Cách Mạng Mùa Thu: Oán thù chồng chất!

Cách Mạng Mùa Thu: Oán thù chồng chất!

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

Năm 2015 này đánh dấu 70 năm kể từ Việt nam dành lại được nền tự chủ độc lập thóat khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp sau biến cố đảo chính vào ngày 9 Tháng Ba, 1945 (1945 – 2015). Nhưng đến ngày 19 Tháng Tám năm đó, thì người Việt Minh Cộng Sản lại tổ chức một “cuộc cướp chính quyền” và tuyên bố ngày đó là khởi sự cho “Cách Mạng Mùa Thu” ở nước ta – theo khuôn khổ “Cách Mạng Tháng Mười” của Liên Xô bắt đầu vào năm 1917.

Sau 70 năm, thời gian đã đủ nguôi ngoai lắng đọng để cho người Việt chúng ta có thể bình tâm luận định về biến cố lịch sử đày dãy những tang thương thống khổ – với biết bao nhiêu máu và nước mắt của hàng triệu người lương dân vô tội đã đổ ra tại khắp nơi trên quê hương đất nước mình.

Nói chung, thì cũng chỉ vì cái chủ trương cuồng tín quá khích gọi là “bạo lực cách mạng”, “chuyên chính vô sản” mà người cộng sản du nhập từ Liên Xô và Trung Cộng vào đất nước ta ngay từ năm 1945, nên mới xảy ra bao nhiêu cuộc thảm sát hàng lọat những người quốc gia yêu nước mà người cộng sản gán cho đủ các thứ nhãn hiệu xấu xa như : “ quân ngụy”, “việt gian”, “phản quốc”, “phản động”, “lưu manh”,“tay sai ngọai bang” v.v… Để rồi họ ra tay truy lùng, trừ diệt khủng bố cực kỳ dã man tàn bạo, không mảy may xót xa thương tiếc đối với người anh em cùng một nòi giống da vàng máu đỏ như chính mình.

Bài viết này nhằm ghi lại những cuộc thảm sát rùng rợn đó và tìm hiểu nguồn gốc sâu xa của những hành vi cực kỳ tàn ác man rợ do người cộng sản cố tình gây ra ngay kể từ lúc họ mới nắm được chính quyền trong tay kể từ năm 1945 cho đến ngày nay. Xin trình bày một số vụ thảm sát điển hình theo thứ tự thời gian xảy ra lần lượt tại khắp các miền Trung, Nam, Bắc.

I-Những cuộc khủng bố tàn sát man rợ do người cộng sản gây ra tại khắp các nơi trong nước.

1-Vụ thảm sát tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi Tháng Tám và Tháng Chín, 1945.

Ngay sau khi Việt Minh Cộng Sản chiếm được chính quyền trong tay vào Tháng Tám, 1945, thì tại nhiều làng xã thuộc các huyện Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Hành trong tỉnh Quảng Ngãi đã đồng lọat xảy ra các cuộc tàn sát tập thể (mass killing) tổng cộng lên đến gần 3,000 tín đồ Cao Đài. Có vùng người dân “bị giết hết cả già trẻ lớn bé mà mồ chôn tập thể cùng khắp các miền quê…” Sự việc này đã được Giáo Hữu Ngọc Sách Thanh tại Hoa Kỳ trình bày chi tiết trước Ủy Hội Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc gần đây vào Tháng Tư, 1999.

Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bảng liệt kê danh tánh các nạn nhân lên đến con số 2,791 người. Và trong tài liệu nghiên cứu có nhan đề là “Colonial Caodaists” do sử gia Janet Hoskins biên sọan, thì cũng ghi nhận con số 2,791 nạn nhân này. Danh sách này cũng được ghi nơi Đài Tưởng Niệm thiết lập từ năm 1956 tại Quảng Ngãi – mà sau năm 1975 chính quyền cộng sản đã cho triệt hạ phá bỏ hết tất cả mọi dấu tích đi.

Người đồ tể khét tiếng trong vụ thảm sát này có tên là Đặng Bửu sau này giữ chức vụ hiệu trưởng Trường Chính Trị Nguyễn Ái Quốc ở Hà nội.

So với cuộc thảm sát tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, thì cuộc tàn sát này tại Quảng Ngãi năm 1945 cũng thật là khủng khiếp ghê rợn không kém – nhưng mà nó lại ít được công chúng ở miền Nam trước năm 1975 biết đến. Nhưng có dấu hiệu lạc quan là gần đây giới học giả quốc tế cũng đã có điều kiện tìm hiểu nhiều về vụ thảm sát năm 1945 này.

Nhân tiện, cũng xin ghi thêm là nhà ái quốc Tạ Thu Thâu cũng đã bị Cộng Sản giết hại tại Quảng Ngãi hồi mùa thu năm 1945, vào lúc ông trên đường trở lại miền Nam sau cuộc viếng thăm miền Bắc vài tháng trước đó.

2-Những vụ khủng bố tiêu diệt người quốc gia yêu nước tại miền Nam trong thời gian từ 1945 đến 1947.

Tại miền Nam vào năm 1945, thì tuy không có vụ tàn sáp tập thể có quy mô lớn như tại Quảng Ngãi, nhưng lại có vô số những cuộc ám sát khủng bố giết hại những người quốc gia yêu nước do cán bộ cộng sản theo khunh hướng Đệ Tam Quốc Tế gây ra. Và tổng số các nạn nhân bị giết hại trong các năm 1945, 1946 và 1947 có thể lên đến hàng nhiều ngàn người.

Cụ thể là những nhân vật trí thức có tên tuổi thuộc khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế (thường được gọi là Trotskystes) thì đều bị giết hại như: Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm v.v… Còn phải kể đến những vị lãnh đạo chính trị nổi tiếng cũng đều bị Cộng Sản chém giết, điển hình như nhân sĩ Bùi Quang Chiêu, vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và Nguyễn Thị Sương, luật sư Dương Văn Giáo. v.v…

Tệ hại nhất là vụ sát hại Giáo Chủ Hùynh Phú Sổ người sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo ở miền đồng băng sông Mekong – do người Cộng Sản thực hiện vào Tháng Tư, 1947. Sự việc động trời này đã gây ra mối hận thù dai dẳng kinh khiếp cho hàng triệu tín đồ Hòa Hảo tại khắp miền Nam.

Đối với các tín đồ Cao Đài tại miền Đông Nam Bộ cũng vậy, cán bộ Cộng Sản cũng ra tay tàn sát đến cả hàng ngàn nạn nhân nữa.

Chỉ riêng có một ngày 13 Tháng Mười, 1947, thì đã có đến con số 300 nạn nhân bị Việt Minh Cộng Sản ra tay sát hại tại khu vực Hóc Môn, Thủ Đức chỉ cách thành phố Sài Gòn có chừng vài chục cây số mà thôi.

Người chủ chốt phát động các cuộc tàn sát này chính là Tướng Nguyễn Bình (tên thật là Nguyễn Phương Thảo) do Trung Ương ở Hà Nội phái vào miền Nam để phụ trách điều hành guồng máy chính trị và quân sự tại đây.

3-Những vụ sát hại các thành viên ưu tú của các đảng Đại Việt, Duy Dân và Quốc Dân Đảng ở miền Bắc.

Tại miền Bắc, thì các đảng phái quốc gia như Đại Việt, Duy Dân, Quốc Dân Đảng đều lần lượt bị người Cộng Sản dùng mọi thủ đọan tàn bạo thâm độc mà tiêu diệt cho bằng hết. Điển hình là các lãnh tụ nổi danh như Trương Tử Anh của Đại Việt, Lý Đông A của Duy Dân và vô số những đảng viên ưu tú khác của Quốc Dân Đảng cũng đều bị ám hại bằng cách thủ tiêu hay giam giữ ngặt nghèo trong các trại tù đến nỗi phải bỏ xác nơi xa xôi hẻo lánh – mà thân nhân không hề được thông báo để lo việc ma chay chôn cất và cúng giỗ. Có thể nói tổng số nạn nhân bị sát hại như vậy ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1945 đến 1954 phải lên đến con số nhiều ngàn người.

Xin ghi lại vài trường hợp bị bắt giam rồi bị sát hại rất thương tâm của mấy nhân vật rất nổi tiếng như sau:

A-Nhà văn Khái Hưng.

Khái Hưng là một nhà văn nổi tiếng từ thập niên 1930 trong Nhóm Tự Lực Văn Đòan do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng. Vào năm 1940, Khái Hưng và họa sĩ Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt đi an trí tại vùng quê xa Hà nội. Năm 1947, ông đang ở nhà nhạc phụ trong huyện Trực Ninh, Nam Định, thì bị công an Việt Minh đến bắt đi và sát hại rồi vất xác xuống dòng sông Ninh Cơ chỗ gần bến đò Cựa Gà.

B-Bộ trưởng Chu Bá Phượng.

Ông Chu Bá Phượng sinh năm 1908 tại Bắc Giang là một kỹ sư đã từng tham gia vào công trình thiết lập đường xe lửa Đông Dương vào hồi thập niên 1930. Ông còn là một người trong thành phần lãnh đạo nòng cốt của Quốc Dân Đảng. Năm 1946, ông Chu Bá Phượng giữ chức bộ trưởng Kinh Tế trong Chính Phủ Liên Hiệp trong đó có ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ông Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch, ông Nguyễn Tường Tam làm bộ trưởng Ngọai Giao. Cuối năm 1946, vì các nhân vật quốc gia như Bảo Đại, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam đều đào thóat ra nước ngòai, nên chỉ còn có một mình ông Chu Bá Phượng bị kẹt lại và phải đi theo văn phòng chính phủ di tản lên chiến khu ở Việt Bắc.

Không bao lâu sau, ông Phượng bị đem đi quản chế ngặt nghèo tại vùng Hà Giang, Sơn La. Và từ cuối năm 1960, thì gia đình ông ở Hà Nội không hề nhận được bất kỳ tin tức nào của ông nữa. Mấy chục năm sau vào đầu thập niên 1990, con cháu mới nhờ người sử dụng ngọai cảm mà tìm được hài cốt của ông tại nơi rừng núi hoang vắng vùng Việt Bắc giáp giới với Trung Quốc và cải táng đem về quê nhà ở miền xuôi.

Giám đốc công an ở miền Bắc thời đó chính là ông Lê Giản, ông này phải chịu trách nhiệm nghiêm trọng về các cuộc đàn áp và giết chóc này.

II-Tìm hiểu nguyên do tại sao người cộng sản lại gây ra những vụ tàn sát với quy mô rộng lớn khủng khiếp như thế?

Trước khi đi sâu vào vấn đề, ta cần phải tĩnh trí để nhận định tình hình xã hội chính trị thực tế ở nước ta vào thời kỳ trước năm 1945 đại khái như thế này:

1-Không hề có sự ân óan thù hận nào giữa người cộng sản với người không Cộng Sản cả. Bởi lẽ vào lúc đó, tất cả hai nhóm đều là những người yêu nước và cùng hành động giống nhau là chống thực dân Pháp. Như vậy là tất cả đều ở cùng chung một phe để đối nghịch chống lại cái ách đô hộ của người Pháp để cùng dành lại nền độc lập tự chủ cho người Việt Nam. Và cả hai nhóm đều bị chính quyền Pháp đàn áp, bị bắt giam chung với nhau trong cùng một nhà tù nữa. Vì cùng có tinh thần yêu nước như nhau, lại cùng là nạn nhân khốn khổ vì sự tàn ác của đế quốc thực dân, cho nên giữa người cộng sản và không cộng sản lúc đó lại có sự thương yêu đùm bọc liên đới gắn bó chặt chẽ với nhau nữa.

Điều này khác hẳn với hai phe Quốc Gia và Cộng Sản ở bên Trung Quốc, vì hai phe đánh phá giành giật, giết chóc lẫn nhau suốt trong mấy chục năm kể từ cuối thập niên 1920 cho đến năm 1949, thì phe Cộng Sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo mới tòan thắng và buộc phe Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu phải rút lui qua đảo Đài Loan. Từ đó mà phe Cộng Sản thắng trận phát động chiến dịch trả thù những người thua trận nào mà còn bị kẹt lại ở nội địa Trung Quốc. Tình trạng này chỉ xảy ra tại Việt Nam năm 1975 sau khi quân đội Cộng Sản từ miền Bắc xâm chiếm được tòan thể lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.

2-Ấy thế mà tại sao vào năm 1945, khi có chính quyền nắm trong tay được rồi, thì người Cộng Sản lại ra tay tận diệt người quốc gia một cách tàn bạo man rợ đến thế?

Câu trả lời cho vấn nạn này có thể thật ngắn gọn như sau: Đó là do họ áp dụng triệt để cái chủ trương “Bạo Lực Cách Mạng” (the Revolutionary Violence) mà họ học tập được từ Trung Ương Đệ Tam Quốc Tế Comintern do Liên Xô lãnh đạo.

Ngay từ thập niên 1920 cho đến năm 1945, thì đã có đến hàng trăm cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam được đào tạo rất bài bản tại Trường Đông Phương tại Moscow do Comintern điều hành. Tại đây, họ được học rất kỹ về kỹ thuật gọi là “agitprop = agitation – propaganda” – tức là tổ chức vận động quần chúng, tuyên truyền và đặc biệt về phương thức gây bạo lọan để tạo thời cơ cướp chính quyền. Họ cũng học được kỹ thuật xây dựng guồng máy công an mật vụ theo mô hình của Liên Xô để kềm kẹp dân chúng một khi họ đã nắm giữ được chính quyền.

Nói vắn tắt là Cộng Sản Việt Nam được Comintern đào tạo hương dẫn rất kỹ về mọi thủ đọan tinh vi để thiết lập được một chế độ độc tài chuyên chính vô sản (proletarian dictatorship). Do đó mà họ đã không từ bỏ bất kỳ một thủ đọan tàn ác vô nhân đạo nào – miễn sao đạt được mục đích tối hậu của đảng Cộng Sản là nắm vững được chính quyền trong gọng kềm sắt thép của mình.

Trái lại, các đảng phái quốc gia khác, thì không hề có được sự huấn luyện đào tạo hay sự yểm trợ vật chất tinh thần nào từ phía ngọai quốc tương tự như của Comintern cấp phát dồi dào cho đảng cộng sản Việt Nam.

Do đó mà từ năm 1945, Cộng Sản đã mặc sức tung hòanh ở Việt Nam với đủ mọi thứ đòn phép thâm độc và quỷ quyệt để vô hiệu hóa và tiêu diệt được mọi sức đối kháng của các đảng phái quốc gia hay của các tổ chức tôn giáo.

III-Tóm lược

Ta có thể tóm lược bài viết này bằng mấy nét chính yếu như sau:

1-Trước năm 1945, những người yêu nước dù là Cộng Sản hay không Cộng Sản, thì đều cùng theo đuổi một mục tiêu là đánh đổ chế độ thực dân Pháp để giành lại nền độc lập cho Việt Nam.

Thế nhưng, từ khi người Cộng Sản nắm giữ được quyền hành trong tay, thì ngay tức khắc họ ra tay tiêu diệt những người yêu nước khác để dành độc quyền riêng cho mình trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế cũng như văn hóa tinh thần. Đó là một thứ độc tài chuyên chế tòan trị (totalitarian dictatorship).

Hâu quả tai hại trầm trọng nhất của chủ trương này là đã phá hoại tận gốc rễ cái nền nếp nhân bản, nhân ái truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta.

2-Dĩ nhiên là trong cái xã hội do thực dân, phong kiến tạo lập ra, thì có đầy rẫy những bất công áp bức. Nhưng vì người Cộng Sản đã cuồng tín du nhập cái chủ trương “hận thù giai cấp”, “bạo lực cách mạng” của Liên Xô và Trung Quốc vào đất nước ta, cho nên mới gây ra không biết bao nhiêu tang thương khổ nhục chết chóc cho tòan thể dân tộc ròng rã suốt 70 năm qua.

