Càng nói càng … dốt

Càng nói càng … dốt

Nguoi-viet.com

Bùi Bảo Trúc

Hồi học tiểu học ở Hà Nội tôi có một người bạn ngồi cạnh bị cụ giáo dạy chúng tôi ở lớp Nhì ghét thậm tệ.

Trong suốt mấy tháng đầu của niên học, người hàng xóm của tôi bị ăn bao nhiêu là roi mây, cho đến khi bạn tôi bỏ hẳn cái thói quen thay tất cả “ph” bằng “f,” thói quen không biết chàng học ở đâu, có thể là chàng mang từ hậu phương về Hà Nội không chừng. Tôi chắc chàng học của bác Hồ của chàng, vì bác là người đã nghĩ ra cái lối viết mà thầy giáo của chúng tôi rất ghét đó.

Nhiều năm sau, trong bản di chúc anh già này viết để lại cho đàn em với ghi chú “tuyệt đối bí mật,” ai cũng đọc thấy tận mắt lối viết ấy.

Ngay ở đầu, là hai hàng chữ “Việt nam zân chủ cộng hòa độc lập, tự zo, hạnh fúc,” rồi trong suốt 7 trang di chúc viết tay đó, là những lối viết quái đản gọi là cải cách đó.

Cách viết đó hình như về sau cũng không có được bao nhiêu người bắt chước làm theo. Người ta không thấy (mấy) ai dùng “f” thay cho “ph,” dùng “k” thay cho “c.” Nhưng mới đây, lối viết ngớ ngẩn đó lại được thấy trong một tấm bằng do một trường bách khoa cấp cho các học viên tốt nghiệp. Trong tấm bằng này, trường đã ghi môn học của học viên là “Major in Farmacy Technician.”

Có tới hai lỗi trong hang chữ vừa dẫn ở trên.

Thứ nhất là danh từ “Pharmacy” bị viết sai là “Farmacy” với “f.” Không thể thay “Ph” bằng “f” được. Tiếng Anh cũng không được, mà tiếng Pháp cũng không được. Khi cái lỗi này được báo chí nêu ra, thì một anh cóc nhái của trường giải thích rằng đó là cách viết tắt nên không có gì là sai cả.

Nói vậy là nói láo, là dốt mà là cãi chầy cãi cối. Nếu viết tắt (abbreviate hay shorten) thì Pharmacy phải viết là “Pharm.” Không bao giờ là “Farmacy” cả.

Lỗi thứ hai là chữ “technician.” “Technician” là chuyên viên kỹ thuật, là kỹ thuật viên. Môn học là “technology.” “Technician” là người nghiên cứu hay theo học môn “technology.” Không thể có môn học “technician” bao giờ.

Những sai sót như thế không phải là ít. Trên một số văn bằng cấp cho các sinh viên người ta thấy rất nhiều những lỗi rất sơ đẳng như vậy. Cả những chữ giản dị như tên tháng ghi “July” thành “Yuly”; “Hiệu Trưởng” ghi là “Hệu Trưởng”; “Information” thành “Infomation” (thiếu chữ “r”; “very” thành “verry” thừa chữ “r”…

Thí dụ văn bằng Bachelor of Engineer do trường Đại Học Kiến Trúc cấp chẳng hạn. Không bao giờ có thứ bằng cấp này cả. Nếu đó là bằng kỹ sư thì phải ghi là Bachelor of ENGINEERING. Không bao giờ là Bachelor of ENGINEER . Danh từ ENGINEERING là môn (học) kỹ sư trong khi ENGINEER là (người) kỹ sư. Học thì học môn ENGINEERING. Không ai học ENGINEER cả.

Những sai sót như thế là những sai sót không thể chấp nhận được khi nó xuất hiện trên những văn kiện của những cơ sở cao cấp trong lãnh vực giáo dục. Các sinh viên, học viên tốt nghiệp của các trường đó khi xuất trình các văn bằng do các cơ sở cấp phát chắc chắn sẽ gặp phải những thái độ nghi ngờ về khả năng của họ, và cơ hội được tuyển dụng chắc chắn cũng giảm đi không ít. Một cơ sở giáo dục cao cấp mà để lại những sai sót ngu xuẩn như thế thì trình độ của những người được các cơ sở đó đào tạo như thế nào thì người ta không cần phải tìm hiểu lâu la gì cũng biết.

Vậy thì cách hay nhất là đừng xuất trình những thứ bằng cấp như thế làm gì. Cứ khai phứa phựa là có bằng nọ bằng kia là đủ. Như trường hợp của tên y tá chích đít nọ rồi cũng làm tới chức thủ tướng mà không ai biết nó học ở đâu mà vẫn nhận là có bằng cử nhân luật vậy.

Đúng là “nói láo mà chơi, nghe láo chơi” như câu thơ của Bồ Tùng Linh vậy.

Những hiện tượng siêu tự nhiên trong Lễ Phong Chân Phước cho ĐTGM Oscar Romero

Những hiện tượng siêu tự nhiên trong Lễ Phong Chân Phước cho ĐTGM Oscar Romero

Đặng Tự Do

Một vòng tròn hào quang tuyệt hảo hình thành phía trên mặt trời

Khi thánh tích Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero, là chiếc áo sơ mi vấy máu mà ngài mặc khi bị bắn chết được rước lên, và cộng đoàn bắt đầu hát kinh Vinh Danh, bầu trời xám xịt trong một tuần đầy mưa bão đột nhiên như mở ra và mặt trời ló dạng với một vầng hào quang, mà từ chuyên môn gọi là “solar halo”, một hiện tượng rất hiếm khi xảy ra.

Cha Manuel Dorantes, linh mục thuộc tổng giáo phận Chicago Hoa Kỳ, phụ tá tiếng Tây Ban Nha cho Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã cho thông tấn xã Công Giáo CNA biết như trên hôm 29 tháng Năm. Ngài xác tín rằng hiện tượng siêu tự nhiên này cho thấy việc phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero “rất đẹp lòng Đức Chúa Trời”.

Quý vị và anh chị em có thể thấy hiện tượng này được ghi lại trong video Vietcatholic đã phát trong tuần qua Video: Thế Giới Nhìn Từ Vatican 21/05 – 27/05/2015: Chân Phước Tổng Giám Mục Oscar Romero, url: http://www.vietcatholic.net/News/Html/137744.htm

Cha Manuel nói: “Thật tình mà nói, đây là hiện tượng siêu tự nhiên đầu tiên tôi chứng kiến trong đời mình”.

Ngài thuật lại rằng sau khi Đức Hồng Y Angelo Amato Tổng trưởng Bộ Phong Thánh tuyên đọc sắc lệnh của Đức Thánh Cha Phanxicô công nhận Đức Tổng Giám Mục là vị tử đạo vì đức tin và tuyên phong Chân Phước cho ngài; sắc lệnh này được đọc lại một lần nữa bằng tiếng Tây Ban Nha trước khi cộng đoàn bắt đầu hát Kinh Vinh Danh và thánh tích của Đức Cha Romero được rước lên cho Đức Hồng Y tôn kính. Lúc ấy, “một hiện tượng rất kỳ lạ đã xảy ra”.

Cha Manuel cho biết tiếp: “Khi thánh tích được rước ra, và chúng tôi đang hát Kinh Vinh Danh, thì bất ngờ, trời như mở ra trên chúng tôi, mặt trời ló dạng. Một vòng tròn hào quang tuyệt hảo hình thành phía trên mặt trời”.

“Ngay khi tôi nói với anh đây, tôi vẫn còn thấy lạnh tóc gáy”. Ngài cho biết, mọi người không ai bảo ai đều nhìn lên.

“Có những linh mục bắt đầu khóc. Tôi cũng khóc, nhiều linh mục khóc. Các Giám Mục đứng trong khán đài có mái che không thấy nên bước hẳn ra ngoài để nhìn cho rõ chuyện gì đã xảy ra.”

Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero sinh ngày 15/08/1917 trong một gia đình có 8 người con. Ngài được thụ phong linh mục tại Rôma vào ngày 04/04/1942.

Sau khi thụ phong linh mục cha Romero tiếp tục ở lại Roma để theo học chương trình tiến sĩ thần học. Nhưng vì cuộc nội chiến tại El Salvador và Giáo Hội tại nước này thiếu linh mục, ngài được gọi về nước.

Và trong hơn 20 năm sau đó, ngài làm cha xứ và thư ký cho Tòa giám mục San Miguel. Năm 1970, cha Oscar Romero được tấn phong giám mục và làm phụ tá cho Đức Cha Chavéz, Tổng Giám Mục San Salvador và ngày 23/02/1977, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của San Salvador.

Ngày 12/03/1977, một linh mục dòng Tên, là cha Rutilio Grande – một trong những linh mục đầu tiên được ngài truyền chức và là một người can đảm đấu tranh cho những người nghèo – bị sát hại.

Chứng kiến cảnh một linh mục can đảm đấu tranh cho người nghèo bị giết hại như vậy, Ðức cha Romero đã phản ứng rất mạnh. Ngài đã ra lệnh đóng cửa trường học do Giáo Hội điều hành trong ba ngày và đình hoãn mọi thánh lễ trên toàn quốc trong tuần lễ kế tiếp, ngoại trừ một thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ chính tòa San Salvador.

Trong bài giảng tại thánh lễ đặc biệt đó cũng như trong các thánh lễ các Chúa Nhật tiếp theo, ngài đã lên tiếng tố cáo những tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên.

Để phản đối việc chính phủ liên quan đến hay thinh lặng trước các vụ bắt bớ, giết hại, ngài đã không tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống của nước này. Ngài tuyên bố: “Giáo Hội không được đo lường bằng sự hỗ trợ của chính phủ mà bằng chính tính trung thực, tinh thần cầu nguyện theo tinh thần Tin Mừng, lòng tin tưởng, sự chân thành và công lý, nhất là khi Giáo Hội chống lại các lạm dụng”.

Một cử chỉ khác được coi là mạnh dạn là việc ngài quyết định cho mở cửa chủng viện tại trung tâm thủ đô San Salvador và ngày thứ hai Phục Sinh năm 1978 để đón tiếp bất cứ nạn nhân nào của các vụ bạo động. Hàng trăm người vô gia cư, đói rách và bị hành hung đã đến chủng viện.

Và một quyết định nữa nói lên việc ngài toàn tâm toàn lực đấu tranh cho công lý, cho người nghèo là việc ngài cho ngưng xây cất nhà thờ Chính tòa San Salvador. Ngài nói: “Khi nào chiến tranh chấm dứt, những người đói khổ được ăn uống đầy đủ và trẻ con được giáo dục, lúc đó chúng ta sẽ tiếp tục xây cất nhà thờ chính tòa”.

Chính vì sự cương quyết và can đảm đó, ngài đã trở thành cái gai trong mắt những người có quyền, có thế lực tại El Salvador. Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/3/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình.

Án phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám mục Romero đã vấp phải những quan ngại cho rằng ngài đã bị giết vì tham gia chính trị, chứ không phải vì đức tin của mình. Năm 2013, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã khai thông mọi bế tắc trong tiến trình phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Romero. Ngài nói rằng Đức Tổng Giám Mục Romero “đáng được phong Chân Phước, tôi không bao giờ hồ nghi về điều đó”.

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ GIA ĐÌNH VÀ SỰ NGHÈO KHỔ

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ GIA ĐÌNH VÀ SỰ NGHÈO KHỔ

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

“Hội Thánh là mẹ, và không được quên được thảm cảnh này của con cái mình.  Chính Hội Thánh cũng phải nghèo, để trở nên hiệu quả và đáp ứng với đau khổ lớn lao như thế.  Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh tự nguyện thực hành sự đơn giản trong cuộc sống của mình – trong các cơ cấu của mình, trong cách sống của các thành viên của mình – để đạp đổ mọi bức tường ngăn cách, đặc biệt là với người nghèo.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô được ban hành ngày 3 tháng 6 năm 2015 trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Gia Đình.  Ngài giải thích về tầm quan trọng của việc giúp đỡ các Gia Đình Nghèo.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Trong ngày thứ tư này, chúng ta suy nghĩ về gia đình và tiếp tục vấn đề này, suy nghĩ về gia đình.  Giờ đây chúng ta bắt đầu bài giáo lý với sự suy tư để cân nhắc về tính dễ bị tổn thương của các gia đình trong các điều kiện sống mà họ đang bị thử thách.  Các gia đình đang bị thử thách về rất nhiều vấn đề.

Một trong những thử thách này là sự nghèo khổ.  Chúng ta hãy nghĩ đến rất nhiều gia đình đang sinh sống ở các vùng ngoại ô của các thành phố lớn, mà cũng nghĩ đến các vùng nông thôn…  Có biết bao đau khổ, biết bao tồi tệ!  Và rồi, để làm cho vấn đề thêm trầm trọng, ở một số nơi còn xảy ra chiến tranh.  Chiến tranh luôn luôn là một điều khủng khiếp.  Nó cũng đặc biệt ảnh hưởng đến thường dân và các gia đình.  Quả thật, chiến tranh là “mẹ của mọi sự nghèo khổ”, chiến tranh bần cùng hoá gia đình, một dã thú lớn cướp đi sự sống, linh hồn, những cảm giác thánh thiêng nhất và những người thân yêu nhất.

Bất chấp tất cả những điều ấy, có nhiều gia đình nghèo mà vẫn cố gắng sống xứng đáng với nhân phẩm trong cuộc sống hàng ngày của mình, thường thì bằng cách công khai tín thác vào phúc lành của Thiên Chúa.  Tuy nhiên, chúng ta không được dùng bài học này để biện minh cho sự thờ ơ của mình, mà nó phải làm cho chúng ta thêm xấu hổ về thực tại là có quá nhiều nghèo khổ!  Hầu như là một phép lạ khi ngay cả trong cảnh nghèo đói mà các gia đình vẫn tiếp tục hình thành, và thậm chí, khả dĩ để bảo tồn tính nhân bản đặc biệt trong những mối liên hệ của nó.  Thực tại này làm cho những người soạn thảo kế hoạch an sinh phải bực bội vì họ coi tình cảm, việc sinh sản con cái và những liên hệ gia đình như những điều thứ yếu so với phẩm chất của đời sống.  Họ chẳng hiểu gì cả!  Trái lại, chúng ta nên quỳ xuống trước những gia đình này, là những trường học thật sự của nhân loại, họ cứu xã hội khỏi cảnh dã man.

