LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của thiên tài MichelAngelo còn lưu giữ nơi nhà Nguyện Sixtine của Ðức Giáo Hoàng, trong nội thành Vatican, là bức tranh mô tả việc Thiên Chúa Cha tạo dựng con người.  Cần phải đích thân chiêm ngắm bức họa nổi tiếng nầy, ta mới cảm nghiệm được trọn cả sức thu hút của nó.  Ðể trình bày ý của mình về việc Thiên Chúa tạo dựng con người như thế nào, thiên tài Michelangelo chọn một biểu tượng, một cử chỉ đặc biệt của Thiên Chúa Cha.  Và toàn bức họa chỉ hướng về một cử chỉ duy nhất nầy mà thôi; đó là cử chỉ Thiên Chúa Cha, được mô tả như một Cụ Già oai phong đưa thẳng cánh tay mặt về phía con người còn non yếu chưa có sự sống, với ngón tay trỏ của bàn tay mặt chạm vào ngón tay trỏ của bàn tay trái của con người, để thông ban sức sống của mình sang cho con người.  Ðây là một cử chỉ thật là hùng dũng, đầy ý nghĩa.  Và nếu tập trung chú ý đến hình dạng của hai ngón tay trỏ nầy, chúng ta cũng có thể quan sát một sự khác biệt.  Ngón tay trỏ của Thiên Chúa đưa thẳng ra, trông có vẻ đầy quyền lực, để nói lên sức sống mạnh mẽ của Thiên Chúa.  Còn ngón tay trỏ của con người thì trông thật yếu ớt, chưa đủ sức chỉ thẳng ra, và được thả cho xệ xuống, để nói lên ý nghĩa con người yếu đuối chưa có sự sống, cần lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa.

Ðó cũng là hình ảnh cho tác động đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trên con người.  Chúa Thánh Thần được diễn tả ở đây như là “ngón tay trỏ quyền năng của Thiên Chúa.”  Trong lời kinh “Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến”, được sáng tác vào thế kỷ thứ 9, thì cách nói “ngón tay trỏ của Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần.

“Chúa là ngón tay hữu Chúa Cha phép tắc, (digitus paternae dextrae)
Mọi ơn phước, mặc thửa lượng Người liệu định phân ban.”

Hành động đầu tiên của Chúa Thánh Thần, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, là trao ban sự sống cho con người.  Không có sức sống ban cho, con người có chi là cao trọng xứng đáng!  Trong kinh tin kính của công đồng Nicêa, chúng ta tuyên xưng: Tôi kính Ðức Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Ðấng ban sự sống.”  Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống, là chính sự Sống.  Trên bình diện thần học, chúng ta cần lưu ý thêm là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha ,Con và Thánh Thần, là nguồn mạch sự Sống và cùng trao ban sự sống cho con người.  Nhưng một cách đặc biệt, trong ngôn ngữ chúng ta dùng, thì chúng ta muốn phân biệt mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đều có một sứ mạng riêng, và thường được chúng ta phân biệt nói đến như sau: Thiên Chúa Cha tạo dựng, Thiên Chúa Con cứu chuộc, và Thiên Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa.

Trong những chia sẻ nầy, chúng ta hướng về Chúa Thánh Thần, trong sứ mạng riêng của Ngài, Ðấng ban sự sống, Ðấng ban ơn thánh hóa con người, Ðấng làm cho ơn cứu chuộc đã được Chúa Giêsu thực hiện, được hữu hiệu mỗi ngày một hơn nơi mọi tín hữu.  Tuy sứ mạng được nói riêng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng nói cho cùng thì đều quy về một Thiên Chúa Ba Ngôi, không có sự tách biệt phân rẽ nào cả.

Chúa Thánh Thần là Ngón Tay hữu của Thiên Chúa quyền năng, chạm đến chúng ta để thông truyền cho chúng ta sức sống của Thiên Chúa.  Thật là một điều có ý nghĩa, khi Giáo Hội chọn Thánh Thi cho giờ kinh thứ ba (tức lúc 9 giờ sáng trong ngày, giờ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, trong Biến Cố Hiện Xuống khai sinh giáo hội) là một Thánh Thi dâng lên Chúa Thánh Thần.  Thánh Thi đó như sau:

Lúc nầy đây, lạy Thần Linh cực Thánh, dủ tình thương ngự đến tâm hồn, cùng Chúa Cha và hợp với Chúa Con, tỏa bao la rạng ngời muôn ánh sáng.  Ðể chúng con, trong lòng như ngoài miệng, trót cuộc đời cùng trót cả tấm thân, Bừng cháy lên lửa yêu Chúa vô ngần, mà sưởi ấm tha nhân bằng thương mến.  Xin nhận lời muôn lạy Chúa toàn năng, cậy nhờ Ðức Kitô Con Một Chúa, Ðấng trị vì cùng với Chúa Thánh Thần, tự ngàn xưa tới muôn đời muôn thuở.  Amen.

Còn có lời Kinh đầy ý nghĩa khác được Giáo Hội dùng trong những cử hành long trọng.  Ðó là kinh Veni Creator, Spiritus.  Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, xin hãy ngự đến.

Trong lời kinh nầy, Giáo Hội hướng về Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, Creator.  Và thật vậy, Chúa Thánh Thần đều có mặt và tác động trong hai công cuộc sáng tạo.  Công cuộc sáng tạo lần thứ nhất, sáng tạo vũ trụ và con người, như được nhắc đến nơi những dòng đầu tiên của Sách Sáng Thế; và Ngài hiện diện và tác động trong công cuộc sáng tạo lần thứ hai, được bắt đầu với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, trong cung lòng Mẹ Maria, cho đến khi hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua, chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy dành những phút hồi tâm chiêm ngắm sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo thứ nhất, lúc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người.  Ðó là giây phút quan trọng nhất, được linh ứng cho tác giả sách Sáng Thế để ghi lại nơi những câu đầu tiên của sách Sáng Thế như sau:  Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.  Ðất thời trống không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang.  Và Thần Khí là là trên mặt nước. (STK 1,1-2).

Câu Kinh Thánh diễn tả sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi công cuộc tạo dựng đầu tiên là câu: “Thần Khí là là trên mặt nước.”  Nguyên ngữ Do Thái được dùng nơi đây là: RUAH, và có thể được chuyển dịch theo hai từ hai nghĩa: là Gió, là Hơi Thở, là Thần Khí, là Thần Khí của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, mạc khải của Cựu Ước về Thiên Chúa Ba Ngôi nói chung và về Chúa Thánh Thần nói riêng, chưa được rõ ràng.  Chúng ta chỉ có được mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Chúa Thánh Thần, nhờ qua mạc khải của Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước.  Nhưng những gì được linh ứng để nói ra nơi Cựu Ước, đều có hàm chứa những dấu chỉ, những ý nghĩa cho phép ta hiểu trước về thực tại được mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô.  Các nhà chú giải ngày nay, gần như đa số, đều công nhận những câu đầu tiên của Sách Sáng Thế có hàm chứa ý nghĩa nói đến sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng lần thứ nhất.  Vì thế các nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh không dùng từ “Luồng Gió Mạnh” mà dùng từ rõ ràng hơn là Thần Khí, hay Thánh Thần của Thiên Chúa.  Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo.  Ðấng ban sự sống, Ngài hiện diện và tác động để vạn vật vũ trụ nầy được sinh động trong trật tự, được lãnh nhận và phản ánh vinh quang Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi mọi tạo vật.  Ngài đã hiện diện và tác động ở đó trước chúng ta, trước khi chúng ta hiện hữu.  Xin Ngài giúp chúng ta được nhìn thấy ngài và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.

Sáng Danh Cha và Sáng Danh Con, Sáng Danh cả Thánh Linh Thiên Chúa.  Từ muôn đời và chính hiện nay. Và luôn mãi thiên thu vạn đại. Amen.

R. Veritas

Mãi võ Sơn Đông

Mãi võ Sơn Đông

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thế nào là quảng cáo mà quảng cáo quá lố? Những người vào tuổi tôi, có thể đã trải qua, ở tỉnh lỵ, buổi chiều sau phiên chợ tan, thường có những toán “Mãi võ Sơn Đông,” chuyên bán thuốc cao đơn hoàn tán, trống kèn inh ỏi, để khuyến dụ người qua lại, bọn trẻ con chúng tôi thường tò mò quây quần, tụ họp, không phải để mua thuốc, nhưng để xem khỉ làm trò.

– “Nghe đây! Nghe đây! Dầu này trị bá bệnh!”

– “Đàn bà đau bụng chổng khu,

Xức vô một tí xách cái dù đi chơi!”

– “Đàn bà chồng bỏ chồng chê,

Xức vô một tí, chồng mê về liền!”

Rõ ràng là quảng cáo quá lố! Nhưng lũ trẻ chúng tôi không quan tâm và bà con cũng không ai khiếu nại. “Đây anh Hai một chai, chị Tám hai chai!” Tin hay không tin là “tùy người đối diện,” những tay múa võ, bán thuốc hoàn toàn không chịu trách nhiệm. Khách hàng mua dầu “bá bệnh” của toán Sơn Đông cũng không thấy ai than phiền, khiếu nại khi không xách được “cái dù đi chơi” hay chưa thấy ông chồng tệ bạc trở về. Nhưng ngày nay, ở Trung Quốc, chỉ mới quảng cáo kem đánh răng, đã bị phạt đến hơn $1 triệu. Đây là điều chúng ta cần để ý đến khi chúng ta đang sống trong một thời đại mà quảng cáo “làm mưa làm gió,” không những trên đường phố mà hiện diện ngay trong gia đình chúng ta mỗi ngày.

