Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Trần Nhật Phong Gửi tới BBC từ Quận Cam, California

Ông Tăng Bảo Can nói ông vẫn hy vọng sẽ tìm được lại con gái mình

Vượt biên và tới được Hoa Kỳ vào năm 1985, suốt hàng chục năm nay ông Tăng Bảo Can, hiện đang sống ở nam California, vẫn đi tìm đứa con gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi trong hành trình lênh đênh trên biển khơi.

Cô con gái 14 tuổi của ông bị đem đi mất ngày 26/10/1984, khi con tàu chở gia đình ông cùng nhiều người khác đã tới được hải phận quốc tế.

“Đó là chuyến đi rất đau thương. Nó khiến cho tôi khóc bao phen, mà đến giờ mỗi khi có ai hỏi tới là nó vô tình gợi lại vết thương như dao khứa mỗi ngày, mỗi đêm.”

“Tôi là đàn ông, phải cố chịu đựng nỗi ám ảnh [mất con] để tranh đấu mà sống, nhưng vợ tôi bị trầm cảm cho tới tận ngày hôm nay,” ông Can nói.

Trong hành trình kéo dài năm ngày, tàu của ông đã bị cướp ba lần, và tai họa mất con xảy ra khi hải tặc nhảy lên tàu vào lần thứ tư.

“Trên chuyến tàu có bốn cô gái, hai cô 17 tuổi, hai cô 14 tuổi, trong đó có con gái tôi.”

“Khi lên tàu, chúng xô hết thanh niên ra, trong đó có con gái tôi. Tôi cố gắng ôm giữ cháu, và những lời cuối cùng cháu nói với tôi là ‘Ba đừng bỏ con, ba ơi cứu con’, vợ tôi khi còn nằm trong khoang thuyền, không biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài.”

“Hải tặc bắt con gái tôi cởi bỏ quần áo, mà tôi nghĩ là để chúng tìm vàng, nhẫn giấu trong người. Con gái tôi đã chống cự lại.”

Cách đây khoảng ba năm, hội thiện nguyện East Asia Missing Children Foundation được thành lập nhằm tìm kiếm những đứa trẻ bị thất lạc trong hành trình vượt biên

“Có lẽ bởi vậy nên chúng đẩy con gái tôi sang chiếc tàu của chúng. Đó là những giây phút quá hãi hùng, khi mà tôi phải chứng kiến cảnh đứa con gái yêu thương bị cướp khỏi vòng tay và ngoái lại cầu cứu.”

“Không có một chút khí giới trong tay, nhưng sự sống hay chết đối với tôi khi đó không còn quan trọng. Tôi bất chấp nỗi sợ, cố giành con gái lại từ tay một tên cướp biển có lẽ khoảng 20 tuổi, rồi bị một tên cầm giáo đâm sau lưng khiến tôi bất tỉnh.”

“Con gái tôi rất can đảm, cháu không khóc mà ngoái nhìn tôi. Tôi nhớ giọt lệ lăn tròn trên mặt cháu. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt ba chục năm nay.”

Ông Can cho biết ông cùng một số người khác từng qua Thái Lan để tìm kiếm, và đã có hai gia đình may mắn tìm được con cũng bị cướp biển Thái Lan bắt đi từ khi mới được vài tháng tuổi.

Cách đây ba năm, ông Can thành lập hội South East Asia Missing Children Foundation – Hội những đứa trẻ Đông Nam Á bị mất tích, với hy vọng chưa bao giờ nguôi ngoai là mình và những người cùng cảnh ngộ sẽ tìm thấy được những đứa con đã bị thất lạc.

“Phép lạ cũng sẽ đến cho con gái tôi, đến cho gần 100 gia đình có con thất lạc [tham gia Hội]. Tôi không được hỗ trợ nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng đi làm thật nhiều để có tiền cho hội từ thiện này của chúng tôi,” ông Can nói.

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang đấu đá để tranh quyền lãnh đạo?

Một nhà quan sát từ trong nước cho rằng bài diễn văn bế mạc hội nghị trung ương lần thứ 11 hôm 7/5 của ông Trọng nêu ra một loạt các tiêu chuẩn để được vào Ban Chấp hành Trung ương khóa tới là ‘có nhiều hàm ý’.

Hội nghị trung ương 11 đã bàn bạc về các tiêu chí lựa chọn những người vào ban lãnh đạo tối cao của Đảng trong khóa tới.

Nhiều tiêu chí

Trong diễn văn bế mạc, ông Trọng đã nêu một loạt các ‘khuyết điểm’ mà theo ông Đảng ‘kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành trung ương’, trong đó có: cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị, không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính…

Trao đổi với BBC, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát chính trị từ Tp HCM, nhận định rằng ông Trọng đề cập đến tiêu chí ‘không tham vọng quyền lực’ là ‘muốn đề cập đến người vì tham vọng quyền lực mà gom góp cho cá nhân mình’.

“Tham vọng quyền lực thật ra không xấu nếu nó có thể giúp giải quyết những vấn đề cho nhân dân,” ông Dũng giải thích, “Còn tham vọng quyền lực để củng cố địa vị độc tôn cho mình để gom góp lợi ích cho cá nhân, gia đình mình thì điều đó hoàn toàn xấu.”

“Ở Việt Nam bây giờ có quá nhiều nhóm lợi ích.”

” Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể.

Tiến sỹ Phạm Chí Dũng “

“Đối với nhiều người dân đánh giá Đảng Cộng sản chỉ là nhóm lợi ích mà thôi chứ không phải cái gì mang tính chất ý thức hệ như hồi xưa,” ông nói thêm.

Hàm ý nữa mà ông Trọng muốn đề cập tới là ‘cuộc tranh giành đấu đá nội bộ trong Đảng’, theo ông Dũng.

“Những người phe này không chấp nhận những người phe kia tham vọng quyền lực trong khi những người phe này cũng có tham vọng quyền lực,” ông nói.

Không còn giằng co?

Theo nhận định của ông Dũng thì bài diễn văn này cho thấy cuộc đấu đá nội bộ trong Đảng ‘không còn ở thế tương quan giằng co lực lượng như giữa năm trước nữa’.

“Dường như sau diễn văn kỷ niệm ngày 30/4 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sau Hội nghị trung ương 11 thì vấn đề tương quan lực lượng khó mà giằng co được nữa mà bên Đảng đang chiếm ưu thế,” ông Dũng nói.

“Theo nhiều người quen của tôi làm trong Nhà nước thì hiếm khi nào họ chứng kiến bài diễn văn nêu ra những từ ngữ như cơ hội, xu nịnh, mị dân của Tổng bí thư Đảng Cộng sản rõ đến như vậy,” ông nói thêm, “Điều đó làm cho người ta có cảm giác ông Trọng nếu không phải ở thế thượng phong thì cũng là đang chiếm ưu thế trong nội bộ Đảng.”

“Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể,” ông Dũng nói.

YÊU NHƯ THẦY YÊU

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

( Ga 15, 9-17)

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật : nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là “các con hãy yêu mến nhau” (Ga 15, 12).

Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu ?

Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con” (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa ? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, “Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người” (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu các con“, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết : “Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7 – 8). Gioan quả quyết : “Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4, 10).

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.

Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.

Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy“.  Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “gia đình là Giáo hội thu nhỏ”, thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: “yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng”.

Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô :  Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời : ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao ?

Chuyện khác : Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:

Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.

Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : “Thầy truyền cho các con” ( Ga 14, 12 ), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa.

Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khi Con Người Kêu Cầu, THIÊN CHÚA Đáp Lời!

Khi Con Người Kêu Cầu, THIÊN CHÚA Đáp Lời!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Tôi học cách thức sống với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thưa chuyện thường xuyên với Ngài

Tôi (Rémi người Pháp) chào đời năm 1961 trong một gia đình có 3 con trai. Tôi là trai út. Cuộc sống gia đình không có gì khác lạ ngoại trừ tính tình thân phụ tôi rất khe khắt. Tôi nhớ rất rõ biến cố ngày rước lễ lần đầu. Mấy ngày tĩnh tâm trước đó như đưa tuổi thơ tôi vào cõi bồng lai. Tôi tưởng rồi mình sẽ giữ mãi tâm tình sốt sắng của những ngày ấy. Thế nhưng, Đức Tin của thời ngây thơ trong trắng sớm biến mất vì bị đè bẹp bởi những thú vui giả tạo của cuộc sống.

Bước vào tuổi dậy-thì tôi lăn xả vào những buổi họp đêm và các cuộc dạo chơi đây đó. Tôi muốn chứng tỏ cuộc sống tuổi trẻ tôi khác xa với cái thời ”cũ-rích” xa xưa của Song Thân. Tôi đi từ khám phá này sang khám phá kia cho đến một lúc, tôi cảm thấy chán ngấy vì nội tâm trống rỗng. Tôi thất vọng tự hỏi: ”Sống để làm gì?”. Đôi lúc tâm trí tôi xuất hiện hình ảnh ngày tôi chết. Tôi tưởng tượng cả đến ngày diễn ra đám táng của tôi nữa kìa! Tôi thầm nghĩ:

– Trước sau gì cũng phải chết! Vậy thì chết hôm nay hay chết ngày mai đâu có khác xa bao nhiêu? Đâu có cần phải ”giết” thời gian khi thời gian vẫn lạnh lùng trôi đi mà không gì ngăn cản được? Tôi có thể đợi chờ gì nơi cuộc sống đời này?

Về phương diện tình cảm lại càng thê thảm hơn. Tôi thay đổi bạn gái như thay áo. Và cứ mỗi lần thay bạn gái như thế để lại trong trái tim tôi một kinh nghiệm đắng cay chua xót. Tôi thất bại từ cuộc tình này sang cuộc tình kia. Cuối cùng rồi chỉ còn lại trong tôi sự ghê tởm và nỗi tuyệt vọng.