Thực ra, chúng ta còn lại gì nếu chúng ta đầu hàng thư hăm doạ tống tiền của Caesar và Ma Môn, bạo lực và tiền bạc, mà cũng chối từ tình cảm gia đình?  Một nền đạo đức dân sự mới sẽ chỉ có thể đến khi những người có trách nhiệm về đời sống công cộng xắp đặt lại những liên hệ xã hội bắt đầu từ cuộc chiến chống lại tình trạng xoắn quyện éo le giữa gia đình và sự nghèo đói, là điều đưa chúng ta xuống vực thẳm.

Nền kinh tế ngày nay thường chuyên chú vào việc hưởng thụ hạnh phúc cá nhân, nhưng rộng rãi thực hành việc khai thác các mối liên hệ gia đình.  Đó là một mâu thuẫn nghiêm trọng!  Đương nhiên là những công việc bao la của gia đình không được liệt kê trong bản báo cáo tài chính!  Thật vậy, nền kinh tế và chính trị rất keo kiệt với những giải thưởng trong lĩnh vực này.  Tuy nhiên, việc đào luyện bên trong của con người và sự chuyển động của tình cảm trong xã hội có trụ cột của chúng ngay ở đó.  Nếu mất nó, thì tất cả mọi sự đều sụp đổ.

Đó không chỉ là vấn đề cơm bánh.  Chúng ta nói về công ăn việc làm, chúng ta nói về việc giáo dục, chúng ta nói về việc chăm sóc sức khỏe.  Thật quan trọng để hiểu điều này.  Chúng ta luôn luôn rất xúc động khi thấy hình ảnh các trẻ em thiếu ăn và bệnh tật ở rất nhiều nơi trên thế giới được chỉ cho chúng ta.  Đồng thời, chúng ta xúc động trước những cặp mắt lấp lánh của nhiều trẻ em, tuy thiếu thốn đủ mọi thứ, ở trong những trường học không có gì, khi chúng hãnh diện khoe những cây bút chì và tập vở của chúng.  Và cách chúng nhìn cô giáo hoặc thầy giáo của chúng thật trìu mến ra sao!  Thực sự, các trẻ em biết rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh!  Nhưng cả những tình thương trong gia đình; khi có sự khốn cùng, các trẻ em đau khổ vì chúng muốn tình yêu và các liên hệ gia đình.

Là Kitô hữu, chúng ta phải gần gũi hơn với những gia đình đang bị nghèo đói thử thách.  Nhưng anh chị em có nghĩ rằng tất tất cả anh chị em đều biết có một gia đình nào: người cha đang thất nghiệp, người mẹ không có việc làm… và gia đình đang đau khổ, mối liên gia đình đang bị suy yếu.  Điều này xấu.  Thực ra, những đau khổ xã hội ảnh hưởng đến gia đình và đôi khi phá huỷ nó.  Việc thiếu hoặc mất việc làm, hoặc sự rất bấp bênh của nó, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến gia đình, chồng chất một thử thách nặng nề lên trên các mối liên hệ.  Các điều kiện sống trong các khu phố nghèo nàn nhất, với những vấn đề gia cư và giao thông, cũng như việc giảm bớt các dịch vụ xã hội, y tế và giáo dục, tạo thêm những khó khăn.  Thêm vào những yếu tố vật chất này là những thiệt hại gây ra cho gia đình bởi các kiểu mẫu giả dối, được phổ biến bởi các phương tiện truyền thông, dựa trên chủ nghĩa tiêu thụ và việc tôn thờ vẻ bề ngoài, ảnh hưởng đến các tầng lớp xã hội nghèo nhất và gia tăng sự tan rã của các liên hệ gia đình.  Hãy chăm sóc cho các gia đình, chữa lành những đau khổ, khi sự khốn cùng thử thách gia đình!

Hội Thánh là mẹ, và không được quên được thảm cảnh này của con cái mình.  Chính Hội Thánh cũng phải nghèo, để trở nên hiệu quả và đáp ứng với đau khổ lớn lao như thế.  Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh tự nguyện thực hành sự đơn giản trong cuộc sống của mình – trong các cơ cấu của mình, trong cách sống của các thành viên của mình – để đạp đổ mọi bức tường ngăn cách, đặc biệt là với người nghèo.  Phải cầu nguyện và hành động. Chúng ta hãy nhiệt thành cầu nguyện với Chúa, để Người lay động chúng ta, biến gia đình Kitô hữu của chúng ta thành những tác nhân chính của cuộc cách mạng gần gũi gia đình này, mà giờ đây quá cần thiết!  Chính sự gần gũi này của gia đình, ngay từ thủa ban đầu, đã làm thành Hội Thánh.  Và chúng ta đừng quên rằng sự phán xét của những người túng thiếu, những người bé nhỏ và người những nghèo tiên liệu sự phán xét của Thiên Chúa (x. Mt 25:31-46).  Chúng ta đừng quên điều này và hãy làm tất cả mọi sự có thể để giúp các gia đình tiến bước trong cuộc thử thách của nghèo đói và khốn khổ, là điều ảnh hưởng đến tình cảm và các liên hệ gia đình.  Tôi muốn đọc lại bản văn Thánh Kinh mà chúng ta đã nghe lúc đầu và mỗi người trong chúng ta hãy nghĩ đến những gia đình đang bị thử thách bởi đau khổ và nghèo đói, Thánh Kinh nói: “Con ơi, đừng chối từ người nghèo những gì họ cần cho cuộc sống, đừng thờ ơ với cái nhìn của người túng thiếu.  Đừng làm cho kẻ đói phải buồn lòng, đừng chọc giận ai khi họ gặp bước khó khăn.  Đừng làm phiền một tâm hồn đang bực bội, đừng chối từ quà tặng cho kẻ nghèo.  Đừng từ chối lời nài xin của kẻ khốn cùng, đừng ngoảnh mặt đi khi gặp người nghèo khó.  Ai xin con thì đừng lơ mắt, chớ làm cớ cho người ấy nguyền rủa mình.” (HC 4:1-5a).  Bởi vì đó là điều Chúa sẽ làm – như nói trong Tin Mừng – nếu chúng ta không làm những điều này.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Nguyên bản: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2015/documents/papa-francesco_20150603_udienza-generale.html.

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.  Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.

I. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời

Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường.  Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn?  Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân.  Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người.  Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời…” (Ga 6, 32).

Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niệm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;” cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em” (Mc 14, 23-24).

Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người.  Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người.  “Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình” (Ga 6, 53).

II. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa

“Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?” (Ga 6, 52).  Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật “khó nghe” đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại.  Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.

Đứng trước lời nói “sống sượng” của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa.  Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: “Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi” (Ga 6, 60).  Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: “còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?” (Ga 6, 67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: “bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).  Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy.  Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.

Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác?  Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt.  Người này phải có một nguồn gốc thần linh.  Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu.  Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác.  Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn.  Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật.  Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.

III. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô

Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabát để nghe đọc Lời Chúa.  Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái.  Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: “Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán…” (Mc14, 22).  Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.

Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết.  Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa.  Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.

Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo.  Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô.  Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể.   Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô.  Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô.  Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh.  Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể.  Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể.  Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

Biển Đông Hay Là Vấn Đề “Mặc Cảm Chính Trị” Của Các Đại Biểu Quốc Hội

Biển Đông Hay Là Vấn Đề “Mặc Cảm Chính Trị” Của Các Đại Biểu Quốc Hội

adminbasam

Viet-studies

Nguyễn Trọng Bình

05-06-2015

Họp kín

Thật ra, nếu nhìn ở chiều hướng tích cực nhất thì việc Quốc hội Việt Nam quyết định “họp kín” về tình hình Biển Đông ít nhiều đã cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề này. Nói cách khác, một khi “những người trong nhà” quyết định đóng chặt cửa lại nói chuyện riêng với nhau nhằm tránh “tai vách mạch rừng” cũng có nghĩa họ đã nhận thấy tình hình đang rất nguy cấp. Ngoài ra, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay nếu không cẩn thận đóng kín cửa lại lỡ có tay phóng viên của Tân Hoa xã hay Thời Báo Hoàn Cầu nào đó trà trộn và lọt vào tác nghiệp thì quả là chí nguy. Vì vậy, bình tĩnh ngồi ngẫm lại tôi thấy cũng nên thông cảm cho quyết định họp kín này của Quốc hội trong vấn đề này.

Những gương mặt thân quen

Tuy vậy, họp kín để bảo đảm an toàn thông mang tính bí mật quốc gia là một chuyện nhưng chất lượng của cuộc họp ấy như thế nào lại là một chuyện khác. Và chất lượng cuộc họp đương nhiên phụ thuộc hoàn toàn vào những người tham gia cuộc họp. Nói cách khác, ở đây tôi muốn nói đến cái trình độ “quan trí” của các “ông Nghị”, “bà Nghị” – những đại biểu của 90 triệu dân Việt Nam nó như thế nào, có thấp như cái trình độ “dân trí” (mà một số ông Nghị lên tiếng coi thường và xúc phạm) hay không?

Thật lòng mà nói, là một người có trình độ “dân trí” không cao lắm nên tôi đã và đang “rất tâm tư” về chuyện này. Không “tâm tư” sao được khi mà mấy lần theo dõi các kỳ họp của Quốc hội tôi chỉ thấy quanh đi quẩn lại là một vài những “gương mặt thân quen” (như đại biểu Nguyễn Minh Thuyết trước đây, đại biểu Dương Trung Quốc, Trần Du Lịch, Trương Trọng Nghĩa… hiện nay) dám phát biểu và bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề “nóng” của xã hội và đất nước (trong đó có vấn đề về biển Đông) còn đa phần chỉ là vô ngồi cho có tụ; hoặc không thì cầm giấy lên vừa đọc vừa run trước nghị trường giống như học sinh cấp một lên trả bài trước thầy, cô giáo! Hoặc không nữa thì một vài ông bà Nghị có lẽ vì muốn được truyền thông nước nhà đưa lên mặt báo để được nổi tiếng nên bắt chước mấy em “chân dài, óc ngắn” trong giới showbiz quăng ra những phát ngôn gây sốc. Kiểu như “ông nghị” Hoàng Hữu Phước mấy năm trước cho rằng “trình độ dân trí còn thấp nên chưa cần thiết có luật biểu tình” . Hay mới đây là “ông Nghị” Đỗ Văn Đương rất hùng hồn và đầy tinh thần cảnh giác khẳng định: “Quy định quyền im lặng là diễn biến hòa bình, chống lại nhân dân”. Chưa hết, ông nghị Hà Minh Huệ – Phó chủ tịch Hội Nhà Báo VN cũng vừa “phun châu nhả ngọc”: “Dân chủ của ta có hạn, dân trí còn rất thấp, số người dân trí cao là thiểu số, trưng cầu có khi gây hại, không thể tùy tiện”.

Cho nên, mạo muội bắt chước cách tư duy của mấy “ông Nghị” vừa kể ở trên, tôi e rằng nếu trình độ “quan trí” của các ông Nghị, bà Nghị mà không hơn trình độ “dân trí” chúng tôi thì các vị dù họp hay không họp cũng vậy mà thôi; cũng chẳng góp cho Quốc hội cao kiến gì nhằm đối phó với người “láng giềng hữu hảo”!?

Thay lời kết

Mấy ngày qua trong tôi luôn bị ám ảnh bởi cái video clip chỉ vỏn vẹn 4 phút nhan đề “Thì sông cứ chảy, phận người cứ trôi” đang được cư dân mạng chuyền nhau xem và bình luận rôm rả. Thật lòng với riêng tôi, một cách khái quát nhất, cái tiêu đề và nội dung trong cái video clip này đã nói lên tất cả cái hiện thực trần trụi và đau buồn ở xã hội Việt Nam hôm nay. Đặc biệt là cái hiện thực trong tâm hồn của mỗi người dân Việt (trong đó cũng có tôi) giữa cái xã hội bình yên tạm bợ này đang dần cạn kiệt niềm tin về con đường phía trước mà dân tộc đang kiên định tiến lên. Vì vậy, mà vừa xem cái cái video clip tôi vừa cố kìm để nước mắt không chảy ra ngoài!

Từ đây, liên hệ tới vấn đề Quốc hội họp kín về tình hình biển Đông ở trên, tôi cho rằng, nếu như các “ông, bà Nghị” lần này mà không vượt qua được nỗi “mặc cảm chính trị”; không dám biểu quyết để yêu cầu Quốc hội ra một Nghị quyết lên án hành động hung hăng và ngang ngược của Trung Quốc thì cái niềm tin mong manh còn sót lại trong dân chúng chắc chắn sẽ vơi thêm nữa. Và tương lai của dân tộc này, đất nước không biết sẽ đi về đâu. Nói như nhạc sĩ Tuấn Khanh khi ông bình về cái video clip “Thì sông cứ chảy, phận người cứ trôi” là:

Niềm tin là điều thật mong manh nhưng cao quý. Đánh mất nó, một đất nước sẽ chìm vào hỗn loạn và sụp đổ (…) Cuộc đời như sông cứ chảy, nhưng số phận con người thì cứ trôi, và về phương nào ở ngày mai thì do chính người lớn thế hệ hôm nay đã lèo lái ra sao. Con người có thể đi qua biển động với niềm tin như cậu bé trong Life of Pie, nhưng có thể chết gục ở bờ ao cạn chỉ vì không còn hy vọng vào xã hội mình đang sống.” [1]

Cần Thơ, 5/6/2015

NTB

[1] “Thì sông cứ chảy, phận người cứ trôi”.  https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/06/03/thi-song-cu-chay-phan-nguoi-cu-troi/

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 5-6-15

Tranh chấp Biển Đông sẽ làm bùng nổ Thế chiến Thứ ba?