Tân Hoa Xã đưa tin, một nhãn hiệu kem đánh răng do Từ Hy Đệ, “Đệ Nhất MC” của Đài Loan làm người mẫu quảng cáo, mới đây bị Cục Công Thương Thượng Hải (Trung Quốc) phán quyết là đã sai sự thật. Hy Đệ nói trong đoạn phim quảng cáo: “Chỉ cần một ngày, răng đã trắng ra trông thấy,” nhưng theo điều tra của cơ quan trên, hình ảnh người mẫu quảng cáo với hàm răng trắng bóng không tỳ vết là nhờ sửa chữa bằng kỹ thuật photoshop, hoàn toàn không do hiệu quả mà loại kem đánh răng Crest Mica mang lại. Theo đại diện của Cục Công Thương Thượng Hải, những mặt hàng sử dụng hàng ngày không được quảng cáo sai sự thật.

Chuyện photoshop là chuyện thường tình của lối quảng cáo bây giờ, “before” thì da nhăn, đồi mồi, nám… qua một lần “ủi” của photoshop thành “after” vừa trẻ lại 10 tuổi và có làn da mịn màng. Nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần thì quen mắt, cũng phải tin.

Để bảo vệ cho quyền lợi của khách hàng (người tiêu thụ) chính tòa án tiểu bang California vừa ra phán quyết, khẳng định người tiêu dùng khi mua hàng trên mạng Internet, có quyền nêu nhận xét của mình về chất lượng dịch vụ của công ty cung cấp món hàng liên quan. Đây là vụ án chưa có tiền lệ trong lịch sử tư pháp Mỹ thời hiện đại.

Vào Tháng Năm, 2013, hãng giày nổi tiếng Skechers phải bồi thường cho khách hàng vì quảng cáo không đúng sự thật về sản phẩm của mình. Sau hơn 520,000 lời khiếu kiện của khách hàng, tòa án buộc Skechers phải trả lại từ $40-$84 cho mỗi khách hàng, tổng số tiền đền bù lên tới $40 triệu về loại giày đế mềm Shape-ups với lời quảng cáo giày này giúp người mang giảm cân, tăng sức khỏe, làm lớn mông, và săn chắc bắp thịt bụng. Quảng cáo này do người mẫu Kim Kardashian quảng cáo, giày bán rất chạy nhưng sau đó hơn nửa triệu khách hàng đã than phiền vì hãng đã quảng cáo “quá lố,” trong đó có khách hàng đã tốn thêm tiền để chữa bệnh đau lưng do giày Shape-ups gây ra.

Từ Hy Đệ sẽ trả số tiền phạt này hay chính công ty đã thuê mướn MC làm người quảng cáo để ca ngợi sản phẩm phải trả. Công ty sản xuất đã trả tiền thuê mướn MC, danh ca, nghệ sĩ và cả những nhân vật chính trị như ông Bob Dole (Viagra) vì biết rằng những nhân vật này được lòng tin của quần chúng. Những người này được trả tiền để nói, vì quảng cáo là một cái nghề thu nhập không ít, nên dù họ chưa bao giờ dùng giày Shape-ups Skechers, kem đánh răng Crest Mica, dược thảo này, thuốc bổ nọ, nếu được trả tiền, họ vẫn vui lòng nhận mình là người đang thực sự tiêu dùng món hàng đó. Những lời nói này không có gì bảo đảm, danh tiếng, nhan sắc hay học vấn không chứng thực lời “rao” của họ đáng tin cậy. Vấn đề là những nhân vật này có bước qua nổi những lôi cuốn của tiền bạc, và giữ được sự lương thiện hay không. Lương thiện ở đây là không chịu nói những lời dối trá.

Nếu có một loại “thần dược” diệt được mầm mống ung thư, thì nhà sáng chế hay ông bác sĩ này đã đoạt giải Nobel Y Khoa vẻ vang cho dân tộc Việt rồi, còn đâu những ông mãi võ Sơn Đông khua chiêng đánh trống từ ngày này qua tháng nọ để bán thuốc!

Quảng cáo quá lố có gây tai hại cho người tiêu dùng hay không?

Đi một đôi giày quảng cáo “dỏm” có thể bị đau lưng mà thôi, nhưng uống một loại thuốc quảng cáo “dỏm” có thể bị mất mạng, mà mất mạng từ từ, cũng không ai mổ xẻ để giám định nạn nhân chết vì những thứ thuốc này không? Chúng ta thấy những người trẻ ít tin lời quảng cáo, nhất là chuyện thuốc men. Trong khi đó chính người già Việt Nam (trên 62 tuổi) là khách hàng tốt bụng và cũng là nạn nhân của loại quảng cáo này.

Có một điều quan trọng là quảng cáo mỹ phẩm quá lố có thể tàn phá một nhan sắc, quảng cáo dược phẩm quá lố có thể giết một mạng người, nhưng có một thứ quảng cáo quá lố có thể giết cả một thế hệ, đó là loại quảng cáo chính trị, là lời hứa hẹn đường mật của các ứng cử viên hay các đảng phái cầm quyền. Việt Minh kêu gọi: “Đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, già trẻ, trai gái, miền ngược, miền xuôi… để đánh đuổi Nhật-Pháp làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.” Nhưng lúc chiếm được một nửa miền Bắc rồi thì chuyện “đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân” đã trở thành một loại mồm mép quảng cáo, phân biệt bần nông với địa chủ, phát động phong trào đấu tố, tổng số người bị đấu tố trong cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172,008 người; số người bị oan sai là 123,266 người, chiếm tỉ lệ 71.66%. Chùa nhà thờ thành nơi phơi lúa, ngô của hợp tác xã, lòng người ly tán, con tố cha, vợ đấu chồng. Giành được nửa nước, mang danh độc lập, nhưng mang súng đạn của Liên Xô, Trung Quốc về, xô đẩy hàng triệu thanh niên ra chiến trường đi xâm lược miền Nam.

Quảng cáo cho chuyện giải phóng, miền Bắc vẽ ra hình ảnh dân chúng miền Nam bị bóc lột tận xương tủy, không có được cái bát ăn cơm, sau ngày “giải phóng,” để đem vào một chục cái chén “ngang” rồi mang về một chiếc honda, vài cái “đài” lẫn “đổng.”

Miệng lưỡi ngành tuyên huấn Cộng Sản cũng chẳng khác gì người khua chiêng gióng trống Sơn Đông ngoài phiên chợ. Chính vì miệng lưỡi này mà hàng vạn vạn thanh niên miền Bắc phải nát thân vì bom đạn, mang cái ảo tưởng đi giải phóng cho người, nhưng chính thân mình thì sống dưới trăm tầng áp bức. Thành phần đầu não Hà Nội chủ trương dùng xương máu của thanh niên Việt Nam để “đánh cho Liên Xô-Trung Quốc.” “Độc Lập” nhưng thuần phục Trung Quốc, bán đất, nhường biển. “Tự Do” có nghĩa là bịt mồm, chặn họng, bắt bớ giam cầm những người muốn có tiếng nói chính trực. “Hạnh Phúc” phải chăng là bán sức, bán trôn khắp cùng bàng dân thiên hạ.

Quảng cáo là tuyên truyền. Nói một lần nghe lạ tai, người không tin, lập lại trăm lần cũng phải tin. Nếu chúng ta nói: Đừng tin những gì Cộng Sản nói, thì cũng phải nói, đừng tin những gì người ta quảng cáo, hay ngược lại.

RA ĐI THA THỨ

RA ĐI THA THỨ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

THẦN KHÍ

THẦN KHÍ

Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa?” Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh Phaolô hỏi họ về Chúa Thánh Thần.

***

Bạn thân mến! Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.

Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.

Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?

Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?

***

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên con để giúp con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian này, Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

Trong Phúc âm, từ “đám đông” gần như luôn luôn được sử dụng với ngụ ý chê bai, thường xuyên đến mức lúc nào nhắc tới nó thì bạn liên tưởng đến tính từ “vô tâm”.

Đám đông không có tâm trí.  Họ được châm ngòi và thôi thúc bởi bất kỳ loại năng lượng gì đang phổ biến, đang phóng đại, thói thời thượng, đua đòi theo ý thức hệ, hay trong cơn cuồng loạn.  Trong Phúc âm, loại năng lượng này được gọi là “sự kinh ngạc.”  Rất nhiều trường hợp khi Chúa Giê-su nói hoặc làm điều gì gây ngạc nhiên cho đám đông, thì hầu như bao giờ cũng có câu này theo sau: “và đám đông kinh ngạc.”  Hiếm khi đó là một điều hay.

Tại sao?  Có vấn đề gì sai trái hay nguy hiểm về năng-lượng-đám-đông này?

Năng-lượng-đám-đông nguy hiểm bởi vì, trong hầu hết mọi trường hợp, nó không suy nghĩ.  Nó chỉ đơn thuần là dẫn và truyền đi năng lượng chứ không suy xét và chuyển hóa năng lượng.  Một hình ảnh minh họa thích hợp cho năng-lượng-đám-đông, sự kinh ngạc theo nghĩa trong kinh thánh, là sợi dây điện.  Sợi dây điện đơn thuần là để tải năng lượng đi qua.  Nó không phân biệt loại năng lượng đó tốt lành hay có tính hủy diệt.  Nó là vật dẫn thuần túy.  Bất cứ cái gì đi vào thì chính cái đó đi ra.