Để tránh cái nhìn phán đoán khe khắt của gia đình cũng như để cắt đứt với mọi ràng buộc khiến tôi cảm thấy mất tự do, tôi quyết định thay đổi chỗ ở.

Vào cùng thời kỳ này tôi gặp lại cô bạn gái của thời thơ ấu. Nàng sinh hoạt trong một cộng đoàn dành riêng cho người trẻ mang tên Giới Trẻ – Ánh Sáng. Cộng đoàn do Linh Mục Daniel-Ange điều khiển. Nơi nàng chiếu sáng niềm vui và hy vọng. Tôi gặp nàng thường xuyên. Mỗi lần gặp mặt nàng lòng tôi như bừng cháy khi nghe nàng nói về cuộc sống hiện tại của nàng. Tôi như muốn dẹp ngay mọi chuyện để bước theo nàng. Tôi tự nhủ:

– Thay vì ước ao chết mình có thể quyết định sống, ít ra là để phục vụ tha nhân ở một nơi nào đó, xét vì không tìm được lý do để sống cho chính mình ..

Nghề nghiệp đưa tôi đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Một ngày trong một chuyến công tác, THIÊN CHÚA Quan Phòng dẫn đưa tôi gặp một nhóm của Giới Trẻ – Ánh Sáng. Tôi ở lại với Nhóm trong vòng 4 ngày. Vào buổi tối cuối cùng cả nhóm cầu nguyện cách riêng cho tôi. Vào chính lúc ấy, tôi cảm nghiệm sâu xa Tình Yêu THIÊN CHÚA tràn ngập người tôi.

Tiếp tục chuyến đi công tác, tôi quyết định mua một cuốn Kinh Thánh và dành ra mỗi ngày một tiếng đồng hồ để cầu nguyện. Mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu công việc tôi tìm một nhà thờ gần nhất để tham dự Thánh Lễ. Cơn khủng hoảng tâm linh của tôi giờ đây chỉ còn là bóng mờ kỷ niệm ..

Tôi học cách thức sống với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thưa chuyện thường xuyên với Ngài. Dần dần Chúa chiếm chỗ đứng trong mọi khoảnh khắc cuộc đời tôi. Ngài ngự trong lòng tôi và trở thành Bạn Thân dấu ái thường trú nơi tôi. Mỗi ngày tôi càng cảm thấy ước ao sống một mình với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và dâng hiến cuộc đời tôi cho Ngài. Tôi thực sự sống kinh nghiệm một cuộc hoán cải trở về với Tình Yêu THIÊN CHÚA.

Từ đó Đức Tin của tôi tiếp tục lớn mạnh và trưởng thành. Tôi vô cùng tri ân THIÊN CHÚA đã soi sáng dẫn dắt cho tôi. Tôi gặp Suzan và chúng tôi thành hôn. Chúng tôi không con cái nên đã nhận nuôi một bé gái xinh đẹp mỹ miều tên Anne.

Tôi muốn xác quyết rằng, đối với THIÊN CHÚA không gì là không thể làm được. Không một ngõ cụt nào mà Lòng Thương Xót Ngài không thể xuyên qua. Không một thống khổ tuyệt vọng nào mà Ngài lại không thể ngự xuống. Ngài đến tìm kiếm chúng ta ngay nơi chúng ta đang sống dưới bất cứ hoàn cảnh đau thương nào. THIÊN CHÚA quả thật lớn lao gấp trăm ngàn lần con tim bé nhỏ của chúng ta. Khi con người kêu cầu, THIÊN CHÚA đáp lời. Nếu chúng ta sẵn sàng lắng nghe và tiếp nhận Ngài, tức khắc Ngài đổi mới con người thấp hèn của chúng ta.

… ”Hãy tìm THIÊN CHÚA khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với THIÊN CHÚA – và Người sẽ xót thương – về với THIÊN CHÚA chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ. Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các con, và đường lối của các con không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các con chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta trao phó” (Isaia 55,6-11).

(”Il a changé ma vie! Dieu je L’ai rencontré”, Tome II, Éditions de l’Emmanuel, 2001, trang 112-116)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Sự thật

Sự thật

Blog RFA

tuankhanh

Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel trình bày một sự thật về chuyện bà sẽ không tham dự lễ diễu binh tại Nga nhằm kỷ niệm 70 năm chiến thắng Phát-xít Đức. Lý do không phải là một vấn đề mặc cảm từ kẻ thua cuộc, mà nước Đức muốn bày tỏ thái độ không ủng hộ hình thái Phát-xít mới đang xuất phát từ nước Nga, qua sự kiện Ucraina và Crimea. Thế nhưng sau lễ kỷ niệm một ngày, ngày 10 tháng 5, bà Angela Merkel sẽ đến đặt vòng hoa tại Mộ Chiến sĩ Vô danh ở Nga.

Nước Đức cũng như nhiều quốc gia khác như Mỹ, Anh, Pháp, Ba Lan… đã từ chối không tham dự lễ diễu binh ở Nga, mặc dù chiến thắng Phát-xít Đức không riêng về nước Nga. Mỗi quốc gia đều kỷ niệm ngày lịch sử này bằng các cách khác nhau trong hòa bình và mơ ước đến tương lai, và không có diễu binh. Đối với họ, có thể dùng xe tăng và hình tượng chiến thắng, giải phóng… sẽ trở nên thô bỉ và kiêu ngạo khi nhắc về nỗi đau của đồng loại.

Lịch sử đã mở ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị cưỡng ép như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn mới qua suốt được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá sẽ làm mù lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.

Sự thật, dẫu đến muộn, cũng giúp cho tôi và những người cùng thế hệ con người xã hội chủ nghĩa nhìn thấy nước Nga không quá vĩ đại như từng được nhồi nhét. Nước Nga có công lớn trong Đệ nhị Thế chiến, nhưng nước Nga cũng lạnh lùng thảm sát hàng chục ngàn sĩ quan Ba Lan ở Katyr. Nhà độc tài Stalin đã nuôi dưỡng đội quân của mình, trở thành một chế độ thực dân mới xã hội chủ nghĩa, bằng việc cho phép hãm hiếp, cướp bóc và áp đặt đời sống chính trị với nhiều quốc gia Châu Âu.

Nhờ sự thật, tôi cũng nhận ra rằng chung quanh mình vô số kẻ nói dối như một bản năng. Nói dối dù chỉ để làm tươi hồng thêm màu sắc giả tạo đã có. Ngày 9 tháng 5, kỷ niệm 70 chiến thắng Phát-xít Đức, trên trang của VOV có bài chính luận, khẳng định rằng chiến thắng của người Nga là “tiền đề vững chắc để làm nên một Điện Biên lừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu, làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 và đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế thành công như ngày nay”. Nhiều năm trước, nếu không có sự thật, có thể tôi và các bạn đã tin những dòng chữ đanh thép và kêu vang này là trí tuệ, là sự thật.

Nước Nhật, một trong những quốc gia phe Trục bị lên án, cũng đã nhìn lại Đệ nhị Thế Chiến bằng sự thật lịch sử. Phát biểu nhân dịp này, hoàng thái tử Naruhito nói rằng xin đất nước và dân tộc Nhật bản hãy cùng nhau “nhìn lại quá khứ một cách khiêm tốn nhất”. Nhìn lại khiêm tốn, để thấy rõ công và tội hiển hiện trong lịch sử.

Nếu được nhìn đủ công – tội như vậy, mới hiểu vì sao với hơn 20 triệu người đã chết trong Đệ nhị Thế chiến nhưng chính quyền Liên Xô vẫn bị căm ghét ở Châu Âu, khi lạm dụng chiến thắng và cai trị. Cũng như chúng ta cũng phải tự hỏi vì sao người dân Campuchia vẫn có nhiều người căm ghét Việt Nam, dù đã giải phóng cho họ năm 1979.

Sự thật lịch sử cho thấy Liên Xô đã dùng xe tăng nghiền nát người đòi tự do ở Hungary vào 1956, thảm sát ở Tiệp Khắc vào năm 1968. Sự thật cho thấy Cuba và Triều Tiên không phải là thiên đường, các lãnh tụ cộng sản ở Đông Âu hay Châu Mỹ chỉ là những tên độc tài hoang tưởng. Những sự thật đơn giản ấy, nhiều năm sau khi tôi và thế hệ mình lớn lên, vật vã và chấp nhận nhiều rủi ro, mới có thể tìm thấy. Thế hệ tôi, và trước nữa, chỉ biết tin tuyệt đối “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ, trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”, như bài thơ giễu nhại của Việt Phương từ năm 1969.

Sự thật không ăn được, nhưng ý thức về sự thật giúp con người ngay khi ăn, cũng khác các loài động vật khác. Sự thật giúp con người bừng tỉnh khi biết rằng 16 tấn vàng của chế độ VNCH không bị tẩu tán đi, mà được chế độ mới góp chung với gần 25 tấn vàng đánh tư sản miền Nam đợt 1, để đưa sang nước Cộng sản anh em. Sự thật cho biết ông điệp viên Phạm Xuân Ẩn được cài vào chính quyền của ông Ngô Đình Diệm, nhưng sau năm 1975 bị đưa đi Trung Cộng để tẩy não vì nghi ngờ đã có cảm tình với cách kiểm soát đất nước của chế độ VNCH.

Sự thật không dùng để báo thù, mà chỉ dùng để nhận biết và yêu thương tương lai của chính mình, của nhân loại. Nền văn minh thật què quặt nếu thiếu đi sự thật.