Tranh chấp Biển Đông sẽ làm bùng nổ Thế chiến Thứ ba?

Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận ngoài khơi Biển Đông.

Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận ngoài khơi Biển Đông.

05.06.2015

Vụ tranh chấp ở Biển Đông sẽ gây ra một trận đại chiến thế giới. Đó là một dự báo mà một số người tỏ ý nghi ngờ, trong lúc các học giả Mỹ và những nhà đầu tư ở New York ra sức tìm hiểu những ảnh hưởng chính trị, quân sự và kinh tế của vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo này giữa Trung Quốc với các nước vùng Đông Nam Á.

Trong thời gian gần đây, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã không ngớt đả kích lẫn nhau vì những hoạt động xây dựng qui mô lớn mà Bắc Kinh thực hiện để biến những bãi cạn có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông thành những sân bay.

Hôm thứ bảy vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter cho biết Washington chống đối “việc quân sự hoá thêm nữa” những nơi có tranh chấp. Trong khi đó, một quan chức cấp cao của quân đội Trung Quốc, Thượng tướng Tôn Kiến Quốc, đã lên tiếng bênh vực cho việc xây đảo nhân tạo ở Biển Đông mà ông cho là “hợp tình, hợp lý và hợp pháp.”

Ông Gordon Chang, tác giả cuốn “Sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc”, cho rằng Biển Đông có thể sắp sửa trở thành “Vùng Đại Chiến.”

Phát biểu hồi tuần trước tại một cuộc hội thảo của Hiệp hội Không quân Mỹ, ông Chang nói rằng Hoa Kỳ sẽ có những hành động mới để đáp lại thái độ và cách hành xử hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, và khung thời gian của những hành động mới đó là ngay lúc này.

Ông nói “Hải quân Mỹ rõ ràng là đang trắc nghiệm những tuyên bố độc quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.” “Chúng ta phải làm như vậy, bởi vì nếu có một chính sách đối ngoại nhất quán của Mỹ trong vòng hai thế kỷ, thì đó chính là sự bảo vệ quyền tự do hàng hải,” ông Chang nhận định như vậy, và cho biết tiếp “Giờ đây Trung Quốc đang xâm phạm điều đó, nên tôi nghĩ rằng chúng ta có lẽ sẽ hành động trong một khung thời gian rất ngắn.”

Chiến đấu cơ của Mỹ trên boong tàu sân bay USS George Washington, phía sau là tàu USS Cowpens, trong vùng Biển Đông, 170 hải lý từ Manila (Ảnh tư liệu).

Chiến đấu cơ của Mỹ trên boong tàu sân bay USS George Washington, phía sau là tàu USS Cowpens, trong vùng Biển Đông, 170 hải lý từ Manila (Ảnh tư liệu).

Theo ông Gordon Chang, việc Trung Quốc thách thức Hoa Kỳ ở Biển Đông là “một trò chơi kẻ thắng người thua có tính chất kinh điển”, vì Trung Quốc xem Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi, những lợi ích không thể mang ra thương lượng, trong khi Hoa Kỳ là một cường quốc hải dương trong hai thế kỷ nay. Ông cho rằng đôi bên có thể sẽ nhượng bộ đối với các vấn đề ở Biển Đông, nhưng không bên nào từ bỏ lập trường cố hữu của mình.

Ông Rick Fisher, một nhà nghiên cứu cấp cao của Trung tâm Thẩm định Chiến lược Quốc tế (IASC) cho đài VOA biết rằng mọi người cũng nên lưu ý tới những hoạt động phát triển vũ khí hạt nhân ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ông nói rằng tuy Bắc Triều Tiên giữ yên lặng vào lúc này, nhưng có phần chắc Bình Nhưỡng sẽ tìm cách lợi dụng vụ tranh chấp ở Biển Đông trong tương lai gần.

“Khi nào Bắc Triều Tiên có thể chứng tỏ là họ có thể bắn một phi đạn hạt nhân thì khi đó Bắc Triều Tiên sẽ trở thành một yếu tố, bởi vì Bắc Triều Tiên có thể quyết định theo đuổi sự đối đầu ở mức cao trong một thời gian ở Biển Đông và gây thêm sức ép đối với Hoa Kỳ để nhận được những sự nhượng bộ từ Nam Triều Tiên hoặc từ chính Hoa Kỳ,” ông Fisher nói. Ông nói tiếp “Khi nào có một vụ khủng hoảng thì khi đó Bắc Triều Tiên có thể trở thành một yếu tố rất nguy hiểm.”

Ông Fisher cho rằng tuy lãnh tụ Kim Jong Un của Bắc Triều Tiên có xích mích với chính phủ Trung Quốc, cả hai đều theo chủ nghĩa Cộng Sản và hành động dựa trên ý thức hệ đó.

Chiến đấu cơ F/A 18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông, tháng 5/2013.

Chiến đấu cơ F/A 18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông, tháng 5/2013.

Ông George Soros, một tỉ phú Mỹ nổi tiếng về những hoạt động tài trợ chính trị, cũng bày tỏ sự lo ngại về sự hung hãn của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian qua. Phát biểu tại một cuộc hội thảo mới đây của Ngân hàng Thế giới, ông Soros cho rằng nếu Trung Quốc gặp phải những khó khăn lớn trong lãnh vực kinh tế, có phần chắc họ sẽ khởi động một cuộc chiến tranh thế giới để duy trì sự đoàn kết dân tộc và để thoát khỏi những khó khăn kinh tế. Ông Soros cho rằng ngay cả trong trường hợp Trung Quốc và Mỹ không trực tiếp giao chiến với nhau, cũng có nhiều khả năng là xung đột quân sự sẽ xảy ra giữa Trung Quốc với một trong những đối tác an ninh của Mỹ là Nhật Bản; và như thế, Thế chiến Thứ ba có thể bùng nổ.

Ông Tad Daley là giám đốc của dự án tiêu diệt chiến tranh của Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh và Hoà bình. Ông không tán đồng ý kiến cho rằng các vấn đề ở Biển Đông là kết quả của những chiến lược vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Ông nói rằng Trung Quốc dường như chỉ muốn duy trì khả năng răn đe hạt nhân, với mục tiêu là bảo vệ khả năng tấn công thứ nhì mà không phải tấn công phủ đầu hoặc tấn công trước.

Ông Daley cho biết Trung Quốc đã có được khả năng tấn công đợt nhì cách nay nhiều thập niên. “Có lẽ là vào năm 1975, khi Trung Quốc cảnh báo Mỹ chớ nên phát động những vụ tấn công hạt nhân nhắm vào Trung Quốc, bởi vì có phần chắc là một vài đầu đạn hạt nhân vẫn tồn tại và chúng tôi có thể tiêu diệt Los Angles và San Francisco,” ông Daley nói. Ông nói tiếp “Tình hình đó đã tồn tại trong nhiều thập niên…”, và những hoạt động phát triển hạt nhân của Trung Quốc trong thời gian qua không làm thay đổi điều đó “với một cách thức có ý nghĩa.”

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama hôm thứ hai vừa qua cũng đưa ra một lời cảnh báo nghiêm khắc đối với Trung Quốc là những hoạt động của Trung Quốc để tôn tạo đất đai ở Biển Đông là phản tác dụng và là một mối đe dọa cho sự thịnh vượng của Đông Nam Á.

Tướng Lê Minh Đảo tại Stanford

Tướng Lê Minh Đảo tại Stanford

Khôi An

Bài số 3533-16-29933vb5060415

Việt Báo ngày 3 tháng Sáu, tác giả Khôi An viết về Sinh Viên Gốc Việt tại Đại Học Stanford và Đêm Văn Hóa Việt 2015. Phần tiếp sau đây kể về Chiều Tưởng Niệm 30 Tháng Tư tại Stanford và tâm sự 40 năm sau của vị tướng VNCH từng sát cánh cùng đồng đội trong trận chiến sau cùng và trải qua 17 năm tù đầy. Bài được viết với tấm lòng của một phụ huynh “mong tiếp tục có dịp góp phần hướng dẫn để các em nhớ rằng nguồn gốc luôn luôn quan trọng vì nó tạo nên sắc thái độc đáo của mỗi người.”
***

image009
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (đứng giữa ở hàng nhất) với một số người tham dự Buổi Nói Chuyện và Tưởng Nhớ 30/4/2015

Buổi nói chuyện được tổ chức lúc sáu giờ chiều để tiện cho người đi học, đi làm. Vào giờ đó các xa lộ dẫn đến Stanford đều đông xe, nhưng mọi người đã dành thì giờ đi sớm để đến đúng giờ. Khuôn viên trường rộng mênh mông nhưng các em cử người đứng trước tòa nhà Kehillah để đón khách và còn đem cờ Việt Nam và cờ Mỹ thật to ra để ngay trên bãi cỏ gần đường (một cử chỉ thông minh và thật đáng yêu!) Nhờ thế, mọi người tìm ra nơi họp khá dễ dàng.

Buổi lễ năm nay đặc biệt vì mốc bốn mươi năm và sự có mặt của tướng Lê Minh Đảo. Ngoài các em sinh viên còn nhiều người lớn, phần đông là phụ huynh, và vài người Mỹ.

Phòng họp không lớn lắm nên không khí ấm cúng. Ở cuối phòng là một bàn dài với nước uống và thức ăn Việt Nam cho mọi người “nạp năng lượng” trước khi họp. Tuổi trẻ năng nổ, phóng khoáng, và thực tế  – học và làm việc rất hăng nhưng vẫn không quên rằng ăn cũng rất quan trọng! Một chi tiết nhỏ khác làm tôi vui vui là cách ăn mặc trang nhã của các em trong ban tổ chức. Vẻ lịch sự và trang trọng đúng mức cho dịp gặp gỡ vị khách đáng kính trong một ngày buồn của quê mẹ đã nói lên sự hiểu biết và trưởng thành của các em.

Buổi lễ bắt đầu đúng giờ theo chương trình đã soạn sẵn. Như một hình thức không bao giờ thiếu trong mỗi dịp quan trọng, phần đầu tiên là lễ chào cờ Mỹ Việt. Tiếp theo là phút yên lặng tưởng nhớ. Kế đó là một diễn giả trình bày ngắn gọn về cuộc chiến Việt Nam.

Rồi màn hình xuất hiện hình ảnh chiến trường Xuân Lộc đầu tháng Tư, 1975. Những cụm khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tiếng đại bác nổ rền. Lời thuyết minh vang lên: The name Sai gon and the name Xuan Loc has become synonymous with hope and heroism. General Le Minh Dao defies the Communist… (Cái tên Sài gòn và Xuân Lộc đã trở thành đồng nghĩa với hy vọng và sự anh dũng. Tướng Lê Minh Đảo chống cự dũng mãnh trước Cộng quân…)

Trên màn ảnh, vị tướng xuất hiện. Nón sắt trên đầu hắt bóng xuống gương mặt căng thẳng nhưng quyết liệt, ông tuyên bố “Tôi sẽ giữ Long Khánh, dù đối phương đem tới đây hai hay ba sư đoàn”.

Đoạn phim dừng. Người giới thiệu chương trình tiếp lời:

“Đó là hình ảnh của thiếu tướng Lê Minh Đảo bốn mươi năm trước. Gần đây, tôi có xem những hình ảnh khác về ông trên You Tube. Trong một buổi nói chuyện vào tháng 4 năm 2000, ông nhắc đến cái chết của một người lính và ông đã nghẹn ngào. Từ đó, tôi hiểu ra rằng người anh hùng là người không sợ chết cho lý tưởng nhưng cũng không ngại khóc cho đau khổ của người khác. Với ý nghĩ đó, chúng ta hãy cùng chào đón Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.”

Vị tướng tám mươi hai tuổi bước lên trong sự cảm động và tiếng vỗ tay nồng nhiệt của mọi người.

Ông khiêm tốn bắt đầu “Tôi rất vui mừng được gặp gỡ các em sinh viên của Stanford ngày hôm nay …”

Sau phần chào hỏi và nói tóm tắt về cuộc đời của mình, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chia sẻ qua những câu hỏi đã được các em gởi trước. Ông nói tiếng Việt với sự trang trọng, và có hai phụ huynh trực tiếp dịch lời ông ra tiếng Anh.
Câu hỏi của các em trải rộng từ những điều trong lịch sử như “Ông muốn chia sẻ bài học lớn nào về kinh nghiệm của ông trước, trong, và sau cuộc chiến? Thế hệ trẻ nên rút ra bài học gì từ cuộc chiến Việt Nam?” và “Ý nghĩa của trận Xuân Lộc” cho đến thắc mắc trong hiện tại “Chúng con nên nhớ gì về Tháng Tư Đen và tại sao cần phải ghi nhớ?”. Có một câu ngắn gọn và thoáng chút trẻ con như “Ở trong tù, ông sợ nhất là cái gì?”

Thiếu tướng Lê Minh Đảo trả lời với tâm tình của một cấp chỉ huy trong quân đội, của một người sống qua mấy chục năm chinh chiến điêu linh, của một người tù chính trị bị đày mười bảy năm, và của một người Việt tị nạn vẫn hết lòng với quê mẹ. Ông nói rõ kết quả của cuộc chiến Việt Nam là người dân của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam đều thua, kẻ thắng cuộc duy nhất là thế lực Cộng Sản quốc tế. Ông nói về những tai ương chế độ Cộng Sản gây ra cho dân Việt, ông chia sẻ về kinh nghiệm khó khăn khi làm đồng minh với Mỹ, và ông trải lòng về lo lắng trước hiểm họa mất nước nếu chính quyền Việt Nam tiếp tục cúi đầu trước Bắc Kinh mà không đặt sự vẹn toàn lãnh thổ lên trên hết.