Các đám đông có xu hướng hành xử giống nhau.  Họ để năng lượng đi qua mình mà không phân biệt và suy xét năng lượng đó tốt hay xấu.  Ví dụ, chúng ta thường nói bị/được cuốn theo vào một loại năng lượng nào đó.  Đôi khi đó là năng lượng tốt, khi đám đông được cuốn theo một loại năng lượng tích cực, giúp xây dựng cộng đồng.  Ví dụ, trong mấy tuần qua, dân chúng trên thế giới cuốn theo cuộc giải cứu những người thợ mỏ bị mắc kẹt dưới hầm mỏ ở Chi-lê, và năng lượng chung đó đã giúp tạo ra một cộng đồng xuyên qua ranh giới các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo và chính trị.  Chúng ta cũng thấy hầu hết các năng-lượng-đám-đông tích cực xung quanh các sự kiện thể thao chẳng hạn như Giải Vô địch Bóng đá Thế giới World Cup, giải Vô địch Bóng chày Thế giới World Series of Baseball, hay nhiều giải quần vợt.

Nhưng hầu hết năng lượng của đám đông mang tính cách tiêu cực, năng lượng của ý thức hệ, của chủ nghĩa nguyên giáo, phân biệt chủng tộc, thói thời thượng, và sự phóng đại.  Năng-lượng-đám-đông là năng lượng thúc đẩy cưỡng bức tập thể.  Đó cũng là năng lượng đằng sau việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.  Vấn đề sáng tỏ khi nhìn đám đông đó trước và trong cuộc đóng đinh trên thập giá. Năm ngày trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su bước vào thành Jerusalem và đám đông cuồng nhiệt hô vang lời tán tụng, muốn tôn người lên làm vua của họ.  Năm ngày sau, hầu như chẳng có gì thay đổi, cũng cùng đám đông đó la hét: “Đóng đinh hắn vào thập giá!  Đóng đinh hắn vào thập giá!”  Đám đông hay thay đổi vì đám đông không suy nghĩ.  Họ chỉ đơn thuần truyền tải bất cứ năng lượng gì đang bao phủ họ.

Phúc âm kể câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và bị đám đông nhiệt tình dẫn đến gặp Chúa Giê-su, ở đây chúng ta thấy một minh họa trọn vẹn nhất cho loại năng lượng không suy xét, nguy hiểm của đám đông tương phản với loại năng lượng có suy xét của cá nhân.  Câu chuyện kể đám đông dẫn người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su và yêu cầu Ngài phải đồng ý với họ về mặt luân lý rằng phải ném đá bà ta cho đến chết.  Nhưng Giê-su, với lời thách thức nổi tiếng, bảo họ rằng: “Ai thấy mình không có tội thì ném trước.”  Phản ứng của họ là: “Họ bỏ đi, từng người một, đầu tiên là người lớn tuổi nhất.”  Một đám đông vô tâm, bị cuốn theo cơn bốc đồng về luân lý, đã đem người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su.  Nhưng họ bỏ đi với tư cách cá nhân, từng người một, không còn bị cuốn đi trong cơn bốc đồng kinh ngạc đó nữa.

Tuy nhiên, cần phân biệt hết sức rõ ràng giữa kinh ngạc với ngưỡng mộ (wonder) và thán phục (awe). Ngưỡng mộ và thán phục là phản đề của kinh ngạc.  Trong kinh ngạc, năng lượng chảy xuyên qua bạn. Trong ngưỡng mộ và thán phục, năng lượng làm bạn sững sờ, tê liệt, và giữ chặt bạn lại.  Danh hài George Carlin châm biếm một cách sắc sảo về sự khác biệt này:  Khi giải thích tại sao ông vốn nghi ngờ phần lớn những người “tái sinh”, Carlin đã châm chọc như sau – rất nhiều người biết đến lời nổi tiếng này: “Tôi không tin những người tái sinh vì họ nói quá nhiều.  Khi tôi sinh ra tôi choáng váng tới mức không thể nào nói được gì trong hai năm liền!  Khi một người có một trải nghiệm tâm linh đủ mạnh mẽ để khiến họ im bặt trong vài năm, thì tôi mới tin họ!”

Có một thách thức trong những lời đó: Hãy ý thức về loại năng lượng phát ra từ đám đông.  Hãy ý thức về các thói thời thượng.  Hãy ý thức về mọi thể loại cường điệu.  Hãy ý thức về những người cổ vũ cho cả phe tự do lẫn phe bảo thủ.  Hãy ý thức về bất cứ đám đông nào muốn ném đá một ai đó cho tới chết nhân danh Chúa.

Hãy nghĩ lại tất cả những lần đóng đinh người khác trên thập giá mà bạn đã tham gia, và hãy nhớ lại, sau đó, khi tỉnh táo và nhìn nhận rõ ràng trong một bầu không khí khác, bạn đã tự hỏi mình:  Làm sao mình lại có thể sai lầm đến vậy?  Tàn nhẫn đến vậy?  Ngu dại đến vậy?  Hãy đọc lại những câu chuyện trên báo chí và trên internet về những thanh niên có tâm tốt, đàng hoàng, bị cuốn theo năng lượng đám đông, đã tấn công qua mạng (cyber-bully) một người nào đó đến mức người đó phải tự vẫn.  Hãy suy nghĩ, trong mỗi trường hợp, nhiều người có trách nhiệm cuối cùng đã bỏ đi như thế nào, từng người một, tỉnh táo hơn nhiều và suy xét chính chắn hơn nhiều so với khi họ bị cuốn đi trong năng lượng vô tâm của đám đông.

Sau đó, có lẽ, một cách nhẹ nhàng hơn, bạn hãy bày ra những bức ảnh cũ chụp các kiểu tóc, kiểu áo quần của bạn qua nhiều năm, thì bạn sẽ có tất cả những lời nhắc nhở cần thiết rằng năng lượng của phút giây đó dễ thay đổi và vô tâm đến như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Chuyện Ba Sàm & Bản Cáo Trạng Của V.K.S.N.D

Chuyện Ba Sàm & Bản Cáo Trạng Của V.K.S.N.D

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi thấy chính sách thông tin như hiện nay, ta chỉ từ thua đến thua.

Nguyễn Công Khế

Cái gì chớ sách sử là tui né, và né tới cùng. Đọc chán thấy mẹ!

Né của nào, Trời trao của đó. Khi khổng khi không (cái) chị Trương Anh Thụy, người phụ trách nhà xuất bản Cành Nam, gửi cho một thùng sách to đùng. Nó nặng đến độ mà con mẹ đưa thư phải ôm bằng cả hai tay, chân đá cửa rầm rầm, vừa đá vừa lầu bầu văng tục chửi thề tá lả.

Tôi thì hớn hở tưởng rằng (dám) có người gửi cho thùng rượu. Thiệt là tưởng bở, và tưởng năng thối!

Mở ra (ôi thôi) ngoài mấy cuốn Những Lời Trăng Trối, vừa tái bản, của Trần Đức Thảo là “nguyên” một bộ sách (Nhìn Lại Sử Việt) của Lê Mạnh Hùng. Cả bộ dám gần chục cuốn, cuốn nào cũng khoảng 500 – 300 trăm trang. Ngó mà thiếu điều muốn …  xỉu!

Và hình như tôi cũng đã ngất đi một lúc khá lâu vì đang bị cúm nên hơi mệt. Mở mắt ra, người ngợm rã rời, chả thiết bò dậy nữa. Tôi bật TV nằm xem cho đến khi chán rồi vớ đại một cuốn đọc chơi, và tin chắc rằng – chỉ vài phút thôi – là mình sẽ tiếp tục ngủ luôn cho tới mốt.

Vậy mà tôi đọc một mạch gần hết tập IV, tập viết về “Nhà Nguyễn Gia Miêu: Từ Gia Long Đến Cách Mạng 19/8.” Theo lời giới thiệu của NXB thì bộ thông sử Việt Nam của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng “vừa cập nhật vừa đạt những tiêu chuẩn gắt gao nhất của sử học hiện đại.”

Bà nội mẹ tui cũng không biết “tiêu chuẩn gắt gao nhất của sử học hiện đại” nó “gắt gao” ra sao (và “gắt” tới cỡ nào lận) nhưng viết sử mà thứ thường dân vớ vẩn như tui đọc cũng thấy hấp dẫn là “hay” quá xá rồi.

Ông Lê Mạnh Hùng không cường điệu, không khoe khoang kiến thức, rất ít tư kiến, và hoàn toàn không có cái vụ … bình lọan hay bình sảng! Lâu lâu, ổng mới bình thản “chêm” thêm một câu ngăn ngắn rất thâm trầm và rất đáng đồng tiền bát gạo.

Riêng ở chương 17, tiểu mục 17.2 – viết về “Các đảng phái chính trị tiền phong của giai đoạn mới (1923-1927) – Lê Mạnh Hùng ghi nhận một số những sự kiện rất thú vị, xin được tóm lược:

“Trong lúc những người lưu vong bên ngoài tìm một con đường mới cho cách mạng Việt Nam qua Tâm Tâm Xã thì bên trong nước cũng xuất hiện một số đảng phái chính trị xã hội trong nước.

