Hạnh Phúc Gia Đình

Hạnh Phúc Gia Đình

Giuse Thẩm Nguyễn

Gia đình là cơ cầu nền tảng của Giáo Hội và xã hội, vì thế gia đình có một vị trí rất quan trọng trong việc đào luyện và cung cấp cho Giáo Hội và xã hội những thành viên ưu tú trong tương lai.

Ý niệm về gia đình đã bị bóp méo khi mà có sự cho phép hôn nhân giữa hai người cùng phái. Danh từ vợ chồng thân thương đã bị thay thế bằng bên A và bên B trong một hợp đồng sống chung. Gia đình kiểu này không đáp ứng mục đích của gia đình lúc ban đầu là ” hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất…”(ST 1,28). Hai anh đực hay hai chị cái sống với nhau như vợ chồng thì làm sao có con được, có chăng là sự vay mượn, lấp liếm điền vào chỗ trống qua việc nhận con nuôi… mong thỏa mãn nỗi khát khao được làm cha mẹ.

Đó là cái nhìn về gia đình hiện nay mà xã hội chúng ta phải đối diện. Nhưng trong phạm vi chia sẻ cảm nghĩ về gia đình, tôi xin thu hẹp cái nhìn của mình vào gia đình, một gia đình Công Giáo mà thôi.

Tôi đã có dịp tham gia các cuộc hội thảo về gia đình. Buổi hội thảo nào cũng rất hay, cũng hữu ích cho các cặp hôn nhân. Các diễn giả trình bày về tâm lý người nam, tâm lý người nữ, cách giáo dục con cái, nhưng tôi có cảm tưởng là họ thiếu tâm lý Giê-su. Khoa tâm lý chỉ đưa ra cách giải quyết cái ngọn trong khi cội nguồn của hạnh phúc là chính Đấng Tạo Hóa thì bị quên lãng. Người ta chỉ có thể đem áp dụng kiến thức hôn nhân gia đình khi chúng ta có tình yêu nơi Chúa Giê-su. Vì Chúa là tình yêu, cho nên ta không yêu Chúa là Đấng Tạo Hóa thì ta không có khả năng yêu con người, một thụ tạo bằng tình yêu chân thật được. Do vậy mà tham gia hội thảo hoài, học hỏi mãi mà gia đình vẫn không có hạnh phúc?

Có lẽ những lý thuyết về tâm sinh lý, cách cư xử, điều nên làm, việc cần tránh… để có hạnh phúc thì ai cũng biết, nhưng từ cái biết, cái kiến thức đến việc thực hành có vẻ như rất xa. Các nhà tâm lý có câu “Con đường dài nhất của thế giới là con đường 18 inches từ cái đầu đến trái tim của bạn” hay là “ Khả năng biến đổi từ sự hiểu biết đến hành động là một quá trình vô cùng khó khan”. Vâng quả là khó khăn lắm đến nỗi có chuyện ngược đời là một nhà tâm lý kia khi thao thao thuyết giảng về cách bảo vệ hạnh phúc gia đình thì ông ta đang chờ ngày ra tòa ly dị vợ mình.!

Thật ra chúng ta chỉ có khả năng biến đổi, nhất là biến đổi mình để được yêu thương hơn, hạnh phúc hơn nơi Chúa Giê-su.

Là người Công Giáo, chúng ta biết rằng Giáo Hội khuyên chúng ta học hỏi và noi gương mẫu của gia đình Narazeth. Trong các lễ cưới, cha chủ tế thường hay lấy hình ảnh Thánh Gia làm khuôn mẫu cho đôi tân hôn. Vậy gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giê-su có những bí quyết gì để chúng ta học hỏi.

Trong thời Thánh Giuse chắc là chưa có các nhà chuyên môn về tâm sinh lý, chưa có các chuyên viên về gia đình, chưa có sách học bí quyết sống hạnh phúc gia đình. Vậy thì trong hoàn cảnh đó gia đình Narazeth, tôi nghĩ sẽ không rành về tâm sinh lý, sẽ không đọc sách dạy khôn chuyện gia đình, sẽ không tham gia hội thảo như bây giờ.

Bởi đâu mà gia đình Thánh Gia hạnh phúc và nêu gương mẫu cho chúng ta. Trả lời của tôi cho câu hỏi này không biết đến từ đâu, có thể từ Kinh Thánh, từ lời dạy của Giáo Hội, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống? Nhưng tôi cảm nhận được rằng:

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có Chúa Giê-su hiện diện. Chính Chúa là nguồn yêu thương, chính Chúa là cội rễ của mọi nguồn an vui hạnh phúc. Chúng ta không tìm được hạnh phúc nơi gia đình vì gia đình mình vắng bóng Chúa Giê-su.

Vì không có Chúa nên gia đình luôn bất an tựa như con thuyền mong manh tròng trành, nhấp nhô giữa sóng đời. Tính ích kỷ, thói ghen tuông, lòng tham lam đố kỵ làm rạn nứt mối quan hệ gia đình. Sự thiếu cảm thông, thiếu hy sinh, thiếu quan tâm, thiếu tôn trọng đào sâu thêm những rạn nứt càng ngày càng trầm trọng hơn và hậu quả tất yếu là gia đình thành bãi chiến trường: những cuộc khẩu chiến, những thắng, thua, hơn, thiệt, chán nản, ngoại tình, hận thù và tan vỡ.

Khi chúng ta dọn đến một căn nhà mới, người Công Giáo thường mời linh mục đến làm phép nhà rồi sau đó là tiệc mừng. Nhưng làm phép nhà để làm gì? Phải chăng làm phép nhà là mời Chúa vào ở với mình? Khi có Chúa hiện diện, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương, sẽ ngọt ngào trong cách cư xử, sẽ nhận ra nhu cầu của người khác, sẽ biết cho đi hơn là nhận. Không những chúng ta cần Chúa hiện diện trong căn nhà mình đang sống (house), mà chúng ta cũng cần Chúa hiện diện nơi gia đình (home), nơi tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình. Ý thức về sự hiện diện của Chúa giúp chúng ta rất nhiều trong việc biến đổi cách sống mỗi ngày.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có một gia trưởng là Thánh Giuse, một người công chính. Người công chính là người luôn trung thành thờ phượng Thiên Chúa, luôn tìm kiếm và thực thi theo ý muốn của Thiên Chúa. Khi biết mẹ Maria có thai, không phải là con của mình, Thánh Giuse không điên tiết, ghen tuông, hành động cục cằn thô lỗ, mà ngài âm thầm tìm hiểu sự thật qua cầu nguyện, lắng nghe ý Chúa. Ngài nghĩ tốt về Mẹ Maria, về người bạn trăm năm của mình. Khi được Thiên Thần báo mộng, Thánh Giuse chấp nhận và làm theo ý Chúa. Ngài làm thợ mộc để nuôi vợ là Maria và con là Chúa Giê-su. Ngài kiếm tiền bằng sức lao động của mình và dạy con bằng chính đời sống của mình.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có người vợ, người mẹ dịu hiền và khiêm nhường là Mẹ Maria, một phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ Maria là một người mẹ can đảm,sẵn sàng chấp nhận hy sinh và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ Maria phục tùng chồng là Thánh Giuse và cậy dựa vào sự bao bọc của chồng. Nơi Mẹ toát ra sư yêu thương ngọt ngào làm cho Thánh Giuse quên hết sự vất vả lao động hằng ngày. Mẹ không than trách, không nhiều lời trước những biến cố trong gia đình.. Mẹ giữ lấy trong lòng những biến cố buồn vui ấy và gói ghém như món quà dâng lên Chúa.

Trong phúc âm, Chúa Giê-su đã nhiều lần nhắc đến việc Ngài đến thế gian để làm theo ý Chúa Cha. “vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).Trong hôn nhân, Thánh Giuse cũng luôn tìm hiểu và làm theo ý Chúa. Mẹ Maria cũng luôn chấp nhận và làm theo ý Chúa. Trong cuộc sống gia đình, để có được hạnh phúc chúng ta cũng phải tìm kiếm, chấp nhận và làm theo ý Chúa như trong Kinh Lạy Cha “Xin cho ý­­ Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Làm theo ý Chúa thì sẽ đẹp ý chồng, trong ý vợ, được ý con.

Quả thật, Giáo Hội đã rất khôn ngoan khi dạy con cái mình noi theo gương mẫu Thánh Gia để xây dựng hạnh phúc gia đình. Thiên Chúa là cha yêu thương sẽ ban cho chúng ta mái gia đình hạnh phúc nếu chúng ta biết mở lòng đón Chúa ngự vào. Người làm chồng hãy sống như Giuse, người làm vợ hãy sống như Mẹ Maria, người làm con hãy sống như Chúa Giê-su. Hạnh phúc gia đình nằm trong tầm tay, chúng ta chỉ cần giơ tay đón lấy.

Lạy Thánh Gia xin nâng đỡ và bảo vệ hạnh phúc gia đình chúng con. Amen

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

Đỗ Trân Duy

Đối với Kitô hữu, có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình biết Thiên đàng ở đâu, dĩ nhiên là ở trên trời. Tin như vậy là đủ, chẳng ai cắc cớ thắc mắc thiên đàng ở chỗ nào trên trời. Vả lại ai có thẩm quyền trả lời cho một thực thể siêu hình đó. Cuối cùng chỉ những tay vô thần sừng sỏ nêu ra vấn đề này với thâm ý bắt bí tín lý Thiên Chúa giáo. Vấn đề xem ra không đơn giản, vì gần đây chính một số nhà tư tưởng Công Giáo cũng nói về “nơi chốn” của thiên đàng. Vậy chúng ta phải hiểu về chốn thiên đàng như thế nào? Bài viết này không dám trả lời cho vấn đề lớn đó. Đây chỉ là một chú giải nhỏ, phụ theo lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà thôi.

Thiên đàng hiểu theo truyền thống

Thiên đàng, theo đức tin truyền thống Việt Nam, là một nơi chốn cụ thể và được đồng hóa với cõi trời. Trong kinh “Lạy Cha” câu mở đầu nói rõ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.  Rồi những khóm từ như “Đức Mẹ lên trời”, “lễ Thăng Thiên”, “hoan hô Chúa trên các tầng trời”… tất cả đều xác định thiên đàng là cõi trời. Trong những truyền thống đức tin khác, như của Âu Mỹ, họ không dùng chữ “trời” mà dùng danh xưng “heaven” (thiên đàng). Cũng trong kinh “Lạy Cha”, câu mở đầu là “Our Father who art in heaven.” Theo tiếng Hebrew, heaven có nghĩa là “trên cao” (Catholic Encyclopedia). Tuy heaven không xác định là ở trên trời, nhưng vẫn được hiểu ngầm như vậy. Trong thánh kinh có rất nhiều trình thuật gợi ý như “Hãy nhìn lên thiên đàng mà xem các tầng mây cao hơn ông biết mấy!” (Yob 35:5). Thánh Stêphanô nói, “Này tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (CV 7:56). Thánh Gioan miêu tả cảnh phục sinh: “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ thiên đàng: ‘Hãy lên đây’, và các ngài lên thiên đàng trong đám mây, trước mặt thù địch của các ngài” (KH 11:12). Sách Tông đồ công vụ miêu tả rõ hơn, “Khi Chúa Giêsu được đưa lên cao, các môn đệ nhìn theo Chúa cho đến khi một đám mây che kín mất Ngài” (CV 1:9).
Nếu chúng ta đi tìm lời nói của Đức Giêsu về vấn đề này, chúng ta không thấy có chỗ nào Người nói thiên đàng ở trên trời. Đức Giêsu cũng không đồng hóa Thiên Chúa với thiên đàng (hay trời). Lời cầu nguyện của vua Salômôn chứng tỏ người xưa cũng ý thức như vậy: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!” (1 Vua 8:27)

Đại chúng cho rằng có thể suy diễn vấn đề trên qua nguyên tắc: thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự, vậy nếu biết Thiên Chúa ở đâu, ta sẽ biết thiên đàng ở đâu. Người ta cũng đã tưởng rằng chỉ có ba câu trả lời cho vấn đề ấy. Thứ nhất, thuở xưa người ta tin Thiên Chúa tạo ra vũ trụ nhưng Chúa là Đấng siêu việt vượt trên vật chất, nên không đồng hóa với vũ trụ. Thiên Chúa ở ngoài vũ trụ. Đến thế kỷ 18, con người khám phá ra vũ trụ vô cùng lớn, lớn đến mức dù ta có di chuyển với tốc độ ánh sáng, qua hằng ngàn năm, cũng chưa tới biên giới của nó. Con người không chấp nhận nổi có chỗ nào gọi là bên trên hay bên ngoài vũ trụ. Vả lại nếu Thiên Chúa ở bên ngoài vũ trụ, vậy vũ trụ càng lớn, Chúa lại càng ở rất xa con người. Làm sao con người có thể gần Thiên Chúa để cầu nguyện.

Câu trả lời thứ hai, người ta đặt Thiên Chúa vào bên trong vũ trụ. Do đó mà có niềm tin thiên đàng ở trên trời, tức là ở bên trong vũ trụ. Nhờ thế mà con người có thể gần với Thiên Chúa. Quan niệm này cũng không ổn, vì nếu ở trong vũ trụ Thiên Chúa phải là một sinh thể của vũ trụ. Có lý nào Thiên Chúa là một phần của vũ trụ mà vũ trụ ấy lại do chính Ngài tạo ra. Những niềm tin sơ thuần cho rằng Thiên Chúa ở bên ngoài hay bên trong vũ trụ đều đẩy trí thức đến ngõ bí vì kết quả vô lý của suy luận.