Trả lời câu hỏi ông sợ gì khi ở trong tù, ông nói: “Tôi đã từng sẵn sàng chết cho đất nước, vì thế trong tù tôi không sợ gì cả. Hơn nữa, tôi tin ở Thượng Đế và số mạng, điều đó giúp tôi thấy bình an hơn. Tuy nhiên, tôi thường buồn khi nghĩ tới những người lính và sĩ quan đã nghe lời tôi ở lại chiến đấu, và kết quả là họ phải chết lần chết mòn trong tù đày trong khi gia đình họ cũng gánh chịu rất nhiều đau khổ.”
Tuy vậy, ông cũng chia sẻ rằng đồng đội – khi gặp lại sau mười mấy năm tù đày, đã không hề buồn ông. Vì ông đã sát vai với họ, cùng hy sinh với họ đến giờ phút cuối. Bốn mươi năm sau, Xuân Lộc vẫn là niềm tự hào của người dân miền Nam, là câu trả lời trước thế giới, và là một biểu tượng dựng bằng máu và mạng sống cho sức chiến đấu và tinh thần của quân đội miền Nam.
Ông cũng thiết tha nhắn nhủ lớp trẻ bằng tấm lòng của một người cha, người ông. Khi được hỏi “Ông nghĩ tuổi trẻ gốc Việt ở Mỹ nên làm gì để giúp đỡ sự độc lập của Việt Nam?” ông nói to “Trước hết là phải học cho thiệt giỏi” làm các em cười ồ. Bởi vì, dù biết tiếng Việt nhiều hay ít, các em đều hiểu câu nói hết sức quen thuộc đó, câu nói mà từ tấm bé các em đã nghe từ cha mẹ, ông bà. Ông nói tiếp rằng ông tin tưởng nhiều người trong các em sẽ có đủ kiến thức và uy tín để nắm giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền hay quân đội Hoa Kỳ. Ông dặn dò “khi các con đại diện cho Hoa Kỳ trong việc giao thiệp với thế giới, điều đầu tiên là phải giữ lời, đừng phản trắc”. Có thể các em sinh viên còn ngây thơ chưa cảm thấy, nhưng những phụ huynh như tôi thì nghe được chút cay đắng còn bàng bạc trong lời khuyên “đừng phản trắc” của ông. Tôi nghĩ cho dù các em không hiểu được hết nỗi lòng của vị tướng từng bị đồng minh bỏ rơi, lời tâm huyết của ông về cách sống có trước có sau, không vì quyền lợi mà quay lưng với những người chung sức với mình thì mãi mãi là điều đáng ghi nhớ ở mọi lúc, mọi chức vụ, và mọi cảnh đời.

Buổi nói chuyện kéo dài một tiếng rưỡi. Các em lắng nghe và tham gia đặt câu hỏi tới phút cuối, không một chút xao lãng dù trong lúc nghe tiếng Việt hay trong phần dịch ra tiếng Anh.

Kế tiếp hai phụ huynh và người thầy dạy tiếng Việt trong trường Stanford hát tặng các em bài “Nhớ Mẹ” của Tướng Lê Minh Đảo bằng tiếng Việt và tiếng Anh cùng với bài “Có Những Người Anh” để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh xương máu để chiến đấu giữ vững miền Nam hơn hai mươi năm.
image010

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo trong một khoảnh khắc suy nghĩ trước khi trả lời một câu hỏi của sinh viên

Sau đó, đại diện của SVSA lên nói cảm nghĩ và lời cám ơn. Các em chia sẻ kinh nghiệm trong gia đình và tâm tình của những người trẻ lớn lên trên đất nước thanh bình nhưng vẫn thường xuyên nghe về những ký ức đau thương, thuờng xuyên chứng kiến sự phấn đấu cho tới ngày hôm nay của những thế hệ đi trước.

“ …Trong suốt mười tám năm đầu đời, tôi không thể hiểu bằng cách nào cha mẹ tôi có thể trải qua những biến cố kinh hoàng mà vẫn trở thành nguồn thương yêu và nâng đỡ cho chúng tôi hôm nay.

Tuy nhiên, trong vài năm qua khi đi học xa nhà, có lẽ tôi đã trưởng thành, tôi nhận thấy rằng cha mẹ tôi không phải là siêu nhân như tôi từng nghĩ; họ chỉ là con người và họ cũng chảy máu như tôi và quý vị. Họ đã rất khó khăn để hòa hợp nỗi đau mất nước với cơ hội tiến thân tại một nơi xa lạ, đôi khi lạnh lùng. Những kinh nghiệm đau thương đó đã thấm vào cuộc đời của chúng tôi, lặng lẽ tác động lên gia đình chúng tôi như những sợi dây kéo chân tay con rối. Đã đến lúc chúng ta nhận biết những biến cố trong quá khứ đã ảnh hưởng chúng ta ra sao…”

Các em cũng nói lên hiểu biết về trách nhiệm của mình, như lời của Lillian Vũ, đồng hội trưởng SVSA:

“… Không có thuốc nào để chữa lành vết thương mà chỉ có ký ức dẫn dắt chúng ta. Từ những ký ức đó, từ những câu chuyện giữa cha mẹ và những người hướng dẫn tinh thần với con cháu, chúng ta thấy được chúng ta đã đi một bước dài thế nào, và tại sao chúng ta ở đây hôm nay. Chúng ta không thể tránh né những điều làm chúng ta thấy không vui, những điều đòi hỏi chúng ta thương cảm những người mà chúng ta không biết và những điều chúng ta không trải qua. Bằng nhiều cách, chúng ta có trách nhiệm tiếp tục chia sẻ những câu chuyện này và tìm cơ hội để cùng nhìn lại lịch sử, văn hóa, và chính con người chúng ta. Với những cách đó, chúng ta, là một cộng đồng, sẽ lớn mạnh hơn và bước tới. “

image011
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đội mũ có tên trường Stanford do các em kính tặng. Chụp với một số em trong Ban Chấp Hành của SVSA

Cuối lễ là phần thắp nến. Đứng sát vai nhau trong cái mang mang lạnh của buổi tối mùa Xuân, ba thế hệ gốc Việt cùng tưởng nhớ hơn ba triệu người Việt ở cả hai miền cùng sáu mươi lăm ngàn lính Mỹ và đồng minh đã chết trong cuộc chiến, và những người đã gục ngã trong tù đày hay trên đường đi tìm tự do. Chúng tôi cũng cảm tạ ơn trên đã ban cho sức khỏe và sự may mắn để đứng bên nhau hôm nay, và cùng cầu nguyện cho sự tồn tại và ấm no của Việt Nam.

Sau đó, mọi người xếp nến thành số 40. Gió đêm nhè nhẹ thổi làm những ngọn nến lập lòe, và mọi người quyến luyến đứng nhìn, chưa muốn chia tay. Dù vui vì được cùng lớp trẻ làm việc có ý nghĩa, con số bốn mươi lại làm tôi nhớ rằng thời gian đi quá nhanh và không khỏi ngậm ngùi.

image013

Những ngọn nến được xếp thành số 40 để tưởng niệm bốn mươi năm mất miền Nam

*

Nếu Đêm Văn Hóa 2015 đem cho tôi xúc động và hy vọng vào lớp trẻ gốc Việt ở Stanford thì những gì diễn ra ngày 30 tháng Tư, 2015 đã cho tôi thấy sự hiểu biết của các em và nâng niềm hy vọng của tôi thành tin tưởng.

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cũng đồng ý với tôi. Ông lập lại mấy lần rằng sau khi gặp gỡ các em, ông vui mừng vì những suy nghĩ và kỳ vọng của ông vào thế hệ trẻ là không sai, và công sức của ông đi gặp gỡ và chia sẻ kinh nghiệm trong bao năm nay là có ý nghĩa.

Trước khi ra sân bay về lại Connecticut, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cho tôi xem vật mà ông thích nhất trong chuyến đi sang miền Tây Hoa Kỳ năm nay. Đó là tấm thiệp cám ơn của hội SVSA được viết tay bằng tiếng Việt.

Tấm thiệp mở đầu bằng “Chúng con xin trân thành cám ơn ông … “

Tôi và ông đều cười và trìu mến nhận xét rằng lỗi chính tả trong chữ “chân thành” làm cho tấm thiệp thêm đặc biệt, càng làm cho kỷ niệm thêm khó quên.

Tấm thiệp giống như hình ảnh của các em: trong sáng và có tấm lòng hướng về quê hương rất đáng quý, chỉ cần thêm một chút hướng dẫn. Và nhiệm vụ hướng dẫn đó được trông cậy vào thế hệ một – của ông, và một rưỡi – của chúng tôi.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng luôn nhớ rằng lời khuyên sẽ thấm thía nhất khi gần gũi với thực tế. Trong mọi chia sẻ, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo luôn xác định rằng ông hiểu các em là công dân Hoa Kỳ. Ông mong các em hết lòng xây dựng cuộc sống tốt đẹp, vun đắp sức mạnh và uy tín của chính mình và của cộng đồng Việt trên quê hương mới. Bên cạnh đó, cũng đừng quên Việt Nam, nơi đã góp bốn ngàn năm văn hiến cho tâm hồn các em hôm nay.

Ông tin tưởng mạnh mẽ rằng các em sẽ trở thành những người có ảnh hưởng trong chính sách của Hoa Kỳ, và lúc đó, ông mong các em nhớ bài học Tháng Tư Đen để làm những điều tử tế, tốt đẹp cho Việt Nam – nói riêng, và các nước nhỏ – nói chung. Đó cũng là chính sách ngoại giao hữu hiệu nhất để vun đắp uy tín của Hoa Kỳ và củng cố niềm tin tưởng của thế giới đối với đất nước này.

Tôi đồng ý với ông.

Vì thế, tôi mong tiếp tục có dịp để góp phần hướng dẫn để các em nhớ rằng nguồn gốc luôn luôn quan trọng vì nó tạo nên sắc thái độc đáo của mỗi người. Khi hiểu rõ nguồn gốc các em sẽ có thêm sức mạnh để vươn lên.

Tôi hy vọng rằng các thế hệ sau luôn nhớ đất nước Việt Nam nhỏ bé, gầy guộc, nhưng nằm tại một vị trí vô cùng quan trọng ở bờ Thái Bình Dương. Đất nước đó đứng mũi chịu sào cho cả bán đảo Đông Dương. Đất nước đó thường xuyên bị dùng làm trái độn trong tranh chấp giữa những quyền lực to lớn trên thế giới.

Mai này, khi có cơ hội, mong các em hết lòng làm điều tốt nhất cho sự tồn tại của Việt Nam, để người dân Việt không còn bị đàn áp, dày vò. Vì trong suốt lịch sự cận đại của Việt Nam, họ đã chịu quá nhiều đau khổ. Và, dù chiến tranh đã chấm dứt bốn mươi năm, cho tới nay, nước Việt và người dân Việt vẫn không ngừng chảy máu.

Khôi An

Báo VN hiểu chưa kỹ thông điệp Mỹ?

Báo VN hiểu chưa kỹ thông điệp Mỹ?

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

Trong chuyến thăm đến Việt Nam tuần này của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, tiến sỹ Ashton Carter, báo chí Việt Nam đồng loạt chạy tít rằng ông Carter “trao kỷ vật đặc biệt cho Bộ trưởng Phùng Quang Thanh” của Việt Nam.

Đó là cuốn nhật ký và thắt lưng của một chiến sỹ bộ đội cộng sản.

Trên trang Facebook của mình, ông Carter viết nguyên văn hôm 2/6:

“Hôm nay, tôi đã hồi hương một số di vật chiến tranh gồm cả cuốn nhật ký của một bộ đội Việt Nam cho Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam.” (Today I repatriated several war artifacts including a diary from a Vietnamese soldier to the Vietnamese MOD).

Ông Carter không hề nói rằng đây là một thứ quà tặng, kỷ vật đặc biệt và cách đặt tựa câu khách của một số tờ báo làm mất đi sự tôn trọng và ý nhị trong cử chỉ của ông.

Bộ Quốc phòng Việt Nam cho hay họ sẽ phân công người tìm lại đúng xem các di vật đó của gia đình ai để trao trả.

Là quan chức dân sự, ông Ashton Carter không chào mà đặt tay lên trái tim, gửi thông điệp qua cách biểu hiện tình cảm trân trọng cao nhất của người Mỹ tới tất cả các chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam chứ không chỉ cho Bộ trưởng Thanh.

Việc trả hai các hiện vật từ thời chiến tranh thực ra không mới vì nhiều cựu binh Mỹ đã làm tương tự như bay về Việt Nam trả nhật ký, mũ của bộ đội Bắc Việt hy sinh nhưng vẫn đầy tính biểu tượng vì đến từ một bộ trưởng Hoa Kỳ.

Sinh năm 1952, ông Carter là Bộ trưởng Quốc phòng thứ 25 của nước Mỹ nhưng xuất thân trí thức, với các bằng cấp, nghiên cứu tại Oxford (học bổng Rhodes khóa 1976), và các trường hàng đầu của Mỹ, từ Harvard, Stanford tới Yale.

Ông Carter là một trí thức lỗi lạc trong nhiều lĩnh vực của Hoa Kỳ

Là giáo sư đại học và tác giả của 11 cuốn sách và hơn 100 bài nghiên cứu vật lý, công nghệ, an ninh và giáo dục quản trị, ông còn tham chính và phụ trách hậu cần và quân trang của Ngũ Giác Đài từ 2009 đến 2011.

Ngoài ra, chính ông đã giám sát chương trình đưa vũ khí nguyên tử khỏi Belarus, Kazakhstan và Ukraine sau khi Liên Xô sụp đổ.

