Blogger Điếu Cày: Tự do báo chí ở VN không thể cản trở

Blogger Điếu Cày: Tự do báo chí ở VN không thể cản trở

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp các nhà báo bị đàn áp tại Tòa Bạch Ốc hôm 1 tháng 5, blogger Điếu Cày ngồi bên phải Tổng thống Obama

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp các nhà báo bị đàn áp tại Tòa Bạch Ốc hôm 1 tháng 5, blogger Điếu Cày ngồi bên phải Tổng thống Obama

Trà Mi-VOA

09.05.2015

Ngày Tự do Báo chí Thế giới năm nay 3/5 ghi dấu một sự kiện đáng chú ý đối với nền tự do báo chí Việt Nam khi một blogger bị Hà Nội xem là phản động và cầm tù hơn 6 năm trước khi trục xuất thẳng từ nhà giam sang Hoa Kỳ được Tổng thống Mỹ mời đến Tòa Bạch Ốc để thảo luận về thực trạng tự do ngôn luận, tự do thông tin tại Việt Nam.

” Vi 3 nhà báo được la chn t danh sách trên 30 nhà báo đ được gp Tng thng hôm y là mt ch du ca chính quyn Tng thng Obama cho thy nn t do báo chí Vit Nam rt ti t.

Điếu Cày “

Đây là lần thứ nhì blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải), một trong những người đi đầu phong trào dân báo Việt Nam, được Tổng thống Barack Obama vinh danh nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới sau khi được nhà lãnh đạo Mỹ nhắc tên cách đây 3 năm khi ông còn ngồi sau song sắt nhà tù.

Sáng lập viên Câu lạc bộ Nhà báo Tự do nói cuộc gặp với Tổng thống Barack Obama diễn ra chỉ vài ngày trước cuộc đối thoại nhân quyền thường niên Việt-Mỹ (7/5) cho thấy tình trạng nhân quyền ở Việt Nam tồi tệ ra sao và Hoa Kỳ quan tâm đến thực trạng này đến mức nào trong mối bang giao Việt-Mỹ.

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay, tiếng nói tiên phong tranh đấu cho tự do báo chí tại Việt Nam và là tác giả của các bài viết về các vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo cũng như phản đối Trung Quốc xâm lược chủ quyền Việt Nam cũng khẳng định rằng ‘tự do báo chí ở Việt Nam là không thể cản trở,’ đồng thời kêu gọi Hà Nội ‘không nên tiếp tục tuyên truyền gây thêm hận thù với người dân’ sau 40 năm chiến tranh kết thúc.

Trà Mi: Một cựu tù nhân lương tâm Việt Nam được Tổng thống Mỹ vinh danh 2 lần, anh có cảm nghĩ thế nào?

Blogger Điếu Cày: Đây là điều rất vinh dự đối với tôi, tôi rất cảm động. Gặp Tổng thống lần này, tôi đã gửi lời tri ân sâu sắc đến Tổng thống và chính phủ Mỹ đã giúp đỡ tôi có được tự do hôm nay. Trong cuộc gặp, tôi đã trình bày đầy đủ các vấn đề về tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam, và vấn đề tù nhân lương tâm. Tôi đã nhắc tới một danh sách các bạn bè cần Tổng thống quan tâm, giúp đỡ. Tôi nói với Tổng thống đôi khi những sự lên tiếng không đem lại tự do ngay tức khắc cho tù nhân lương tâm nhưng đem lại sức mạnh cho họ đứng vững trong các nhà tù, để họ hiểu rằng họ không đơn độc.

” Nhân quyn ca các nước không th khác nhau. Vì vy, h phi sa đi nhng điu lut bt công và xây dng mt xã hi văn minh, tiến b. H không nên tiếp tc tuyên truyn gây thêm hn thù vi người dân”

Trà Mi: Còn những ưu tiên mong muốn hàng đầu của anh gửi gắm qua cuộc gặp lần này ra sao?

Blogger Điếu Cày: Tất cả những điều tôi nói đều nhằm vào các điều luật của Việt Nam vì nếu không thay đổi các luật mơ hồ cho phép chính quyền bắt giữ bất kỳ ai có chính kiến khác thì việc đàn áp, bắt bớ sẽ còn tiếp diễn. Điều quan trọng nhất chúng tôi muốn là Mỹ phải gây sức ép với chính phủ Việt Nam, phải gắn nhân quyền vào các cam kết về kinh tế như TPP. Việt Nam phải từ bỏ các điều luật mơ hồ như 258, 88, 79; bãi bỏ Thông tư 37 của Bộ Công an; và sửa đổi Luật thi hành án hình sự. Tất cả quyền của tù nhân được ghi trong Luật này đã bị Thông tư 37 tước đoạt hết. Họ giam giữ tù nhân với chế độ rất khắc nghiệt, làm cho các tù nhân lương tâm thời gian gần đây liên tục tuyệt thực để phản đối.

Trà Mi: Ngoài đối thoại với nhà cầm quyền Việt Nam về vấn đề nhân quyền hằng năm, Mỹ cũng muốn lắng nghe trực tiếp từ những người đã kinh qua các kinh nghiệm từ Việt Nam. Hành động của nhà lãnh đạo Mỹ đối với anh, một nhân vật bị Việt Nam xem là phản động, theo anh, có thông điệp thế nào?

Blogger Điếu Cày: Với 3 nhà báo được lựa chọn từ danh sách trên 30 nhà báo để được gặp Tổng thống hôm ấy là một chỉ dấu của chính quyển Tổng thống Obama cho thấy nền tự do báo chí ở Việt Nam rất tồi tệ.

Trà Mi: Gặp Tổng thống lần này không chỉ là dịp để trình bày mà còn là cơ hội để thể hiện. Anh muốn thể hiện điều gì với nhà cầm quyền Việt Nam và người dân Việt Nam qua cơ hội này?

Blogger Điếu Cày: Tôi muốn nói với bạn bè còn trong nước rằng chúng tôi tuy ra ngoài này nhưng không quên họ, chúng tôi vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong nước. Anh em Câu lạc bộ nhà báo tự do chúng tôi vẫn tiếp tục chung tay để làm những công việc đó.

Trà Mi: Đó là thông điệp anh muốn gửi tới những người có cùng suy nghĩ với mình. Còn với những người khác suy nghĩ với anh, chẳng hạn như nhà cầm quyền Việt Nam, anh muốn gửi thông điệp gì tới họ qua sự xuất hiện lần này bên cạnh Tổng thống Obama?

Blogger Điếu Cày: Tôi nghĩ chính quyền Việt Nam sau 40 năm chiến tranh và giờ đây đã bang giao với Mỹ, nên xem xét lại thái độ của mình hành xử trong cộng đồng quốc tế, một xã hội loài người đang tiến tới các chuẩn mực nhân quyền phổ quát chung cho cả nhân loại. Nhân quyền của các nước không thể khác nhau. Vì vậy, họ phải sửa đổi những điều luật bất công và xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Họ không nên tiếp tục tuyên truyền gây thêm hận thù với người dân.

“… thông tư 37 ca B Công an, mt văn bn được giu kín và được s dng đ tước đot các quyn mà tù nhân được hưởng trong Lut Thi hành án hình s. Ln này, Hoa Kỳ s làm rõ, h không mun chính quyn Vit Nam s dng các điu lut không được công b đ đàn áp tù nhân...”

Trà Mi: Nhìn lại tự do báo chí ở Việt Nam 10 năm trước với thời điểm này, anh nhận xét thế nào?

Blogger Điếu Cày: Tôi thấy có những tiến triển rất mạnh về số người tham gia mạng truyền thông xã hội ngày càng mạnh mẽ. Các thông tin nhà nước muốn bưng bít không thể bưng bít được nữa. Sự phản biện trên các phương tiện truyền thông tự do giờ đã rất mạnh mẽ. Trong tương lai, việc cản trở thông tin là không thể. Hiện nay Việt Nam có 20 triệu trang Facebook. Chỉ cần 1% trong số đó dùng Facebook của mình như một trang báo nhỏ độc lập thì chúng ta có biết bao nhiêu tờ báo nhỏ độc lập. Trong tương lai, sẽ không gì ngăn cản nổi truyền thông internet và tự do báo chí ở Việt Nam là không thể cản trở được.

Trà Mi: Với tư cách một nhà báo độc lập của Việt Nam được thế giới biết tiếng, anh sẽ đóng góp cho tiến trình đó ra sao một cách cụ thể và hiệu quả nhất?

Blogger Điếu Cày: Khi còn trong nước, chúng tôi thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, thành lập Câu lạc bộ Nhà báo tự do vì những quyền đó. Sau thời gian hoạt động, tôi nhận ra rằng khi các blogger cùng lên tiếng, sẽ tạo ra một mạng lưới truyền thông rất mạnh. Vì vậy, chúng tôi phát động phong trào dân báo từ 1/1/2008: Mỗi blogger hãy là một nhà báo công dân. Phong trào dân báo đã đem lại hiệu quả nhất định. Hiện nay người dân Việt Nam sử dụng blog để cất lên tiếng nói ngày càng nhiều. Mặc dù chúng tôi bị đàn áp, nhưng đã đóng góp được phần nhỏ bé vào phong trào dân báo đó. Trang Danlambao với lượng truy cập rất cao cũng cho thấy sự thành công của mạng lưới báo công dân, hoặc anh em blogger cũng đã lập ra Mạng lưới blogger Việt Nam. Đó là những chỉ dấu của một phong trào dân báo đã bước lên một bước cao. Chúng tôi và Câu lạc bộ nhà báo tự do cũng vinh dự là đóng góp được một phần vào đó.

Trà Mi: Anh từng chia sẻ ước muốn làm cầu nối giúp mở rộng mạng lưới truyền thông độc lập trong-ngoài. Những khó khăn nhất đối với kế hoạch đó tới thời điểm này là gì?

Blogger Điếu Cày: Vì tôi mới ở tù ra, anh em chúng tôi cũng không có kinh phí hoạt động, phải đi khắp nơi để vận động đóng góp. Chúng tôi cũng xây dựng các hồ sơ về các tù nhân lương tâm để lên tiếng bảo vệ họ.

Trà Mi: Điếu Cày sau song sắt nhà tù cách đây 3 năm được Tổng thống Mỹ nhắc tới nhân ngày Tự do báo chí thế giới và hiện nay bên cạnh Tổng thống Mỹ khác nhau thế nào?

Blogger Điếu Cày: Tôi vẫn là Điếu Cày như cũ, chỉ khác là trách nhiệm giờ nặng nề hơn rất nhiều, chúng tôi sẽ cố gắng hơn nữa để đáp ứng mong mỏi của mọi người.

Trà Mi: Nếu có cơ hội chia sẻ với những người khao khát tự do báo chí trong nước, anh sẽ ưu tiên chia sẻ điều gì với họ và anh cần họ chia sẻ điều gì với anh?

Blogger Điếu Cày: Tôi muốn các bạn đoàn kết hơn nữa để chúng ta hướng tới một nền tự do báo chí, tự do ngôn luận cho Việt Nam. Các bạn chính là liên kết những cầu nối với nhau để tạo nên những mạng lưới truyền thông mạnh mẽ. Còn chúng tôi ngoài này sẽ cố gắng giúp các bạn, tìm mọi cách thúc đẩy quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong nước, lên tiếng bảo vệ các bạn khi các bạn bị tù đày, sẽ chuyển tải thông điệp các bạn muốn chuyển tới quốc tế. Tôi mong muốn cộng đồng, tất cả những người quan tâm đến nhân quyền Việt Nam cố gắng chung tay giúp đỡ, đặc biệt trong việc ký thỉnh nguyện thư gửi lên Liên hiệp quốc sắp tới, đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam phải sửa đổi những điều luật về nhân quyền. Trong những ngày diễn ra đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ, tôi biết rằng chính phủ Hoa Kỳ lần này cũng rất quan tâm đến thông tư 37 của Bộ Công an, một văn bản được giấu kín và được sử dụng để tước đoạt các quyền mà tù nhân được hưởng trong Luật Thi hành án hình sự. Lần này, Hoa Kỳ sẽ làm rõ, họ không muốn chính quyền Việt Nam sử dụng các điều luật không được công bố để đàn áp tù nhân như vậy. Tôi hy vọng các bạn tù của tôi trong nước nghe được những tin này sẽ biết rằng chúng tôi không quên họ, chúng tôi vẫn đang tiếp tục đấu tranh cho các bạn ấy.

Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn anh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.

Học giả = làm ruộng

Học giả = làm ruộng

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nguyễn Đổng Chi là một học giả nổi tiếng. Mới đọc bên fb của Hoàng Oanh thấy người ta tổ chức hội thảo 100 năm ngày sinh của ông, và cái hình chụp lại tờ “Giấy thông hành” cấp cho ông vào ngày 24/5/1955 (tức thời Cải cách ruộng đất) rất thú vị. Tờ giấy ghi nghề nghiệp của ông là “làm ruộng”, nhưng phía dưới ghi mục đích của chuyến đi là “gặp Ban nghiên cứu Văn Sử Địa”. Vui thật! Một anh nông dân mà có việc gì phải đi gặp một cơ quan nghiên cứu, mà còn nghiên cứu văn sử địa!

