Như vậy, gốc rễ của quyền lợi cá nhân không phải nằm ở “lợi” mà nằm ở “quyền”, đấu tranh đạt được cái “quyền” là nền tảng để tích lũy cái “lợi”. Bởi vì, suy cho cùng, con người cần “lợi”, cần cái vật chất cũng chính để – đạt được tinh thần cá nhân. Trong xã hội, “quyền” và “lợi” cá nhân không thể tách bạch riêng rẽ mà phải phối hợp như một tổng thể điều hòa nhau để phát triển, cái này là bổ đề của cái kia và ngược lại. Quyền lợi cá nhân mỗi người nằm trong sự tương tác với toàn bộ xã hội.

Trước khi bàn về trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc, tôi xin lưu ý ở đây,quyền lợi xã hội bao gồm “quyền xã hội”“lợi xã hội” [quyền lợi quốc gia quyền lợi dân tộc cũng theo nghĩa này]. Trong đó, “lợi xã hội” chính là lợi chung, đã được đề cập ở trên còn “quyền xã hội [tinh thần xã hội] – không gì khác, mà chính là quyền cá nhân [tinh thần cá nhân], trên cơ sở quyền cá nhân vì “quyền” là phổ quát. Xã hội là gì nếu không phải cấu thành từ những cá nhân? Quốc gia là gì nếu không phải hình thành từ những công dân? Không có dân tộc, quốc gia, xã hội nào mà không được hình thành từ những con người, những gia đình và những cộng đồng người. Không thể tồn tại bất kỳ kiểu “quyền lợi xã hội”, “quyền lợi quốc gia” nào mà đứng ngoài quyền lợi cá nhân vì mỗi một cá nhân đều là chủ thể của xã hội. Và với bất kỳ kiểu quyền lợi nào như vậy mà tồn tại trong thế giới này, điều đó, hẳn nhiên – là đi ngược quy luật tự nhiên của xã hội, nghĩa là không lấy con người làm trung tâm của xã hội. Xác tín vậy mới thấy rằng, quyền lợi xã hội, quyền lợi quốc gia phải xuất phát từ quyền lợi cá nhân, trong đó – lấy tinh thần cá nhân làm nền tảng kiến thiết xã hội, vì “quyền” là gốc rễ. Và như vậy, quyền xã hội phải là tổng hòa quyền cá nhân. Tổng hòa không phải là phép cộng số học thuần túy mà là sự hòa hợp các “quyền” có ý thức [một cách duy lý].

Thứ hai, trách nhiệm xã hội là gì? Đó là tinh thần cá nhân có ý thức [tinh thần trách nhiệm] về sự ràng buộc ý chí, tương hỗ lẫn nhau giữa các cá thể trong xã hội [17]. Nghĩa là “quyền” phải thực thi trách nhiệm của một hay nhiều cá nhân nhằm duy trì, bảo vệ “quyền” và “lợi” xã hội mà thực ra là quyền lợi của mỗi người. Bởi vì, “quyền” và “lợi” mỗi cá nhân luôn quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến “quyền” và “lợi” của các cá nhân khác [quyền phổ quát, lợi chung]. Nếu cái lợi chung, được sở hữu và sử dụng bởi mọi người, bị chiếm dụng, định đoạt [hợp pháp hay bất hợp pháp] mà hầu hết không ai dám lên tiếng [vô trách nhiệm], thì lợi chung đó – dần dần sẽ trở thành sở hữu của các nhóm quyền lực hơn hoặc lợi chung sẽ bị hao mòn, tàn phá. Đó là trường hợp 6700 cây xanh, lấp sông Đồng Nai hay Bà Nà Hills, Bôxit Tây Nguyên… Vì tính chất lan truyền của xã hội [tâm lý đám đông, hiệu ứng dây chuyền], ban đầu, có thể một thiểu số vô trách nhiệm [vì sợ hãi, yếm thế, tự ti], lâu ngày sẽ dần chiếm đa số. Nghĩa là, tinh thần trách nhiệm của mọi người trong xã hội đã bị xói mòn theo cả diện rộng và chiều sâu [vô trách nhiệm, sợ hãi trong chính nội quan mỗi người]. Khi đó, mất cái lợi chung này, ắt hẳn – nhiều cái lợi chung khác trước sau cũng sẽ bị chiếm dụng. Thay vì lợi chung được bảo tồn một cách hợp lý trong tinh thần trách nhiệm, lúc này, bạn và mọi người phải “cày bừa” cật lực để có tiền tu bổ hay mua lại quyền sử dụng nó [chủ sở hữu lúc này là nhóm thiểu số quyền lực nào đó]. Trong tình trạng xấu nhất, lợi chung đó mất đi hoặc bị chuyển đổi sang hình thức khác, con cháu bạn thậm chí chính bạn, các thế hệ nối tiếp nhau trả giá bằng chính sức lao động của mình nhằm tái tạo lợi chung vì “lợi” – luôn luôn là nhu yếu của chúng ta. Trường hợp “quyền” của một người bị xâm phạm [hợp pháp hay bất hợp pháp] mà đa số vô trách nhiệm, chắc chắn sẽ đến lượt người khác, quyền cá nhân cũng bị xâm phạm, bởi vì “quyền” là phổ quát. Một khi “quyền”của đa số hay tất cả mọi người trong xã hội đã bị cắt xén, xâm phạm thì lợi riêng, lợi chung cũng sẽ bị chiếm dụng, định đoạt bởi vì “quyền” là gốc rễ. Lúc đó, xã hội rơi vào trạng thái mất cân bằng về “quyền” và “lợi”, một hay một vài nhóm thiểu số sẽ nắm quyền lợi lớn hơn nhiều so với toàn thể xã hội [lũng đoạn về “quyền” và “lợi”]. Giữa các lớp đối tượng khác nhau trong xã hội cũng bị chênh lệch rất lớn về “quyền” và “lợi”. Đây chính là cội nguồn của bất bình đẳng xã hội, dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng kinh tế, bất bình đẳng giáo dục, mất cân bằng về nhận thức giữa các lớp dân cư, suy đồi về văn hóa – đạo đức. Một trạng thái mất cân bằng, bất bình đẳng đủ lớn sẽ đẩy xã hội vào tình trạng suy thoái toàn cục và vấn đề lệ thuộc ngoại bang về chính trị – kinh tế là điều khả dĩ [hình thái nô lệ hóa quốc gia kiểu mới]. Đó là sự sụp đổ của xã hội.

Sau cùng, tự trọng dân tộc là tinh thần cá nhân có ý thức [tinh thần tự trọng dân tộc] về sự ràng buộc ý chí, về cội nguồn xuất xứ trong tâm thức của mỗi người dân của cùng một dân tộc, mỗi công dân trong cùng một quốc gia [18]. Tinh thần cá nhân có ý thức ở đây chính là cảm thức về mối liên hệ trong tâm thức giữa những con người có cùng cội nguồn văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, lãnh thổ và do đó mà họ có tinh thần cá nhân tương tự nhau một cách tương đối. Tinh thần tự trọng dân tộc không phải là tự tôn dân tộc thuần túy mà cũng không phải một hình thức của chủ nghĩa dân tộc. Tự trọng dân tộc là cảm giác đau lòng, xót xa khi Tổ quốc bị xâm lăng, khi quốc gia nghèo đói – lạc hậu, khi đồng bào gặp bất hạnh. Đó là niềm tự hào, kiêu hãnh khi xã hội phồn vinh, khi cá nhân thành đạt. Là hân hoan, vui sướng khi mọi người dân cùng chung sống trong tinh thần tương thân, tương ái, tương trợ lẫn nhau. Tự trọng dân tộc còn là tinh thần cầu thị, ham học hỏi, yêu lao động, tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa thế giới để phụng sự cho Tổ quốc. Ở xã hội ta bây giờ, tự trọng bản thân và tự ái cá nhân [đều là các dạng thức của tinh thần cá nhân] thì đếm không hết, còn tự trọng dân tộc là một điều xa xỉ.

Bàn về tinh thần tự trọng dân tộc, tôi phân biệt hai cấp độ hành vi [hành vi tinh thần], tiêu cực và tích cực. Hành vi tiêu cực [trách nhiệm nhỏ] là những phản ứng mang tính chất thõa mãn cảm xúc bản thân nhất thời [cãi lý, biện hộ, đánh nhau] khi đối tượng ngoại bang [cá nhân, tổ chức, quốc gia] xúc phạm, xâm phạm [bằng lời nói, hành động, truyền thông] đến quốc dân, lãnh thổ, văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc. Hành vi tích cực [trách nhiệm lớn] là đóng góp công sức lao động bằng chính năng lực của mình thông qua quyền lợi cá nhân, phát triển môi trường dân sinh vững bền. Tất nhiên, không thể phủ nhận ở một phương diện nào đó, hành vi tiêu cực cũng tác động dẫn đến hành vi tích cực cho chính mình hay người khác [phạm vi bài viết chỉ đề cập đến hành vi tích cực].