Như cha ông chúng ta từ xưa vẫn cảnh báo rằng “Lấy óan báo óan, óan ấy chập chùng”. Thì rõ ràng từ năm 1945 đến nay, đảng Cộng Sản đã liên tiếp gây ra biết bao nhiêu điều oan trái, khốn khổ cho cả hàng mấy chục triêu gia đình lương dân vô tội. Đó là một cái tội tày đình mà “Trời không dung, Đất không tha” cho người Cộng Sản vẫn còn cực kỳ ngoan cố mãi được.

3-Bài viết này là một lời nhắc nhở cho giới lãnh đạo chóp bu Cộng Sản ở Hà Nội phải biết phục thiện và thành khẩn công khai nhận lỗi của mình trước tòan thể dân tộc và dám có can đảm nói lên sự xám hối ăn năn về các tội ác man rợ kinh khủng như thế.

Có làm được như vậy, thì họ mới xứng đáng đón nhận được sự khoan dung tha thứ của đại khối dân tộc Việt Nam vậy./

Westminster California, Tháng Sáu 2015

Tài liệu tham khảo

Bài viết này được xây dựng trên những chứng từ của một số gia đình nạn nhân bị cộng sản sát hại với sự tham khảo từ một số bài nghiên cứu nghiêm túc mới đây của các chuyên gia sử học quốc tế. Cụ thể xin được trưng dẫn ra như sau đây :

1-Nhiều thư của ông Chu Bá Phượng viết về cho con vào cuối thập niên 1950 lúc ông bị quản chế tại Việt bắc. Búc thư sau cùng viết vào cuối năm 1960, sau đó thì biệt tăm luôn.

2-Thông tin do gia đình cụ Lê Quang Sách cung cấp. Cụ Sách năm nay đã 88 tuổi, cụ là người thóat chết trong vụ thảm sát gần 3,000 tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi vào Tháng Tám và Tháng Chín, 1945.

3-Về các tư liệu lấy từ Internet, thì đặc biệt có các tài liệu sau đây:

A-Vụ tàn sát tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi vào Tháng Tám và Tháng Chín, 1945 (tiếng Việt). Do tổ chức của Giáo Hội Cao Đài phổ biến trên Trang Nhà “Hành Trình về Chân Lí Đạo” vào ngày 21/3/2015.

B-“Caught between Propaganda and History” by Shawn McHale, 2014. Tài liệu dài 10 trang là bài Điểm sách về cuốn “Lịch sử Nam bộ Kháng chiến” được đăng trong Tủ sách “Cold War International History Project”

C-“Autopsy of a Massacre” – “On a Political Purge in the Early Days of the Indochina War” (Nam Bộ 1947)  by Francois Guillemot, 2010. Tài liệu này dài 40 trang là một bài nghiên cứu rất công phu về sự khủng bố và tàn sát vì lí do chính trị ở miền Nam được đăng trong European Journal of Asian Studies.

D-“The Viet Minh Elimination of National Parties and Groups (1945-47)” by Human Rights Watch, April 23, 2013. Tài liệu dài 17 trang viết chi tiết về việc Việt minh tiêu diệt các đảng phái chính trị tại miền Nam trong giai đọan 1945 – 1947./

Đoàn Thanh Liêm

Sau cái chết sẽ là gì?

Sau cái chết sẽ là gì?

Mo Costandi

BBC

“Cái này phải bẻ mạnh một chút nữa mới gỡ ra được,” Holly Williams, một người làm dịch vụ tang lễ nói trong lúc cô cố gắng duỗi các ngón tay, cùi chỏ và cổ tay của John.

“Thường thì công việc của tôi sẽ dễ dàng hơn nếu thi thể còn mới”.

Sinh ra trong một gia đình kinh doanh dịch vụ tang lễ ở phía bắc Texas, Williams, 28 tuổi, tính đến nay đã xử lý khoảng 1.000 thi thể.

Công việc của cô bao gồm việc đưa các thi thể từ khu vực Dallas-Forth Worth về nơi chuẩn bị cho tang lễ.

“Hầu hết những người chúng tôi mang về là từ các nhà dưỡng lão, nhưng cũng có người chết do bị bắn hay tai nạn giao thông,” cô nói.

“Đôi khi có người đã chết nhiều ngày hoặc nhiều tuần mới được phát hiện ra và thi thể của họ đã bắt đầu bị phân huỷ, khiến công việc của tôi trở nên khó khăn hơn”.

John đã chết khoảng 4 giờ trước khi thi thể của ông được đưa đến nhà tang lễ.

Khi còn sống, ông làm việc tại một mỏ dầu và là người khá khỏe mạnh. Ông bỏ thuốc lá từ hàng chục năm trước và cũng ít uống rượu. Thế nhưng cơn đau tim vào một buổi sáng tháng Giêng đã khiến John ngã quỵ và qua đời ở tuổi 57.

Giờ đây, nằm trên chiếc bàn sắt của Williams, thi thể của John đã chuyển lạnh và ngả màu tím-xám, dấu hiệu cho thấy quá trình phân huỷ đã bắt đầu.

Tự phân hủy

Thế nhưng cơ thể của người chết không ‘hoàn toàn chết’ mà vẫn chứa nhiều sự sống ngay trong quá trình phân huỷ.

Nhiều nhà khoa học xem thi thể là một hệ sinh thái xuất hiện ngay sau khi chết và chuyển hoá qua nhiều giai đoạn sau khi quá trình phân huỷ bắt đầu.

Quá trình phân huỷ bắt đầu chỉ vài phút sau khi chết, bắt đầu bằng giai đoạn ‘tự phân’.

Ngay sau khi tim ngừng đập, các tế bào sẽ không còn được cung cấp oxygen. Enzyme bắt đầu tiêu hoá màng tế bào và rò rỉ ra ngoài trong lúc các tế bào bị tan rã.

Điều này thường bắt đầu đầu tiên ở gan, vốn giàu enzyme, và ở não, nơi có tỷ lệ nước cao. Dần dần, tất cả các mô đều bị tiêu huỷ theo cách này.

Các tế bào máu bị tổn thương sẽ bắt đầu trào ra khỏi cách mạch máu bị vỡ và khiến da đổi màu.

Nhiệt độ cơ thể cũng bắt đầu giảm cho đến khi bằng với nhiệt độ xung quanh. Sau đó, xác bắt đầu cứng dần, bắt đầu từ mí mắt, hàm, cơ cổ, cho đến tay chân.

Ở người sống, thành phần tế bào cơ có thể co duỗi nhờ hoạt động của hai loại protein có cấu tạo dạng sợi là actin và myosin, vốn di chuyển sát nhau.

Sau khi chết, các tế bào này bị mất nguồn cung cấp năng lượng và ngưng hoạt động khiến các cơ bị cứng lại, còn các khớp xương không duỗi gập được nữa.

Trong giai đoạn đầu, hệ sinh thái xác chết thường chỉ bao gồm vi khuẩn sinh sống trên và trong cơ thể.

Cơ thể chúng ta chứa một lượng lớn vi khuẩn, từ bề mặt cơ thể cho đến nội tạng. Tuy nhiên nơi chứa nhiều vi khuẩn nhất là ruột, nơi sống của hàng nghìn tỷ vi khuẩn thuộc hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn họ khác nhau.

Hệ miễn dịch ngưng hoạt động

Tháng Tám 2014, Gulnaz Javan, một nhà khoa học pháp y từ Đại học Bang Alabama tại Montgomery đã cùng các đồng nghiệp công bố kết quả nghiên cứu về cái mà họ đặt tên là ‘thanatomicrobiome’ (bắt nguồn từ từ thanatos, tức ‘cái chết’ trong tiếng Hy Lạp).

“Nhiều mẫu nghiên cứu của chúng tôi đến từ các vụ hình sự,” Javan nói. “Nhiều người chết vì tự vẫn, bị mưu sát, dùng ma tuý quá liều hoặc tai nạn giao thông, và tôi đã lấy mẫu mô từ đó. Do vấn đề đạo đức nên chúng tôi cần được sự đồng ý khi lấy các mẫu mô đó.”

Hầu hết nội tạng đều được bảo vệ trước vi khuẩn khi chúng ta còn sống.

Tuy nhiên ngay sau khi chết, hệ thống miễn dịch ngưng hoặc động, khiến vi khuẩn tự do lan ra khắp cơ thể.

Vi khuẩn làm haemoglobin trong máu chuyển thành sulfhaemoglobin (Hình: Science Photo Library)

Vi khuẩn thường bắt đầu lan ra từ ruột, tại các đoạn tiếp giáp giữa ruột non và ruột già.

Không bị kiềm chế, chúng bắt đầu đánh chén ruột trước, từ trong ra ngoài, sau đó đến các mao quản của hệ tiêu hoá và các hạch bạch cầu, lan sang gan và lá lách, rồi từ đó lên tới tim và não.

Javan và nhóm của bà đã lấy mẫu xét nghiệm từ gan, lá lách, não, tim và máu từ 11 thi thể của những người đã chết từ 20 – 240 tiếng đồng hồ. Nhóm nghiên cứu sử dụng hai công nghệ xét nghiệm DNA tối tân khác nhau, kết hợp với các thông tin sinh học để phân tích và so sánh thành phần vi khuẩn trong mỗi mẫu phẩm

Các mẫu xét nghiệm lấy từ các bộ phận cơ thể khác nhau của cùng một thi thể rất giống nhau, trong khi các nội tạng giống nhau từ nhiều thi thể lại rất khác nhau.

Điều này có thể là do cấu tạo khác biệt của các quần thể vi khuẩn trong từng thi thể, hoặc do thời gian chết khác nhau.

Một nghiên cứu từng chỉ ra rằng dù các quần thể vi khuẩn trải qua nhiều thay đổi sau cái chết, sự thay đổi này là khá đồng đều, giúp các nhà nghiên cứu có thể ước tính khá chính xác được thời gian chết từ ba ngày đến 2 tháng.

Nghiên cứu của Javan cũng cho thấy các vi khuẩn tràn vào gan 20 giờ sau khi chết và chúng cần khoảng 58 giờ để lan ra khắp các nội tạng.

Như vậy, sau khi chúng ta chết, vi khuẩn sẽ lan ra khắp cơ thể một cách hệ thống, và các bác sỹ pháp y có thể dựa vào thời gian vi khuẩn lan từ nội tạng này sang nội tạng khác để ước tính thời gian chết.

“Sau cái chết, cấu tạo các quần thể vi khuẩn thay đổi,” Javan nói.

“Vi khuẩn lan sang tim, lên não và cuối cùng mới đến các cơ quan sinh sản”.

Có một điều rõ ràng là các nhóm thành phần vi khuẩn khác nhau thì liên quan đến các giai đoạn phân hủy khác nhau.

Hoạt động của vi khuẩn thay đổi hàng giờ trong xác chết (Hình: Getty Images)

Phân huỷ tự nhiên

Đối với hầu hết chúng ta, hình ảnh thi thể là một điều đáng sợ. Nhưng đối với các thành viên tại Trung tâm Nghiên cứu Pháp y Ứng dụng ở đông nam Texas, việc tiếp xúc với tử thi là chuyện thường nhật.

Đi vào hoạt động từ năm 2009, trung tâm này nằm tại một khu rừng thuộc sở hữu của Đại học Sam Houston State (SHSU).

Vào cuối năm 2011, các nhà nghiên cứu từ SHSU là Sibyl Bucheli và Aeron Lynne đã cùng các đồng nghiệp đã mang hai thi thể đến đây và quan sát sự phân huỷ trong môi trường tự nhiên.

Sau khi quá trình tự phân bắt đầu và vi khuẩn đã lan ra khắp nội tạng, xác bắt đầu bị thối rữa.

Các mô mềm bắt đầu chuyển hoá thành khí, chất lỏng và muối.

Quá trình thối rữa bắt đầu ngay trong thời gian đầu, nhưng thực sự rõ rệt khi vi khuẩn kỵ khí tham gia hoạt động.

Việc thối rữa liên quan tới sự chuyển vai trò hoạt động từ các loài vi khuẩn ưa khí, vốn cần oxygen để sống, sang các loài kỵ khí, vốn không cần đến oxygen.

Chúng ăn các mô cơ thể, làm lên men chất đường rồi từ đó sinh ra khí methane, hydrogen sulphide và ammonia tích tụ trong cơ thể, làm trương phồng khoang bùng và đôi khi cả các bộ phận cơ thể khác.

Điều này khiến cơ thể bị chuyển màu rõ rệt hơn.

Trong lúc các tế bào máu tiếp tục rò rỉ ra từ các mạch máu đã tan rã, các vi khuẩn kỵ khí tiếp tục biến các phân tử haemoglobin, vốn từng đưa oxygen đi khắp cơ thể, thành sulfhaemoglobin.

Sự hiện hữu của loại phân tử này trong cơ thể khiến màu da thi thể chuyển sang màu xanh đen đặc trưng cho thấy việc phân hủy đang diễn ra.

Ký sinh trùng

Các loại khí tiếp tục tích tụ trong cơ thể, gây phồng rộp bề mặt da.Tiếp đến sẽ là giai đoạn từng mảng da lớn bong ra, chỉ còn dính hờ vào cơ thể đang phân rã.

Cuối cùng các lượng khí và các lớp mô đã chảy nước thoát ra khỏi cơ thể, mà thường là qua đường hậu môn và các lỗ tự nhiên khác cùng các vết da rách trên cơ thể. Đôi khi áp suất quá lớn khiến khoang bụng phình to tới mức nổ toác ra.

Việc sưng phồng lên thường được coi là dấu hiệu cho thấy quá trình chuyển từ giai đoạn đầu sang giai đoạn sau của quá trình phân hủy, và một nghiên cứu khác gần đây cho thấy việc chuyển biến này được xác định bằng việc thay đổi trong thành phần vi khuẩn trong xác chết.

Cơ thể trong quá trình phân huỷ trở thành hệ sinh thái của vi khuẩn, côn trùng và các loài ăn xác.

Hai loài thường gắn với quá trình phân huỷ là ruồi nhặng.

Ruồi nhặng phát hiện ra mùi thi thể bằng ăng-ten trên đầu, sau đó hạ cánh xuống thi thể và đẻ trứng và các khe hở.

Mỗi con ruồi có khả năng đẻ 250 trứng, và trứng sẽ nở thành giòi trong vòng 24 tiếng.

Giòi bò nhung nhúc làm nhiệt độ bên trong xác chết tăng cao (Hình: Science Photo Library)

Những con giòi này ăn xác và trở nên lớn hơn, cho đến khi chúng đủ sức chui ra khỏi cơ thể và phát triển thành ruồi.

Quy trình này tiếp tục cho đến khi chúng không còn gì để ăn.

Nếu hội tụ đủ các điều kiện cần thiết, một thi thể phân huỷ sẽ có một số lượng lớn giòi bên trong.

Các ‘đàn giòi’ tỏa nhiều nhiệt, khiến nhiệt độ bên trong cơ thể lên 10 độ C.

Nếu như chim cánh cụt thường xuyên di chuyển để giữ ấm thì những con giòi này lại di chuyển liên tục để hạ nhiệt.

Sự hiện diện của ruồi thu hút các loài săn mồi khác như bọ cánh cứng, kiến, nhện, vốn ăn trứng ruồi và ấu trùng. Kền kền và các loài ăn xác khác cũng có thể bị lôi cuốn.

Nếu không có các loài ăn xác, những đàn giòi này sẽ ăn hết các mô mềm rất nhanh.

Nhà khoa học Carl Linnaeus ghi lại trong một nghiên cứu năm 1767: “Ba con ruồi có thể tiêu thụ hết xác chết của một con ngựa nhanh không kém gì một con sư tử”.