Tờ giấy thông hành là một chứng từ cho một thời tăm tối. Thời đó, dĩ nhiên những người như cụ Nguyễn Đổng Chi được xem là thành phần trí thức, tức là nằm trong nhóm bị “Đào tận gốc, trốc tận rễ”. Cho nên, ông quan chức công an Hà Tĩnh mới thương tình cho ông cái nghề rất hiền lành là “làm ruộng” cho an toàn trên đường đi từ Hà Tĩnh ra Hà Nội.

Tôi không rõ có bao nhiêu bạn trẻ ngày nay còn nhớ — hay thậm chí biết — đến Nguyễn Đổng Chi, chứ những người thuộc thệ hệ tôi lớn lên ở miền Nam trước 1975 thì ông là học giả rất nổi tiếng. Gia đình tôi có một bộ sách do Ba tôi sưu tầm. Bộ sách gồm nhiều truyện Tàu như Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử, Hán Sở Tranh Hùng, v.v.. Đặc biệt là cuốn Kho Tàng Truyện Cổ Tích của Nguyễn Đổng Chi. Có thể nói tôi lớn lên với những truyện trong cuốn đó. Ngày ngày đi học về, tôi ngấu nghiến đọc những truyện trong đó và tha hồ .. tưởng tượng. Ôi, một thời thiếu niên thật thần tiên với những truyện con sam, sự tích cái chổi, ông bình vôi, cái chân con chó, v.v. Văn chương giản dị, nhân cách hoá sự vật làm cho mình rất gần với sự vật, cộng với minh hoạ (chỉ vẽ tay) làm cho cuốn sách là một cuốn không thể thiếu được trong tủ sách gia đình.

Ấy thế mà sau này tôi được biết ông cụ này cũng bị lọt vào dòng xoáy của cơn lốc “Nhân văn giai phẩm”. Dưới áp lực của đảng, ông viết bài chỉ trích và vu khống cụ Phan Khôi, một học giả nổi tiếng khác. Nhưng cụ Đổng Chi là người đàng hoàng và nhà văn hoá lớn, nên ông có chối lại cho con trai (tức là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi) giải oan cho cụ.

Nhưng qua buổi hội thảo kỉ niệm ngày sinh của ông, chúng ta mới biết “người ta” vẫn còn rất dè dặt với các học giả đương thời. Theo Hoàng Oanh kể lại thì hội thảo không phải suôn sẻ như chúng ta nghĩ. Oanh viết:

“Để hội thảo có thể tiến hành được thì Ban tổ chức (Hội Văn học Nghệ thuật TPHCM, Nhà xb Trẻ, Tập đoàn truyền thông Thanh Niên) không được đăng tham luận của nhà văn Nguyên Ngọc vào kỷ yếu hội thảo, không được mời nhà văn Nguyên Ngọc; ông con Nguyễn Huệ Chi không được phát biểu cám ơn và những người tham dự hội thảo mà phải giao cho cô út, muốn trao đổi với các ý kiến tham luận thì đứng dưới hội trường chứ không được lên bục diễn giả, và nhiều chuyện khác …”

Hoàng Oanh nói là “chuyện bên lề”, nhưng tôi thì thấy đó là chuyện quan trọng. Quan trọng là vì những câu chuyện như thế nói lên một sự thật là có những thế lực vô hình cố tình gây cản trở cho tự do học thuật. Và, thế lực này không từ bỏ một tiểu tiết nào, cho dù là rất hèn, để đạt được mục tiêu của họ. Do đó, tôi cũng rất ngạc nhiên như Hoàng Oanh là “Nền tự do như vậy mà lại đi ‘giải phóng’ một nơi tự do khác”. Thế mới có ông nhạc sĩ nào đó sáng tác bài “Anh giải phóng tôi, hay tôi giải phóng anh”.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Thêm một chứng từ không hay

Thêm một chứng từ không hay

GS Nguyễn Văn Tuấn

Chúng ta, người Việt, gọi tên Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này thì ai cũng biết. Nhưng bạn nghĩ sao nếu chính phủ VN gọi theo người Tàu là “Tây Sa” và “Nam Sa”? Ấy thế mà đó là cách gọi trên giấy trắng mực đen của Bộ Ngoại giao VNDCCH!

Tôi mới đọc trên fb của bác Hoàng Dzũng viết về một tài liệu được trưng bài trong buổi hội thảo kỉ niệm 100 năm ngày sinh của học giả – nhà văn Nguyễn Đổng Chi. Tài liệu là một văn bản của Bộ Ngoại giao VNDCCH gửi cho học giả Nguyễn Đổng Chi vào ngày 22/1/1974. Nhưng cái tên trong văn bản đó mới là đáng nói. Nguyên văn như sau:

“BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Số LS/BG Độc lập Tự do Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 22 tháng 1 năm 1974

Kính gửi: Đ/c Giám đốc Thư viện nhà nước
Đ/c Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội
Đ/c Cục trưởng Cục Lưu trữ
Đ/c Viện trưởng Viện Sử học

Thủ tướng Chính phủ cần tư liệu về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây sa và Nam sa.

Đề nghị đồng chí bố trí cán bộ làm việc trong mấy ngày tết sưu tầm gấp các tư liệu, bản đồ về vấn đề này để trong vài ba ngày kịp trình lên đồng chí Thủ tướng. Chúng tôi xin cử cán bộ đến trực tiếp trình bày với các đồng chí để nói rõ thêm vấn đề này.

KT/BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
Thứ trưởng
Hoàng Văn Tiến”

Để đặt cái công văn này trong bối cảnh, chúng ta cần phải nhớ rằng Tàu cộng đánh chiếm Hoàng Sa từ VNCH vào ngày 19/1/1974. Trận hải chiến đó (do VNCH nổ súng trước) làm cho 75 lính hải quân hi sinh.

Ba ngày sau, Bộ Ngoại giao VNDCCH mới gửi công văn này đến học giả Nguyễn Đổng Chi để … “sưu tầm tài liệu” trình Thủ tướng. Nói cách khác, VNDCCH có vẻ chẳng biết chủ quyền hai quần đảo đó là thuộc Việt Nam! Chuyện khó tin nhưng có thật. Chuyện càng khó tin khi Bộ Ngoại giao VNDCCH mà dùng danh xưng của Tàu cộng để chỉ 2 quần đảo của Việt Nam! Nhưng nhìn chung, cái công văn đó cho thấy khi Tàu cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH, phía VNDCCH … không biết nói gì. Nói cách khác, họ mù mờ về sự thật lịch sử.

Trước đây, tôi vẫn bán tín bán nghi khi Tàu cộng chúng rêu rao rằng VNDCCH từng tuyên bố rằng Hoàng Sa thuộc về Tàu. Chúng tung tài liệu nói rằng “Ngày 15/6/1956, trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói với ông rằng: ‘Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc’” (1). Tuyên bố này có thật, vì cuốn sách “Cuộc tranh chấp Việt – Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của ông Lưu Văn Lợi do Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm 1995, xác nhận.

Trong một bài viết mới đây, Gs Vũ Cao Đàm (ĐHQG Hà Nội) có nói đến quan điểm của ông Lê Duẩn lúc Tàu cộng đám chiếm Hoàng Sa từ VNCH như sau:

“Còn khi Tàu Cộng chiếm Hoàng Sa thì mấy ông tuyên huấn của Bác Duẩn lại báo tin mừng cho chúng tôi biết, là ‘bạn’ đã giúp ta lấy lại Hoàng Sa ‘từ tay quân ngụy’. […] Hỏi quân ngụy là ai mà dám chiếm đóng Hoàng Sa, thì mới tá hỏa ra là bọn họ cũng là người Việt Nam, đang cầm súng chiến đấu bảo vệ đảo của nước ta” (2).

Câu chuyện trên đây do bác Vũ Cao Đàm kể lại, cùng với chứng từ “Tây Sa, Nam Sa” của Bộ Ngoại giao VNDCCH, và phát biểu của ông Ung Văn Khiêm tiết lộ một cách khá nhất quán rằng thời đó mấy quan chức và lãnh đạo cao cấp ngoài Bắc rất mơ hồ về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa. Do đó, ngày nay khi những người nối nghiệp họ phải gặp khó khăn lớn khi đương đầu với những chứng từ do chính họ sản sinh.

___

(1) Miền Bắc có tuyên bố Hoàng Sa của TQ? (BBC).

(2) Bác Trọng làm theo lời dạy của Bác Hồ hay lời dạy của các bác khác? (BVN/ Ba Sàm).

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

____

Lam Điền

Công văn Mật ở hội thảo Nguyễn Đổng Chi

08-05-2015

Hôm qua hội thảo 100 năm ngày sinh Nguyễn Đổng Chi. Ngoài phần tham luận của học giới các chuyên ngành, phía gia đình đem đến một triển lãm nho nhỏ, bao gồm hình chụp các tư liệu, bản thảo, giấy tờ công tác hồi GS Nguyễn Đổng Chi còn sinh thời và còn làm việc.

Trong số hình ảnh triển lãm ấy có 1 bản công văn của Bộ Ngoại giao, chữ đánh máy, có đóng dấu Mật và Hỏa tốc, đề ngày 22-1-1974, gửi cho các nơi như này: – Đ/c Giám đốc Thư viện Nhà nước; Đ/c Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội; Đ/c Cục trưởng cục Lưu trữ; Đ/c Viện trưởng Viện Sử học.

Nội dung là:

Thủ tướng Chính phủ cần tư liệu về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa.

Đề nghị đồng chí bố trí cán bộ làm việc trong mấy ngày Tết sưu tầm gấp các tư liệu, bản đồ về vấn đề này để trong vài ba ngày kịp trình lên đồng chí Thủ tướng.

Chúng tôi xin cử cán bộ đến trực tiếp trình bày với các đồng chí để nói rõ thêm về vấn đề này.

Công văn có dấu Bộ Ngoại giao, chữ ký của Thứ trưởng Hoàng Văn Tiến.

Ngoài ra, bên cạnh còn có bút tích ghi bằng mực màu đen: Đề nghị anh Chi tích cực thực hiện giúp. Chữ ký bên dưới đọc có lẽ là “Văn Tạo”.

Đây là công văn ra đời 3 ngày sau khi Hoàng Sa bị Trung Quốc tiến chiếm (19-1-1974). Nội dung thể hiện không khí gấp gáp của Chính phủ thông qua ý muốn của Thủ tướng cần có tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nên đã chỉ thị các cơ quan liên quan tìm ngay trong mấy ngày tết.

Ảnh chụp công văn này khi đưa triển lãm được chú thích là: “Chỉ thị mật của Bộ Ngoại giao yêu cầu khảo sát tài liệu về Hoàng Sa và Trường Sa trong những ngày tết năm 1974”.

Vấn đề là, mình chưa tra ra được vào thời điểm công văn này phát ra, thì GS Nguyễn Đổng Chi giữ chức vụ/ nhiệm vụ gì cụ thể. Tương tự, mình cũng chưa biết vào lúc đó GS Văn Tạo giữ chức vụ/ nhiệm vụ gì. Nhiều khả năng bút phê kia là của Văn Tạo, nếu vậy, công văn này từ chỗ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đến chỗ GS Văn Tạo, rồi mới đến GS Nguyễn Đổng Chi. Và quan trọng hơn, kết quả của chuyến làm việc gấp rút trong mấy ngày tết 1974 ấy là gì? Rồi sau đó Chính phủ đã làm gì tiếp theo.

Tuy nhiên, cách dùng chữ Tây Sa và Nam Sa trong công văn này gợi cho mình một ý muốn tìm hiểu là cụm từ Hoàng Sa, Trường Sa xuất hiện lần đầu tiên trong văn bản hành chính của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là vào lúc nào, ở đâu?

TÌNH MẪU TỬ

TÌNH MẪU TỬ

(Nhân ngày HIỀN MẪU xin gởi truyện ngắn này,  khi đọc coi có cầm được nước mắt không?)

–   Anh về ngay đi, em hết chịu nổi rồi, mẹ anh phiền thật.

–   Uhm, mẹ anh phiền thật, bây giờ anh đang có cuộc họp quan trọng, tối về anh sẽ giải quyết nha em.

Tiếng đầu dây bên kia dập máy nghe có vẻ rất tức tối, anh buông thõng người ra sau ghế, ở bên kia cô nhìn ra phía cửa như đang cố nuốt trôi một cái gì đó vào mình.

–   Anh nhìn đi, đó, đây này, hôm nay em sắp, ngày mai em xếp, cứ một người dọn, một người lại bày ra như vậy, ai mà chịu nổi.  Em sắp điên rồi đây.  Cô vò đầu trong 1 trạng thái vô cùng tức giận, anh lại gần cô, lấy tay xoa xoa hai bờ vai gầy gầy, cô hất chúng ra.

–  Em vào đây – Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay cô kéo vào phòng, khép hờ cửa, anh lấy xuống một chiếc hộp được đặt trên nóc tủ, lấy tay phủi nhẹ, anh nhìn cô mỉm cười.

–  Mẹ phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé, còn bây giờ để anh cho em biết mẹ chúng ta phiền đến mức nào.

Anh mở chiếc hộp ra, bên trong là một xấp hình, anh lấy ra một tấm đã cũ, nhưng chẳng hề dính tí bụi nào, cô tò mò nhìn vào tấm ảnh.