Gần đây, ông tập trung nghiên cứu về chiến lược quân sự của Trung Quốc ở châu Á và là người cổ vũ cho chính sách xoay trục về quân sự của Hoa Kỳ sang các vùng biển Thái Bình Dương.

Cử một nhân vật khoa bảng và có tầm nhìn như thế sang Việt Nam, Hoa Kỳ hẳn đặt nhiều kỳ vọng vào chuyến đi.

Gọi chiếc thắt lưng và cuốn nhật ký là ‘artifact’ (di vật, cổ vật), hẳn ông Carter muốn nhấn mạnh hai bên nên khép lại quá khứ.

Ông cũng cảm ơn phía Việt Nam giúp cho công tác tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ, việc đã diễn ra từ thời Clinton.

Tức là ông tế nhị nhắc đến mất mát của cả hai và bày tỏ mong muốn quan hệ Mỹ – Việt bước vào một giai đoạn mới.

Bang giao Hoa Kỳ – Việt Nam đang bước vào một giai đoạn quan trọng mang tính bước ngoặt nên các hoạt động ngoại giao hai bên được dư luận hai nước và quốc tế đặc biệt chú ý.

Những cử chỉ, biểu tượng sai hay đúng như cờ sáu sao, lễ kỷ niệm Thế chiến tại Quảng trường Đỏ, bình Trung Hoa, bức ảnh ông John McCain bên Hồ Tây…đều tạo ra các bình luận nhiều chiều về quan hệ của Việt Nam với các nước khác.

Cần thêm ngôn ngữ cử chỉ

Lịch sử ngành ngoại giao quốc tế cũng không thiếu những điều có thực hoặc ‘truyền kỳ’ mà ý nghĩa chỉ lộ ra sau nhiều thập niên.

Cuộc gặp Nixon – Mao năm 1972 quyết định cả chiến tranh Việt Nam

Quan hệ Trung – Xô xuống dốc thảm hại sau khi Mao Trạch Đông coi mình là ‘Mặt trời Phương Đông’ ngạo nghễ ngồi bên bể bơi mặc quần đùi để đón Nikita Khrushchev ở Bắc Kinh năm 1958.

Năm 1971, cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger đến gặp lần đầu với ông Mao không ở Đại lễ đường Nhân dân lúc ban ngày mà vào một buổi tối, trong căn phòng tối om, nồng mùi thuốc lá.

Không khí của các chuyến đi Kissinger bí mật thực hiện để dàn xếp cho chuyến thăm năm 1972 của Richard Nixon, người sau cũng mất chức tổng thống Mỹ vì nghe lén, đã cho thấy trước hai nước này làm gì ở châu Á, cả trong chiến tranh Việt Nam sau đó.

Ngược lại, chỉ một động tác quỳ gối trước tượng đài nạn nhân Do Thái ở Warsaw của Thủ tướng Tây Đức, Willy Brandt năm 1970 khiến mọi đau đớn thời chiến, các tranh cãi biên giới của người Ba Lan với hai nước Đức được hóa giải.

Các lãnh đạo Việt Nam vì thế cần chú tâm hơn đến các động tác mang tính biểu tượng, nhất là khi đứng trước những vấn đề có tranh cãi bằng lời mất nhiều năm cũng không xong.

Cùng lúc, báo chí rất nên chú ý chuyển tải chính xác, cả tinh thần và nội dung những hoạt động của các chính khách, đặc biệt là trong quan hệ Mỹ – Việt vốn còn đang cần rất nhiều nỗ lực hòa giải, vun đắp nếu hai bên thực sự cùng muốn điều đó.

CÁM ƠN … TICKET

CÁM ƠN … TICKET

Tác giả: Hoàng Thị Đáo Tiệp

Sang Hoa Kỳ tôi có được bằng lái xe đã gần hai mươi năm. Trong suốt quãng thời gian nầy dù nhiều lúc tôi lái xe cũng “ba trợn” lắm, nhưng chưa bao giờ bị “ticket” trừ một lần mới đây: vào buổi trưa ngày 4 tháng 10 năm 2007.

Bị “ticket”, đương nhiên việc trước mắt là phải mất thời giờ chờ cảnh sát lập biên bản để trao cho giấy biên nhận tạm. Sau đó còn phải tốn tiền: nào tiền nộp phạt, tiền đóng học phí. Lại còn tốn thêm thời giờ đi học để được “clear” bằng lái (phải 8 giờ tức trọn một ngày nếu đi học ở trường, hay ít lắm cũng 5 giờ nếu được chấp thuận cho làm bài trên “net”…). Thành thử nói chung bị “ticket” quả là một chuyện rủi ro nếu không muốn nói rằng… xui xẻo cho mình phải tốn hao cả thời giờ lẫn tiền bạc!

Thế nhưng, đã có lời dạy “Trong mọi việc hãy cảm tạ Chúa, vì đó là Thánh Ý Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (1TX 5:18). Bởi có ngờ đâu chỉ hơn một tháng sau, tôi được vị linh mục Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút gửi cho tờ thông báo về “Chủ Đề Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ Năm 2008” mà số báo tháng 1/2008: “Giáo Huấn Công Giáo Về Lái Xe”. Cho nên tôi nhìn lại, tâm phục khẩu phục nhận ra chuyện mình bị “ticket” tưởng rằng xui xẻo ấy, nhưng quả là hồng ân Chúa ban để mình có được cái ý đúng với chủ đề của báo Mẹ, mà hầu chuyện cùng quý bạn đọc: mới thật hạnh phúc thay!

Câu chuyện tôi bị “ticket” thì như thế nầy…

… Bà bác sĩ của tôi vẫn hay bảo tôi: “Ở tuổi năm mươi hãy nên đi soi ruột” vì thấy tôi đã năm mấy vẫn chưa chịu đi! Ngại bà cứ nhắc mãi, thêm chồng con cũng đốc vào và nhiều bạn đều khuyên là phải nên… Tôi mới xin làm hẹn để sáng sớm ngày 4/10/2007 đi bệnh viện soi ruột.

Thật ra tôi vẫn đinh ninh đường ruột mình đâu có vấn đề chi. Tuy nhiên vì được đốc thúc đi và đã quyết định, rồi vì có nghe câu chuyện người nầy người nọ kể… làm tôi cũng đâm lo! Tôi cứ cầu nguyện suốt và dâng ngày 4/10/2007 cho CÁC ĐẤNG YÊU MÌNH gìn giữ chở che mình được “hồn an xác mạnh”. Thì quả đúng như lòng mong ước! Vừa soi ruột xong, tôi cũng lập tức được biết kết quả đường ruột mình hoàn toàn tốt và mười năm sau nữa, mới phải cần đi soi lại…

Tôi sung sướng phóng xe về. Bụng đói (vì đã nhịn ăn từ chiều hôm trước), lại có nấu săün “soup” loảng để ở nhà nên tôi về thẳng nhà trước. Tôi chỉ định tạt vào húp qua chén “soup” lót dạ là quay lập tức trở ra nhà thờ để tạ ơn CÁC ĐẤNG YÊU MÌNH và “ở chơi” lại đấy lâu lâu, chớ nếu ghé nhà thờ trước thì bụng đang đói đâu thể ở lâu (thật ra tôi không “tham ăn” đến độ! Nhưng, do đây là quãng thời gian mà sức khỏe tôi còn đang suy sụp vì mới trải qua ca mổ, thêm bác sĩ muốn truy tìm xem tôi có bệnh chi nữa để trị luôn)… Và vì đi ra nhà thờ định ở lâu lâu nên tôi cũng “quơ” luôn theo nào Kinh Thánh, Sách Kinh… Nhưng, vừa mới phóng xe ra khỏi cái “stop sign” đầu tiên (khu nhà tôi ở có nhiều con đường nhỏ nên tại ngã ba, ngã tư các con đường nhỏ nâày, hay có “stop sign”, chớ tuyệt đối không có “stop light” như với các con đường lớn), tôi vụt lo có thể vì vội đi, mình quên bấm khóa cửa “garage” chăng? Thành ra tôi quay xe lại để xem.

Đã đang giữa buổi trưa, lại ở sâu trong khu nhà yên tịnh với những con đường nhỏ vắng vẻ và nhìn trước nhìn sau không thấy có một chiếc xe nào chạy trên đường… tôi liền “quẹo” một “ cú” ngay giữa đường! Không phải “quẹo” vòng chữ “U” vì đường đâu đủ lớn, mà quẹo theo kiểu “lủi” đầu xe “đâm” vô lề phải, rồi “lùi” ra ngay giữa đường để “de” cái “đít” xe tuốt qua lề trái và “ngon trớn” thì phóng luôn qua “stop sign”. Tôi hoàn toàn chẳng có bị cản trở chi với một chiếc xe nào hay với một ai hết (vì chỉ có mỗi mình tôi đang chạy xe trên đường). Nhìn thấy cửa “garage” nhà mình đã có bấm khóa đâu đó và bụng muốn nhanh, lại sẵn đường đang vắng nên tôi cũng định “de” lui lại theo lối đâm ngang vô lề để vòng ra… thì hởi ơi tôi nghe đằng sau có tiếng còi và nhìn vào kính chiếu hậu: “rụng rời” thấy xe cảnh sát!!!

Tha hồ cho tôi năn nỉ nào mới đi bệnh viện để soi ruột về (chứng cớ là các giấy tờ hãy còn vứt trên ghế xe với vẻ yếu mệt của tôi), nên chỉ muốn tạt qua nhà húp vội tí “soup”, rồi lo quay vô nhà thờ tạ ơn Chúa, Mẹ, Thánh Cả… (và chứng cớ là những cuốn Kinh Sách, xâu chuỗi…) mà thành ra sợ mình vội, quên đóng cửa “garage”, với muốn cho nhanh, ỷ y đường vắng vẻ… Hai người cảnh sát một nam một nữ vẫn cứ hỏi tới các giấy tờ, buộc tôi phải trình ra, để biên giấy phạt! Tôi không muốn nhận tờ giấy phạt nên tiếp tục năn nỉ để mong được… thương tình nhưng lại bị nghe bảo là phải chọn một trong hai: hoặc nhận giấy phạt hoặc chịu còng tay! Tôi đành phải nhận tấm giấy cho đôi tay được thong thả hơn là để bị “đeo đồng hồ số 8”…! Rồi tôi vẫn phóng xe đến nhà thờ. Nhưng, thay vì với tâm tình sung sướng tạ ơn như đã định, tôi lại bị chuyện “ticket” làm cho mình không khỏi không thắc mắc: tại sao CÁC ĐẤNG YÊU MÌNH lại để cho mình phải gặp chuyện xui xẻo đúng vào ngày mình đã thiết tha cầu nguyện được “hồn an xác mạnh”? (vì xưa nay tôi đâu có bao giờ “quẹo” như thế! Chỉ duy nhất hôm nay đã muốn nhanh lại sẵn đường vắng vẻ… với “mắc mớ” gì “dở chứng” lo lẩm cẩm cái chuyện quên bấm khóa cửa “garage”…). Lại là chuyện xui xẻo để phải bị tốn hao tiền bạc trong khi CÁC ĐẤNG YÊU MÌNH biết là mình đang kẹt tiền nhưng vẫn ấp ủ bao việc phúc thiện muốn làm? Bởi đây cũng là lúc mà bên quê hương nhất là vùng miền Trung đang bị bão lụt và tôi đã có ý định: sau khi soi ruột được bình an thì sẽ “vét túi” hướng về an ủi. Bị “ticket”, tôi phải dành tiền ấy lại để đóng phạt, thêm tốn thời giờ cả ngày đi học thay vì ngày ấy để đi làm có tiền… thì tiền đâu để hướng về an ủi đây?… Và nói chung thắc mắc thì thắc mắc, tôi vẫn vững vàng tin tưởng CÁC ĐẤNG YÊU MÌNH cho chuyện xui xẻo nầy xảy ra ắt phải có ích lợi chi đấy cho tôi, dù trước mắt tôi chưa được hiểu.

Về nhà, tôi muốn gọi ông xã để báo tin… buồn (chớ tin vui thì đã báo lúc vừa soi ruột xong) nhưng ngại anh sẽ cao giọng: “Thấy chưa, nói có sai đâu! Đã bảo bị “thộp” có ngày”! Chả vì mỗi khi tôi lái xe, anh ngồi bên cạnh hay “càm ràm” việc tôi chẳng quan tâm ngừng đủ ở các “stop sign” (chớ lái kiểu “đâm” với “de” giữa đường như đã kể là tuyệt đối không có, chỉ duy nhất hôm nay). Tôi đã chẳng chịu nghe, còn nhắc việc anh nào bị “ticket”, bị tông xe “hà rầm” nên hãy lo cho anh chớ đừng lo cho tôi vì tôi chưa bị lỗi phạt bao giờ… Ngại nói với chồng, tôi mới gọi cho con để mong tìm sự thông cảm, mà con lại bảo:

– Con mừng là ông trời có mắt! Vì con đinh ninh mẹ phải bị phạt suốt từ bao lâu rồi, ở việc vượt “stop sign”.

Thành thử tôi… im luôn, không gọi báo chi nữa với mấy đứa con khác.

Nhưng, chỉ mấy phút sau đó thì tôi được chị bạn gọi thăm (vì cũng tích cực cầu nguyện cho tôi đi soi ruột được bình an). Tôi mới trút bầu tâm sự về nỗi thắc mắc của mình. Chị lý giải:

– Mọi chuyện xui xẻo, hoạn nạn hay các việc không may, không như ý xảy đến với mình, cũng là cái cách của Chúa muốn thử thách sự tín trung, sự nhiệt thành của mình thôi. Cho nên hãy mừng được Chúa thử thách và hãy chớ lùi bước trước việc thiện muốn làm thì Chúa sẽ đổ muôn ơn.