Cũng như bà Angela Merkel đến đặt hoa ở Mộ Chiến sĩ Vô Danh, bất kỳ ai biết đến Đệ nhị Thế Chiến sẽ không thể không kính trọng những người lính – bất kỳ của quốc gia nào – đã hy sinh để giành lại tự do cho tổ quốc, thế giới. Và nếu có đứng giữa một nghĩa trang đồ sộ qua chiến tranh, chắc chắn bạn sẽ dậy lên một lòng trắc ẩn về những số phận đã bị lạm dụng để phục vụ cho mưu đồ của kẻ khác. Dĩ nhiên, khi bạn là một người đã có diễm phúc để hiểu biết về sự thật.

———————————–

Chú thích ảnh: Đài tưởng niệm Hồng quân Liên Xô ở Praha (Tiệp Khắc cũ) bị dân chúng sơn hồng và ghi lời xin lỗi về sự kiện đàn áp năm 1968.

Kiều hối

Kiều hối

Blog RFA

Nguyễn Vũ Bình

Kiều hối theo định nghĩa là số tiền của người dân một quốc gia đi làm ăn bên ngoài biên giới mang, gửi về đất nước mình. Đối với Việt Nam, đây là một số lượng tiền, ngoại tệ khá lớn, hàng năm trên dưới 10 tỷ đô-la. Theo số liệu thống kê năm 2014, lượng kiều hối về Việt Nam đạt mức 12 tỷ đô-la. Việc xác định ý nghĩa của kiều hối và những vấn đề liên quan cũng giúp hiểu thêm về nên kinh tế Việt nam hiện nay.

Với một lượng tiền trên dưới 10 tỷ đô-la một năm chuyển vào nền kinh tế, mà không cần một yêu cầu, điều kiện nào được các chuyên gia đánh giá rất cao vai trò của lượng kiều hối này. Nhà nước Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của kiều hối nên đã có một chính sách kiều hối vô cùng thông thoáng và cầu thị. Số lượng không hạn chế với người gửi, mang ngoại tệ về nước. Không yêu cầu chuyển đổi ngoại tệ khi nhận tiền…Về cơ cấu kiều hối được sử dụng, theo phân tích chung nhất, trên 60% số tiền kiều hối được sử dụng vào đầu tư, mua nhà đất, gửi tiết kiệm, mở công ty. Số còn lại, gần 40% giành cho tích lũy và tiêu dùng.

Vai trò của kiều hối trong trường hợp nền kinh tế Việt nam rất đặc biệt và vô cùng quan trọng. Nền kinh tế Việt Nam, tuy bên ngoài và tuyên truyền là nền kinh tế thị trường nhưng thực chất không phải như vậy. Nó không đi theo nguyên lý của nền kinh tế thị trường, đó là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Ở Việt nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân chính là yếu tố quan trọng để nói, nền kinh tế Việt Nam không theo nguyên lý kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường quyết định các yếu tố của quá trình sản xuất cũng không được áp dụng ở Việt Nam. Những mặt hàng thiết yếu như điện, nước, xăng dầu đều do nhà nước quy định về giá cả. Điều quan trọng nhất liên quan tới vấn đề kiều hối, đó là việc nhà nước Việt Nam quyết định việc in tiền hoàn toàn không theo nguyên tắc nào của nền kinh tế thị trường.

Đối với các quốc gia đi theo nền kinh tế thị trường, việc in và phát hành tiền phải tuân thủ các nguyên tắc nghiêm ngặt về lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Có hai yếu tố liên quan hữu cơ với số lượng tiền phát hành đưa vào lưu thông. Đó là lượng hàng hóa sản xuất ra và số lượng ngoại tệ đang lưu hành. Ví dụ, nền kinh tế Việt Nam một năm sản xuất được 100 đơn vị hàng hóa, hiện có 50 đơn vị ngoại tệ, thì số tiền phát hành đưa vào lưu thông là 500 đơn vị. Như vậy, tỷ lệ (100 hàng hóa – 50 ngoại tệ – 500 nội tệ) sẽ là tỷ lệ để phát hành tiền đưa vào lưu thông. Đây là nguyên tắc bắt buộc, là kỷ luật sắt trong một nền kinh tế thị trường vì nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ xảy ra tình trạng lạm phát, hoặc biến động về tỷ giá dẫn tới méo mó trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, và có thể dẫn tới những đảo lộn lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy mà các nước giám sát và kiểm soát vấn đề này cực kỳ chặt chẽ. Nhưng tại Việt Nam, có thể nói, từ ngày khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt Nam, việc in và phát hành tiền là bí mật quốc gia. Nếu như việc in, phát hành tiền tuân thủ các nguyên tắc thì không ai cần giữ bí mật cả. Trên thực tế, việc in tiền ở Việt Nam hoàn toàn tùy tiện, in liên tục và không có một giới hạn nào cả. Chúng ta đều biết, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trung bình từ 20-50% và kéo dài hàng mấy chục năm, có những giai đoạn còn lạm phát phi mã. Trong khi ở các nước, lạm phát trung bình và lành mạnh khoảng từ 5-7%/năm.

Nếu như trước đổi mới, hoặc trước hội nhập quy mô của nền kinh tế còn khiêm tốn và ảnh hưởng của lạm phát (tức là việc in tiền vô tội vạ) còn chưa rõ và sức tàn phá còn chưa lớn. Nhưng khi đã hội nhập, quy mô nền kinh tế đã lớn, nhất là mối quan hệ làm ăn, đối tác với các nền kinh tế trên thế giới thì lạm phát sẽ là nỗi kinh hoàng của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta thấy, việc in tiền và phát hành tiền của nhà nước Việt Nam vẫn được thực hiện như cũ, có nghĩa là phát hành theo yêu cầu chính trị, khi cần sẽ in tiền ra. Điều kỳ lạ là với một nền kinh tế khủng hoảng từ năm 2008, nền sản xuất bị bóp nghẹt bởi muôn vàn quy định và hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc, mỗi năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp phá sản vậy mà lượng tiền in ra và phát hành với số lượng cực lớn mà Việt Nam không bị siêu lạm phát, mặc dù tỷ lệ lạm phát đã rất cao. Đồng thời tỷ giá hối đoái cũng không hề tăng đột biến.

Câu trả lời cho việc nền kinh tế không bị siêu lạm phát, trong khi lượng hàng hóa sản xuất ở Việt Nam hoàn toàn không tương xứng với lượng tiền in ra là Việt Nam ở sát cạnh Trung Quốc, hàng năm nhập khẩu số lượng cực lớn hàng giá rẻ, chất lượng thấp, theo cả đường chính ngạch và tiểu ngạch. Theo số liệu công bố năm 2014 vừa qua, thì Việt nam công bố nhập của Trung Quốc 43,9 tỷ đô-la. Nhưng phía Trung Quốc lại công bố con số xuất khẩu sang Việt nam là 63,8 tỷ đô-la. Như vậy, lượng hàng hóa nhập khẩu cực lớn, giá rẻ chất lượng thấp đã tiêu diệt nền kinh tế Việt Nam nhưng lại giúp nhà cầm quyền Việt Nam in tiền vô tội vạ mà không bị siêu lạm phát. Điều này cũng phản ánh sự lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế Trung Quốc là rất lớn. Nhưng sự lệ thuộc này còn ít người nói tới.

Về câu hỏi, lượng tiền in ra và phát hành rất lớn của nhà nước Việt Nam nhưng lại không có đột biến trong tỷ giá hối đoái chúng ta tìm thấy câu trả lời trong vấn đề kiều hối, cùng với lượng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài FDI, từ viện trợ phát triển ODA. Đó chính là ý nghĩa lớn nhất của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam. Một lượng tiền trên dưới 10 tỷ đô-la trong những năm gần đây giúp nhà nước Việt Nam in ra một số lượng tương đương lớn hơn để sử dụng và đưa vào lưu thông. Có những ý kiến cho rằng, cần kêu gọi ngăn nguồn kiều hối, đồng bào không gửi tiền về Việt Nam nữa. Tôi cho rằng việc này không thực hiện được và có lẽ không cần thiết. Chúng ta biết rằng, nhà nước Việt Nam hiện nay, toàn quyền khai thác khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên để bán, in tiền vô tội vạ, thu thuế, phí cao nhất Đông Nam Á…tức là không còn lợi thế gì người ta không khai thác, không tận dụng vậy mà với mức chi tiêu hiện nay, tham nhũng, lãng phí đến mức độ số nợ đang gấp đôi GDP hoàn toàn không có khả năng thanh toán, trong khi nền kinh tế làm ra không đủ chi tiêu trong hiện tại. Chính vì vậy chúng ta không cần phải kêu gọi, vận động một việc rất nhỏ (và khó thực hiện được) so với tình trạng đại suy thoái và khủng hoảng của Việt Nam hiện nay./.

Mother’s Day và ước mơ Được Làm Mẹ

Mother’s Day và ước mơ Được Làm Mẹ

Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Hôm nay Ngày Lễ Mẹ. Từ hai ngày trước, chị N.H, chủ nhân một tiệm bánh Pháp ở Houston, đã phải thức suốt đêm ngoài tiệm, để làm kịp những chiếc bánh đẹp mắt nhất cho những đứa con đến mua về tặng cho các bà mẹ.

“Tôi chúc họ Happy Mother’s Day. Họ cũng chúc lại tôi như thế. Nhưng họ đâu biết, trong tôi tràn ngập một nỗi bùi ngùi. Tôi là một phụ nữ. Tôi là một người vợ. Tôi cũng muốn làm một người mẹ. Nhưng có lẽ cả đời này tôi sẽ không bao giờ nghe được hai tiếng gọi ‘Mẹ ơi’.” Giọng người phụ nữ như lạc vào chốn nào.