Câu trả lời thứ ba dựa vào tín lý. Trong lãnh vực này, chúng ta thấy có hai phe. Phe thứ nhất, đại diện là Joseph Campbell, tin rằng con người không thể nào biết được Thiên Chúa là ai. Vì vậy không nên đặt vấn đề sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh kinh cũng nói: “Thiên Chúa vượt xa hơn và vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể tưởng nghĩ về Ngài” (GLCG 2794). Thần học gia Paul Tillich phủ nhận lối diễn tả “hiện hữu của Thiên Chúa”. Ông cho rằng nói như vậy chúng ta đã mặc nhiên cho Thiên Chúa là một phần thực thể của thiên nhiên. Bởi vì “hiện hữu” có nghĩa là đang có và đang biệt lập đứng lơ lửng ở đâu đó ngoài mặt đất. Ông đổi ý niệm “hiện hữu” (exist) bằng ý niệm Thiên Chúa “thường hằng” (God is). Nhóm thứ hai cho rằng Thiên Chúa mang bản chất pantheism, nghĩa là mọi thứ đều ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở khắp mọi nơi (omnipresence) vì Ngài là Đấng vô hạn (immensity) (Council of Lateran, c. “Firmiter”; Vatican Council, Sess. III, c. 1.).  Như vậy vũ trụ ở trong Thiên Chúa. Tóm lại, như chúng ta thấy, với những nhận định trên, câu trả lời về “thiên đàng ở đâu” vẫn còn bỏ ngỏ.

Điểm thời sự không thể tránh

Trong buổi cầu nguyện với quần chúng ngày 21 tháng 7 năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tạo nên vấn đề thời sự. Ngài nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống (state of being) chứ không phải là một nơi chốn (place) theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.”  Giáo hoàng nói rõ thêm,“Thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng hay là một địa điểm cụ thể trong những cụm mây, nhưng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.” (1) Đối với giới truyền thông ngoài Công Giáo, lời tuyên bố này quá bất ngờ vì đi ra ngoài nhận định về thiên đàng của truyền thống.

Mười một năm sau, 2010, dưới triều Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Tòa Thánh cho phát hành cuốn YOUCAT (Youth Catechism – Giáo Lý Công Giáo cho Giới trẻ). Trong tập sách này, hiện thực của thiên đàng được lập lại và chính thức đưa vào mục giáo lý. Theo đó thiên đàng không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái sống (a kind of life) trong ý thức về Thiên Chúa hiện diện. Sự hiện diện này không lệ thuộc vào không gian và thời gian (không-thời gian). (2) Như vậy cả hai đức Giáo Hoàng, những vị có thẩm quyền tông truyền, đều quan niệm về “nơi chốn” thiên đàng như nhau.

Sự tiếp nhận

Ngay sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phát biểu, không ít người sửng sốt và phản đối. Có người dè dặt cho rằng, “Có lẽ Giáo hoàng có một mạc khải tư nào đó về thiên đàng chăng.” Đa số tín hữu vướng mắc trong  những sự kiện như: Đức Mẹ hồn xác lên thiên đàng (trời), hay: đến ngày tận thế xác chết sống lại, kẻ lành lên thiên đàng… Họ cho rằng vì thể xác là vật chất, nếu không có nơi chốn thì thể xác sẽ tồn tại ở đâu. Ngoài ra những khóm từ gợi hình trong thánh kinh như: mở cửa thiên đàng, tầng trời mở ra, ngự bên hữu Chúa Cha… tất cả đều trình bày theo kinh nghiệm ở trong một nơi chốn.

Mặc dù thánh Phaolô đã giảng thân xác phục sinh là một thân xác thần linh (celestial bodies) không phải là thân xác huyết nhục. (1 Côr 15: 35-44) Thân xác Chúa Giêsu phục sinh là một điển hình. Chúa chợt “xuất hiện” để nói chuyện với hai đệ tử trên đường đến Emmaus, rồi “tan biến” khi tới nơi. Chúa cũng “hiện ra” giữa các môn đệ đang họp trong gian phòng cửa khóa kín, rồi cũng “biến mất” sau khi chúc lành cho họ. Xem thế, thân xác thần linh không cần một nơi chốn cụ thể để trú ngụ. Đa số tín hữu quen trong giới hạn của không gian 4 chiều, nên muốn giới hạn thiên đàng và Thiên Chúa trong không gian 4 chiều. Họ không thể tưởng tượng nổi một thân xác thần linh và một thiên đàng không có nơi chốn. Họ hoang mang đối diện với sự kỳ diệu của thực thể vô không-thời gian mà con người khó diễn tả và trí tưởng tượng phải dừng lại nơi giới hạn của nó.

Đàng khác cũng có rất nhiều người tiếp nhận lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một cách dễ dàng. Họ cho rằng Giáo Hoàng đưa ra một nhận thức thần học đúng, nhưng tạo ra dao động chỉ vì ngài thiếu phần chú giải đi kèm. Nhận xét này rất chính xác. Chúng ta có thể đặt chú giải cho nhận thức đó qua nhận định về bản thể của thân xác hiển linh. Có lẽ không hình ảnh nào cụ thể hơn là bánh và rượu trong thánh lễ. Nếu thân xác Chúa Giêsu bị giới hạn trong thể chất, và trong không-thời gian, làm sao chúng ta có Mình Máu Chúa Giêsu, trong dạng bánh và rượu, hiện diện cùng lúc ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bàn về thân xác hiển linh của Đức Mẹ, chúng ta cũng biết Đức mẹ đã hiện ra và biến mất rất nhiều lần. Mỗi lần hiện ra chỉ vài người tuyển chọn mới có diễm phúc chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Chẳng hạn lần hiện ra ở Fatima, mặc dù có rất nhiều người đứng tại chỗ Đức Mẹ hiện ra, nhưng chỉ có 3 em nhỏ nhìn thấy Đức Mẹ. Như vậy thân xác Đức Mẹ vừa là hữu hình vừa là vô hình tùy theo liên hệ với từng cá nhân. Nếu xác Đức Mẹ là thể chất vật lý, mọi người đều phải thấy như nhau. Rõ ràng là thân xác phục sinh không bị trói buộc bởi bất cứ một luật lệ vật lý nào. Suy ra mối kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa (thiên đàng) là một trạng thái sự sống riêng tư, chứ không theo bất cứ luật lệ vật lý nào.

Chân lý bao gồm cả đức tin lẫn kiến thức, nên tín hữu chúng ta buộc phải học hỏi tìm hiểu. Ðó là lý do Thánh Phêrô đã dạy, “Hãy nỗ lực bổ sung đức tin với nhân đức, và bổ sung nhân đức với sự hiểu biết” (2 Phê 1:5). Năm 2000, ký giả vô thần Peter Seewald hỏi Hồng y Ratzinger “Thiên đàng ở đâu?” Hồng y trả lời, “Những từ như ‘mây’ và ‘thiên đàng’ chỉ là cách nói mà con người muốn tìm cho Thiên Chúa có một nơi chốn. Đúng ra cách nói ‘Chúa Giêsu lên thiên đàng’ chỉ có nghĩa là không còn nhìn thấy trên mặt đất chứ không phải không còn hiện diện trên mặt đất.” (3) Bởi vậy vẫn có người tuyển chọn có ơn phước nhìn thấy Chúa Giêsu, chẳng hạn thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Padre Pio…

Quan điểm thần học

Chúng ta hãy bắt đầu bằng một tín lý quen thuộc và đặt tín lý đó vào một tam đoạn luận đơn giản: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy thiên đàng ở khắp mọi nơi.

Như vậy phải chăng giữa thiên đàng và con người không còn ranh giới? Theo thần học, đoạn lý luận trên vô giá trị, bởi vì đã không thấy thiên đàng là ơn phước. Thiên đàng không phải là kết quả của một điều kiện hay của một định luật vật lý. Mặc dù Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nhưng Chúa tỏ lộ vinh quang của Người qua phương cách ơn phước đặc sủng. Theo thần học gia Gerhard Ebeling, “Không phải Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó, mà là thiên đàng ở đâu Thiên Chúa ở đó” (not that God is where heaven is, but rather heaven is where God is). Vì là ơn phúc nên phải có sự kết hợp sống động giữa cá nhân và Thiên Chúa. Cũng không phải ai cũng có mức độ ơn phước giống nhau. Gọi là thiên đàng, hay trời, chỉ là cách biểu đạt bất toàn của ngôn ngữ loài người về trạng thái cá nhân “hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi” (GLCG 1024). Nói cách khác, không hề có một thiên đàng tĩnh, tồn tại bất biến ở nơi nào đó trong vũ trụ.

Tình kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa biểu lộ giáo huấn vô cùng quan trọng về tính tự do của con người. Tính tự do đặt con người ở thế chủ động trước ơn phước của Thiên Chúa. Ta muốn liên kết với Thiên Chúa hay không là tùy ở ta. Bởi vì Thiên Chúa chỉ “hiện diện” ở những nơi đạo đức tốt lành. Thiên Chúa không “hiện diện” ở nơi tội lỗi sa đọa. Đức Giêsu đã nói, “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (Mat. 5:8). Tuy nhiên lại phải hiểu rằng “hiện diện” không nằm trong bất cứ phạm trù nào thuộc không-thời gian. Lm Phan Đình Cho tóm tắt rằng thiên đàng phải hiểu là một ơn phước mà Thiên Chúa dành cho người tốt lành và hoả ngục là một thái độ con người tự do từ chối ơn phước đó. (4)

Vài sự kiện trong hạnh các thánh có thể làm rõ hơn về ý tưởng thiên đàng là một ơn phước của Thiên Chúa.  Các vị thánh cao trọng như Gioan Thánh Giá (John of the Cross), Têrêsa Lisieux, và thánh Têrêsa  Calcutta đã trải qua một khoảng thời “mất ơn phước vì bị Thiên Chúa bỏ rơi”. Thánh Gioan Thánh Giá gọi kinh nghiệm này là “đêm đen của linh hồn”. Thiên Chúa cố tình không “đến” với họ khiến tâm hồn họ lạc lõng, trống rỗng, tối đen và đau khổ. Thiên Chúa dành riêng cho một số vị đặc sủng ơn thử thách “đêm đen” này. (5) Nhưng đây là một chủ đề khác, chúng ta không muốn đi ra ngoài chủ đề hôm nay.

Trở lại với tín lý “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Thần học dạy rằng chúng ta phải thấy tín lý đó theo hướng nhìn về ơn sáng tạo và ơn cứu độ phổ quát. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi có nghĩa Thiên Chúa nâng đỡ sự hiện hữu của vũ trụ. Bởi vì duy chỉ có Thiên Chúa là Hữu. Không gì có trước Hữu, nên Thiên Chúa là Đấng tự Hữu, Hữu Tuyệt Đối. Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ từ hư vô. Nghĩa là mọi vật từ hư vô nhờ Hữu, qua Hữu mà được thành hữu thể. Vì từ Hữu mà ra, nên mọi hữu thể đều thuộc về Hữu, và hiện tính của Hữu có trong mọi hữu thể. Vì vậy mọi hữu thể đều ở trong Hữu. Nếu Thiên Chúa vắng mặt mọi thứ trở thành hư vô ngay tức khắc.

Nếu cảnh giới thiêng liêng nằm ngoài không-thời gian, thì hiển nhiên thiên đàng không nằm trong vũ trụ vật chất. Vì ngôn ngữ của lời cầu nguyện, bắt buộc chúng ta phải xưng hô với Thiên Chúa như một Đấng ở đối diện, nhưng không phải như vậy. Thánh Augustine đã nói những lời cảm khái, “Chúa ở bên trong và luôn luôn ở cùng tôi.” Thánh Phaolô đã có lần đứng giữa chợ trong thành Athens giảng đạo. Thánh nói, “Họ đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa đâu có ở xa chúng ta. Chúng ta sống và sinh hoạt trong Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta hiện hữu” (CV 17:27). Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói, “Nếu Thiên Chúa là một đối tượng cụ thể có thể thấy được thì người đó không phải là Thiên Chúa.”

Điều mà hai Giáo Hoàng đưa ra đã được các thần học gia nói tới từ thời thánh Augustinô cho tới ngày nay. Thiên đàng là “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không thể nghĩ tới, lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1cor 2:9). Vì vậy, hiện tại con người chỉ có thể “thấy” Thiên Chúa bằng đức tin mà thôi. Cho nên “thấy qua đức tin” là một trạng thái của sự sống. Cái thấy này khác với cái thấy trọn vẹn “mặt giáp mặt”, trong cõi vĩnh hằng, khi con người có thân xác phục sinh hiển linh. Khi đó con người không những kết hợp với Thiên Chúa, mà còn kết hợp với các thánh và với các thiên thần (GLCG 962). Thời điểm vĩnh hằng đó, đối với kinh nghiệm hạn hẹp của con người tại thế, chỉ có thể hình dung bằng cách đặt toàn bộ vào một nơi chốn. Theo truyền thống, ngôn ngữ loài người gọi “nơi chốn” đó là thiên đàng. Thiên đàng là một huyền nhiệm không thể nói rõ ra được.

Đỗ Trân Duy
————–
(1) Xin đọc “Heaven”, L’Osservatore Romano, Weekly Edition in English. 28 July 1999.
(2) Xin đọc các câu hỏi 52, 123, 158, 242, 285, và 518 về thiên đàng trong YOUCAT. 2011. Ignatius Press, San Francisco
(3) Xin đọc “Where is God?” P. 105, God and the World. 2002. Joseph Ratzinger. Ignatius Press, San Francisco.
(4) Phan Đình Cho. 2000. Câu hỏi 47, Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng. University Press. New York, USA.
(5) Mẹ Têrêsa Calcutta. Come Be My Light. 2007. Brian Kolodiejchuk chủ bút. Nhà xuất bản Doubleday. Đồng thời để hiểu rõ hơn ý nghĩa của “đêm đen” xin tham cứu bài “On A Dark Night” trong sách The Ascent To Truth. 1981. Thomas Merton. Nhà xuất bản Harcourt Brace & Company, San Diego, California.

Blogger Trương Duy Nhất mãn hạn tù

Blogger Trương Duy Nhất mãn hạn tù

Thân nhân blogger Trương Duy Nhất đã đến đón ông

Ông Trương Duy Nhất, chủ nhân trang blog ‘Một góc nhìn khác’, vừa được ra tù sau đúng hai năm thi hành bản án về tội ‘Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo điều 258 Bộ Luật Hình sự.

Ông Nhất được trả tự do vào lúc 8h sáng thứ Ba ngày 26/5 từ trại giam số 6 ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ngay sau đó ông Nhất cùng vợ và con gái đã đáp máy bay từ Vinh trở về nhà ở Đà Nẵng.

BBC đã tìm cách liên lạc với ông và thân nhân nhưng chưa được.

‘Bị ném ra đường’

Đúng hai năm trước, vào ngày 26/5/2013, ông Nhất bị Cơ quan An ninh điều tra bắt giam tại nhà riêng. Gần một năm sau, Tòa án Đà Nẵng đã tuyên án ông Nhất hai năm tù giam theo Điều 258.