(Tôi cám ơn sự lý giải của chị. Tuy nhiên thấy khó chấp nhận việc chị bảo là Chúa “thử thách”. Tôi vững tin Chúa yêu mình, như cha mẹ yêu con đâu muốn thử thách con chi cho con phải lo buồn, sầu khổ, tốn hao…)

Tối đến, thêm một chị bạn (cũng có cầu cho việc tôi đi soi ruột) gọi thăm. Vừa nghe tôi báo tin… buồn là chị reo lên:

– Ôi lạy tạ ơn Chúa! Nếu không nhờ đã thiết tha cầu nguyện cho ngày 4/10/2007 bà được “hồn an xác mạnh” thì rất có thể bà đã bị nạn “chết tươi” trong việc quẹo ẩu đó rồi!

A! Đây là ý kiến phải nói “mở con mắt” cho tôi! Vì thú thật chưa bao giờ tôi nghĩ rằng có chuyện chết người quanh việc vượt “stop sign” nhỏ nhặt ấy! Bởi với tôi, mấy cái “stop sign” với những con đường nhỏ yên vắng… quanh khu nhà mình: không bao giờ có thể làm chi… lớn chuyện!

Tôi tỏ nỗi ngạc nhiên và được chị kể cho nghe câu chuyện. Chuyện về chú em út của chồng chị cách đây gần hai mươi năm. Chú chở cô bồ trên xe, mãi trò chuyện quên mất “stop sign” nên phóng luôn qua trong khi chiếc xe truck thì đang lao đến! Đâu xe nào thắng kịp! Mà xe chú lại nhỏ nên bị xe truck “nuốt chững” cái đầu! Cô bồ chú chết tức tưởi, còn chú thì mang thương tật suốt đời: là một phế nhân với chẳng vợ con!

Ôi! Có được chị bạn bảo cho biết và dẫn chứng cụ thể… tôi mới “hết hồn” nhận ra tầm quan trọng của vấn đề, mà mình thì quá ỷ y! Thảo nào trước vẻ yếu mệt của tôi kèm với bao nhiêu lời năn nỉ mà cả hai người cảnh sát vẫn chẳng mảy may động lòng thương! Bởi tôi lái xe như vậy: đã chẳng khác nào tự sát cho mình còn làm hại lây người khác! Cái tội ấy, giá như tôi có bị còng tay ngay giữa “hiện trường” cũng là đáng lắm! Ôi! Bây giờ tôi mới hiểu hết ý nghĩa của việc hai người cảnh sát lạnh lùng bảo hoặc nhận giấy phạt, hoặc chịu còng tay… Và hiểu ra để chỉ còn mỗi một điều là tạ ơn Chúa! Tạ ơn thôi, chớ tuyệt đối không dám thắc mắc nữa!

Thời gian chờ đợi giấy phạt sẽ được gửi theo đường bưu điện đến nhà, cũng là thời gian tôi còn phải tới lui bệnh viện. Thì một hôm, đang đi trên lối đi trong bệnh viện, tôi thấy bà Mỹ nọ dìu cô con gái đang tuổi xuân mà dù bước đi hay đứng lại, tay chân cô như bị co giật bất thường nên thấy chạnh lòng sao! Trong câu chuyện, bà cho biết không phải mẹ cô gái mà là người hàng xóm. Cô vui chơi với bạn và lao ra đường nhặt quả bóng! Nhà cô lại ở sát bên cái “stop sign” mà bà thì vô ý vượt “stop sign” nên vô tình đâm vào cô. Cô chỉ có té ra thôi! Nhưng, bị chạm thần kinh sao đấy! Bà hay tình nguyện đưa giúp cô đi bác sĩ và luôn cầu xin cho cô sớm được chữa lành! Chớ không, cái “hệ lụy” bà làm tàn phế đời cô sẽ giết bà chết dần chết mòn trong ân hận…

Thú thật, nếu tôi mà trót lỡ như bà, chắc chắn đời tôi cũng sẽ sống trong nỗi chết vì ân hận đã tàn phá đời của người khác, dù rằng mình hoàn toàn vô tình! Đấy, như tôi, nếu không xảy việc vượt “stop sign” bị phạt, tôi vẫn hãy còn “bé cái nhầm” với “ngu ngơ” nhiều nỗi lắm, quanh vấn đề lái xe! Thậm chí có khi thấy xe cảnh sát nằm khuất vào con đường nhỏ như để “rình” xe vượt “stop sign” thì tôi hay có cái nhìn không thiện cảm vì cho rằng để “moi túi” người ta đóng phạt thôi! Giờ thì thấy xe cảnh sát “rình” là tôi thật biết ơn! Có như vậy, để mọi người biết sợ, biết chừa không dám vượt ẩu “stop sign” thì sẽ đỡ gây tai nạn và gieo hệ lụy làm khổ đời nhau.

Chúa dạy “Hãy yêu thương nhau” (Gioan 13, 34) và Giáo Hội dạy “Chớ giết người”. Để tỏ lòng yêu kính và quyết tâm thực hành lời dạy bảo của Chúa, của Giáo Hội tôi nghĩ kể từ nay mình hãy nên nghiêm chỉnh chấp hành thật cẩn trọng từng điều lệ một, của luật lái xe an toàn vậy. Vì có cẩn trọng chấp hành, mình mới không hại mình hại người để phải làm lỗi luật yêu thương hoặc phải gây nên tội giết người…

Tác giả: Hoàng Thị Đáo Tiệp

CÓ MỘT LỄ TẠ ƠN NHƯ THẾ

CÓ MỘT LỄ TẠ ƠN NHƯ THẾ

Cuộc đời mỗi người, có những mốc mà ta dừng lại để mừng, để tạ ơn nhân dịp mừng kỷ niệm đó, biến cố đó trong đời.

Sống đời hôn nhân, để đánh dấu giai đoạn chung sống 10, 25, 50 năm … nhiều gia đình, con cháu đã tổ chức những lễ tạ ơn mừng kỷ niệm cho cha mẹ mình thật hoành tráng. Đời tu, đờ tận hiến cũng thế. Khó để mà có được những dấu mốc kỷ niệm 25, 50 năm mừng … để rồi phải nói rằng được như thế lại càng có lý do để mừng hơn.

Thế nhưng, mừng kỷ niệm, mừng dấu ấn đó như thế nào lại là chuyện khác.

Thật giật mình khi vừa mới đến dự Thánh Lễ tạ ơn 25 năm linh mục của hai cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích và Phan Đức Hiệp – Dòng Chúa Cứu Thế hôm nay.

Trong mối thân tình, Cha Giuse Ngọc Bích mời tôi. Tưởng nghĩ sau Lễ sẽ có “lạc” như bao nhiêu dịp mừng khác nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ. Bất ngờ vì lẽ sau Lễ chỉ là ly nước trà với những mẫu chuyện tình thân chứ hoàn toàn không tiệc tùng, bia bọt như bao nơi mừng khác.

Cũng dễ hiểu bởi trong Thánh Lễ tạ ơn, cộng đoàn dân Chúa, có cả tôi được nghe kể về cuộc đời của những linh mục vào cái thời thập niên 90 đó.

Không cần phải nói nhiều, những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt là dấu ấn về một cuộc sống quá khó khăn trên những ai đã một thời sống trong giai đoạn đó.

Giai đoạn này, tu thì chỉ biết tu chứ không hề nghĩ đến ngày lãnh sứ vụ linh mục.

2 cha Giuse mừng kỷ niệm 25 năm nay chắc có lẽ cũng mang trong mình cảm nghĩ, kinh nghiệm, kỷ niệm như những cha lãnh sứ vụ linh mục cùng thời như thế này. Thời đó, các cha chỉ lãnh sự vụ một cách âm thầm chứ không hề công khai như bây giờ. Có những cha dù con mình được làm cha đó nhưng ông bà cố hoàn toàn không biết do hoàn cảnh không cho phép.

Sau những ngày tháng đó, mỗi người một nơi, mỗi người một việc để tìm kế sinh nhai chứ không còn được ở dưới mái trường đào tạo êm ấm như trước nữa. Thầy thì đi làm thuê, thầy thì đi dạy học để kiếm sống … trong đó, thầy Giuse Nguyễn Ngọc Bích lại “ôm” chiếc xích lô đầy kỷ niệm trong 5 năm trời ròng rã.

Có lẽ chính cái nghèo, cái khó khăn của thời đó đã đi vào tận xương tủy của các cha nên các cha khó quên cũng như sẽ diễn tả cung cách nghèo đó trong đời sống tu trì của mình. Chính vì thế, hai cha Giuse ngày hôm nay cùng nhau đi đến quyết định là không tổ chức “lạc” sau Thánh Lễ như bao Thánh Lễ tạ ơn khác.

Được biết, cũng gần đây, một số Thánh Lễ tạ ơn dấu ấn của đời linh mục được tổ chức không phải 1, 2 nơi mà là đến 5 nơi với số lượng bàn tiệc nghe xong … chóng mặt. Cha đã đánh dấu kỷ niệm đời linh mục của mình bằng nhiều bàn tiệc, nhiều nơi thật hoành tráng.

Cha mở tiệc mừng nhiều bàn và nhiều nơi theo tôi tưởng nghĩ cũng chẳng sai bởi lẽ đó là quyền của cha. Thế nhưng, xét trong cung cách của nhà tu, đứng ở góc cạnh của đời tu trì ta nên chăng nhìn lại cung cách tổ chức đó.

Hẳn nhiên, theo tôi nghĩ chẳng ai trách là sau Lễ mà không có “lạc”. Có chăng là trách là tại sao sau Lễ mà “lạc” lại nhiều quá ! “Lạc” nhiều kèm theo những hệ quả của nó là giáo dân phải đóng góp hay lại nhờ cậy vào sự giúp đỡ nào đó của những đại gia.

Trong cuộc sống, dĩ nhiên, ai cũng có quyền nhưng giữa cuộc sống bôn ba khó sống như bây giờ ta nên nhìn lại cách tổ chức “lạc” sau lễ tạ ơn như thế nào cho phù hợp với cung cách sống của ta. Có cần thiết phải yến tiệc linh đình trong khi nhiều mảng đời nghèo đói bên cạnh ta không đủ sống. Xung quanh ta vẫn còn biết bao nhiêu trái tim lỗi nhịp đập cần chỉnh sửa, bao nhiêu đôi mắt cần sáng nhờ sự chia sẻ của ta ? Bao nhiêu mái nhà rách nát đang cần ta chung tay xây sửa ?

Vẫn là quyền tự do lựa chọn của mỗi người, nhưng tôi vẫn thầm nghĩ rằng càng khiêm tốn, càng nhẹ nhàng bao nhiêu thì lòng càng thanh thản biết bao nhiêu.

Tham dự Thánh Lễ tạ ơn Ngân Khánh Linh Mục của 2 cha Giuse ngày hôm nay xong, tôi cảm thấy vui vì được chia sẻ, cảm nghiệm nghèo của đời linh mục của hai cha bằng ly nước trà đượm tình thắm thiết.

Vẫn mong có những Thánh lễ tạ ơn nhẹ nhàng và giản đơn như thế để nói lên tiếng nói, nói lên cung cách sống nghèo của Giáo Hội giữa cuộc đời mà người ta vẫn chạy theo phú quý giàu sang.

Mic Thanh Châu

Tác giả: Mic Thanh Châu

Nỗi Buồn Duy Nhất

Nỗi Buồn Duy Nhất

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Một đảng, một nhà nước kỳ lạ. Đánh người toàn bằng đánh trộm, thụi ngầm và phi tang.

Nguyên Ngọc

Thấy tôi đã bắt đầu có vẻ chán Thái Lan, Mặc Lâm gạ gẫm:

  • Muốn chạy qua Lào chơi chút xíu không?

Tôi còn đang ngần ngừ thì Anh Vũ đã sốt sắn bàn … vô:

  • Trước khi qua Lào, phải ghé tỉnh Nakhon Phanom. Ở đây có quán tiết canh và súp đuôi bò ngon lắm.

Thế là ba thằng hăm hở (hớn hở) và hùng hổ đi ngay. Sau 12 tiếng đồng hồ gà gật trên xe, chúng tôi đến nơi khi cả thành phố này vẫn còn đang ngái ngủ. Hotel Viewkong nằm sát cạnh bờ của Cửu Long Giang, nơi dòng chẩy là biên giới thiên nhiên giữa hai nước Thái/ Lào.

Đứng trên ban công khách sạn có thể nghe được tiếng gà rộn rã, vang vọng từ bên kia sông. Xa xa là dẫy Trường Sơn lô nhô, cao ngất, in đậm dáng dị kỳ giữa nền trời vừa (mới) lờ mờ sáng.

Trường Sơn nhìn từ đất Thái. Ảnh: Mặc Lâm

Cảnh đẹp như một bức tranh làm nao lòng lữ khách nhưng tôi không được ngắm nhìn lâu vì thái độ  “nóng như hơ” của hai ông bạn đồng hành. Tắm rửa xong là họ giục giã vù ngay ra quán. Cứ y như thể là tiết canh phải được thưởng thức trước khi mặt trời mọc thì mới còn nguyên hương vị.

Chủ quán không phiền hà gì ráo khi bị gõ cửa vào sáng tinh mơ. Đã thế, ông và mấy cô con gái còn tỏ ra vô cùng thích thú khi biết khách đã vượt gần ngàn cây số đến đây chỉ vì món ăn danh tiếng của gia đình mình. Nhanh như tép, chỉ năm mười lăm phút sau họ đã dọn ra ba bát tiết canh heo (cùng đĩa lòng lợn) và một rổ rau mùi xanh ngăn ngắt.

Khác với đám rau thơm đoảng vị ở California, ngò gai Nakhon Phanom lá dầy – xanh thẫm, nhỏ nhắn, xinh sắn – và “gai” đến độ có thể làm đứt lưỡi luôn. Ngò rí thì xanh rì, ngắn ngủn, loắt choắt chỉ bằng độ cây tăm. Răm, húng quế, húng nhũi, húng cây, kinh giới, tía tô … đều bé tí ti và thơm sực nức.