Có thể dùng thiết bị bay phía trên phân tích đất để phát hiện ra thi thể bị chôn vùi bên dưới (Hình: Getty Images)

Đất màu mỡ

Xác chết bị phân huỷ giúp làm thay đổi thành phần hoá học của phần đất bên dưới, tạo nên những thay đổi có thể duy trì trong nhiều năm.

Những phần còn lại trong cơ thể mang lại chất dinh dưỡng cho đất, và sự di chuyển của giòi giúp mang phần năng lượng bên trong lan ra một môi trường rộng hơn.

Toàn bộ quy trình này tạo nên một ‘đảo thi thể phân huỷ’ – một khu vực đất đai màu mỡ.

Theo một ước tính, trung bình, một cơ thể người có 50-75% là nước và mỗi kg xác khô thải ra 32g nitrogen, 10g phosphorous, 4g potassium và 1g magnesium ra đất.

Các loài giun đất và các loài thực vật nhờ đó trở nên khoẻ mạnh hơn.

Những nghiên cứu về những thay đổi đối với môi trường xung quanh có thể giúp các nhà điều tra lần ra những thi thể bị chôn trong các vụ án mạng.

Việc nghiên cứu lớp đất quanh mộ cũng giúp ước tính tốt hơn thời gian chết.

Một nghiên cứu hồi năm 2008 chỉ ra rằng chất khoáng vô cơ phosphorous rỉ từ cơ thể vào trong đất ở mức cao nhất vào 40 ngày sau khi chết, trong khi đối với nitrogen là 72-100 ngày.

Hiểu biết rõ hơn về những quy trình này sẽ giúp các nhà nghiên cứu pháp y một ngày nào đó ước tính chính xác hơn thời gian một thi thể được chôn cất trong một ngôi mộ bí mật.

Chẳng lẽ cứ luôn mãi là “quân tốt thí” trên bàn cờ thế giới?

Chẳng lẽ cứ luôn mãi là “quân tốt thí” trên bàn cờ thế giới?

Lang Thang Internet


Linh Tiến Khải

Từ mấy tuần qua tin tức về tình hình tại Biển Đông xem ra dồn dập và nóng bỏng, lôi kéo sự chú ý của các phương tiện truyền thông quốc tế.

Hôm mùng 2 tháng 6 vừa qua nhật báo Shimbun của Nhật Bản có đăng bài bình luận bàn về tình hình Biển Đông, và đưa ra ra câu hỏi: liệu tổng thống Barack Obama có thực sự muốn cản ngăn hành động cướp biển phi pháp của nhà nước Bắc Kinh hay không, và nếu có thì tới mức độ nào. Trong các tháng qua toàn thế giới đều chứng kiến thái độ ngoan cố, lì lợm, vô liêm sỉ của Nhà nước cộng sản Trung Quốc, ngang nhiên ngồi xổm trên luật pháp quốc tế, và công khai ăn cướp biển đảo của các nước vùng Đông Nam Á. Nó cho thấy Nhà nước Bắc Kinh càng ngày càng cương quyết nhận vơ Biển Đông là của mình, và đặt chủ quyền trên Biển Đông, bằng cách gấp rút xây các căn cứ và sân bay quân sự trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo khác đã cướp được của Việt Nam, với sự đồng loã phản quốc bán nước của Nhà nước cộng sản Hà Nội. Với các hoạt động gấp rút ấy quân cướp Trung Cộng muốn đặt thế giới trước những sự kiện đã rồi. Nhưng việc xây 7 đảo nhân tạo trái phép ấy trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã gây ra làn sóng tranh luận trên chính trường Hoa Kỳ cũng như trong nội bộ quân đội nước này. Ngay từ năm ngoái Hải quân Mỹ đã kêu gọi chính quyền Washington nhanh chóng đưa máy bay và tầu chiến vào khu vực các đảo bị Bắc Kinh chiếm đoạt phi pháp.

Từ tháng 5 vừa qua quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu cho máy bay do thám và tàu chiến hiện đại thực hiện các vụ trinh sát, giữ gìn tự do hàng hải ở Biển Đông. Và trong các ngày từ 17 đến 21 tháng 5 vùa qua Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương đã tổ chức một cuộc diễn tập tác chiến đổ bộ tại Hawaii với sự tham dự quan sát của các giới chức quân đội cao cấp của 20 quốc gia. Ngày 27 tháng 5 Tân chỉ huy Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương, đô đốc Harry Harris gọi các yêu sách của Trung Quốc là “lố bịch”. Phát biểu trong buổi lễ nhận chức ngày 27 tháng 5 đô đốc Harris nói: “Hoa Kỳ sẽ tái lập thế cân bằng ở Thái Bình Dương. Lực luợng kết hợp của chúng tôi sẽ làm việc chặt chẽ với các đồng minh và bạn bè ở khu vực. Nếu được yêu cầu chúng tôi sẽ chiến đấu ngay buổi tối hôm nay để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ tại khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hiện diện và phát biểu trong buổi lễ ông Ashton Carter, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, nhắc lại lập trường của Mỹ là phản đối bất kỳ hành động quân sự nào của Trung Quốc trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ông nói: trước tiên chúng tôi muốn giải quyết các tranh chấp trong hòa bình và yêu cầu Trung Quốc ngưng ngay việc cải tạo đất ở Biển Đông dựa trên các yêu sách của họ. Thứ hai, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, di chuyển và khai triển hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, như đã từng làm trên toàn thế giới này. Cuối cùng, với các hành động của mình Trung Quốc đang đứng ngoài hai tiêu chuẩn quốc tế, đó là đe đọa an ninh khu vực Á châu Thái Bình Dương và vi phạm nguyên tắc “tiếp cận không cưỡng chế” mà các nước trong khu vực đang theo đuổi.”

Hoa Kỳ cũng tuyên bố rằng nếu Trung Cộng không dừng hoạt động xây đảo nhân tạo phi pháp, thì chính quyền Mỹ sẽ đưa tầu chiến vào khu vực 12 hải lý của các đảo đá, mà Trung Quốc chiếm đoạt trái phép.

Mới đây nhất ngày mùng 2 tháng 6 vừa qua trong buổi đón tiếp và trao đổi với các đại diện giới trẻ hoạt động xã hội Đông Nam Á thuộc tổ chức “Chương trình thân hữu các sáng kiến của giới trẻ lãnh đạo Đông Nam Á” tại tòa Bạch Ốc, tổng thống Barack Obama kêu gọi Nhà nước cộng sản Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế, và ngưng ngay các hành động “thúc cùi chỏ”, ăn hiếp các quốc gia láng giềng để bành trướng thế lực tại Biển Đông. Nếu Trung Quốc không từ bỏ kiểu hành động này, dùng sức mạnh của một nước lớn để tranh giành chủ quyền và dựa vào lực lượng hải quân thay vì pháp luật, thì nền kinh tế Á châu sẽ không còn thịnh vượng nữa.

Trước mắt, Hoa Kỳ đưa ra chiến lược “Cost Imposing” kết hợp các biện pháp ngoại giao, quân sự và tuyên truyền tạo dư luận quốc tế bằng cách liên tục công bố các hình ảnh Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo trái phép ở Biền Đông để buộc Trung Quốc phải trả giá mắc mỏ cho các tham vọng của mình. Đồng thời chính quyền Whasington cũng thắt chặt các mối quan hệ với các đồng minh châu Á Thái Bình Dương và các nước Đông Nam Á, gia tăng năng lực phòng vệ biển đảo, và mong Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham gia nhiệm vụ tuần tra ở Biển Đông.

Dọc dài lịch sử suốt 70 năm của mình Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ biết xung phong làm “quân tốt thí” cho Liên Xô và Trung Cộng, hết hy sinh xương máu của nhân dân, rồi lại ký kết các công hàm bán nước cho Trung Quốc. Năm 1975 tập đoàn cộng sản Hà Nội đã rước 10 sư đoàn tầu cộng vào Bắc Việt để dồn quân tiến chiếm miền Nam. Sau đó vơ vét tất cả nhũng gì có thể vơ vét được để trả nợ cho Bắc Kinh. Giờ đây, bốn mươi năm sau khi đặt ách thống trị độc tài sắt máu trên cả nước, và để vuột mất bao nhiêu dịp may thoát ách nô lệ, chẳng lẽ đảng cộng sản Viêt Nam cứ luôn mãi ngu đần cúi đầu làm “quân tốt thí” trên bàn cờ thế giới hay sao?

http://vi.radiovaticana.va/news/2015/06/05/chẳng_lẽ_cứ_luôn_mãi_là_quân_tốt_thí_trên_bàn_cờ_thế_giới/1149347

“Em ra đi mùa thu! mùa thu không trở lại”,

“Em ra đi mùa thu! mùa thu không trở lại”,
“em ra đi mùa thu sương mờ giăng âm u

em ra đi mùa thu mùa thu không còn nữa
đếm lá úa mùa thu đo sầu ngập tim tôi.”

(Phạm Trọng Cầu – Mùa Thu Không Trở Lại)

Trần Ngọc Mười Hai

(Rm 12: 9-13)

Có trở lại hay không, thì thu mùa vẫn luôn là Mùa Thu, mùa của những úa vàng màu lá rất tình-tự. Tình-tự của thu mùa/mùa Thu lại dễ thấy, dễ bắt gặp ở câu ca tiếp theo đó, hát thế này:

“Ngày em đi, nghe chơi vơi não nề
qua vườn Luxembourg sương rơi che phố mờ
buồn này ai có mua?
Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng,
ngập giòng nước sông Seine,
mưa rơi trên phím đàn chừng nào cho tôi quên.”

(Phạm Trọng Cầu – bđd)

Ấy chết! sao lại “nghe chơi vơi não-nề”, rồi lại thấy những là “sương rơi che phố mờ”, “chia-ly”, “nghe rơi bao lá vàng”, “ngập giòng nước song Seine.” Ôi thôi! Là, thi-ca ngập tràn giòng chảy rất êm đềm để tôi, để bạn, để chúng ta không còn quên lãng những ngày “mùa Thu không trở lại”, được nữa rồi.

Thế đó, là những cảm-xúc, cảm-quan và cảm-nhận ở đời người, nơi thi-ca giòng chảy rất đời thường. Và dưới đây, lại là những xúc-cảm, xúc-động cùng chất xúc-tác ở giòng đời người đi Đạo, nay đã thấy. Thấy, như người viết trên truyền-thông/báo-chí, rất như sau:

“Rất ư là thường tình, chuyện bảo rằng: tôi hay có cái cảm-giác cần chuyển-tải khắp chốn/miền lời xin lỗi gửi đến với mọi người, cả khi lý-lẽ tôi đưa ra vẫn rất thừa, tuy đúng đắn. Đôi lúc, tôi cũng tỏ ra cứng-rắn với chính mình sau nhiều khoảnh-khắc thấy mình quá nhạy-cảm. Nên, tôi thích để lại một số ấn-tượng để mọi người thấy tôi là người có lý-trí chứ không chỉ mỗi xúc cảm tràn đầy mà thôi… Tuy thế, tôi vẫn thấy cảm-xúc vẫn là điều tốt đẹp cho mọi người. Nay, xin có đôi phút để ‘sáng-tỏ’ vấn-đề.

Trước nhất, chả khi nào tôi coi cảm-xúc là những gì bết bát, dù lý-lẽ hay lý-sự bao giờ cũng chễm-chệ ở trên. Thứ đến, đây không là cảm-tưởng của giới phụ-nữ khi nghĩ rằng nam-giới vẫn hay làm bọn tôi cảm thấy xấu-xa tệ-bạc đầy xúc-động và vì thế mới thấy rằng “đàn ông thường ở trên cơ bọn nữ tớ phận hèn này!” Điều đó không có nghĩa vơ đũa cả nắm bảo rằng: vốn dĩ là nữ-giới nên chúng tôi có làm thế nào đi nữa cũng vẫn bị mang tiếng là tạo vật lằng-nhằng đầy cảm-xúc. Nhưng, dù sao bọn tôi cũng nhận ra rằng: khi ta kiểm-soát được mọi cảm-xúc không để chúng khống-chế trên ta, thì khi đó ta sẽ hoàn toàn mạnh-khoẻ, bình thường dễ tạo cuộc sống cho chính mình. Và, đó cũng là thành-phần cấu-tạo nữ-tính theo sinh-lý với tất cả mọi chi-tiết về sinh-lý làm mục-tiêu….

Nói tóm lại, xúc-cảm dù mang tính nhiều xúc-động đi nữa, vẫn là dấu-hiệu của sự mạnh-khoẻ chứ không phải đau/yếu bao giờ hết…” (x. Tamara Rajakariar, Women and their feelings, MercatorNet 4/3/2015)

Vâng. Thế đó, là một quan-niệm ở đời. Với mọi người trong đời. Một đời người lại vẫn có những câu ca được người nghệ-sĩ diễn-tả bằng giòng chảy thi-tứ rất tiếp-tục, rằng:

“Hôm em ra đi mùa thu

mùa thu không trở lại

lá úa khóc người đi

sương mờ dâng lên mi

em ra đi mùa thu

mùa lá rơi ngập ngừng

đếm lá úa sầu lên

bao giờ cho tôi quên.”

(Phạm Trọng Cầu – bđd)

Cả thi-nhân lẫn nhạc-sĩ, có thể “không bao giờ quên” được những cảm xúc lê thê, sầu buồn nhất là vào lúc thấy rõ rằng: “Hôm em ra đi mùa thu”, thì đó là lúc tôi và anh đều sẽ “đếm lá úa sầu lên”, để rồi “bao giờ cho tôi quên.”

Ở nhà Đạo, đôi lúc cũng thấy rằàng: người đi Đạo và giữ Đạo đôi lúc cũng hay quên rất nhiều chuyện, như chuyện chính-yếu trong đời, được Đức Giáo Tông nhắc nhở ở lời nhắn nhủ vào hôm ấy, như sau:

 

“Gặp gỡ người cao niên, ốm yếu, bệnh-tật, Đức Giáo Tông có nhắc nhở rằng: người đau/yếu vẫn cứ theo chân Đức Giêsu Kitô khi Ngài vác thập-giá nặng, không như giới chức và giáo-dân ở một số cộng-đoàn giáo-xứ thường hay quên lãng, chẳng ai biết đến.

Hướng về những người trẻ có mặt hôm ấy, Đức Giáo Tông Phanxicô có nói rằng: tất cả chúng ta là tội-nhân vẫn được gọi mời “hãy vùng đứng lên với ân-huệ Chúa ban cho” cả sau khi ta gục ngã trong lỗi phạm. Và, điều quan-trọng là: Niềm vui, không thể mua bán ngoài phố chợ, nhưng là quà tặng từ Chúa Thánh Thần mình nhận được khi nguyện-cầu trong thinh-lặng….” (x. Bản tin trên The Catholic Weekley ngày 10/5/2015, tr. 7 có đầu đề là: Joy is a Gift of the Holy Spirit: Pope)

Thế đó, còn là cảm-xúc, cảm-tính lẫn cảm-tình cần có đối với mọi người, già/trẻ, lớn/bé, gái/trai cả ở trong Đạo lẫn ngoài đời. Một đời người, vẫn có đủ hỷ nộ ái ố, rất thất tình. Nhưng, cảm gì thì cảm, vẫn là những cảm-thông ta có với dân-gian mọi thời.

Với con dân trong Đạo, có thứ cảm-nhận mà người thường ở huyện hay lẫn lộn, chí ít khi đọc truyện kể hoặc suy-tư/nhận-định về các sự-kiện Đức Giêsu từng diễn-lộ với mọi người. Một cảm-nhận thường sai sót nhiều nhất, là khi người đọc trình-thuật, lại hiểu theo ý rất khác hẳn. Đó là điều, được đấng bậc thày dạy ở đại-học De Paul bên Mỹ, lại đã phân-định, như sau:

“Nên nhớ rằng: những điều ta định ra được ở một số trình-thuật Tin Mừng, thường có sự khác-biệt khi nhận-định về lòng tin. Những điều như thế lại thấy áp-dụng ở đây, ngang qua xác-định về sự khác-biệt giữa tính huyền-diệu và phép lạ hoặc sự lạ. Tính huyền-diệu/tuyệt vời, là điều gì đó tôi hoặc chúng ta không có giải-thích thoả-đáng nào, vào lúc ấy.