Khao khát đó của chị N.H, cũng như của bao người phụ nữ đang hiếm muộn hay từng trải qua thời gian đau khổ trước khi được ôm trong tay một đứa con của chính mình, càng trở nên tha thiết vô cùng ở thời khắc này.

Mặc cảm ‘không có con’

Đài Trang, y tá làm việc ở Kaiser, cùng hai con có được do thụ tinh trong ống nghiệm:

“Có con có sự lo, có sự cực, nhưng niềm vui con cái mang lại không có tiền bạc nào mua được hết.” (Hình: Đài Trang cung cấp)

Mặc dù đã hơn 13 năm buông xuôi hành trình đi tìm cho mình một đứa con, vậy mà đến thời điểm này, cảm giác “đau đớn, thiếu thốn” của người đàn bà chưa một lần được làm mẹ trong chị N.H vẫn như nguyên vẹn.

Lập gia đình năm 38 tuổi với một người mà chị chọn lựa thật kỹ để “người ấy có thể không là một người chồng tốt nhưng chắc chắn sẽ là một người cha tốt,” nhưng chị N.H lại không thể ngờ đường con cái của mình lại quá gian nan.

“Tôi lập gia đình là vì tôi muốn có con. Ngay từ lúc mới lớn, tôi đã muốn có con. Tôi muốn cho con mình tất cả những gì mình từng thiếu thốn trong đời.” Ước mơ giản dị tưởng chừng như sẽ là một tất nhiên với bất kỳ người phụ nữ nào, lại bỗng trở nên quá tầm tay với đối với chị N.H.

Năm năm liên tiếp sau khi lập gia đình là 5 năm chị N.H như bị chìm trong sự khủng hoảng bởi nỗi khao khát có một đứa con không thành hiện thực. Để rồi khi chấp nhận đầu hàng, từ năm 2002, đến giờ, chị vẫn ngậm ngùi “Tôi chưa từng nghĩ sanh con để sau này nó nuôi mình, mà sanh con là để được thương yêu, chăm sóc nó, để cho nó tất cả những gì mình thiếu thốn thuở nhỏ, và để được thấy mình là đàn bà, là người mẹ. Nhưng tôi không có được. Buồn lắm.”

Khác với chị N.H, Kiều Oanh lập gia đình năm 2002, khi cô 28 tuổi, và có bầu ngay lập tức. Tuy nhiên, thời gian đó vừa muốn đeo đuổi tiếp chương trình học cao học, vừa gặp khó khăn trong công việc nên Oanh chọn giải pháp không sanh con, bởi “tôi nghĩ mình còn trẻ chờ vài ba năm nữa ổn định rồi sanh cũng không sao.”

Tuy nhiên, đến lúc sẵn sàng cho việc có thêm một thành viên mới trong gia đình thì “không thấy gì hết.” Chờ đợi hoài không có bầu, Oanh đi bác sĩ thì biết mình bị “tắt vòi trứng.”

Sau sáu tháng chữa trị, Oanh đón nhận tin vui. Nhưng. Cuộc đời luôn có những chữ “nhưng” nghiệt ngã. Oanh bị thai ngoài tử cung. Kết thúc một tháng nằm bệnh viện với hai lần giải phẫu, hai tuần tiêm hóa chất, Oanh trở về nhà, chờ đợi.

Dẫu vậy, cảm giác có một sinh linh mới tượng hình trong cơ thể mình đã không quay trở lại với Kiều Oanh.

“Gia đình chồng mong tôi có con, nhưng mà họ cũng không tỏ ý trách móc gì, trừ ba chồng tôi. Ông nói thẳng hoặc là tôi ly dị để chồng tôi đi lấy vợ khác, hoặc tôi phải để chồng có con bên ngoài.” Oanh kể.

Với chị Khanh Charles, đang làm việc như một chuyên viên thẩm mỹ ở Orange County, thì việc mong muốn có một đứa con ở tuổi 47-48 là “để thể hiện tình cảm trân quý những gì mà người chồng sau đã lo lắng cho mấy mẹ con tôi suốt những năm qua. Tôi muốn ảnh vui, muốn mẹ ảnh vui.”

Vẫn là một suy nghĩ đầy tính nhân bản của một người phụ nữ. Không chỉ cảm kích những ân tình mà người chồng sau mang lại cho mình, chị Khanh còn nhìn thấy cả nỗi khao khát con của người chồng đã ngoài 50, và nỗi mong đợi cháu của bà nội đã bước gần đến tuổi 90.

“Chồng tôi chỉ có hai mẹ con, ba ảnh mất khi ảnh lên hai tuổi, mẹ ảnh ở vậy nuôi ảnh ăn học. Năm 75 hai mẹ con đi sang đây, đến giờ vẫn không hề có một ruột rà thân thích nào hết. Cho nên việc trông ngóng có một thế hệ thứ ba trong gia đình ảnh lại là một áp lực rất lớn với tôi.” Chị Khanh tâm sự.

Những tưởng đã trải qua ba lần sanh nở tự nhiên với người chồng trước, thì cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào ở lần này. Thế nhưng, chữ “không ngờ” có chừa một ai. Chị Khanh cũng mất năm năm đeo đuổi với bao nỗi lo chất chồng để đạt được ước mơ sanh cho chồng sau một đứa con.

Còn Đài Trang, một y tá đang làm việc ở Kaiser, đã gần như rơi vào cơn trầm cảm khi phát hiện ra mình bị chứng bệnh đa nang buồng trứng (PCOS – Polycystic Ovary Syndrome) trong quá trình đi tìm hiểu lý do vì sao mình lại không thể có bầu.

Bởi lẽ, với căn bệnh đó, ngoài chuyện không thể thụ thai bình thường, nó còn là nguyên nhân dẫn đến bệnh tiểu đường, ung thư, các tai biến… trong khi “từ nhỏ tới lớn, lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ mình sẽ là mẹ của ba đứa con. Mà chưa bao giờ trong đầu nghĩ đó sẽ là con ruột hay con nuôi, chỉ biết là có ba đứa.”

Sau thời gian khủng hoảng với việc lên cân, từ cô gái mảnh khảnh 90 pounds, chỉ trong hai năm, Trang nặng hơn 140 pounds, và đau khổ, khóc lóc, tự nhốt mình trong chính mình, không muốn trò chuyện với bất kỳ ai, Trang bắt đầu đối diện với sự thật:“Bệnh mình, mình không chữa thì ai giúp mình?”

Trang bắt đầu hành trình đi tìm cho mình những đứa con trong giấc mơ ngày nào…

Chị Khanh Charles cùng chồng và con gái Kiera Khanh Nguyễn:

“Tôi và ông xã quá khổ mới có Kiera nên đứa con này thực sự là vô giá.” (Hình: Khanh Charles cung cấp)

Tìm con’ – đoạn trường ai có qua cầu mới hay

Biết mình không thể có con bình thường, nhiều người khuyên Trang tìm con nuôi.

“Tôi cũng sẵn sàng cho chuyện tìm con nuôi nhưng đồng thời vẫn muốn được sanh con, muốn có một đứa con mang dòng máu của chính mình.” Trang giãi bày.

Tuy nhiên, với chứng bệnh đa nang buồng trứng, Trang chỉ còn một chọn lựa duy nhất để có con, đó là thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization – IVF).

Với phụ nữ hiếm muộn hay gặp khó khăn trong việc mang thai, ngoài việc cần phải có tiền để có con bằng cách này hay cách khác, thì sức ép tinh thần mang lại từ nỗi lo, sự khắc khoải, buồn phiền lại nặng nề hơn bao giờ hết. Đài Trang không là ngoại lệ.

Dành dụm, chắt chiu để có đủ số tiền làm IVF lần thứ nhất. Thất bại. Lần thứ hai. Lại thất bại.

“Mỗi lần làm đau lắm, nhất là khi bác sĩ đưa dụng cụ vào lấy trứng ra rất là đau. Đau nhưng ba ngày sau mình phải khỏe để bác sĩ đặt bọc trứng đã bơm tinh trùng vào. Không khỏe cũng phải khỏe, nếu mình nghĩ cơ thể mình yếu thì làm sao có bầu được.” Trang nói về ý chí làm mọi cách để có con.

Đó là chưa kể có lúc cơ thể quá nhạy cảm với những “vật lạ” từ ngoài đưa vào, cô còn bị sưng, bị phù phải vào bệnh viện. Nhưng vì nỗi khao khát có con, cô bất chấp hết. Chỉ biết “mỗi lần không thành công, thai không đậu là mỗi lần buồn, khóc quá trời.”

Nhưng sau cùng, Trang được đền bồi cho tất cả những gì mình cố gắng. Dù rằng “hai tuần sau khi biết là thai đậu, thì cũng là lúc bắt đầu ói mửa như điên. Trong suốt thời gian mang bầu cho đến khi sanh được đứa con đầu tiên, tôi phải nghỉ làm hẳn, vì ói kinh khủng lắm, từ lúc có bầu cho đến gần tháng thứ bảy. Vừa ngưng ói ba tuần thì sanh non.”

“Nhưng có con rồi thì mình thấy tất cả những gì mình trải qua đều là xứng đáng hết, tất cả đều không còn quan trọng gì nữa hết.” Trang nói bằng giọng mãn nguyện sau quá trình gần 5 năm mới có được mụn con đầu.

Tương tự như Đài Trang là trường hợp chị Khanh Charles. “Không một ai trong gia đình tôi lẫn bạn bè tán thành việc tôi mang thai sanh con ở tuổi 47-48, ngoại trừ chồng tôi, lúc đó ảnh 53 tuổi.”

Sau năm năm làm đủ mọi cách, “ai chỉ gì làm đó nhưng đều thất bại”, chị Khanh chọn phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, dù bác sĩ nói cơ hội thành công ở những người lớn tuổi như chị chỉ từ 15 đến 20%. “Vừa làm vừa cầu nguyện và may mắn sao ngay trong lần đầu tiên là được luôn.”