Trên trang Facebook của mình, nhà báo Huy Đức, người đã cùng vợ con ông Nhất đến đón ông tại nhà giam, cho biết ông Nhất ‘bị áp tải bởi 8 người mặc thường phục và 2 người cảnh phục trên một xe 12 chỗ’.

“Nhất nhao ra gọi vợ con thì bị khóa tay, ghì xuống,” ông Huy Đức thuật lại và cho biết ông Nhất ‘bị ném ra lề đường Hồ Chí Minh, cách trại 4km.”

Có những loại tù mà người ta cảm thấy ân hận hay xấu hổ, nhưng trường hợp của tôi thì tôi thấy tự hào.Lời cuối cùng của Trương Duy Nhất nói trước Tòa

Ông Nhất bị kết tội do đã viết 11 bài đăng trên trang blog của ông trong đó ông đã ‘chấm điểm thủ tướng’ và yêu cầu ‘tổng bí thư phải ra đi’.

Cáo trạng được đưa ra tại phiên xử ông Nhất cho rằng các bài viết này của ông ‘đã làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền và làm mất uy tín cá nhân các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam’.

Ông Trần Vũ Hải, luật sư bào chữa cho ông Nhất, từng thuật lại với BBC sau phiên tòa rằng ông Nhất cho rằng ông ‘chỉ chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm, những hiện tượng chưa đúng với hy vọng lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ thấy ra, khắc phục, sửa chữa và rút kinh nghiệm’.

“Có những loại tù mà người ta cảm thấy ân hận hay xấu hổ, nhưng trường hợp của tôi thì tôi thấy tự hào,” luật sư Hải dẫn lại lời cuối cùng của ông Nhất nói trước Tòa trong phiên xử.

Xem thêm:

Nhà báo Trương Duy Nhất mãn hạn tù (Nguoi-viet.com)

Ông Trương Duy Nhất phản ứng lại công an sau khi
ông bị thả giữa đường. (Hình: Facebook Phạm Xuân Nguyên)

Blogger Trương Duy Nhất mãn hạn 2 năm tù (RFA)

” Tôi mong khi Trương Duy Nhất vừa bước chân ra khỏi tù thì những thằng ích kỷ ăn tàn phá hoại đất nước những thằng đang bắt dân vô tội thì nó phải vào tù thay tôi.
-Blogger Trương Duy Nhất”

NHÌN LẠI MỘT HÀNH TRÌNH

NHÌN LẠI MỘT HÀNH TRÌNH

Bóng người đã qua, còn đó những dấu chân!  Sáu tháng Tông Đồ Cuối Tuần của tôi như một cái bóng lướt qua cuộc đời.  Tuy nhiên, những ngày ấy vẫn còn lưu lại trong tôi những dấu ấn không thể nào quên.

Khởi đi từ chính tâm tưởng của con người tôi, ngày cuối tuần là ngày mà tôi dừng lại để hoàn tất những bài vở đang còn dở dang.  Tuy nhiên, hôm nay tôi không được sử dụng trọn vẹn ngày này bởi vì tôi phải chia thời gian cho người khác, những người có thể đang cần đến tôi.  Có lần tôi nghĩ:  “Giá như hôm nay mình không phải đi tông đồ, để ở nhà hoàn thành thật tốt cho bài thuyết trình kia!”  Dĩ nhiên đây là một sự chiến đấu từ trong nội tâm của tôi.  Còn những khó khăn khác, như những ngày chúng tôi không có danh sách của những bệnh nhân cần rước Mình Thánh Chúa, chúng tôi không biết sẽ bắt đầu từ đâu, khởi đầu câu chuyện như thế nào…  Bởi vì, không ai biết chúng tôi và chúng tôi cũng không biết ai, chỉ biết một điều, họ là bệnh nhân và tôi là người đến thăm họ.  Làm sao để gặp gỡ người ta?  Làm sao để người ta tin tưởng và chia sẻ những gì mà họ đang chất chứa trong lòng…?  Chưa hết!  Cha giải tội!  “Hôm nay có nhiều người muốn xưng tội quá nhưng không tìm được một Cha giải tội!”  Lòng tôi co thắt lại. Nơi bệnh viện, lúc con người đối diện với cái chết, họ muốn hồi tâm trở lại sau một hành trình sống “hoang đàng.”  Đây là lúc thuận tiện đưa người ta trở về, thế nhưng lại không có một linh mục vào lúc này…

Thật vậy, đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, ngồi trên lưng của những đau đớn bệnh tật, con người ta muốn hoán cải, muốn tâm sự, muốn được chia sẻ, nâng đỡ, để bản thân mình được thanh thản, để vơi đi những băn khoăn khắc khoải cũng như những lo lắng và thất vọng.  Nơi ấy, có những người trẻ cảm thấy thất vọng về tương lai của họ; những người già thì hối tiếc về một quãng đời sai lầm lạc bước; có những người khác bị dày vò bởi con cái thiếu trưởng thành; người thì tán gia bại sản bởi vì chữa trị bệnh tật; có người cả phần lớn cuộc đời sống nơi bệnh viện; có người mà lương thực chủ yếu của họ là thuốc men; có những người con cháu thăm nuôi đầy đủ nhưng vẫn cảm thấy cô đơn; có những người một thân côi cút nơi giường bệnh; có những người lạc quan trong cơn bệnh; có những người thanh thản, sẵn sàng ra đi vì có một niềm tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa…  Đứng trước những con người ấy, tôi chỉ giống như một người câm điếc, lắng nghe họ bằng con tim, nói với họ bằng ánh mắt đồng cảm.  Ước gì tôi có thể làm dịu đi những nỗi đau, hay là tiếp thêm và củng cố sức mạnh niềm tin của những con người mà tôi gặp gỡ mỗi tuần.

Không vô ích cho những gì mà bản thân tôi phải chiến đấu trong chính nội tâm mình để bước ra khỏi những trang sách, khỏi dán mắt vào những con chữ để đến với những con người thực bằng những cái gì rất thực của con người tôi. Chính những khó khăn của việc không ai biết chúng tôi là ai, chúng tôi cũng không hề biết họ trước, lại đưa chúng tôi đến kinh nghiệm gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều người, không phân biệt lương giáo hay giàu nghèo, già trẻ hay bệnh tật; ốm đau hay khoẻ mạnh…  Cũng nhờ việc chúng tôi không tìm được một Cha giải tội cho một số hối nhân lại là một cơ hội để tôi nhìn thẳng vào chính nội tâm của mình để thấy con tim khao khát phục vụ cũng như để thấy giới hạn của bản thân mình.  Qua những tâm tình và chia sẻ của những bệnh nhân cũng như thân nhân của họ, bản thân tôi cảm nhận được nhiều khuôn mặt của đời sống, thấy thực trạng, giới hạn của con người, cùng với những mong ước khát vọng sâu thẳm nơi mỗi cuộc sống con người.  Nhờ đó, tôi có thêm nhiều kinh nghiệm quý để chia sẻ và cảm thông với người khác.

Mười chín lần tới bệnh viện trong kinh nghiệm tông đồ đã qua để lại trong tôi những dấu ấn khó phai, đó là cuộc chiến đấu với con người nội tâm của tôi, cũng như những khó khăn của tha nhân.  Những kinh nghiệm này không chỉ giúp tôi nhận thấy những thao thức từ phía bản thân, mà còn đem đến cho tôi nhiều lợi ích cho đời sống thiêng liêng, và cho tôi thấy được khát khao phục vụ người nghèo của mình.  Ước mong sao bản thân tôi và tất cả anh em được hun đúc bởi ngọn lửa tình yêu nhiệt thành tông đồ; mong sao những người mà chúng tôi gặp gỡ có được một ánh sáng hy vọng cho cuộc đời họ.

Như Thế

http://dongten.net

Mê Tín Dị Đoan .

Mê Tín Dị Đoan .

Mê Tín là tin vào những gì không có ích cho sự phát triển cho khối óc. Mê tín sẽ làm ta yếu hèn, nhờ đỡ, thần kinh yếu dần rồi gây ra đủ loại bịnh tật. Việt Nam đã và đang lan tràn những hiện tượng đồng bóng, lên cốt, ‘ngoai cảm’, bói toán, bùa chú, tử vi tướng số, cầu cơ, gọi hồn, đốt vàng mã, coi phong thủy… Những việc này là mê tín và chúng ta nên tránh xa.

Trời đã ban cho mỗi người một báu vật đó là thể xác và tâm linh. Khi sanh ra làm người, là đã có đầy đủ hết không cần gì thêm nữa. Với Tâm linh sẵn có, mình có thể tự phát triển đến ngang hàng hoặc cao hơn bất kỳ ai cõi nào. Họ còn thua chúng ta mà, họ đâu có cái xác, đâu có ngũ hành như chúng ta. Vì không có cho nên nhiều phần bất chánh trong vũ trụ mới chiếm xác và điều khiển mình. Chúng ta có khối óc huyền vi siêu diệu sao không biết xử dụng mà lại chấp nhận sự lệ thuộc, làm nô lệ cho các giới đó? Cái gì thanh sạch là đưa các bạn đi lên là đúng, cái gì ác trược xâm chiếm và làm suy yếu thể xác hay thần kinh của mình là tà đạo.

Thời đại này sẽ không chấp nhận bất cứ sự mê tín nào trong xã hội. Tiện đây, xin đóng góp chút ý kiến về tất cả những hiện tượng trên để giúp xã hội chúng ta sống văn minh hơn.

alt

1) Cúng khai trương:

Hầu như người Việt nào khi khai trương gian hàng hay cửa tiệm đều bày ra cúng heo quay hay thổ địa. Có 4 điều chúng ta phải suy nghĩ:
thứ nhất, bạn căn cứ vào đâu và hiểu gì khi làm việc này?
Thứ nhì, tôi thấy 100% các công ty nước ngoài và người ngoại quốc đâu có làm chuyện này nhưng tại sao họ luôn luôn thành công? ví dụ Hoa Kỳ, họ không bao giờ làm chuyện này nhưng đất nước họ giàu mạnh nhất thế giới! còn chúng ta thì lúc nào cũng làm nhưng không khá chút nào.
Thứ ba, nếu như có thật là cúng kiểu đó có linh thiệt, thì té ra mình nương nhờ thần thánh đễ làm ăn? bạn định lợi dụng thần thánh?
Thứ tư, ai nói với bạn là có thổ địa và sao bạn biết ông ta thích ăn… heo quay?

2) Đốt vàng mã

alt

Mỗi lần khai trương hay cúng cô hồn hay cúng gì đó, người Việt ta lại bày ra đốt tiền giả hay vật giả. Bạn nghĩ sao mà làm vậy? tôi không nghĩ ra. Té ra khi tôi dùng lửa đễ tiêu huỷ giấy tờ thì ai đó dưới âm phủ sẽ nhận được toàn hồ sơ…. mật của tôi? Tội ai làm nấy chịu, ví dụ ông bà mình đang bị hành hình dưới địa ngục, bạn có nghĩ là mấy thứ bạn đốt đó sẽ đến tay họ không? Bạn có thể dùng kim ngân để phá luật đời nhưng sẽ không thể dùng mớ giấy lộn và hình nộm để phá luật Trời.

3) Bói toán:

alt

Không ai có thể biết tương lai của bạn! Tôi biết khoa Tử Vi là một môn khoa thiên văn cổ, nó dựa trên thiên văn, sự vận chuyễn của các hành tinh mà đúc kết nên đời người. Vấn đề là mình biết để làm gì? Tại sao chính mình có khả năng thay đổi đời mình qua cách sống hàng ngày mà không làm, lại đem đời mình phó thác cho số phận. Mà bạn muốn biết để làm gì chứ? Tôi hỏi thật đó. Biết rồi mình sẽ làm gì? Mình né được không? Bạn đã đọc phần 4 của bài, tốt hơn theo đó mà làm thì đời bạn sẽ khá hơn.

4) Phong Thủy:

alt

Phong Thủy không phải là bộ môn xấu nhưng chính vì chúng ta làm nó xấu.

Nó là nghệ thuật thiết kế chứ chẳng có gì bí mật hết. Ví dụ: phòng khách mình sắp đặt nhìn “chướng mắt” như giữa phòng khách kê cái giường ngủ, tranh treo ngay cửa sổ, đồng hồ treo sau cửa ra vào, bàn ăn kê trong phòng ngủ…. khi bạn mời sếp đến nhà chơi, bước vô là người ta thấy khó chịu rồi. Cái khó chịu này sẽ làm bạn thất bại sau này. Tôi chỉ lấy 1 ví dụ rất nhỏ để các bạn thấy, con người mình ra sao, mình sẽ an bài nội thất y như vậy. Bạn đạo đức, sống tốt, sức khoẻ dồi dào… bạn sẽ thiết kế khác người bên trên. Đó chính là phong thủy đã an bài rồi. Nó an bài ngay trong tâm tánh mình. Người Pháp, người Nhật, nhà cửa trang trí họ khác nhau là vì cái tánh họ khác nhau. Cho nên không thể dùng Phong Thuỷ để thay đổi cuộc sống, mà phải thay đổi tánh tình trước. Dùng phong thuỷ táng huyệt chỗ này chỗ kia, đó là đại tội vì cướp đi phần âm đức đã an bài cho người khác. Thiếu gì người dành mua cho được căn nhà “hạp” với tuổi mình nhưng rồi cũng tán gia bại sản.

5) Nhà “Ngoại Cảm”:

Hiện nay tại VN, rất nhiều người tin theo cái này. Mình là người, có trí óc, có cái tâm vô cùng siêu diệu mà sao lại chạy theo mấy cái này? Tôi hỏi nè, bạn có biết bên trong cái xác nhà ‘ngoại cảm’ đó là gì không? Nếu bạn biết ai đam mê cái này, nên khuyên họ rời xa ngay lập tức. Toàn là làm những chuyện nghịch thiên phá luật.