Trên thế-gian, vẫn có muôn vàn huyền-diệu/tuyệt-vời xảy ra ở quanh ta, khiến ta dễ dàng chấp-nhận mà không thắc-mắc gì hết.

Tôi không tin, là ta sống trong vũ-trụ khép kín trong đó ta hiểu hết mọi sự/mọi việc cách trọn-vẹn. Cả khi ta hiểu hoặc biết thế-giới, cách trọn-hảo thế nào đi nữa, đó vẫn là hiểu hoặc biết của riêng ta mà thôi. Bởi thế nên, tôi kỳ vọng sẽ tìm ra được muôn vàn sự việc mà tôi không hiểu rõ hoặc giải-thích được. Nhiều chương-trình truyền-hình vẫn thích gọi đó là bí-nhiệm hoặc bí-ẩn. Và, những gì tôi gọi là huyền-diệu/tuyệt-vời hoặc khúc-mắc/rắc rối, có những hiện-hữu trên đời theo cách khách-quan, chính là sự huyền-diệu, tức sự-việc đưa ta cảm-kích đến độ ưa-thích, là bởi vì ta không có giải-thích nào thoả-đáng về nó hết.

Khi mọi người tuyên-bố gọi sự huyền-diệu là sự lạ hay ‘phép lạ’, là họ đã có động-thái xuất tự lòng tin của họ mà ra. Và, họ tuyên-bố điều đó là cho chính họ, mà thôi. Thiên-Chúa vẫn hành-động cách trực-tiếp, ngay tức khắc trong hoàn-cảnh này, Ngài vẫn can-thiệp chuyện bình-thường ở ngoài đời cách đều-đặn, hoặc theo tiến-trình tự-nhiên để tạo sự huyền-diệu/lạ lùng ấy. Thế thì, bằng vào định-nghĩa về động-thái của lòng tin, tức động-tác diễn-giải cách cơ-bản vượt mọi bằng-chứng hoặc chẳng có chứng-cớ gì hết, cũng vậy.

Thành ra, không thể có cái-gọi-là ‘sự lạ’ hay ‘phép lạ’ một cách khách-quan được, trừ phi ta sống trong một thứ vũ-trụ tuyệt-đối khép kín, mà tất cả mọi tiến-trình và luật-lệ ta đều nắm vững. Khi ấy, mọi chuyện ta không thể giải-thích nổi sẽ là ‘phép lạ’ hoặc ‘sự lạ’, tức thứ xâm nhập của thế-lực siêu-nhiêu đi vào hệ-thống khép kín của thế-giới tự-nhiên. (xem John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1996 p. 74-77)

Hiểu thế rồi, nay ta hãy mạnh-dạn đi vào vườn trình-thuật Tân Ước, để rồi sẽ bắt gặp giòng tư-tưởng chính-đáng những dặn rằng:

“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 9-13)

Suy thế rồi, nay ta hãy cùng nhau đi vào vùng trời truyện kể để thư-giãn. Thư và giãn,  bằng những lời lẽ rất “buông lỏng” để thể-hiện như lời dặn dò của ai đó, trong đời rằng:

– Có ai khen con đẹp, con hãy cảm ơn và quên đi lời khen ấy.

– Có ai bảo con ngoan, hãy cảm ơn và nhớ ngoan hiền hơn nữa.

– Với người òa khóc vì nỗi đau mà họ đang mang, con hãy để bờ vai của mình thấm những giọt nước mắt ấy.

– Với người đang oằn lưng vì nỗi khổ, con hãy đến bên và kề vai gánh giúp.

– Người chìa tay và xin con một đồng. Lần thứ nhất con hãy tặng họ hai đồng. Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng. Lần thứ ba con phải biết lắc đầu. Và đến lần thứ tư con hãy im lặng, bước đi.

– Con hãy biết khen. Nhưng đừng vung vãi lời khen như những cậu ấm cô chiêu vung tiền qua cửa sổ.

– Lời chê bai con hãy giữ riêng mình.

– Nụ cười cho người. Con hãy học cách hào phóng của mặt trời khi tỏa nắng ấm.

– Nỗi đau. Con hãy nén vào trong.

– Nỗi buồn. Hãy biết chia cho những người đồng cảm.

– Đừng khóc than, quỵ lụy, van nài. Khi con biết ngày mai rồi sẽ đến. Có bầu trời, gió lộng thênh thang.

– Con hãy đưa tay. Khi thấy người vấp ngã.

– Cần lánh xa. Kẻ thích quan quyền.

– Bạn. Là người biết đau hơn nỗi đau mà con đang có.

– Thù. Là người quặn đau với niềm vui mà con đang có.

– Chọn bạn sai. Cả đời trả giá.

– Bạn hóa thù. Tai họa một đời.

– Con hãy cho. Và quên ngay.

– Đừng sợ bóng đêm. Đêm cũng là ngày của những người thiếu đi đôi mắt.

– Đừng vui quá. Sẽ đến lúc buồn.

– Đừng quá buồn. Sẽ có lúc vui.

– Tiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lại.

– Lùi bước để hiểu mình. Con cứ lùi thêm nhiều bước nữa. Chẳng sao.

– Hãy ngước nhìn lên cao để thấy mình còn thấp.

– Nhìn xuống thấp. Để biết mình chưa cao.

– Con hãy nghĩ về tương lai. Nhưng đừng quên quá khứ.

– Hy vọng vào ngày mai. Nhưng đừng buông xuôi hôm nay.

– May rủi là chuyện cuộc đời. Nhưng cuộc đời nào chỉ chuyện rủi may.

– Hãy nói thật ít. Để làm được nhiều – những điều có nghĩa của trái tim.

– Nếu cần, con hãy đi thật xa. Để mang về những hạt giống mới. Rồi dâng tặng cho đời. Dù chẳng được trả công.

– Những điều cha viết cho con – được lấy từ trái tim chân thật. Từ những tháng năm lao khổ cuộc đời. Từ bao đêm chơi vơi giữa sóng cồn. Từ bao ngày vất vưởng long đong.

– Cha viết cho con từ chính cuộc đời cha. Những bài học một đời cay đắng.

– Cha gởi cho con chút nắng. Hãy giữ giữa lòng con. Để khi con cất bước vào cuộc hành trình đầy gai và cạm bẫy. Con sẽ bớt thấy đau và đỡ phải tủi hờn.

– Đừng hơn thua làm gì với cuộc đời, con ạ.

– Hãy để chị, để anh giành lấy phần họ muốn.

– Con hãy chậm bước dù là người đến muộn.

– Dù phần con chẳng ai nhớ để dành!

– Hãy vui lên trước điều nhân nghĩa.

– Hãy buồn với chuyện bất nhân.

– Và hãy tin vào điều có thật: “CON NGƯỜI SỐNG ĐỂ YÊU THƯƠNG”.

Đúng thế. Sống trong đời, với mọi người, chỉ để yêu và để thương hết mọi người. Dù, người ấy đã ra đi như người nghệ-sĩ từng hát nhiều vào hôm trước, bằng những câu như:

“Ngày em đi, nghe chơi vơi não nề

qua vườn Luxembourg sương rơi che phố mờ

buồn này ai có mua?

Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng,

ngập giòng nước sông Seine,

mưa rơi trên phím đàn chừng nào cho tôi quên.

Hôm em ra đi mùa thu

mùa thu không trở lại

lá úa khóc người đi

sương mờ dâng lên mi

em ra đi mùa thu

mùa lá rơi ngập ngừng

đếm lá úa sầu lên

bao giờ cho tôi quên.”

(Phạm Trọng Cầu – bđd)

Vâng. Đúng là như vậy. Như vậy, tức: ngày hôm nay, nếu em hoặc anh có “ra đi mùa thu” đi nữa, thì tôi đây vẫn vui tươi chứ không sầu buồn, dù hay quên.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã ra đi

Và còn đi, đi mãi

Vào nhiều mùa thu hơn nữa.

“Em đừng khóc làm gì”,

Tin Mừng (Mc 4: 35-41)

Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ:

Chúng ta sang bờ bên kia đi!

Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”

Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển:

“Im đi! Câm đi!”

Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Người bảo các ông:

“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?

Các ông hoảng sợ và nói với nhau:

“Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

“Em đừng khóc làm gì”,

Cho nước mắt vu vơ

Dù đôi tay buông xuống

Chúng mình vẫn tin tưởng,

Chúng mình vẫn say sưa…”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá lược dịch

Tin tưởng hay say sưa, vẫn là những tình-tự của con người nơi thế-giới nhà Đạo rất say sưa, nhiều tin tưởng. Hệt như truyện kể ở trình-thuật rất hôm nay.

Trình-thuật hôm nay, Đức Giêsu đã chứng-tỏ cho các vị gần cận, đi theo Ngài để thực-hiện một sứ-vụ rất tin-tưởng, đầy say sưa. Tin, đến độ không còn hãi sợ bất cứ thứ gì, kể cả chết đuối chết chìm giữa cơn phong-ba/bão táp của đời người.

Những tháng ngày đã qua, ai trong chúng ta hầu như cũng đã hơn một lần tiếp xúc với đủ mọi truyền thông đại chúng, rồi sau đó có tỏ-bày một tin-tưởng vào chuyện truyền-thông/vi-tính từng loan-báo. Truyền-thông hôm nay có đủ thứ để hấp dẫn người nghe, người đọc kéo về mà tin tưởng bằng đủ mọi cách. Có những cách, như: hội thoại ba chiều, điện đàm với truyền hình còn gọi là “face time”, hoặc “điện thư phát tiếng”, như Viber.

Đây là thành phần không thể thiếu trong cuộc sống đương đại. Cần thiết đến độ: nhiều lúc, ta không thể bỏ qua những tình huống vật vã khi phải giao tiếp với người đang ở bên kia đường giây điện thọai; cứ phải hét to những điều đã nói đi nói lại trong suốt cuộc điện đàm. Cuộc sống hiện thời là thế đó.

Cứ tưởng tượng, vào một ngày đẹp trời, Đức Chúa cài đặt  “điện thư phát tiếng” vào hệ thống giao lưu chốn Thiên đường, không hiểu mọi việc sẽ ra sao? Chẳng hạn như, ta đang tập trung cầu nguyện mà lại nghe có tiếng từ trời cao: “Cảm ơn con đã gọi, Ta là Thân Phụ Đức Chúa đây. Con hãy nhấn một trong các nút số sau đây: -Muốn xin điều gì, con hãy nhấn số “1”. -Muốn nói đôi lời cảm tạ, con nhấn số 2. –Nếu chỉ cần tả oán, than phiền một ai, con nhấn số “3”. -Về các chuyện khác, hãy nhấn số “4” cho Cha. Đơn giản, chỉ có thế”.

Có trường hợp, Đức Chúa hành xử theo lối xã giao thông thường, như: “Xin lỗi con, Cha đang bận giải quyết đôi chuyện cho người anh em của con. Tuy nhiên, lời cầu của con rất cần đối với Cha, nên con hãy chờ đấy, Cha sẽ trở lại nói chuyện với con trong vài phút nữa,”… thì ta sẽ hành xử ra sao?

Trường hợp tệ hơn, đang điện đàm mà lại thấy có tiếng nhắn, đối đáp như thế này: “Vi tính của Cha cho biết: con đã thầm cầu nguyện như thế đến 3 lần trong suốt ngày hôm nay. Gác máy lên đi con và trở lại gặp Cha ngày mai nhé” … hoặc “Văn phòng của Cha hôm nay đóng cửa vì là ngày Sabát, con hãy trở lại với Cha vào lúc  “Không” giờ từ Thứ Hai tuần tới, nhé. Hoặc giả, có chuyện gì khẩn cấp cần giải quyết ngay, con cứ đến gặp Linh mục chánh xứ, thầy Imam hoặc các vị Thượng tế trong vùng, cũng được…” Trường hợp nào ở đây cũng đều là gọi-đáp. Khi xưa, xảy ra trong giấc mộng. Hôm nay, qua kỹ thuật viễn thông, vi tính.

Bài đọc I và Phúc âm hôm nay cũng đều nói đến gọi và đáp, tương tự như chuyện ở trên. Nhưng được viết theo cung cách giản đơn, thích hợp với hiểu biết của người đương thời lúc ấy. Bài đọc I cho thấy: nhiều người vẫn nghĩ Lời Chúa gọi-mời nói chuyện với chúng ta cũng cùng một cách thức tương tự. Lúc nãy là giọng oang oang, lanh lảnh nhắn ta làm điều giản đơn, nhanh gọn.

Thánh Yoan ghi lại trình thuật theo phong thái giản đơn, tế nhị. Đọc bài ngài viết, hẳn ta đã rõ là các môn đệ tiên khởi cũng được gọi-đáp hỗ tương, hai chiều. Hai bên đối đáp không tỏ dấu bồn chồn, hối hả. Như thánh An-rê tông đồ chẳng hạn. Sở dĩ thánh nhân thuận theo chân Yêsu Đức Chúa là do nghe được lời khuyên của thánh Gioan Tẩy giả. Còn, Simôn Phêrô đến với Đức Kitô lại ngang qua lời truyền miệng của người anh em ruột thịt. Tức, nghe được đề nghị của An-rê, em mình.

Nói chung, điều mà tác giả các bài đọc muốn gửi đến người nghe hôm nay, chính là: Đức Chúa mời gọi tất cả chúng ta hãy đến mà sống và phục vụ Chúa bằng nhiều kiểu cách và phương tiện. Có thể, vì muốn nắm bắt điều gì xác thực nên chúng ta vẫn mải mê, hy vọng. Vẫn cứ chờ đợi đường lối, chỉ đạo của bậc trên. Những chỉ đạo mang nặng sắc thái bi ai, kịch tính về thánh ý của Đức Chúa. Có người đạt sở nguyện. Người khác thảy đều như Anrê hoặc Simôn Phêrô. Nghĩa là, phần đông đều cảm nhận lời Chúa bằng nhiều cách nối kết hoặc ứng đáp khác thường.

Tựu trung, chúng ta thường hay chiều theo sở thích, ưa những chuyện ly kỳ, khúc mắc hơn là giản đơn. Nhưng, hãy nên để thời thời gian phụ giúp, kinh nghiệm cuộc đời sẽ tạo đường, chỉ lối dẫn đưa ta đến với phương cách chọn lựa mang nhiều hy vọng, tin tưởng và dễ thực hiện nhất.

Phúc âm hôm nay đặc biệt đưa ra một khía cạnh thật đáng khích lệ. Đó là: trường hợp của thánh An-rê tông đồ. Thánh nhân nhất quyết tuân theo những gì Yêsu Đức Chúa mời gọi. Thánh nhân đã sống trung thành với quyết định của mình. Ông nhận ra rằng đồng hành với Đức Yêsu là hành trình trải dài theo năm tháng. Để rồi chung cuộc, nhờ biết đáp ứng một cách tích cực, nên thánh nhân đã trở thành vị tông đồ rất chăm; chuyên lãnh vai trò tuyển mộ đồ đệ của Đức Chúa một cách kiên trì, bền bỉ.

Ngày nay, lời kêu gọi đối đáp mà Đức Chúa gửi đến chúng ta mang dáng dấp hơi khác thường. Thay vì mải mê tìm kiếm nơi chốn Đức Chúa ẩn mình trú ngụ, ta lại có nhiều cơ may hơn để cảm nghiệm cuộc sống “rất riêng“ của Ngài. Cảm nghiệm được như thế, tức là ta đã mời Ngài thiết lập cơ ngơi đến thường trú với ta trong cuộc sống miên trường. Dù cho, sự thể có biến đổi đến thế nào đi nữa, rồi ra mọi việc sẽ diễn tiến theo cùng kiểu cách; nghĩa là, cũng có gọi-đáp, không khác khi trước là bao.