Trong trường hợp, đất nước nghèo đói về kinh tế, lạc hậu về giáo dục, dân trí thấp, bất công – bất cập hiện tồn, mọi sự bàng quan, vô tâm [thiếu ý thức tinh thần tự trọng dân tộc] đều là nguy cơ dẫn đến bất bình đẳng xã hội, băng hoại về đạo đức – văn hóa, tất yếu dẫn đến sụp đổ xã hội [đã phân tích trong tinh thần trách nhiệm xã hội]. Còn khi ngoại bang xâm lấn, đã bị hoặc có xu hướng bị nô lệ hóa về kinh tế – chính trị hay nô dịch về văn hóa, khi đó, toàn thể quốc dân sẽ bị bóc lột sức lao động [lợi cá nhân], áp đặt về tư tưởng và thống trị về ý chí [quyền quốc gia]. Nếu không thức tỉnh kịp thời, cởi trói tư tưởng, khôi phục và phát huy văn hóa [quyền quốc gia] thì quốc gia tiêu vong là nhãn tiền. Khi này, mọi hành vi đều phải hướng đến tinh thần cá nhân [quyền cá nhân], vì quyền quốc gia là xuất phát từ quyền cá nhân. Khi đó, tinh thần tự trọng dân tộc chính là động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm xã hội, là “quyền” thực thi hành động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lợi quốc gia mà chính là bảo vệ quyền lợi cá nhân mỗi người.

Như vậy, thông qua tinh thần quốc dân, tôi muốn gửi đến các bạn bốn điều. Đừng nghĩ gom góp cái “lợi” cá nhân thật nhiều thì cuộc sống của bạn, con cháu bạn sẽ sung sướng, hạnh phúc. Bởi như phân tích ở trên, “lợi” là xuất phát từ “quyền”, “quyền” là gốc rễ – đó là điều thứ nhất. Khước từ quyền là điều trái lẽ tự nhiên, là chấp nhận thân phận nô lệ suốt đời. Thứ hai, vì “quyền” và “lợi” cá nhân mỗi người luôn tác động điều hòa nhau và nằm trong sự tương hỗ với “quyền” và “lợi” của các cá nhân khác, do đó, góp phần xây dựng môi trường dân sinh bằng cách thực thi tinh thần trách nhiệm xã hội, tinh thần tự trọng dân tộc là tích lũy và duy trì quyền lợi cá nhân vững bền nhất. Toàn bộ các hệ thống của môi trường dân sinh, “quyền” của bạn và mọi người đều là công cụ và phương tiện hữu ích cho cuộc sống cá nhân. Vì thế, công sức lao động [lợi cá nhân] của mọi người gặt hái được sẽ là công bằng và thỏa đáng [giá trị bền vững]. Di sản để lại cho con cháu không chỉ là quyền lợi cá nhân trực tiếp từ bạn mà còn thông qua mọi kênh khác của xã hội. Thứ ba, chắc chắn thế hệ con cháu sẽ có những suy nghĩ tiến bộ hơn bạn. Bộ não con người có hơn 100 tỉ nơron thần kinh và một khi mà tiến trình xã hội hóa thông tin ngày càng trở nên mạnh mẽ – rộng khắp, cùng lúc đó là sự tiến triển trong nhận thức con người thì sự khát khao tinh thần cá nhân sẽ càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Các thế hệ mai sau thừa nhận thức để hiểu cái – thuộc về phần người [tinh thần cá nhân] là cần thiết như thế nào, khi đó, tài sản để lại – phỏng đâu có nhiều ý nghĩa. Thứ tư, không nên nghĩ “lực bất tòng tâm” hay “thân phận con người nhỏ bé” mà hãy xác tín rằng, tiến trình xã hội muốn liên tục vững bền cần phải có – tính kế thừa. Ở đó, những đóng góp nhỏ bé một cách chính đáng của mỗi cá nhân thông qua môi trường dân sinh sẽ là di sản quý báu cho mọi thế hệ con người. Hãy nhớ, lệ thuộc vật chất là mất tự do một phần, lệ thuộc tinh thần là mất tất cả.

Tóm lại, sự phối hợp cân bằng – hài hòa giữa quyền lợi cá nhân, trách nhiệm xã hội tự trọng dân tộc đó là tinh thần quốc dân. Tinh thần quốc dân của mỗi công dân tự cường chính là năng lượng cá nhân kết nối và hình thành năng lượng xã hội, năng lượng quốc gia – làm động lực chính yếu cho công cuộc cách tân và phát triển đất nước. Khiếm khuyết một trong ba yếu tố, tiến trình xã hội sẽ mất cân bằng. Trong tinh thần quốc dân, trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc đều tương hỗ với quyền lợi cá nhân, trên nền tảng quyền lợi cá nhân. Trong quyền lợi cá nhân thì quyền – tinh thần cá nhân là gốc rễ.

Vậy, khởi thủy là quyền!

Kính thưa các bạn!

Dân số Việt Nam chúng ta hiện nay có hơn 90 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới. Trong đó, nông dân chiếm khoảng 73%, công nhân khoảng 11%, gần 55 triệu người trong độ tuổi lao động (15 – 60 tuổi) và hơn 5 triệu lao động có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên [Báo cáo Lao động và Việc làm quý IV – 2014, Tổng Cục Thống kê].

Nghĩa là, một người có học vấn với ý thức tinh thần quốc dân cần phải chia sẽ thông tin, trao đổi nhận thức xã hội cùng 17 người khác. Nếu chỉ tính trong độ tuổi lao động, con số đó chỉ còn 10. Điều này là hoàn toàn có thể phải không các bạn?

Thực tâm, tôi vẫn nghĩ, còn đâu đó trong tiềm thức của dân ta vẫn là lòng trắc ẩn, vẫn là sự đồng cảm về thân phận con người. Trong tâm thức của mỗi quốc dân vẫn chảy dòng máu Việt, vẫn một tình yêu con cháu Lạc Hồng, vẫn một khát khao được đóng góp cho quê hương, xứ sở dẫu rằng – tinh thần đó đã nguội lạnh, đã lạc vào thế giới u minh bao năm rồi.

Mục sư Martin Luther King Jr., con người vĩ đại của nước Mỹ và nhân loại, người đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền, trong một bài giảng về Tinh thần dũng cảm tại Selma, Alabama – ngày 8/3/1965, có nói “Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng” [19].

Hãy xác quyết rằng, cuộc đời của bạn, của tôi, của tất cả chúng ta – Chưa từng khi nào kết thúc!

Vì quyền lợi của bạn, vì quyền lợi của tôi, vì quyền lợi của tất cả chúng ta – Mỗi người dân hãy tự cường cho đất nước tự cường!

Chia sẻ thông tin, trao đổi nhận thức, thức tỉnh lương tri, vượt thắng sợ hãi – Chung tay, góp sức, gánh vác việc hôm nay để Tổ quốc tự cường ngày mai.

Đà Nẵng, ngày 5/4/2015

L.D.C.

Tác giả gửi BVN

Chú dẫn:

[1].http://video.vnexpress.net/xa-hoi/hang-tram-nguoi-ca-hat-ve-tranh-keu-goi-bao-ve-cay-xanh-o-ha-noi-3160792.html

[2].http://infonet.vn/thanh-tra-chinh-phu-dong-y-de-ha-tinh-cho-nuoc-ngoai-thue-dat-70-nam-post160815.info

[3].http://www.thesaigontimes.vn/128044/Sun-Group-Moi-nguoi-dan-deu-co-quyen-len-nui-Ba-Na.html

[4].http://tamnhin.net/bo-xit-tay-nguyen-du-kien-lo-hang-nghin-ty-dong.html

http://petrotimes.vn/news/vn/kinh-te/dien-dan-kinh-te/bo-cong-thuong-cac-khoan-lo-o-du- an-boxit-tay-nguyen-mang-tinh-chat-ke-hoach.html

[5].http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/ho-so-vu-an/them-nguoi-tieu-dung-phai-ngoi-tu-vi-doi-tien-tan-hiep-phat-a83780.html

[6].http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/229033/lap-song-dong-nai–vi-sao-chuyen-thanh–nhay-cam–.html

http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/du-an-lap-song-dong-nai-lac-lu-tu-goc-20150329215338594.htm