Biết tin thai đậu, là suốt 3-4 tháng liền chị Khanh chỉ nằm một chỗ, chích thuốc liên tục. Bên cạnh nỗi lo của một người lớn tuổi mang thai, người mẹ này lại bị hiện tượng “thai bám cổ tử cung”, nguy cơ sẩy thai rất dễ dàng. Nỗi lo chồng chất nỗi lo.

Không chỉ vậy, trong “quyết định sống còn” này, chị Khanh lại từ chối hết mọi cuộc xét nghiệm để xem bào thai có bị các dị tật hay bệnh hiểm nghèo gì không.

Chị bảo, “Nếu xét nghiệm mà biết nó bị hội chứng ‘Down’ thì sao? Bỏ à? Tôi không nghĩ vậy. Vả lại, tôi tin rằng không một ai trong gia đình mình bị thì sẽ không có chuyện gì xảy ra.” Người mẹ mang tâm trạng lo lắng triền miên đó cho đến ngày cô con gái chào đời, “làm thay đổi hết cuộc đời” chị.

Dẫu gian nan, mòn mỏi, và số tiền bỏ ra không nhỏ nhưng sau cùng Đài Trang hay chị Khanh Charles đều đã có thể được ôm ấp, được chăm sóc, được yêu thương đứa con của mình. Trong khi niềm hạnh phúc đó với Kiều Oanh hay chị N.H vẫn đang ở xa tầm tay với.

Khao khát được nghe một lần “Mẹ ơi”

Kiều Oanh chọn cách thích nghi với cuộc sống không con, “về già mình sẽ vào viện dưỡng lão.”

Trong hình, Kiều Oanh và đứa cháu cô nuôi nấng như con. (Hình: Kiều Oanh cung cấp)

Kiều Oanh, hai năm sau khi chữa trị thai ngoài tử cung, vẫn không mang bầu. Cô tích cóp tiền làm thụ tinh trong ống nghiệm. Thất bại lần đầu. Hai năm sau, lại chắt mót với sự phụ giúp thêm của gia đình, cô làm lần thứ hai. Vẫn thất bại.

“Tôi rất buồn vì miệng lưỡi thế gian. Họ chỉ biết gặp mình và hỏi ‘sao không đẻ con đi’ mà không hiểu được tâm trạng mình là gì.” Oanh tâm sự.

Không có đủ tài chánh để tiếp tục theo đuổi ước vọng này, Oanh chỉ biết chọn cách thích nghi với cuộc sống không con, “về già mình sẽ vào viện dưỡng lão,” dù rằng “Tôi nghĩ được làm mẹ là một cảm giác tuyệt vời, và tôi vẫn luôn mong muốn điều đó.” Oanh ray rứt.

Chị N.H thì truân chuyên hơn trong hành trình đi tìm giọng nói của trẻ thơ.

Biết rằng trứng mình không đủ khỏe để làm thụ tinh trong ống nghiệm, chị N.H tâm sự với em gái ruột của mình, để xin trứng vì “dù sao đó cũng là dòng máu chị em mình.” Người em đồng ý cho trứng để bơm tinh trùng của chồng chị N.H vào, sau đó sẽ đưa vào cơ thể chị N.H. Chị N.H sẽ là người mang thai.

Mọi sự chuẩn bị đâu vào đó thì, đùng một cái, “bên gia đình chồng cô em gái không đồng ý, ông Cha ở nhà thờ cũng cho rằng làm như vậy là vi phạm quy tắc một vợ một chồng.”

Khát vọng được làm mẹ đưa chị N.H đi đến một quyết định táo bạo: đăng báo tìm người cho trứng!

Chị kể, “Chỉ có duy nhất một cô gọi điện thoại lại cho tôi. Cổ đồng ý cho, dĩ nhiên, tôi sẽ có tiền bồi dưỡng cho cổ.”

Thế nhưng. Lại là “nhưng.”

“Lý do để tôi không thể nhận trứng của cô gái đó là vì cổ cho biết đã từng cho người khác trứng của cổ rồi.” Chị nói.

“Như vậy, làm sao biết được sau này, con tôi và con của ai đó cũng mang trứng của cổ lớn lên, gặp nhau, yêu nhau, thì đó có phải là anh/chị em cùng mẹ lấy nhau không?” Suy nghĩ đó khiến chị N.H rùng mình, và từ chối cơ hội có thể được làm mẹ.

Vẫn chưa bỏ cuộc. Chị N.H về Việt Nam tìm kiếm sự giúp đỡ. Chị cũng tìm được một cô gái ở quê đồng ý cho trứng và mang thai giúp chị, bởi “sau bao nhiêu lần điều trị bướu, trong người tôi có quá nhiều ‘tì vết’ nên thai không thể nào bám được.” Chồng chị N.H, một người đàn ông gốc Pháp, dù cũng quá mệt mỏi với hành trình tìm con cho vợ, nhưng vẫn theo chị về Sài Gòn để gặp bác sĩ trong hy vọng phương pháp thụ thai trong ống nghiệm sẽ thành công khi có người cho trứng và mang thai giúp.

Mọi việc sẵn sàng, thì, chị N.H đụng phải những rắc rối về thủ tục pháp lý. Làm sao chứng minh được đứa bé đó là con của mình, mình là cha mẹ nó, để mang nó ra khỏi Việt Nam rồi nhập cảnh vào Mỹ?

Thế là, thêm một lần bỏ cuộc.

Trở lại Mỹ, chị N.H chỉ còn biết bám vào cơ hội cuối cùng: tìm xin con nuôi.

Chị N.H đã thức suốt đêm ngoài tiệm để làm kịp những chiếc bánh đẹp mắt nhất nhân ngày Lễ Mẹ,

“nhưng có lẽ cả đời này tôi sẽ không bao giờ nghe được hai tiếng gọi ‘Mẹ ơi’.” (Hình: N.H cung cấp)

“Đứng ngoài nhìn vào thấy gì cũng dễ, nhưng bước chân vào mới thấy cam go ra sao. Xin con nuôi ở Mỹ không dễ dàng một chút nào hết. Chi phí để xin một đứa con nuôi ở đây nhiều kinh khủng. Ngoài việc họ kiểm tra lý lịch ‘cả 3 đời’ của cả hai vợ chồng, họ còn xem thu nhập có đủ không, nhà cửa ra làm sao, bắt buộc phải có phòng riêng cho đứa bé… Nhiêu khê lắm! Tôi thấy mình không đáp ứng đủ các điều kiện để xin con nuôi ở Mỹ nên đành phải từ bỏ.” Chị N.H nói bằng giọng không thể buồn hơn.

Sau 6 năm kiên trì đeo đuổi đủ mọi cách, đến năm 2002, chị N.H chấp nhận bỏ cuộc.

“Thấy nhà người ta có con cái, tôi thích lắm, nhưng cũng buồn lắm.” Chị nén tiếng thở dài.

Thiêng chức làm Mẹ – không gì đánh đổi

May mắn có được đứa con như mơ ước, giọng chị Khanh dường như vẫn còn rạng rỡ nỗi hân hoan, “Tôi và ông xã quá khổ mới có nó nên đứa con này thực sự là vô giá. Bé Kiera ra đời làm thay đổi hết cuộc đời tôi. Khó khăn qua đi, mẹ chồng cũng vui với mình, chồng cũng thương mình hơn, tất cả vì đứa con này.”

Đài Trang thì kể, “Có con thật là cực nhưng mình có niềm vui khác. Mỗi ngày thức dậy chỉ muốn thấy con, đi làm cực khổ về chỉ muốn chơi với con thôi. Tôi đi làm y tá, làm thêm được biết bao nhiêu tiền, nhưng tôi không quan tâm, hết giờ tôi chỉ muốn về nhà gặp con mình mà thôi. Có con có sự lo, có sự cực, nhưng niềm vui con cái mang lại không có tiền bạc nào mua được hết.”

“Lúc trước buồn, tôi có thể đi shopping mua cái bóp L.V, vui được một ngày, một tuần, hai tuần, nhưng mà có con niềm vui đó không thể diễn tả được. Nó thiêng liêng lắm. Như con gái tôi được 2 tuổi, nó biết mình yếu, nên đi đâu nó cũng lấy cái nón cho mình, nắm tay mình, sự ân cần quan tâm đó không có tiền bạc nào mua được hết. Những điều đó sẽ làm mình nhớ cả đời, chứ mua cái bóp mình có nhớ cả đời đâu.” Giọng người mẹ đong đầy hạnh phúc.

Sau khi có được đứa con trai thứ nhất, Trang đã có thêm đứa con gái thứ hai. Và hiện tại, cô lại chuẩn bị thụ tinh trong ống nghiệm lần ba cho trọn vẹn giấc mơ có ba đứa con ngày nào.

Riêng với chị N.H và Kiều Oanh, điều họ nuối tiếc nhất khi không thực hiện được thiêng chức của người mẹ là ở chỗ: không có người kế thừa lại những di sản mà họ muốn trao.

“Di sản không phải là tài sản vật chất. Mà đó là những gì tốt đẹp nhất mình chắt chiu muốn để lại cho con mình, nếu có.” Oanh giải thích.

“Với những gì mình đã trải nghiệm, mình mong muốn có con để bù đắp, để cho nó những gì mình từng mơ ước, từng thiếu thốn. Nhưng mình muốn mà trời không muốn, biết làm sao đây.” Nỗi niềm của người phụ nữ đang chuẩn bị bắt tay làm tiếp những chiếc bánh thật đẹp cho khách hàng nhân ngày Lễ Mẹ, nghe thênh thang trong đêm…

Liên lạc tác giả: ngoclan@nguoi-viet.com

TBT Nguyễn Phú Trọng đang ‘yếu thế’?