Tựa như Samuel, An-rê và Simôn Phêrô lúc xưa, chắc chắn lời ứng đáp của ta với điều Chúa kêu mời phải dẫn đưa ta đến được mục tiêu Ngài muốn. Thái độ của ta chắc cũng không khác gì các đồ đệ của Đức Chúa hôm trước. Thực tế cuộc đời cho thấy: tất cả các lời mời gọi và ứng đáp đều kéo theo cái giá của nó. Và, cho dù với giá nào đi nữa, chúng ta cũng đều phải trả. Có thể chỉ là việc cỏn con, đột xuất. Cũng có thể bằng một giá phải trả, rất đắt.

Ứng đáp lời mời gọi của Chúa qua Đức Kitô không phải tất cả mọi người, dù thờ ơ hay sốt sắng, ai cũng có thể thực hiện được. Không phải ai cũng cậy sức mình, những tưởng sẽ hoàn thành việc ứng đáp lời mời của Đức Chúa trong nháy mắt.

Ứng đáp là việc nhiều khi không đơn giản. Nó đòi hỏi nhiều quyết tâm nơi người đáp ứng. Quyết yêu kẻ thù của mình; quyết lo cho nền hòa bình chân chính; quyết thứ tha những ai sai phạm điều gì với chính mình, gia đình mình. Đặc biệt hơn, quyết biến cải thế giới này thành nơi tốt đẹp cho mọi người cùng sống. Sống trong công bằng. Sống hạnh phúc.

Trong cuộc sống thường nhật, muốn ứng đáp cho phải Đạo, thường vẫn buộc ta phải trả một giá khá đắt. Đắt vì quanh ta có nhiều thứ mời mọc hấp dẫn hơn, ở nơi nào đó… khiến ta cứ mải mê săn tìm. Ứng đáp lời mời gọi của Đức Chúa là việc cần làm. Ta chỉ việc nối đường giây rất gọn với cội nguồn của sự sống, rất hấp dẫn. Bởi,  nguồn cội này sẽ đem cho ta nhiều ý nghĩa lớn lao hơn. Có đáp ứng với lời mời gọi từ nguồn sống như thế, sẽ nối kết chúng ta vào với thế giới hôm nay. Nối kết với vương quốc của Đức Chúa trong mai ngày.

Suy cho cùng, cuộc sống bao giờ cũng dẫy đầy những cuốn hút, mời mọc. Vấn đề là: ta có đủ tỉnh trí để nhận ra được lời mời gọi nào là chính đáng, lời nào viển vông. Khi đã nhận ra lời mời chính đáng rồi, việc còn lại phải là: ta có đủ tỉnh táo để đáp ứng cho phải phép không? Hoặc vẫn cứ lơn tơn như người tiền sử, chẳng bận tâm gì đến thông số, điện toán. Chẳng thiết tha đến việc bấm số trả lời khi Đức Chúa vẫn gửi “điện thư phát tiếng” cho mỗi người và mọi người. Trong từng cộng đoàn lớn nhỏ.

Suy thế rồi, ta ngâm lại những lời thơ còn-đó-nỗi-buồn, rằng:

“Dù quanh chúng mình chỉ là những hàng rào đố kỵ

Giữa một đêm không trăng,

Giữa một lòng chiều không đáy,

Em đừng khóc làm gì

Cho nước mắt vu vơ…”

(Nguyên Sa – Bài Thơ Ngắn)

Thơ có ngắn, cũng nói lên được những điều mà truyền-thông/vi-tính lâu nay vẫn muốn nói bằng đủ mọi phương-tiện. Phương-tiện ấy có là điện-thư phát tiếng hoặc điện đàm có truyền hình, nhất nhất đều bảo nhau:

“Dù đôi tay buông xuống

Chúng mình vẫn tin tưởng,

Chúng mình vẫn say sưa

Chúng mình vẫn nhìn vào mắt nhau

Để mở chân trời rất rộng…”

Chân trời ấy, hôm nay, lại là niềm tin không vu vơ. Không hàng rào đố kỵ. Nhưng vẫn tin nhau như từng tin vào Đức Chúa, rất Giêsu là Thầy mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Thấy gì từ đề xuất 3 cải cách đối với Đảng

Thấy gì từ đề xuất 3 cải cách đối với Đảng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-06-12

Thấy gì từ đề xuất 3 cải cách đối với Đảng Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg4466727.jpg

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Nhóm chuyên gia của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại Saigon vừa có đề xuất khá đặc biệt gọi là “liên minh cải cách và phát triển cho Việt Nam gồm: Đảng, cơ quan dân cử, tư pháp, hành chính công vụ, kinh tế tư nhân.” Sự cải cách tập hợp này được xem như là điều kiện cần thiết để nền kinh tế Việt Nam có thể trở lại mức phát triển cao 7,5%-8%  trong mười năm tới.

“Không chịu uống thuốc đủ liều”

Theo Thời báo Kinh tế Saigon Online, tại cuộc tọa đàm về “Cải cách thể chế: từ tầm nhìn tới thực tiễn” do Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tổ chức ở Saigon sáng 10/6/2015, PGSTS Phạm Duy Nghĩa một thành viên của Chương trình đã nhận định rằng, thể chế của Việt Nam hiện nay không theo kịp yêu cầu cuộc sống. Học giả này ví von  nền kinh tế Việt Nam hiện nay như một người bệnh đã được định bệnh, kê toa cho thuốc nhưng lại không chịu uống đủ liều.

” Vấn đề ở Việt Nam là cách làm và hình thức làm, bước đi…cho nên những phản biện thẳng thắn đặt tất cả vấn đề ra thì người ta cho rằng nên làm trong một phạm vi hẹp, vừa phải vì Việt Nam chưa quen việc có môi trường để thực hiện dân chủ rộng rãi như ở các nước khác.
-LS Trần Quốc Thuận”

Đặt ra liên minh cải cách để hình thành mô hình phát triển mới, nhóm nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright đặt nặng tư duy cải cách cần thiết đối với Đảng Cộng sản. Vẫn theo SaigonTimes Online, một thành viên của nhóm, TS Huỳnh Thế Du đề xuất cải cách ba điểm mà Đảng trong vai trò lãnh đạo và dẫn đắt cần tập trung. Thứ nhất để định hướng chính sách quyết định đến sự phát triển của Việt Nam, để có chính sách tốt hợp lòng dân thì thảo luận chính sách phải công khai và để đạt mục đích này Đảng phải chấp nhận một xã hội cởi mở, chấp nhận vai trò phản biện của trí thức mạnh mẽ hơn.

Thứ hai là Đảng cần thúc đẩy cơ chế cạnh tranh, tìm ra nhân lực lãnh đạo có thực tài. Như vậy phải có một quá trình lựa chọn dân chủ, cởi mở, đựa trên nền tảng cạnh tranh.

Thứ ba là cần luật hóa vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Đảng cần gương mẫu là người đầu tiên tuân thủ chế độ pháp quyền, thượng tôn pháp luật.

Những đề xuất cải cách được cho là thẳng thắn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có tính khả thi hay không trong cơ chế một đảng độc quyền ở Việt Nam. Chúng tôi sẽ lấy ý kiến chuyên gia theo từng điểm một.   Đối với điểm thứ nhất, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội từ Sài Gòn nhận xét:

“Câu chuyện kêu gọi khuyến khích phản biện và giám sát thì Bộ Chính trị đã có có hai Nghị quyết 217, 218 để mà đặt vấn đề và tôi cho những việc đó cũng phù hợp với Hiến pháp 2013 là phát huy dân chủ, phát huy nhân quyền, tôi cho rằng điều đó không có gì trái. Nhưng vấn đề ở Việt Nam là cách làm và hình thức làm, bước đi…cho nên những phản biện thẳng thắn đặt tất cả vấn đề ra thì người ta cho rằng nên làm trong một phạm vi hẹp, vừa phải vì Việt Nam chưa quen việc có môi trường để thực hiện dân chủ rộng rãi như ở các nước khác.”

Đi đường vòng về tự do ngôn luận?

024_138495-250.jpg

Một bức tranh cổ động trên đường phố Sài Gòn, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO.

Việc kêu gọi Đảng chấp nhận một xã hội cởi mở, chấp nhận vai trò phản biện của trí thức mạnh mẽ hơn có thể hiểu là một cách nói khác đi đường vòng về tự do ngôn luận, tự do lập hội. TS Phạm Chí Dũng, nhà phản biện độc lập từ TP.HCM đưa ra nhận định:

“Vấn đề là cần phải có đề xuất cụ thể hơn nữa, chứ bây giờ chỉ đưa ra vấn đề xã hội cởi mở thì Đảng trước giờ vẫn nói xã hội cởi mở, vẫn có chủ trương phản biện, dân chủ từ trên xuống từ dưới lên và mới đây thì ông Trọng lại đưa ra lời kêu gọi trí thức đóng góp phản biện và ông Nguyễn Tấn Dũng cũng có Quyết định 501 xây dựng diễn đàn trí thức phản biện chuyên nghiệp giao cho Liên hiệp Hội Khoa học Kỹ thuật thí điểm xây dựng. Như vậy nếu như nhóm Chương trình Fulbright hay tổ chức nào khác không có đề xuất cụ thể hơn mà chỉ nói chung chung như vậy thì sẽ khó có thể thuyết phục được ai, đặc biệt là khó thuyết phục được đối tượng đang đề cập là Đảng và Nhà nước.”

Điểm thứ hai trong đề xuất cải cách của Chương trình Fulbright liên quan tới việc gọi là cơ chế cạnh tranh tìm nhà lãnh đạo thực tài, thông qua quá trình lựa chọn dân chủ. Luật sư Trần Quốc Thuận nhận xét:

“Câu chuyện cạnh tranh thi để giữ các chức vụ thì hiện nay có Bộ Giao thông Vận tải thực hiện rất mạnh mẽ. Nhưng cũng chỉ là cấp dưới Bộ còn thực hiện cạnh tranh rộng rãi thì cũng có đặt ra cho bầu cử ở cấp cơ sở phường xã chứ chưa đặt ra ở cấp cao hơn. Cho nên việc đặt ra là có bầu cử tranh cử tự do hay không thì có lẽ Đại hội Đảng 12 này chưa đặt ra được,”

Cùng một câu hỏi được nêu ra về tính khả thi của đề xuất: Đảng thúc đẩy cơ chế cạnh tranh, bầu cử dân chủ để lựa chọn nhân sự lãnh đạo. Ghi nhận một vài thí điểm thi tuyển ở cấp Vụ Cục Bộ GTVT hoặc ở cấp địa phương như Đà Nẵng, TS Phạm Chí Dũng nhấn mạnh:

“Vấn đề cạnh tranh vẫn là yếu huyệt rất lớn trong Đảng, trong nhà nước và chính phủ từ cấp trung ương tới cấp địa phương. Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề cạnh tranh đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là chỉ ở cấp nhỏ cấp địa phương.
-TS Phạm Chí Dũng”

“Vấn đề cạnh tranh vẫn là yếu huyệt rất lớn trong Đảng, trong nhà nước và chính phủ từ cấp trung ương tới cấp địa phương. Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề cạnh tranh đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là chỉ ở cấp nhỏ cấp địa phương.  Bởi vì muốn cạnh tranh được phải có con người cạnh tranh, muốn xây dựng được con người cạnh tranh phải xây dựng được cơ chế tổ chức cạnh tranh. Như đã thấy ở trong Đảng, trong nhà nước, trong bộ máy chính quyền gần như chưa có yếu tố cạnh tranh vẫn chỉ chủ yếu là cán bộ con ông cháu cha, hay mua quan bán chức là nhiều. Chưa có yếu tố thực tài nhân tài, chưa trải thảm đỏ chưa thu hút người tài mà tất cả chỉ là lời nói miệng mị dân mà thôi.”

Điểm thứ ba trong đề xuất cải cách ba điểm đối với Đảng Cộng sản, nhóm nghiên cứu Chương trình Fulbright TP. HCM cho rằng cần luật hóa vai trò và hoạt động của Đảng. Vì hơn ai hết Đảng cần gương mẫu là người đầu tiên tuân thủ chế độ pháp quyền, thượng tôn pháp luật. Đối với điểm này, LS Trần Quốc Thuận nhận xét:

“Câu đó người ta đã đặt ra và bàn nhiều trong khi làm Hiến pháp 2013 và Điều 4 vẫn tiếp tục ghi vai trò lãnh đạo của Đảng nhưng trong đó cũng ghi là Đảng chịu trách nhiệm về quyết định của mình, chịu sự giám sát của nhân dân. Điều này là tốt, cho nên Luật Mặt trận Tổ quốc vừa qua có người cũng đặt vấn đề này. Tuy nhiên Luật Mặt trận Tổ quốc cũng chưa đi thẳng vào là có nên giám sát Đảng hay không. Trên nguyên tắc Đảng là toàn quyền lãnh đạo và có giám sát triệt để các cơ quan chấp hành của Đảng. Ở Việt Nam cũng được hiểu như thế là gián tiếp giám sát Đảng, nhưng trực tiếp giám sát cá nhân Đảng Cộng sản giao cho xã hội, cho đoàn thể khác thì vấn đề đó Việt Nam chưa đặt ra.”

Cùng về vấn đề luật hóa vai trò và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nội dung ba điểm cải cách của nhóm nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright TP.HCM. Tiến Sĩ Phạm Chí Dũng nhận định:

“Vấn đề này không mới, người ta thường nói là có một tổ chức hoạt động trái pháp luật từ trước tới giờ, ai cũng thấy nhưng không ai dám nói, đó là tổ chức Đảng vì không có một luật nào cho Đảng cả. Tôi nghĩ đây là đề nghị đáng chú nhất của nhóm Chương trình Fulbright mặc dù đã có nhiều người nêu rồi. Đảng cần được luật hóa và đưa vào trong Hiến pháp và xây dựng nguyên một bộ luật về những điều kiện hoạt động riêng cho đảng cầm quyền. Tôi muốn nói là luật đó không chỉ áp dụng cho đảng cầm quyền hiện nay mà còn áp dụng cho những đảng cầm quyền cho những thế hệ sau này trong những năm sắp tới trong điều kiện có nhiều đảng hơn một đảng hiện nay.”

Theo tường thuật của SaigonTimes Online, diễn giả TS Huỳnh Thế Du thuộc nhóm nghiên cứu Chương trình giảng dậy kinh tế Fulbright TPHCM còn làm rõ hơn những góp ý cải cách với Đảng. Theo đó song song với những vấn đề mà Đảng cần tập trung cải cách vì là người định hướng chính sách quyết định đến sự phát triển của Việt Nam, Đảng cần tập trung một cách chủ động vào năm vấn đề mà ông gọi là năm cấu phần quan trọng của việc hình thành một liên minh cải cách và phát triển đúng nghĩa.

Đó là chuyên nghiệp hóa hoạt động của cơ quan dân cử và dân biểu; tạo dựng một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp đủ năng lực quản lý và điều hành quốc gia; tạo dựng hệ thống tư pháp đủ quyền lực để bảo vệ công lý; xem kinh tế tư nhân trong nước như một đối tác liên minh của chính quyền trong việc tạo ra một Việt Nam thịnh vượng; thừa nhận sự tồn tại và vai trò tất yếu của các tổ chức xã hội; chấp nhận quyền giám sát nhà nước và thị trường của các các tầng lớp trong xã hội và giới truyền thông.