[7].http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/truy-5-dai-an-nghi-oan-sai-2015031323155015.htm

http://nld.com.vn/cong-an-dung-nhuc-hinh.html

[8].http://www.vietnamplus.vn/nam-2014-gan-9000-nguoi-tu-vong-vi-tai-nan-giao-thong/298693.vnp

[9].http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/nguoi-viet-5-chau/malaysia-giai-cuu-136-phu-nu-viet-trong-hop-dem-3129309.html

[10]. Tương lai nợ công Việt Nam: Xu hướng và thử thách, Đỗ Thiên Tuấn Anh, FETP 04/2013

[11].http://www.doisongphapluat.com/kinh-doanh/thi-truong/no-cong-tang-nhanh-ca-ve-quy-mo-va-toc-do-a62783.html

[12].http://vneconomy.vn/tai-chinh/chenh-venh-nhu-no-cong-viet-nam-20140727083659394.htm

[13].http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24-000-tien-si-viet-nam-dang-lam-gi-.html

http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/220705/viet-nam-co-lam-phat-giao-su–pho-giao-su-.html

[14].http://www.hdcdgsnn.gov.vn/news/detail/tabid/77/newsid/331/seo/So-sanh-so-luong-bai-bao-dang-tren-tap-chi-khoa-hoc-quoc-te-cua-Viet-Nam-va-cac-nuoc-trong-khu-vuc-trong-5-nam-gan-day-2008-2012-/language/vi-VN/Default.aspx

[15].http://www.thanhnien.com.vn/giao-duc/vat-vo-nghien-cuu-khoa-hoc-ky-2-nhieu-tien-si-it-phat-minh-47145.html

[16]. “Môi trường dân sinh” là tổng thể các hệ thống, các lĩnh vực trong xã hội mà tác động đến cuộc sống của người dân: chính trị, văn hóa, kinh tế, pháp luật, giáo dục, y tế, môi trường…

[17]. “Tinh thần trách nhiệm xã hội” khác với “tinh thần trách nhiệm cá nhân” mà ta hay gọi là tính ích kỷ, tức là chỉ có trách nhiệm với những gì liên quan đến cuộc sống cá nhân của chính mình, mặc dù tinh thần trách nhiệm cá nhân cũng là một dạng thức của tinh thần cá nhân.

[18]. “Tinh thần tự trọng dân tộc” khác với lòng tự trọng mà ta hay nói đến, mặc dù lòng tự trọng cũng là một dạng thức của tinh thần cá nhân, tôi gọi đó là “tinh thần tự trọng cá nhân”.

[19]. Nguyên văn trích dẫn “A man dies when he refuses to stand up for that which is right. A man dies when he refuses to stand up for justice. A man dies when he refuses to take a stand for that which is true” được súc tích lại “Our lives begin to end the day we become silent about things that matter.”

http://www.etsu.edu/cas/history/documents/mlkselma.htm

(*) Tiêu đề BVN đặt thêm trích từ bài viết

Tôi, với những ngày đầu đến Mỹ

Tôi, với những ngày đầu đến Mỹ

Nguoi-viet.com

Horizon Ho
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Hai mươi tám tuổi, tôi đến Mỹ với một niềm háo hức, hân hoan về một xứ sở văn minh và giàu có.

Tôi được trải nghiệm sự văn minh của đất nước này ngay khi mới đặt chân xuống phi trường San Fransisco hào nhoáng để làm thủ tục nhập cảnh. Tại đây, tôi được nhân viên Hải Quan Mỹ chào đón với nụ một cười rạng rỡ và một thái độ lịch thiệp – thứ mà tôi ít khi bắt gặp ở cán bộ nhà nước trước đây của mình. Tiếp đến là sự giàu có của nước Mỹ hiện ra trước mắt tôi với hệ thống freeway “trùng trùng điệp điệp” và muôn vàn ánh đèn màu hào nhoáng, lấp lánh về đêm của cây cầu Golden Gate huyền thoại. Và tôi cứ như thế mà kỳ vọng về một cuộc đời sung túc trên mảnh đất này.

Ngoài kia, bên bờ biển của miền Nam California, bầu trời xanh, gió thật nhẹ, và ánh nắng chan hòa. (Hình: Khôi Nguyên/Người Việt)

Một tháng sau khi đến Mỹ, tôi bắt đầu công việc mà phần lớn người Việt sống trên đất Mỹ đã, đang và sẽ làm: nail!

Tôi, một người phụ nữ 100 pounds, lần đầu tiên trong đời ôm cái chân của một người Mỹ nặng gần 200 pounds để hì hụi làm hết tất thảy các công đoạn cần thiết của công việc pedicure.

Tôi đã cố hết sức để bưng, bê, và bóp cho cái bàn chân to gấp nhiều lần với đôi tay nhỏ bé của mình. Nước mắt chảy ngược vào tim và thân xác rã rời hết ngày này sang ngày khác vì công việc khá nặng nề đối với tôi – người đã quen làm việc văn phòng.

Sáu tháng sau kể từ ngày đến Mỹ, tôi bị người thân đuổi ra khỏi nhà lúc nửa đêm vì những chuyện hiểu lầm không đáng có. Không xe, không nhà, không bạn bè, tôi co ro trên vỉa hè giữa đêm Ðông lạnh giá của miền Bắc Cali. Ngồi một mình cùng chiếc vali đồ ít ỏi, dán mắt vào màn đêm đen thẫm, tôi tự hỏi rằng: thiên đường của nước Mỹ là đây? Cuộc sống sung túc và đầy đủ mà tôi hằng ao ước là đây? Tại sao không ai nói cho tôi biết thực trạng mà tôi sẽ trải qua khi đến Mỹ? Ðể tôi vội vàng từ bỏ tất cả cuộc sống trước đây của mình: công việc, tình yêu, và bạn bè chỉ để kiếm tìm những giá trị ảo tưởng? Ðêm vẫn cứ rất sâu, mùa Ðông Sacramento vẫn lạnh buốt, và tôi vẫn ở đó chờ đợi một thứ “ánh sáng cuối đường hầm.”

Một năm trôi qua, tôi chuyển về miền Nam Cali và quay trở lại trường học với mong muốn tìm thấy một cái gì đó khác hơn, sáng sủa hơn cho cuộc sống ảm đạm ở Mỹ. Tôi nhận ra mình không thể ngụp lặn mãi trong nghề nail vì nghề đã không chọn tôi, tôi đã không tìm thấy niềm vui trong công việc cho dù đã cố gắng thân thiện và hòa nhập.

Tôi đi học với tâm lý nặng nề của một người Việt Nam chính gốc. Bởi ở Việt Nam có sinh viên nào ở cái tuổi 29? Ðó là cái tuổi đã phải lấy chồng, sinh con, và chăm sóc gia đình. Thêm vào đó lại phải học chung với một đám tuổi teen nhí nhố, chuyện trò rôm rả bằng thứ tiếng Mỹ rất đỗi xa lạ với tôi. Và mỗi giờ trôi qua trên ghế giảng đường là mỗi giờ tôi căng mắt, giỏng tai để cố gắng nghe và hiểu thầy giáo đang nói gì. Một lần nữa, tôi thấy mình cô độc và lạc lõng trên mảnh đất này. Nước Mỹ vẫn cứ là thứ ánh sáng mờ ảo trong tôi.

Hai năm trôi qua, tôi bắt đầu mạnh dạn hơn với vốn tiếng Mỹ ít ỏi của mình. Ở trường, tôi tự tin hỏi lại thấy giáo những gì mình không hiểu, ở tiệm nail tôi mạnh dạn hỏi khách hài lòng hay chưa thay vì chỉ “yes, yes, no, no” như trước đây. Rồi ba năm, rồi bốn năm trôi qua, tôi vẫn đang đến trường đầu tuần và đến tiệm nail cuối tuần. Tôi vẫn tiếp tục gồng hết sức mình để chiến đấu với bài vở, thi cử ở trường và cúi mình chịu đựng những lời tệ bạc, nhục mạ của chủ và thợ nails nơi tôi đang làm. Nhưng hơn hết, tôi nhận ra rằng, những khó khăn, rào cản ấy chỉ là tạm thời, là thử thách trên bước đường thành công của tôi mà thôi bởi “những thứ không giết ta được thì sẽ khiến ta mạnh mẽ hơn.”

Tôi không biết rồi mình sẽ làm được gì, sẽ sung sướng ra sao ở nơi này. Nhưng giờ đây, mỗi ngày tôi thấy mình hạnh phúc vì có cơ hội học hỏi và tiếp xúc với nền giáo dục hiện đại của Mỹ, mỗi giây phút trôi qua trong cuộc đời, tôi khám phá ra những nét độc đáo và nhân văn trong văn hóa Mỹ, và ngay khoảnh khắc này tôi lạc quan về một cuộc sống tươi đẹp và bình yên trên đất Mỹ.