6) Lên Đồng, Nhập Xác:

alt

Nguồn: vnphoto.net

Việc này có chứ không thể phủ nhận. Khoa học cũng nghiên cứu, phân tích đủ thứ mà vẫn không giải thích được. Cái đó chứng minh là có linh hồn. Bạn là chủ của 1 tiểu vũ trụ, là vua một cõi trong bản thể, bạn phải xử dụng chủ quyền của mình. Trong bản thể nó lớn lắm, như là ngoài vũ trụ. Chúng ta không nên giao tiếp hoặc trực tiếp tham gia những việc này. Ngoài đời nhiều giới bất chánh lắm, thì bên kia cũng vậy! Bạn thử ra đường mời giang hồ vô gia cư vô nhà mình ở một thời gian rồi sẽ biết chuyện gì sẽ xãy ra. Tất cả là duyên nghiệp ân oán với nhau thôi.

7) Bùa Chú:

alt

Người bạn tôi đi xe đường xa, trên xe đò có 1 nhóm người ngồi chơi bài, thấy anh ta có vẻ thích thú, họ mời anh ta chơi. Lúc say mê chơi, họ bảo anh đặt tiền bao nhiêu là anh ta cứ lấy mà đặt. Khi xe tới nơi, anh bước xuống và như chợt tỉnh lại thì số tiền lớn trong túi mất sạch. Ai ai đều nói là anh bị bỏ bùa. Vậy Bùa Ngãi là gì?

Tất cả chỉ là hoá chất (chemical) thôi, không gì khác. Họ lấy tinh dầu của một số cây, lấy tinh chất rồi phóng ý vô đó. Tâm con người là sức mạnh vạn năng, có nghe Tâm Điển bao giờ chưa? Tâm bạn là điển quang, có ánh sáng, có sức rung động có thể tạo ra sự sống. Vì chính nó là nguồn sống. Cứ bơm sự sống với tà tâm vô mấy cái hũ đó lâu ngày nó thành thuốc. Nó có thể hại người ít đức chứ không động được người đức cao, vì sao? vì người đức cao họ có điển tâm mạnh hơn, khó hại lắm. Quỷ Thần còn phải trọng, mấy cái cây đó làm được gì, cùng lắm là hoá chất làm họ tê chút thôi.

Tin và dùng bùa ngãi là thứ tà đạo tồi nhất mà làm người phải tránh. Xử dụng mấy thứ này hại người  trước sau gì cũng bị quả báo lúc lâm chung. Tại sao không dùng điển tâm của mình khai phá huyền bí mầu nhiệm chơn tâm để đi đường lớn mà cứ chui đầu vào làm chuyện lắc nhắc?

8) Đánh Đề:
Tệ nạn này ngày càng nhiều ở VN. Người ta tối nằm ngủ, thấy con này, vật nọ, liền ngày hôm sau là dựa vào đó mà mua số đề để mong được có số tiền. Thậm chí còn quá lố hơn nữa là canh nơi nào có người vừa bị tại nạn xe cộ chết là xúm ra cúng kiến cầu người mới chết phù hộ cho may mắn.

Tại sao chúng ta lại mê muội đến mức này? Điều gì khiến con người trở nên thấp trí đến nỗi đi cầu người chết để giúp ta làm giàu? Người chết do tai nạn đều là bất đắc kỳ tử. Thần hồn họ hốt hoảng, hồn phách tán loạn, đau khổ, bối rối,…. họ còn lo cho họ chưa xong thì làm gì giúp cho mình! Mà họ lấy tư cách gì mà biết tương lai chưa xảy ra? Họ còn chưa tin là mình đã chết và không biết trước mình sẽ chết thì làm gì họ biết được gì khác mà giúp chúng ta.

9) Xin Ấn:

alt

“…Lễ hội đền Trần diễn ra vào rằm tháng giêng và mở đầu bằng lễ khai ấn đêm 14 tháng giêng. Gần đây, ngày càng nhiều người tới hành lễ tại đền Trần vào dịp hội để xin được tờ ấn với mong ước thăng tiến trong nghề nghiệp…”

Đây là một hiện tượng vô cùng phản khoa học, phản tôn giáo, nghịch lại mọi đạo đức căn bản của dân tộc. Chen đua nhau, giẫm lên nhau, đạp nhau để xin thần thánh ban cho thăng quan tiến chức qua vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng.

alt

Trời ơi người Việt chúng ta đó sao? tại sao chúng ta lại mê muội đến mức này? Tài lộc và phước đức do một cá nhân phải do công năng tu tập đạo đức bao kiếp có thể mua với giá vài chục ngàn đồng? Chúng ta hãy mở to con mắt ra mà nhìn tấm gương phát triển đất nước ở các quốc gia văn minh tiến bộ xem họ có ‘mua ấn’ để được giàu có thăng quan không, hay họ đã vận dụng trí tuệ chính họ đưa họ lên tột đỉnh giàu sang? Bill Gate, Steve Jobs, Warren Buffet có ông nào cần mua ấn không?

Nếu có thần thánh thì ‘thần’ và ‘thánh’ nào dám cả gan ban cho phước lộc giàu sang kiểu này hả? Dùng tiền mà mua chuộc cả thần thánh thì mình mang tội trước rồi mấy ông thần thánh đó mang tội sau.

10) Xông Đất & Giải Hạn Sao:

Đây cũng là một hình thức mê tín rất sai lầm của người Việt ta. Không ai trên thế gian có tư cách giải dùm ai bất cứ nạn nào trừ ra chính mình. Tội và nghiệp lực của ta phải do chính ta giải bằng cách sống đạo đức hơn chứ không phải bằng cúng kiến. Mà… người đi giải hạn sao xấu biết gì về…tinh tú trên trời? và người giải hạn hiểu gì không huyền bí trong vủ trụ? Giải cho cố vào rồi có gì thay đổi đâu: nghèo vẫn nghèo, ngu vẫn ngu, xui vẫn xui. Tôi biết có cách giải đó! Đó là… tu tâm dưỡng tánh. Thay đổi khối óc, làm sạch ngũ tạng. Ngũ tạng mình chính là ‘Sao’, là  Tinh tú đó. Bạn có nghe từ ‘Hành tinh cơ tạng’ bao giờ chưa? Nó đó, nhắm vào đó mà giải thì cuộc đời thay đổi toàn diện. Sửa tâm sửa tánh chính là giải hạn giải sao tận gốc đó bạn, vì nạn là do chính tánh tình của mình mà nên. Giải đi bạn, giải nó hằng ngày hằng giờ, khỏi cần đầu năm, khỏi tốn tiền!

Còn tục Xông Đất đầu năm nữa, thật không hiểu nổi. Bao tỷ người Việt và Tàu cứ xông đất đi rồi đời mình cũng không khá nổi. À… tôi đề nghị nếu đầu năm có người ăn xin đến nhà bạn xin tiền, bạn hãy ban tặng cho họ tiền bạc, hãy mời họ vào nhà dùng buổi cơm đầu năm đi. Bạn sẽ động lòng Trời đó. Bạn đuổi họ đi vì sợ xui thì bạn sẽ xui mạt kiếp đến chết thôi. Tâm xấu xí thế kia thần thánh nào mà chứng.

11) Sừng Tê Và Rượu Thuốc:

À, tại sao tôi lại liệt thứ này vào mê tín? Mê tín là tin những gì vô căn cứ đúng không? Nếu 10 mục mê tín trên có hại cho tâm linh và làm bại hoại xã hội thì vụ này thuộc loại mê tín làm thiệt hại vật chất. Chúng đã góp phần rất lớn làm hư hại môi sinh trái đất, phá trật tự thiên nhiên.

sừng tê giác

Sừng tê giác giả ( Ảnh http://vtc.vn/)

Cái giống Hán tộc ngu muội  nó bày ra biết bao điều bại họai ngu si làm tổn thương con người từ việc ăn óc khỉ, cúng bái, đốt vàng mã, phong thuỷ, ăn ngầu pín, vi cá, vân vân…Nó tai hại đến nổi người Việt ta bây giờ bị tiêm nhiễm hết thuốc chữa. Nó đã lan tràn khắp đất nước đến mức từ trên xuống dưới cứ làm theo, tin theo mà bất chấp hậu quả. Một con Tê Giác vài ba năm mới đẻ 1 con, rồi nhiều năm mới lớn và mọc sừng, rồi cũng vì mê tín dốt nát mà giết nó đi chỉ vì cái sừng! nếu như muốn tăng cường sinh lý thì thiếu gì cách, như tập thể dục, ăn uống điều độ, tập yoga, tiết dục,…nếu sống đúng như vậy thì chúng ta sẽ khoẻ mạnh, cần gì phải giết đi một con vật hiền lành để thỏa mãn thú tính của mình.

Đến bây giờ Y học cũng chưa chứng minh được sừng Tê, rượu Rắn có thể giúp con người chuyện đó.

Nếu biết suy nghĩ thì phải hiểu là dùng bất cứ thứ gì để trợ dâm kích dục điều phản thiên nhiên, trước sau gì cũng bị bịnh. Có thấy lịch sử Trung Hoa và Việt nam là cái gương không? Có ông Vua nào sống thọ hơn 40 tuổi đâu !!! Ông nào cũng tẩm bổ bằng sừng Tê, sâm Nhung, canh Yến, Hổ cốt, rượu Kỳ Đà, Rắn,…. nhưng đều chết trẻ. Tuổi thọ bị giảm cũng vì sống trái tự nhiên. Làm biếng, lười vận động mà dùng mấy thứ này là chết sớm thôi. Xe cũ thì chấp nhận chạy ỳ ạch đi, chứ còn muốn làm xe đua đổ xăng máy bay vào để vọt qua mặt nguời ta là banh máy. Luật Trời đã ấn định rỏ mà, bạn tham dục quá độ thì chết sớm hoặc bại liệt lúc về già. Suy yếu vì đã lạm dụng nó quá mức thì hãy lo tập luyện sức khoẻ chứ dùng mấy thứ này là hư nó thêm, càng chết sớm. Chết rồi là mất hết, 100 sừng Tê cũng vô dụng. (đọc tin này)

12) Đi Chùa Khấn Vái:

alt

Tâm chúng ta làm ra ngôi chùa, người ta không đến đó là nó thành hoang phế đâu có linh nữa. Vì vậy tâm chúng ta mới thật là linh ứng, không phải ngôi chùa hay những hình tượng băng gỗ hay đất sét nắn thành. Người ta tu hành rất gian nan mới thành công rồi mình đến van xin họ là lợi dụng buôn thần bán thánh. Tại sao ta không hành như họ để giải khổ mà lại cầu xin để giải khổ? Chùa Miễu không phải là chổ để cầu xin vì chư vị đã thành đạo thoát tục, chư Phật đã đi trong sự khổ hạnh bần hèn, buông xã hết của cải danh lợi mới thành đạo, vì vậy họ không thể ban sự giàu sang phúc đức cho bất cứ ai vì đó là đi ngược lại con đường giải thoát. Bước vào đó, chúng ta không nên cầu khấn mà hãy nghĩ đến…Bill Gate. Anh ta không hề đến chùa cầu xin điều gì nhưng là tỷ phú. Cho nên chúng ta đến đó là để suy gẫm đạo lý và luật nhân quả, chứ cầu xin không bao giờ được đâu. Bước vào Chùa hay Nhà Thờ là hãy nhớ đến …Bill, để tu tỉnh sống đúng hơn trong kiếp này và dọn con đường thiện lành cho mai sau.

Tưởng Nhớ H.O. Nguyễn Tấn Thành, “Ông Nha Sĩ H.O.11″(*)

Tưởng Nhớ H.O. Nguyễn Tấn Thành, “Ông Nha Sĩ H.O.11″(*)

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Vị Nha Sĩ QL/VNCH bị lao cột sống, mắt mờ, liệt hai chân, sang Mỹ theo danh  sách H.O.11, đã phấn đấu trong 8 năm dài  để lấy bằng hành nghề trở lại.

Tôi chú ý tới cái danh hiệu H.O.11 của một phòng mạch nha sĩ đăng trên báo hơn một năm nay. Trong thời gian này, phong trào H.O. hình như đã bị quên lãng, kể từ ngày người H.O. đầu tiên đến đất Mỹ nay đã gần mười lăm năm. Những cựu tù nhân chính trị hình như đã hòa hợp tan biến vào trong dòng đời thác lũ trên quê người. Trong số anh em định cư ở đây cũng có người thành công vượt bực, con cái thành đạt và bản thân họ cũng ăn nên làm ra, nhưng cũng có những hoàn cảnh kém may mắn đã chấp nhận một đời sống tạm bợ cho qua ngày đoạn tháng, trong cậy vào tương lai của đàn con lớn lên trên đất Mỹ.

Trong tất cả hoàn cảnh, ngoài một số ít có chút vốn liếng và trong tay đã có được cơ hội may mắn thành công sớm sủa, thì hầu hết sức lực đã mòn mỏi trong những trại tù, con cái đã quá tuổi ngồi trên ghế nhà trường trung học, lại làm thân “trâu chậm uống nước đục” nên họ đã phải phấn đấu tích cực trong quãng đời còn lại để được sống còn. Sang đây trong vòng trên dưới mười năm, nhiều anh em H.O. đã cầm sách đi học lại, và rất nhiều người đã lấy được bằng Ph.D. và không thiếu người có Master. Nhưng những anh em trong nghề y, được sang Mỹ sau năm 1992 rất khó trở lại nghề cũ, nhiều bác sĩ quân y “đổi đời“ đã phải đi bỏ báo hay vào cắt chỉ trong những shop may. Vì vậy Nguyễn Tấn Thành, một nha sĩ quân y, cựu tù nhân chính trị đã ngồi tù ba năm một tháng, mới đặt chân đến Mỹ tháng 4-1992, phấn đấu trong một khoảng thời gian dài 8 năm để lấy lại cái bằng hành nghề nha sĩ trên đất Mỹ, hãnh diện trương bảng hiệu H.O.11, là một tấm gương nỗ lực và thành công đáng cho chúng ta khen ngợi.

Nguyễn Tấn Thành tốt nghiệp Đại Học Nha Khoa Saigon năm 1972 giữa lúc chiến cuộc bắt đầu trở nên dữ dội, anh đã tình nguyện vào quân y và được thuyên chuyển về Quân Y Viện Pleiku. Quân đội bỏ Pleiku rồi tan hàng vào cuối mùa Xuân 1975, Nguyễn Tấn Thành đã ở tù qua các trại Hốc Môn, Kà Tum, Suối Máu. Trong vai trò một nha sĩ đi tù, anh đã có cơ hội chăm sóc cho các bạn tù, vượt qua thời gian ba năm để đủ tiêu chuẩn được Hoa Kỳ chấp nhận cho định cư.