–   Em thấy không, đây là tấm hình mà Dì anh đã chụp lúc anh sinh ra, Dì kể vì mẹ yếu nên sinh lâu lắm, mà sinh lâu chắc là đau lâu em nhỉ, mà mẹ phiền thật, cứ la hét ầm ĩ cả lên, ai mà chẳng sinh.  Dì còn nói, mẹ yếu lắm, nếu cứ cố sinh thì sẽ nguy hiểm cho người mẹ, bác sĩ đã nói như vậy rồi vậy mà mẹ vẫn cố cãi: “Không, con tôi phải ra đời, tôi phải sinh,” mẹ anh phiền thật đó.

Cô nhìn tấm hình, bàn tay cô nhẹ bổng, rồi cô nhìn anh, trong mắt anh chứa một điều gì đó rất lạ.  Anh cẩn thận bỏ tấm hình đó qua một bên, lấy một tấm khác cho cô xem.

–   Em nhìn nè, đây là bức ảnh chụp lần đầu tiên anh bú mẹ, anh chẳng thấy ai phiền như mẹ cả.  Bà nội, bà ngoại nói cả rồi, mẹ yếu, không đủ sữa để cho anh, uống sữa bình đi, ở đó mà dưỡng sức, nhưng một hai cứ khư khư giữ anh vào lòng “Không, con con nhẹ cân, phải bú sữa mẹ mới tốt.”  Ai nói gì cũng cãi em nhỉ, nếu không anh được uống sữa bình rồi, sữa bình phải ngon hơn chứ, mẹ anh phiền thật.

Bàn tay cô run run, cô thấy ánh mắt của người mẹ trong bức ảnh ánh lên vẻ rất hạnh phúc, hai bàn tay cô ta cứ giữ chặt đứa bé.  Cô nhìn anh không nói gì cả.

–   Còn nữa đây này – Anh lại lôi ra một tấm khác nhìn vào đó.

–   Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, con nít hơn một năm ai chẳng chập chững biết đi, mẹ cứ làm như chỉ có con mẹ mới làm được điều đó không bằng.  Ba kể mẹ cứ gặp ai là cũng hí hởn khoe “Thằng cu Tin nhà tôi đi được rồi, nó biết đi rồi đó.”  Bộ mẹ không thấy phiền hay sao em nhỉ? – Bờ môi cô như muốn nói một cái gì đó nhưng cổ họng thì ứ nghẹn lại, bức ảnh đứa trẻ con chập chững đi về phía mẹ trong tấm hình, cô nhìn mãi.  Ba còn kể, từ ngày anh bắt đầu bi bô tập nói rồi gọi được tiếng mẹ là nguyên những ngày sau là một chuỗi điệp khúc” Cu Tin gọi mẹ đi, gọi mẹ đi cu Tin,” mẹ phiền quá đi mẹ à, anh mỉm cười xoa nhẹ vào bức ảnh, mắt anh đang long lanh thì phải.

–   Đây nữa, đây nữa này – Anh lôi ra nguyên một xấp, nhiều lắm, rất nhiều ảnh – Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, chụp làm gì mà lắm ảnh vậy không biết, lần đầu tiên anh vào mẫu giáo, có phiếu bé ngoan, rồi tiểu học, trung học, nhận bằng khen, em coi đi, đủ trò trên đời, coi hình của anh có mà đến tết mới xong, anh phì cười, “mẹ anh phiền nhỉ?”

Cô nhìn anh, anh không cười nữa, anh cầm một tấm hình lên nhìn vào đó rất lâu, cô thấy nó, một tấm hình rất đẹp, anh rất đẹp trong bộ áo tốt nghiệp cử nhân, anh lúc đó trông điển trai quá, cao ráo, nhưng…

–   Em có thấy không?  Tóc mẹ anh đó, rối em nhỉ?  Còn áo quần nữa này, cũ mèm…-  Cô nghe thấy giọng anh trở nên khác đi, không đều đều như lúc ban đầu nữa, đứt quãng.  Cô nắm lấy tay anh.

–   Năm 15 tuổi, ba bỏ mẹ con anh lại, rồi lúc đó, mọi thứ trong nhà trở nên không có điểm tựa, anh đi học, mẹ bắt anh phải học…  Em không biết đâu, anh xin nghỉ nhưng mẹ không cho, phiền như vậy chứ.   Mẹ cứ sáng sớm đi phụ quán cơm cho người ta, trưa ăn một chén cơm thừa trong quán để dư tiền cho anh học thêm ngoại ngữ, rồi chiều đến chạy đi giặt đồ cho những bà mẹ không phiền khác, để họ đi mua sắm, cà phê, giải trí…-  Giọng anh lạc hẳn – Còn nữa em ạ, tối đến mẹ lại tiếp tục đi làm lao công đường phố, sáng sớm mới về chợp mắt được một tí thôi, vậy đó…  Em thấy mẹ anh khỏe không?

“Tách”, một giọt nước rơi xuống trên tấm hình, mắt cô cũng nhòe đi, khác thật, một bà mẹ trẻ với gương mặt xinh đẹp lúc đứa con mới bi bô tập nói, và cũng với gương mặt phúc hậu đó nhưng giờ làn da đã nhăn đi, khuôn mặt gầy hẳn khi đứng cạnh cậu con trai lúc chuẩn bị ra trường.

–   Anh à – Bàn tay cô nắm lấy bàn tay run run của anh.

–   Em có thấy tay mẹ rất yếu không, anh chẳng bao giờ kể em nghe nhỉ.  Khi năm tuổi, anh đùa nghịch chạy nhảy lung tung, lúc đuổi bắt cùng cô nhóc hàng xóm anh đã trượt chân ngã từ cầu thang xuống. Lúc đó, anh chẳng thấy đau một chút nào cả, chỉ nghe một tiếng kêu rất thân quen, em có đoán được không, anh đang nằm trên một thân thể rất quen…mẹ anh đó. – Cô sững người lại, nước mắt cô trào ra, rơi xuống ướt đẫm tay anh.

–   Em à, mẹ anh phiền vậy đó, phiền từ khi anh chuẩn bị lọt lòng cho đến khi anh gần đón đứa con đầu tiên của mình, chưa hết đâu, mẹ sẽ còn phiền cả đời em ạ, bây giờ lớn rồi mẹ vẫn cứ lẽo đẽo theo anh dặn đủ thứ em không thấy sao, cơm phải ăn ba chén, đi xe phải chậm thôi, đừng có mà thức khuya quá. Mẹ anh phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé.

“Anh”, cô ôm chặt lấy anh, cô òa khóc nức nở, “em xin lỗi”, anh ôm lấy cô vỗ về, vỗ về như ngày xưa anh vẫn thường được làm như vậy.

“Choang” – Anh và cô chạy nhanh xuống bếp.

–   Mẹ xin lỗi, mẹ nghe con thèm chè hạt sen nên mẹ đi nấu, nhưng…  Giọng mẹ run run không dám nhìn về phía trước, cúi người nhặt những mảnh vỡ vừa rơi.

–   Mẹ à – Cô chạy đến nắm lấy bàn tay xương xương của mẹ – Từ nay mẹ đừng phiền nữa nhé, để con phiền mẹ cho – Cô ôm chặt mẹ, nước mắt thấm đẫm vai áo mẹ, mẹ nhìn anh, anh nhìn cô trong lòng của mẹ.

“Mẹ đã không sinh lầm con và con cũng đã không chọn nhầm dâu cho mẹ, phải không ạ?”

Lung Việt (T.H)

Hàng loạt đòi hỏi gay gắt phải trả tự do cho Tạ Phong Tần

Hàng loạt đòi hỏi gay gắt phải trả tự do cho Tạ Phong Tần

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-05-07

05072015-intensiv-req-to-relea-ta-p-tan.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch "Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới

Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch “Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới

RFA files

Trong ngày Tự do báo chí Thế giới Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã yêu cầu đích danh chính phủ Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho bà Tạ Phong Tần, một nhà báo độc lập, một blogger có nhiều bài viết phân tích và chỉ trích chính phủ Việt Nam, đang bị giam giữ với bản án 10 năm tù giam. Mặc Lâm có thêm chi tiết về vấn đề này.

Bộ Ngoại giao Hoa kỳ lên tiếng

Mới đây, trong một thông báo từ Bộ Ngoại giao Hoa kỳ, phát ngôn viên Jeff Rathke đã có những phát biểu ngắn nhưng đầy đủ ý nghĩa như sau:

“Bà Tạ Phong Tần người nhận giải thưởng Phụ nữ Can đảm Quốc tế vào năm 2013 hiện đang bị 10 năm tù giam vì đã viết blog chỉ trích nhà nước và đảng Cộng sản. Bà là người đầu tiên trong số những blogger viết bài bình luận các sự kiện chính trị, những chủ đề mà bao lâu nay vẫn bị giới hạn bởi nhà cầm quyền. Chúng tôi kêu gọi chính quyền Việt Nam ngay lập tức trả tự do cho Tạ Phong Tần và đồng thời cho phép người dân Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách tự do cả trên mạng lẫn trong đời sống.”

” Chúng tôi kêu gọi chính quyền Việt Nam ngay lập tức trả tự do cho Tạ Phong Tần và đồng thời cho phép người dân Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách tự do cả trên mạng lẫn trong đời sống

Jeff Rathke Bộ ngoại giao Hoa Kỳ”

Thông điệp của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chưa nhận được bất cứ phản hồi nào từ Hà Nội như thường lệ có lẽ do Việt Nam đang lo trình bày vấn đề nhân quyền trong cuộc Đối thoại nhân quyền với phái đoàn đến từ Washington DC và dù muốn hay không trong lần đối thoại này chắc chắn cái tên Tạ Phong Tần sẽ được mang ra bàn thảo.

Tạ Phong Tần được giới quan sát nhân quyền biết tới do những hoạt động trình bày quan điểm cũng như tố cáo những sai trái của chính quyền qua ngòi viết. Từng là một sĩ quan công an bà biết mọi mánh khóe của công an trong các vụ tham nhũng móc ngoặc hay bắt giam tra tấn người vô cớ. Những bài viết sống động của bà trên trang blog riêng có tên “Công lý và sự thật” đã làm an ninh mạng chú ý và sau cùng cáo buộc bà chống phá nhà nước với những tư tưởng sai trái.

Tháng 9 năm 2011 Tạ Phong Tần bị bắt về tội tuyên truyền chống nhà nước chung với nhà báo tự do Điều Cày Nguyễn Văn Hải và Anh Ba Saigon. Ngày 24 tháng 9 năm 2012 bà bị án tù 10 năm và bị giải giao qua nhiều nhà tù từ Nam ra Bắc. Nhà báo tự do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, một đồng đội của Tạ Phong Tần trong cùng vụ án cho biết:

-Tôi biết Tạ Phong Tần khi cô ấy đến tham dự phiên tòa xử tôi kiện công an phường Bến Thành tại tòa dân sự thành phố Sài Gòn. Trong khi gặp nhau tại phiên tòa đó thì cô ấy có mời tôi đến thăm văn phòng cô ấy làm việc và từ ngày đó chúng tôi quen biết với nhau trong nhóm Câu lạc bộ nhà báo tự do (CLBNBTD) Khi câu lạc bộ thành lập thì trên trang blog của câu lạc bộ chia sẻ về các cách thức tham gia, thực hiện. Những hoạt động của CLBNBTD, những vần đề liên quan đến pháp lý khi thành lập câu lạc bộ thì Tần là một trong những người đã đóng góp rất nhiều thông tin trên đó. Chính vì vậy chúng tôi có mối liên hệ trước khi mà Tần tham gia viết bài trên trang CLBNBTD.

Mẹ tự thiêu để phản đối

Ngày 30 tháng 7, bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tần đã tự thiêu ở phía trước của cơ quan chính phủ tỉnh Bạc Liêu để phản đối các cáo buộc đối với con gái của mình.

Bà Dương Thị Tân một người từng có thời gian dài sống và chia sẻ với Tạ Phong Tần cho biết suy nghĩ của bà về người phụ nữ bất khuất này:

Bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tần đã tự thiêu ngày 30 tháng 7, 2012

Bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tần đã tự thiêu ngày 30 tháng 7, 2012

” Lúc em vô tới em báo mẹ chết thì chỉ nói “tao biết rồi”, em hỏi ủa sao chị biết thì chỉ nói “bọn nó nói cho tao hay”. Bọn nó đã chuyền cái thông tin đó vô cho chỉ biết trước rồi cho nên khi chị biết thông tin do em nói thì chỉ có khóc thôi

Cô Tạ Minh Tú”

-Khi mà tôi biết cô Tạ Phong Tần là lúc mà cô ấy bị truy đuổi rất là gắt gao vì tham gia Câu lạc bộ nhà báo tự do cũng như những bài mà cô viết trên báo phản ảnh mặt trái những tiêu cực của xã hội. Bị người ta truy sát bị người ta đuổi và gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống cũng như nơi cư trú. Tôi biết rất rõ về cô ấy khi đã ở nhà tôi trong khoảng thời gian gần hai năm. Không còn nơi chốn nào để đi kể cả người dì ruột hay một người bạn rất thân vì áp lực mà quay ra không cưu mang nữa.

Tôi nghĩ rằng những việc cô ấy làm thì rất là rõ. Đầu tiên là tham gia vào Câu lạc bộ nhà báo tự do phản ảnh những mặt trái của xã hội, những tiêu cực của ngành công an những lộng quyền, những mặt xấu nói chung cô ấy đã mất việc làm bị thu hồi giấy tờ tùy thân và sau đó là đi tù.