Ngoài kia, bên bờ biển của miền Nam California, bầu trời xanh, gió thật nhẹ, và ánh nắng chan hòa.

Việt Nam và trò chơi địa chính trị

Việt Nam và trò chơi địa chính trị

Nguyễn Hùng BBC Tiếng Việt

Ông Trọng tiếp thủ tướng Nga ngay trước khi thăm Trung Quốc và có thể sẽ thăm Hoa Kỳ trong tháng Năm

Cụ Nguyễn Khuyến, người sống hầu hết cuộc đời trong thế kỷ 19, nổi tiếng với bài thơ trào phúng ‘ Hội Tây‘ trong đó có câu ‘Tham tiền cột mỡ lắm anh leo’.

Sang thế kỷ 21 với thái độ nghiêm túc hơn, Truyền hình Việt Nam vừa quyết định mở lại chương trình ‘ Hội nhập‘ sau nhiều năm gián đoạn vì theo họ “năm 2015 sẽ là năm của hội nhập vì trong năm nay Việt Nam dự định sẽ ký kết hiệp định thương mại tự do với EU, với Hàn Quốc, với liên minh hải quan Nga, Kazakhstan, Belarus và đặc biệt là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP.”

Ở tuổi 85, Đảng Cộng sản với người đứng đầu chuẩn bị bước sang tuổi 71 cũng đang đứng trước nhiều cột mỡ trong các mối quan hệ ngoại giao phức tạp và tiềm ẩn những rủi ro.

‘Trò chơi địa chính trị’

Điểm qua các hoạt động ngoại giao của Việt Nam riêng trong tháng Tư người ta có thể thấy Hà Nội dường như đang có vị thế ngày càng tăng trong con mắt các cường quốc đang ve vãn.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc hôm 7/4 giữa lúc hai tàu chiến Mỹ do một Đại tá người Mỹ gốc Việt chỉ huy đang ở Đà Nẵng còn Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev tới Hà Nội cũng trong đúng ngày chiến hạm Hoa Kỳ cập cảng Tiên Sa hôm 6/4.

Cùng ngày 6/4, báo chí Việt Nam và quốc tế đưa tin lãnh đạo cơ quan an ninh quốc gia Ấn Độ, một đồng minh của Hoa Kỳ, nói Delhi sẵn sàng đào tạo các sỹ quan tình báo, hải quân và không quân cho Việt Nam khi gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm 3/4.

Trong bối cảnh quan hệ Nga – Mỹ căng thẳng và Washington đang xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam có lợi thế với tư cách là một quốc gia nằm ở vị trí quan trọng và có ảnh hưởng trong khu vực.

Ngay trong ngày đầu tháng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã điện đàm với Thủ tướng Tony Abbott, một đồng minh khác của Mỹ mà ông Dũng vừa tới thăm trong tháng Ba.

Trước đó một ngày Chủ tịch Trương Tấn Sang tiếp lãnh đạo phe thiểu số Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi sang thăm Việt Nam trong khuôn khổ Đại hội đồng Liên minh Nghị viên thế giới mà Việt Nam có vẻ tổ chức đầy tốn kém với xe đưa rước và tiệc tùng khoản đãi hiếm thấy.

Ông Trương Tấn Sang cũng còn có chuyến thăm đã lên lịch tới Nga trong tháng Năm, tháng mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng dự kiến sẽ tới Hoa Kỳ.

Trong bối cảnh quan hệ Nga – Mỹ căng thẳng và Washington đang xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam có lợi thế với tư cách là một quốc gia nằm ở vị trí quan trọng và có ảnh hưởng trong khu vực.

Nhưng một nhà quan sát người Nga, Giáo sư Vladimir Kolotov, cũng vừa cảnh báo hôm 6/4 rằng Hà Nội chỉ là “con tốt” trong “trò chơi địa chính trị” giữa Mỹ và Trung Quốc, hai cựu thù của Việt Nam.

Và Nga cũng không chỉ đứng nhìn trò chơi này của hai nước đứng hàng thứ nhất và thứ ba về xuất khẩu vũ khí, lĩnh vực Nga cũng đứng hàng thứ nhì.

Hà Nội đã nhận ba trong số sáu tàu ngầm kilo trong hợp đồng vũ khí trị giá khoảng hai tỷ đô la mà ông Nguyễn Tấn Dũng ký khi thăm Nga hồi năm 2009.

Cũng phải nói thêm Việt Nam còn mua hai chiếm hạm lớp Sigma từ Hà Lan với giá được cho là chừng 600 triệu đô la sau khi vẫn thủ tướng Việt Nam đặt vấn đề về chuyện này từ năm 2010.

Quan hệ tay tư

Điều có thể dễ dàng thấy từ chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng tới Bắc Kinh là sự hiện diện đông đảo các nhân vật cao cấp của Việt Nam trong đoàn tháp tùng.

Kể cả ông Trọng, đoàn có năm ủy viên Bộ Chính trị trong đó bốn người gần như chắc chắn sẽ có mặt trong dàn lãnh đạo hậu Đại hội Đảng trong năm sau.

Người Mỹ hẳn sẽ nhìn vào phái đoàn thăm Trung Quốc để xem có bao nhiêu người sẽ cùng ông Trọng tới Hoa Kỳ trong chuyến đi có thể diễn ra trong thời gian tới.

Ông Trọng sang Trung Quốc với phái đoàn hùng hậu

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng thăm Hoa Kỳ và nhiều nước đồng minh nhưng chưa thăm chính thức Trung Quốc

Một điều khác cũng đáng chú ý trong bối cảnh chuyến thăm Trung Quốc của ông Trọng là đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người được cho là muốn ngồi vào ghế tổng bí thư trong năm sau, chưa từng thăm chính thức Trung Quốc dù đã thăm cả Hoa Kỳ và Nga trong hai nhiệm kỳ thủ tướng.

Mối quan hệ giữa Hà Nội với Bắc Kinh, Moscow và Washington luôn tiềm ẩn những thách thức ở các góc độ khác nhau.

Căng thẳng trên Biển Đông nơi hiện Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một góc của đảo Trường Sa sẽ luôn là cái gai trong quan hệ Việt – Trung.

Những văn bản được hai bên ký kết trong chuyến đi của ông Trọng tới Trung Quốc không có văn bản nào nói cụ thể về giải pháp tháo gỡ căng thẳng trên biển và lòng tin giữa hai bên vào những gì ký kết cũng không phải khi nào cũng cao.

Những văn bản được hai bên ký kết công khai trong chuyến đi của ông Trọng tới Trung Quốc không có văn bản nào nói cụ thể về giải pháp tháo gỡ căng thẳng trên biển và lòng tin giữa hai bên vào những gì ký kết cũng không phải khi nào cũng cao.

Ngay khi ông Trọng còn ở Trung Quốc, tờ New York Times nói Bắc Kinh vẫn tiếp tục mở rộng sự hiện diện của họ trên đảo Trường Sa sau khi chiếm một đảo từ tay Việt Nam hồi năm 1988.

Hoa Kỳ ở các mức độ khác nhau thường đặt ra vấn đề nhân quyền thậm chí với danh sách cụ thể các ‘tù nhân lương tâm’ mà họ muốn chính quyền trả tự do.

Trong năm 2014 hai nhân vật có trong danh sách, Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ và blogger Điếu Cày, tức Nguyễn Văn Hải, đã được trả tự do nhưng mới đây một dân biểu Mỹ đã lại trao một danh sách khác cho Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Các lãnh đạo Việt Nam có vẻ vồn vã với Nga hơn cả do họ không bị ép về dân chủ, nhân quyền và cũng không có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải.

Nhưng Nga cũng là nhà cung cấp vũ khí hàng đầu cho Trung Quốc, nước trong thập niên 80 còn được chính quyền Hà Nội công khai coi là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam.

Và quan hệ chặt chẽ chưa từng có trong lịch sử giữa Nga, nước đang bị phương Tây cấm vận, và Trung Quốc sẽ khiến Moscow khó có phản ứng mạnh mỗi khi Hà Nội và Bắc Kinh xung khắc.

Việt Nam đã ý thức được điều này và tăng cường quan hệ với nhiều đồng minh thân cận của Hoa Kỳ trong đó có Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Anh.

‘Ăn xin đến bao giờ’

Nhưng điều quan trọng hơn cả vẫn là nội lực của chính Việt Nam trong các mối quan hệ với bên ngoài.

Mới đây một quan chức Nhật Bản đã đặt câu hỏi đến bao giờ Việt Nam sẽ không cần đến viện trợ phát triển ODA của họ nữa sau khi đã nhận chừng 20 tỷ đô la trong 20 năm qua theo blogger Nguyễn Văn Tuấn.