Vắt mấy giọt chanh vào nửa thìa tiết, ngắt thêm nửa lá ngò gai, vài cọng ngò rí, hai ba lá húng cây húng quế… rồi bỏ tất tần tật vào mồm. Chưa nhai mà đã cảm thấy như có cả một dòng suối nhỏ – dòng suối máu huyết của quê hương – len lách qua từng kẽ răng, rồi chầm chậm thấm đậm vào hàng tỉ tế bào (khô héo) của một kẻ chung thân viễn xứ.

Cả ba chúng tôi đều chết lặng!

Đ…mẹ, nó ngon hết biết luôn, và ngon chưa từng thấy. Ngon như thể là trên đời này không còn có thứ gì ngon hơn được nữa.

Qua bát thứ hai tôi mới nhớ đến nửa chai Johnnie Walker Double Black Label vẫn còn nằm ngủ ngoan trong sắc tay. Tôi ực hai ly rồi ngưng nhưng Mặc Lâm kèo nài:

  • Thêm một ly nữa nha.
  • Thôi đủ rồi cha. Tui theo chế độ “lưỡng đảng” nên uống cả rượu lẫn bia. Để dạ uống vài lon bia Lào coi nó ra sao chớ.
  • Nhưng bữa nay phải uống ly nữa để mừng Trương Duy nhất vừa mới ra tù.

Ồ, đúng vậy! Thế là chúng tôi lại cạn mấy ly đầy, rồi đầy mấy ly cạn, và tiếp tục cạn mấy ly đầy cho đến khi trong chai chả còn còn một giọt rượu nào mới “chuyển” qua bia. Bạn có thể than phiền hàng trăm chuyện về nước Lào, cũng như nước Thái nhưng bia bốc của cả hai quốc gia này thì thiệt là không có gì để mà phải phàn nàn.

Thành phố Thakkek, Lào. Ảnh: Mặc Lâm

Tôi có cái tật xấu là “rượu vào lời ra,” và uống càng nhiều thì nói năng càng … nhạt nhẽo, và vô vị:

  • Không biết sau vụ này rồi Trương Duy Nhất còn tiếp tục viết nữa không ta?

Anh Vũ ngó bộ bất bình thấy rõ vì câu hỏi vô duyên và lảng xẹt của tôi nên nên hơi sẵng giọng:

  • Sao không?  Em đố anh tìm được một nhân vật bất đồng chính kiến nào đã tắt tiếng, sau khi ra khỏi nha tù? Nói chi là Trương Duy Nhất.

Măc Lâm trung dung và thực tế:

  • Muốn biết chắc thì mình cứ hỏi thẳng thằng chả chớ có khó khăn gì đâu.

Miệng nói tay làm, Mặc Lâm cầm điện thoại bấm nhay nháy. Cứ y như là có phép lạ, chỉ vài chục giây sau là chúng tôi nghe rõ cái giọng “hùng hổ” quen thuộc của Trương Duy Nhất:

“Tới thời hạn trả tự do thì họ phải buộc trả tự do cho tôi thôi và tôi đang muốn có một cái cảm xúc, cảm xúc mạnh nhất mà tôi mong nhất là khi Trương Duy Nhất vừa bước chân ra khỏi tù thì những thằng ích kỷ ăn tàn phá hoại đất nước những thằng đang bắt dân vô tội thì nó phải vào tù thay tôi và đó là điều tôi đang mừng thế thôi!”

….

“Tôi ngại gì? Tôi có tội đâu mà tôi ngại? Còn giả sử nó bỏ tù tôi tiếp chung thân hay tử hình đi nữa thì tôi có một câu tôi từng nói mà chắc bạn đã thuộc rồi. “Có thể cưỡng bức được hành vi chứ không cưỡng bức nỗi tư tưởng”  (thôi tôi có vé rồi tôi phải vào lên máy bay) tôi chỉ gửi lời cảm ơn tất cả các bạn …

Mặc Lâm và Anh Vũ đều thích chí cười khằng khặc. Tôi chỉ gượng gạo cười theo vì chợt cảm thấy có đôi chút lo âu (xen lẫn buồn bã) khi nhớ đến sự háo hức của Trương Duy Nhất qua một bài báo cũ (Bút Chiến Trên Mạng, Tại Sao Không?) của ông:

Chỉ riêng Hà Nội, đã xây dựng được 19 trang tin điện tử, hơn 400 tài khoản trên mạng cùng nhóm “chuyên gia bút chiến.”

Phát biểu tại hội nghị công tác Tuyên giáo toàn quốc 2012 diễn ra sáng nay 9/12/2013, ông Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội nói: “Đã tổ chức đội ngũ 900 dư luận viên trên toàn thành phố nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền miệng. Trong khi đó, báo chí thủ đô thực hiện ý kiến chỉ đạo về những vụ việc nhạy cảm; thành lập các tổ phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh. Tổ chức “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện trên mạng internet, tham gia bút chiến trên internet…

Một thông tin khá bất ngờ, tạo cho tôi cảm giác thích thú…

Hãy công khai tranh luận một cách chính danh quân tử, thay vì sử dụng những biện pháp kỹ thuật lén lút cướp phá không khác gì bọn hacker, hoặc chụp mũ chính trị và kết án một cây bút chỉ vì những bài viết góp ý, phê bình phản biện của họ. Trước một thông tin, trước một tác phẩm, một bài viết, một cây bút, một góp bàn phản biện, chỉ được phép dùng chính phương cách truyền thông “tham chiến”, chứ không được phép dùng đến cái còng số 8, nòng súng và nhà giam…

Tiếc thay, Trương Duy Nhất đã lãnh đủ ca ba (“còng số 8, nòng súng và nhà giam”) trước khi ông có cơ hội bút chiến với đám dư luận viên của chế độ hiện hành. Tôi sợ là sẽ còn có điều đáng tiếc hơn nữa, nếu Trương Duy Nhất vẫn nghĩ rằng (nay mai) ông sẽ mở trận chiến trên mạng với cái đám bồi bút khốn nạn này.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi gọi một số những người cầm bút khác là “đám bồi bút” và “bọn khốn nạn,” với niềm xác tín rằng không có hạn từ nào thích hợp hơn để gọi tụi vô học và vô lại này. Hãy cùng đọc qua “văn phong” và “ý tưởng” của vài “chuyên gia” trong  “đội ngũ đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên internet” xem họ vô liêm sỉ và sa đọa đến mức nào:

Phong Trào “Tôi Yêu Cây” Của Các Lều Dân Chủ

Sự kiện gây sự chú ý của dư luận trong nước, đặc biệt là người dân Thủ đô là Dự án Thay thế cây xanh tại Hà Nội. Không bàn đến chuyện chủ trương đúng – sai, phải – trái thế nào mà ở đây, tác giả muốn nói đến việc mượn sự việc này, đám zận chủ quậy phá, thể hiện cái mà chúng coi là “Tôi Yêu Cây”.

Đám zận chủ nhao nhác thể hiện “Tôi Yêu Cây” bằng đủ hình thức, có thể điểm lại các việc như sau:

– Zận chủ Lê Văn Dũng (facebookerLe Dung Vova), thành viên của NouFC đã giao mua trên mạng 1000 áo phông xanh để phát miễn phí cho những ai tham gia… tiền đâu ra mà hào phóng vậy Dũng Vova?

– Thắng mặt chuột (Nguyễn Lân Thắng) thì thể hiện tình yêu với cây theo cách khác, Thắng đã nhận lời để tham gia truyền thông quảng cáo cho hoạt động “buộc cây và tự trói mình” để phản đối việc chặt cây của nhóm zận chủ già tự xưng văn nghệ sỹ… không biết mỗi vụ được cát sê bao nhiêu hả Thắng mà khổ thế?

Vì sao Lập phò bị bắt?

Lập phò là con góp phần khá tởm trong việc phá nát cái tinh thần và tư duy dân chủ ở xứ này, vì đơn giản là cỏn lợi dụng nó để đánh đấm thuê đong xèng, thế thôi.

Đánh thuê không kín mõm thì bị túm, chả có dân chủ dân cheo hay chống đối gì ở đây cả, đừng hiểu lầm!

Tại sao Đinh Đăng Định sắp chết và nghèo thế.!.

Do bênh đau dạ dày (bao tử) cộng thêm tuyệt thực trong trại giam lâu ngày sinh ra ung thư?; Nếu như ông Đinh Đăng Định đang là giáo viên sẽ được đi khám bệnh định kỳ hàng năm, thì đã phát hiện bệnh sớm và được chữa kịp thời sẽ không có sự nguy kịch như hôm nay. Đấu tranh = nằm chờ chết…

Kết quả của sự ảo tưởng, chống đối nhà nước nên bản thân Đinh Đăng Định thời gian sống tính từng ngày. Hôm nay được vài nhóm người đến thăm, tung hô nhưng sau 49 ngày chết sẽ hết. Lúc đó “con bị mồ côi, nhà mất trụ cột”. Có thể cái nhà gỗ kia cũng phải bán và con thằng khác sai, vợ thằng khác xài, nhà thằng khác ở. Mai kia những những người con gái của Đinh Đăng Định sẽ ra sao?, có bị thằng khác lừa không?, lại ôm bầu thương nhớ. Ra đi có thanh thản không?

….

Bên dươi bài viết thượng dẫn là những  “nhận xét” sau của độc giả:

3 nhận xét :

Nặc danh17:59:00 18-07-2014

Lối viết quá bỉ ổi, ti tiện.

Nặc danh15:22:00 23-10-2014

Thật là ti tiện quá đi

Nặc danh00:29:00 02-05-2015

Người viết ra bài này thể hiện trình độ học vấn quá ngu si và hạn hẹp. Người này chắc tôi khẳng định chưa bao giờ được học hết cấp 3 chứ đừng nói đại học. Phí 2 phút cuộc đời để lướt qua những bài báo nhảm nhỉ như thế này.

Tôi chắc là Trương Duy Nhất sẽ buồn – và buồn lắm –  ngay sau khi ra khỏi nhà tù và biết ra rằng cái được mệnh danh là “đội ngũ chuyên gia để đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên internet chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch” (đích  thực) chỉ là thứ quân vô lại, một đám giá áo túi cơm, chứ không phải là những người cầm bút để ông có thể bút chiến với họ, như đã từng mong mỏi.

Trần Trung Đạo: Tâm bút cùng Trà Kiệu

Trần Trung Đạo: Tâm bút cùng Trà Kiệu

– Tin nổi bật, Bình Luận

Làng Phật Giáo Mã Châu, nơi tôi sinh ra, cách làng Công Giáo Trà Kiệu, nơi Th., bạn tôi, sinh ra, khoảng mười cây số và một con sông. Trong làng tôi, ngoài trừ gia đình người chú họ, sau khi đi làm ăn xa trở về làng cũ, trong hành trang của chú còn có thêm một cây Thánh Giá và bức hình Đức Mẹ, tất cả bà con còn lại đều là Phật Tử. Đoạn đường từ trạm Nam Phước lên đến quận Duy Xuyên chỉ dài hơn năm cây số nhưng đã có đến bốn ngôi chùa. Các ngôi chùa làng rất nhỏ, mái ngói cong, thường xây cạnh những cây đa già. Tuổi thơ tôi lớn lên trong một môi trường Phật Giáo và dưới bóng mát của hồn quê hương đơn sơ chất phác đó.

Phần lớn bạn học các lớp trung học đệ nhất cấp ở trường quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, trong đó có cả Th., và Diệp đều là người Trà Kiệu. Ba của Diệp lái xe Lam ba bánh. Cuối tuần tôi thường ra Chợ Quận đứng chờ xe của bác đi ngang là tôi đi theo lên Trà Kiệu chơi với đám bạn. Từ Mã Châu đi Trà Kiệu không xa nhưng phải qua Cầu Chìm, một chiếc cầu nhỏ bắc ngang một trong những nhánh sông Thu Bồn chảy ra hướng Cửa Đại. Vì được xây quá gần với mặt nước nên mỗi khi trời mưa lớn là xảy ra cảnh nước chảy qua cầu. Đám học sinh bên kia sông buổi sáng đi bộ đến trường nhưng buổi chiều nhiều khi phải đi đò về nhà. Bên chân cầu là một chiếc lô-cốt bằng xi-măng, tàng tích của chế độ Thực Dân còn để lại và cũng là một nhắc nhở của vết thương hằn sâu trên da thịt quê hương tôi, làm nhức nhối bao nhiêu thế hệ đã qua và còn mưng mủ cho đến bây giờ.

Trà Kiệu, với diện tích khoảng một cây số vuông, đẹp một cách hùng vĩ và linh thiêng. Phía Tây Trà Kiệu là rặng núi Kim Sơn chạy dài, hút sâu vào dải Trường Sơn trùng điệp. Phía Nam là di tích thành lũy và hoàng cung của một thời vàng son trong lịch sử Chiêm Thành. Theo sử sách ghi lại, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu phần lớn từ miền Bắc di cư vào miền Trung, bắt đầu là người ở Kẻ Chợ Hà Đông vào khoảng năm 1684. Họ sống tập trung nhau để dễ bề giữ đạo và giúp đỡ cho nhau. Trong tôi vẫn còn in lại hình ảnh những bậc tam cấp bằng đá của nhà thờ Trà Kiệu, nơi chúng tôi đã ngồi trong những buổi chiều vàng nhìn xuống xóm nhà của các bạn tôi, được dựng bên những thửa ruộng xanh bao vòng quanh chân núi.