Tôi nghĩ rằng trong thời gian cô đi tù thì mọi người rất là nhớ rõ một biến cố đau lòng là người mẹ thân yêu của cô ấy đau lòng vì những cái mà người ta làm với con mình không chịu được bà đã bức xúc tự thiêu. Sau đó thì người ta còn những thủ đoạn rất đê tiện c3n trở tất cả những sự giúp đỡ của mọi người đến với gia đình. Giả vờ làm động thái là hoãn phiên tòa lại để cô ấy được về tiễn mẹ lần cuối nhưng mà rồi rốt cuộc cũng không có chuyện đấy xảy ra.

Cô Tạ Minh Tú, em ruột của Tạ Phong Tần kể lại chi tiết khi cô cho chị mình biết tin mẹ tự thiêu trong nhà giam:

-Lúc em vô tới em báo mẹ chết thì chỉ nói “tao biết rồi”, em hỏi ủa sao chị biết thì chỉ nói “bọn nó nói cho tao hay”. Bọn nó đã chuyền cái thông tin đó vô cho chỉ biết trước rồi cho nên khi chị biết thông tin do em nói thì chỉ có khóc thôi chứ còn lúc đó chỉ không có gì bất ngờ hết.

” Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch “Tháo còng báo chí”, Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới sau đó một cuộc vận động cùng khắp đang mở ra nhằm yêu cầu chính phủ Việt Nam phải trả tự do vô điều kiện cho bà”

Tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế nhắc nhở

Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch “Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới sau đó một cuộc vận động cùng khắp đang mở ra nhằm yêu cầu chính phủ Việt Nam phải trả tự do vô điều kiện cho bà.

Trong lúc ấy từ trại giam số 5 Nghệ An  người tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần đang phải chiến đấu với ban quản lý trại giam vì những phân biệt đối xử với bà. Cô Tạ Minh Tú cho biết tình trạng bị giam giữ mới nhất của chị mình:

-Bọn cộng sản ngược đãi và không cho chỉ ra ngoài chúng đóng cửa suốt. KHông được ra ngoài làm gì hết cũng không được giao lưu tuyệt đối bị nhốt suốt luôn trong cái phòng đó cho nên chỉ tuyệt thực 3 ngày không ăn bọn họ mới thả cho chỉ từ thứ Hai cho tới thứ Sáu đi ra ngoài phòng giam nhưng cũng không được giao lưu với ai và cách ly luôn. Tới thứ Bảy, Chủ nhật thì nhốt thẳng trong tù luôn không được ra ngoài. Với sức khỏe bây giờ chỉ có mấy chứng bệnh như sốt, viêm họng,  huyết áp cho nên khi tuyệt thực mấy ngày không uống thuôc nên sức khỏe rất kém.

Bà Dương Thị Tân cũng từng theo chân Tạ Phong Tần qua nhiều trại giam chia sẻ:

-Tôi cũng đã từng đồng hành với em của cô Tần đi nhiều trại giam như trại Bố Lá trại Chí Hòa hay trại số 5 Nghệ An đã chứng kiến những việc mà người ta làm với cô ấy bằng cách biệt giam hay đối xử phân biệt. Nòi chung là một người đang từ khỏe mạnh cao lớn nhưng rồi gầy ốm bệnh tật như hiện nay.

Ngày 7 tháng 5, tại cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn đối thoại Nhân quyền Hoa Kỳ tại Hà Nội do trợ lý Ngoại trưởng Tom Malinowski chủ trì chắc chắn rằng hồ sơ Tạ Phong Tần sẽ được mở ra với những câu hỏi mà phía Việt Nam đã gần như hoàn toàn biết trước.

Hiếm có một tù nhân lương tâm nào được Hoa Kỳ và các tổ chức nhân quyền quốc tế đồng loạt lên tiếng cùng lúc như trường hợp của bà Tạ Phong Tần. Ngoại trưởng Hoa Kỳ là người nhấn mạnh đến việc phải trả tự do cho bà trong khi những tổ chức khác vinh danh bà như một khuôn mặt bất khuất, một ngòi viết ngay thẳng và nhất là sự can đảm hiếm có của một phụ nữ dấn thân vì công lý và sự thật.

Chương Trình Phát Triển Quận 8: Thể Nghiệm Xã Hội Dân Sự

Chương Trình Phát Triển Quận 8: Thể Nghiệm Xã Hội Dân Sự

Đoàn Thanh Liêm

Share on facebook

Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn khởi sự từ tháng 8 năm 1965 và qua năm sau 1966, thì được mở rộng sang hai quận 6 và 7 lân cận. Về căn bản, đó là một Chương trình Phát triển Cộng đồng do các anh chị em thanh niên tự nguyện hợp chung với nhau để vận động bà con ở địa phương cùng bắt tay vào những công tác nhằm cải thiện môi trường sinh sống tại khu vực kém may mắn nhất của thành phố. Đây là nơi có rất đông bà con từ các miền quê mất an ninh đưa gia đình về tá túc cư ngụ trong những khu nhà ổ chuột thiếu thốn mọi tiện nghi tối thiểu về nhiều mặt gia cư, cơ sở hạ tầng cũng như vệ sinh công cộng…

Nói chung, thì đây là lối làm việc theo cái khẩu hiệu quen thuộc của giới chuyên môn làm công tác xã hội xưa nay, đó là: “Giúp dân để người dân tự giúp lấy mình” (Help people to help themselves). Như vậy, vai trò chính yếu của người cán bộ xã hội là tự nguyện làm chất men, chất xúc tác nhằm khơi động quần chúng nhân dân ý thức và cảm nhận được nhu cầu cải tiến xã hội (felt needs) – để rồi từ đó mà họ kêu gọi động viên lẫn nhau người góp công, kẻ góp của để cùng bắt tay tham gia thực hiện những công tác cụ thể thiết thực như chỉnh trang gia cư, sửa sang xóm ngõ, đặt đường cống thóat nước, xây dựng trường học, trạm y tế, chợ búa v.v…

Trong những bài viết trước đây, tôi đã có dịp trình bày về những kết quả thành tích trên nhiều phương diện của Chương trình Phát triển này rồi. Vì thế, thiết nghĩ khỏi cần nhắc lại các chi tiết cụ thể đó ở đây nữa. Thay vào đó, tôi muốn xem xét vấn đề chúng ta có thể áp dụng những kinh nghiệm thực tiễn của Chương trình đó như thế nào trong giai đọan phát triển và xây dựng Xã hội Dân sự hiện nay vào đầu thế kỷ XXI tại nước ta. Đây là một đề tài mà bà con nhất là giới trẻ ở trong nước đang bàn thảo trao đổi rộng rãi sôi nổi và xướng xuất ra những họat động cụ thể nhằm cải thiện môi trường sinh họat văn hóa xã hội của tòan thể dân tộc.

I – Công tác xã hội là để phục vụ đồng bào: Đó là lý tưởng có sức lôi cuốn quy tụ được giới thanh niên mọi nơi, mọi lúc.

Ngay từ những năm 1950 trong chế độ tương đối tự do dân chủ thông thóang tại miền Nam, các đòan thể hiệp hội của giới thanh thiếu niên đều được tự do tổ chức các hình thức sinh họat tập thể – như cắm trại, hội thảo, trình diễn văn nghệ và đặc biệt là thực hiện những công tác cụ thể để phục vụ đồng bào ở địa phương. Các sinh họat lành mạnh này thường là những công việc nhỏ bé phù hợp với khả năng hạn chế của giới trẻ, điển hình như sửa sang đường xá, dọn vệ sinh nơi ngõ hẻm, sửa chữa lớp học, đóng bàn ghế, tổ chức sinh họat vui chơi giải trí cho các em nhỏ trong lối xóm v.v… Xin liệt kê một số họat động điển hình của giới trẻ hồi giữa thập niên 1960 đó như sau:

1 – Vào năm 1964 đã có tổ chức gọi là “Phong trào Học đường Phục vụ Xã hội” lôi cuốn được nhiều học sinh cỡ tuổi 15 – 17 trở lên tham gia vào những họat động lành mạnh được gọi chung là “công tác xã hội” nhằm giúp ích một cách cụ thể cho nhu cầu cấp bách của mỗi địa phương do chính các em chọn lựa cùng nhau đến sinh họat tại đó. Cũng vào năm 1964 này, thì tổ chức Đòan Thanh niên Chí nguyện (NVY = National Voluntary Youth) đã gửi nhiều tóan công tác đến làm việc ở một số làng xã tại nông thôn về các mặt phát triển canh nông, mở mang giáo dục, cải thiện mội trường v.v…

2 – Tới cuối năm 1964, vì có nạn bão lụt tàn phá nhiều tỉnh miền Trung như Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, nên các bạn thanh niên cùng hợp tác với nhau để thành lập Ủy Ban Phối Hợp Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Miền Trung và cử nhiều đòan công tác đến tận các địa phương bị tàn phá để giúp đỡ các nạn nhân – cụ thể là giúp phân phối thực phẩm cứu trợ, sửa sang lại nhà cửa, trường học, đường xá v.v… Đây có thể coi là lần đầu tiên mà có một họat động xã hội nhân đạo có quy mô tòan quốc lôi cuốn được rất nhiều thanh niên, sinh viên và học sinh tham gia trong thời gian kéo dài đến 3 – 4 tháng.

3 – Rồi tiếp theo là Chương trình Công tác Hè năm 1965 lôi cuốn được đông đảo giới học sinh, sinh viên ở Sài gòn cũng như ở nhiều tỉnh thành khắp miền Nam tham gia sinh họat cắm trại, trình diễn văn nghệ, thực hiện một số công tác xã hội nhân đạo nhằm phục vụ bà con đồng bào tại các địa phương, Và cũng từ kinh nghiệm của Chương trình Hè này mà ít năm sau lại có một chương trình do Bộ Giáo Dục yểm trợ gọi là “Chương trình Phát triển Sinh họat Học đường” được gọi vắn tắt là CPS.

4 – Cũng vào năm 1965 đó, thì xuất hiện Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn (CPT.Q8) như đã giới thiệu ở trên. Điểm khác biệt của Chương trình này là họat động lâu dài nhiều năm tháng tại một địa phương nhỏ bé tại vài ba quận trong thành phố. Nhờ vậy mà Chương trình này đã gây ra được một thứ tác động sâu sắc và lâu bền đối với các tầng lớp quần chúng ở địa phương. Ta sẽ phân tích chi tiết cặn kẽ hơn về khía cạnh ảnh hưởng đó trong phần tiếp theo sau.

II – Vai trò làm Đối tác của Xã hội Dân sự đối với Chính quyền Nhà nước.

Tất cả những tổ chức của giới thanh niên, sinh viên, học sinh mà có những họat động xã hội nói trên, thì đều có ba tính chất căn bản là: tự nguyện, bất vụ lợi và phi chánh phủ (voluntary, non-profit, non-governmental). Vì thế mà các tổ chức đó đều hội đủ các tiêu chuẩn để được xếp vào khu vực Xã hội Dân sự – mà điển hình nhất là tổ chức Hồng Thập Tự, Hội Hướng Đạo, các tổ chức từ thiện nhân đạo do các tôn giáo thành lập và bảo trợ v.v… Và khi các đòan thể, hiệp hội đó đứng ra thực hiện những công tác xã hội từ thiện nhân đạo tại nhiều nơi, thì họ đóng vai trò làm “Đối tác” (Counterpart) đối với Chánh quyền Nhà nước – tức là cùng hợp tác với Chánh quyền trong việc thực hiện những dịch vụ công ích (public services) để phục vụ quần chúng nhân dân.

Trường hợp của Chương trình Phát triển Quận 8 cũng vậy. Đó là một chương trình họat động (action program) hòan tòan tự nguyện do một nhóm thanh niên đề ra và được Chánh quyền chấp thuận và yểm trợ về ngân khỏan chi tiêu cũng như vật liệu xây cất do cơ quan USAID (Viện Trợ Mỹ) cung ứng. Chứ đó không phải là một bộ phận cơ sở do Chánh quyền thành lập và bổ nhiệm cán bộ công chức đứng ra phụ trách điều hành. Nói cho rõ hơn, thì về mặt cơ bản Chương trình này ra đời hòan tòan là do sáng kiến tư nhân của nhóm chủ trương – mà được vị Thủ tướng hồi đó là Tướng Nguyễn Cao Kỳ chấp thuận và giao cho Bộ Thanh niên và Tòa Đô chánh là hai cơ quan nhận trách nhiệm bảo trợ, cố vấn và giúp đỡ về mặt này mặt nọ.

Rõ ràng ở đây có sự cam kết hợp tác giữa Chánh quyền với nhóm thanh niên chủ trương trong việc thực hiện một chương trình công tác dài hạn nhằm phục vụ đồng bào tại một khu vực nghèo túng, kém phát triển nhất trong thành phố Sài gòn vào thời gian ấy.

Nhờ sự mềm mỏng nhã nhặn trong những cuộc tiếp súc vận động quần chúng địa phương tham gia công tác phát triển, nên Chương trình đã lôi cuốn thuyết phục được các thân hào nhân sĩ cùng hợp tác trong việc thực hiện nhiều công trình chỉnh trang xây dựng có quy mô lớn – nhờ sự đóng góp nhiệt tình của số đông bà con sinh sống trong các khóm hẻm. Do vậy mà trong có 6 năm họat động (1965 – 1971), Chương trình Phát triển đã hòan thành được cả trăm dự án lớn nhỏ mà có ích lợi thiết thực và lâu bền cho khối quần chúng nhân dân sở tại.