Blogger này còn dẫn lời ông Lê Đăng Doanh thuật lại lời của một nhà tài trợ giấu tên hỏi rằng Việt Nam “định ngửa tay ăn xin đến bao giờ” trong khi tự hào là “người thông minh, có học”, có “truyền thống” cũng như “trí tuệ”.

Tháng Tư này cũng đánh dấu 40 năm kết thúc Cuộc chiến Việt Nam vốn đã khiến cả triệu người bỏ nước ra đi sau đó.

Tháng Tư này đánh dấu 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam

Nhưng chính những người mà đối với họ tháng này là “tháng Tư đen” và ngày 30/4 là “ngày quốc hận” cũng đóng góp vào số 80 tỷ đô la kiều hối mà Việt Nam nhận được chỉ trong 12 năm từ 1991-2013 theo các chuyên gia trong nước.

Những Việt kiều mà đa số sống ở Hoa Kỳ và nhiều con em của họ phục vụ trong quân đội nước này sẽ tiếp tục có ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Người chỉ huy hai chiến hạm tối tân của Hoa Kỳ đang cập cảng Đà Nẵng là Đại tá người Mỹ gốc Việt Lê Bá Hùng.

Và điều có thể khẳng định là Việt Nam sẽ chỉ thực sự được nể trọng trong con mắt các cường quốc khi người dân Việt Nam, chứ không chỉ các quan chức, giàu có và có quyền đưa ra các quyết định quan trọng về hướng đi của đất nước trong đó có hướng đi của các mối quan hệ đa phương.

Và cũng chỉ như vậy sự hội nhập mới không như sự mô tả ‘Hội Tây’ của cụ Nguyễn Khuyến:

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế, Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”

Bộ phim Thuyền nhân: Võ sư Hóa đi tìm mộ

Bộ phim Thuyền nhân: Võ sư Hóa đi tìm mộ

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-03-26

03262015-master-hoa-requiem.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Bộ Phim Thuyền Nhân: Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ

Bộ Phim Thuyền Nhân: Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ

PhotoVAHF

Your browser does not support the audio element.

Master Hoa’s Requiem, Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, là bộ phim tài liệu về thuyền nhân Việt Nam, được Thin Line Film Festival Liên Hoan Phim Ảnh Thin Line trình chiếu ra mắt đầu tiên tại The Campus Theater thuộc UT North Texas, thành phố Denton bang Texas, trong ba ngày 19, 20 và 21 tháng Hai vừa qua.

Thin Line Film Festival chuyên về phim tài liệu cứ mỗi năm một lần trong khoảng thời gian tháng Hai, Thin Line Film Festival nhận phim tranh giải từ khắp nơi trên thế giới. Năm nay Thin Line Film Festival nhận được trên 300 phim dự thi đến từ 26 nước kể cả Hoa Kỳ. Phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ là một trong những phim họ chọn vào vòng chung kết. Tổng số vào chung kết là 49 phim.

Đó là lời nhà báo Triều Giang, một trong những người sáng lập Hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hóa Mỹ Gốc Việt ở Texas:

Phim đã được hai giải, thứ nhất là phim tài liệu hay nhất mùa thu năm 2014 của đại hội điện ảnh Asian On Film và ngày 28 tháng Ba này thì Triều Giang sẽ sang bên California nhận giải đó. Cũng trong đại hội điện ảnh đó thì họ đề nghị mình cho giải phim hay nhất năm 2015 và cái đó chưa có kết quả.

Bộ phim do đạo diễn Hoa Kỳ Scott Edwards dàn dựng, sản xuất là Hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt:

Scott Edwards là đạo diễn, hai người khác nữa, Andrew Bennett làm về editing tức là lắp ráp, còn một người nữa là Megan Edwards, giúp Triều Giang về vấn đề viết script của phim. Hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt đứng ra làm công việc này và tôi trực tiếp là nhà sản xuất .

Vì hai chữ tự do

Vai chính trong bộ phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ không ai khác hơn võ sư Nguyễn Tiến Hóa thuộc Vovinam, môn phái Việt Võ Đạo cổ truyền của Việt Nam. Hãy nghe ông kể lại:

Chúng tôi đi vượt biên ngày 16 tháng Mười Một năm 1981. Trước khi đi chúng tôi cũng biết những gì xảy ra cho những người đi trước, tuy nhiên vì hai chữ tự do chúng tôi chấp nhận liều thân vượt biển.

Rồi tai họa cũng giáng xuống chiếc tàu vượt biên sau ba ngày chạy ra hải phận quốc tế:

Khi thấy một giàn tàu chúng tôi tưởng đó là bở biển Mã Lai và chúng tôi đi thẳng vào, tới nơi thì gặp năm cái tàu giàn hàng ngang, thật sự vì mưa bão họ neo thuyền gần với nhau. Tới nơi thì họ chuyển máy vòng quanh bao vây chúng tôi luôn. Họ nổ súng lên, bắt tất cả đàn ông thanh niên qua tàu họ, trói chúng tôi lại thành một xâu.

Tôi là người ở giữa thành ra khi nhìn thấy vợ con tôi bị hãm hiếp, hải tặc nắm giữ vợ con tôi, lột quần áo ra thì vợ tôi có kêu lên “Trời ơi, Chúa ơi, anh ơi cứu em”. Lúc đó tôi như người chết, tôi muốn cắn lưỡi tôi chết, tôi không làm cách nào được vì họ trói tôi trong một cái xâu giống như xâu cá thành ra tôi không thể nào hành động được.

“ Sau gần ba tiếng đồng hồ họ tới tàu của chúng tôi, tháo máy, trục máy lên, dục hết tất cả đồ ăn nước uống của chúng tôi đi. Sau đó thì họ đem đàn bà con gái trở về tàu rồi họ cho chúng tôi về tàu luôn và họ cắt dây, nổ máy và dùng tàu họ để húc cho tàu chúng tôi chìm

Võ Sư Hóa”

Quí vị tưởng tượng mỗi tàu đánh cá của Thái Lan có mưới lăm tới mười bảy người, mà năm cái tàu thay phiên nhau để hãm hiếp thì nó kéo dài bao lâu.

Sau gần ba tiếng đồng hồ họ tới tàu của chúng tôi, tháo máy, trục máy lên, dục hết tất cả đồ ăn nước uống của chúng tôi đi. Sau đó thì họ đem đàn bà con gái trở về tàu rồi họ cho chúng tôi về tàu luôn và họ cắt dây, nổ máy và dùng tàu họ để húc cho tàu chúng tôi chìm. Ngay lúc đó tôi quyết định một sống hai chết phải đánh. Tất cả mọi người chúng tôi đã dùng những mảnh ván tàu bị bể làm vũ khí tấn công. Thấy chúng tôi quyết tử họ bỏ chúng tôi họ ra đi.

Trải qua một đêm cho tới chiều ngày hôm sau thì tàu gặp hải tặc lần thứ hai:

Lúc đó chúng tôi không chờ nữa, khi hải tặc tới nơi, xáo vào tàu chúng tôi thì tôi nhảy lên và tôi đã đánh nhau với hải tặc từ mũi tàu cho tới phòng tài công, tôi đã hạ mười lăm tên và tôi cướp tàu của hải tặc. Sau đó tôi đưa những người trên tàu bị bể của chúng tôi sang tàu chúng tôi cướp được.

Khi nhảy qua nhảy lại để đưa đàn bà và con nít thì chúng tôi còn một người em họ bị gãy chân đêm hôm trước. Chú em nằm trên tàu và tôi nhảy về. Trên đường nhảy về thì dây neo bị đứt và chiếc tàu tôi cướp được trôi đi.

Tàu trôi đi thì võ sư Hóa rớt xuống biển, ông đã lội trên biển như vậy mười mấy tiếng đồng hồ:

Tôi không biết đó là định mệnh Trời muốn tôi sống chứ thật sự tôi không có khả năng bơi lội trên sóng gió 18 tiếng đồng hồ.

May mắn cho ông là sáng hôm sau thì ông nhìn ra một bóng đen, là chiếc tàu vượt biên của ông bị hải tặc đâm vỡ:

Tôi mừng quá tôi bơi vào con tàu, sống trôi nổi trên tàu bể 21 ngày, không có lương thực, chỉ có nước mưa> hai mươi mốt ngày đó là vô vàn tàu hải tặc tấn công tôi liên tiếp. Họ đâm, chém, đánh đập, bắn tôi ba lần nhưng số tôi chưa chết.

Mổi một sáng thức dậy tôi gạch vào mạn tàu tôi đếm một ngày. Sau 21 gạch thì tôi gặp năm cái tàu Mã Lai. Tôi biết đã trôi tới Mã Lai, tôi đứng lên xin ăn. Họ bắt chéo tay và nói rằng “police”. Họ cho tôi một ly trà sữa, một bịch mì ăn liền, một túi bánh khô.