Vẫn theo tường thuật của Saigon Times Online, các chuyên gia khách mời tham dự Tọa đàm do Chương trình giảng dậy kinh tế Fulbright tổ chức trong đó có TS Trần Đình Thiên thuộc Viện Kinh tế Việt nam, LS Trần Hữu Huỳnh thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đều có chung nhận định là bộ máy hành pháp của Việt Nam hiện nay quá mạnh, trong khi tiếng nói của lập pháp và tư pháp quá yếu ớt nên cần phải có cơ chế mới để cân bằng.

Người đọc báo cảm nhận là đề xuất ba cải cách dành cho Đảng, cũng như thực hiện liên minh cải cách với năm cấu phần, với mục đích tối thượng để Việt nam chuyển đổi sang mô hình phát triển mới sẽ khó có khả năng thực hiện toàn phần, hay nói cách khác đó là một đề xuất ước mơ của giới học thuật. Các chuyên gia mà chúng tôi trao đổi nói rằng, cải cách như thế chẳng khác nào đổi tên chế độ chính trị hiện tại của Việt Nam, thực hiện tam quyền phân lập, bầu cử tự do dân chủ và người dân có đầy đủ dân quyền cũng như nhân quyền.

Phải truy tới cùng bọn quan tham

Phải truy tới cùng bọn quan tham

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Nghị trường của Quốc Hội VN đang nổi lên những cuộc tranh luận gay gắt về một số vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Có hai vấn đề đáng chú ý nhất, trong bài trước tôi đã tường thuật cùng độc giả là “quyền im lặng” của một can phạm khi bị cơ quan điều tra tạm giữ. Vấn đề thứ hai là “nên hay không nên bãi bỏ án tử hình cho tội tham nhũng.” Tuần này tôi đề cập đến vấn đề thứ hai. Cũng trong buổi thảo luận ấy đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau, hầu hết ý kiến đều đồng tình là không bỏ án tử hình với các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ nhằm trừng trị nạn tham nhũng. Tuy nhiên, nguyên Phó Chánh Án Tòa án Nhân Dân (TAND) Tối cao Trần Văn Độ, thành viên Hội Đồng Thẩm Định các dự án luật của chính phủ, lại có quan điểm khác hẳn.

Tử hình quan tham không giải quyết được gì?

Ông Độ ủng hộ bỏ án tử hình trong hai tội tham ô tài sản và nhận hối lộ. Trên số báo ngày 4-5, Pháp Luật đã đăng bài phỏng vấn ông Trần Văn Độ. Ông nói: “Tội tham ô, nhận hối lộ là các tội tham nhũng mang tính kinh tế. Hiện hầu hết các nước đã bỏ án tử hình đối với những tội danh này. Ở Trung Quốc cũng có tuyên án tử hình với hành vi tham nhũng nhưng là tử hình treo, tức hoãn thi hành, sau hai năm chuyển sang tù chung thân. Chỉ có Việt Nam là còn áp dụng án tử hình đối với tội tham ô, nhận hối lộ và hiện nay vẫn đang muốn giữ lại án tử hình trong dự thảo BLHS (sửa đổi).” Ông cho rằng cách hành xử “không được bao nhiêu” đối với tham nhũng càng làm mất lòng tin của người dân.

Căn dinh thự của ông Truyền được mệnh danh là hoa hậu xứ Dừa.

Ông chỉ ra một thực tế: “Tội tham ô, nhận hối lộ chúng ta quy định hình phạt tử hình nhưng thực tế không xử lý được bao nhiêu cả. Dân bảo các ông hô hào thôi chứ có làm được đâu? Nghiêm minh tức là tham ô 4-5 tỷ đồng trở lên phải tử hình, nhưng chúng ta có làm được đâu. Thậm chí có những người tham ô nhưng về mặt đảng chỉ cảnh cáo thôi. Tức là có độ chênh giữa quy định và thực thi trên thực tiễn. Chúng ta chỉ xử lý những vụ tham nhũng vặt, dăm ba chục triệu, vài ba trăm triệu. Quy định thật nặng, thật to nhưng không thực hiện được thì càng làm mất lòng tin của người dân.”
Ý kiến này lập tức bị phản đối ngay trong nghị trường, nhất là làn sóng phản kháng dữ dội của người dân.

Duy trì án tử để chống quan tham

Theo Viện Trưởng Đinh Xuân Thảo của Viện Nghiên Cứu Lập Pháp, việc thu hẹp án tử hình là phù hợp với xu hướng thế giới. Tuy nhiên việc Dự thảo luật đề xuất bỏ hình phạt tử hình với một số tội danh như cướp tài sản, phá hủy công trình quan trọng quốc gia là chưa phù hợp, cần cân nhắc lại.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ thì cho rằng, đối với tội phạm tham nhũng, khi sửa luật, điều quan trọng vẫn phải bảo đảm tính răn đe của pháp luật. “Tội tham nhũng nếu bảo bỏ người ta lại bảo không đấu tranh chống tham nhũng nữa. Điều này chưa thuyết phục.” ĐB Trần Du Lịch (TP Sài Gòn) cũng cho rằng, đối với tội tham nhũng là không thời hiệu, do vậy cần phải truy tới cùng, phát hiện đến cùng mới có thể trừng trị được.
Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Tư Pháp Nguyễn Đình Quyền cũng đề nghị không nên bỏ án tử hình bằng mọi giá để phúc đáp yêu cầu của thế giới. Đại biểu Quyền cũng không đồng tình với việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già từ 70 tuổi trở lên. Vì hiện nay tuổi thọ đã được nâng cao, trong khi đó nhiều đối tượng ở độ tuổi này lại “phạm tội kinh khủng,” với tâm lý “hy sinh đời bố, củng cố đời con.”

Căn nhà lụp xụp, rách nát của một người dân nghèo ngay bên cạnh dinh thự của ông Truyền. Và ở rất nhiều địa phương khác, ai cũng thấy nghịch cảnh này.

Cưỡi lên đầu nhân dân còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản…!?

Đó là lời nhận xét của ông Nguyễn Xuân Tỷ, Phó Giám Đốc Học Viện Quốc Phòng, Đoàn đại biểu Quốc Hội tỉnh Bến Tre. Ông Tỷ nói nguyên văn như sau: “Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa.”
Có lẽ đây là lời nhận xét thẳng thắn nhất của một đại biểu Quốc Hội về việc giàu lên nhanh chóng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, công chức. Ông Nguyễn Xuân Tỷ đã nói ra một điều tưởng như vô lý, đó là có hẳn một “đội ngũ” làm cán bộ có “mấy năm” mà trong nhà có “vài ba trăm tỉ” đồng, thậm chí cả “ngàn tỉ đồng” thì quả là khủng khiếp. Chuyện vô lý đã nghiễm nhiên trở thành một sự thật tràn lan không thể chối cãi ở VN ngày nay.
Trên báo Tiền phong, Giám Đốc Công An thành phố Hà Nội, tướng Nguyễn Đức Chung bày tỏ: “Người nghèo đi buôn ma túy bị lĩnh án tử hình, không cớ gì người có chức vụ, kiến thức mà tham ô, tham nhũng lại không bị tử hình.”
Về phía người dân, đã có rất nhiều lời phẫn nộ, tôi chỉ nêu một ý kiến trên báo Kiến Thức của bạn Nguyễn Duy Xuân:
“Bỏ tử hình là nương tay với quan tham nhũng! Chỉ có những kẻ tham nhũng chưa lộ mặt là hả hê chuẩn bị một quy trình đục khoét mới… Cách đây khoảng vài năm, ở quê tôi có một vị cán bộ chức tước cũng cỡ trưởng phòng cấp huyện, được dân tặng cho cái biệt danh cá rô phi. Hôm nghe ông tổ trưởng dân phố gọi thế, tôi ngạc nhiên hỏi lại nguyên do. Ông tổ trưởng giải thích ngắn gọn: Vì lão ta ăn tạp, không từ một thứ gì.
“À ra thế! Cứ nghĩ dân không biết gì, ai dè họ tinh đời lắm! Chuyện ông trưởng phòng tham lam ăn tạp, dư luận ai cũng tường, nhưng tặng cho cái biệt danh là cá rô phi thì chỉ có dân mới thâm thúy đến thế. Bây giờ nghĩ lại, bỗng thấy rùng mình. Giờ không chỉ một con rô phi mà cả một bầy rô phi nhung nhúc. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì gọi là một bầy sâu. Một bầy sâu hay một bầy rô phi – đều là lũ ăn tàn phá hại – núi non cũng sạt chứ nói gì đến tài sản quốc gia. Những con sâu bự, những con cá rô phi tổ chảng ấy được che chắn bằng những chiếc bình phong liêm khiết trong sạch, thấy đó nhưng không dễ gì lột mặt nạ chúng được.”

Không tham nhũng thì là tội gì?

Cũng trên báo Kiến Thức, nhân dịp ồn ào này, Luật sư (LS) Phan Xuân Xiểm nêu quan điểm về những sai phạm của quan Phó Tổng Thanh Tra chính phủ Trần Văn Truyền mà LS xác định đây là tham nhũng. Tôi tóm tắt những điểm chính của ông LS này:
– “Ông Trần Văn Truyền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nói dối cấp trên chưa có nhà để được cấp nhà, có nhà rồi vẫn cố tình xin nhà ở các nơi khác nhau, thế không gọi là tham nhũng thì là gì? Nếu chỉ thu hồi tài sản và xử lý kiểm điểm thì không thỏa đáng.”
– “Ngay từ lúc ông Truyền mới ra Hà Nội công tác đã có những đơn tố cáo về lối sống, đạo đức, không xứng đáng làm cán bộ lãnh đạo, gửi về Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương. Khi đó tôi còn đang làm, quá trình xác minh cũng được tiến hành nhưng rồi không hiểu sao không thấy phát hiện vấn đề gì. Nói thế để thấy những sai phạm của ông ấy không phải mãi đến gần lúc nghỉ hưu mới có mà có tính quá trình. Lợi dụng quyền hạn để có những đặc quyền đặc lợi cho bản thân, cho gia đình. Có nhà bảo chưa có, có đất bảo chưa, xây những dinh thự nguy nga hoành tráng, sống xa hoa gây ra sự phẫn nộ của người dân.”
LS phân tích tiếp: “Nếu kết luận có tội tham nhũng thì phải xử lý hình sự. Vấn đề là phải làm rõ tham nhũng như thế nào. Còn tôi khẳng định không tự nhiên cán bộ có tài sản nhiều như vậy được. Chỉ có thể là do tham nhũng, móc ngoặc thì mới có. Thứ trưởng Bộ Xây Dựng Nguyễn Trần Nam từng phát biểu trong một cuộc hội thảo rằng, cỡ lương thứ trưởng thì phải 40 năm mới mua được nhà thu nhập thấp cơ mà. Thế nên nói ông Truyền không tham nhũng là vô lý.”
Khi được PV hỏi: Từ câu chuyện này, có ý kiến cho rằng có thêm một bài học về phòng chống tham nhũng là kiểm soát chặt những cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo sắp nghỉ hưu để tránh tình trạng “hốt mẻ lưới, hạ cánh an toàn,” ý kiến của ông thế nào?
– Tôi nghĩ sai phạm của ông Truyền có tính quá trình, phải rất lâu mới tích tụ được khối tài sản lớn như vậy, không phải gần đến lúc nghỉ hưu ông ấy mới sai. Thế nên phải kiểm tra, giám sát chặt cả quá trình công tác, nhất là ở những vị trí, lĩnh vực nhạy cảm chứ không riêng là người sắp về hưu hay mới được bổ nhiệm.
Tóm lại vị LS này cho rằng cần phải tịch thu toàn bộ tài sản của ông Truyền đồng thời tịch thu tài sản của các con cháu do quan tham để lại hoặc cho đứng tên.
Chúng ta hãy thử phân tích trường hợp này.

Tâm lý hy sinh đời bố cũng cố đời con

Đó là một “khẩu hiệu” của những ông quan già đời, sắp về hưu. Trước khi “hạ cánh” cố gắng làm một vài vụ lớn và bất chấp luật lệ, sẵn sàng nhận lãnh án tù. Bởi ông già rồi, có sống thêm cũng chỉ vài năm nên làm vài quả thật lớn chừng vài ba trăm tỷ để lại cho con cháu.
Như trên tôi đã đề cập đến lời của Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Tư Pháp Nguyễn Đình Quyền không đồng tình với việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già từ 70 tuổi trở lên. Vì hiện nay tuổi thọ đã được nâng cao, trong khi đó nhiều đối tượng ở độ tuổi này lại “phạm tội kinh khủng,” với tâm lý “hy sinh đời bố, củng cố đời con.”
Bạn Nguyễn Hùng (e-mail: thehung191073@gmail.com) viết: “Kiếm vài ba trăm tỉ, chấp nhận án tù vài chục năm, vào tù chỉ cần ngoan ngoãn chấp hành tốt, án sẽ được giảm còn dăm ba năm. Sướng thật. Đời cứ thế mà ung dung hưởng thụ bởi có tịch thu tài sản thì giỏi lắm nhà nước cũng chỉ lấy lại được phần nào bởi tất cả đều đã được tẩu tán, hợp thức hóa bằng cách cho vợ con cháu chắt đứng tên hết rồi.”
Đây là một thực trạng diễn ra từ lâu ở VN, đến bây giờ vẫn chưa có quan nào bị tịch thu tài sản, con cháu cứ việc ung dung thụ hưởng khối tài sản vĩ đại của ông cha để lại. Cần phải truy tận gốc những tài sản đó do đâu mà có. Không thể tin vào việc kê khai tài sản của các quan chức. Cần phải có những cuộc điều tra trung thực, quy mô hơn. Đừng để họ hàng hang hốc các quan tham cưỡi mãi lên đầu người dân nữa. Và không thể bãi bỏ án tử hình cho tội tham nhũng. Nếu pháp luật đã quy định “tham ô 4-5 tỷ đồng trở lên phải tử hình” thì cứ thế mà thi hành, còn bàn đi tán lại làm chi nữa cho dân nghi ngờ: Chắc có ông nào sợ chết nên mới khơi ra vụ bỏ án tử hình?

Văn Quang

(12-6-2015)

Nỗi Đau Của Núi

Nỗi Đau Của Núi

tuongnangtien

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tiên

“Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc…”

Ma Văn Pá (Dân Oan H’mông)

Báo Dân Trí, số ra ngày 20 tháng 5 năm 2015, đã vô cùng hân hoan gửi đến cho độc giả một tin vui:

Cô bé H’mông vượt “cổng trời” ra phố đi học… 11 tuổi, Mị vượt 50 cây số đường rừng, vượt những con dốc cao, lội qua những con suối mùa mưa nước cuồn cuộn chảy để đi học thêm cái chữ.

Học giỏi, múa hay, là liên đội trưởng xuất sắc, Mị vinh dự đại diện cho hàng nghìn bạn nhỏ H’mông được ra Hà Nội báo công với Bác nhân dịp kỉ niệm 125 năm ngày sinh của Người.

Vừa qua, trong Hội thi “Chúng em kể chuyện Bác Hồ”, bằng giọng kể trầm ấm, diễn xuất sinh động, cô học trò người H’mông Vừ Y Mị vinh dự đạt giải Nhất toàn huyện. Câu chuyện “Bác Hồ với câu hát dân ca” mà Mị kể khiến nhiều người cảm động. “Chúng em chỉ được gặp Bác qua những câu chuyện kể và biết rằng, Bác dành nhiều tình yêu mến cho những làn điệu dân ca đã nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thửa thiếu thời. Yêu Bác, em thêm yêu hơn nhưng câu ví, giặm quê mình. Người H’mông nay không còn du canh du cư nữa, trẻ em H’mông được cắp sách tới trường… Người H’mông ơn Đảng, ơn Bác Hồ nhiều”, Vừ Y Mị chia sẻ.