Và theo sự đánh giá khách quan của giới báo chí quốc tế vào các năm 1968 – 1971, thì Chương trình Phát triển các Quận 6,7,8 Sài gòn được coi là một trong những thành công ngọan mục nhất của giới thanh niên vào thời kỳ mà cuộc chiến tranh đang ở giai đọan tàn khốc bi thương nhất.

III – Vai trò làm “Đối trọng” của Xã hội Dân sự đối với Chánh quyền.

Trong một xã hội dân chủ, thì người công dân nào cũng có những quyền tự do căn bản – mà điển hình nhất là quyền tự do tư tưởng, tự do hội họp, lập hội, tự do ngôn luận v.v… Và Xã hội Dân sự thì có thể đóng vai trò làm “Đối trọng” (Counterbalance) đối với Chính quyền Nhà nước – thêm vào với vai trò làm “Đối tác” (Counterpart) như đã nói ở mục trên.

Tại Mỹ, người ta còn gọi đó là chủ trương “Checks and Balances” (Kiểm sóat và Quân bình) – tức là cá nhân mỗi người dân hay các tổ chức thuộc XHDS đều có quyền tham gia việc giám sát, theo dõi, kiểm sóat những hoạt động của Chánh quyền và nhờ vậy mà duy trì được sự Quân bình trong xã hội – không để cho Chánh quyền tự tung tự tác như trong một chế độ độc tài tòan trị của người cộng sản (totalitarian dictatorship).

Tại miền Nam Việt Nam hồi trước năm 1975, thì mặc dầu vẫn còn nhiều mặt hạn chế về chính trị do hòan cảnh chiến tranh gây ra, ta vẫn có thể thấy là người dân có quyền lên tiếng công khai tố cáo những sai trái bất cập của nhà cầm quyền. Họ thể hiện quyền này thông qua cơ quan truyền thông báo chí, thông qua các đại diện dân cử như Dân biểu, Nghị sĩ, kể cả thông qua Tòa án. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình khá là tiêu biểu sau đây:

* Vụ án “Ông Già Nông dân Lê Văn Duyên” ở Bến Tranh, Mỹ Tho.

Ông Lê Văn Duyên là một người nông dân cương trực sinh sống tại quận Bến Tranh tỉnh Mỹ Tho. Nhận thấy chính quyền địa phương làm nhiều điều sai trái, khuất tắt, nên ông đã gửi đơn khiếu nại tới nhiều cơ quan trung ương ở Sài gòn như Phủ Phó Tổng Thống, Quốc Hội, Giám Sát Viện và dĩ nhiên là cả các tờ báo nữa. Vì thế mà ông bị sát hại ngay tại nhà trong một đêm tối vào năm 1973. Dân chúng lối xóm phát hiện đây là hành động do viên Quận trưởng dàn dựng để trả thù và diệt trừ người đã dám đứng đơn tố cáo ông ta.

Vụ việc được báo chí phanh phui và nhất là được vị Dân biểu đại diện dân chúng ở địa phương đứng ra tố cáo trước công luận cũng như trước nhiều cơ quan chính quyền. Và vị Thẩm phán tại Tòa án Sơ thẩm Mỹ Tho là Dự thẩm Nguyễn Văn Thành đã ra lệnh bắt giữ nghi can là Trung tá Ngô Văn Thi Quận trưởng Quận Bến Tranh để tiến hành cuộc thẩm vấn điều tra theo đúng thủ tục tố tụng hình sự.

Trong vụ này, ta nhận thấy vai trò tích cực của công luận và báo chí, và nhất là sự năng nổ của vị Dân biểu địa phương là Lê Tấn Trạng đã tạo được một áp lực đối với nhà cầm quyền là phải đưa vụ án mạng ra xét xử trước Tòa án. Thứ đến là vị Thẩm phán đã thể hiện rõ ràng tính độc lập của ngành Tư pháp đối với ngành Hành pháp qua quyết định cho bắt giữ chính viên Quận trưởng đương nhiệm. Vụ này nêu rõ tính công minh chính trực của vị Thẩm phán đã không hề vị nể né tránh trách nhiệm của mình trước áp lực của các cấp chính quyền nhằm bao che cho Trung tá Thi. Cụ thể ông Ngô Văn Thi là anh em cột chèo với Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là vị Tư lệnh Quân Đòan IV đày quyền uy thế lực ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long vào lúc đó.

Nạn nhân Lê Văn Duyên lại còn được sự kính phục mến chuộng của dân chúng địa phương, nên họ đã cùng nhau góp tiền bạc công sức để xây dựng một miếu thờ người Anh hùng Nông dân này tại Bến Tranh ngay sát quốc lộ số 4 gần Ngã Ba Trung Lương nữa.

IV – Để tóm lược lại: Phẩm Giá Con Người là điều quan trọng nhất.

Những sự việc được kể ra ở trên, thì hầu hết đều đã xảy ra từ nửa thế kỷ trước. Đó là do hành động cụ thể của lớp người thuộc thế hệ chúng tôi mà lúc đó mới ở vào tuổi 20 – 30. Đến nay vào năm 2014, thì nhiều người đã ra đi từ giã cõi đời này rồi. Số còn lại, thì đã ở vào lứa tuổi cao niên 70 – 80, chúng tôi chẳng còn tham vọng có thể làm điều gì quan trọng lớn lao cho dân tộc, cho đất nước được nữa. Mà chỉ mong cho thế hệ con cháu mình được sống trong một xã hội đày tinh thần nhân bản nhân ái – mà mọi người đều yêu thương quý mến bao bọc liên đới bền chặt với nhau.

Trong mấy năm gần đây, lớp người trẻ cỡ 20 – 30 tuổi đã thật hăng say nô nức gắn bó liên kết với nhau để “đòi quyền được biết” về những điều liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Điển hình như đòi hỏi giới lãnh đạo cộng sản phải công khai hóa những điều mà họ đã ký‎ kết từ năm 1990 tại Thành Đô ở tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc với giới lãnh đạo xứ này. Và nhất là đã can đảm đứng ra bênh vực khối Dân Oan là các nạn nhân khốn khổ – đã bị mất nhà, mất đất về tay những nhóm quyền lợi tham lam vô độ và tàn ác ngoan cố hết mức.

Đó là những dấu hiệu đáng mừng của sự trỗi dậy của một thành phần tiến bộ và dũng cảm của dân tộc – mà hiện đang cố gắng xây dựng một Xã hội Dân sự vững mạnh hầu có đủ sức mạnh đối kháng được với mưu đồ đen tối lươn lẹo dối trá và tàn ác vô nhân đạo của những kẻ tham quyền cố vị, chỉ biết khư khư bảo vệ các đặc quyền đặc lợi riêng cho phe nhóm, băng đảng của riêng mình. Qua Hội nghị Thành Đô năm 1990, rõ ràng là những lãnh tụ cộng sản như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh đã thi hành chủ trương “Thà mất Nước, chứ không thà mất Đảng”. Họ hạ mình đi lạy lục xin xỏ quan thầy ở Bắc kinh vốn xưa nay là kẻ thù ngàn đời của dân tộc chúng ta – để được bảo đảm giữ vững được cái ngai vàng của mình, bất chấp sự mất đất mất biển về tay kẻ bá quyền bành trướng Trung quốc.

Và lúc này các bạn trẻ đang cương quyết đòi hỏi đảng cộng sản phải bạch hóa cái vụ ký kết bậy bạ sai trái đó với phía Trung quốc. Làm như vậy, các bạn đích thực rất xứng đáng với cái danh hiệu “Hậu sinh khả úy” vậy.

Xin được ngả mũ chào thế hệ thanh niên Việt nam của thế kỷ XXI.

Lớp người cao tuổi chúng tôi thật phấn khởi trước khí thế hăng say nô nức của các bạn trong công cuộc bảo vệ phẩm giá và công lý cho từng con người Việt nam và tiếp tục giữ vững được cái truyền thống anh hùng bất khuất từ ngàn xưa của cha ông chúng ta vậy./

Costa Mesa, California, Tháng Chín 2014

Đoàn Thanh Liêm

Báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014

Báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-04-30

04302015-2014-huma-riht-reporti-in-vn.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, trụ sở ở bang California, Hoa Kỳ chuẩn bị công bố báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014

Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, trụ sở ở bang California, Hoa Kỳ chuẩn bị công bố báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014

RFA files

Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, có trụ sở ở bang California, Mỹ, chuẩn bị công bố báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014. Hải Ninh có bài phỏng vấn với tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng, điều hợp viên của mạng lưới. Mở đầu, ông Bá Tùng cho biết điểm đáng chú ý nhất trong báo cáo nhân quyền năm nay như sau:

Nguyễn Bá Tùng: Thưa quý khán thính giả, thì cũng như mọi năm, báo cáo nhân quyền tiếp theo nói lên sự vi phạm nhân quyền của nhà nước đối với người dân ở trong nước. Nhưng mà như chị cũng đã biết năm 2014 có nhiều hoạt động của giới đấu tranh nhân quyền, cho nên song song nói đến những cái vi phạm, chúng tôi còn nói đến những hoạt động của những anh chị đấu tranh cho nhân quyền ở trong nước, đó là điểm đặc biệt của báo cáo năm nay. Như chị đã biết, trong năm 2013 thì vấn đề bạo hành đối với những nhà đấu tranh nhân quyền ít hơn năm 2014. Chúng tôi có thể nói rằng không có một nhà đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam trong năm 2014 khi xuất hiện mà không chịu sự hành hạ, truy đuổi và bạo hành của nhà nước. Đó là cái điểm hạn chế, cái sự gia tăng của nhà nước đối với những nhà đấu tranh nhân quyền ở trong nước. Năm 2014 có những phong trào như “nhà báo độc lập” được hình thành, rồi chiến dịch “chúng tôi muốn biết”, rồi những cái cà phê nhân quyền. Tất cả những hoạt động sôi động đó làm cho người trong nước và đặc biệt chúng tôi ở Hải ngoại cũng cảm thấy nức lòng vì chúng tôi biết rằng cái công cuộc đấu tranh ở trong nước càng ngày càng nhịp nhàng hơn, càng có tổ chức hơn.  Đó là cái câu trả lời của chúng tôi đối với câu hỏi của chị.

Hải Ninh: Thưa ông, dường như các nhóm hoạt động nhân quyền trong nước đang ngày càng trưởng thành tuy nhiên đi kèm với nó là sự đàn áp của giới chức trong nước. Vậy mạng lưới nhân quyền có thể giúp gì cho những nhà hoạt động ở Việt Nam?

Nguyễn Bá Tùng: Các nhà đấu tranh ở trong nước khi dấn thân vào con đường nguy hiểm này thì đều đã chấp nhận những rủi ro những đau khổ của việc đấu tranh. Còn chúng tôi ở ngoài này, những người ở hải ngoại có nhiệm vụ phụ trợ, phụ trợ bằng nhiều cách. Chúng tôi có thể tiếp xúc với các giới hữu trách ở các quốc gia ở giới dân chủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế để mà qua họ mình gây áp lực được với nhà nước Việt Nam trong vấn đề nương tay với nhà đấu tranh trong nước. Tôi nghĩ đó là những điều mình chỉ có thể làm được như vậy thôi.

Hải Ninh: Xin trở lại báo cáo năm 2014 của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Trong 6 năm kể từ khi ra báo cáo này, ông có thấy tình hình nhân quyền ở Việt Nam có thay đổi gì không và thay đổi theo chiều hướng nào?

” Chúng tôi có thể nói rằng không có một nhà đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam trong năm 2014 khi xuất hiện mà không chịu sự hành hạ, truy đuổi và bạo hành của nhà nước

Nguyễn Bá Tùng”

Nguyễn Bá Tùng: Nói một cách cụ thể hơn, chẳng hạn như so sánh năm 2013 và 2014 và báo cáo nhân quyền của mạng lưới nhân quyền nêu lên thì chúng tôi thấy vấn đề đàn áp nhân quyền càng tồi tệ hơn. Không phải là chúng tôi nói theo kiểu tuyên truyền mà chúng tôi có những con số. Chẳng hạn như án tử hình, số người bị kết án tử hình và chờ ngày thi hành án là 742 người, tăng hơn 58 người so với thời ký đó năm 2013. Rồi vấn đề bạo hành của công an, trong năm 2013 chúng tôi ghi nhận 13 trường hợp người dân bị chết trong đồn công an, nhưng trong năm 2014 có thêm 24 trường hợp. Rồi vấn đề đối với những nhà đấu tranh cho nhân quyền thì như tôi nói khi nãy, chúng tôi có thể nói rằng không có nhà đấu tranh nhân quyền nào ở trong nước trong năm 2014 mà không có một lần bị công an truy đuổi rồi là hành hung. Rồi vấn đề buôn người chẳng hạn, thì trong 6 tháng đầu năm năm 2014 so với 6 tháng trong năm 2013 tăng thêm 16%. Đó là số liệu của nhà nước. Thì như vậy đó là một vài con số để cho thấy rằng vấn đề nhân quyền tại Việt Nam trong năm 2014 nó tồi tệ hơn trong năm 2013.

Tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng, điều hợp viên của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam

Tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng, điều hợp viên của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam

Hải Ninh: Theo như ông nói thì có vẻ như tình hình nhân quyền ở Việt Nam ngày càng tăm tối. Tuy nhiên, Việt Nam đã gia nhập hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, chẳng phải những động thái bắt bớ, đàn áp trên khiến bộ mặt của họ xấu đi hay sao?

Nguyễn Bá Tùng: Thật sự như thế này chị, không phải nhà nước không biết điều đó, vì họ biết được điều đó nên họ làm mọi cách để mà có một bộ mặt tôn trọng nhân quyền. Chẳng hạn như đối với vấn đề tù nhân, trong năm 2014 họ đã thả 12 tù chính trị, nhưng đồng thời họ đã bắt vào 55 người và kết án 44 người. Nói giống như ông Brad Adams của Human Rights Watch có nói đó, cái việc làm nhà nước giống như cái cộng quay, ra đường này vô đường khác. Rồi vấn đề cho phép tập hợp quyền biểu tình, trong lúc nhà nước muốn làm đẹp hình ảnh của mình cho những nhóm đồng tính luyến ái diễu hành trên đường phố Sài Gòn Hà Nội, nhưng đồng thời họ lại bắt bớ những người biểu tình chống đối Trung Quốc xâm lược, đòi tự do ngôn luận. Nói tóm lại là nhà nước cố gắng hết sức để chứng tỏ rằng mình tôn trọng nhân quyền với vai trò của một thành viên của hội đồng nhân quyền, nhưng đồng thời đó là những cố gắng nửa vời, không thành thực, tôi nói những điều đấy, nhà nước không thành thực trong vấn đề cải thiện vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Họ muốn giữ cái độc quyền là Đảng chính trị, muốn độc tôn vấn đề lãnh đạo chính trị, thì không có cách nào khác bằng cách bóp miệng người dân, không cho người dân nói. Để bảo đảm quyền độc tôn lãnh đạo chính trị họ phải đàn áp, đó là cái điều tất yếu.

” Các nhà đấu tranh ở trong nước khi dấn thân vào con đường nguy hiểm này thì đều đã chấp nhận những rủi ro những đau khổ của việc đấu tranh. Còn chúng tôi ở ngoài này, những người ở hải ngoại có nhiệm vụ phụ trợ, phụ trợ bằng nhiều cách

Nguyễn Bá Tùng”

Hải Ninh: Trong báo cáo, ông có đưa ra những khuyến nghị dành cho chính phủ Việt Nam. Theo ông, chính phủ Việt Nam có thể thực hiện điều nào trong danh sách khuyến nghị đó để có thể cải thiện đáng kể bộ mặt nhân quyền của Việt Nam?

Nguyễn Bá Tùng: Tôi nghĩ rằng cái tiên quyết nếu nhà nước có quyết tâm là điều 4 hiến pháp. Điều 4 hiến pháp là cái nguồn gốc của mọi sự xấu, tất nhiên là họ bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng, và vì muốn bảo vệ sự độc tôn lãnh đạo của Đảng và họ đã tìm mọi cách để bóp nghẹt tiếng nói của người dân, từ mọi quyền, quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, tất cả mọi thứ quyền đã được quy định trong Tuyên ngôn dân quyền họ đều bóp nghẹt, bởi vì họ muốn họ là lực lượng lãnh đạo duy nhất như hiến pháp hiện nay ở điều 4 quy định. Đó là điều mà tôi thấy đó là nguồn gốc của mọi sự việc.

Hải Ninh: Báo cáo cũng đưa ra khuyến nghị đối với thế giới và các tổ chức quan tâm. Đó là những khuyến nghị gì, thưa ông?

Nguyễn Bá Tùng: Trong khuyến nghị của bản báo cáo năm nay chúng tôi có nói đến một cái trường hợp cụ thể đối với chính quyền Hoa Kỳ chẳng hạn. Chính quyền Hoa Kỳ thì có nhiều cái đòn bẩy để cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam chẳng hạn như là hiệp ước xuyên Thái Bình Dương Mậu Dịch đó thì nếu như nhà nước Hoa Kỳ mà đặt vấn đề nhân quyền là một giá trị như truyền thống của họ, thì họ có thể ép buộc nhà nước Việt Nam tôn trọng một cách cụ thể chẳng hạn như thả tù chính trị, vấn đề quyền của người công nhân phải được ghi vào trong cái hiệp định về Mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương. Đó là những điều mà chính phủ Hoa Kỳ có thể làm được.

Hải Ninh: Vâng, xin cảm ơn ông đã dành cho đài Á châu Tự do cuộc phỏng vấn này.

Viết từ Sài Gòn: Bị ăn quỵt đau vẫn phải ngậm miệng

Viết từ Sài Gòn: Bị ăn quỵt đau vẫn phải ngậm miệng

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Chuyến bay này ai cũng bị rọc lấy đồ, thấy mấy cô chú Việt Kiều đứng chửi: Xứ gì mà ăn cắp, ai còn dám về. Nghe nhục gì đâu.

Ngày 30-4 qua rồi, “những người ở lại” như tôi và có lẽ cả những người “Sài Gòn muôn năm cũ” cũng trút được một gánh nặng. Bây giờ xin trở về với những chuyện đời thường.

Nguyên nhân nào khiến người dân không tố cáo tham nhũng

Ngày 14-4-2015 vừa qua, Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển và Hỗ Trợ Cộng Đồng (CECODES), Trung Tâm Bồi Dưỡng Cán Bộ và Nghiên Cứu Khoa Học MTTQ Việt Nam cùng Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) công bố kết quả cuộc khảo sát chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam năm 2014 (PAPI 2014).
Theo công bố, tình hình tham nhũng vặt có chiều gia tăng. Kết quả nghiên cứu, đánh giá của người dân về tình trạng tham nhũng trong khu vực công cho thấy hiệu quả kiểm soát tham nhũng của các cấp chính quyền là “ít có chuyển biến tích cực.” Thậm chí, trong một số lĩnh vực, mức độ vòi vĩnh, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức nhà nước là “có xu hướng gia tăng.”
Thật ra tham nhũng vặt sờ ở đâu cũng thấy, từ phường xã đến huyện tỉnh đều như nhau, bất kể ở lãnh vực nào. Xin cái giấy phép con cũng phải xì tiền ra mới xong. Giấy phép kinh doanh còn khó khăn hơn nữa. Xin cái sổ đỏ, bán cái nhà, mua miếng đất cũng đều có cái giá phải trả. Nếu không thì cứ chờ vêu mặt vẫn chưa chịu ký. Điều đó như đã thành “tiền lệ,” người dân VN ai cũng biết, chẳng cần phải nghiên cứu làm chi cho mệt.
Lý giải về nguyên nhân tham nhũng vặt không suy giảm mà còn có dấu hiệu tăng, TS Đặng Hoàng Giang cho rằng phần lớn những người nhận tham nhũng không hề chịu một hậu quả nào, thậm chí họ còn coi số ít đồng nghiệp khước từ tham nhũng như những người gàn hay đạo đức giả. Mặt khác, người dân sử dụng dịch vụ công thường không đủ dũng cảm để là những người đầu tiên “bước ra ngoài cuộc chơi.” Người dân có tâm lý cam chịu vì họ nghĩ rằng cái vòng tròn khép kín này quá mạnh, họ lẻ loi và không thể nào phá được nó. Họ không tin là sẽ được bảo vệ nếu phá nó.
Có bốn nguyên nhân người dân chịu đựng tham nhũng mà không tố cáo:
– Hơn 56% cho rằng tố cáo không mang lại lợi ích gì.
– 7.7% sợ bị trả thù.
– 9% cho rằng thủ tục tố cáo rườm rà.
– 7.3% không biết tố cáo bằng cách nào.

Cảnh đón người thân tại phi trường Tân Sơn Nhất. Ngay từ trên máy bay, người nước ngoài về thăm nhà đã nhắc nhau “nhớ bỏ vài chục đô vào hộ chiếu cho chúng nó nhá.” Nếu không có vài chục đô, chắc chắn sẽ bị “hành” đủ thứ, đồ đạc bị lục tung, đôi khi còn bị móc va ly “chôm” vài thứ đáng tiền. (Hoang Dinh Nam/Getty Images)

Tham nhũng có hệ thống nên vẫn sống dai sống khỏe

Người ta nói tham nhũng nước nào cũng có, nhưng ở các nước hầu hết chỉ có những cá nhân riêng lẻ có quyền hành mới tham nhũng và được điều tra đến nơi đến chốn dù có là Tổng Thống hay Thủ Tướng cũng thế thôi, nhưng ở VN tham nhũng có hệ thống và thường được tổ chức rất bài bản khép kín. Nói cho rõ là anh tham nhũng vặt ăn được 100 đồng, phải chi “lên trên” 50 đồng (ít nhiều tùy theo chỗ nào béo bở, chỗ nào ít hơn). Đôi khi nộp lên trên rồi lại phải chia cho những ngàng ngang cấp.
Và, cái sự ăn vặt đó công khai, ai cũng biết, tai tiếng rần rần nhưng nó vẫn công khai tồn tại, sống lâu sống khỏe. Bởi họ bảo vệ nhau triệt để, các quan trên đều biết cũng cứ ngậm miệng làm thinh. Ngay cả những việc làm nhục quốc thể vẫn ngang nhiên hoành hành.
Một thí dụ như khi qua cửa khẩu vào đến VN. Ngay từ trên máy bay, những bà con từ nước ngoài về thăm nhà đã nhắc nhau “nhớ bỏ vài chục đô vào hộ chiếu cho chúng nó nhá.” Nếu không có vài chục đô, chắc chắn sẽ bị “hành” đủ thứ, đồ đạc bị lục tung, đôi khi còn bị móc va ly “chôm” vài thứ đáng tiền.

Xứ gì mà ăn cắp, ai còn dám về

Tài khoản facebook Gigi Ngo vừa mới đăng tải dòng status của Gigi Ngo hết sức phẫn uất về sự việc đã xảy ra tại sân bay Tân Sơn Nhất.
Cô cho hay đã bị rọc vali lấy thuốc bổ, vitamin và hai chai nước hoa.. Tiếp theo, cô nàng còn bày tỏ bức xúc rằng trước đã bị trả giá 200,000 đ tiền cafe khi qua cửa hải quan. Cô viết, “(…) sân bay Tân Sơn Nhất, hành lý người ta đóng mấy lớp mà cũng cố rọc thùng rọc vali lấy thuốc bổ, vitamin và lấy hai chai nước hoa xong còn để lại cái bịt ni lông, may phước mà cái đồng hồ của Natalia Tran vẫn còn, chưa lục tiếp mấy đồng hồ của mình còn không huhuhu. Đã vậy qua hải quan còn kêu lại xin $20, mình nói không có đủ tiền cho 100k được không? Hải quan trả giá thôi cho 200k đi uống cafe. Tức trào máu, phải chi cho tiền không bị mất đồ đằng này nó giữ hành lý mình 1.5 tiếng mới cho ra. Chuyến bay này ai cũng bị rọc lấy đồ thấy mấy cô chú Việt Kiều đứng chửi: Xứ gì mà ăn cắp, ai còn dám về. Nghe nhục gì đâu.”
Ngay sau khi dòng status được đăng tải đã có hàng trăm lượt like và hàng chục lượt chia sẻ thông tin về sự việc đau lòng này. Bên cạnh những dòng comment chia buồn, thông cảm với nạn nhân, thì rất nhiều ý kiến khác cũng đồng tình rằng đã từng bị hại như nhân vật chính tại sân bay Tân Sơn Nhất.
Cái cảnh chướng tai gai mắt này đã xảy ra từ bao nhiêu năm nay, tôi cũng đã đề cập đến vài lần, báo chí trong và ngoài nước cũng đã từng lên tiếng rất nhiều. Nhưng mọi chuyện vẫn đâu đóng đấy, chẳng có tí “chuyển biến” nào. Chuyện nhục quốc thể đến như thế mà không ngăn chặn được hay không muốn ngăn chặn thì nói gì đến những chuyện vặt trong nước. Người dân cứ như nằm trong cái rọ, cựa quậy chỉ có thiệt thân. Không chỉ có mấy ông có chức vụ, có quyền lực tham nhũng mà ngay cả đến anh em họ hàng nhà quan cũng tha hồ ỷ quyền cậy thế hà hiếp dân lành. Ngoài ra còn phải kể đến các tay anh chị có “số má” ở các địa phương cũng “quậy” tới bến khi móc nối với các quan chức địa phương. Đám dân lành cũng chẳng dám ho he. Nhìn qua thế thôi cũng đủ thấy người dân lương thiện phải chịu bao nhiêu tầng áp bức.
Các quan ngồi trong phòng lạnh cứ việc vẽ ra dự án trên trời cuộc đời dưới đất, không cần chú ý tới lợi ích của người dân.