Đảng chính trị đầu tiên là Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Đảng này có thể được coi như là đại biểu của tầng lớp đại địa chủ Pháp hóa tại miền Nam. Mục tiêu chính của Đảng này không phải là giành độc lập cho Việt Nam mà có tính cách khiêm tốn hơn: đó là đấu tranh để chính quyền Pháp phải cải cách đường lối cai trị, ban hành một số quyền tự do dân chủ và đôi xử với người Việt ngang hàng như đối với người Pháp…

Sau Đảng Lập Hiến, một số đảng khác cũng xuất hiện. Khác với Đảng Lập Hiến, các đảng sau này phần lớn có mục tiêu đấu tranh giành độc lập cho đất nước chứ không phải chỉ đòi thêm quyền lợi cho người Việt…

Đảng đầu tiên thành lập có tính cách chính trị là Việt Nam Nghĩa Đoàn mà sáng lập viên bao gồm một số những người hoạt động tích cực lúc bấy giờ như Nguyễn Văn Phùng, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái Mai, Phạm Thiều, Nguyễn Quốc Túy, Trần Thiệu Ngũ, Nguyễn Văn Ngọc v.v…

Sau Việt Nam Nghĩa Đoàn là Hội Phục Việt được thành lập từ những người hoạt động cũ trong phong trào Duy Tân bị bắt và nhốt chung với nhau trong nhà tù Côn Đảo…

Cũng trong giai đoạn này tại Hà Nội, Nam Đồng Thư Xã xuất hiện. Được thành lập cuối năm 1925 bởi một nhóm giáo viên và tiểu thương trong đó quan trọng nhất là Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm em của ông Phạm Hoàng Trân (tức Nhượng Tống), Nam Đồng Thư Xã có mục tiêu vừa thương mãi vừa chính trị…

Trong lúc Hội Phục Việt và Nam Đồng Thư Xã hoạt động ở Bắc và Trung Kỳ thì ở Nam Kỳ nhóm Jeune Annam hay đảng Thanh Niên được thành lập vào năm 1926. Khác với tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ nơi mà sự đàn áp của Pháp và Nam Triều gay gắt hơn, tại Nam Kỳ vì là một thuộc địa các quyền tự do có được bảo đảm hơn thành ra đảng thanh niên này có thể hoạt động một cách công khai mặc dầu không được chính quyền công nhận… (Lê Mạnh Hùng. Nhìn Lại Sử Việt. Vol. 4. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2013. 5 vols.).

Chèng ơi! Sao đất nước còn bị đô hộ mà hội đoàn, đảng phái xuất hiện công khai, và tùm lum (khắp nơi) vậy cà?  Thảo nào mà ông Nguyễn Chí Thiện, đã có lúc, phải la làng:

Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!

Sống với “lũ thú rừng” thì miễn có vụ hội đoàn và đảng phái, đã đành, chỉ lập vài trang mạng thôi mà cũng đã phải đi tù cả nút. Ngày 6 tháng 2 năm 2015, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao cho phổ biến bản Cáo Trạng quyết định truy tố ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy ra trước Tòa án NDTP Hà Nội theo khoản 2, Điều 258.

H1

Bản cáo trạng này gồm 8 trang, với rất nhiều chi tiết thừa thãi nên đã được blogger Người Buôn Gió “cô đọng” như sau:

– 3 trang đầu miêu tả việc các đối tượng lập blog, lập trang mạng, đây là việc quá bình thường trong một đất nước đang có hàng chục triệu ngươi sử dụng mạng internet. Việc liệt kê quá trình lập blog, bảo mật, đăng ký sử dụng mạng, lập thư điện tử….bất kỳ ai lên mạng đều làm như vậy. Có gì mà phải vẽ ra đến 3 trang như ly kỳ, âm mưu toan tính, hiểm hóc ?

– 2 trang chỉ liệt kê tên của các bài viết, chỉ liệt kê đúng cái tiêu đề.

– 2 trang nêu lý lịch bị cáo.

– 1/2 trang kết luận.

– 1/ 4 trang của bản cáo trạng liệt kê lượng người đọc, còm men.

– Chỉ có 1/4 trang trong 8 trang cáo trạng có vẻ đúng nghĩa bản cáo trạng, nhưng đó là kết luận giám định của bộ thông tin và truyền thông khẳng định các bài viết mà hai bị cáo đưa lên là xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân, xâm phạm lợi ích cá nhân tổ chức… còn xâm phạm thế nào, thiệt hại ra sao, cá nhân nào bị thiệt hại… không thấy nói đến.

Cả cái bản cáo trạng lẫn kết luận hồ sơ của Bộ Công An, Viện Kiểm Sát tối cao mà chỉ kể lể dài dòng chuyện lý lịch, việc đăng ký sử dụng mạng, lập hòm thư rồi nêu tên các bài viết. Sau đó ngắn gọn nói rằng giám định Bộ Thông Tin Truyền Thông nói là có tội, thế là thành có tội mang ra xử. Không thấy phân tích chứng cứ, lập luận khoa học kết tội. Rặt áp đặt chủ quan, cảm tính. Một bản cáo trạng và kết luận hồ sơ như vậy thì cần gì hai cơ quan tố tụng lớn nhất đất nước phải dùng sạch bách thậm chí quá hạn điều tra mới viết ra được.

Và tại sao Bộ Công An có cơ quan an ninh văn hoá không giám định các bài viết mà để cho một cơ quan dân sự, không liên quan gì đến việc tố tụng đứng ra giám định và kết luận việc có tội hay không có tội.

Xét về mạnh cạnh tranh độc giả, thì chính các bị cáo là đối thủ cạnh tranh với bộ Thông Tin Truyền Thông trong việc chiếm lĩnh thị trường thông tin.

Vậy vụ án này thật khôi hài và bỉ ổi. Kẻ được nêu tên là bị hại thì chính là kẻ khởi tố, điều tra vụ án. Đối thủ cạnh tranh thị trường lại được mời làm giám định thiệt hại, kết luận có tội. Một vụ án được những kẻ tham gia tố tụng như vậy trông mong gì minh bạch.

Cá nhân tôi không mong gì chuyện “minh bạch” trong vụ án này, hoặc bất cứ một vụ án nào, ở nước C.H.X.H.C.N Việt Nam. Tôi cũng không có máu “khôi hài” nên không nhìn ra những khía cạnh “riễu cợt” trong bản cáo trạng thượng dẫn.

Tôi chỉ thấy cách luận tội của V.K.S.N.D (“xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân…làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”) sao “cù nhầy” và “buồi dái”quá thôi. Coi: cả “tập đoàn lãnh đạo” hiện nay đều lấm lem bê bết từ đầu đến chân, có sót chỗ nào để mà “bôi nhọ” được nữa – mấy cha? Tương tự, còn có ai tin tưởng gì vào “Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước…” đâu mà kết án con người ta “làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng” – hả Trời?

Vài tháng trước, trên trang thư tín của tuần báo Trẻ (phát hành từ Dallas, Texas – ngày 26 tháng 2 năm 2015) có vị độc giả phát biểu rằng: “CS chiếm miền Nam bằng cái miệng.” Ý tưởng này khiến tôi nhớ đến một cân nói của nhà báo Huy Đức: “Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhà lập ngôn xuất sắc nhất.”

Quả tình, Bác và Đảng đã chiếm được cả nước – chứ không riêng chi miền Nam – bằng mồm chứ còn gì nữa. Nhưng thời thế đã khác rồi. Bây giờ mà vẫn còn hy vọng giữ được quyền bính cũng chỉ nhờ vào cái miệng (mình) và bịt miệng kẻ khác thì quả là một chuyện rất viển vông.

Thử nghe Thông Tấn Xã Việt Nam “khoe hàng” chút xíu nha:

“Website của TTXVN tại địa chỉ http://news.vnanet.vn là một trong những trang thông tin chính thức và là trang duy nhất ở trong nước cung cấp những thông tin mới nhất, tin cậy bằng bốn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha) về tình hình Việt Nam và thế giới, là cầu nối để độc giả khắp nơi trên thế giới hiểu về Việt Nam và con người Việt Nam…

“Với 63 phân xã tại tất cả các tỉnh thành trong nước và 27 phân xã nước ngoài ở cả 5 châu lục, cùng nguồn thông tin trao đổi trực tuyến liên tục 24/24 giờ với 42 hãng thông tấn và tổ chức báo chí quốc tế là một ưu thế mà không một cơ quan báo chí nào của Việt Nam sánh được …”

“Ưu thế” tới cỡ đó mà T.T.X.V.N lại không có độc giả. Thiên hạ  chỉ đua nhau vào xem Thông Tấn Xã Vỉa Hè thôi. Và đây có lẽ đây mới là nguyên do (đích thực) khiến cho Trương Duy Nhất, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thuý … phải bị trừng trị – hay bị trả thù, theo như cách nhìn của Người Buôn Gió!

Sự kiện người dân tẩy chay mọi hình thức truyền thông của nhà nước không phải là lỗi (hoặc tội) của Ba Sàm và của giới T.T.X.V.H. Đây chỉ là hiện tượng (“vỡ trận”) tự nhiên, báo trước ngày tàn của chế độ thôi!

Kỹ niệm 70 tuổi.

Kỹ niệm 70 tuổi.