Tuy vậy, trước khi nhận tấm giấy xuất cảnh diện H.O. lên đường sang Mỹ, Nguyễn Tấn Thành đã bị lao cột sống, liệt hai chân, mắt mờ đã được các bệnh viện ở Việt Nam mổ cắt đi một “xương sườn để chống xương sống”. Từ cuối năm 1978 cho đến 1985, Nguyễn Tấn Thành phải nằm nhà, uống thuốc Bắc và phấn đấu để sống còn, không hy vọng gì tới một tương lai sáng sủa. Khi có nguồn tin cho những người cựu tù nhân chính trị đủ ba năm có thể nộp đơn xin xuất cảnh, Thành le lói một hy vọng qua Mỹ để chữa bệnh, chứ không bao giờ có tham vong trở lại nhà trường Mỹ để sau này có thể trở lại nghề cũ.

Vì trục trặc giấy tờ do một thân nhân đứng ra bảo lãnh cho chuyến ra đi, gia đình Nguyễn Tấn Thành tuy được vào danh sách H11, nhưng không được xếp vào diện tỵ nạn và mãi cho tới mãi năm 1997, gia đình ông mới nhận được thẻ xanh. Vì vậy, gia đình người cựu tù nhân này không nhận được một món trợ cấp nào ngoài tấm medi-cal vì có hai con còn nhỏ. Đứng trước một tương lai khá mờ mịt vì phải làm những nghề tay chân để kiếm sống, chị Thành đã khuyến khích và thúc giục chồng trở lại trường. Những ngày đầu đến định cư, hai vợ chồng đã phải vào cắt chỉ trong shop may, sau khi chồng quyết định “dùi mài kinh sử“, chị Thành đã chuyển qua đi học nghề “nail“để xoay xở đủ chi dụng trong gia đình cho anh Thành rảnh rang lo việc học.

Nhờ vào tấm giấy chứng nhận của hội đồng y khoa lưu vong mà bác sĩ Nguyễn Văn Thơ là Chủ Tịch, Nguyễn Tấn Thành mới được ghi danh theo các kỳ thi của Đại Học Nha Khoa Loma Linda. Sau khi đậu xong phần 1, trong hoàn cảnh một H.O. có gánh nặng gia đình mới đến Mỹ anh không có khả năng và phương tiện thi và cắp sách đến trường như những lớp trẻ tuổi. Cuộc thi có bốn phần mà anh Thành phải kéo dài trong 8 năm dài. Tiền đóng học phí cho khóa luyện thi tại trường này cũng đã lên tới $6,000.00, anh phải đi mượn bạn bè trong đó có những người là bạn tù cũ. Ngay trong phần 2 là phần thi lý thuyết, anh Thành thú nhận ngay cả danh từ bằng tiếng Anh của các dụng cụ trong phòng mạch anh cũng không thể nào biết nổi, nên nhiều lần thi hỏng, anh đã rất chán nản, ngã lòng và phải mất ba năm, sáu lần thi cho phần lý thuyết. Cuối cùng thì mục đích cũng đã đạt, Nguyễn Tấn Thành tốt nghiệp nha sĩ Hoa Kỳ tại Loma Linda và bằng hành nghề California vào năm 2002.

Nhờ chuyển tiếp được một phòng mạch của Nha Sĩ Nguyễn Văn Huỳnh trước khi nha sĩ này về hưu tại ngay khu Bolsa, cạnh nhà hàng Song Long, ngày nay H.O.11 Nguyễn Tấn Thành đã có một số đông khách hàng, không thiếu những bạn tù cũ ngày xưa, anh đã từng lo đám “răng cỏ” cho họ, trong hoàn cảnh thiếu thốn phương tiện của những trại tù khắc nghiệt như Kà Tum, Suối Máu.

Anh Nguyễn Tấn Thành xem diện H.O. như một hãnh diện, chính thân sinh của anh, nguyên là sĩ quan an ninh tại Bộ Nội Vụ VNCH, cũng đã đi tù ra Bắc. Sang đây anh gặp lại Võ Sư Trương Văn Hai cũng là bạn tù, đã góp ý với anh ghi hai chữ H.O.11 như là một sự biết ơn và hy vọng gặp lại một số bạn bè cũ. Mừng là vì ước mơ đã toại nguyện, anh cũng cho rằng phần lớn là nhờ sự may mắn, chịu khó hơn là tài giỏi. Nguyễn Tấn Thành cũng ghi nhận công lao của người vợ trong những ngày anh bị teo, liệt hai chân, tưởng như đã vô vọng trước cuộc sống và sang đây đã chịu khó khăn để nuôi chồng ăn học trong tám năm, tám năm anh không làm được ra một đô la nào.

Tôi cho rằng H.O.11 Nguyễn Tấn Thành là một biểu tượng cho sự phấn đấu cho những người cựu tù nhân chính trị muộn màng khi đặt chân đến nơi đây, tuy thành công không có gì lớn lao, nhưng đầy ý nghĩa, có thể làm gương cho những người trẻ của thế hệ nối tiếp trên đất Mỹ. (Bài viết năm 2005)

(Trích trong CHÂN  DUNG H.O. & Những Cuộc Đổi Đời)

* Ông Nguyễn Tấn Thành qua đời tại Bệnh Viện Western Medical, Santa Ana, California vào ngày 14-4-2015, hưởng thọ 71 tuổi.

Mỹ Hết Lý Do Giúp VNCS

Mỹ Hết Lý Do Giúp VNCS

Vietbao.com

Kiểu tráo bài ba lá của CSVN đã bị bể mánh. Kiểu đi du dây của CSVN cũng bị đứt dây. Mỹ không còn lý do gì nữa để giúp VNCS lấy lại biển đảo bị Trung Cộng chiếm cứ. Đừng nói Ngoại Trưởng Kerry người “nhiệt tình” ủng hộ Mỹ bình thường hoá bang giao và giao thương với CS Hà nội, ngay Đệ Nhứt Phu Nhân Mỹ Michelle Obama đầu ấp tay gối với TT Obama giả sử có năn nỉ, ỉ ôi TT Obama và dù Mỹ có tung hạm đội, tăng cường tàu chiến tuần tra vùng Biển Đông, chống TC lập vùng nhân dạng phòng không đi nữa — Mỹ cũng không giúp VN giành lại chủ quyền ở Biển Đông. Lý do:

Một, về tâm lý chánh trị, chánh quyền Mỹ không thể thuyết phục công luận để Mỹ giúp VNCS. Chánh quyền Mỹ là chánh quyền của dân, vì dân, do dân, do dân bầu. Mà CSVN chửi mắng Mỹ thậm tệ thì làm sao chánh quyền có thể đi ngược lại lòng dân, lấy tiền thuế của dân giúp, đưa quân nhân Mỹ giúp bảo vệ Biển Đông của CSVN là chế độ đã chửi mắng Mỹ thâm tệ gần đây.

Thực tế đã cho thấy CSVN đã theo đuôi TC một cách rõ ràng như hai với hai là bốn rồi. Bằng cớ rõ rệt nhứt là sau chuyến đi của Tổng bí thư CSVN sang Bắc Kinh, diện kiến Tâp cận Bình, thì CSVN chuyển hướng ngoại giao với Mỹ ngược 180 độ. Tiêu biểu nhứt là Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng đọc bài diễn văn 30/4 tại Saigon trong cuộc duyệt binh, chửi mắng Mỹ là “đế quốc”, là “dã man” và cám ơn CS Nga Tàu giúp CS Bắc Việt đáng cho “ Mỹ cút, Nguỵ nhào”, chửi còn bạo hơn thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước nữa.

Theo tinh lý hiến pháp, luật pháp Mỹ, Mỹ chưa bao giờ giúp quân sự cho một chế độ CS. Nhưng mấy năm nay vì vấn đề TC bành trướng lấn chiếm Biển Đông, Mỹ gia giảm có phát triễn họp tác toàn diện với VNCS, chỉ hứa bán vũ khí sát thương từng vụ cho CSVN. Bây giờ CSVN chửi mắng Mỹ như vậy, hỏi có tổng thông, ngoại trưỏng, bộ trưởng quốc phòng, đại sứ, nghị sĩ, dân biểu nào giả câm, giả điếc mở miệng đề nghị Mỹ giúp VNCS trong vấn đề biển đảo ở Biển Đông.

Hai, về hiện tình tương quan quân sự, nếu Mỹ giúp cho VNCS là nối giáo cho TC. Hiện nay hai bộ trưởng quốc phòng của CS TQ và VN tuy hai nhưng là một rồi. Ngày 15/5 vừa qua Bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh của VNCS và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn của TC “ hồ hởi, phấn khởi” gặp nhau ở biên giới, ca ngợi hai Quân đội “quyết tâm hợp tác, đoàn kết hữu nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển triển kinh tế của nhân dân ở hai nước.” Cả hai hôn hít nhau, siết chặt tay như hai người đồng tinh luyên ái, chứng tỏ hợp tác chiến lược hết súc toàn diện và thấm thía”. Tin VOA cho biết hai người còn còn trồng cây lưu niệm, chứng kiến cuộc tuần tra chung của lực lượng biên phòng hai phía, Tướng Toàn còn tặng cho Tướng Thanh một chiếc bình gốm mà báo chí của Đang Nhà Nước CSVN ca ngợi đó là “đặc trưng phong cách Trung Hoa”.

Với tình thế đó, nếu Mỹ chia xẻ tin tình báo với quân đội, cảnh sát biển, bán vũ khí kỹ thuật cao và mật cho VNCS là giao trứng cho ác, nhắm con mắt cũng biết là quân đội VNCS sẽ chia xẻ, chuyển giao bí mật cho TC.

Ba, về tình hình Biển Đông, VN không có một vai trò kinh tế, chánh trị, quân sự, ngoại giao nào thiết yếu cho Mỹ trong chiến lược chuyển trục quân sự về Á châu Thái bình dương. Vị trí địa lý vhiến thuật của VN có thể thành tiền đồn kiểm soát đường hàng hải huyết mạch từ Eo Biển Mã Lai đi lên, Cảng Cam Ranh Mỹ cần thời Chiến tranh VN bây giờ đã lỗi thời vì chiến lưọc, chiến thuật đã thay đổi, chánh yếu là dùng không lực và hải lực của hàng không mẫu hạm, Mỹ có cả thảy 11 chiếc và dự trù chuyển 60% về đây.

Về kinh tế, VNCS cần thị trường Mỹ, chớ Mỹ không cần VN làm nơi bỏ vốn đầu tư. Trong khi VNCS qua lệ thuộc kinh tế của TC. VNCS không thể thoát Trung về kinh tế. Bất chấp cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, kim ngạch thương mại Việt-Trung tăng 17% hồi năm ngoái, lên tới 58,77 tỉ đôla, theo các dữ liệu của nhà nước Việt Nam. Nhưng mức thâm hụt mậu dịch của Việt Nam với Trung Quốc gia tăng lên tới gần 29 tỉ trong năm 2014, so với năm trước đó chỉ có 23,7 tỉ đôla.

Bốn, Mỹ ngăn cản TC ở Biển Đông của VN, hoàn toàn không phải vì VN. Mỹ chuyển trục quân sự về Á châu Thái bình dương và ngăn chận TC chiếm cứ Biển Đông vì quyền lợi tự do hàng hải trước tiên là của Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nhựt, Nam Hàn, chớ không phải vì muốn giúp cho VN tái chiếm lại biển đảo. Có thế thấy trong suốt 7 ngày USS Fort Worth, tàu chiến cận duyên lớp Freedom của Mỹ tiến vào gần khu vực quần đảo Trường Sa mà TC đang xây cất các công trình, Mỹ cũng tự chế không đi sâu vào bên trong hải phận quá 12 hải lý của các đảo và bải đá mà TC đang chiếm. USS Fort Worth cũng thông báo qua radio để nhắc nhở phía Trung Quốc rằng chiến hạm Mỹ đang hoạt động trong vùng biển quốc tế. TC cũng vậy, tàu Yancheng Type 054A của TC theo dõi chặt chẽ nhưng không có hành dộng cản trở nào. Tin mới đây hai bên tàu của Mỹ và TC đều biết và tỏ ra tuân thủ hiệp ước của Mỹ và TC đã ký để tránh đối đầu trong những tao ngô, bất trắc.

Và quan trọng nhưt là Mỹ lúc nào cũng tuyên bố không đứng phía bên nào trong các tranh chấp, chỉ khuyên dùng biện pháp ngoại giao và luật biển như chính Mỹ cũng không có ký gia nhập luật biển, thử hỏi khuyên ai.

Trong khi Á châu Thái bình dương căng thẳng vì TC xây Vạn lý Trướng Thanh Bắng cát ở Biển Đông, và toan lập vùng nhân dang phong không trên không phận vùng này, Ngoại Trưởng Mỹ Kerry đi Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Tâp cận Bình, hai bên không có một lời nào về Biển Đông. Quyền lợi của Mỹ và TC vạn lần lớn hơn đối với Biển Đông, hai siêu cường nương nhau làm bá chủ trong vùng, có lợi hơn để đụng chạm vì một vấn đề nhỏ.

Năm và sau cung, CSVN ắt phải đi với TC. Ắt phải đi với TC vì con đường CSVN đi không phải do CSVN chọn, mà do Đảng CS Trung Quốc sấp sếp, vạch ra, dàn dựng. CSVN về ý thức hệ như đệ tử đối với quan thầy TC, về tổ chức chánh quyền như thần tử đối với long nhan là Hán Triều. Hai đảng, nhà nước CS tách người dân Việt qua một bên, nhà cầm quyền hoàn toàn của đảng, vì đảng, do đảng. Người dân hoàn toàn không có tiếng nói trong thương lượng và đảng nhà nước không cần mất thì giờ giải trình một thoả ước quốc gia đại sư như thế cho quốc dân.

Khi Tổng bí Thư Đảng CSVN đi triều kiến TC, cùng đi theo gần hết những người nắm quyền bính của Đảng Nhà Nước CSVN. Trọng đi với 1/3 thành viên của Bộ Chánh trị gồm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh; Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Trần Quốc Vượng; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh; Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân.