Từ trái võ sư Hóa, Andrew Bennett, Scott Edwards, nhà báo Triều Giang khi đến phi trường Thái Lan

Từ trái võ sư Hóa, Andrew Bennett, Scott Edwards, nhà báo Triều Giang khi đến phi trường Thái Lan

Nhờ chút đỉnh lương thực như vậy, võ sư Nguyễn Tiến Hóa lấy lại sức, bắt đầu lượm áo quần sót lại trên tàu làm một cánh buồm, tháo mạn tàu làm cột buồm rồi bánh lái để có thể bơi vào đất liền:

Làm xong thì hết gió, tôi phải nằm chịu trận một đêm cho tới ngày hôm sau tôi dùng lá buồm đó, tôi lái hai ba ngày gì nữa thì tôi vào bờ biển Mã Lai.

Sức chịu đựng của con người

Tới được Paula Bidong mà không biết số phận vợ con trên chiếc thuyền cướp được của hải tặc như thế nào, võ sư Hóa sống như một người không thiết sống. Đến một ngày, khi Cao Ủy trên đảo gọi ông lên, báo cho biết chiếc tàu cướp được của hải tặc đã bị chìm và tất cả những người trên đó đã chết hết:

“ Tôi mừng quá tôi bơi vào con tàu, sống trôi nổi trên tàu bể 21 ngày, không có lương thực, chỉ có nước mưa> hai mươi mốt ngày đó là vô vàn tàu hải tặc tấn công tôi liên tiếp. Họ đâm, chém, đánh đập, bắn tôi ba lần nhưng số tôi chưa chết

Võ Sư Hóa”

Tôi hét lên, đập bể cái bàn rồi từ văn phòng Cao Ùy tôi chạy ra ngoài bờ biển để tự vẫn. Cảnh sát Mã Lai khi vào bắt tôi thì bị tôi tấn công, sau đó họ quăng dây giất cho tôi té, bác sĩ chạy theo chích thuốc cho tôi mê và đưa vào trong bệnh viện Sic Bay. Họ còng hai tay tôi trên giường sắt và tôi vác cả giường sát tôi chạy. Sau đó họ còng cả hai chân tôi xuống giường sát luôn. Đấy là Nguyễn Tiến Hóa, một người sống sót đi tới Pulo Bidong năm 1982.

Được nhận vào Hoa Kỳ do trường hợp đặc biệt, võ sư Nguyễn Tiến Hóa vẫn còn điên loạn và phải nằm bệnh viện một thời gian. Dần dà, với tâm trí và nghị lực của một người được đào luyện võ thuật từ nhỏ, ông gầy dựng lại cuộc sống bình thường. Hiện tại ông là giám đốc trung tâm võ thuật Vovinam ở thành phố Dallas, Texas.

Ba mươi ba năm sau, khi cùng đoàn làm phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ trở lại Malaysia và Thái Lan để tái dựng thảm cảnh vượt biển lúc trước, võ sư Nguyễn Tiến Hóa gần như rơi trở lại trạng thái điên suốt thời gian quay:

Gần 3 tuần lễ quay phim thì ban ngày tôi là người tỉnh để đóng phim nhưng ban đêm tôi là một người điên. Tôi đã điên, tôi điên trên đất Mã Lai, tôi điên trên đất Thái Lan. Tôi đi lang thang ngoài đường phố cả đêm. Có những lúc tôi gặp những người con gái đi ăn xin mà tôi mường tượng đó là vợ con tôi đang thất lạc trên đất Thái Lan hay Mã Lai. Tôi đã cầm tiền cho họ giống như cho người thân của mình.

Đứng ở những bờ biển nghe tiếng sóng gào thì tôi nghĩ như vợ con tôi đang gào thét gọi tôi, tôi ở đâu và tôi làm gì, tại sao tới giờ phút này, sau 33 năm tôi mới trở về tìm vợ con?

Trở về câu hỏi vì sao phải gợi lại ký ức thuyền nhân tưởng đã lắng chìm qua bao tháng ngày dài? Phải lập lại, phải cho mọi người thấy, là câu trả lời của Hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hóa Mỹ Gốc Việt:

Phim Master Hoa’s Requiem Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, hành trình đi tìm tự do của võ sư Nguyễn Tiến Hoa và gia đình ông là một trường hợp tiêu biểu để nói lên cái thảm cảnh thuyền nhân. Trong suốt mấy thập niên từ 70 cho tới 90, trên một triệu người ra đi và gần 500.000 người chết trên biển cả. Chuyện này nếu không ghi chép lại được ở thế hệ chúng ta thì sợ thời con cháu sẽ rất khó khăn khi đi tìm tài liệu, mình làm thành phim để có thể quảng bá đại chúng. Khi làm xong thì cũng có một số người đến điểm phim thì người ta đề nghị nên đưa những đại hội điện ảnh để dự thi. Cuối cùng mình được chọn vào vòng chung kết. Trên hai trăm khán giã, phần lớn người nước ngoài, đã xem buổi trình chiếu đầu tiên bộ phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, tiếp đó tham dự phần hỏi đáp khi cuốn phim kết thúc. Ghi nhận của nhà bào Triều Giang là nhiều khan giả bày tỏ sự bàng hoàng xúc cảm trước những cảnh thực trong phim mà họ cho là không thể tưởng tượng được:

“ Trong suốt mấy thập niên từ 70 cho tới 90, trên một triệu người ra đi và gần 500.000 người chết trên biển cả. Chuyện này nếu không ghi chép lại được ở thế hệ chúng ta thì sợ thời con cháu sẽ rất khó khăn khi đi tìm tài liệu, mình làm thành phim để có thể quảng bá đại chúng”

Nói chung thì khán giả đặt rất nhiều câu hỏi. Những cảnh Võ sư Hóa đi ngược trở lại để tìm vợ con và người thân, trên bước đường đó thì không thể tưởng tượng được có những hòn đảo không ai sống được vì ở đó không có nước ngọt, nhưng trên đó đã thấy hàng trăm mộ của thuyền nhân

Rồi có những làng trong đó dân chừng sáu bảy trăm người nhưng số mộ đếm được là trên một ngàn rưỡi. Rồi có những mộ tập thể ba bốn trăm người chôn cùng một chỗ. Có những mộ không còn bia, chỉ một cây cắm ở đó là biết có người nằm dưới mà thôi.

Những cảnh đó làm cho người xem xúc động, khán giả đã rơi lệ bởi vì cảnh võ sư Hóa từ sáng đến tối đi tìm cả chục cái nghĩa trang và đi kiếm hàng ngàn những ngôi mộ, tìm được mộ người thân nhưng mộ vợ con thì không. Nó buồn và nó xúc động đến phải nói khán giả bữa hôm đó ai đi ra mắt cũng đỏ.

Thế còn người thực hiện bộ phim thì sao. Trước khi được mời đến với phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, đạo diễn Scott Edwards chia sẻ là ông chỉ biết tới Việt Nam, nhất là miền Nam Việt Nam, qua hình ảnh của chiến tranh mà thôi. Ông nói ông đã phải tham khảo, nghiên cứu qua sách vở và trên mạng cho đến khi nhận thức được rằng miền Nam Việt Nam trước và sau chiến tranh, rồi thuyền nhân đi tìm tự do, là cả một trang sử đau thương, xúc tích, gợi hứng và xứng đáng được nhắc nhớ lại:

Suốt thời gian quay phim tôi đã thông cảm nhiều với võ sư Hoá, bởi gần như chúng tôi cùng trổi dậy mỗi ngày để đi tìm mộ cùng với nhau. Chúng tôi chứng kiến võ sư Hóa trong hồi ức tột cùng đau thương và xúc động, gần như chúng tôi cùng trổi dậy cùng đi tìm kiếm mộ người thân yêu. Khi đó tôi vừa có một cháu gái nhỏ 6 thang tuổi, tôi chợt hiểu là sẽ kinh hoàng đau đơn biết mấy nếu chuyện gì khủng khiếp xảy ra cho vợ con mình mà mình không thể làm gì được. Tôi như kinh qua thảm cảnh mà những thuyền nhân miền Nam đi tìm tự do phải gánh chịu, tôi thấu hiểu rằng chuyến đi về quá khứ như thế này quả là khó khăn cho võ sư Hnhư thế nào..

Tôi hiểu rằng phấn đấu, vượt thoát, tang tóc, mất mát là những điều khiến lịch sử miền Nam Việt Nam sau chiến tranh là một câu chuyện đáng nói. Tôi cảm nhận và khâm phục những con người từ nghịch cảnh bước ra như võ sư Hóa mà đã vươn lên, làm lại cuộc đời và cuộc sống xứng đáng của người Mỹ gốc Việt trên đất nước này.