Bài này viết hồi năm 2012 (70 tuổi ,
bổ túc năm nay, 05/2015 hiện 73 tuổi)

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Tháng 07 này kỹ niệm 70 tuổi. Trước đây bảy mươi là hiếm, ngày nay với sự tiến bộ của y khoa, cũng có rất nhiều người sống đến bảy mươi tuổi. Trong năm nay, kỹ niệm đáng ghi nhớ:

45 năm lập gia đình

21 năm làm con cái Chúa Kitô.

Tôi thường hay suy nghĩ vẩn vơ: “Sống trên đời này để làm gì?” và “khi tôi chết Linh Hồn sẽ đi về đâu?”

Về những người Thầy cũ:

Tôi học trường Tiểu Học Rạch Núi nằm ở dưới chân đồi, ngọn đồi không cao lắm. Trên đồi có chùa Núi. Hồi trẻ chúng tôi thường lên chùa Núi để hái trái me hoặc lượm me rớt dưới đất vì trái me ở đây rất nhiều.

Người thầy dạy tôi giúp tôi viết chữ cho ngay ngắn là thầy ba Hương (thầy Trần văn Hương) dạy lớp ba, thầy dạy lớp nhất (lớp 5) là thầy Nguyễn tuấn Kiệt.

Khi tôi lên học trường Trung học Cần Giuộc, tôi được hướng dẫn của Giáo sư Đinh văn Lô dạy toán, Thầy Hà Khải Hoàn dạy Việt văn, Thầy Đào Đức Hoàng dạy Anh văn, ở trường Trung Học Chu văn An có Thầy Đào văn Dương dạy toán, Trương Đình Ngữ dạy Lý Hoá, Vũ Bảo Ấu toán,   Trần văn Hiến Minh triết. Ở Đại học Luật Khoa có Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Vũ quốc Thông, Nguyễn Cao Hách, Nguyễn văn Bông v.v…

Một người thầy nữa không trực tiếp dạy tôi, nhưng tôi rất mến phục, đã có ảnh hưởng rất nhiều trong cuộc đời tôi đó là nhà văn Nguyễn Hiến Lê.

Khoảng năm 1963, tôi cùng người bạn có ghé thăm thầy Nguyễn Hiến Lê ở đường Kỳ đồng.Thăm thầy để mua hai cuốn sách, loại sách “Học làm người” và cũng để gặp mặt thầy cho biết.

Vừa khi vào nhà thầy, thầy nói ngay “Tôi chỉ nói chuyện với các em trong hai mươi phút. Các em có hỏi gì thì hỏi trong thời gian đó mà thôi.” Trong khi ngồi nói chuyện với chúng tôi, thầy đem một ống viết chì khoảng ba bốn chục cây. Vừa nói chuyện, thầy vừa chuốc viết chì. Khi chuốc xong viết chì đã nhọn, thầy để qua ống thứ hai. Thầy viết sách bằng viết chì để dễ sửa chữa khi có đoạn nào không vừa ý. Sau một lúc nói chuyện với chúng tôi, ống thứ hai chứa viết chì nhọn đã đầy. Thầy tận dụng thì giờ. Thầy không bao giờ để phí thì giờ.

Về Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.

Kỹ niệm về thầy Huy là năm tôi học trường Chính Trị Kinh Doanh ở thương xá Tax. Thầy Huy dạy tôi về môn Chính Trị ban Cao Học.

Thầy Huy ảnh hưởng nhiều nhất trong cuộc đời tôi. Thầy Huy có trí nhớ lạ lùng, từ chuyện xưa cho đến chuyện hiện tại trên thế giới, nhất là ở Trung Hoa ngày xưa, thầy nhớ hết. Thầy có thể nói chuyện liên tục hai giờ không cần giấy tờ gì cả.

Cuộc đời của Thầy là gương sáng “tri hành hiệp nhất”. Từ năm 1973, sau khi vợ Thầy mất, thầy không lấy vợ khác, sống chết cho đoàn thể, Thầy đã mất trên máy bay trên đường đi dự Đại Hội Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến toàn thế giới kỳ ba ở Hoà Lan năm 1990.

Nói về chuyện chánh quyền của Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu đã tham nhũng có một số sinh viên đề nghị cần lật đổ (làm đảo chánh) để thay người mới. Giáo sư Huy trả lời: ” Mấy anh thấy Trần Thủ Độ rất ác với nhà Lý. Nhân ngày giỗ của tôn thất nhà Lý, ông Trần Thủ Độ đã đào hầm lớn, khi tôn thất nhà Lý đến dự lễ, làm sụp hầm, đã chôn sống tất cả dòng họ nhà Lý. Nhưng ông Trần Thủ Độ cũng đã có công đánh đuổi quân Mông cổ, dành độc lập cho nước Việt nam. Con người Trần Thủ Độ rất ác với nhà Lý nhưng vẫn có công với đất nước, dân tộc Việt nam. Muốn thay đổi chế độ của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, không thể dùng giải pháp quân sự, đảo chánh sẽ sinh ra bất ổn, mà cần phải thông qua bầu cử để dân chúng quyết định bằng lá phiếu.

Đi tìm đời sống tâm linh.

Tôi theo anh Ngô Thanh Nhàn Giáo sư dạy trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký để học hỏi về châm cứu.  Anh Nhàn lớn hơn tôi 6 tuổi. Đậu trường Đại Học Sư Phạm một năm. Dạy môn toán. Sau này anh cũng lấy được bằng Cử Nhân Luật Khoa. Gặp những vấn đề khó khăn, buồn khổ không giải quyết được, tôi hay hỏi ý kiến anh Nhàn. Anh thường nói với tôi là “quên mình đi, nghĩ đến người khác đi” sẽ có cách để giải quyết vấn đề khó khăn đó.

Tôi buồn rầu, chán nản vì không có việc làm, không có tiền để sinh sống.Tôi không biết phải làm nghề gì bây giờ. Đã chạy xe xích lô nhưng nặng nhọc quá không làm được. Theo anh hai Khuyên đi dọn dẹp các ống cống, khiêng những tấm “đan” quá nặng, không làm nổi. Trong khi đó lúc nào nhà cầm quyền cũng theo dõi tôi, xem có hành vi chống đối nào không? Tôi hoàn toàn mất tự do. Chẳng những vậy, tôi cảm giác bị coi thường vì không làm gì ra tiền mà cứ phải ăn bám vào bà xã tôi, vào ba má tôi. Tôi cứ ra vô trong nhà không biết làm gì cả thấy mình thật là vô dụng.

Trong khi đó nhà nước đòi tịch thu nhà của tôi nếu tôi được đi Mỹ theo diện HO. Nhà tôi thuộc diện nhà nước quản lý vì tôi là Phó Chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến cấp Quận. Nhà này là nhà của cha mẹ tôi, tôi chỉ đứng tên, chứ không phải là nhà do tôi mua hay xây dựng. Tôi rất đau khổ, lo lắng, buồn phiền về việc này.

Những áp lực nặng nề đó làm cho tôi vô cùng bất an. Tôi không biết làm sao để giải quyết căn nhà này nếu tôi xuất cảnh. Nếu tôi đi mà căn nhà này bị tịch thu thì tôi sẽ đau khổ vô cùng.

Tôi đi xem bói, nghe đồn ai có khả năng xem được tương lai là tôi tìm đến. Tôi theo anh Nhàn lên Thủ Đức để xem.Tôi nhờ anh Phạm Tư dẫn một người nói rằng có khả năng đoán được tương lai. Tôi cũng đến hỏi chừng nào được đi nước ngoài mà có được đi không? Căn nhà có bị tich thâu không?

Rồi cuối cùng, có lẽ có sự dẫn dắt của Thiên Chúa để tôi gặp anh Nguyễn Gia Phách là người công giáo dẫn tôi lên Fatima cầu nguyện. Tôi đến với Thiên Chúa, đến với Đạo Công Giáo thông qua Đức Mẹ. Rồi những biến cố khác cũng ảnh hưởng đến suy nghĩ, tâm tư của tôi. Như trường hợp vợ anh Hà Hớn Liếu, bạn cải tạo của tôi, ba bốn tháng trước khi mất đã xin vào đạo Chúa. Làm đám tang ở nhà thờ. Sau đó, anh Liếu cùng bốn đứa con, cả nhà đều đi học đạo và được rửa tội làm con Chúa cùng một lượt.

Tôi đã vào đạo Chúa ngày 15 tháng 8 năm 1991, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời đến nay (15-8-2012)  đã tròn 21 năm.

Tin có Chúa cuộc đời tôi đổi khác rất nhiều.

Khi tôi gặp khó khăn, gặp vấn đề khó giải quyết, tôi vô nhà thờ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Tôi bớt  nóng nảy rất nhiều, không vì bực dọc mà la lối vợ con hay cự nự người xung quanh nữa. Vì tôi tin rằng đời này khó khăn, đau khổ là để thông phần với đau khổ của Chúa chịu đóng đinh, để sau này sẽ được hưởng phúc trường sinh, hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu, sau khi chết.

Tin có Chúa được những gì?

Tôi tập được “Đức khiêm nhường”Chúa nói: ” Hãy bắt chước ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. ” Tinh thần phục vụ” Chúa còn rửa chân cho các môn đệ, con người mình trình độ học vấn đâu có bao nhiêu, trong cuộc sống vướng nhiều lỗi lầm, tội lỗi mà không biết ăn năn sám hối sửa mình và bắt chước Chúa Kitô mà phục vụ anh em để đền bù tội lỗi của mình hay sao?

Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (Mt12, câu 9)

Khó khăn quá thì cầu nguyện vì “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho…( Mt 7,7 )

Không thể nào Chúa không ban ơn khi chúng tha thiết cầu xin.

21 năm làm con cái Chúa.

Trong quảng đời còn lại chưa biết Chúa gọi lúc nào, tôi đã đặt ưu tiên là làm việc cho Chúa, đóng góp phần nào công sức để phục vụ nhà Chúa, hy vọng Chúa thương ban cho đời sống hạnh phúc Thiên đàng mai sau.

Do đó trong mấy năm nay tôi không chỉ đi lễ và phụ giúp lễ hai tối thứ bảy và tối Chúa nhật, mà sáng nào tôi cũng đi lễ. Vừa được nghe lời Chúa, còn được rước Chúa mỗi ngày nữa. Mỗi sáng thức dậy lúc 6 giờ 15, đến 6 giờ 40 lên xe đi đến nhà thờ. Thường đến nhà thờ sớm được 5 , 10 phút. Đi vào nhà thờ cầu nguyện, đọc kinh, thầm thì, than thở với Chúa, với Đức Mẹ. Năm 2012 có đi thăm anh Tuyên ở Cali, mỗi sáng, anh cũng dẫn tôi đi lễ ở nhà thờ “Đức Mẹ Dâng con” thuộc cộng đoàn Riverside, Corona.

Năm nay, các con các cháu, gia đình chú Tư tập họp ở nhà hàng Thiên Phú để mừng tôi 70 tuổi và bà xã tôi 65 tuổi. Có vài ba người bạn thân, được hai bàn tròn.

Tôi không ngờ tôi sống được đến ngày hôm nay. Bảy mươi năm trôi qua. Đời người quá ngắn ngủi. Đời người như “bóng câu qua cửa sổ” tôi đã nghe, đã học, đã biết câu này thời còn đi học ở trung học. Bây giờ sau thời gian dài hơn năm mươi năm, tôi mới cảm nghiệm được câu nói này. Đúng là đời người như “bóng câu qua cửa sổ”, thoáng chút, đã thấy mình già rồi. Đã bước vào tuổi “cổ lai hy” rồi. Có ai nghĩ tới ngày hôm nay đâu?. Rồi chỉ còn thời gian ngắn ngủi nữa thôi, ngày mai hay tháng tới hay năm tới mình sẽ ra đi, nào ai biết được. Có sẵn sàng chưa. Có gì để tiếc không?

Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào giờ ấy đến” (Mc 13, câu 33).

Tôi đã đóng góp gì cho đời và đã làm điều gì không tốt có hại cho linh hồn tôi ở đời sau.

Có người so sánh thời gian còn lại của đời người giống như phần còn lại mỏng manh của cuộn giấy đi cầu. Sau khi ta đã dùng gần hết cuộn giấy đi cầu, phần còn lại của cuộn giấy quả thật là mỏng te, quá ít ỏi. Ta sẽ thấy tiếc không dám phí phạm phần giấy còn lại cũng giống như thời gian còn lại của ta trên cõi đời này còn quá vắn vỏi, ta phải nên yêu quí nó, trân trọng nó. Dùng thì giờ còn lại thật có ý nghĩa, để mai sau được hưởng vĩnh phúc mà Thiên Chúa yêu thương sẽ ban cho.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình muốn bền vững cần có lời Chúa. Lắng nghe, học hỏi và thực hành lời Chúa.

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình, trong một kỳ tĩnh tâm về gia đình, có nói: “Cầu nguyện trong mọi sự, mọi sự đều cầu nguyện.( Prayer is in every thing, everything is prayer). Luôn luôn cầu nguyện. Cầu nguyện không ngừng. Sáng đi nhà thờ cầu nguyện. Lúc 3 giờ trưa cầu nguyện lòng thương xót Chúa. Khi đi tập thể dục, chạy bộ hay ngăm nước nóng cũng đọc kinh Lòng thưong xót Chúa.Tối đọc kinh Mân Côi.

Cầu nguyện cho gia đình, cho các con, cho thân nhân giòng họ, cho bạn bè và những người quen biết hay không quen biết luôn luôn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Đức Mẹ. Để chi vậy?

Để con cháu có chỗ dựa vào Thiên Chúa toàn năng, có đời sống tâm linh cao. Biết phó thác những sự khó khăn cho Chúa. Biết chịu đựng khi gặp khó khăn, gian nan thử thách.

Theo thống kê của Hoa Kỳ tuổi trung bình ra đi cho đàn ông là 75, 76 tuổi; đàn bà 80, 81 tuổi.

Như vậy tôi chỉ còn vỏn vẹn có 5, 6 năm nữa sống trên cõi đời này, tại sao mình không vui hưởng mà nghĩ vẫn vơ, than phiền những điều mình không vừa ý.

Sống để làm gì? Tại sao có tôi trên đời này?

Khi ở trong tù ngoài Bắc, tôi thường đặt câu hỏi học hành đỗ đạt để làm gì? Mà vì có học vấn, được hiểu biết, nên mới tham gia các đảng phái chính trị mục đích đóng góp một phần nào cho xã hội. Giả sử như tôi không đi học, không biết gì nhiều, liệu tôi có tham gia Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, đảng Tân Đại Việt hay không.? Như vậy vì có đi học, có hiểu biết, ao ước đóng góp gì cho đất nước, cho xã hội mà cộng sản đã giam giữ tôi vì quan điểm chính trị khác biệt. Tôi đã ở trong các trại cải tạo Long Thành, Lao Cai, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh gần 8 năm.

Đến cuối cuộc đời còn gì để tiếc.

Mỗi ngày vẫn làm việc bình thường đọc báo chí, sách vở, viết bài vở, chia xẻ tin tức mỗi ngày cùng những lời hay ý đẹp với bạn bè khắp nơi trên thế giới.

Còn niềm vui nào bằng. Tạ ơn Chúa tôi còn sáng suốt, còn sức khỏe để làm việc.

Viết xong  năm 2012

Sửa chữa xong tháng 05/2015

Phân Tích Từ Báo Singapore: Dũng Sẽ Lên Tổng Bí Thư CSVN

Phân Tích Từ Báo Singapore: Dũng Sẽ Lên Tổng Bí Thư CSVN

Vietbao.com

HANOI — Nếu không có gì chuyển biến bất ngờ, Nguyễn Tấn Dũng sẽ trở thành Tổng Bí Thư Đảng CSVN trong kỳ Đại hội 12 này.

Đó là phân tích trong bải viết Anh ngữ trên tạp chí ISEAS Perspective, No. 24, 2015 ấn hành ở Singapore.

Tác giả là Lê Hồng Hiệp, bài tựa đề “Vietnams Leadership Transition in 2016: A Preliminary Analysis“,

Trong bản Việt dịch của dịch giả Trung Nhân trên tạp chí Nghiên Cứu Quốc Tế, trích như sau:

“Đại hội toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) sẽ là một sự kiện chính trị quan trọng đối với Việt Nam trong năm 2016. Một trong những vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự đại hội sẽ là việc bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng, cũng như một số vị trí lãnh đạo khác như Bộ Chính trị và Tổng Bí thư ĐCSVN. Bộ máy lãnh đạo mới được giới thiệu tại Đại hội sẽ cung cấp một số chỉ dấu quan trọng về viễn cảnh kinh tế, chính trị và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai.

Chính trị Việt Nam, mà đặc biệt cơ chế ra quyết sách nội bộ của ĐCSVN, có đặc điểm là khó có thể quan sát được. Vì thế, việc dự đoán các thay đổi trong hàng ngũ lãnh đạo tại Đại hội Đảng phần lớn chỉ mang tính chất suy luận là chính. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của nó, vấn đề này vẫn xứng đáng nhận được quan tâm sâu sát của giới quan sát tình hình Việt Nam. Dựa trên những thông tin có thể tiếp cận gần đây liên quan đến công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội cũng như các xu hướng trong chính trị Việt Nam, bài viết này đặt mục tiêu cung cấp các phân tích sơ bộ về sự chuyển tiếp lãnh đạo sắp đến tại Việt Nam, mà đặc biệt là các động lực bên trong cũng như kết quả của quá trình đó…(hết trích)

Bài phân tích bằng Anh ngữ rất dài, dẫn nhiều số liệu và đồ hình các cấp cao nhất của chính phủ khi đối chiếu…

Ngắn gọn, nếu không có gì bất ngờ, Nguyễn Tấn Dũng sẽ lên ngôi Tổng Bí Thư:

“Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lẽ là chính trị gia quyền lực nhất tại Việt Nam trong suốt 30 năm qua, kể từ khi Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Được bầu làm Ủy viên Dự khuyết BCHTW khóa 6 năm 1986 khi mới 37 tuổi, ông Dũng đã nhanh chóng thăng tiến, trở thành Ủy viên chính thức vào năm 1991, Ủy viên BCT vào năm 1996, Phó thủ tướng vào năm 1997 và trở thành Thủ tướng vào năm 2006. Mặc dù đã nắm giữ vị trí lãnh đạo chính phủ trong hai nhiệm kỳ, và năm sau sẽ bước sang tuổi 67, nhưng nhờ có sức ảnh hưởng lớn đối với BCHTW hiện tại và nhiều khả năng là cả tương lai, ông Dũng có thể sẽ tiếp tục là một trong những chính trị gia quyền lực nhất của Việt Nam trong ít nhất là năm năm nữa.”(hết trích)

Lời chứng của một nữ tù nhân lương tâm

Lời chứng của một nữ tù nhân lương tâm

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-05-19

05192015-testimo-of-conscien-prisoner.mp3Tải xuống âm thanhPhần âm thanh

Chị Lê Thị Phương Anh và con gái đầu lòng - cháu Lê Thanh Mai. Cháu Mai sinh năm 2006

Chị Lê Thị Phương Anh và con gái đầu lòng – cháu Lê Thanh Mai. Cháu Mai sinh năm 2006

Files photos

<Chị Lê Thị Phương Anh bị bắt trong lần công nhân Đồng Nai nổi lên biểu tình chống lại Trung Quốc mang dàn khoan HD-981 vào Việt Nam. Sau một năm bị giam giữ với bản án vi phạm luật 258 chị Phương Anh kể lại những gì đã xảy ra cho một nữ tù nhân lương tâm.