Mỹ hoàn toàn hết lý do giúp VNCS dù TT Obama quen thuật hùng biện nói đạo lý nghe cho êm tai, là chống kẻ mạnh TC hiếp VN yếu. Nhưng bây giờ kẻ yếu ấy đã theo phe mạnh là TC và chửi mắng Mỹ công khai, trịch thượng, thì dù có uống cả kí lô thuốc liều, TT Obama, Quốc Hội Mỹ cũng thể liều mạng chánh trị giúp cho một chế độ CS chửi mắng Mỹ thậm tệ hơn thời Chiến tranh VN nữa./.

(Vi Anh)

Cuộc đời

Cuộc đời

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi một trẻ thơ lọt lòng mẹ, người ta nói: em bé “chào đời”. Khi một người trút hơi thở cuối cùng, người ta bảo: người này “tạ thế”. “Chào” là tâm tình của người mới đến. “Tạ” là cử chỉ của người sắp đi xa. Khi chào đời, em bé nào cũng có bàn tay nắm chặt; khi tạ thế, người nào cũng để bàn tay buông xuôi. Bàn tay nắm chặt là bàn tay tự tin, muốn khẳng định mình; bàn tay buông xuôi là bàn tay mệt mỏi, thấy mọi sự đều vô nghĩa. Khoảng thời gian từ lúc chào đời đến khi tạ thế, người ta gọi là cuộc đời. Cuộc đời có khi ngắn, có khi dài. Có những người trường thọ cao niên, sống đến trên một thế kỷ, nhưng cũng có người đoản mệnh duyên đơn, chỉ sống một thời gian rất ngắn. Dù đời ngắn hay dài, đã sống trên đời, con người cần phải biết đối nhân xử thế. Dù trường hay đoản thọ, con người sống phải nhân có nghĩa với người xung quanh. Không chịu học hỏi, khi vào đời sẽ gặp những thất bại cay đắng. Thiếu kinh nghiệm, khi lập nghiệp sẽ phải trả giá khôn lường.

Cuộc đời này cũng được gọi là thế gian. Nơi đó con người, dù muốn hay không, đều bị thảy vào “chợ đời” đầy bon chen tính toán. Cái “chợ đời” này rất mênh mông và oan nghiệt. Vì là “chợ đời”, nên người ta lấy lời lãi, vật chất làm tiêu chuẩn cho mọi mối tương quan. Anh em, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp bỗng trở nên những đối tác, những bạn hàng trong vòng xoay của cơm áo gạo tiền. Vì tiền bạc, tình vợ chồng trở nên phai nhạt đến mức không thể chung sống. Vì đất đai, anh em huynh đệ trở thành kẻ thù đến độ chẳng muốn thấy mặt nhau. Vì cuộc đời nghiệt ngã như vậy, nên càng có tuổi, người ta càng còng lưng xuống. Còng lưng là biểu hiện của đau xương cốt, nhưng cũng là hậu quả của gánh nặng cuộc đời.

Lúc chào đời cũng như lúc tạ thế, người ta đều khóc. Khởi đầu cuộc sống, đứa trẻ khóc trong tiếng cười của cha mẹ và người thân. Kết thúc cuộc đời, người ra đi trong tiếng khóc của gia đình, làng xóm. Khóc là biểu hiện của nỗi buồn, nhưng cũng là dấu hiệu của niềm vui. Có thể tiếng khóc chào đời là vì nhận ra cuộc sống đầy đau khổ. Có thể giọt lệ khi hấp hối là giọt lệ của niềm vui vì đã có một cuộc đời mãn nguyện. Thế rồi, suốt thời gian gọi là cuộc đời ấy, nước mắt với nụ cười đan xen với nhau, xem ra nước mắt nhiều hơn nụ cười. Người có chí khí biết cười trong mọi hoàn cảnh. Sau mỗi lần gục ngã, họ chỗi dậy, tiếp tục bước đi, lấy những thất bại làm bài học kinh nghiệm, lấy những khó khăn luyện rèn ý chí. Lửa thử vàng, gian nan thử đức, qua những thất bại đau khổ, con người như thép đã tôi, trở nên cứng cáp vững vàng. Đã sinh vào cuộc đời, cần phải chấp nhận lao vào gian khó, như miếng thép phải chấp nhận vào lò lửa và rèn giũa để trở nên khí cụ sắc bén, nhờ đó mà trở nên hữu dụng trong đời. Khi tạ thế, có những người mãn nguyện bình an, nhưng cũng có những người trăn trở khó nhắm mắt. Có thể đó là những “món nợ” đời chưa trả, bởi mình đã trót “vay”. Có thể đó là trách nhiệm chưa vuông tròn đối với những gì mình được trao phó. Khi hiện hữu trong cuộc đời này, mỗi người đều có bổn phận phải hoàn thành. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng là lúc được triệu hồi để làm một cuộc thống kê về những điều đã làm hay đã không làm khi sống ở đời.

Đối với người tin Chúa, khoảng giữa từ khi “chào đời” cho đến “tạ thế”, họ còn qua một cuộc “tái sinh”, đó là bí tích Thanh Tẩy. Nhờ nước và Thánh Thần, họ được sinh ra một lần nữa để làm con cái Chúa. Khi được thanh tẩy, họ khởi đầu hành trình Đức Tin. Hành trình này song song với hành trình cuộc đời. Phép Thanh Tẩy cũng cho họ tước vị làm “công dân Nước Trời”, nghĩa là tuy sống dưới trần thế, họ đã thuộc về vương quốc của Chúa Giêsu, trở nên môn đệ của Người. Tuy vậy, nguyên việc được thanh tẩy chưa đủ để họ được bước vào vương quốc vĩnh cửu ấy. Bởi lẽ ai muốn vào Nước Trời phải qua cửa hẹp. Cửa rộng rất thênh thang, dễ vào nhưng lại dẫn tới trầm luân, đau khổ. Cửa hẹp chật chội, khó qua nhưng lại dẫn tới niềm vui, sự sống. Nhờ Đức Tin, người tín hữu sống giữa đời mà không hoàn toàn thuộc về đời, như bông hoa sen từ bùn vươn lên mà thanh thoát chẳng vương mùi bùn. Người tin Chúa sống giữa cõi trần, mà có một trái tim thanh sạch, giữa bon chen mà tâm hồn thanh thản, giữa thung lũng nước mắt mà vẫn có thể nở nụ cười.

Cuộc đời con người, từ khi “chào đời” đến khi “tạ thế” cũng đươc ví như một cuốn sách. Mỗi ngày sống là một trang. Nội dung cuốn sách ghi lại những lời nói việc làm, những tâm tư tình cảm. Ta có thể viết những trang thật đẹp, khi đó là những hành động nghĩa hiệp, cao cả, mang lại niềm vui cho đời, nhưng ta cũng có thể viết những trang rất xấu khi đó là những hành động ích kỷ, gây tai họa cho người xung quanh. Đáng tiếc, trên đời này, người ta học cái xấu thì chăm hơn cái tốt, người ta tiếp thu lối sống láu cá, mưu mô thì dễ hơn tập luyện đạo đức, thân thiện. Giữa chợ đời bon chen, tiếng ồn ào của dối gian luôn mạnh mẽ hơn tiếng nói của công lý, kẻ mạnh luôn chèn ép người yếu thế nghèo nàn. Vì vậy mà cuốn sách cuộc đời còn mang nhiều trang tối tăm nhơ nhuốc.

Con người sinh ra ở đời, có lúc chào đời và có khi tạ thế. Vì vậy, người ta gọi cuộc sống là “chốn khách đày”. Đời chỉ là chốn tạm, người ta đến rồi đi, chẳng phải là nơi vĩnh cửu, cũng không là quê hương mãi mãi. Tuy chỉ là đời tạm, những ai đi qua đều có thể để lại dấu ấn đời mình cho các thế hệ mai sau. Có những người đã để lại cho hậu thế tấm gương tốt đẹp về lòng nhân ái bao dung, hễ nhắc đến tên người ta ngả mũ chào; nhưng lại có những kẻ sống ác đức, các thế hệ sau nhắc đến tên để phỉ nhổ. Có những người suốt đời cống hiến hy sinh, để lại những công trình đem lại ích lợi cho toàn thể nhân loại, nhưng lại có những người để thời gian trôi đi vô ích, không làm được gì ngay cho bản thân và gia đình. Người công giáo tin rằng, lúc tạ thế không phải là chấm dứt, nhưng đó là một cánh cửa mở ra để bước vào cuộc sống mới. Người công giáo cũng tin rằng, những điều tốt đẹp ta làm ở đời này, sẽ đi cùng với ta về đời sau, nơi đó, hạnh phúc sẽ tràn trề, vinh quang sẽ bất diệt và tình yêu tồn tại mãi mãi. “Hổ chết để lại da, người ta chết để lại tiếng”. Điều còn lại khi thân xác đã tiêu tan trong lòng đất, đó là lòng nhân hậu, sự thánh thiện và tình yêu mến ta dành cho mọi người khi còn sống. Những điều này không tiêu tan với thời gian, nhưng muôn đời tồn tại.

Cuộc đời này chỉ là chốn tạm. Nước Trời là quê hương vĩnh cửu, là hạnh phúc Chúa dành cho những ai yêu mến và trung thành với Ngài. Chúa Giêsu cam đoan với chúng ta, Người đi trước để chuẩn bị cho chúng ta chỗ ở trong nhà Cha của Người (x. Ga 14,1-4). Ở nơi quê hương vĩnh cửu này, bàn tay không còn nắm chặt để khẳng định uy quyền, cũng không còn buông xuôi vì ê chề thất vọng, nhưng sẽ giơ cao để ca tụng Chúa, trong tình hiệp thông với các thiên thần và các thánh nam nữ trên trời.

Bàn tay buông xuôi khi lìa đời nhắc bảo ta rằng, con người chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, nhưng mọi sự ta làm đều do ơn Chúa thương ban. Vì thế, nếu thân phận con người còn nhiều tội lỗi, Chúa lại nói với Chúng ta: “Đức tin của con đã cứu con” (x. Mc 5,34). Lòng nhân hậu bao dung của Chúa giúp chúng ta nghị lực để tiếp tục bước đi trong cõi đời đầy gian nan này.

(Nguồn: WHĐ)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

NIỀM VUI TUỔI GIÀ

NIỀM VUI TUỔI GIÀ

ĐOÀN THANH LIÊM

Thế hệ chúng tôi đang ở vào lứa tuổi 70 – 80, đã về nghỉ hưu để mà an tâm dưỡng trí được rồi. Cuộc đồi quả thật đã nhiều phen lận đận nổi trôi theo vận nước – vốn từng bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh liên tục suốt 30 năm (1945 – 1975). Và rồi sau đó là chế độ độc tài chuyên chế cộng sản – và bây giờ là cuộc sống định cư ở nước ngòai.

Nhiều người được cái may mắn có con cháu thành đạt, lại có lòng hiếu thảo – nên được các cháu chăm lo săn sóc cho thật là chu đáo từ việc ăn uống, áo quần đến chuyện nhà ở, và gia đình cả ba bốn thế hệ con cháu lại thường có dịp xum họp quây quần bên nhau v.v… Nhờ vậy mà gia đạo có phần được an vui, yên ấm. Đó là niềm an ủi thật lớn lao quý báu cho tuổi già sinh sống xa quê hương bản quán của mình vậy.

Không còn bị vướng mắc với chuyện phải chật vật bươn chải lo toan kiếm sống cho bản thân và cho gia đình với các món “cơm áo gạo tiền” gì gì nữa, nên chúng tôi có thật nhiều thời gian rảnh rỗi – mà có một vài người lại còn than phiền, đại khái như “không biết phải làm cái gì cho hết ngày hết giờ”…Lại nữa, người lớn tuổi thường ít ngủ, hay nằm trằn trọc trên giường, hoặc thức giấc nhiều lần trong đêm để mà lo chuyện “xả cái bàu tâm sự mau bị đày ứ” ấy đi.

Nhưng cũng có người biết chấp nhận cái quy luật muôn thuở của cuộc sống trên cõi đời này, đó là chuyện “Sinh, Lão, Bệnh, Tử” – tức là cái tiến trình lão hóa do tính chất sinh học khách quan – mà không một sinh vật nào, kể cả bất kỳ con người nào mà lại có thể vượt thóat khỏi được. Nhờ vậy mà họ an tâm vui vẻ tìm cách thích nghi êm thắm với cái quá trình khuôn thước đó.

Trong vòng vài chục năm gần đây, nhờ sự phổ biến rộng rãi của Internet, nên các bạn lớn tuổi của tôi đã có thêm được một nguồn vui mới – khiến làm tăng thêm phẩm chất của cuộc sống – và như vậy là có thêm điều kiện để thực hiện được cái lý tưởng “Sống lâu và Sống có ích” như nhiều người đã tâm niệm từ bấy lâu nay.

Bài viết này nhằm ghi lại cái kinh nghiệm bản thân của một số huynh trưởng và bạn bè thân thiết – mà tôi thường gặp gỡ hay trao đổi qua mạng lưới điện tóan tòan cầu trong thời gian gần đây.

Nói chung, thì môi trường sinh họat ở nước ngòai có tính cách thông thóang hơn – cả về mặt vật chất như thực phẩm, dịch vụ chăm sóc y tế, vệ sinh môi trường thiên nhiên … được bảo đảm trong lành hơn – và cả về mặt văn hóa tinh thần cũng thỏai mái hơn vì không bị công an mật vụ nhòm ngó, kiểm sóat hạn chế mặt này mặt khác. Do đó, mà cuộc sống có được phẩm chất cao hơn (high quality of life) – bà con được tự do sinh họat thỏai mái dễ chịu hơn, thơ thới vô tư hơn.

1 – Trước hết là trường hợp của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và của Giáo sư Phó Bá Long.

Cả hai vị này đều đã từ giã cõi đời cách đây không lâu. Nhưng họ đã sống rất thọ và ở tuổi 85 – 87, các vị vẫn còn hăng say nghiên cứu viết lách – mà đặc biệt là sử dụng internet khá thường xuyên trong việc giao tiếp với bà con bạn hữu hay tra cứu tham khảo tài liệu để viết báo viết sách. Nhà báo Sơn Điền còn tham gia viết báo thường xuyên khi đã tới tuổi thượng thọ 90 – ông chỉ ngưng viết vào hơn một tháng trước khi qua đời vào tháng 8 năm 2012 vì tuổi già kiệt sức. Mỗi lần tôi đến San Jose, thì đều ghé thăm ông tại khu cư xá bên cạnh thương xá Lion trên đường King với Tully. Ông luôn giữ được sự bình tĩnh sáng suốt tinh tường của một nhà báo kỳ cựu – mà có tay nghề dễ đến trên 60 năm.