Và điều nữa là bây giờ tôi có thể nói về chiến tranh, về miền Nam Việt Nam, tôi đã có cái nhìn căn bản và sâu sắc hơn về chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến đã quyết định thành bại cho không biết bao nhiêu người miền Nam đã chết và còn sống như những công dân Mỹ gốc Việt ở đất này.

Qua cuộn phim ngắn Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, hy vọng cộng đồng dòng chính, hiểu rất ít về cuộc chiến Việt Nam, cũng sẽ thông cảm được tất cả nỗi khổ đau của một dân tộc.

Đó là nội dung bô phim Võ Sư Hóa Đi Tìm Mộ, Master Hoa’s Requiem, đã được Thin Line Film Festival chọn trong hơn 300 bộ phim từ 26 nước, sắp nhận giải của Asian On Film thứ Bảy tuần này ở California, và hiện đang là ứng viên giải Remi Awards nổi tiếng trong những ngày tới.

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Đỗ Kim Thêm

Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.

Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.

Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

***

Ký ức thay ngụy sử?

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.

Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.

Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.

Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.

Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở được không?

Thế hệ tham chiến và quá khứ

Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.

Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.

Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.

Ngụy tạo chính sử

Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.

Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thc tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.

Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.

Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao và chính trị.

Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.

Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của ông càng huyền bí hơn.

Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi sáng.

Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao cũng là điều kiện khả thi?

Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.

Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.

Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.

Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà.

Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).

Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc.

Thứ sáu, Đại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.

Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.

Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.

Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?

Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà

Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.

Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.

Khi xưa, Tản Đà có than thở “Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con.” Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.

Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.

Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung “Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô”. Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.

Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do”. Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.

Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung – Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng “Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa” trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.

Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.

Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của mình.

Thứ tư là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.

Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.

Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.

Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến TranhĐèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.

Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất định thành một loại đề tài chung.

Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.

Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“ của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của tưởng niệm là quan trọng hơn.

Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt?

Bản sắc dân tộc tàn phai

Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.

Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá là thí dụ.

Ký ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá trị truyền thống.

Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình.

Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử, có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo.

Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là “thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn”. Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là “trung tâm phẩm giá của loài người và lương tâm của thời đại”. Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.

Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.

Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý thuyết.

Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.

Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.

Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.

Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?

Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.

Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.

Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.

Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng để không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai.

Ngày tưởng niệm

Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.

Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.

Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.

Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.

Ngày hoà giải

Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.

Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác.

Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.

Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho tương lai.

Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.

Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.

Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.

Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được không?

Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.

Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.

Tương lai của hoà giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.

Ngày tỉnh thức

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?

Chúng ta cần can đảm để nói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.

Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, một nuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.

Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.

Thế hệ hậu chiến và tương lai

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?

Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.

Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.

Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.

Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.

Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên “Ý nghĩa Lịch sử” cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.

Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.

Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.

Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là “Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông“. Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.

Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả năng chứng tỏ là một người bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.

Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

Đ.K.T.

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2015/04/07/3675-hoai-niem-va-phan-tinh-ve-ngay-30-thang-4-nam-1975-de-giai-ao-nguy-su-hoa-giai-dan-toc-va-xay-dung-dat-nuoc/

 

Tháng Tư mãi là nỗi buồn!

Tháng Tư mãi là nỗi buồn!

Blog VOA

Cao Huy Huân

Bước sang tháng Tư, không khí của những ngày định mệnh lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông. Năm nay đặc biệt hơn vì đây là cột mốc lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta nhìn lại quảng đường chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.

Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh là “hòn ngọc Viễn đông”, từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành lập Singapore. Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo đầy đường phố nêu cao thông điệp về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những con số tăng trưởng kinh tế “đầy tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo”. Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn mở rộng sau 40 năm – nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ. Tốc độ phát triển chóng mặt của những con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung luôn khiến giới quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng, cũng phải giật mình. Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành tích của Sài Gòn, có lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng”. Trong khi hàng tá vấn đề cho đến nay, Sài Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế tắc, nếu chính quyền vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ vẫn làm.

Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng, đô thị – điều khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một cách vô vọng. Bốn mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế – xã hội. Các áp lực dân số, chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội, sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa đô thị… là không thể tránh khỏi. Để rồi người dân Sài Gòn – vốn đã “già trước khi giàu” – nay phải quẩn quanh bên một “thành phố ao làng” với hàng loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm (khói, bụi, tiếng ồn, nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông, lúa nước lũ lượt kéo nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là “văn minh thành phố” lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây xanh bao phủ, là hầm vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng nhiều cây cầu khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước – chặn sau” theo kiểu nhóm lợi ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến trường. Để rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó khăn cũng phải vét tiền của lo cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục”. Nhà ổ chuột cho dân ở, trong khi nhà cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả bong bóng bất động sản vỡ…

Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản hay Singapore đều để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của dân. Tổng thống Mỹ Barack Obama với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu tranh cãi), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa kép 2011. Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng châu Á. Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, các vị nhận không biết bao nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ đời sống hiện đại hóa, để rồi số công trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại quả. Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn”, trong khi dân phải mang tiếng “xin”, chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng “còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA”.

Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên. Trong tầm nhìn chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn của công nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ, máy công nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số).

Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi nhọn” quan trọng, không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng từng trải qua. Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay là lúc ai cũng hốt hoảng khi chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn trên. Nhưng xin thưa, 5 năm là một con số “viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch số 0. Nghĩ làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện nhỏ nhất phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải nhập khẩu. Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” – ngành công nghiệp cơ bản của mọi ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và đầu tư – ra đời từ hơn chục năm trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để nó dậm chân tại chỗ, mệt mỏi, thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng hóa tiểu ngạch, chính ngạch của Bắc Kinh.

Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh nghiệp phụ trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?” Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại nhập? Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt Nam vẫn loay hoay lắp ráp để… chờ chết”, chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp công nghệ cao – chỉ tổ khiến dân chờ, đợi, mỏi mòn và thất vọng.

Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da dày, nhựa, chế biến nông lâm thuỷ sản, khai thác chế biến nhôm, thép, hoá chất cũng đã và đang hấp hối. Xưa nay, không ít các vị lãnh đạo vẫn cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu”, cho rằng Sài Gòn có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên. Để rồi khi công nghệ cao ngoại nhập khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng chơ, chai sượn của những người dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất nghiệp. Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa ngành dệt may, mía đường, sữa,… liên tục “than trời trách đất” trong những năm qua trước áp lực của các doanh nghiệp ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng ta đang yếu đến cỡ nào.

Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về môi trường đầu tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện “choáng váng”. Một là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng nào tại Việt Nam. Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị điều tra tham nhũng, hối lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn 2009-2012. Ba là, Ngân hàng Thế giới (World Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập đoàn Louis Berger Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ tại Việt Nam. Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn chế quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân hàng Thế giới vì không quản lí được các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự án: Giao thông Nông thôn 3, và Đầu tư Ưu tiên Cơ sợ Hạ tầng Đà Nẵng do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên Sài Gòn, nhưng những vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức tạp mở đường cho các nghi thức “lót tay”, hay “lại quả”. Đó là chưa kể đến các vụ bê bối về tham nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống cảnh sát giao thông… Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Sài Gòn.

Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước bất kể phải nếm mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu: i) Hệ thống cung cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation); ii) Giao thông vận tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv) Chức năng đô thị (Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất thải (Waste Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp tác giữa khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).

Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ nhà đến nơi làm việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40 năm: Đó là một con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt, nước ngập úng với lượng rác thải khổng lồ. Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh sát giao thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường nhỏ hẹp và biển báo đánh đố người dân – những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan chức phải tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa đường. Và cũng trên con đường ấy, những chiếc xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng lướt qua những mảnh đời cơ cực phải lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.

Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc tùng mừng 40 năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm rồi cơ đấy” khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt lấy từng chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui lên”.

MỞ LỄ.

MỞ LỄ.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mùa Chay 2015 đã qua. Những việc cử hành tưởng niệm trong Tuần Thánh đã khép lại. Chúng ta bước vào Mùa phục Sinh. Có lẽ tâm hồn của chúng ta đong đầy niềm vui của sự bình an trở về cùng Chúa và cùng anh chị em. Chúng ta đã nỗ lực chuẩn bị cả về tinh thần lẫn thể chất: Cầu nguyện, ăn chay hãm mình và thực hành việc bác ái. Cầu mong sự đổi mới trong cuộc sống được kéo dài và sinh hoa kết qủa trong cuộc sống đời thường.

Mùa Chay Thánh, các Cộng Đoàn Giáo Xứ đã nỗ lực mời gọi mọi người tham gia và chuẩn bị chu đáo để canh tân làm tươi mát tâm hồn. Những cuộc hành hương, tuần đại phúc, cấm phòng, xưng tội, học hỏi, suy ngắm, hy sinh, ăn chay và làm việc bố thí. Mầu Tím sám hối của Mùa Chay Thánh đã được thay thế bằng mầu trắng tinh tuyền của Mùa Phục Sinh. Giờ đây, chúng ta cùng lặng tâm trở về với lòng mình hiện diện trước nhan Chúa.

Chúng ta nhìn lại việc cử hành Tam Nhật Thánh trong đời sống Giáo Hội. Những ngày vừa qua, nhờ các phương tiện truyền thông của khoa học kỹ thuật qua hình ảnh, videos, facebook, twitter… Chúng ta có thể nhìn xem và học hỏi rất nhiều về những sự tổ chức cử hành Tam Nhật Vượt Qua trong đời sống của Giáo Hội. Những cảnh thu hình trực tiếp từ Thủ đô của Giáo Hội và từ Đất Thánh nơi chính Chúa đã chịu khổ hình thập giá và những phim ảnh diễn lại sự thương khó của Chúa Giêsu của nhiều nơi trên thế giới.

Thứ Năm Tuần Thánh, tại Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly và rửa chân tại nhà tù Rebibbia, Rôma. Chúng ta biết việc cử hành Bí Tích Thánh Thể theo truyền thống không có nhiều khác biệt. Trong dịp lễ này, có một số Giáo Xứ đã đắp những con chiên lớn bằng gạo nấu chín và sau thánh lễ, phân phát cho mỗi gia đình một phần nhỏ để tưởng niệm Con Chiên Vượt Qua.

Nghi thức rửa chân có nhiều hình thức khác nhau. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rửa chân cho 12 bạn nam nữ đại diện các tù nhân ở hai trại tù. Tại Thánh địa Giêrusalem, Đức Thượng Phụ Fouad Twal cũng lập lại nghi thức rửa chân. Còn nơi các Giáo Phận và các Giáo Xứ địa phương có nhiều sự sắp xếp về nghi thức rửa chân khác biệt: Có Xứ chọn 12 ông trưởng thành làm tông đồ, có nơi chọn 12 em lễ sinh, có xứ chọn 12 người cả nam lẫn nữ, có giáo xứ đã mời 12 vị ít khi tham gia sinh họat, có nơi cử hành nhiều người rửa chân cho nhau, có nơi mời chọn giáo dân rửa chân tại chỗ và có cộng đoàn lại rửa tay (nhà hưu dưỡng).

Thứ Sáu Tuần Thánh, có rất nhiều cuộc cử hành tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cách công khai long trọng. Tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã chủ sự buổi đi Đàng Thánh Giá tại hí trường Colosseum và ban phép lành tòa thánh. Tại Giêrusalem, nơi chính Chúa đã chịu khổ nạn, các hiệp sĩ Thánh Mộ và đông đảo tín hữu cũng đã đi Đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi xưa lên đồi Golgôtha. Cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ được lập lại dưới nhiều hình thức. Tại Philippines, nơi có đa số người công giáo, họ đã tổ chức rất long trọng, nhiều người thay phiên nhau vác cây thánh giá nặng trên quãng đường dài, nhiều người tự đánh mình đến chảy máu đầm đìa, có người được chọn để hy sinh đóng đinh vào thánh giá thật. Giáo dân cử hành một cách sầm uất, sốt sáng và nhiệt thành.

Với các giáo xứ có nhiều tín hữu thuộc văn hóa Châu Mỹ La tinh, cũng đã tổ chức cuộc đi Đàng thánh giá sống, có quan quân xét xử, có các quân lính dẫn đường, các bà đóng vai người Do-thái than khóc và Chúa Giêsu vác thánh giá đi dọc theo các con lộ, Đoàn lữ hành kết thúc tại nhà thờ và đóng đinh giả vào thánh giá. Rất đông người đi theo cầu kinh, hát xướng và tham dự.

Một số Giáo Xứ tại các Địa Phận ở Việt Nam tổ chức rất hoành tráng. Một vài Giáo Xứ tiêu biểu như Giáo Xứ Kẻ Sặt, Xứ Hà Nội và một số cộng đoàn Giáo Xứ tại hải ngoại cũng mở lễ rất sầm uất. Các cuộc kiệu rước rất long trọng với trống chiêng. Rất đông các ông đóng vai quân lính ăn mặc như lính La Mã với gậy gộc gươm giáo đi lùng bắt và đóng đinh Chúa. Mọi người đeo tang và ngắm nguyện, than vãn hang đá và dâng hạt. Tang lễ có tượng Chúa nằm trong quan tài được khiêng rước xung quanh nhà thờ với đèn nến sáng rực. Rồi giáo dân canh thức tới nửa đêm và tiếp tục vào sáng thứ Bảy hôn kính chân tượng Chúa. Nhiều giáo xứ, có tập tục đổ nẻ trên xác Chúa và nhiều người quỳ lết hôn chân, bốc nẻ và than van nguyện cầu.

Tuy nhiên, có nhiều Giáo Xứ Cộng Đoàn cử hành các nghi lễ tưởng niệm Chúa một cách đơn giản. Thứ Sáu Tuần Thánh, theo nghi thức phụng vụ vào lúc 3 giờ chiều, có ba phần chính: Phụng Vụ Lời Chúa (Bài Thương Khó) và Lời Nguyện trọng thể, Phần Suy Tôn Thánh Giá (Linh mục xướng: Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Mọi người thưa: Chúng ta hãy đến thờ lạy). Nghi thức hôn kính thánh giá. Phần thứ ba là Rước Lễ hiệp thông. Ra về trong yên lặng.

Qua các nghi thức tưởng niệm Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta không phê bình đúng hay sai, thật hay giả, truyền thống hay cấp tiến và mở lễ hay không. Điều quan trọng nhất là sự cảm thông của tâm hồn mỗi tín hữu. Chúng ta có thật tình khổ đau và buồn sầu khi tham dự việc tưởng niệm mà Chúa đã phải chịu chết vì tội lỗi của chúng ta không? Những hình thức tổ chức bên ngoài có đánh động được những tâm tư đang bị ngủ quên hay không? Chúng ta có thật lòng ở lặng bên Chúa trong những lúc Chúa bị người đời xỉ vả và tẩy chay không? Hãy đem tất cả những tâm tình đó vào trong cuộc sống của gia đình và cộng đoàn để áp dụng.

Sáng Thứ Bảy Tuần Thánh, khung cảnh nhà thờ vắng lặng. Nhà Tạm bỏ ngỏ. Bàn thờ lột trần. Không đèn nến. Không trang trí. Xác Chúa còn trong mồ đá. Mọi người canh thức cầu nguyện.

Chiều Vọng Phục Sinh, bầu khí thay đổi. Nhà thờ được trang trí lộng lẫy với cờ phướng và hoa lá muôn mầu. Tạo một không gian của sự đổi mới và tươi mát. Khung cảnh bề ngoài đã thay đổi, lòng mọi người cũng nên đổi thay. Không còn khóc lóc than van hay gánh nặng của thù hằn tội lỗi, tâm hồn nhẹ nhàng thảnh thơi và niềm vui của ngày mới là ngày mừng lễ Chúa Phục Sinh. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Chúa đã giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho ma quỷ. Chúa Phục Sinh mở cửa thiên đàng cho những ai tin tưởng vào Chúa.

Lễ Vọng Phục Sinh được cử hành rất long trọng với nghi thức làm phép lửa và đốt lửa vào cây nến Phục Sinh. Nến Phục Sinh là hình ảnh ánh sáng Chúa Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng đã đến trong thế gian và ánh sáng được thắp lên truyền cho mọi người. Mừng hát Exultet. Các Bài Đọc diễn tả lịch sử của ơn cứu độ. Hát Kinh Vinh Danh và Alleluia trọng thể. Một số nơi đã rửa tội cho các anh chị em Dự Tòng và cộng đoàn Kitô hữu lập lại lời hứa khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.

Niềm vui của Mùa Phục Sinh sẽ tiếp tục kéo dài trong đời sống của mỗi tâm hồn. Chúng ta cố gắng gìn giữ ánh sáng của niềm tin chiếu dọi trên mọi bước đường dương thế. Qua Bí tích Hòa Giải, chúng ta đã xưng thú, đã sám hối và đã hứa quyết tâm thay đổi, ước gì những tâm tư đó được sưởi ấm và tỏa sáng mỗi ngày trong đời sống. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban bình an và niềm vui hy vọng cho chúng ta. Alleluia.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.