TBT Nguyễn Phú Trọng đang ‘yếu thế’?

Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng

Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng trong cuộc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri ở Hà Nội hôm 09/5/2015.

Phát biểu khi tiếp xúc cử tri cuối tuần này của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng cho thấy ông đang yếu thế, theo nhà quan sát từ Canada.

Hôm 09/5/2015, truyền thông Việt Nam trích dẫn lời của ông Nguyễn Phú Trọng tại một cuộc tiếp xúc cử tri ở Quận Ba Đình, Hà Nội, trong đó ông Trọng nói:

“Ngăn kẻ cơ hội vào Trung ương không đơn giản” và “Bí thư kiêm chủ tịch thì to quá, ai kiểm soát ông?”.

” Một điều nữa chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam và phe cánh của Đảng đã bị thua rất là nặng so với phe cánh của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Luật sư Vũ Đức Khanh”

Bình luận về các phát ngôn này, hôm thứ Bảy từ Canada, Luật sư Vũ Đức Khanh, Giáo sư Luật học tại Đại học Ottawa cho rằng đây là cách nói của ‘người yếu thế’.

Nhà quan sát cho rằng tương quan lực lượng trong nội bộ Đảng Cộng sản trước kỳ Đại hội Đảng lần thứ 12 hiện đang cho thấy ông Tổng Bí thư và ‘phe cánh’ của ông ‘suy yếu’ và ‘kém thế’ so với ông Thủ tướng chính phủ và ‘phe quyền lực’ của Thủ tướng.

Ông Khanh nói:

“Một điều nữa chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam và phe cánh của Đảng đã bị thua rất là nặng so với phe cánh của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

“Chương trình cải cách của ông Nguyễn Tấn Dũng theo tôi được biết sẽ không còn sử dụng cơ chế ‘Tam đầu chế’, tức là một bên là Chính phủ, một bên là Đảng, một bên là Quốc hội.

“Tôi nghĩ rằng trong giai đoạn mới sẽ gom về một mối. Tức là ông Nguyễn Tấn Dũng có tham vọng trở thành Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, kèm thêm một chức vụ có thể nắm luôn cả Chủ tịch Nước.”

‘Kẻ thua cuộc’

Luật sư Vũ Đức Khanh tin rằng chỉ những người ‘thua cuộc’ mới hay ‘nói nhiều’ và ‘nói lớn lên’, đồng thời cho từ sâu xa, các phát biểu nói trên, mặc dù không tường minh ‘nhắm vào đối tượng nào’ cho thấy ông Trọng có thể lo lắng về vị thế đang lên của Thủ tướng đương kim.

Ông Khanh nói:

“Trong bất cứ một cuộc đấu, cạnh tranh nào cũng có người thắng và kẻ thua, những phát biểu của ông (Nguyễn Phú Trọng) chỉ thể hiện lên được là nhóm của ông ta ở trong vị trí đang thua.

“Nên những người thua cuộc thì thường hay la, hay la làng lên, hay la lớn tiếng này kia về những tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn nọ.

“Nhưng chúng ta quan sát kỹ bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 11 vừa qua, thì chúng ta thấy rằng những tiêu chuẩn đó cũng quá mập mờ, chồng chéo nhau, cái này dính vào cái kia, rất là phức tạp.

“Nhưng tựu chung, như thế nào là thì gọi là người cơ hội chủ nghĩa, thì vấn đề đó ông Trọng và những người theo quan điểm của ông ấy cần phải nêu rõ ra. Cái khái niệm như thế nào gọi là người cơ hội chủ nghĩa?”

” Trở lại Hội nghị Trung ương 9, Hội nghị Trung ương 10, thì chúng ta thấy rằng ngay cả Hội nghị Trung ương 9 cũng không có chỉ rõ là ‘đồng chí X’ là ai? Nếu như mà thực sự bên phía Đảng đã mạnh, thì chúng ta đã biết rằng ‘đồng chí X’ là ai rồi

Luật sư Vũ Đức Khanh”

Nhà quan sát cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm tới việc thâu tóm một lúc hai ghế quyền lực là ‘Tổng bí thư’ và ‘Chủ tịch nước’ và do đó đã đang có những động thái vận động mà rõ rệt nhất là bài diễn văn hôm 30/4/2015 vừa qua.

Theo nhà luật học, trong bài diễn văn này, ông Dũng đã nhắm vào việc lôi kéo những người ‘ở phe đảng’ và ra chỉ dấu với họ rằng: “nếu các anh không đi với tôi, thì các anh sẽ thành người thua cuộc”.

Theo ông Vũ Đức Khanh, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chưa bao giờ rõ ràng khi nói về những thành phần được gọi là “kẻ cơ hội” và nhà quan sát nói nếu phe đảng ‘đã mạnh’ hơn các phe khác, thì trong các kỳ Hội nghị trước, các đảng viên, cử tri và quần chúng đã biết được, chẳng hạn như, “Đồng chí X” là ai.

Luật sư nói thêm: “Nếu chúng ta trở lại Hội nghị Trung ương 9, Hội nghị Trung ương 10, thì chúng ta thấy rằng ngay cả Hội nghị Trung ương 9 cũng không có chỉ rõ là ‘đồng chí X’ là ai?

“Nếu như mà thực sự bên phía Đảng đã mạnh, thì chúng ta đã biết rằng ‘đồng chí X’ là ai rồi.”

Gần đây, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những thông điệp nhắm tới vai trò của quân đội, trong đó ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh ‘không được phi chính trị hóa quân đội’ và ‘quân đội phải trung thành với Đảng Cộng sản.”

Trong khi đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11, những người chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng đã đặt ra vấn đề về “tiêu chuẩn” nhân sự lãnh đạo Đảng, trong đó nhấn mạnh “chọn lãnh đạo không tham vọng quyền lực”, một khái niệm mà tới nay dường như chưa được rõ nội hàm và đối tượng nhắm tới lắm, theo giới quan sát.

BỐN MƯƠI NĂM và câu chuyện đổi đời

BỐN MƯƠI NĂM và câu chuyện đổi đời

Huy Phương

quangtri1972-1

Huy Phương

“Trời còn khi nắng khi mưa
Ngày còn khi sớm khi trưa, nữa người!”

(Ca Dao)

Ông sĩ quan cao cấp sang đây quá chậm trong khi những người đi trước đã ổn định cuộc sống. Trong những ngày tháng chờ đợi, một hạ sĩ quan của ông ngày trước, bây giờ là một chủ tiệm phở khá đắt khách, ngỏ ý giúp ông việc làm trong tiệm của anh. Anh không thể biếu người chỉ huy cũ của mình một số tiền, nhưng có thể giúp ông một số thu nhập hằng tháng. Nhưng ông này thẳng thắn từ chối, và nói với những người quen là: “Tao mà đi làm công cho thằng lính hồi xưa của tao hay sao?”
Ông tổng giám đốc một cơ quan ngày trước sang định cư tại đất này, chán ngán vì cảnh đời vân cẩu, bể dâu, theo ông, những “thằng” ngày xưa không đáng làm tài xế cho ông, qua Mỹ trước ông, nay nhà cao, xe đẹp, có cuộc sống thong dong, trong khi ông không kiếm nỗi được việc làm năm đồng bạc một giờ. Ông sinh ra bi quan, hận đời, chưa già mà tóc đã bạc phơ, sống cuộc đời khép kín, không muốn giao du với ai.

Nhiều cấp chỉ huy hành chánh và quân sự ngày trước, sang đây ngậm ngùi làm nghề cắt cỏ, thợ sơn, lau nhà, gác cổng…, nhưng cũng không thiếu những “lính trơn” qua đến vùng đất hứa thành công vượt bực.
Có những người vui vẻ nhận một cuộc sống thay đổi. Một bác sĩ quân y, rất giỏi giải phẫu, sau khi chịu cảnh tù đày, đến Mỹ chậm trễ, không có cơ hội học lại nghề cũ, ông phải vào shop may. Bàn tay ông trước kia thành thạo việc mổ xẻ, cắt khâu cho thương binh từ mặt trận về, thì bây giờ hai bàn tay ấy, suốt nhiều năm cắt chỉ, đóng khuy, không hề mang một chút mặc cảm. Một vị hiệu trưởng một trường trung học, sang đây làm nghề giao pizza suốt 13 năm, lái xe suốt mấy chục nghìn dặm đường, nhận những đồng tiền tip của thiên hạ để nuôi con và có đủ phương tiện bảo lãnh hai con đã lập gia đình trước lúc ông được đến Mỹ. Một vị giáo sư Thanh tra Trung học, phụ tá của một Phụ Tá Tổng Trưởng Giáo Dục, quên quá khứ để làm lại cuộc đời trên đất Mỹ, từ những nghề vẫn được xem là “thấp kém” như y công trong bệnh viện (CNA-Certified Nursing Assistant,) giữ trẻ em (babysitter), thợ làm bánh bông lan để sống còn và có cơ hội để lo cho các con còn ở Việt Nam sang đoàn tụ với cha mẹ.