Còn Giáo sư Long, thì vào cuối đời ông vẫn hăng say với nhiều công chuyện về giáo dục và văn hóa. Cụ thể là ông lo việc phổ biến cho công chúng tại Mỹ bản dịch tiếng Anh từ cuốn Hồi ký của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường nguyên tác bằng tiếng Pháp “ L’excommunié “ (Kẻ bị khai trừ). Ông Long là môn sinh của Luật sư Tường tại trường Bưởi Hanoi hồi trước năm 1945, và rất mến phục sự uyên bác của vị giáo sư dậy môn văn chương này. Trước khi mất vào năm 2009, ông Long vẫn liên lạc qua e-mail với tôi và ông thúc giục tôi phải chú ý thực hiện rất nhiều việc này chuyện nọ.

2 – Hai nhà văn Uyên Thao và Trần Phong Vũ với Tủ sách Tiếng Quê Hương.

Hai nhà văn kỳ cựu này đã bước vào tuổi bát tuần, nhưng từ nhiều năm nay các anh đã miệt mài làm việc để cống hiến cho độc giả đến trên 50 đầu sách trong Tủ sách Tiếng Quê Hương được ấn hành tại hải ngọai. Nhà văn Uyên Thao bị bệnh thật ngặt nghèo – phải cắt đi đến quá nửa cái bao tử – ấy thế mà suốt ngày đêm vẫn bám sát máy computer – để lo viết bài giới thiệu cũng như biên tập, nhuận sắc cho những cuốn sách do các tác giả trao phó cho việc xuất bản. Anh được bà con trong vùng thủ đô Washington mến mộ vì sức làm việc dẻo dai kiên trì liên tục từ trên cả chục năm nay.

Nhà văn Trần Phong Vũ là bạn học với tôi từ tuổi niên thiếu hồi trước năm 1945  tại thị xã Thái Bình – đến nay tình bạn giữa chúng tôi tính ra đã tới trên 70 năm rồi. Anh là người được bà con ở California đánh giá cao vì rất tháo vát năng nổ trên lãnh vực truyền thông báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Và đặc biệt là anh sát cánh với Uyên Thao – người bạn đồng nghiêp lâu năm trong ngành phát thanh và báo chí trước đây ở miền Nam Việt nam – để cùng điều hành Tủ sách Tiếng Quê Hương.

Cả hai anh đều sử dụng nhuần nhuyễn kỹ thuật hiện đại của Internet, nhờ vậy mà công việc nghiên cứu, biên tập và sáng tác của các anh luôn có năng suất rất cao. Rõ ràng là hai anh đã có niềm say mê với sách vở chữ nghĩa và hiện đang sống thật sung mãn trọn vẹn cái tuổi của lớp người cao niên vậy.

3 – Các bạn đồng môn tại Trường Bưởi & Chu Văn An .

Các bạn cùng học chung với tôi lớp Đệ Nhất Ban Tóan tại Trung học Chu Văn An ở Hanoi niên khóa 1953 – 54, thì nay đều đã bước vào cái tuổi 80 cả rồi. Hiện nay, còn có tới trên 20 bạn vẫn giữ liên lạc được với nhau qua thư từ, điện thọai hay e-mail. Mùa hè năm 2012 vừa qua, tôi ghé qua Paris, thì gặp lại khá nhiều các bạn vốn đã sinh sống tại đó từ trên 50 năm nay – cụ thể là các bạn Phạm Xuân Yêm, Vũ Dương Tuyền, Bạch Lý Từ (em thày Bạch Văn Ngà). Và mấy bạn mới qua đây sau năm 1975 như Đỗ Đăng Di, Võ Thế Hào.

Trong buổi gặp nhau đông đủ tại nhà bạn Yêm ở thị trấn Bourg-la Reine, chúng tôi đã thỏa chí với đủ thứ chuyện hàn huyên tâm sự – nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm của tuổi trẻ thơ mộng từ cái thời 60 năm trước trên đất Bắc. Và đặc biệt, chúng tôi lại còn nói chuyện qua điện thọai với nhiều bạn khác như Bùi Thiệu Tường ở Montréal Canada, Vũ Ngọc Óanh ở San Jose California, Vũ Tiến Thông, Vũ Hữu Bao ở Texas, Ngô Đình Thuấn ở Washington DC v.v… Bạn Di là trưởng lớp vẫn giữ được cái tác phong của con chim đầu đàn nhằm giữ vững cái mối tình keo sơn gắn bó giữa anh em chúng tôi – nhất là bạn lại rất siêng năng với chuyện thông tin liên lạc của các thành viên trong Nhóm qua Internet.

Nhân tiện, cũng xin ghi thêm về sinh họat của các Phân Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trường Bưởi – Chu Văn An tại nhiều địa phương như ở Nam và Bắc California, ở Texas, ở Washington DC, ở Canada, ở Paris v.v… Mỗi năm, hầu hết các Phân Hội này đều tổ chức các buổi Hội Ngộ Mùa Xuân, Mùa Hè và còn ấn hành các cuốn Đặc san hoặc Kỷ yếu để ghi lại những kỷ niệm thân thương trìu mến về Trường Xưa, Bạn Cũ nữa. Và nhờ qua Internet, mà việc thông tin liên lạc được mau lẹ và phổ biến rộng rãi cùng khắp nơi trên thế giới nữa. Quả thật Internet là một phương tiện thật đắc lực để giúp củng cố và tăng cường cái tình bạn từ thuở thiếu thời giữa các bạn đồng môn chúng tôi mà đều xuất thân từ trường Bưởi – Chu Văn An vậy đó.

4 – Sinh họat của các Hội đòan khác.

Tôi tham gia sinh họat với nhiều hội đòan như Hội Ái Hữu Hành chánh Tài chánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ái Hữu Luật khoa VN, Mạng Lưới Nhân Quyền VN … Và nhất là tôi còn hay viết bài gửi đăng trên nhiều báo giấy cũng như báo điện tử on-line tại nhiều nơi trên thế giới.

Trong khi sinh họat với các tập thể như vậy, lớp người lớn tuổi như chúng tôi lại được các bạn trẻ tiếp sức – mà các bạn trẻ thì thường là rất thành thạo về kỹ thuật điện tóan – nhờ vậy mà họat động của tập thể chúng tôi đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, có khi còn vượt quá sự mong ước của các thành viên nữa. Kết cục là anh chị em được tăng thêm niềm lạc quan phấn khởi sau những thành tựu thật tốt đẹp như thế.

Mà còn hơn thế nữa, lớp con cháu thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 trong gia đình thì lại còn nhuần nhuyễn gấp bội trong việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật về điện tóan – nên các cháu thường ra sức tiếp trợ về chuyên môn cũng như mua sắm máy móc hiện đại giúp nâng cao năng suất công việc của chúng tôi rất nhiều. Thành ra, tòan bộ gia đình gồm cả hai ba thế hệ đều cùng tập trung vào công chuyện xã hội nhân đạo cũng như tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt nam nữa.

Qua việc hỗ trợ kỹ thuật cũng như tài chánh như thế, các cháu có thêm cơ hội để hiểu biết thấu đáo hơn về tâm sự cùng ước vọng của thế hệ người lớn tuổi – và từ đó mà có thêm sự thông cảm và quan tâm sâu sắc hơn đối với những vấn đề sinh tử của bà con ruột thịt của mình ở bên quê nhà. Và hệ quả là cái hố cách biệt giữa hai thế hệ già và trẻ trong cùng một gia đình (Generation Gap) cũng có cơ may được giảm bớt đi rất nhiều nữa.

5 – Kinh nghiệm cá nhân về sự tìm kiếm tài liệu trên Internet.

Nhân tiện, tôi cũng xin ghi vắn tắt về chuyện truy cập tìm kiếm thông tin tài liệu trên Internet. Phải nói rằng nhờ có Internet mà chúng ta có thể tìm được bất kỳ tài liệu nào liên hệ đến chủ đề mình đang theo đuổi nghiền ngẫm – nguồn thông tin đó lắm khi quá phong phú dồi dào đến nỗi có khi mình đâm ra nghi ngờ lúng túng không còn biết đúng sai ở chỗ nào nữa. Tuy nhiên, nếu mà giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn cần thiết, thì ta vẫn có thể tìm cách sàng lọc từ cái khối lượng thông tin hỗn độn đó để rút ra được những tài liệu khả tín, chính xác – khả dĩ có thể khai thác và sử dụng được cho bài viết của mình.

Việc này thường được gọi là “sự tiếp nhận có chọn lọc” (the selective reception) – đó là phương cách hiệu quả nhất cho bất kỳ cuộc truy tầm nghiên cứu nghiêm túc nào vậy.

Nói vắn tắt lại, nhờ khôn khéo áp dụng những tiến bộ mới trong thời đại Internet ngày nay ở vào đầu thế kỷ XXI, mà lớp người cao niên đang có triển vọng đạt tới được năng suất cao hơn ở mọi lãnh vực sinh họat cũng như tranh đấu góp phần với bà con tại quê nhà – trong công cuộc xây dựng một xã hội thật sự tiến bộ, nhân bản và nhân ái theo trào lưu phổ biến của thế giới hiện đại.

– Vấn đề là chúng ta phải thực sự có quyết tâm bền chí để cùng kết hợp với thế hệ trẻ là lớp con cháu nơi mỗi gia đình – trong việc hội nhập êm thắm với dòng chính của xã hội nơi chúng ta đã chọn lựa để mà định cư sinh sống lâu dài – sau khi thóat khỏi chế độ độc tài chuyên chế tòan trị do người cộng sản áp đặt trên quê hương bản quán là nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

– Nhờ có việc hội nhập tốt đẹp như vậy, mà chúng ta còn kêu gọi thêm được sự hỗ trợ thật quý báu và hiệu quả từ phía nhân dân các quốc gia văn minh dân chủ trên thế giới – trong ý hướng cùng góp phần vào công cuộc tranh đấu trường kỳ cho chính nghĩa tự do, dân chủ và phẩm giá con người của đồng bào ruột thịt Việt Nam chúng ta hiện đang sinh sống trên quê hương đất nước mình nữa.

-Và đó mới đích thực là niềm vui lý tưởng trọn vẹn – với ý nghĩa cao quý trong cuộc sống của thế hệ người lớn tuổi như chúng ta hiện đang định cư tại những quốc gia văn minh trên khắp thế giới ngày nay vậy.

Westminster, California Hạ tuần tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm

NÓNG NHƯ LỬA … 6 tuyệt chiêu “làm nguội” cơn nóng giận

NÓNG NHƯ LỬA …

6 tuyệt chiêu “làm nguội” cơn nóng giận

Luyện được khả năng bình tĩnh trước nhiều tình huống là điều rất khó, cần nhiều thời gian, nhất là với những người trẻ tuổi. Sẽ không có cách nào thổi bay cơn nóng giận nhanh nhất, nhưng luôn có cách để chúng ta rèn luyện khả năng kiềm chế và kiểm soát bản thân.

Giữ bình tĩnh trong nhiều tình huống được coi là “nhiệm vụ bất khả thi” với chúng ta, tuy nhiên, nóng nảy không bao giờ là giải pháp được lựa chọn khi giải quyết rắc rối. Để không thường xuyên nổi nóng, bạn nên nhớ điều này: làm thế là vì bạn, nóng giận chỉ thiệt thân thôi! Nếu lỡ có ai “chọc giận”, hãy thử làm cách sau xem sao.

1. Bỏ đi

Trong một cuộc tranh luận, đến lúc cao trào mà im lặng bỏ đi thì ấm ức quá, tuy nhiên to tiếng và cáu giận cũng không giải quyết được vấn đề? Hãy biết “ngưỡng” của mình, khi cuộc trò chuyện căng thẳng đến mức báo động, bạn hãy dừng lại, bỏ ra ngoài hoặc đi đâu đó để tránh không “lỡ lời”. Khi bình tĩnh hơn, bàn luận mọi việc vẫn dễ dàng hơn.

2. Nhắm mắt trong giây lát

Gặp chuyện khó chịu, hãy tạm nhắm mắt lại trong chốc lát, tạm thời để thế giới “biến mất” một chút, bạn sẽ có được sự tập trung và bình tĩnh hơn.

3. Không gian yên tĩnh

Đang “bốc hỏa” mà ở chỗ ồn ào càng có nguy cơ khiến lửa cháy to hơn. Nên tìm nơi nào đó yên tĩnh (tốt nhất bạn nên chuẩn bị vài chỗ như vậy) để được ở một mình, bạn cần để cho thần kinh của mình được “xoa dịu” đôi chút, mà làm điều đó không gì bằng “bậc thầy” yên lặng đâu.

4. Uống nước

Khi nóng giận, nên uống một ly nước, cách này có thể cũ rích nhưng hiệu quả. Bạn cũng có thể tìm thấy sự “hỗ trợ” tuyệt vời của nước cho sự bình tĩnh như nhìn ngắm hồ cá, rửa mặt hoặc có thời gian thì đi tắm cũng sẽ có hiệu quả tuyệt vời khi cần đuổi cơn cáu bẳn đi nơi khác.

5. Hít thở sâu

Không cần là bậc thầy Yoga bạn vẫn có thể trở nên điềm tĩnh hơn. Hít thở giúp cung cấp oxygen cho não và các cơ quan trọng yếu của cơ thể, giúp chúng ta tỉnh táo hơn. Hãy thực hành phương pháp thở sâu như sau để cảm thấy dễ chịu hơn:

– Hít vào bằng mũi và đếm từ 1 – 4

– Dừng lại và đếm từ 1 – 4

– Thở ra chầm chậm, đếm từ 1 – 4

– Tạm nghỉ, đếm từ 1 – 4 (không hít thở)

– Thở theo nhịp bình thường 2 nhịp

– Tiếp tục hít vào theo bước đầu tiên.

6. Nghe nhạc

Những giai điệu nhẹ nhàng, êm dịu sẽ giúp cho những dây thần kinh đang căng như dây đàn của bạn thư giãn. Tùy vào sở thích của bạn mà có thể chọn loại nhạc phù hợp, có thể bạn ngạc nhiên nhưng nhạc rock với nhiều người lại là “thuốc” trị sự nóng nảy của họ đấy.