Mặc Lâm: Xin chúc mừng chị đã được tự do. Chị có thể kể lại câu chuyện mà một năm trước đây chị và hai người bạn bị bắt tại khu công nghiệp Biên Hòa để thính giả hiểu thêm về những gì đã xảy ra lúc ấy hay không?

Chị Lê Thị Phương Anh: Thưa anh lúc xảy ra biểu tình thuộc khu vực Đồng Nai em muốn tìm hiểu từ đâu mà công nhân có cuộc biểu tình như vậy. Lúc đó em và hai người bạn nữa từ Sài Gòn đến khu vực Amata, đang đứng trước cổng chào của Amata thì công an cơ động tới bắt và kiểm tra tất cả đồ đạc trong người em và yêu cầu em xóa hết những hình ảnh đã chụp được. Em nghe theo và em xóa hết nhưng công an cơ động vẫn đánh em. Em chống cự lại thì bị đánh chảy máu miệng luôn. Họ kéo em vào khu vực giam giữ các công nhân đang biểu tình, sau đó em bị đẩy lên xe công an cơ động giao cho công an điều tra của công an tỉnh Đồng Nai.

Lúc ấy em bị đánh em gào lên tại sao lại bắt chúng tôi thì nó chửi nó bảo “Lũ phản động chúng mày to mồm to miệng. Sao mày không ngậm miệng mày lại đi? Nó tát vào miệng em lúc đó em đau quá không nói gì được nữa nó mang lên xe thùng luôn.

Mặc Lâm: Khi vào cơ quan điều tra họ lấy lời khai của chị như thế nào và thái độ hỏi cung của điều tra viên có gì đáng nói không?

” Sau khi bị bắt họ in các tài liệu trong Facebook của em, nó ghép em tội gây rối trật tự công cộng và nó bắt em ký. Lúc đầu em không ký, em không thừa nhận vì nó bắt ép mình, nó chửi bới mình thậm chí nó đánh mình nữa.

Chị Lê Thị Phương Anh”

Chị Lê Thị Phương Anh: Sau khi bị bắt họ in các tài liệu trong Facebook của em, nó ghép em tội gây rối trật tự công cộng và nó bắt em ký. Lúc đầu em không ký, em không thừa nhận vì nó bắt ép mình, nó chửi bới mình thậm chí nó đánh mình nữa. Những người đánh em có người tên là Nam, họ tên em không rõ nhưng mặc áo thường chứ không mặc quần áo của an ninh. Lúc đó em chưa ký vào giấy dưới hình thức gì cả thì ông Nam đó ký trên đầu em, đánh trên đầu em. Cầm đầu em đập dưới bàn làm việc. Ông Nam này chắc chị Lê Thị Kim Thu biết rõ vì trước đó chị Kim Thu bị bắt và ông Nam là công an điều tra như bọn em. Chỗ đó là trại giam B5 giam giữ nữ tù nhân.

Trong thời gian hai tháng liên tục từ lúc 7 giờ sáng, có hôm 7 giờ có hôm 8 giờ cho tới 7-8 giờ tối em mới được đưa trả về lại trại tạm giam trở lại. Họ cứ hỏi đi hỏi lại hỏi đi hỏi lại trong những trang Facebook của em và họ không chấp nhận lời khai của em viết tay. Khi em khai người ta không đồng ý mà bảo em vu khống bịa đặt cho người khác. Họ không chấp nhận lời khai bản tường trình của em, họ dựa trên biên bản lấy khẩu cung.

Mặc Lâm: Chị có cho rằng bản án một năm tù giam với cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ luật hình sự đối với chị là tương đối nhẹ hơn những người khác hay không?

Chị Lê Thị Phương Anh: Em nói thẳng nói thật luôn: em là mẹ của ba đứa con còn nhỏ quá cho nên nếu hôm đó nó xử em ba năm thì em cũng sẵn sàng lật bài ngữa và kháng án tới cùng. Họ xử em một năm và khởi tố tội của em quá oan. Em không có tội mà họ khởi tố em vể tội 258 đó. Ngay những lời cuối cùng họ hỏi em có nói gì không thì em không nói gì cả vì em chẳng con gì để nói cả, lúc đó em rất khùng hoảng, xin lỗi anh em đang run quá (khóc)

Mặc Lâm: Khi bị chuyển vào trại giam B5 chị được đối xử ra sao và sinh hoạt hàng ngày có khắc nghiệt lắm hay không?

Chị Lê Thị Phương Anh: Trại giam B5 đó thật sự em không có từ ngữ nào diễn tả được nỗi kinh sợ của em trong thời gian giam cứu em trong đó một căn phòng nhỏ có 3 mét vuông nhưng 4 người ở. Chỉ có một lổ thông gió lớn bằng hai ô gạch cho chúng em thở. Lúc đó em bị bệnh không thở nỗi thì em ngất người ta lại đưa em về khu vực bệnh xá. Ăn uống thì cực kỳ không có gì cả và thiếu thốn rất nhiều, kể cả nước sinh hoạt cũng vậy. Nước sinh hoạt thì người ta cho mình vào buổi sáng cho tới bữa cơm chiều thì cho mình lại. Sinh hoạt của 4 người trong một cái thùng 7 hay 8 lít gì đấy từ 1 giờ cho tới sáng hôm sau. Ăn uống thì các trại khác em không biết thế nào nhưng đối với B5 thì người ta dã man lắm.

” Một năm trôi qua đối với em là một bài học, em học tập rất nhiểu trong một năm tù đó. Người ta không tra tấn đánh đập em nhưng người ta dùng những người tù để đánh em, tra tấn em, chèn ép em, đánh đập em, khủng bố em

Chị Lê Thị Phương Anh”

Mặc Lâm: Chị là mẹ của ba con còn rất nhỏ, tình trạng kinh tế gia đình lại rất khó khăn, sau một năm kinh khủng trong trại giam như vậy chị có nghĩ rằng đã quá đủ cho việc lên tiếng đòi hỏi công bằng cho người dân mà chị đã theo đuổi bấy lâu nay hay không?

Chị Lê Thị Phương Anh: Trước tiên xin gửi lời xin lỗi tất cả mọi người trong thời gian em ngồi tù em đã có một lúc bỏ cuộc em ký vào lời khai mặc dù lời khai đó không phải là lời khai của em. Em bị ép ký, em bị ép khai. Có những lần họ bảo em là nên bỏ cuộc và bán đứng các anh em. Em sẽ im lặng và em sẽ không thanh minh gì cả em sẽ để cho thời gian làm chứng cho mình tất cả, còn thật sự bỏ cuộc thì em sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Một năm trôi qua đối với em là một bài học, em học tập rất nhiểu trong một năm tù đó. Người ta không tra tấn đánh đập em nhưng người ta dùng những người tù để đánh em, tra tấn em, chèn ép em, đánh đập em, khủng bố em trong thời gian bắt em phải sống chung với những người tù đó.

Bây giờ con người em đã bắt đầu chai sạn, chai lì hơn. Em sẽ không bỏ cuộc đấu tranh này đâu. Em sẽ tiếp tục và nếu bị bắt nữa thì em chấp nhận. Cả một năm tù giờ em đã mạnh mẽ quyết tâm đi đến cùng.

Mặc Lâm: Xin cám ơn chị Lê Thị Phương Anh.

Nhà nước khủng bố

Nhà nước khủng bố

Nguyễn Hưng Quốc

Ở Việt Nam, từ mấy năm nay, dư luận thường xôn xao trước hiện tượng công an bắt người trái phép, mang vào đồn và đánh đập đến chết. Thi thể được mang vào bệnh viện xét nghiệm, người ta thấy người thì giập phổi, người thì toàn bộ nội tạng đều bị nát nhừ. Có trường hợp công an thừa nhận dùng nhục hình để tra tấn; có trường hợp chúng chối phăng, cho là nạn nhân hoặc tự tử hoặc bị bệnh từ trước hoặc lén lút dùng ma tuý quá liều.