Ảnh: Dân Trí

Lời lẽ của cháu Mị khiến tôi nhớ đến bản nhạc (Người Mèo Ơn Đảng) của Thanh Phúc:

Bao đời nay sống nghèo lam lũ
Nay cuộc sống dân Mèo từ đây sáng rồi …
Người Mèo ơn Đảng suốt đời.

Đảng vốn hảo ngọt nên “nhạc sĩ” pha chế nước đường (cho uống bằng thích) là chuyện thuận lý nhưng nếu chỉ vì thế mà bắt cả một sắc tộc, hàng triệu người miền núi, phải “ơn Đảng suốt đời” thì chơi hơi bị ép . “Cuộc sống của dân Mèo” (nói nào ngay) không “sáng” gì cho lắm, nếu chưa muốn nói là ngược lại. Gia cảnh của ông Thắng A Di có thể được coi là một trong những trường hợp (tối tăm) tiêu biểu:

“Cùng với 6.500 người Hmong khác, cũng chạy nạn từ Lào sang, gia đình ông Thắng A Di bị nhà cầm quyền Thái Lan coi là những di dân bất hợp pháp. Từ ngày 4 tháng 7, họ bị xua đuổi và không còn chỗ nào khác hơn là tập trung trên hành lang dài 2 KM, dọc theo con lộ chính nơi Bản Làng Bên Dòng Sông Trắng.

Họ che những tấm vải nhựa, nhưng rõ ràng là khó vượt qua được cái nóng vẫn còn gay gắt, hoặc những trận mưa đầu mùa ở vùng đông Bắc Thái … Họ đã trải qua bốn ngày điêu đứng như người chạy loạn, không nơi che mưa nắng, không thực phẩm, không nước sạch, kể cả không có chỗ làm công việc vệ sinh cần thiết …”

Dù vậy, vẫn theo tường trình của Nam Nguyên (từ Phet Chabun – Bắc Thái) ông Thắng A Di cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần với phóng viên RFA rằng “nếu phải chết em thà chết tại đây.”

Ủa, chớ cớ sao mà cái ông Thắng A Di này lại nói năng lạng quạng (và liều mạng) dữ vậy cà? Câu trả lời có thể tìm được qua lời phát biểu của một thanh niên H’mông khác, anh Ma Văn Pá (tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng) vào hôm 9 tháng 10 năm 2013:

“Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc…”

Người H’Mông biểu tình ở Hà Nội. Ảnh: Trần Thị Cẩm Thanh

Những lời lẽ thẳng thắn và bộc trực (thượng dẫn) cũng giúp cho công luận hiểu thêm tại sao có biến động Mường Nhé – xẩy ra hồi năm 2011, ở tỉnh Điện Biên –  khiến cho hàng trăm người H’mông bị sát hại, hàng ngàn người khác bị bắt giữ, và vô số kẻ phải rời bỏ quê hương bảng làng để tìm đường lánh nạn.

Cùng với những sách nhiễu (thường xuyên) liên quan đến vấn đề tôn giáo, văn hoá và sắc tộc …, môi trường sống của người H’mông hiện nay cũng đang bị huỷ hoại không thương tiếc. Từ Hà Nội, tác giả Đặng Hoàng Giang (qua BBC – vào hôm 4 tháng 3 năm 2015) đã bầy tỏ sự lo ngại “Rồi Tất Cả Sẽ Trở Thành Đồ Sơn” trong tương lai gần:

“Từ sau khi đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai khánh thành, lượng khách tới Sapa tăng đột biến. Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, ô tô và xe khách biển số 29 và 30 chen chúc nhau nhích từng tí một trên những con phố dốc và hẹp ở trung tâm, rú ga giữ máy, bấm còi inh ỏi…

Không còn nhìn thấy núi non gì nữa vì hai bên đường đã kín hàng quán bán đồ lưu niệm. Trẻ con Hmong xếp hàng đợi được phát bánh kẹo như là khỉ trong sở thú.

Những đứa bạo dạn hơn thì đi giật lùi trước mặt khách, chúng từ chối kẹo, chỉ nhận tiền, và đồng thanh kêu như những cái máy vô hồn, tiếng Kinh không sõi ‘cô cho hai nghìn, cô cho hai nghìn.’ Một cộng đồng và một vùng thiên nhiên đã đánh mất nhân phẩm của mình vì du lịch…

Hiện nay, mỗi du khách tới Sapa sau khi bỏ ra 1 triệu đồng cho việc đi lại, khách sạn, ăn uống – tất cả chảy vào túi người Kinh, kể cả tiền cho một chai nước trắng – thì mới bỏ ra 10 nghìn mua mấy cái đồ thổ cẩm của người dân tộc. Thậm chí nhiều hướng dẫn viên du lịch còn dẫn khách tới các cửa hàng bán thổ cẩm nhập từ Trung Quốc vì họ được hoa hồng từ đây.

Và như vậy, những người Hmong, người Dao, người Tày, người Giáy, sẽ chủ yếu là đứng chầu rìa ở ngay trên quê hương họ.”

Bên lề cuộc đời. Ảnh lấy từ BBC

Thay vì được quan tâm, nâng đỡ để có thể dễ dàng hoà nhập vào dòng sống chung của cả dân tộc thì tất cả những sắc dân bản địa đều bị “chầu rìa” ráo trọi, chứ có riêng chi người H’mông. Và sau khi bị đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam thì hầu như họ đều sống bấp bênh (“bên lề cuộc đời”) dù trôi dạt đến bất cứ nơi đâu.

Tôi có theo dõi nhưng không tìm được tin tức gì thêm về gia đình của ông Thắng A Di, chả biết họ cầm cự được bao lâu trong điều kiện sống “không nơi che mưa nắng, không thực phẩm, không nước sạch, kể cả không có chỗ làm công việc vệ sinh cần thiết …” nơi Bản Làng Bên Dòng Sông Trắng và – chung cuộc – đã lưu lạc đến chân trời góc biển nào rồi?

Cuối tháng Năm vừa qua, ở Thái Lan, tôi có dịp ngồi uống rượu suốt buổi với một người H’mông khác. Ông không đồng ý cho tôi chụp hình, và cũng chỉ cho biết mình họ Sùng nhưng không muốn nêu tên vì sợ những chuyện phiền phức có thể xẩy ra cho bà con hay bè bạn ở quê nhà.

Ông Sùng quê ở Hà Giang, mang gia đình vào Đắc Nông làm ruộng rẫy đã lâu. Ông hơi nghễng ngãng sau khi “bị các ông cán bộ thay phiên tát tai liên tục mấy giờ đồng hồ liền vì tôi không chịu thề bỏ đạo.” Chuyện cưỡng bức đức tin, tuy thế, không phải là nguyên do chính để ông rời bỏ Việt Nam.

Đất đai canh tác bị thu hồi mới thực sự là giọt nước  tràn ly khiến ông Sùng đã dắt díu vợ con chạy băng qua Lào, rồi (cuối cùng) đến Thái.

  • Nó bảo đất mới khai thác chưa được 10 năm thì nhà nước không có đền bù đồng nào cả. Không có đất thì chúng tôi biết sống làm sao nên phải tìm chỗ để đi thôi.

“Đi đâu ?” Có lẽ chưa bao giờ là câu hỏi ông Sùng đặt ra một cách … nghiêm trang:

  • Người ta chạy thì chúng tôi cũng chạy theo, chứ muốn ở lại cũng không được đâu. Khó sống với Nhà Nước lắm!

Kiểu lập luận giản dị của ông Sùng, tất nhiên, không được cả Cao Ủy Tị Nạn và chính quyền Thái Lan chấp nhận. May mắn là IDC (Immigration Detention Center, Nhà Giam Của Cơ Quan Di Trú) ở Thái Lan luôn ở trong tình trạng quá tải nên cả gia đình ông không ai bị truy tố và giam giữ về tội nhập cư trái phép.

Thế là cả nhà sống lêu bêu giữa thủ đô Bangkok. Tiền không có một cắc, tiếng không biết một chữ, và cũng chả quen biết bất cứ ai để có thể nhờ cậy hay tá túc.

Cuối cùng – cứ như là phép lạ – họ may mắn được “cứu sống” bởi những nhân viên của cơ quan thiện nguyện ở Thái. Hiện ông Sùng đang chen chúc với nhiều gia đình, gồm cả trăm người H’mông Việt Nam khác, trong một căn nhà thuê bốn tầng (do một hội thánh Tin Lành tài trợ ) ở ngoại ô Bangkok.

Cả ông lẫn bà đều đã ngoài sáu mươi nên ở nhà giữ mấy đứa cháu. Con trai ông Sùng đứa làm nghề phụ hồ, đứa bán kem. Hai cô con dâu đi rửa chén cho quán ăn gần đó.

  • Cũng kiếm đủ ăn đấy nhưng buồn quá ông ơi. Chúng tôi nhớ nương rẫy lắm. Ở đây chả có cây cối gì cả. Vợ tôi cứ khóc hoài. Nó đòi về nhưng làm sao mà mình về được?

Nam vô tửu như kỳ vô phong. Chúng tôi đã cưa gần hết một chai Regency Brandy Thai (một loại rượu mạnh rất rẻ tiền và bốc rất hỗn) nhưng cả hai đều vẫn ngồi xụi lơ, buồn bã. Trầm ngâm một lát, rồi ông Sùng ngại ngần tiếp:

  • Thế liệu rồi chúng tôi có được đến Mỹ không?
  • Dạ, chắc phải được chứ!

Tôi nói láo, tất nhiên. Thực tình thì tôi không “chắc” lắm. Sau đợt cưỡng bách mấy ngàn người H’mông phải quay về Lào, hồi cuối năm 2009, cả chính phủ Thái lẫn Cao Ủy Tị Nạn bị dư luận chỉ trích nặng nề. Nhờ thế, những người H’mông Việt Nam đến sau (sau biến động Mường Nhé) như gia đình ông Sùng, mới được “yên lành” cho mãi đến hôm nay.

Vô hình trung nhóm người H’mông này (bỗng) trở thành một thứ “cây cảnh về lòng nhân đạo” để trang điểm cho cả nước Thái lẫn Cao Ủy Tị Nạn. Họ không đông lắm, chỉ vài trăm người nên không phải là một ghánh nặng đáng kể. Họ lại rất thuần phác, hiền lành, chăm chỉ và chả bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi hay làm phiền chi cả.

Sự hiện diện của họ tránh cho Thái Lan, cũng như Cao Ủy, khỏi bị điều tiếng về chuyện trục xuất người tị nạn. Chính vì vậy,  rất có thể, họ sẽ không bao giờ có cơ hội được đặt chân đến nước thứ ba.

Lý do, giản dị, ai cũng biết là nếu mấy trăm con  người khốn khổ này mà được định cư thì chỉ vài tuần sau (hay vài ngày sau) thôi sẽ có ít nhất là hàng ngàn (hay chục ngàn) người H’mông khác – từ Việt Nam và Lào – lại tiếp tục ồ ạt chạy qua biên giới Thái. Cái cột đèn mà còn phải đi thì nói chi đến người, nhất là người H’mông hay người Thượng.

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc bản địa tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà cùng thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.

Cũng chính họ là những kẻ đứng ở tuyến đầu, giữ gìn vòng đai an ninh cho tổ quốc. Cớ sao lại tỏ thái độ kỳ thị, khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy người ta đến tận bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (rõ ràng) đang muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại một thêm ngu xuẩn và tệ hại hơn!

Việt Nam lại ‘ngậm bồ hòn làm ngọt’ với Trung Quốc

Việt Nam lại ‘ngậm bồ hòn làm ngọt’ với Trung Quốc

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ông Đinh La Thăng, bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải CSVN vừa phân trần với công chúng Việt Nam rằng, mua 13 tàu điện của Trung Quốc là chuyện thuộc loại “bất khả kháng.”

Dự án tuyến metro Cát Linh-Hà Đông lẽ ra phải hoàn tất vào năm 2012 nhưng
đến nay vẫn đang còn… xây dựng. (Hình: Bộ Giao Thông-Vận Tải)

Trước đó, công chúng Việt Nam tỏ ra hết sức giận dữ sau khi các viên chức Ngành Giao Thông-Vận Tải Việt Nam loan báo, sẽ bỏ ra 63.2 triệu Mỹ kim để mua 13 tàu điện (mỗi tàu có bốn toa) do công ty trang thiết bị tàu điện ngầm Bắc Kinh của Trung Quốc sản xuất, để dùng cho tuyến metro Cát Linh-Hà Đông.

Viên bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải Việt Nam kêu gọi dân chúng thông cảm vì khi ký hợp đồng vay vốn ODA của Trung Quốc cho dự án xây dựng tuyến metro Cát Linh-Hà Đông, Việt Nam bị buộc phải mua các tàu điện do Trung Quốc sản xuất.

Ông Thăng nói thêm rằng, nhà thầu Trung Quốc thực hiện dự án xây dựng tuyến metro Cát Linh-Hà Đông “yếu kém, chúng tôi rất bức xức nhưng muốn thay thì lại vướng các điều kiện đã ký nên không thay được.”

Có thể xem dự án xây dựng tuyến metro Cát Linh-Hà Đông là một trường hợp Việt Nam phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” khi nhận “hỗ trợ” từ Trung Quốc.

Chiều dài của tuyến metro này chỉ có 13 cây số, lẽ ra phải hoàn tất vào năm 2012 nhưng đến nay vẫn còn dở dang. Năm ngoái, nhà thầu Trung Quốc cam kết sẽ hoàn tất công trình vào tháng 6 năm 2015 nhưng gần đây, thời điểm khánh thành được thông báo là tiếp tục dời lại đến cuối năm song tin mới nhất cho biết, phải đến hết quí 1 năm tới mới có thể vận hành tuyến metro Cát Linh-Hà Đông.

Hồi hạ tuần tháng 11 năm ngoái, tại điểm xây dựng một nhà ga trong tuyến metro Cát Linh-Hà Đông, ở đoạn chạy qua quận Thanh Xuân, do cẩu bị đứt cáp, ba thanh dầm bằng thép đã rớt xuống đường, đè chết một người và làm hai người trọng thương.

Lúc đó, Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam đã ra lệnh cho nhà thầu Trung Quốc tạm ngưng thi công để kiểm tra toàn bộ quy trình giám sát bảo đảm an toàn. Nửa tháng sau, nhà thầu Trung Quốc được phép tiếp tục thi công và chỉ trong hai tuần lại gây thêm tai nạn khác.

Rạng sáng 28 tháng 12, năm 2014, giàn giáo trong công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh-Hà Đông, ở đoạn sát bến xe Hà Đông đột nhiên sụp xuống lúc đang đổ bê tông. May mắn là tai nạn xảy ra vào lúc rạng sáng, đường chưa đông người qua lại nên không có tổn thất nhân mạng. Sắt thép, bê tông chỉ đè nát phần đầu của một chiếc taxi vừa trờ tới. Tài xế taxi và ba hành khách trong xe không bị thương. Theo một số chuyên gia, giàn giáo sập do bị dịch chuyển lúc đang đổ bê tông.

Công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh-Hà Đông không chỉ thiếu an toàn, kém chất lượng mà còn nổi tiếng vì sự tráo trở của nhà thầu Trung Quốc. Nhà thầu Trung Quốc đã đòi nâng vốn đầu tư dự án từ 553 triệu Mỹ kim lên 892 triệu Mỹ kim. Tuy yêu sách này phi lý song chế độ Hà Nội vẫn bất chấp sự can gián của chuyên gia nhiều giới, vay thêm của Trung Quốc 339 triệu Mỹ kim để đáp ứng đòi hỏi của nhà thầu Trung Quốc!