Tuyệt chiêu kiểm soát cảm xúc để tránh giận quá mất khôn

Khi giận dữ hay bực tức, thay vì làm cho mọi thứ rối tung lên, bạn hãy để cho tâm trí bận rộn để tránh phải suy nghĩ thêm về chuyện không vui vừa qua.

Tức giận có tầm ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ, công việc và tương quan giao tiếp trong cuộc sống. Vì thế, để tránh những hậu quả đáng tiếc do một phút bốc đồng gây ra, bạn nên biết cách kìm chế bản thân và không để cảm giác tiêu cực làm thay đổi huyết áp của bạn.

1. Giữ bình tĩnh

Điều đầu tiên bạn nên làm khi tức giận đó là tự nói với bản thân phải thật bình tĩnh. Cảm xúc lúc này thường đi cùng với những hành động mà có thể sau này bạn sẽ phải hối tiếc, bởi thường khi giận dữ bạn không thể suy nghĩ đúng đắn và thấu đáo được. Bạn có thể nói hoặc làm những điều bạn cho là sai chỉ vì muốn hả cơn giận hoặc cảm giác phù hợp ngay thời điểm đó mà thôi. Vì vậy, lời khuyên lúc này là thay vì chiều theo cảm xúc, hãy hít thở sâu và dành thời gian trấn tĩnh bản thân để tránh phải hối tiếc.

2. Khiến bản thân trở nên bận rộn

Một điều khác nên làm khi tức giận là “đánh lạc hướng” tâm trí, đưa mình ra khỏi vấn đề đang gặp phải và làm cho bản thân thật bận rộn. Khi giận dữ, bạn có xu hướng nghĩ rằng mình phải đối diện với nó ngay lập tức, đồng thời chứng minh cho thế giới biết rằng bạn không yếu đuối. Nhưng hành động vì sự tức giận là điểm yếu lớn nhất của trong tất cả mọi điểm yếu của con người. Thay vì làm mọi thứ rối tung lên, bạn hãy để tâm vào những thứ hữu ích để làm tâm trí bạn bận rộn thì sẽ tốt hơn.

3. Suy nghĩ trước khi nói

Khi tức giận, bạn hay nói những điều đáng lẽ không nên nói. Bạn chỉ nói những lời làm tổn thương người khác, thậm chí không biết ý nghĩa những gì mình đang nói. Do đó, bạn sẽ tạo ra những bất đồng giữa mình và người khác, trong khi thông thường bạn sẽ không hành động như vậy. Vì vậy, hãy cố gắng nghĩ ít nhất hai lần trước khi bạn định nói bất cứ thứ gì trong khi tức giận. Đây là lý do tại sao các chuyên gia tâm lý thường khuyên bạn nên đi bộ vào thời điểm này để tránh nói ra những điều làm tổn thương người khác.

4. Tìm cách giải quyết

Một trong những điều chúng ta không nên làm khi nóng giận là tìm mọi cách giải quyết nếu có thể. Nguyên nhân dẫn đến tức giận có thể là một vấn đề bất ngờ hoặc do dồn nén trong một khoảng thời gian dài mà chưa được giải quyết. Một trong những điều bạn nên làm vào thời điểm như thế là tìm giải pháp cho vấn đề và tìm cách đối phó với những nguyên nhân gây ra nó hơn là đấu tranh và chửi rủa, vì thông thường những việc “nói cho bõ tức” thường không mang đến kết quả tốt đẹp.

5. Đừng chửi rủa

Đừng bao giờ chửi rủa khi tức giận. Người ta thường nói những điều rất ngớ ngẩn khi tức giận chỉ vì muốn làm tổn thương đối phương. Nhưng bạn sẽ làm gì khi làm tổn thương người khác? Chửi rủa chỉ làm cho cái tôi của bạn lớn dần, nó không mang lại lợi ích gì cho cuộc đời bạn. Vì vậy, bất cứ khi nào bạn cảm thấy như mình đang sỉ nhục ai đó khi tức giận, thì hãy lùi lại một bước để xem xét thật thấu đáo.

6. Đừng giữ mối thù hận

Bạn có thể nổi giận với những người không tốt hoặc thô lỗ với bạn, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn sẽ giữ lòng thù hận với họ. Giữ mối thù hận với người khác sẽ chỉ làm bạn nghĩ về những điều sai trái mà người đó đã làm, từ đó khiến tâm trạng bạn ngày càng cảm thấy tồi tệ hơn. Thay vào đó, lòng vị tha và lãng quên lỗi lầm của người khác sẽ giúp bạn được sống một cuộc sống không có bóng dáng của cảm xúc tiêu cực.

7. Đơn giản hóa vấn đề

Một trong những cách hóa giải tình huống tức giận là sử dụng sự hài hước. Bất luận nguyên nhân của sự đau khổ là gì, hãy cố gắng trở nên hài hước. Giảm nhẹ vấn đề sẽ giúp bạn tránh được những căng thẳng không cần thiết trong cuộc sống. Vì thế, thay vì thất vọng và đáp trả cách giận dữ, hãy đơn giản hóa vấn đề bằng cách nghĩ ra một câu đùa hoặc làm cho không khí trở nên vui vẻ hơn. Nhưng hãy cẩn thận, đừng dùng trò hài để mỉa mai, vì như thế bạn sẽ làm mất đi mục đích và làm tình hình trở nên tồi tệ hơn.

Hãy nhớ rằng hình ảnh của sự tức giận là rất đáng sợ. Cảm xúc đó có thể là niềm kiêu hãnh của một người có cá tính mạnh mẽ nhưng những người không thể kiểm soát được sự tức giận của bản thân sẽ trở nên khó gần, thậm chí họ sẽ tự cô lập chính mình giữa cộng đồng.

Thi Trân (Theo Magforwomen)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

THỨ SÁU TUẦN 7 PS

Th. Ri-ta Ca-xi-a, nữ tu

Ga 21,15-19

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

Chúa Giê-su hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17)

Suy niệm : Phê-rô, vị tông đồ đã từng bạo miệng nói với Chúa Giê-su trước khi Thầy bị bắt: “Dù có phải chết với Thầy con cũng không chối Thầy,” bây giờ lại lúng túng khi được Chúa Ki-tô phục sinh hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Câu trả lời trải lòng của Phê-rô: “Thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” muốn nói lên rằng “Thầy biết rõ con đã chối Thầy, và Thầy cũng biết con vẫn yêu mến Thầy dù con còn nhiều yếu đuối. Chỉ xin cho con biết yêu Chúa với lòng khiêm tốn, sẵn sàng hoán cải mỗi khi vấp ngã, lỗi lầm.

Mời Bạn : Giả như Chúa Giê-su phục sinh hiện ra hỏi bạn, hỏi tôi như đã hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” có lẽ chúng ta còn lúng túng gấp bội. Bởi vì chúng ta không chỉ yếu đuối mà còn vì cuộc đời chúng ta bị bao vây bởi bao mối quan hệ, bị nhấn chìm giữa bao công việc, đến nỗi chúng ta đánh mất ý thức rằng Chúa yêu chúng ta nên đã chết để cứu chuộc ta, Ngài đã sống lại để ban cho chúng ta hạnh phúc sự sống đời đời cũng vì yêu thương ta.

Sống Lời Chúa : Mỗi sáng thức dậy, bạn quì gối và nói với Chúa: Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa là Chúa con, con yêu mến Chúa.

Cầu nguyện : Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh Quyền Năng, con tin Chúa đang sống bên cạnh cuộc đời con, nhưng con chưa dám trao phó đời con cho Chúa, nên quyền năng của Chúa không thể thi thố trong con được. Con xin thờ lạy Chúa, xin giúp con nhận ra quyền năng Chúa trên cuộc đời con, và để con nói: Con cám ơn Chúa, con yêu mến Chúa. Amen.

PhutCauNguyen:

http://phutcaunguyen.net/BDCN/T7PS/T6T7PS.mp3

Xin mở lòng chúng ta ra, thủ thỉ với Chúa qua những lời ca tiếng hát này:

1. Con chỉ là Tạo Vật:

https://www.youtube.com/watch?v=oU7IzmoppRk

2. Lỗi hẹn:

https://www.youtube.com/watch?v=NNDuqphaUGk

3. Phó Thác:

https://www.youtube.com/watch?v=R8j0UCziJjM

4. Biết Chúa, biết con:

https://www.youtube.com/watch?v=ZnPyABeahXc

5. Tình ca vô tận:

https://www.youtube.com/watch?v=X9kmb8ROHr0

6- Bao la tình Chúa – Hiền Thục

https://www.youtube.com/watch?v=y3m10xlaEcw

God bless,

Hai

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Bình Luận

Phù Sa phỏng vấn nhà văn Dạ Ngân

Du học để “tị nạn giáo dục”

Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt ? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay ?

Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài.

Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm ? Là vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm.

Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học nếm mãi.

Ở khía cạnh giáo dục, chị lý giải hiện tượng này như thế nào ?

Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để tị nạn giáo dục.

Tình hình đã mười mươi như vậy, nhưng hình như phía vĩ mô không muốn thay đổi. Làm giáo dục mà không triết lý giáo dục thì sao thiết kế được?

Sao các môn xã hội không có sức hấp dẫn mà còn khiến Học Sinh bội thực, ngán ngẩm ? Các em không thích môn văn, không yêu môn sử, không thiết tha môn địa, không “vào” với môn đạo đức công dân? Vậy thì giỏi toán và giỏi các môn tự nhiên để làm gì, để làm người Việt ngô ngọng hay làm rô – bốt ?

Tôi thấy bất an với kiểu làm sách giáo khoa, tôi ngạc nhiên với sự im lặng của chính các thầy cô trong ngành giáo dục. Họ biết cả đấy, họ chán đấy mà họ không làm gì, không ai lên tiếng, họ sợ họ hèn hay họ đã chai lì cả rồi ?

Nếu tôi là một quan chức trong ngành giáo dục thì chắc chắn tôi sẽ từ chức. Không làm gì nổi nữa, chỉ có cách cho con cho cháu “tị nạn” mà thôi.

Không phải chép văn mẫu đã là “được làm người”

Một gia đình có con trúng học bổng Singapore năm 14 tuổi đã phấn khích thốt lên: “ôi, cháu tôi đã được làm người”.

“Ôi, cháu tôi được làm người” là một câu nói có vẻ quá lên nhưng bên trong nó có sự thật đó chứ!

Hãy xem trường điểm và trường chuyên đã làm cho cha mẹ các em phải chạy chọt và gây thêm ách tắc giao thông như thế nào? Hãy xem tuổi thơ của các em nhỏ đang được chơi hay đang bị học kiểu “nhồi thức ăn cho ngỗng”? Một cô cháu họ của tôi kể, trong thực hành môn Văn lớp 4 của con nó có thứ đề đại loại: “Hãy viết một bức điện tín”. Chính tôi đã từng giúp cho đứa cháu ngoại học lớp 5 ở Hà Nội làm đề ngoại khóa là “Hãy viết suy nghĩ của em về chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không?”.

Có phải bắt các em làm chính trị gia hay làm công dân sớm? Sao không để cho các em tiểu học được phát triển tự nhiên cả trong tình yêu đất nước, gia đình, thầy cô và tiếng Việt mà cứ làm cho chúng chán ngấy lên vậy?

Cho con du học là xu hướng đã có từ thời thuộc Pháp, để con cái được học cái văn minh, được sống và được thụ hưởng môi trường văn hóa cao. Tại sao người ta thích cho con đi Singapore, đảo quốc ấy có đúng là thiên đường ở châu Á mà chúng ta đang mơ ước không?

Nhưng chị có nghĩ rằng bọn trẻ sẽ có những tổn thương tâm lý vì xa bố mẹ từ khi còn quá nhỏ?

Tôi không có con nhỏ nhưng tôi đã khuyến khích và đóng góp cho cháu ngoại của tôi vào trường quốc tế từ đầu cấp II. Vì sao? Vì ở đó nó được học chương trình giảm tải, nó được học tiếng Anh bằng phương pháp đúng và không phải làm văn mẫu.

A ha! Riêng việc không phải làm văn kiểu học thuộc lòng và chép nguyên xi văn mẫu đã là “được làm người” rồi. Nó học văn một cách hào hứng và tiếng Việt của nó dậy hương là vì nó được làm văn theo suy nghĩ của mình. Cả nhà xúm nuôi một đứa bé, cực nhưng mà vui, không bị sốc, không bị stress vì “né” được nhiều “ngón hành hạ” của ngành giáo dục trong nước.

Các trường ở Singapore họ hay nhảy vào các trường điểm và trường chuyên của chúng ta để “hớt váng” từ năm lớp 9 hoặc lớp 10.

Số đi du học tự túc thì đủ lứa tuổi. Các em phải chịu thiệt thòi nhưng nền giáo dục của các nước văn minh rèn người khá hay.

Theo tôi, đi từ đầu cấp III là vừa, cho đi sớm hơn là sẽ có hậu quả.

Con mình nuôi lớn mà người ta “dùng”

Việc mỗi gia đình tự lo cho tương lai của con cái như vậy sẽ tạo ra một nguồn nhân lực tốt cho đất nước ?

Rõ ràng là nhân tài sẽ thất thoát. Con cái mình nuôi lớn mà người ta dùng, toàn là người thông minh và nhiều người tài đấy chứ. Có đau không, có ức không? Đành chịu.

Các vị ở trên cao có xót không, xót sao không tìm cách và không thay đổi?

Liệu gia đình và chính các em Học Sinh đó có phải trả cái giá nào không ?

Đừng có mà đùa dai với truyền thống hiếu học của người Việt. Sẽ còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi bằng hết, nếu những người cầm trịch của chúng ta không giật mình thì sẽ không cứu vãn được làn sóng tị nạn này đâu.

Rồi sẽ có thêm những thế hệ Việt kiều không biết tiếng Việt, quê hương đất nước xa vời. Đừng nghĩ người Việt sẽ cố kết tình quê hương và đất nước như cộng đồng người Tàu. Chúng ta là những người Việt trần ai, rất dễ bời rời và mất gốc khi ở xứ người.

Nhà văn, nhà báo Dạ Ngân sinh năm 1952, từng tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du. Là tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết nổi tiếng. Trong đó, đặc biệt và gây tiếng vang nhất là tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội.