Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

Image result for hình ảnh trái tim chúa giêsu

“Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

(Người có trái tim ở bên ngoài,

bên trong lại không có tim)

Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.

Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh: người gì mà để trái tim ra ngoài !

Quan đại thần Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác; nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : “đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”. Từ đó quan đại thần Tsukamoto đặt bức ảnh Trái Tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn.

Một hôm, người bạn tên Osaki đến chơi, hỏi :

– Bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?

Quan đại thần Tsukamoto trả lời :

– Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài… Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là chính đạo.

Ông Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục… (Trích “Phúc”)

Thánh Tâm (聖 心) còn gọi là “Rất Thánh Trái Tim” nghĩa là trái tim thuộc về Đức Chúa (hoặc Đấng thiêng liêng). Khi nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là chúng ta phải luôn luôn hiểu bao gồm cả con người Chúa Kitô. Việc tôn thờ Thánh Tâm là nòng cốt của Đạo Công Giáo, như các Đức Piô XI và Piô XII đã nói: “Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là điểm cốt yếu của đạo chúng ta (summa religionis nostrae)”. Trong việc tôn thờ này, đức tin Kitô giáo vẫn nguyên tuyền vì đưa con người tới Chúa Ba Ngôi nhờ sự hợp nhất với Chúa Kitô, Đấng Trung Gian.

Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta theo gương Người. Hiến dâng cho Thánh Tâm Chúa, vì trong Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm được tình yêu thúc đẩy chúng ta yêu mến Chúa và tận hiến hoàn toàn cho tha nhân. Đúng như câu nói của vị quan người Nhật: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BI KỊCH CỦA MỘT GIA ĐÌNH CHÍNH TRỊ GIA

BI KỊCH CỦA MỘT GIA ĐÌNH CHÍNH TRỊ GIA

Kim Hà

Nguồn: Spiritdaily.com

(Hai cha con PTT Joe Biden và con trai Beau)

Phó Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Joe Biden vừa mất một người con trai là anh Beau Biden, 46 tuổi. Anh bị bịnh ung thư óc và qua đời ngày 30/5/2015 vửa qua. Anh là một luật sư, một bộ trưởng Tư Pháp của tiểu bang, một chính trị gia sáng giá và một tín hữu Công giáo ngoan đạo. Anh để lại người vợ trẻ và hai người con nhỏ, một trai, một  gái.

Tổng Thống Obama đã nói rằng:

“Anh Beau là một người Công giáo tốt lành và bác ái, một người ngoan đạo và trung thành. Anh đã làm cho cuộc sống của những người khác được tốt hơn. Anh sẽ sống lại trong trái tim của mọi người.”

Thật sự gia đình anh Beau và cha anh là Phó Tổng Thống Joe Biden trải qua một thảm kịch quá bi thương.

Vào ngày 17 tháng 5 năm 2015, khi đến nói chuyện trong buổi lễ tốt nghiệp của Đại Học Yale University, Ông Joe Biden đã tiết lộ rằng:

“Năm 1972, vợ tôi là Neilia, và đứa con gái 1 tuổi của tôi là Naomi đã bị tai nạn xe và chết ngay, còn hai con trai tôi là Beau, 3 tuổi, và Hunter, 2 tuổi thì bị thương nặng và nằm bịnh viện.”

“Lúc đó, tôi mới có 30 tuổi và vửa mới được bầu làm Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ. Lúc đó tôi là người trẻ tuổi thứ hai trong lịch sử của Thượng Viện Hoa Kỳ. Điều ấy làm cho tôi có nhiều tham vọng. Trong cuộc đời nếu bạn không cẩn thận thì bạn cứ nghĩ rằng mình thành công. Tuy nhiên, mọi sự có thể thay đổi hoàn toàn trong một nhịp đập của trái tim.”

“Sau khi trúng cử Thượng Viện được 6 tuần thì cả thế giới của tôi thay đổi mãi mãi. Trong lúc tôi đang ở tại thủ đô Washington, D.C. để thuê nhân viên cho văn phòng thì tôi nhận được một cú điện thoại. Vợ tôi và ba con của chúng tôi đang đi mua sắm quà cho mùa Giáng Sinh.  Một cái xe tractor-trailer đụng vào xe vợ tôi và làm cho vợ tôi và con gái tôi chết ngay lập tức. Và họ nói rằng không biết hai con trai tôi có thể sống sót được không?”

“Từ đó, tôi phải lái xe 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày từ Washington, DC về lại Wilmington, Delaware suốt nhiều tuần lễ để thăm nom hai con trai tôi ở bịnh viện. Sở dĩ  tôi phải vất vả đi lại vì tôi muốn ôm hôn các con tôi mỗi buổi tối và ôm hôn chúng mỗi buổi sáng của ngày hôm sau. Tôi muốn ở bên giường bịnh viện của các con tôi. Bởi vi tôi nhận nhức rằng một đứa trẻ có thể giữ những  ấn tượng quan trọng trong tâm hồn. Có những điều quan trọng mà chúng muốn nói với cha mẹ, có thể trong suốt 12 hay 24 tiếng đồng hồ, rồi chúng sẽ quên đi. Và khi chúng quên là quên luôn.”

“Sau tai nạn đau thương ấy, tôi không còn muốn tuyên thệ nhận chức Thượng Nghị Sĩ nữa. Lẽ ra tôi phải tuyên thệ chung với các đồng nghiệp vào năm 1973 nhưng tôi không muốn đến Washington, D.C. nữa. Tôi chỉ muốn ở lại với Beau và con trai khác của tôi. Cuối cùng thì tôi vẫn tuyên thệ nhưng ngay tại giường bịnh của Beau.”

Ông Biden nói chuyện được 2 tuần sau thì con trai của ông là Beau Biden chết. Beau là con đầu lòng của ông, mới có 46 tuổi.

Ông Joe Biden lại vừa phát biểu:

“Tôi có một mối liên hệ mật thiết với các con của tôi, đó là một hồng ân vì nếu không có sự mật thiết ấy thì tôi không biết mình có thể sống sót vượt qua khỏi những sự đau khổ mà tôi đã trải qua hay không? Ai biết được liệu mình có thể trân quý những giây phút đẹp đẽ và quý báu trong cuộc đời hay không?”

Khi còn sống, anh Beau Biden đã từng nói:

“Một trong những ký ức sớm nhất và đẹp nhất ở bịnh viện là ba tôi luôn ở bên cạnh tôi. Ba tôi chăm sóc cho anh em tôi. Ba không muốn tuyên thệ nhận chức. Ba bảo:

‘Tiểu bang Delaware có thể có một thượng nghị sĩ khác nhưng các con của tôi không thể có một người cha khác.’

Tuy nhiên, những chính trị gia nổi tiếng khác cũng đã trải qua những bi kịch trong cuộc đời như TNS Ted Kennedy, Mike Mansfield, Hubert Humphrey… đã khuyên can ba tôi là hãy phục vụ tổ quốc. Vì thế ba tôi đã tuyên thệ ngay tại giường bịnh của tôi. Là một người cha độc thân, ba quyết định luôn ở cạnh chúng tôi để cho chúng tôi lên giường ngủ vào buổi tối, luôn ở bên cạnh chúng tôi khi chúng tôi thức dậy sau khi có một giấc mơ hãi hùng. Ba làm các món ăn điểm tâm cho chúng tôi. Ba hy sinh lái xe 4 tiếng đồng hồ từ Washington, D.C về nhà trong 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày.”

Phó Tổng Thống Joe Biden nói rằng:

“Con trai tôi, Beau đã chiến đấu với bịnh ung thư óc với lòng chân thành, can đảm và sức mạnh. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy sự thật, lý do thật là sở dĩ tôi lái xe đi về mỗi tối là vì tôi cần các con tôi hơn là chúng cần tôi.”

“Có những người đã viết và nói rằng về tôi rằng:

‘Joe Biden không thể là một nhân vật chính trị nghiêm túc. Nếu ông ta nghiêm chỉnh thì ông phải ở lại thủ đô Washington nhiều hơn, tham dự các biến cố chính trị nhiều hơn. Ông ta không thể là một  chính trị gia nghiêm túc được vì ông ta vội vã về nhà ngay sau khi bầu bán.’

“Tuy nhiên tôi thấy mình không thiếu gì cả.”

Suy niệm:

Mỗi gia đình đều có những bi kịch riêng. Nếu không hiểu thì dễ phán xét. Ông Joe Biden đã chịu cực khổ để vừa trở nên một người cha cô đơn tốt lành trong một tình huống đau buồn và khó khăn như thế, vừa chu toàn nhiệm vụ phục vụ tổ quốc. Xin Chúa chúc phúc cho gia đình ông!

Xin Chúa chúc phúc cho linh hồn anh Beau Biden! Xin Chúa an ủi và cứu giúp gia đình anh Beau. Amen. RIP!

Kim Hà
31/5/2015

 

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN (1)

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN (1)

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-06-18

06182015-the-vn-new-wav-of-refug.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.

Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.

Từ khi VN tiến hành cải cách về kinh tế vào năm 1986, cho dù nền kinh tế đã phần nào phát triển. Tuy vậy trước việc chính quyền VN tiếp tục, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ và tôn giáo, thì đến nay vẫn có một làn sóng ngầm không ít những người đấu tranh tìm đường trốn khỏi VN để xin tỵ nạn vì lý do chính trị và tôn giáo.

Cuộc sống hiện nay của họ ra sao và những người này còn sẽ tiếp tục đấu tranh hay không?

Trong bài thứ nhất, Anh Vũ sẽ giới thiệu về chặng dừng chân đầu tiên của những người tỵ nạn này ở Thái lan và Campuchia.

…Buộc phải rời bỏ quê hương

Sau khi chiến tranh VN kết thúc, do sự sai lầm trong các chính sách chính trị và kinh tế của nhà cầm quyền cộng sản, đã dẫn đến một làn sóng người VN lên đến gần một triệu người bỏ nước ra đi để tìm kiếm cơ hội tỵ nạn ở nước ngoài.

Từ năm 1986, đảng CSVN phải thực hiện một cuộc cải cách kinh tế để thoát ra khỏi bờ vực phá sản. Đời sống kinh tế trong nước có khá hơn, cũng như sau đó các trại tỵ nạn của người Việt ở nhiều nơi trên thế giới bị đóng cửa, các nước không còn muốn nhận thuyền nhân nữa; khi đó cuộc khủng hoảng người tị nạn Việt nam tưởng như đã chấm dứt.

Tuy vậy ít người biết rằng từ đó đến nay, vẫn còn một làn sóng người Việt nam tị nạn chính trị mới. Nhiều người trong số họ buộc phải bỏ nước ra đi, mà các nước trong khu vực Đông Nam Á là chặng dừng chân đầu tiên của họ.

Theo số liệu thống kê, hiện tại ở Thái lan đang có khoảng 950 người tỵ nạn, tương tự ở Campuchia cũng có đến gần 200 người.

Nói về lý do khiến bản thân phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn, ông Hồ Văn Chỉnh cho chúng tôi biết:

” Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng

ông Hồ Văn Chỉnh”

“Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng.”

Anh Hoàng Đức Ái một nhà tranh đấu ở Nghệ An bị truy đuổi nên buộc phải bỏ nước ra đi đến Thái lan, anh nói:

“Lý do tôi phải đến Thái lan tỵ nạn là do tôi là 1 trong 8 người ở Nghệ An đã rải truyền đơn tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội.”

Thân phận tỵ nạn này còn dành cho những người sắc tộc H’mông, vì bị chính quyền đàn áp buộc họ phải từ bỏ tôn giáo mà họ tin theo. Một thầy truyền đạo người H’mông đang tỵ nạn ở Thái lan, yêu cầu được dấu danh tính cho chúng tôi biết. Ông nói:

Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)

Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)

“Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi.”

Khó khăn nơi “đất khách quê người”

Những khó khăn của những người bỏ nước ra đi tìm đường tỵ nạn ở nước ngoài khó mà kể hết, vì đối với họ tất cả đều mới lạ. Nói về những khó khăn hiện nay, anh Hoàng Đức Ái ghi nhận:

“Khó khăn thứ nhất là về công việc, mình không có việc làm. Thứ 2 là chính quyền Thái lan họ không cho mình nhập cư, nên nếu mình ra ngoài làm việc thì sợ họ bắt, vì nếu bị họ bắt thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Thứ 3 là vấn đề ngôn ngữ, vì không có ngôn ngữ thì rất khó khăn cho mình.”

Thầy truyền đạo người H’mông tiếp lời:

” Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi

Một thầy truyền đạo người H’mông”

“Ở Thái lan này thì cuộc sống nói chung cũng có nhiều cái khó khăn lắm, một là mình phải cố gắng đi kiếm việc làm, song vì mình là người sống bất hợp pháp nên người thuê mình làm họ ép giá rất là thấp. Cũng vì Thái lan họ không ký cái Công ước Quốc tế năm 1951 để bảo vệ người tỵ nạn, vì thế chúng tôi sang lánh nạn ở đây thì sự nguy hiểm luôn thường trực 24/24.”

Những khó khăn thì chồng chất như vậy, song việc có được Cao ủy tỵ nạn LHQ (UNHCR) cứu xét để cấp quy chế tỵ nạn cho những người tỵ nạn hay không thì là cả một vấn đề lớn và cũng hết sức khó khăn. Anh Hoàng Đức Ái khẳng định:

“Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông. Như lịch phỏng vấn của tôi cũng đã dời lại 2-3 lần, bây giờ cũng đã hết 1 năm rồi.”

Kể cả những trường hợp đã được chấp nhận cho hưởng quy chế tỵ nạn ở Campuchia, song quyết định đó cũng không có hiệu lực. Từ đó dẫn đến tình cảnh những người này vẫn phải sống một cuộc đời vô tổ quốc từ nhiều năm nay. Từ Campuchia, ông Hồ Văn Chỉnh nói với chúng tôi:

“Sau khi UN rút quân thì họ giao tôi lại cho phía Capuchia và họ cấp cho tôi một cái giấy do Phó Thủ tướng ký, nhưng cái giấy này không có hiệu lực gì hết. Bây giờ thì họ khong công nhận, mà họ chỉ công nhận giấy nhập tịch thôi. Do đó hiện tại cuộc sống của chúng tôi cũng hết sức khó khăn và ở Campuchia bây giờ chúng tôi không có tương lai gì hết.”

Tuy nhiên, ở miền đất mới đa số những người tỵ nạn vẫn không từ bỏ công việc đấu tranh của mình, họ vẫn tiếp tục tham gia công việc đấu tranh trong điều kiện có thể. Anh Hoàng Đức Ái bày tỏ:

“Đối với những người tỵ nạn như tôi hay một số người bạn ở đây, hàng ngày vẫn theo dõi tình hình ở VN để tiếp tục đồng hành đấu tranh với những người đấu tranh trong nước. Đặc biệt là đối với các bạn trẻ, bằng những bài viết trên các trang blog.”

” Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông

Anh Hoàng Đức Ái”

Thầy truyền đạo người H’mông cho chúng tôi biết hiện tại số người H’mông tỵ nạn về vấn đề tôn giáo ở Thái lan có khoảng 350 người và ông vẫn tiếp tục đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho bà con sắc tộc H’mông ở trong nước. Ông nói:

“Tôi vẫn tiếp tục hoạt động về niềm tin tôn giáo ở đây. Trước tình hình cộng sản VN đã ngăn cấm không cho đồng bào hoạt động tôn giáo tự do theo ý muốn của người dân thì tôi cũng tìm hiểu các thông tin về vấn đề này để viết các báo cáo để cho các tổ chức Nhân quyền biết, để lên tiếng bảo vệ đồng bào H’mông của chúng tôi.”

Về nguyện vọng chung của những người tỵ nạn hầu như cũng giống nhau, tất cả đều mong nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt nam ở khắp nơi trên thế giới và mong muốn nhanh chóng được đi định cư ở nước thứ 3. Ông Hồ Văn Chỉnh cho biết:

“Bây giờ cộng đồng thế giới hãy lên tiếng để giúp chúng tôi được đi định cư ở nước thứ 3, vì chỉ có thế chúng tôi mới có tương lai cho con cái sau này. Cho đến giờ tôi đã tỵ nạn ở đây 15 năm rồi, mà họ không cho chúng tôi nhập tịch gì hết. Chẳng biết tương lai của chúng tôi sẽ ra sao nữa.”

Được biết không phải chỉ có ở các nước Đông Nam Á, nhất là Thái lan mới có những người VN tỵ nạn về các lý do chính trị và tôn giáo. Tại một số quốc gia thuộc các châu lục khác hiện nay cũng có người tỵ nạn Việt Nam.

Trong bài sau, mời quý vị đón nghe phần tường trình của thông tín viên Tường An từ Paris, về cuộc sống của những người tỵ nạn đến từ VN ở Âu châu và Úc châu.

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu.  Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm.  Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện.  Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết.  Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế.  Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus.  Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại.  Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết.  Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ.  Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra.  Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được.  Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu.  Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả.  Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó.  Người tha thiết yêu ta.  Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn.  Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới.  Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông.  Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời.  Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai.  Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối.  Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được.  Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống.  Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước.  Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố.  Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh.  Thử thách giúp ta biết mình.  Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa.  Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn.  Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa.  Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi.  Chúa chỉ cho thử thách một thời gian.  Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng.  Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn.  Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa.  Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế.  Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách.  Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người.  Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta.  Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh.  Thử thách rồi sẽ qua đi.  Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta.  Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng cậy và lòng mến Chúa.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chị Thụ Mai gởi

Tony Melendez – Never Be The Same

Tony Melendez – Never Be The Same

Một người thanh niên tên là Tony Melendez bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người kể từ khi Ðức Gioan Phaolô II (nay là thánh G.P.II) đến viếng thăm tiểu bang California, Hoa Kỳ dạo mùa hè năm 1987.

Nhiều người đã chứng kiến buổi lễ tiếp đón Ðức Thánh Cha hôm đó và khó quên hình ảnh vô cùng cảm động khi vị Giáo Hoàng bước xuống từ một lễ đài cao để ôm hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn Guitar của mình.  Ðiều gì đã làm cho khung cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy đã trở nên luyến nhớ cho nhiều người?

Tony là hiện thân của niềm Hy Vọng.  Tony đã chào đời không có hai cánh tay.  Nhưng Tony đã vận dụng những ngón chân của mình để học đàn guitar.  Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác như xếp quần áo, vắt một ly nước chanh.

Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục.

Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh: “Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận chính mình để sống bình thường mà còn sử dụng guitar một cách tuyệt diệu như thế?”.

Anh đã trả lời như sau: “Tôi đã cầu nguyện : Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúa.  Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhậm lời tôi”.

·        Không ai trong chúng ta chọn lựa được sinh ra hay không sinh ra.

·        Không ai trong chúng ta chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà.

·        Không ai trong chúng ta chọn lựa được làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, khỏe mạnh hay bệnh tật, giàu sang hay nghèo hèn…

Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với cả một định mệnh.  Người ta vẫn nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người kém may mắn.

Nhưng trong ánh mắt Tình Yêu của Thiên Chúa, thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả.

Trong chương trình Quan Phòng của Ngài, mỗi người, dù nhỏ bé hèn mọn, dù tàn tật bất hạnh đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng.  Do những bất trắc của thiên nhiên, hay do hậu quả của tội lỗi, nhiều người phải sinh ra với tất cả một gánh nặng của bất hạnh.  Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc vì những hư hỏng ấy, Ngài luôn có một chương trình cho mỗi người.

Lắm khi chúng ta thấy được những kỳ diệu của Thiên Chúa được thể hiện qua những bất hạnh, mất mát của con người.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Xin mở Youtube để nhìn thấy Kỳ Công của Thiên Chúa….

httpv://www.youtube.com/watch?v=zlZPYGBXQ44

Trung Quốc mời quan chức Việt Nam sang thảo luận gì?

Trung Quốc mời quan chức Việt Nam sang thảo luận gì?

Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong một cuộc họp về vấn đề Biển Đông tại Hà Nội ngày 18/6/2014.

Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong một cuộc họp về vấn đề Biển Đông tại Hà Nội ngày 18/6/2014.

VOA Tiếng Việt

Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã mời Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sang Bắc Kinh để đồng chủ trì cuộc họp lần thứ 8 của Ban Chỉ đạo hợp tác song phương, kéo dài trong hai ngày, từ 17 tới 19/6.

Các thông tin ngắn ngủi trên báo chí nhà nước của cả hai phía hôm qua không cho biết là đôi bên sẽ thảo luận các vấn đề cụ thể gì.

Nhà nghiên cứu về quan hệ Việt – Trung, ông Dương Danh Dy, nhận định với VOA Việt Ngữ về cuộc gặp song phương này:

“Nó là cái thường lệ của hai bên. Đến hẹn thì họ lại gặp nhau thôi. Họ bàn với nhau xem kế hoạch năm sau làm cái gì và kiểm điểm năm vừa rồi làm được những cái gì. Cái này cũng không phải là vấn đề quan trọng. Phải nói thẳng là ủy ban này không quản vấn đề quan trọng.”

Phiên họp sẽ diễn ra một ngày sau khi Trung Quốc tuyên bố sẽ sớm kết thúc việc bồi đắp, xây đảo nhân tạo trên các bãi đá ở quần đảo Trường Sa theo đúng như kế hoạch đã định.

” Không khí hiện nay căng thẳng rồi. Hai bên, nhất là phía Việt Nam, cố tránh, không làm cho vấn đề căng thẳng thêm. Tình hình lúc này căng cũng chẳng giải quyết được gì cả. Những điều gì cần nói với họ mà được phép của Bộ Chính trị thì ông Bình Minh sẽ nói. Quyết định là ở bên này, chứ không phải ông Bình Minh.

Nhà nghiên cứu về quan hệ Việt-Trung Dương Danh Dy nhận xét.”

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng cho biết như vậy hôm nay tại cuộc họp báo ở Bắc Kinh, nhưng không cho biết thời gian cụ thể.

Ngoài ra, ông Lục cũng không cho hay là dự án nào trên 7 bãi đá mà Trung Quốc đang tiến hành cải tạo sẽ hoàn thành trong thời gian tới.

Trước đó, một thông cáo đăng tải trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói sẽ tiến hành xây các cơ sở phục vụ cho cả mục đích quân sự lẫn dân sự.

Chưa rõ là Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh có nêu vấn đề xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trong cuộc họp với Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì hay không. Ngoài ra, không rõ là ông Minh có gặp quan chức cấp cao nào khác của Trung Quốc hay không.

Về nghị trình thảo luận giữa hai bên lần này, cựu quan chức ngoại giao Việt Nam Dương Danh Dy nói:

“Không khí hiện nay căng thẳng rồi. Hai bên, nhất là phía Việt Nam, cố tránh, không làm cho vấn đề căng thẳng thêm. Tình hình lúc này căng cũng chẳng giải quyết được gì cả. Những điều gì cần nói với họ mà được phép của Bộ Chính trị thì ông Bình Minh sẽ nói. Quyết định là ở bên này, chứ không phải ông Bình Minh.”

” Trung Quốc nói một đằng, làm một nẻo, và bây giờ nó có nói thì cũng thế thôi. Mình phản đối về ngoại giao như thế nhưng Trung Quốc nó có nói hay không nói cũng vậy thôi. Chẳng có tác dụng gì cả. Nói cho có thôi chứ, còn đối với Trung Quốc, có là cái gì đối với nó đâu mà. Nó coi trời bằng vung ấy mà. Anh hỏi Trung Quốc ấy

Ông Phan Huy Hoàng, Chủ tịch Hội Nghề cá tỉnh Quảng Ngãi nói.”

Trong khi đó, một số nhà quan sát nhận định với VOA Việt Ngữ rằng những diễn biến gần đây trên biển Đông, nhất là việc một số ngư dân ở tỉnh Quảng Ngãi tố cáo Trung Quốc tấn công tàu cá của họ, sẽ làm phức tạp thêm cuộc gặp giữa ông Minh và ông Dương Khiết Trì.

Ông Phan Huy Hoàng, Chủ tịch Hội Nghề cá tỉnh Quảng Ngãi, cho VOA Việt Ngữ biết về vụ tố cáo tàu Trung Quốc “rượt đuổi, phun vòi rồng, tấn công và cướp ngư cụ” hôm 7 và 10/6:

“Tôi đã thông báo cho Hội nghề cá của trung ương. Người ta đã có gửi văn bản lên chính phủ báo cáo, phản đối. Trung Quốc nó nói một đằng, làm một nẻo, và bây giờ nó có nói thì cũng thế thôi. Mình phản đối về ngoại giao như thế nhưng thằng Trung Quốc nó có nói hay không nói cũng vậy thôi. Chẳng có tác dụng gì cả. Nói cho có thôi chứ, còn đối với Trung Quốc, có là cái gì đối với nó đâu mà. Nó coi trời bằng vung ấy mà. Anh hỏi Trung Quốc ấy. Đừng hỏi tôi.”

Hiện cũng chưa rõ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam có nêu hai vụ việc xảy ra chỉ cách nhau có vài ngày này hay không.

Cuộc họp lần cuối cùng của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương diễn ra hồi tháng Mười năm ngoái tại Hà Nội, và đại diện phái đoàn của hai nước cũng là ông Minh và ông Dương.

Đó là lần thứ hai Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc tới Việt Nam sau chuyến công du hồi tháng Sáu, khi căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh lên tới đỉnh điểm vì gian khoan dầu Hải Dương 981.

Các bức ảnh chụp tại cuộc gặp mà giới quan sát nói diễn ra vào thời điểm nhạy cảm đó cho thấy Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh thể hiện sự bất bình ra mặt với quan chức nước láng giềng phương bắc.

Lời tạ ơn con dâng lên Chúa

Lời tạ ơn con dâng lên Chúa

Ad Gentes

Lời tạ ơn con dâng lên Chúa khi nắng hồng vừa mới lên khi hoàng hôn đang xuống dần. Vì ngàn hồng ân như muôn lớp sóng Chúa tuôn đổ xuống trên con, tháng năm dài mãi miên man …

Làm sao không tạ ơn được khi giờ này còn đủ sức để gõ trên bàn phím những dòng chữ dâng lời tạ ơn Chúa. Tạ ơn thật nhiều kẻo lỡ ngày sau khi không còn khả năng cầm phím hay không còn trí nhớ nữa thì thật uổng phí cho cuộc đời.

Chúa ban cho sống đến ngày hôm nay cũng chẳng dám gọi là đủ, là vắn hay là dài bởi lẽ giản đơn tất cả dài, vắn, đủ … đó đều nằm trong lòng bàn tay Thiên Chúa.

Như một cha Phanxico Salesio vừa mới qua đời ở cái tuổi còn tràn đầy sinh khí, sinh lực để chuẩn bị xây dựng mới ngôi đền thờ dành cho Thiên Chúa mà lại phải dừng lại.

Hay như một cha đáng kính ở giáo phận Đà Lạt sống cuộc đời bình dị khó thấy đã bị cuốn theo dòng nước lũ khi đang khơi dòng nước dữ tràn về.

Lạy Chúa, con như người thợ dệt
đang mãi dệt đời mình,
bỗng nhiên bị tay Chúa
cắt đứt ngay hàng chỉ !

Các cha đó cũng như nhiều người khác hoàn toàn không biết ngày hôm đó chính là ngày định mệnh mà Chúa đã khép cuộc đời của các đấng đó lại.

Và vì thế, mỗi ngày còn thức dậy, mỗi ngày còn sức khỏe  để đứng giữa bàn thờ để dâng Lễ Tế tạ ơn cũng là điều chính đáng để tạ ơn rồi. Và, hơn nữa, chuỗi đời khá dài của ngày bước lên bàn Thánh mà Chúa trao ban tưởng nghĩ rất nên tạ ơn Chúa.

Rất nên tạ ơn và tạ ơn cả ngàn lần, cả vạn lần với những người đồng môn, cùng trang lứa, cùng chí hướng ơn gọi nữa là khác. Đơn giản là họ cũng mừng kỷ niệm như mình nhưng họ mừng trong hân hoan, trong thành công, trong thánh đức, trong thành đạt, trong bằng cấp … Ngược lại, mình lại mừng trong âm thầm, trong cô tịch và trong lặng lẽ.

Chính những ngày cô tịch và lặng lẽ, Chúa lại cho mình có cơ hội nhìn lại mình một cách rõ nét hơn, một cách xác thực hơn, một cách chính xác hơn. Trong lặng thầm đó, mính lại càng ý thức cái thân phận mỏng dòn đầy yếu đuối cũng như cảm nghiệm sâu sắc hơn cái tâm sự của Thánh Phaolô : Những ân huệ Chúa ban lại chứa đựng trong những bình sành lọ đất !

Đúng như vậy, mình nghĩ mãi mà nghĩ cũng chẳng ta tại sao Chúa lại ban bí tích cao trọng cho một con người tội lỗi mà phải nói luôn là không ai tội lỗi hơn. Trong sâu lắng một mình tôi vẫn thường hỏi Chúa : Tại sao Chúa lại chọn con?  Chúa biết con xấu đến mức nào mà Chúa ? Chúa biết con tội lỗi đến mức nào mà Chúa ? Tại sao Chúa lại chọn con ?

Từng bước từng bước đường đời, tôi lại nhận ra rằng quả là Chúa điên chứ không phải tôi điên. Tôi đâu có chọn Chúa ! Chúa chọn tôi mà ! Chúa biết tôi xấu xí mà sao lại còn chọn tôi ? Phải chăng là Chúa điên ?

Đúng thật ! Người khôn ngoan, người đạo đức Chúa lại không chọn.

Những ngày này, những ngày hồng phúc lại về, về để nhớ kỷ niệm điên của Chúa và nghĩ về Chúa “điên” khi yêu tôi nên tôi càng phải tạ ơn Chúa nhiều hơn nữa.

Mà thật ! Nếu Chúa không yêu tôi Chúa đâu dựng nên tôi, Chúa không can đảm chọn tôi.

Có những lúc mơ mơ màng màng để tranh cãi với Chúa khi nói chuyện với Chúa. Tức tối vì quá tội lỗi như thế này mà Chúa vẫn cứ yêu thương tôi nên tôi bảo : “Chúa điên”. Khi tôi cãi như thế thì tôi lại nghe Chúa nói lại : “Tỉnh ai mà yêu cái thằng tội lỗi và xấu xí như mày”

Thôi thì, tôi tự nhủ, Chúa điên nên đã yêu tôi và tôi lại càng phải cảm ơn cái “điên”  mà Chúa đã dành cho tôi trong nhiều năm tháng vừa qua và những năm tháng còn lại của cuộc đời.

Tạ ơn Chúa mà quên đi những người “điên” rất gần gũi tôi yêu thương tôi cũng là điều thiếu sót.

Nghĩ đi nghĩ lại cũng buồn cười ! Bao nhiêu người tốt, bao nhiêu bạn bè tốt lại không chơi, không thương, không yêu, không nâng đỡ mà lại thương yêu nâng đỡ một kẻ xấu xí xù xì như tôi.

Có người âm thầm bằng lời cầu nguyện, có người sẽ chia khi tôi gặp hoạn nạn tai ương, có người lo phù trợ sức khỏe, có người âm thâm lam lũ để sẻ chia từng bước từng bước đường đời tận hiến.

Những ngày này, những ngày kỷ niệm hồng phúc lãnh sứ vụ linh mục này không biết nói gì hơn là tạ ơn Chúa, tạ ơn tất cả mọi người cũng như cúi đầu xin lỗi Chúa và những người tôi đã làm tổn thương.

Xin Chúa cũng như những người “điên” đã như Chúa “điên” khi yêu tôi tiếp tục yêu thương, đồng hành, nâng đỡ tôi trên nẻo đường mục vụ mà Chúa trao phó cho tôi trên bước đường loan báo Tin Mừng mà Chúa yêu thương đặt để cho tôi.

Hẳn nhiên, trong từng lời kinh, từng Thánh Lễ misa  mỗi ngày, dù muốn dù không, dù nhắc hay không nhắc nhưng những ai thân quen, những ai đi qua đời tôi và những ai “điên” yêu thương tôi đều bị tôi dừng lại sau lời kinh Tiền Tụng để xin Chúa tuôn đổ muôn ơn lành xuống trên từng người, từng người đã, đang và sẽ nâng đỡ tôi trong cuộc sống.

Tưởng Niệm 85 năm Ngày Tang Yên Bái

85 năm Ngày Tang Yên Bái: Không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”

Nước Việt Phương Nam

Trần Trung Đạo

15-06-2015

Tưởng Niệm 85 năm Ngày Tang Yên Bái

H1

Vào khoảng thời gian này 85 năm trước, tức vài hôm sau Ngày Tang Yên Bái, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình bên đây được đăng trên báo Pháp. Mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học”.

Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò”: Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công. Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.

Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường. Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”

Trong hồi ký Từ Yên Bái Đến Côn Lôn, Nguyễn Hải Hàm tức Ký Thân, người bị kết án tử hình sau Khởi Nghĩa Yên Bái nhưng sau giảm xuống chung thân nơi Côn Đảo, kể lại lời của vị Linh mục chứng kiến giờ phút cuối cùng của 13 Anh hùng Yên Bái: “Ông Học thật tốt. Ông không hề tỏ ra một cử chỉ hay lời nói nào buồn trách Cha như những người kia. Trái lại ông Học nói chuyện với Cha tự nhiên, bình thản như ngày thường …Quá vui tính…12 anh kia bị chém trước rồi sau mới là anh Học…Anh Học trước khi lên đoạn đầu đài hô lớn câu Việt Nam Vạn Tuế, và khi hô lớn xong đầu cũng lọt vào thùng mạt cưa bên cạnh. Anh nào cũng hô Việt Nam Vạn Tuế, có anh thì hô Việt Nam Muôn Năm… Nhưng đau lòng nhất là có một vài anh chưa hô hết câu đầu đã rơi xuống thùng mạt cưa”.

Mười ba liệt sĩ lên máy chém thực dân sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930: Nguyễn Thái Học, Phó Ðức Chính, Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Hà Văn Lạo, Ðào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Ðức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Ðỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu và Nguyễn Như Liên.

Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém. Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.

Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng CSVN. Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.

Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.

Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.

Ông Khổng Tử trong cái bóng Thiên An Môn

Ông Khổng Tử trong cái bóng Thiên An Môn

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-06-15

06152015-confucius-in-shdw-of-tienanmen.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Bức tượng đồng của Khổng Tử ở phía trước của Bảo tàng quốc gia của Trung Quốc trên Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, Trung Quốc, khánh thành ngày 11 tháng 1 năm 2011

Bức tượng đồng của Khổng Tử ở phía trước của Bảo tàng quốc gia của Trung Quốc trên Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, Trung Quốc, khánh thành ngày 11 tháng 1 năm 2011

AFP

Bài hát vang dội trên thành Bắc Kinh

Mùa Xuân năm 1989

Và đó là bài hát của tự do

Thiên An Môn

Những câu thơ trên là lời một bài hát trong những ngày thượng tuần tháng sáu của 26 năm về trước, sau khi xe tăng của quân đội giải phóng nhân dân Trung quốc tràn vào quảng trường Thiên An Môn, xéo nát hàng ngàn sinh viên đấu tranh cho một nước Trung Hoa tự do.

Cuộc thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn gần như được truyền hình trực tiếp từ ống kính của nhiều nhà báo quốc tế có mặt ở Bắc Kinh lúc đó. Nó cũng là cuộc thảm sát thực hiện bởi chính người Trung quốc trên đồng bào của mình.

Nhớ về Thiên An Môn, blogger Hoàng Ngọc Tuấn giới thiệu bài viết về thi sĩ Liệu Diệc Vũ, người Trung quốc, cất lên lời thảng thốt qua bài thơ Thảm sát, ngay sau khi ông được tin dữ từ Bắc Kinh.

Một cuộc thảm sát đang xảy ra

Trên quốc gia không tưởng này

……

Bị đánh gục bởi đạo quân hàng ngàn tên

là những người tay không tấc sắt

Blogger Hoàng Ngọc Tuấn giới thiệu cho người đọc cuộc đời gian truân của người thi sĩ, từ nhà tù của đảng cộng sản Trung quốc cho đến những ngày vất vưởng trên đường phố Thành Đô quê hương ông, vì bài thơ Thảm sát. Một cuộc đời hầu như bị lãng quên trên chính quê hương của mình.

” Sự kiện Thiên An Môn cho tôi sự hy vọng lẫn nỗi thất vọng. Sự hy vọng là trong một chế độ toàn trị đến mức như ở Trung quốc những người sinh viên vẫn sẳn sàng đứng lên đòi tự do dân chủ. Còn sự thất vọng là nó bị đàn áp trong bể máu

Nguyễn Anh Tuấn”

Không chỉ có cuộc đời thi sĩ bị lãng quên mà ngay cả biến cố Thiên An Môn xem chừng cũng bị lãng quên tại Trung quốc sau một phần tư thế kỷ, một điều trớ trêu đối với một dân tộc từng viết nên những bộ sử trường thiên. Sở dĩ có điều đó là do những nổ lực viết lịch sử theo cách của những người cầm quyền hiện nay tại Trung quốc. Trong bài Nhân dân bao giờ cũng vĩ đại hơn nhà cầm quyền, blogger Tuấn Khanh viết rằng trong tài liệu chính thức dùng để giảng dạy lịch sử tại Trung quốc, giai đoạn Thiên An Môn được ghi nhận với vỏn vẹn một dòng rằng đó là một giai đoạn bất ổn. Và ngay cả những người Trung quốc đang sống ở nước ngoài cũng bị ám ảnh một nỗi lo sợ không dám lên tiếng về Thiên An Môn. Trong một thư kiến nghị gửi nhà nước Trung quốc yêu cầu minh bạch hóa sự kiện Thiên An Môn do các sinh viên Trung quốc ở hải ngoại chủ xướng, chỉ có 11 người ký tên.

Nhìn Thiên An Môn từ Việt nam, tác giả Trọng Thành đặt câu hỏi cho một số trí thức Việt nam về cái nhìn của người Việt nam cũng như những hồi ức về sự kiện này.

Giáo sư Nguyễn Huy Quí, Viện trưởng Viện nghiên cứu Trung Quốc, trả lời rằng không có ai ở Việt nam nghiên cứu câu chuyện thảm khốc đó, và một trong những nguyên nhân có thể là do sự nhạy cảm trong quan hệ với Trung quốc.

Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai lại tiết lộ rằng ông biết là vào tháng sáu năm 1989 ấy có nhiều nhà lãnh đạo Việt nam đồng tình với giải pháp bạo lực của đảng cộng sản Trung quốc, trong đó có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, gương mặt một thời được coi là khởi đầu cho cải tổ kinh tế xã hội Việt nam vào năm 1986.

Ảnh tư liệu về vụ thảm sát khủng khiếp khi xe tăng tiến vào Quảng trường Thiên An Môn

Ảnh tư liệu về vụ thảm sát khủng khiếp khi xe tăng tiến vào Quảng trường Thiên An Môn

Nhưng những người Việt nam trẻ tuổi dấn thân cho công cuộc dân chủ hóa Việt nam lại biết nhiều về Thiên An Môn. Trong một lần trao đổi với chúng tôi cựu sinh viên Nguyễn Anh Tuấn nói rằng:

Sự kiện Thiên An Môn cho tôi sự hy vọng lẫn nỗi thất vọng. Sự hy vọng là trong một chế độ toàn trị đến mức như ở Trung quốc những người sinh viên vẫn sẳn sàng đứng lên đòi tự do dân chủ. Còn sự thất vọng là nó bị đàn áp trong bể máu.

Còn nếu đặt trong sự so sánh tương quan giữa Việt nam và Trung quốc đều có cùng chế độ toàn trị và đàn áp giống nhau thì người Trung quốc dù sao cũng có một thế hệ sinh viên để tự hào. Hôm qua khi xem lại các bức ảnh ông Lý Bằng tiếp các lãnh tụ sinh viên thì thấy thái độ của họ rất là tự tin trước một người ở đỉnh cao quyền lực.

Nguyễn Anh Tuấn cũng nói rằng anh cảm thấy buồn lòng vì những người dấn thân vì phong trào dân chủ ở Việt nam còn quá ít ỏi.

” Ngày nay toàn cầu hóa, hội nhập chính là áp lực mạnh từ mọi phía khiến các xã hội toàn trị bị vỡ ra nhanh hơn. Đành rằng với người lãnh đạo thông minh, có viễn kiến và bản lĩnh thì việc cải cách Thể chế đúng lúc, đúng hướng sẽ cứu vãn sự sụp đổ

Nhà Khoa học Tô Văn Trường”

Chế độ hiện hành, Khổng Tử và Mác lê

Một trong những người ít ỏi đó là blogger nhà báo Đoan Trang nhắc mọi người rằng ngày 5/6 ở Việt nam có thể xem như một ngày lịch sử, vì đó là ngày hàng ngàn sinh viên Việt nam xuống đường chống Trung quốc xâm lược. Ngày 5/6 năm nay, Đoan Trang cùng những người đồng chí hướng viết bản hiến chương 2015 kêu gọi những người dấn thân cho một nước Việt nam dân chủ hợp sức tương trợ nhau trên con đường sắp tới. Cô viết rằng:

Hiến chương 2015 là tuyên bố đoàn kết của những người yêu nước, những người đấu tranh vì dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam. Hiến chương cũng là lời thách thức và tuyên bố không cúi đầu gửi đến chính quyền công an trị với lực lượng “còn Đảng còn mình” – vốn vẫn bất chấp cả công lý, nhân quyền lẫn luật pháp để bảo vệ chế độ.

Chế độ mà Đoan Trang nhắc tới trong lời tuyên bố của cô là một chế độ có nền tảng là chủ nghĩa Mác Lê Nin mà Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho rằng là một trở ngại lớn nhất cho Việt nam, là nguyên nhân lớn nhất làm cho con người và xã hội Việt nam hôm nay suy đồi. Ông viết những ý tưởng đó trong bài phản biện nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, khi ông Nhàn cho rằng nguyên nhân của sự suy đồi hôm nay vốn từ chiến tranh mà ra.

Nhà Khoa học Tô Văn Trường bình luận tiếp về chế độ đó:

Các chế độ toàn trị đó rất dẻo dai, tồn tại hàng ngàn năm và chỉ bị sụp đổ hoặc buộc phải thay đổi, biến báo để thích nghi khi bị sức ép từ bên ngoài hệ thống toàn trị khép kín đó. Ngày nay toàn cầu hóa, hội nhập chính là áp lực mạnh từ mọi phía khiến các xã hội toàn trị bị vỡ ra nhanh hơn. Đành rằng với người lãnh đạo thông minh, có viễn kiến và bản lĩnh thì việc cải cách Thể chế đúng lúc, đúng hướng sẽ cứu vãn sự sụp đổ, thế nhưng ở Việt Nam hiện nay dường như điều này chưa thấy xuất hiện.

Khi nói về cải cách người ta sẽ nhớ ngay đến bài viết của ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó ban tuyên giáo trung ương của đảng cộng sản. Ông Hoàng viết về sự nguy hiểm của hiện tượng nhóm lợi ích, của chủ nghĩa tư bản thân hữu, như là một căn bệnh ung thư sẽ có nguy cơ làm sụp đổ không những đảng cầm quyền mà cả xã hội.

Blogger Trần Minh Khôi bình luận bài viết của ông Hoàng rằng đã là ung thư thì không có thuốc chữa.

Có thể là những người cộng sản Việt nam hy vọng chữa căn bệnh ung thư xã hội ấy bằng những lời kêu gọi thi hành đạo đức, như trường hợp từ chức của ông bí thư thành ủy Hội An Nguyễn Sự vừa qua. Ông Sự nổi tiếng như một người thanh liêm, có uy tín trong nhân dân.

Trên trang Luật Học, Nguyễn Anh Tuấn nhận xét về câu chuyện của ông Nguyễn Sự:

” Lịch sử rồi sẽ sáng tỏ, bất luận là bao lâu. Lịch sử sẽ chứng minh nhân dân mãi mãi vĩ đại hơn chế độ cầm quyền. Dù cho sự tuyên truyền thổi phồng và che đậy của chế độ Cộng sản có dày công thế nào, cũng như có khác biệt Triều Tiên, Lào hay Việt Nam cũng vậy, chỉ có thất bại với thời gian

Tuấn Khanh”

Diễn ngôn nhân danh ‘nhân dân’ như trên cùng với sự phổ biến của quan niệm quan-dân trong những thảo luận công cộng của chúng ta chứng tỏ khuôn khổ Nho gia, vốn từng đặt nền tảng cho cả ngàn năm khoa cử quan trường Việt Nam, vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa chính trị đương thời. Trong cái văn hóa chính trị đó, người dân được coi như một khối thống nhất chỉ có một quan điểm mà mất đi vẻ đa dạng phong phú về góc nhìn mà họ vốn có; trong khi những người nắm giữ quyền lực vẫn chưa được nhìn nhận như đang hành nghề chính trị chuyên nghiệp mà vẫn còn phảng phất bóng dáng quan quyền khanh tướng với những chuẩn mực khe khắt về đạo đức – dĩ nhiên không xấu, chỉ là chưa đủ, cho một thời đại đòi hỏi mỗi vị trí đều phải được chuyên nghiệp hóa như hiện nay.

Nhà nho vốn là học trò tin thần của Khổng tử, khuôn khổ Nho gia mà Nguyễn Anh Tuấn đề cập cũng là ý của tác giả Bảo Thư bình luận về Khổng tử trên trang blog của nhà văn Nguyễn Xuân diện:

Tư tưởng của Khổng Tử cũng chỉ là những lời thuyết giáo đạo đức bình thường, chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn… Những lời giáo huấn của Khổng Tử chỉ dạy ấy cực kỳ thực dụng, khôn khéo, nhưng không có tính thẩm mĩ hoặc triết lí thâm thúy. Ông cũng không có nhân cách cao quý hoặc tầm nhìn khoáng đạt. Ban đầu ông lang bạt tứ xứ muốn được làm quan, sau thất bại bèn trở thành thày dạy đạo đức.

Lời bình này được đưa ra trong không khí tranh cãi không những trên blog mà còn cả trên báo chí chính thống của nhà nước về việc tỉnh Vĩnh Phúc xuất 300 tỉ đồng tiền công quĩ để lập Văn miếu thờ Khổng tử.