Những người thành công ở hải ngoại thường là những người quên quá khứ của mình, sẵn sàng làm lại cuộc đời. Một quân nhân trước đây mang cấp bậc trung sĩ, di tản vào những ngày cuối cùng trong cuộc chiến, sang đây đã chịu khó cắp sách đến trường và bây giờ là một luật sư khá nổi tiếng. Để làm gương cho con cháu và tuổi trẻ Việt Nam ở Mỹ, ông Nguyễn Ngọc Sẳng, một người tù sau khi ra khỏi tại tập trung, phải đi làm những nghề mà xã hội vẫn xem thường như đi bán vé số ở bến xe và quán nhậu, xách nước ngọt cho du khách tắm ở Vũng Tàu, đã phấn đấu khi đến Mỹ, lấy bằng Tiến Sĩ Giáo Dục khi ông đã 63 tuổi. Xuất thân là nghề “nhà binh”, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Giáp Nguyễn Hữu Lý đã nhận bằng Cao Học Văn Chương tại Dallas năm 73 tuổi. Nguyên Thượng Nghị Sĩ VNCH, ông Lê Tấn Bửu bị tù tập trung 13 năm, đến Mỹ năm ông đã 70 tuổi, đáng ra là tuổi dưỡng già, ông đã trở lại làm sinh viên và tốt nghiệp Tiến Sĩ năm 81 tuổi.

Nếu có một sự so sánh giữa hai cảnh đời trôi nổi, thì người bi quan than thở cho số phận, chức tước, địa vị, của cải, bổng lộc không còn, còn người lạc quan lấy hoàn cảnh của họ sau năm 1975, sau khi đi tù về hay những ngày đói khổ ở Việt Nam để nói những lời tri ân với cuộc sống mới. Ông Nguyễn Thanh Ty, một cựu tù nhân chính trị, đã nói:
“Nếu không có nước Mỹ thì có lẽ thằng con trai tôi, giờ này đang ôm bình cà rem đi bán ở Chợ Đầm, Nha Trang. (cháu đã đỗ kỹ sư sau khi cha định cư ở Mỹ)

Ông H.O. Nguyễn Ngọc Trạng thì tâm sự: “Nếu không có cuộc đổi đời này, thì thằng con bị tâm thần của tôi chắc phải đi ăn xin ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ và thân tôi còn đạp xe ôm ở bến Bắc Mỹ Thuận cho đến khi ngã xuống vì kiệt lực.”

Trong chiến tranh có rất nhiều cảnh đổi đời trái ngược. Có người giàu có bạc triệu, ngày 30 tháng 4-1975, bỏ nước ra đi chỉ với hai bàn tay trắng. Cũng có người nghèo khó, vượt biển ra hải ngoại, ngày nay đã trở thành triệu phú ở hải ngoại. Xuất thân con nhà nhèo, thuở nhỏ phải đi chăn trâu, vào trường tiểu học không có được một cái giấy khai sinh, ngày nay, Hồ Văn Trung là Chủ tịch Tập đoàn Trangs Group sản xuất thực phẩm, có trụ sở và chi nhánh khắp nơi trên thế giới như: Úc, Mỹ, Anh, Việt Nam, Châu Phi…

Thế gian vẫn thường quan niệm: “Con Vua thì lại làm Vua, con Sãi ở chùa thì quét lá đa!” nhưng chiến tranh và loạn lạc sinh ra chuyện đổi đời. Ngày nay con Vua phải đi bán chợ Trời (trường hợp Mệ Bảo Ân con Vua Bảo Đại sau năm 75,) con thầy Chùa thời buổi “mạt pháp”, trong tay có hàng triệu đô la là chuyện thường tình.
Nếu có kẻ bất tài, vô học mà may mắn leo lên chức vụ cao, người đời gọi cảnh này là “chó nhẩy bàn độc!”. Ngày nay, trên quê hương đổi đời có bao nhiêu loại “nhảy bàn độc!” Y tá chích thuốc, du kích khiêng cáng lên ghế Tể Tướng, thiến heo, thợ mộc đóng hòm cũng có ngày lên ngôi Hoàng Đế. Đến như Nikita Khrushchev, thuở nhỏ phải đi chăn lợn, có thể lên đến chức Tổng bí thư của Liên Bang Xô Viết. Có những chuyện đổi đời nhờ công lao khó nhọc, tinh thần cầu tiến nhưng cũng có những trường hợp “đổi đời” như chuyện “chó ngáp phải ruồi” mà người đời thường hay mai mỉa.
Nếu nói “xỏ xiên” chuyện đời đổi, thì không ai bằng ngòi bút Trần Tế Xương: “Công đức tu hành Sư có lọng, xu hào đủng đỉnh Mán ngồi xe!”

Người đời thường an ủi, cho rằng những chuyện thăng trầm, “lên voi xuống chó” đều do định mệnh, số phận đã an bài cho mỗi người. Nhưng câu chuyện 40 năm từ ngày người Việt Nam bỏ nước ra đi, và ngay cả những người của chế độ Cộng Sản trong nước đã có những cuộc đổi đời khốc liệt.
Nhưng “đổi đời” không phải là một định luật. Có những ông bác sĩ sau năm 1975 sang đây vẫn là bác sĩ, kỹ sư vẫn là kỹ sư (nhất là ngành công chánh), có ông quyền thế tham nhũng chạy trước mang theo cả bọc vàng, vẫn có vài căn nhà, mấy tiệm ăn hay mở đôi ba cái 7-11 cũng là chuyện thường tình.
Nhưng phần lớn, biến cố 30 tháng 4-1975 rõ ràng là “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông!”
Dân gian dã có câu “không có ai giàu ba họ, mà cũng chẳng có ai khó ba đời!”
Không cứ ở đời con Vua, số phận “đẻ bọc điều” thì lại làm Vua, còn dân đen “sinh ra dưới một vì sao xấu” suốt đời phải chịu số phận hẩm hiu.

Chấp nhận và an vui. Không phấn đấu được thì cho là số phận an bài, số phận có thể thay đổi được sự sống chết, sự giàu nghèo, may rủi, nhưng số phận không thay đổi được nhân cách, sự suy nghĩ và cái nhìn của con người đối với cuộc sống này. May mắn đổi đời giàu có, không trả thù dĩ vãng, kiêu ngạo vênh váo thì chẳng may sa chân chịu số phận thấp hèn, có gì đâu mà mặc cảm, tủi thân.
Vậy thì anh cũng đừng buồn, ngày nay anh không còn quyền cao, chức trọng hay không có tiền của trong tay, chuyện là anh có còn là người tử tế cho người ta thương yêu kính nể anh không?

Huy Phương

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi.

1-

*Hồng Ân lớn lao, vì qua Lễ Thụ Phong Giám Mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt.
*Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu.
Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện.
2.
Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp.
3.
Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi.
Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể.
4.
Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi.
Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi.
Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi.
5.
Tôi đã lo nhận ra ý Chúa.
Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy.
6.
Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới.
Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa
7.
Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó.
8.
Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ.
Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót.
9.
Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ.
Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng.
10.
Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi.
11.
Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng.
12.
Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân.
Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ.

Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 30.4.2015.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chút Lính Miền Nam

Chút Lính Miền Nam

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cho tôi thắp một nén nhang

Khóc người đồng chí

Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy

Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !

Lê Phú Khải

Bạn tôi, tất cả, đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều … cố “tật!” Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ xứ người.

Thỉnh thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi cũng hay mang những vị thượng cấp cũ ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông huynh trưởng thường bị nhắc tới để cười chơi là Trần Hoài Thư, và Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn nhất định chưa chịu giải ngũ, dù cuộc chiến đã tàn tự lâu rồi!

Trung Úy Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín. Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn cứ la hét um xùm qua máy truyền tin (giữa Mùa Hè Đỏ Lửa) như thể là cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài đến bây giờ, dù hơn 40 năm đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông – cùng nước suối, nước mưa, nước mắt… – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.

Sau khi cạn mấy đầy, rồi đầy mấy ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn bài Bolero”) tôi hay xin “trân trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến hữu các cấp” rằng :

  • Ai viết cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì khỏi!
  • Sao vậy cà?
  • Bởi vì thơ với văn của hai ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt luôn trong đầu, gỡ không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:

Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?

Trần Hoài Thư (“Ta Lính Miền Nam”)

Nguồn ảnh:internet

Không chỉ bi tráng, bi hùng, hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam còn phải đối diện với lắm nỗi bi thương:

“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám… Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà…

– Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?

Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy… Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.

– Của chị đây hả? – Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.

– Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên…

Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.

– Chị kia quay lại đây tôi trả cái này…  Tôi nói vọng theo.

Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi… Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.

Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:

– Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo… Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ…  Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa… Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực…

Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi… Người đàn bà đã hiểu lầm tôi…

Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.

Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này… (Phan Nhật Nam. Dấu Binh Lửa. Sài Gòn: Hiện Đại, 1969).

Ở thời điểm này, có lẽ, Phan Nhật Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn đau tủi hổ” của dân chúng với những người lính miền Nam chả phải là “ngẫu nhiên” đâu. Nó đã được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên truyền rất công phu – theo như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người…”

Và đây cũng chả phải chỉ là chuyện “ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng cuộc “bộ máy tuyên truyền” vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những người lính miền Nam, như thể họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc và  nguy hiểm.

Rảnh, thử xem qua vài đoạn trong một truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bà viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử nghiệp dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền Nam:

Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn…

Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu được. Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút.

Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng mình đang mang thai.

Tới chừng biết đứa bé kia không phải con mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt.

Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Điên dại tới lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm…

Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi nhau: “ổng đi chưa?”, cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác.

Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú … Chú Sa thấy đây đúng là một tai nạn …

Cái “tai nạn” riêng của Chú sa chỉ xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và sẽ không kéo dài lâu.  Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật –  cùng vợ con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự “ngại ngần ác cảm” của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị (và miệt thị) không biết đến bao giờ!

Mãi cho đến ngày 2 tháng 5 năm 2014, người ta mới nghe một viên chức ngoại giao của phe thắng cuộc, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, nói đôi lời tử tế:

Ngày xưa ta không thể nói là không có chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là chính phủ cũng được quốc tế thừa nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của họ.

Và đó cũng chỉ là sự tử tế ngoài miệng! Ngày 12 tháng 4 vừa qua, công an quận Hoàn Kiếm đã bắt giữ và buộc tội (“gây rối trật tự công cộng”) một số thanh niên đã mặc quân phục hay áo thun màu đen có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong cuộc tuần hành vì cây xanh ở Hà Nội.

Các bạn trẻ mặc áo thun đen có biểu tượng QLVNCH. Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Hai tuần sau, sáng 27/4/2015, công an quận Hoàn Kiếm đã kết hợp với công an Nghệ An khám xét nhà của anh Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ) tịch thu quân phục lính VNCH của anh Dũng.

Việc gì mà phải hốt hoảng đến nỗi “khám nhà,” “tịch thu” và “vu vạ” tội trạng cho vài thanh niên chỉ vì y phục mà họ mặc trên người như thế? Chả lẽ cái chế độ hiện hành có thể bị rung chuyển chỉ bởi vài cái áo (“thun màu đen, có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà”) sao?

Hơn nửa thế kỷ tuyên truyền lừa gạt, bôi bẩn, miệt thị những kẻ thua cuộc (bộ) chưa đủ nguôi ngoai thù hận hay sao?  Nắm trọn quyền bính của cả một nhà nước trong tay mà sao có thể hành sử một cách đê tiện, và tiểu tâm đế́n thế?

Dù thế, thời gian đã không đứng về phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân dung của những người lính miền Nam:

Cho tôi thắp một nén nhang

Khóc người đồng chí

Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy

Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !

Năm tháng đi qua

Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra

Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy

Trừ những thằng bán nước – đi đêm

Lê Phú Khải

Cử nhân thất nghiệp gia tăng, vì sao?

Cử nhân thất nghiệp gia tăng, vì sao?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-05-08

Cử nhân thất nghiệp gia tăng, vì sao? Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg10120669.jpg

Sinh viên làm lễ Tốt nghiệp đại học tại Văn Miếu, Hà Nội hôm 18/11/2014

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT của VN vừa công bố số liệu cử nhân thất nghiệp tăng gấp đôi trong vòng 4 năm qua. Hiện trạng cử nhân thất nghiệp được cho là đang ở mức báo động. Nguyên nhân của hiện trạng này là gì?

Tại phiên giải trình Chính phủ hôm 24/4 /15, Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận báo cáo số liệu thống kê trong giai đoạn 4 năm từ 2011đến 2014 mặc dù chỉ tiêu tuyển sinh Đại học (ĐH) và Cao đẳng (CĐ) hệ chính quy giảm trung bình năm ở mức 2,5%, hệ vừa học vừa làm giảm bình quân 18%/năm nhưng số lao động trình độ ĐH-CĐ thất nghiệp từ năm 2010 đến cuối năm 2014 lại tăng cao đến mức 103%.

Qua trao đổi với nhiều cử nhân ở VN với tấm bằng tốt nghiệp ĐH-CĐ, họ tự tin bước vào đời để làm việc và cống hiến. Tuy nhiên theo họ, nguyên nhân khiến tỉ lệ thất nghiệp trong 4 năm qua tăng gấp đôi là vì nguồn cung ứng lao động có trình độ cử nhân nhiều hơn nhu cầu tuyển dụng của xã hội. Nhiều người trong số họ phải làm việc không liên quan đến chuyên môn thậm chí chấp nhận các công việc lao động phổ thông.

Ngoài ra còn một nguyên nhân mà đa số những cử nhân đài RFA tiếp xúc được chia sẻ thất nghiệp là vì không có đủ tiền để xin việc hoặc một mối quan hệ quen biết chứ không phải tấm bằng ĐH hay CĐ là điều kiện ưu tiên. Một giáo viên không muốn nêu tên cho biết mỗi khi trường có chỉ tiêu thì người bình thường không thể xin việc được dù trường tổ chức thi tuyển giáo viên biên chế. Giáo viên này nói:

“Tùy từng trường từ 100 đến 200 triệu hay nhiều hơn. Ở trường nào thì Chủ tịch Hội đồng coi thi trường đấy thường là Hiệu trưởng là người ra giá. Mối quan hệ thì sẽ được đặt lên hàng đầu. Thi cử cũng chỉ lòe nhau thôi nên tiền quyết định hết. Không kể bằng giỏi, thạc sĩ hay tiến sĩ thi cũng không vào được”.

Sau khi giải quyết được khoản tiền chạy việc hay có mối quan hệ quen biết và có được việc làm rồi, những nhân viên mới cũng không dễ gì bảo đảm công việc đó.

” Tùy từng trường từ 100 đến 200 triệu hay nhiều hơn. Ở trường nào thì Chủ tịch Hội đồng coi thi trường đấy thường là Hiệu trưởng là người ra giá. Mối quan hệ thì sẽ được đặt lên hàng đầu.
– Một giáo viên “

Một tân cử nhân ở Sài Gòn vừa tốt nghiệp Đại học Ngân hàng và gia đình đã hỗ trợ 450 triệu đồng để xin vào làm việc trong 1 ngân hàng nhưng sau 3 tháng đành phải tự xin thôi việc. Lý do vì ngân hàng đặt chỉ tiêu hàng tháng phải cho khách hàng vay trên 300 triệu và một nhân viên mới làm việc không thể nào đáp ứng được chỉ tiêu này. Cô tân cử nhân phân trần:

“Đối với khách hàng doanh nghiệp thì số tiền lại nhỏ so với nhu cầu nên người ta không vay mặc dù đủ điều kiện để vay. Còn đối với các khách hàng cá nhân thì số tiền đó có thể người ta muốn vay nhưng lại không đủ điều kiện vì điều kiện đưa ra khá là khó khăn, có rất nhiều chi tiết, điều kiện cao so với khả năng của một khách hàng cá nhân muốn vay tiền. Dù một ngày như vậy em có thể gọi đến hàng trăm cuộc gọi, 2-3 trăm cuộc gọi là bình thường nhưng hầu như không thể nào cho vay được vì người có tiền thì không muốn vay còn người muốn vay thì lại không đủ điều kiện”.

Tìm hiểu nguyên nhân vì sao các cử nhân tốt nghiệp ĐH-CĐ khi ra trường thường không thích ứng được với yêu cầu tuyển dụng và gặp nhiều trở ngại khi đi làm việc, Chuyên gia về quản trị Duy Lê cho rằng Giáo trình ở các trường ĐH-CĐ không phù hợp với thực tiễn, thậm chí dù có những trường giảng dạy giáo trình của các trường đại học Anh, Mỹ như Oxford hay Stanford nhưng không thể áp dụng vào môi trường làm việc của VN. Ông Duy Lê nhấn mạnh yếu tố vô cùng quan trọng là các cử nhân không có kỹ năng thực hành xã hội. Ông Duy Lê phân tích:

“Có 2 phần: một là dạy kiến thức và hai là dạy về kỹ năng. Hiện nay các trường đa phần tập trung vào dạy kiến thức mà kỹ năng thì không chắc họ làm tốt. Hiện có một số trường năng động có mở một số lớp về ‘kỹ năng cần thiết’ (source skills) nhưng lại cục bộ do người của trường dạy mà những người này chẳng bao giờ ra môi trường thực tiễn bên ngoài. Kiến thức thì có thể mời thạc sĩ, tiến sĩ về trường dạy nhưng ‘kỹ năng mềm’ thì có thể mời các anh chị có kinh nghiệm lâu năm trong các công ty về để chia sẻ, cùng làm việc thì mới phù hợp hơn. Còn nhà trường tìm giáo viên nào đó từ trường Đại học Sư phạm học tâm lý về dạy về ‘kỹ năng cần thiết’ là không đúng. Những ‘kỹ năng cần thiết’ là nhữngkinh nghiệm mà những người có trải nghiệm trong công việc họ có khả năng đã làm và thành công thì họ đến chỉ cho sinh viên”.

Các chuyên gia về quản trị và chuyên gia giáo dục đánh giá từ bao lâu nay tình trạng không có sự nối kết giữa trường học và công ty vẫn không được cải thiện. Nhiều chuyên gia chia sẻ họ được các trường ĐH-CĐ mời đến các cuộc hội thảo để đóng góp ý kiến cải tổ quá trình giảng dạy có hiệu quả hơn nhưng đâu rồi lại vào đấy, hầu như không có sự biến chuyển nào. Nhà trường thì cứ dạy theo chương trình của trường mà không áp dụng vào nhu cầu cần thiết tuyển dụng của doanh nghiệp.

Trong khi đó, qua phiên giải trình mới nhất hồi cuối tháng 4, Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận nêu lên nguyên nhân đáng chú ý là do học phí thấp dẫn đến nhiều hệ lụy trong quá trình đầu tư, đào tạo khiến tình trạng cử nhân thất nghiệp ngày càng gia tăng. Những người quan tâm đến lần giải trình này của người đứng đầu ngành giáo dục VN thì lại cho rằng Bộ GD-ĐT thật sự sai lầm khi cấp phép mở trường đại học tràn lan, chất lượng thả nổi. Dư luận đặt ra câu hỏi cho ông Phạm Vũ Luận có dám cam kết tỉ lệ cử nhân thất nghiệp sẽ giảm đáng kể một khi học phí gia tăng hay không?

Trong lúc toàn xã hội chờ đợi một giải pháp tầm vĩ mô cải cách nền giáo dục ở VN thì các cử nhân né tránh tình trạng thất nghiệp bằng giải pháp tiếp tục trở lại trường, học cao học, tìm kiếm tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ.

Hiện nay, VN được xếp vào danh sách quốc gia có nhiều tiến sĩ trong khu vực nhưng chưa có con số thống kê cụ thể nào cho biết bao nhiêu phần trăm trong gần 25 ngàn tiến sĩ chỉ là “tiến sĩ giấy” mà thôi.