Đừng nuông chiều nhà thầu Trung Quốc nữa

Một thí dụ cụ thể như các quan làm dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông. Dự án này đã gây rất nhiều tai tiếng và tai nạn. Người dân bất bình, nhà nước sốt ruột, nhưng nó vẫn ỳ ra đó, như trêu ngươi, như thách thức.
Nó ỳ ra nhưng có vẻ như càng ỳ càng lợi, vì nếu công trình kéo dài thì lại tính tiền trượt giá, nâng thêm vốn, nhà đầu tư “chết,” còn nhà thầu Trung Quốc cứ thong thả nhặt tiền. Tin mới toanh, dự án này chậm tiến độ, “đội” vốn lên $868.06 triệu USD, tăng 315,18 triệu USD so với tổng mức đầu tư ban đầu.
Làm dự án kiểu này thì quá dễ, chậm tiến độ thì tăng vốn, thiếu vốn thì vay, chỉ có chết dân. Bởi vì vay ở đâu thì cuối cùng dân cũng è cổ ra để trả cả vốn lẫn lãi. Riêng dự án này, tổng thầu là Trung Quốc, một phần vốn vay ưu đãi cũng Trung Quốc. Nhà thầu Trung Quốc làm ăn bê bối, nhưng nói ra mắc nghẹn ở cổ, vì vốn vay lại từ phía họ. Cũng như bị đòn đau mà đành ngậm bồ hòn làm ngọt.
Không chỉ chậm tiến độ, đội vốn, gây thiệt hại về kinh tế, dự án này còn là nỗi khiếp sợ về tai nạn. Đã có nhiều tai nạn xảy ra khiến có người chết và nhiều người bị thương, đè bẹp một xe taxi chạy qua.
Tổng thầu kém thì quá rõ rồi, nhưng những người chọn nhà thầu kém phải chịu trách nhiệm. Dự án trên cao, nhưng năng lực chuyên môn thì dưới thấp. Nhận ra tổng thầu dự án đường sắt trên cao kém, không đủ năng lực thì phải thay. Nếu không thể thay tổng thầu vì vướng quá nhiều thủ tục pháp lý, ràng buộc về tài chính thì phải có biện pháp quản lý cũng như quy định về chế tài để nhà thầu thi công đúng tiến độ và bảo đảm chất lượng.
Không thể nuông chiều nhà thầu Trung Quốc này thêm nữa.

Đến chuyện doanh nghiệp nước ngoài đau mà không dám kêu

Rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài mò sang VN làm ăn cũng bị móc họng, nhưng có khi mất tiền mà không làm được việc, bị các quan “ăn quịt” luôn, không chịu trả lại.
Theo VNNet, cả hội trường cười rầm rầm khi ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp Chế Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), bình luận, tỷ lệ “ăn quỵt” năm qua đã giảm bớt. Bởi, doanh nghiệp chi tiền bôi trơn nhưng không phải lúc nào cũng được việc. Nếu không trả hoa hồng, 89% doanh nghiệp FDI cho biết là sẽ có chuyện bất lợi xảy ra. Ông Tuấn dùng chữ “ăn quỵt” rất bình dân và rất đúng, nghe vừa tức cười vừa xấu hổ cho dân Việt.
Ông Tuấn giải thích rõ ràng: năm 2010, chỉ có hơn 47% doanh nghiệp FDI cho biết công việc đã được giải quyết đúng sau khi họ trả các khoản chi phí không chính thức, nhưng năm 2014, tỷ lệ này là hơn 58%. Điều đó cũng có nghĩa rằng, một số lớn các doanh nghiệp FDI trước đây đã bị “mất trắng” với công chức Việt Nam (53%) một khoản tiền lớn mà không được việc gì, và giờ thì con số này giảm xuống (42%).
Tức là việc “ăn quỵt” giảm được 9%. Vẫn cón đó 42% doanh nghiệp bị ăn quỵt, bằng gần một nửa doanh nghiệp dính vào cái bẫy hổ này mà không dám kêu.
Nỗi thống khổ của doanh nghiệp FDI càng đậm nét hơn, khi nghiên cứu này chỉ ra rằng: 17.2% doanh nghiệp đã phải bôi trơn khi xin giấy phép đầu tư, 31.4% phải chi tiền hoa hồng khi đấu thầu, 66.2% đều phải đưa phong bì lúc thông quan và 22,3% doanh nghiệp FDI đã không muốn đưa ra toà án khi có tranh chấp, bởi chạy án là phổ biến.
Nếu không trả hoa hồng, 89% doanh nghiệp FDI cho biết là sẽ có chuyện bất lợi xảy ra.
Ông Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ KH-ĐT, nói, “Doanh nghiệp lâu nay làm ăn dựa vào quan hệ với Nhà nước. Căn bệnh thâm căn, cố đế này đã ăn vào máu người Việt cả nửa thế kỷ nay, tức 50 năm, còn chúng ta mới chỉ nhận thức được vấn đề 20 năm thôi. Cho nên, phải đổi mới tư duy.”
Kêu gào “đổi mới tư duy” mãi mà chẳng thấy “tư duy” nào giúp cho đời sống của người dân Việt khá hơn. Cứ thấy thụt lùi dần. Nay tăng giá điện, mai tăng giá nước, mốt tăng giá xăng, tháng sau thu thêm “phí” nữa là “giờ đây đã đói càng thêm đói.”
Bên lề Diễn Đàn Kinh Tế Mùa Xuân, có câu chuyện kể rằng, một hãng sữa lớn của Việt Nam tổ chức một buổi hội và có mời một anh phóng viên nước ngoài tham dự. Kết thúc buổi hội, hãng này tặng cho các đại biểu một túi quà nhỏ có vài hộp sữa. Nghĩ không giá trị nhiều, anh phóng viên nọ mang về trụ sở, mở túi ra và tá hỏa phát hiện một phong bì có 200.000 đồng ($9). Rất sợ hãi, anh này vội vã quay trở lại nơi tổ chức thì đã chẳng còn ai. Sau đó, anh phải tìm đến tận trụ sở công ty sữa đó để trả bằng được cái phong bì ấy.
Với người Mỹ, việc nhận quà bằng tiền mặt là tối kỵ và nếu có quà, tổng giá trị quá $20 USD sẽ phải trả lại. Còn ở VN thì khác, nếu anh nào cho vào phong bì ít quá sẽ bị chửi, cho nhiều thì tay bắt mặt mừng cứ như bạn bè thân thiết từ khuya rồi vậy. VN thắng Mỹ là ở chỗ đó!
Văn Quang

(1 tháng 5, 2015)

PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU

PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU

LM Mark Link

Cách đây mấy năm tập san Readers Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee.  Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa.  Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi.  Cha mẹ em đã bỏ rơi em.  Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em.  Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy.  Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế.  Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: “Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!”  Bà May trả lời: “Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó.”

Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie.  Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào.  Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà.  Một hôm, có người nói với bà: “Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện?  Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?

Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May.  Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống.  Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm.  Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được.  Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé.  Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.

Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ.  Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì?  Biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng?  Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc.  Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé.  Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ.  Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie.  Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.

Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky.  Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không.  Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại.  Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ.  Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm.  Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây là sự thật!

Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình.  Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn.  Thế mà bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế!  Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: “Lạy Chúa!  Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie.”

Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm.  Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa.  Hoàn toàn không thể nào tin nổi.  Tất cả những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu.  Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện.  Tuy không thể đối thoại lâu giờ.  Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn.  Chẳng hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói:

“Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!”

Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa!  Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng.  Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi.   Bà May Lempke cũng không thể cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.

Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của bà.  Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;

Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức Giêsu về việc yêu thương nhau.

Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thường, các bà mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác.

Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của tình yêu.  Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng.  Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích thực.  Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.

Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của trên thế gian không thể mua được.  Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế gian không thể tạo ra được.  Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới không thể chiếm hữu được.  Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế không thể tập trung lại được.  Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà mọi người đều có.

Bất chấp nam hay nữ

Bất kể thuộc tôn giáo nào

Bất kể thuộc quốc tịch nào

Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.

Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh

Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có

Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan

Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.

Tình yêu dành cho tất cả mọi người

Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng

trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.

Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay.  Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie.  Đây chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống với nó thật trọn vẹn.

Và nếu chúng ta làm được như thế, chúng ta cũng có thể làm được những phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên dương thế.

LM Mark Link

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

– Chúa ở cùng anh chị em.

Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.

Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:

– Và ở cùng cha.

* * *

Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao! Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.

Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.

EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA?

* * *

EMMANUEL

– Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).

Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”

Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28:20).

Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.

* * *

TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG

Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.

Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.

Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.

Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.

Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.

Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?

Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?

Người môn sinh ưu tư với những băn khoăn.

Nắng trong vườn đã ngả dạt qua bờ dậu. Ráng chiều hoàng hôn rũ xuống lòng người môn sinh trẻ đang tầm thầy học đạo. Anh đã viết về tình yêu, đã nghe về tình yêu. Nhưng tình yêu vẫn là một huyền nhiệm. Tình yêu là gì?

Người môn sinh nhớ câu chuyện xa xưa:

– Bạch thầy, chúng con không chấp nhận nó được, nó ăn cắp, nó láu cá, nó làm biếng. Xin thầy đuổi nó về.

Mấy chú đệ tử nhỏ báo cáo với thầy. Và vị thiền sư đã bảo:

– Nó không biết phải, không biết trái nên mới cần ở với thầy. . .

Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.

Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi người học trò:

– Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?

– Bạch thầy, vì thương con.

– Bà có chữa con hết bệnh được không?

– Bạch thầy, không.

– Không chữa được, vậy đứng đó làm gì?

Người học trò ngập ngừng.

– Bạch thầy, vì thương con.

– Thương, nhưng không làm sao chữa bệnh cho con được. Vậy thương là gì?

Người học trò bắt đầu hiểu. Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng – being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”

Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:

– Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.

Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.

Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?

Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:

– Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.

Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.

Thiên Chúa ở cùng.

Người học trò im lặng suy nghĩ. Anh lắng nghe. Trong cái tĩnh mịch, anh mơ hồ nhìn thấy từ vùng im lặng đó, bật lên màu sắc của cuộc sống. Như những cánh mỏng thức giấc dần, bật màu thành bông hoa. Vị tôn sư như sợ người học trò ngần ngại với lời mình. Ông cắt nghĩa thêm:

– Thầy giả sử một vị tổng thống quyền uy, ông chỉ gật đầu, gia nhân của ông sẽ đem những người tỵ nạn vào nước ông. Ðó là cách nhìn xuống. Ðó là cách vớt lên. Nhưng giả sử, vị tổng thống ấy nghe tin còn mấy trăm người tỵ nạn mười mấy năm bơ vơ không quê hương. Nghe tin, ông tội nghiệp. Ông bỏ văn phòng. Ông đến với người tỵ nạn. Ông hỏi người tỵ nạn làm gì kiếm sống qua ngày. Dạ thưa ngài, tôi làm nghề rửa xe. Ðể hiểu, hiểu để thương, ông tổng thống quyền uy kia, mặt mũi lấm lem, quẹt mồ hôi, tóc bù xù dính dầu nhớt xăng, cũng chầu chực rửa xe, cũng ở bến xe, cũng gặm bánh mì. Con có thể hình dung một tổng thống nào dám làm thế không?

Người học trò im lặng hơn. Trong tâm trí anh. Anh không thể hình dung có chuyện đó. Anh hiểu ý vị tôn sư đang muốn nói, Thiên Chúa đã làm như vậy. Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:

Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:

Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.

– Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.

– Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?

Vị tôn sư nói với người học trò:

– Con ạ, hình ảnh người lính canh ở đây cho chúng ta một chiều sâu thiền niệm mà không biết ngọn núi cao nào, không biết vùng thinh lặng nào mới chỉ bảo cho chúng hết ý nghĩa. Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.

Trời đã vào khuya, hai thầy trò, vị tôn sư và người thanh niên tầm thầy học đạo như thả hồn mình về biến cố hai nghìn năm trước trước mầu nhiệm Tắt Thở của một người. Trong tâm trí anh, anh không thể nào hình dung vị tổng thống kia dám trở nên yếu đuối như một người tỵ nạn được. Anh bắt đầu hiểu hơn, vị tổng thống ấy chỉ có thể thương xót bằng từ trên nhìn xuống, bằng từ trên vớt lên. Ông ta không thể xuống để ở cùng.

Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.

Người học trò, như vẫn ưu tư. Nếu tình yêu là ở cùng. Tại sao Ðức Kitô lại kêu lên trong giờ sau hết: “Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”

Vị tôn sư như đọc hết ý nghĩ thầm kín của học trò mình. Ông ôn tồn bảo:

Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?

Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?

“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?

Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.

Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.

Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.

* * *

Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:

– Chúa ở cùng anh chị em.

– Và ở cùng cha.

LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

(Trích tập suy niệm “KẺ ÐI TÌM”)

Ngọcnga và Anh chị Thụ Mai gởi

Hãy Ở Trong Thầy

“Hãy Ở Trong Thầy”

+ GM GB Bùi Tuần

Mấy ngày nay, tôi thấy cảnh đời sôi động khác thường.

Trên đường xe chạy ồn ào, Dưới sông ghe xuôi ngược vội vã. Chợ chen chúc giữa người và hoa.

Mọi nhà đều rộn ràng quét dọn, trang trí, ra vào tấp nập.

Cảnh đời bề ngoài là vui, là dọn tết. Nhưng nhìn sâu vào bên trong lòng người, tôi có cảm tưởng khác. Có những gì kín đáo chìm lặng trong cõi nội tâm bất ổn.

Chính tôi cũng vậy.

Trước một hoàn cảnh mà hạnh phúc được cảm nhận là mong manh, là xa vắng, tôi chạy lại bên Chúa Giêsu.

Tôi nghe Người nói: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4).

Chúa nói đi nói lại với tôi lời đó.

Ðây là lời căn dặn cuối năm.