Lúc đó, theo tường thuật của báo chí Việt Nam, tại cuộc họp với ông Chu Hằng Vũ, phó tổng giám đốc tập đoàn hữu hạn của Cục 6 Ngành Đường Sắt Trung Quốc, ông Đinh La Thăng, bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải Việt Nam, nhận định, tuyến metro Cát Linh-Hà Đông là công trình giao thông tồi tệ nhất ở Việt Nam. Công trình này khiến dân chúng Việt Nam lo ngại về mức độ an toàn, chất lượng và phẫn nộ vì nhà thầu Trung Quốc không thèm đếm xỉa đến những yêu cầu của Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam.

Ông Thăng yêu cầu nhà thầu Trung Quốc phải tìm một người “có trình độ và lương tâm” để thay thế tổng chỉ huy công trường, đổi ngay công ty Trung Quốc đang giữ vai trò giám sát (công ty giám sát xây dựng thuộc viện nghiên cứu thiết kế công trình đường sắt Bắc Kinh). Cũng đến lúc đó, Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam mới đòi nhà thầu Trung Quốc phải sử dụng công ty giám sát do bộ này chỉ định và loại toàn bộ các nhà thầu phụ để trực tiếp ký hợp đồng với các tổng công ty xây dựng công trình giao thông của phía Việt Nam.

Viên bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải Việt Nam khẳng định, nếu nhà thầu Trung Quốc không chấp nhận những yêu cầu đó thì ông ta sẽ đề nghị chính phủ Việt Nam loại họ để kiếm một nhà thầu khác. Cũng phải đến lúc đó, đại diện nhà thầu Trung Quốc mới nhượng bộ, mới xin lỗi hứa sẽ đáp ứng tất cả các yêu cầu của viên bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải Việt Nam.

Tuy nhiên chuyện “cảnh cáo” nhà thầu Trung Quốc của ông Thăng bị cả báo giới lẫn cựu viên chức ngoại giao của Trung Quốc cho là kích động “bài Trung.”

Hồi đầu năm nay, Hoàn Cầu Thời Báo dẫn lời ông Tề Kiến Quốc, từng là đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, khuyến cáo, lẽ ra, ông Thăng không nên làm như thế đối với nhà thầu Trung Quốc, không nên làm sự việc trở thành rùm beng vì tai nạn ở các công trường tại Việt Nam là… bình thường. (G.Đ)

Xem thêm:

Vay tiền Trung Quốc: lợi bất cập hại (RFA)

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông được thực hiện theo Hiệp định vay vốn ODA được ký giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2003. Theo Hiệp định này, phía Trung Quốc tài trợ vốn kiêm luôn thầu thi công và giám sát.

HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

LM John Nguyễn, Utica, New York

Khi được xem cuốn phim về cái chết của Đức cha Oscar Romero, Tổng giám mục El Salvador, nó làm cho tôi có nhiều cảm xúc và cảm phục về vị Giám mục đã hy sinh mạng sống của mình, để đứng lên bảo vệ, bên vực cho lẽ công bằng, cho người nghèo, cho những người bị áp bức bất công. Ngài như là hạt giống được gieo vào lòng đất để trổ sinh ra những bông hạt khác.

Biến cố xẩy ra vào lúc 6 giờ 25 chiều, ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh Viện khi Tổng giám mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn thân vừa mới qua đời.  Đức cha đọc cho cộng đoàn nghe đoạn Phúc âm Thánh Gioan:“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Gioan 12, 23-24), rồi ngài áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng của người dân nước El Salvador, họ phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.  Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ:Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. Kẻ nào tránh né sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình.  Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài. Ngài nói thêm:Tôi tin trong sự chết có sự sống lại.  Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong lòng người dân El Salvador của tôi.

Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị dâng thánh lễ thì có tiếng súng nổ, và một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên.  Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng và tắt hơi thở cuối cùng dưới bàn thờ.  Ngày nay, không chỉ người dân El Salvador mà cả những người công giáo trên toàn thế giới gọi Ngài là vị Giám mục của người nghèo.

Giáo hội ngày hôm nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy, cần có những hạt giống tốt gieo vào thế gian thì Giáo hội mới có thể gặt hái được mùa bội thu, điều đó được tìm thấy trong dụ ngôn hạt giống của Chúa Giê-su.  Ngài diễn giải Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé âm thầm gieo xuống đất. Dù đêm hay ngày thì hạt giống ấy vẫn mọc lên thành cây to.

Nếu chúng ta áp dụng cái chết đau thương của vị Giám mục đáng kính vào bài Tin mừng hôm nay, thì chúng ta hiểu rõ hơn về những gì Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để nói về Nước Trời, giống hạt giống đó phải chấp nhận tự hủy chính bản thân mình thì mới sinh ra nhiều bông hạt khác.

Chính nơi Đức Chúa Giêsu, Ngài đến trần gian để gieo hạt giống Tin mừng bằng chính đời sống và bằng cái chết của Ngài.  Hạt giống của Chúa là bằng lời rao giảng, bằng sự yêu thương, bằng lời an ủi, chia sẻ và cảm thông, bằng giọt máu để cứu rỗi nhân loại.  Hạt giống ấy dành cho những ai biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.

Đức Giám mục Oscar Romero là dấu chỉ hạt giống cho Tin mừng, hạt giống đức tin hôm nay, ngài là chứng nhân cho Đức Kitô tự hủy, sống cho chân lý, cho lẽ công bằng, cho người nghèo bị áp bức…  Ngài nằm xuống để cho bao người khác được ngẩng đầu bước đi, cho Nước Chúa được lan tỏa khắp nơi.

LM John Nguyễn, Utica, New York

NGUỒN GỐC TÊN SÀI GÒN

NGUỒN GỐC TÊN SÀI GÒN

Trần Văn Giang

Lời mở đầu :

Sài gòn là thành phố lớn nhất Việt Nam, nằm cạnh sông Sài gòn ở tọa độ 110°45′ Bắc, 106°40′ Đông (hay là 10.75, 106.667); và cách Hà nội 1760 cây số về phía Nam.

Trước khi “bị” người Việt chiếm ngụ vào thế kỷ 16,  Sài gòn có tên là “Prey Nokor,” là một hải cảng chính của Cam Bốt.  Sài gòn từng là thủ đô của chính quyền thực dân Pháp ở Đông dương, và sau đó cũng là thủ đô của chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975.  Sau năm 1975, Sài gòn được đổi tên là Thành Phố Hồ Chí Minh (?)

Tên nguyên thủy theo tiếng Khmer

Tên nguyên thủy của Sài gon là “Prey Nokor” và là lãnh thổ của người Khmer (Cam bốt). Theo tiếng Phạn (Sankrit nagara), Prey Nokor có nghĩa là “thành phố rừng” (Prey = rừng; Nokor = đất, thành phố). Ngày nay nhiều người Khmer ở Cam bốt và cả dân sắc tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu long nhiều khi vẫn còn gọi Sài gòn là Prey Nokor.

Sài gòn tên nguyên thủy theo tiếng Việt

Ngay sau khi người Việt ồ ạt đến mở mang và định cư tại Prey Nokor, thành phố này đã được người Việt gọi là “Sài gòn.” Có rất nhiều gỉa thuyết, tranh luận về nguồn gốc tên thành phố bằng chữ Việt (Sài gòn). Các tranh luận về lịch sử của danh từ “Sài gòn”sẽ được bàn thêm ở phần dười dây.

Trước khi thực dân Pháp đến Việt Nam, triều đình Huế dùng tên chính thức của Sài gòn là “Gia định.” Năm 1862, người Pháp bỏ chữ “Gia định” và thay vào đó bằng chữ “Sài gòn.”

Trên sử liệu (có lưu lại trên qua bản viết, in), người Việt đọc và viết chữ “Sài gòn” thành 2 chữ và 2 âm rõ rệt; tuy nhiên Pháp (và người tây phương) đã “tây phương hóa” 2 chữ “Sài gòn” thành một  chữ “Saigon” để cho họ dễ đọc và dễ viết.

Sài gòn theo quan điểm Việt Nam – Trung Hoa

Có người cho rằng chữ “Sài” được mượn từ tiếng Trung hoa (Tiếng Quan thọai đọc là “Chái”) có nghĩa là “củi, cành cây – firewood, twigs…)” còn chữ “Gòn” (tiếng Quan thọai đọc là “Gùn”) có nghĩa là “cọc, cây gậy – stick, pole, boles…) Chữ “Gùn” bị chuyển hóa dần thành ra “Gòn” tương tự như “bông gòn – cotton stick, cotton plant.”

Có người lại cho rằng tên “Sài gòn” phát nguyên từ các cây bông gòn người Khmer trồng chung quanh Prey Nokor mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rất nhiều ở quanh vùng Cây mai, Trương Vĩnh Ký…

Có một điểm lạ lùng là người Hoa sống ở Việt Nam cũng như ờ Trung quốc không dùng tên gọi “Sài gòn” (tiếng Quảng đông đọc là “Chaai-Gwan; tiếng Quan thọai đọc là “CháiGùn”) để gọi “Sài gòn” (mặc dù, như đã nói ở trên, nhiều sử liệu có ghi là người Việt mượn tiếng Trung hoa để đặt tên cho Sài gòn). Chính người Hoa lại gọi “Sài gòn” “Sai-Gung” (tiếng Quảng đông) và “XĩGòng” (tiếng Quan thọai).

Sài gòn theo quan điểm của người Khmer

Có một số tài liệu của Cam bốt cho là chữ “Saigon” chuyển hóa từ “Sai Con;” Và Chữ “Sai Con” đã chuyển hóa từ tiếng 2 chữ Khmer “Prey Kor” có nghĩa là “Rừng cây Kapok” (prey = rừng; kor = cây kapok). Nên để ý và đừng lầm lẫn chữ “Prey Nokor”“Prey Ko” (Ko = rừng cây kapok; Nokor – thành phố, đất).

Quan điểm của người Khmer ẩn tàng một ý có mục đích thuyết phục là họ đã có mặt ở đó (Sài gòn) trước khi người Việt đến định cư; tuy nhiên quan điểm này không gỉai thích được là tại sao chữ Khmer “prey” lại đổi thành chữ “Sài.” Bởi vì, hiển nhiên, cách đọc của hai chữ này hòan tòan khác biệt với nhau!

Sài gòn theo quan điểm của người Quảng đông

Một gỉa thuyết đưa ra bởi học gỉa Vương Hồng Sển, một người Việt gốc Hoa ở Sài gòn, là nguồn gốc từ tiếng Quảng đông của danh từ “Sài gòn” lấy từ chữ “Chợ lớn” mà người Quảng đông đọc là “Tai-Ngon” có nghĩa là “bến tầu, cảng” (?)

Tên hiện nay của Sài gòn

Sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản (30 tháng 4 năm 1975), chính quyền CS đổi tên thành phố Sài gòn là Thành Phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) (?) Tuy nhiên, đa số người dân Sài gòn vẫn gọi tên thành phố với cái tên quen thuộc cũ: “Sài gòn.” Ngòai ra, hiện nay, tên “Sài gòn / Saigon” còn được dùng rất nhiều trong sách vở; được dùng cho các tên tựa sách, được dùng đặt tên cho các công ty thương mại.

Lịch sử đất (lãnh thổ) Sài gòn

Khởi đầu Sài gòn chỉ là một làng đánh cá rất nhỏ của người Khmer.  Người Khmer đã sống ở đó nhiều thế kỷ trước khi có người Việt đặt chân đến mở mang và định cư.  Người Khmer dùng “Prey Nokor” như một hải cảng thuộc về vương quốc Cam bốt.

Năm 1623, vua Chey Chetta II  (1618-1628) của Cam bốt đã cho phép những người Việt chạy lánh nạn “Trịnh Nguyễn phân tranh” đến tạm trú và định cư quanh vùng Prey Nokor.  Từ sau khi đó, có rất nhiều đợt di cư rất lớn của người Việt đến vùng Prey Nokor mà vương quốc Cam bốt không đủ mạnh để ngăn chặn họ.  Dần dà, Prey Nokor bị biến thành đất đai của người Việt; và sau cùng “Prey Nokor” biến thành “Sài gòn!”

Năm 1698,  triều đình Huế (Chúa Minh – Nguyễn Phúc Chu) sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào trấn nhậm vùng đất Sài Gòn-Gia Định. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt Nam.  Nguyễn Hữu Cảnh tách vùng đất Sài Gòn-Gia Định (và sau đó là vùng đồng bằng sông Cửu long) ra khỏi vương quốc Cam bốt.  Cam bốt vì quá yếu nên không có một kháng cự nào.  Nguyễn Hữu Cảnh được xem như những người đi tiên phong trong giai đọan bành trướng lãnh thổ của Việt nam về phía nam và tây nam.

Năm 1859,  thành phố Sài gòn bị người Pháp chiếm đóng lần đầu tiên.  Cũng bắt đầu từ giai đọan thực dân, người Pháp đã xây dựng nhiều cơ sở, dinh thự theo cấu trúc của văn minh tây phương.  Vì vậy Sài gòn còn được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” (the Pearl of the Far East) “Tiểu Paris” (Little Paris).

Năm 1954, quân Pháp bị Việt Minh đánh bại ở trận Điện Biên Phủ và họ rút lui khỏi Việt Nam.  Từ trước đó (năm 1950), thay vì công nhận chính quyền CS, người Pháp ngầm ủng hộ Bảo Đại lập chính phủ và chọn Sài gòn là thủ đô.  Kể từ năm 1950 Sài gòn và vùng Chợ lớn (nơi có số rất đông người Hoa tập trung) được gộp chung lại thành một đơn vị hành chánh gọi là “Đô thành Sài gòn.”

Sau khi Việt Nam chính thức được chia làm 2: Bắc Việt (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Nam Việt (Việt Nam Cộng Hòa). Sài gòn là thủ đô của miền nam Việt Nam dưới chính phủ Ngô Đình Diệm.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, thành phố Sài gòn đặt dưới sự kiểm sóat của CS Bắc Việt.

Năm 1976, sau khi thống nhất quốc gia Viêt Nam xong, CS đổi tên chính thể của nước Việt Nam là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và đổi tên thành phố Sài gòn thành Thành Phố Hồ Chí Minh.  Thực ra, sau 30 tháng 4 năm 1975, thành phố Sài gòn (và Chợ lớn), tỉnh Gia định và 2 quận ở ngọai ô Sài gòn (thuộc 2 tỉnh khác nhau nằm sát Sài gòn) đã được gộp chung lại thành TP HCM.  TP HCM rộng 809 dặm vuông (hay là 2,095 cây số vuông) trải dài từ Củ chi (cách biên giới Việt Miên 20 Km) cho đến Cần giờ gần biển Nam Hải.  Khỏang cách từ điểm cực bắc (Phú Mỹ Hưng, quận Củ chi) cho đến điểm cực nam (Long Hoa, quận Cần giờ) là 120 cây số; và từ điểm cực đông (Long bình, quận 9) đến điểm cực tây (Bình chánh, Quận Bình chánh) là 46 cây số.  Mặc dù TP HCM là tên gọi chính thức trên giấy tờ hành chánh, nhưng đại đa số người dân sống ở Sài gòn vẫn gọi thành phố qua cái tên quen thuộc là Sài gòn.  Chữ “Sài gòn” còn thấy trên bảng hiệu của các cửa tiệm thương mại, ngay cả tại Hà nội, thí dụ như “Saigon thời trang,” “Kiểu Sài gòn…” bởi vì người Việt trong nước hiện nay nghĩ về chữ “Sài gòn” như là một cái gì tượng trưng cho “văn minh, thời thượng…”

Ngày hôm nay, trung tâm thành phố Sài gòn vẫn còn vẻ giữ tráng lệ với các đại lộ có những hàng cây xanh rợp bóng, thanh lịch, với nhiều dinh thự cơ sở có di tích lịch sử được xây dựng từ thời các đời vua Nguyễn, thời thực dân và thời VNCH như Đồn Cây mai (do danh tướng Nguyễn tri Phương xây dựng), nhà thờ Đức Bà và dinh Độc lập (tên mới là dinh Thống Nhất!)…