Tổ chức Human Rights Watch ghi nhận được 31 trường hợp bị đánh chết trong các trại tạm giam của công an trong bốn năm (2011-2014). Con số này chắc chắn không đầy đủ. Theo một báo cáo của Bộ Công an mới đây, trong khoảng bốn năm, từ ngày 1/10/2011 đến 30/9/2014, tổng cộng có 226 người bị chết trong các nhà tạm giam vì nhiều lý do khác nhau, trong đó, có lý do là nhục hình. Điều cần lưu ý là công an chỉ thừa nhận việc dùng nhục hình khi không thể chối cãi được nữa nên những lý do vớ vẩn họ đưa ra như tự tử hay bị bệnh đều có thể không đúng sự thật.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý không phải chỉ việc công an tra tấn nhiều người đến chết mà còn một khía cạnh khác không kém quan trọng: khi việc tra tấn bị phanh phui, không thể giấu nhẹm được nữa, phải mang ra toà xét xử, các bản án dành cho công an phạm tội tra tấn dẫn đến cái chết của những người dân vô tội đều rất nhẹ, người thì được tha bổng, người thì bị tù treo, chỉ hoạ hoằn mới có một số công an bị tù giam, nhưng ngay trong trường hợp ấy, án tù cũng chỉ vài ba năm, nói theo luật sư Võ An Đôn, hoàn toàn không có tác dụng răn đe để công an đừng tái phạm.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao công an lại càng ngày lại càng tra tấn người dân một cách dã man như vậy? và tại sao các bản án dành cho các công an tra tấn dân chúng đến chết lại nhẹ nhàng đến như vậy? Trả lời câu hỏi trên, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ không hề đưa ra chủ trương và hình thức kỷ luật nào để hạn chế các hành động tra tấn đến chết. Trả lời câu hỏi dưới, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ cũng không hề muốn trừng phạt những công an phạm tội dùng nhục hình để bức cung. Hai câu trả lời ấy lại dẫn đến một sự thật khác: Chính phủ muốn dùng sự khủng bố để đe doạ mọi người.

Khủng bố là hành vi bạo động nhằm gây hoang mang, lo lắng và sợ hãi trong dân chúng. Về phạm vi, có hai hình thức khủng bố chính: Khủng bố thuộc tổ chức (organization terrorism) và khủng bố thuộc nhà nước (state terrorism).

Tiêu biểu nhất cho loại khủng bố thuộc tổ chức gần đây là sự khủng bố của các nhóm Hồi giáo cực đoan: Họ sống rải rác trên nhiều quốc gia khác nhau nhưng có chung một nỗi hận thù đối với văn hoá và văn minh Tây phương, chung một tham vọng muốn phát triển nhà nước Hồi giáo khắp nơi trên thế giới và chung một biện pháp: sử dụng bạo lực để giết càng nhiều người càng tốt, gây tiếng vang càng lớn càng tốt và càng làm cho càng nhiều người khiếp hãi càng tốt.

Khủng bố thuộc nhà nước thì có hai mức độ: Một, ủng hộ và tài trợ cho các tổ chức khủng bố để chúng gieo rắc tội ác ở những nơi khác và hai, bản thân nhà nước đóng vai trò khủng bố đối với dân chúng trong chính nước của họ. Thuộc loại trên, Tổng thống Mỹ George W. Bush, vào năm 2002, cho có ba quốc gia chính được gọi là “trục ma quỷ” (Axis of evil), bao gồm Iraq, Iran và Bắc Triều Tiên. Thuộc loại dưới, tất cả các quốc gia độc tài, với những mức độ khác nhau, đều là những nhà nước khủng bố: Họ sử dụng bạo lực để làm dân chúng sợ hãi, từ đó, triệt tiêu mọi ý định phản kháng, hoặc thậm chí, phản biện.

Trong ý nghĩa đó, không còn hoài nghi gì nữa, nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước khủng bố.

Thật ra, tính chất khủng bố ấy đã xuất hiện ngay từ khi nhà nước Việt Nam (cộng sản) vừa mới ra đời. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ đã có chính sách tiêu diệt những người đối lập và đối kháng, qua đó, gây khiếp hãi trong quần chúng để không ai dám chống lại họ nữa. Chính sách này càng trở thành phổ biến trong cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1954-75. Chính sách gọi là “trừ gian diệt bạo” thực chất là một sự khủng bố. Theo Anthony James Joes, trong cuốn “The War for South Vietnam 1954-75” (New York: Fraeger, 1989, tr. 46), trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, Việt Cộng đã giết khoảng 20% các cán bộ làng xã ở miền Nam. Chỉ trong năm 1960, họ giết khoảng 1.400 công chức và thường dân; năm 1965, con số bị họ giết lên đến 25.000 người. Theo Walter Laqueur, trong cuốn “Guerrilla, a Historical and Critical Study” (London: Weidenfeld and Nicolson, 1977, tr, 262-271), những sự khủng bố của chính quyền miền Bắc có quy mô và mức độ tàn độc hơn cả Trung cộng trong cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch trong thập niên 1940.

Đó là thời chiến tranh. Tại sao bây giờ, thời bình, chính quyền lại tiếp tục sử dụng các biện pháp khủng bố như vậy đối với dân chúng?

Câu trả lời, theo tôi, là vì họ sợ.

Chính quyền Việt Nam hiện nay thừa biết dân chúng không còn tin họ, không còn phục họ, và sẵn sàng đứng dậy chống lại họ khi quyền lợi của người dân bị xâm phạm. Bởi vậy, chính quyền quay mặt làm ngơ, nếu không muốn nói là âm thầm khuyến khích, việc công an dùng nhục hình đối với dân chúng. Chính quyền không hề có ý định răn đe công an. Chính quyền chỉ muốn răn đe dân chúng: Chống lại chính quyền thì chỉ có chết!

Bất cứ chế độc tài nào cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng: tuyên truyền và khủng bố. Công việc tuyên truyền của chính quyền Việt Nam gần đây rõ ràng là đã thất bại: Họ không còn thuyết phục được dân chúng về tính chính nghĩa của họ, đặc biệt trước hai vấn nạn: dân chủ và chủ quyền (đặc biệt ở Biển Đông). Thất bại về tuyên truyền, họ chỉ còn cách duy nhất là gia tăng mức độ khủng bố.

Mục tiêu của khủng bố là làm cho dân chúng sợ. Nhưng động cơ thực sự của sự khủng bố là sợ dân chúng nổi dậy chống lại chính quyền.

VỀ TRỜI

VỀ TRỜI

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Lễ Thăng Thiên B

Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Gia đình Hersten là một gia đình Do Thái thuê Sophie Beranska về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho vì đó bí mật của đời cô!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ hiếu động trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng, cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua… vào ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ…

Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông và gia đình hết sức bàng hoàng và cảm phục. Sau đó cả gia đình Hersten đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội…

Sophie Beranska sống trách nhiệm của người môn sinh mà Chúa Giêsu khi về Trời đã lệnh truyền cho các môn đệ: “…hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15). Vâng theo lệnh truyền của Thầy, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (Mc 16,20). Sứ mạng ra đi loan báo đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Chúa Giêsu hứa sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế trong sứ mạng các tông đồ ra đi loan báo (x. Mt 28,20). Sophie Beranska đã loan báo cả cuộc đời…

Kinh Thánh nhấn mạnh: Chúa Giêsu lên trời 40 ngày sau khi Ngài phục sinh (Cv 1,3). Tin Mừng Marco nhấn mạnh tóm lược các sự kiện trước khi Chúa Về Trời, sau khi Ngài Phục sinh bốn sự kiện:

· Sự kiện thứ nhất (x. Mc 16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18).

· Sự kiện thứ hai (x. Mc 16,12-13) tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus mà Tin Mừng Luca kể chi tiết (x. Lc 24,13-35).

· Sự kiện thứ ba (x. Mc 16,14-18) Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43).

· Sự kiện thứ tư (x. Mc 16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Cv 1,9-11).

Thánh Ambrôsiô nối kết giữa sự kiện Chúa Phục sinh và biến cố Thăng Thiên trong đời sống của người tín hữu: “Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (x. 1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.

Tin Mừng Marco nhấn mạnh Chúa Giêsu được đưa lên trời (Mc 16,19a), về Trời là trở lại nơi Người đã xuất phát mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (x. Mc 1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Chúa Cha, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Được lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc 16,19b), từ ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành của Thiên Chúa (x. Mc 14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1) như Đức Giêsu trả lời với các thầy Thượng tế: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,62).

Cho nên, Chúa Thăng Thiên, nghĩa là Ngài được tôn vinh. Chính vì thế Thánh Vịnh đã cất lời ca ngợi sự vinh hiển của Đức Giêsu từ ngàn xưa :

“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!

Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!

Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,

là Vua Cả thống trị khắp địa cầu”

(Tv 47,2-3).

Vì thế, hoan ca chúc tụng Đấng về Trời là “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ nhất” vì Ngài là Đức Chúa hiển trị ở bên hữu Thiên Chúa Cha:

“hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,

đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!”

…Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,

Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả”

(Tv 47,7.9).

Trời là nơi xuất phát của Ngôi Hai Thiên Chúa, đó là quê hương của mọi người tin vào Ngài phải hướng đến, như Ngài đã gợi mở: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Cho nên, Trời là quê hương mà chúng ta phải hướng về như Thánh Phaolô đã xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Trời là phần thưởng dành cho những ai tin và bỏ mọi sự theo Chúa Kitô đã hứa : “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Để được về quê Trời, sống theo ý của Thiên Chúa, Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Vì thế, với chúng ta như Thánh vịnh khẳng định :

“Tuân theo thánh ý Chúa,

con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể”

(Tv 119,14).

Xin cho chúng con biết sống tinh thần ngóng vọng về Trời dù sống trong hiện tại trần thế, vì:

“Ðức Ki-tô niềm tin của thế giới

Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang”.

(Thánh Thi Kinh Sáng lễ Thăng Thiên)

Lm. Vinh Sơn scj, Sài gòn