Thế nhưng, không phải ai ở quê tôi cũng đối xử với nhau một cách vô tư, hồn nhiên và hòa đồng như tôi và đám bạn Trà Kiệu của tôi. Không ít người dân Quảng, vốn rất tự hào về truyền thống cách mạng, chống Thực Dân Pháp, Địa Linh Nhân Kiệt, Ngũ Phụng Tề Phi, thường nghĩ về Trà Kiệu như là một làng Công Giáo biệt lập. Càng tự hào với truyền thống chống Thực Dân bao nhiêu thì họ lại càng dễ có thái độ khắt khe, xa cách với đồng bào Trà Kiệu bấy nhiêu. Với những người mang nặng định kiến, hẹp hòi và bảo thủ, đồng bào Trà Kiệu, dù sống trên cùng một quê hương nhưng không cùng chung nhau trọn vẹn một chiều dài lịch sử. Sự xa cách đó không phải tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ đơn giản là sự cách biệt lương giáo chung chung mà thôi, nhưng những chia rẽ giữa những người đã chôn khúc nhau trên cùng mảnh đất, bắt đầu bằng máu, đổ xuống trong đêm 1 tháng 9 năm 1885 và chảy dài suốt thời kỳ thực dân đầy thù hận, khổ đau, tang tóc.

Đêm đó nghĩa quân thuộc phong trào Văn Thân tỉnh Quảng Nam với khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả đã mở liên tục các cuộc tấn công vào làng Công Giáo Trà Kiệu lúc bấy giờ đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của Linh Mục Bruyere, được gọi bằng tiếng Việt là Cố Nhơn, thuộc Hội Thừa Sai Pháp. Trong làng thời đó chỉ có khoảng 370 thanh niên có thể chiến đấu với vỏn vẹn 5 khẩu súng. Họ phải tự rèn gươm giáo, đúc súng đạn, dành dụm từng chút lương khô trong cuộc chiến tranh tự vệ khó khăn và quyết liệt. Sau lưng là núi, trước mặt là con đường độc nhất dẫn ra tỉnh đã bị bao vây. Họ không có đường lui và cũng không còn đường tiến. Cuộc chiến đấu của họ mang trọn vẹn ý nghĩa của “tự do tôn giáo hay là chết”.

Sau 21 ngày tấn công và chống đỡ đẫm máu giữa người Quảng và người Quảng, giữa người Việt và người Việt, giữa những tín đồ Thiên Chúa Giáo và các đơn vị Văn Thân Bình Tây Sát Tả, đã gây ra rất nhiều thiệt hại, mất mát cho cả hai bên. Máu người dân Quảng đã chảy trên đồi Bửu Châu thiêng liêng, xương người dân Quảng đã phơi trên cố đô Chiêm Thành huyền bí.

Cuối tháng 9 năm 1885, sau gần một tháng tấn công không thành công, các đơn vị Văn Thân rút lui. Đồng bào Công Giáo Trà Kiệu tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra trong những đêm 10 và 11 tháng 9 năm 1885 để che chở cho con cái của Mẹ và giúp đẩy lui quân đội của cả một phong trào Văn Thân rộng lớn của tỉnh Quảng Nam đông gấp trăm lần. Từ đó, hằng năm vào ngày 31 tháng 5, ngày cuối của tháng Hoa, người dân Công Giáo Trà Kiệu tổ chức lễ cung nghinh Đức Mẹ để ghi ơn Mẹ đã cứu giúp Trà Kiệu thoát khỏi bị tận diệt.

Trong cái nhìn của riêng tôi, đồng bào Trà Kiệu thời bấy giờ không có một chọn lựa nào khác. Họ đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tự vệ, không những để bảo vệ niềm tin Thiên Chúa mà còn vì mạng sống của chính họ và gia đình họ. Nhiều trong số họ đã ngã xuống cho niềm tin mà họ tôn thờ. Nếu họ thua, có thể làng Công Giáo Trà Kiệu không còn hiện diện trên bản đồ như ngày nay nữa. Niềm tin đã giúp Trà Kiệu đứng vững. Ngày 31 tháng 5, trong bình diện tôn giáo, vì thế, phải được hiểu như là ngày của Niềm Tin hơn là một chiến thắng quân sự chống lại Văn Thân. Niềm tin tôn giáo đó vô cùng cao cả và trong sáng. Đồng bào xứ Quảng thời đó đã sống có niềm tin và đã chết vì niềm tin. Những hy sinh của họ xứng đáng được kính trọng và phải được nhìn từ khía cạnh thuần túy tâm linh.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc ít may mắn. Rất hiếm hoi trong mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta có được một thời bình yên và ổn định đủ dài để xây dựng đất nước hay ít ra đủ kết hợp một tiềm năng, như trường hợp Nhật Bản, đủ sức chống chỏi với các áp lực từ bên ngoài. Sau suốt cả ngàn năm Bắc thuộc là Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi cuộc nội chiến vừa yên thì các chiến hạm Pháp cũng vừa thả neo dòm ngó ngoài cửa biển. Nói ra có vẻ cải lương nhưng quả thật dân tộc Việt Nam đúng là một dân tộc đã trưởng thành trong khói lửa.

Tôn giáo tại Việt Nam đã chia xẻ trọn vẹn những bất hạnh chung của dân tộc. Phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Theo các quy luật kinh tế đã được các nhà kinh tế thuộc mọi trường phái thừa nhận, chủ nghĩa thực dân là một bệnh chứng tất yếu trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Với hệ thống giáo dục lỗi thời và chính sách đối ngoại vô cùng thiếu ngôn ngoan của triều đình nhà Nguyễn cộng với các kỹ thuật chiến tranh cách biệt quá xa về kỹ thuật giữa tây phương và của các quốc gia khu vực Nam Á thời bấy giờ, dù có hay không có sự xuất hiện của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam trong giai đoạn đó thì nước ta vẫn mất, nhà ta vẫn tan.

Chỉ tiếc là chúng ta không có những ông vua sáng suốt như Minh Trị Thiên Hoàng (1852-1912) biết nhìn xa hiểu rộng, kịp thời canh tân đất nước. Chúng ta cũng không có được những ông vua như Rama IV (1851-1868) của Thái đủ khôn ngoan để thấy được xu thế chính trị kinh tế của thời đại, ngõ hầu dung hóa các ngoại lực. Thay vào đó, các vua nhà Nguyễn đã theo đuổi chính sách bế môn tỏa cảng để rồi cuối cùng dẫn đến mất nước. Tiếng súng của Đô Đốc Perry đã đánh thức nước Nhật nhưng tiếng đại bác của viên sĩ quan Pháp, Le Lieur, bắn vào Đà Nẵng năm 1856 không lay tỉnh một triều đại ngủ quên trong cái học từ chương, thi phú cung đình. Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều … chỉ là vài giọt nước tan loãng vào biển hủ nho phong kiến. Tương tự, những lời can gián cương trực của hai danh sĩ Quảng Nam, Phó Sứ Phạm Phú Thứ và Binh Bộ Thượng Thư Lê Đĩnh, chẳng đủ công hiệu để giết hết được loại vi trùng định kiến, hoài nghi, bảo thủ, lo sợ mất quyền, mất nước truyền trong máu từ bao đời trước.

Thế nhưng, nói như thế, cũng không có nghĩa, tôi đang trách tổ tiên ông bà chúng ta trong phong trào Văn Thân, Cần Vương kháng Pháp. Thảm cảnh, trong đó hàng vạn người Việt Nam được trang bị bằng dao mác, tầm vông, đã gục xuống như rơm rạ trước nòng đại bác thực dân, đã làm sục sôi máu hờn căm của những người dân Việt đang đau vì vận nước. Ông bà chúng ta thời đó, ngoài giặc Pháp, chẳng còn một nơi nào hay một ai để trút lòng phẩn uất, lửa căm thù của họ, khác hơn là các giáo sĩ Tây phương và những người theo đạo từ Tây phương truyền đến.

Và để nghĩ cho cùng, chúng ta cũng không thể trách các vua nhà Nguyễn đã bế quan trong bốn bức tường thành. Làm sao các vị đó hiểu được những gì đang xảy ra trên thế giới và cho vận nước khi cả đời vùi mài trong tứ thư ngũ kinh. Làm sao các vị đó có được chọn lựa sáng suốt hơn khi mang trong người dòng máu sợ người ngoài như sợ thú dữ, truyền lại từ suốt ngàn năm lệ thuộc Bắc phương.

Trở lại với Trà Kiệu, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu thời bấy giờ đã dù bị bạc đãi, dù chịu đựng trấn áp nhưng đã không vì thế mà bỏ rơi đất nước. Các tín đồ Thiên Chúa Giáo Quảng Nam đã không nghe lời Giám Mục Pellerin làm nội gián cho quân của tướng Rigault De Genouilly khi viên tướng nầy đem quân đánh Đà Nẵng vào ngày 1 tháng 9 năm 1857. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Phạm Văn Sơn: “Viên Trung Tướng nầy [Rigault De Genouilly] còn thất vọng thêm ở chỗ không thấy có giáo dân nổi lên hưởng ứng nên đã kỳ kèo giám mục Pellerin vì trước đây giám mục đã đoan quyết như vậy. Lúc nầy giám mục cũng theo quân đội (Pháp) và có mặt trên chiếc tàu Némésic. Giám mục vừa xấu hổ vừa tức giận nên bỏ về ở nhà tu Pinang tại Mã Lai“.

Hẳn nhiên không phải ở đâu cũng có những người Việt Nam như thế, không phải nơi nào dân tộc ta cũng may mắn có được những người con biết làm ngơ trước vinh hoa để bảo vệ sự sống còn lâu dài của dân tộc như thế. Trong suốt 40 năm chiến đấu trong gian nan tuyệt vọng để ngăn chận bước chân của thực dân Pháp (1847-1887), bao nhiêu mẩu chuyện đầy bẽ bàng chua xót, bao nhiêu việc làm đáng trách của một số người Việt còn ghi lại trong sử sách.

Nhắc lại những điều đáng ca ngợi hay nêu lên đôi điều đáng trách đó, tôi không có ý định đào sâu những vết thương đã một thời lở lói trong lòng dân tộc. Nhưng để chúng ta cùng nhìn về quá khứ một cách khách quan, chân thành, bao dung và trân trọng, để từ đó biết tránh xa những ổ gà, những hầm hố, những vết xe đổ, trên đường đi tới một tương lai tươi sáng cho đời sau. Không ai muốn giết nhau. Không ai muốn tàn sát nhau. Định mệnh lịch sử đã bẫy dân tộc ta vào một căn hầm không lối thoát, trong đó, các thành phần dân tộc vừa là nạn nhân, vừa là nhân chứng, vừa là đồng lõa và nhiều khi cũng vừa là tội phạm. Đọc lại lịch sử Việt Nam các thế kỷ 17, 18 để thấy ông bà chúng ta đáng thương và tội nghiệp biết bao nhiêu. Cả dân tộc, thời bấy giờ, như một bầy cừu non, không hề chuẩn bị, trước nanh vuốt của Thực Dân Pháp.

Tôi chỉ mong có một ngày những người dân Quảng sẽ cùng về lại Trà Kiệu, cùng nhau lau sạch những bậc đá trên đồi Bửu Châu như lau đi những vết thương hằn sâu nhiều thế kỷ. Tôi vẫn mơ có một ngày cùng nhau xây lại đình làng Ngũ Xã Hoàng Châu và các làng mạc chung quanh Trà Kiệu, nơi đã từng là bãi chiến trường, là biên giới của phân ly, hoài nghi, xa cách. Trà Kiệu, Mã Châu, Thi Lai, Hà Mật, Kỳ Lam, Giao Thủy, Đà Nẵng, Hội An….là những phần thân thể đáng yêu và bất khả phân ly của xứ Quảng. Tôi yêu Trà Kiệu như yêu chính ngôi làng Mã Châu nhỏ bé của tôi.

Chiều hôm qua, đọc bài viết công phu của linh mục Trần Quý Thiện về nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử, tôi xúc động và hãnh diện khi biết rằng mẹ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, cụ bà Nguyễn Thị Duy, sinh năm 1881, là người Trà Kiệu. Thân phụ của tác giả Đây Thôn Vỹ Dạ nổi tiếng, cụ Vinh Sơn Phaolô Phạm Toản (1882-1926) vì chống Pháp phải thay đổi họ từ Phạm sang họ Nguyễn. Giọt sữa mẹ và hùng khí quê ngoại Quảng Nam đã góp phần tạo nên Hàn Mặc Tử, nhà thơ lớn của Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Chúng ta không thể sửa lại quá khứ, chúng ta không thể làm lại lịch sử, chúng ta không thể xoay ngược bánh xe thời gian, chúng ta cũng không thể nào quên đi quá khứ, nhưng xin hứa với nhau, chúng ta sẽ không sống bằng quá khứ.

Chúng ta sẽ học những bài học đắng cay của cha ông chúng ta một cách nghiêm túc, chân thành và trân trọng. Nhưng không phải học để rồi khóc than thương tiếc, mà để từ đó xây dựng một Việt Nam thương yêu, đoàn kết trong tương lai, kính Chúa nếu là con cái Chúa, kính Phật nếu là đệ tử Phật, tương kính đạo của nhau giữa những người khác đạo, và biết vượt qua mọi khó khăn để gìn giữ căn nhà chung của mẹ Việt Nam.

Các tôn giáo sẽ mãi mãi là những dòng suối của tình thương, những dòng sông của bác ái, hòa vào mạch sống chung của dân tộc, đem lại dòng sinh khí cho quê hương vốn đã bao năm chìm đắm trong hận thù tang tóc. Các vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo trong Việt Nam tương lai sẽ là những cột kèo, mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức Việt Nam mỗi ngày một thêm bền vững. Các ngài sẽ là những bậc thầy đáng kính dạy dỗ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được lớn lên trong tình đồng bào ruột thịt, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.

Khoảng cách không phải một sớm một chiều mà xóa hết nhưng vẫn còn đó trong mỗi chúng ta chung một niềm hy vọng. Xin cầu nguyện.

Trần Trung Đạo

http://www.trantrungdao.com/?p=3161