Ðây cũng là lời nhắn nhủ đầu năm.

Ðây không phải một lời chỉ giữ riêng cho tôi, mà cũng là một lời Chúa gởi riêng cho từng anh chị em.

Tôi mong chúng ta biết đón nhận lời Chúa gởi. Ðón nhận với lòng trân trọng, với tình cảm mến, với tâm hồn khát khao tìm hiểu ý Chúa.

Vậy, “hãy ở lại trong Chúa Giêsu” được hiểu thế nào?

Tôi xin gợi ý vắn gọn.

Trước hết, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong lời của Chúa Giêsu.

Có lần Chúa Giêsu đã phán: “Nếu các con ở lại trong lời của Thầy, thì các con sẽ là môn đệ Thầy đích thực” (Ga 8,31).

Ở lại trong lời của Chúa, là đón nhận lời Chúa, suy niệm lời Chúa để lời Chúa thấm sâu vào lòng ta. Lời Chúa sẽ gây nên những vang vọng trong hồn ta, như những khát vọng dẫn đưa ta về Nhà Chúa.

Chúng ta thừa biết, lòng trí ta mỗi ngày phải tiếp cận với từng ngàn lời nói. Trong số từng ngàn lời đó, có những lời mang sự thực, nhưng cũng có những lời giả dối, có những lời gian ác, có những lời trống rỗng. Nếu, trong cảnh hỗn độn ấy, ta vững tâm ở lại trong lời Chúa, thì lời Chúa sẽ là ánh sáng soi đường chỉ lối cho ta. Ta sẽ được Chúa chúc lành, một sự chúc lành được ban cho những ai vâng thực thi Lời Chúa.

Ngoài ra, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong tình thương của Người.

Người phán: “Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).

Ở lại trong tình thương của Chúa là đón nhận chính sự sống của Người. Một sự sống hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Một sự sống sản sinh nhiều hoa trái thiêng liêng. Một sự sống là tình yêu, là bình an, là khôn ngoan, là hạnh phúc.

Chúng ta không xa lạ gì với tình thương trên đời này và trong đời ta. Nó muôn mặt. Ðổi thay và bền vững. Vui và buồn. Ánh sáng và bóng tối. Êm đềm và sóng gió. Nếu, trong thực tế thực sự là như thế, thì ở lại trong tình thương của Chúa sẽ là một bến bờ ta cần gắn bó.

Sự gắn bó này phải rất thân mật, phải rất khăng khít. Về vấn đề này Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh dễ hiểu: “Thầy là cây nho, anh em là cành… Cũng như cành nho không thể tự mình sinh ra hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15,1-4).

Như vậy, lời Chúa gởi chúng ta đã khá rõ. Hãy ở lại trong Lời Chúa. Hãy ở lại trong tình thương của Chúa. Ở lại là gắn bó. Ở lại là cùng phấn đấu với Chúa Giêsu, là cùng với Người vâng phục thánh ý Chúa, là cùng với Người phó thác nơi Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Tôi muốn được gởi tới anh chị em lời Chúa trên đây ngày đầu năm Giáp Thân này.

Năm nay được mở đầu bằng nhiều bất ổn. Thí dụ với những dịch gia cầm, với những biến động về giá cả, với những chứng bệnh mới, với nhiều suy thoái trong lãnh vực lương tâm.

Chúng ta chấp nhận cuộc đời với những thực tế phức tạp của nó. Nhưng, là những người có đức tin, chúng ta ưu tiên đón nhận lời Chúa. “Hãy luôn luôn ở lại trong Thầy”.

Cho dù cuộc đời có những bất ngờ đau xót đến đâu, nếu chúng ta luôn ở lại trong Chúa, Chúa sẽ là Mùa Xuân vĩnh cửu của chúng ta.

Với những tư tưởng trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một năm mới bình an. Một năm ta ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Một năm vì thế mà tình yêu thương và hiệp nhất giữa chúng ta sẽ toả hương thơm Tin Mừng giữa quê hương ta, tại địa phương ta.

+ GM GB Bùi Tuần

Nhớ người thương binh VNCH

Nhớ người thương binh VNCH

Nguoi-viet.com

Lê Châu
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Ðời Tị Nạn)

LTS Người viết bài này là một cựu nữ sinh từng tham gia nhiều hoạt động xã hội từ khi còn đi học và nay tiếp tục góp sức trong các công cuộc thiện nguyện. Cô tin rằng nói về những kỷ niệm của 40 năm quốc hận, cần phải nhớ đến các thương phế binh VNCH hãy còn sống ở quê nhà.


Hai thương phế binh VNCH trong dịp nhận quà và xe lăn do Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn trao tặng. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Nước Mỹ, tháng 4 năm 2015

Bốn mươi năm sau cuộc đổi đời, những người dân miền Nam nước Việt còn trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới đang sống lại những tháng ngày hồi tưởng.

Ai đó đang hồi tưởng về Tháng Tư Ðen, về những tháng ngày đánh tư sản, đổi tiền, kinh tế mới, về bắt bớ, lao tù và học tập cải tạo. Nhưng cũng có ai đó đang có những phút lắng lòng để nhớ đến những người thương binh VNCH, những người trai của một thời ly loạn thuở nào, họ đã không may mắn phải bỏ lại chiến trường một phần thân thể.

Họ cũng thiếu may mắn nhận sự trợ giúp của chính phủ Mỹ để ra đi. Họ vẫn còn ở lại. Họ vẫn còn phải đối diện từng ngày với khó khăn, đói nghèo và cả sự bạc đãi của nhà nước mới.

Tất cả chúng tôi, những người ngày xưa được hưởng sự yên lành trong cuộc sống và sự an bình của cuộc đời hiện tại, đều xin được nhớ về các anh.

……

Hằng năm cứ vào mùa hè, Hội HO & Cứu Trợ Thương Phế Binh Quả Phụ Tử Sĩ VNCH và Trung Tâm Asia lại tổ chức đại nhạc hội tại Nam hoặc Bắc California để quyên góp một số tiền gởi về giúp các anh thương phế binh cùng cùng các quả phụ tử sĩ của người lính VNCH. Hành động này hy vọng đã nói lên được nghĩa cử của những người xa xứ lời “Cảm Ơn Anh.”

Phải, chúng tôi nơi đây không bao giờ quên các anh, chúng tôi sẽ cố gắng và còn cố gắng nhiều hơn nữa để một phần nào đền trả món nợ ân tình mà chúng tôi đã vay nơi các anh (dù các anh chưa một lần đòi trả).

Sau cuộc đổi đời, đã tròn 40 năm, ngót hơn nửa đời người, chắc hẳn các anh buồn nhiều lắm phải không? Chắc hẳn các anh đã bao lần tự trách, rằng xã hội này, quê hương này đã quên mình rồi…! Nhưng các anh ơi làm sao mà chúng tôi quên được, những người trai trẻ ngày nào đã xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ, các anh đã không ngần ngại bỏ lại sau lưng gia đình, mẹ già, em dại, và đôi khi phải bỏ lại cả người yêu nhỏ bé để làm tròn bổn phận người trai thời ly loạn.

Nào Quang Trung, Dục Mỹ, nào Ðồng Ðế, Chi Lăng; nào là “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”…

Các anh có còn nhớ không, những mùa Xuân tiền đồn, những người em gái hậu phương chúng tôi đã thêu cho các anh từng chiếc khăn tay nhỏ, nắn nót viết cho các anh những lá thư xuân thắm đượm ân tình hậu phương. Và rồi những giọt nước mắt ân tình đã rơi thật nhiều lúc phải chia tay các anh khi mặt trời xế bóng. Tiền đồn heo hút, hoa mai vàng nở rộ và và màu xanh bộ quân phục của các anh đã nhòe trong mắt các em rồi – Xe chạy cuốn bụi mù, bóng các anh khuất dần sau những cánh rừng xa lắc đó. Ðâu có ai quên các anh.

Ðất nước Việt Nam mình triền miên chinh chiến, các anh phải xa trường, xa lớp, xa bạn bè, xa gia đình, để trở thành người lính cầm sung bảo vệ quê hương, để canh cho giấc ngủ trẻ thơ đêm đêm khỏi phải giật mình, để cho bước chân của các em nhỏ tung tăng vui vẻ đến trường, để cho mẹ bình an ra chợ sớm và cho cha trồng xới liếp rau xanh. Công khó của các anh làm sao mà nói hết…

Chiến tranh không phải là trò đùa, nhưng chính chiến tranh lại là trò đùa khắc nghiệt nhất khi mà cùng một mẹ sinh ra; Nhưng bên này “Anh lớn lên anh đi làm lính chiến, bảo vệ xóm, bảo vệ làng, bảo vệ giậu mồng tơi” – còn bên kia “Anh lớn lên anh đi làm giải phóng, giải phóng xóm, giải phóng làng, giải phóng giậu mồng tơi”… (Trích từ bài thơ “Giậu Mồng Tơi” của tác giả Giang Hữu Tuyên)

Rồi từ nghịch lý đó mà các anh cứ phải miệt mài với đời lính chiến, trên khắp mọi nẻo đường từ Nam ra Bắc mà chúng ta đi hoài không tới. Miền Nam thanh bình với đồng lúa phì nhiêu hay miền Trung nắng gió đất cày lên sỏi đá, các anh cứ phải miệt mài bảo vệ. An Lộc, Khe Sanh, cổ thành Quảng Trị, rồi Dakto, Charlie,… các anh đã đi qua, có anh đã nằm lại mãi mãi không trở về, hoặc có khi anh trở về trên đôi nạng gỗ.

Nước mắt mẹ hiền đã khóc thật nhiều cho các đứa con mình. Có những đứa con mẹ được vuốt ve cỗ quan tài phủ lá Quốc kỳ. Có những đứa con mẹ ngóng trông hoài không thấy tăm hơi. Còn anh, nước mắt mẹ đã rớt thật nhiều nhưng nào đâu có làm an lành được vết thương nơi chiến trận của anh. Anh trở thành thương binh, người thương binh VNCH.

Ngày đó chúng tôi nhớ ơn các anh, xã hội tri ân các anh và cuộc đời vẫn âm thầm trả ơn các anh từng ngày. Thế rồi một đêm thức dậy, chúng tôi đâu rồi? Xã hội nát tan. Cuộc đời đổi chủ. Các anh với tấm thân tàn phế làm sao vào cuộc để tìm kiếm miếng ăn. Sau cuộc chiến xã hội xếp hàng với những chia ly, tan tác, đói nghèo, thì người thương binh ngày nào còn có ai lo lắng cho nữa. Mùa Xuân 1975 đã trở thành mùa hạ để cho “Quê hương đau, nắng Hạ cũng buồn.”

Giờ đây các anh phải đi hát dạo, đi bán vé số để kiếm sống qua ngày. Hằng năm nơi đất nước Hoa Kỳ trong ngày Lễ Cựu Chiến Binh, có các người lính cũ với bộ quân phục ngày nào, trên ngực áo đầy huy chương đón nhận những vòng hoa, những tràng pháo tay và những cái cúi đầu – họ luôn nở nụ cười trên môi, rạng rỡ và hãnh diện vô cùng với màu cờ sắc áo…

Nhìn thấy họ tươi cười mà lòng quặn thắt khi nghĩ về các anh. Các anh cũng là người lính cũ, nhưng sắc áo, màu cờ, đâu rồi? Không còn ai choàng vòng hoa hay dành cho anh một cái cúi đầu với lời nói Cảm Ơn Anh. Ôi nỗi buồn không tên chỉ mình anh lặng lẽ ấp ủ!

Dạo đó vào thập niên ’80, có đôi lần chúng tôi gặp hai người thương binh đi hát dạo trên đường phố Sài Gòn. Anh thương binh cụt giò đàn cho anh thương binh mù hát bài ca “Giã từ vũ khí.” Một lần hỏi thăm và được nghe tâm sự, một anh nói rằng trong xã hội mới này mặc bộ đồ lính VNCH có người không cho tiền vì họ ghét, nhưng không sao, tiền dù có ít nhưng mình vẫn mặc được sắc áo của mình ngày nào để nhớ về một thời chinh chiến. Ôi chua xót quá, cũng là ý nghĩ về màu cờ sắc áo mà sao người thương binh VNCH của tôi có tâm tình buồn bã đến thế. Ðúng là “quê hương đau, nắng hạ cũng buồn.”

Các anh ơi, giờ đây sau nhiều chục năm nơi đất lạ, chúng tôi đã có điều kiện để đền trả ơn anh. Một tập thể nhỏ của Trung Tâm Asia, một bà mẹ già với mái tóc bạc phơ, đang ngồi lại để cùng với tất cả những ai có lòng – tay góp bàn tay – chúng tôi đang chắt chiu thu góp từng đồng gởi về để phần nào giúp các anh nơi quê nhà khốn khó. Quê nhà là các anh. Cõi lạ là chúng tôi và chúng ta cùng chung một nỗi buồn…

Xin các anh an tâm, hãy vui lên vào những tháng năm cuối đời.

Chúng tôi nơi đây nguyện sẽ dùng nước mắt không phải để buồn để khóc, mà để rửa sạch những vết thương long cho các anh. Chúng tôi sẽ cố gắng đền trả ơn anh. Xin gởi về các anh những ân tình thắm đậm và lời cám ơn cao trọng nhất.

Tâm tư người xa xứ

Mùa Xuân California 2015