Không ít người so sánh những lời thuyết giáo về đạo đức và tôn ti trật tự của họ Khổng cũng không xa lắm những mực thước về dân chủ tập trung của Lenin mà những người cộng sản dùng cho công cuộc đấu tranh giai cấp thành lập một xã hội mới không giai cấp như họ hình dung.

Một cuộc đấu tranh mà Milovan Djilas, người từng là nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam Tư, nhận định là lại đưa đến sự thống trị của một giai cấp mới là giai cấp cộng sản.

Mấy mươi năm sau Djilas, blogger Tuấn Khanh viết bài Ngồi nhớ ân cần. Ông nhận thấy rằng trong xã hội Việt nam ngày nay do những người cộng sản cầm chịch, sự ân cần đáng quí của người Việt nam đã mất đi, và sự chói lọi của những số liệu phát triển lại đi kèm với những khoảng tối đen mù lòa.

Và cuối cùng để tưởng niệm Thiên An Môn, Tuấn Khanh viết rằng:

Lịch sử rồi sẽ sáng tỏ, bất luận là bao lâu. Lịch sử sẽ chứng minh nhân dân mãi mãi vĩ đại hơn chế độ cầm quyền. Dù cho sự tuyên truyền thổi phồng và che đậy của chế độ Cộng sản có dày công thế nào, cũng như có khác biệt Triều Tiên, Lào hay Việt Nam cũng vậy, chỉ có thất bại với thời gian.

CHÚT CẢM NGHIỆM TUỔI VỀ CHIỀU

CHÚT CẢM NGHIỆM TUỔI VỀ CHIỀU

Micae Bùi Thành Châu

Khi đã bước chân vào trần gian, không ai không thoát khỏi cái định luật của con người: sinh – lão – bệnh – tử.

Cái cửa tử là cái cửa chắc chắn nhất mà ai trong chúng ta dù muốn dù không, dù sớm dù muộn đều phải bước qua.  Nhưng, bước qua như thế nào và bước qua đi về đâu mới là chuyện quan trọng.

Thật ra mà nói, ai cũng mong cho mình sống lâu; thế nhưng chuyện sinh tử là chuyện của Thiên Chúa. Sống ngày nào trên trần gian chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban cho con người.  Con người không ai có quyền định đoạt được thời gian sống của mình.

Có những người đang dệt ước mơ đời mình nhưng bỗng chốc lại ra đi.

“Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình”
(Tv 103, 15-16)

Hay là:

“Lạy Chúa, con như người thợ dệt
đang mãi dệt đời mình,
bỗng nhiên bị bàn tay Chúa
cắt đứt ngang hàng chỉ” (Is 38,12).

Nhiều biến cố, nhiều sự kiện diễn ra hằng ngày bên đời ta để ta thấy điều đó rõ hơn ai hết.  Và, khi nhìn lại đời sống của mình, mỗi ngày còn thức giấc là mỗi ngày tạ ơn cũng như xin Chúa gìn giữ ta trong quãng đời còn lại:

“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90, 12).

Nhiều lần nhiều lúc cũng vui vẻ với bạn bè, choáng váng với những hào nhoáng chóng qua… đến khi chợt tỉnh giấc nhận ra rằng tuổi của mình đã xế chiều.

Những ngày tháng xế chiều này, Chúa cho tôi thời gian nhìn lại con người tội lỗi của mình.  Thật sự mà nói là quá tội lỗi trong một thời gian quá dài.  Chẳng dám ví đời mình như Thánh Augustino nhưng quả thật, tội lỗi của tôi sao chồng chất.

Tỉnh ra mới thấy mình đã đi sai đường Chúa dạy.  Chính trong cái giật mình đó, tôi lại chìm đắm trong cầu nguyện, trong lời kinh, đặc biệt Kinh Mân Côi.

Đến với Kinh Mân Côi, tôi tìm được sự bình an cũng như chuyển những ơn lành mà Chúa và Mẹ hứa dành cho các linh hồn đã ra đi.

Những năm dài lăn lộn với thương trường mà như người ta nói còn hơn cả chiến trường nữa.  Ở đó, người ta tranh giành và sẵn sàng đánh đổi tất cả để đi tìm cái lợi cho mình.  Vì nguồn lợi cho mình, người ta có khi tán tận lương tâm của mình.

Tạ ơn Chúa đã cho tôi thấy và tôi dừng.

Có thể người này người kia sẽ bảo tôi bất bình thường, tôi chơi nổi, tôi đánh bóng tên tuổi của tôi khi tôi viết ra đây những cảm nghĩ của mình.  Có thể khi suy nghĩ này đến với quý vị tôi sẽ bị chỉ trích, lên án và sẽ được những thúng… gạch đá…  Chẳng sao cả, có gạch đá để chuyển đến những nơi nghèo cần xây nhà tình nghĩa.

Tuổi đang dần chiều, nhìn lại và tôi cảm thấy thấm với tâm tư của anh chàng nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh: Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!

Thật sự là như thế, đôi khi ta cứ mãi loanh quanh đi tìm cái gì đó cho mình là danh, là tiền, là quyền, là địa vị…  Thế nhưng, tất cả những thứ mà người ta mãi đi tìm đó sẽ là con số không thật khổng lồ khi con người ta nhắm mắt xuôi tay.

Những câu chuyện thật mà tôi cũng như nhiều người đã đọc như mẩu chuyện “Bao nhiêu tấc đất cho vừa” đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ.   Con người ta mải miết tham miếng đất như anh chàng trong câu chuyện đó để mãi đi tìm, tìm cho bằng nhiều nhưng khi chiều đến do tham quá không nghỉ ngơi ăn uống nên khi lấy được miếng đất thật to thì cũng là lúc mà anh ta kiệt sức.  Cuối cùng, những người hầu của ông địa chủ bán đất cho anh ta chỉ còn có việc duy nhất là chôn anh ta.

Chuyện là ông địa chủ bán đất cho anh với giá 1 đồng bạc.  Chủ nói là anh cứ đi từ sáng cho đến chiều, đến khi nào mệt nghỉ thì số đất mà anh đi qua sẽ thuộc về anh.  Vì tham lam nên bỏ ăn, bỏ uống, bỏ nghỉ để chạy cho thật nhiều, để mảnh đất mình mua được dài nhất.  Thế nhưng, vì tham quá nên đã chết sau khi chạy con đường dài không ngơi nghỉ.

Bài học thực tiễn trong cuộc đời chúng ta đó!  Có khi cứ mải miết đi tìm và đi tìm cho thật nhiều để rồi không bao giờ thấy mình đủ.

Ngày hôm nay không phải là ở cái thời bao cấp nữa, không phải cái thời đói kém nữa để rồi phải dùng cái từ chạy ăn chạy mặc.  Ngày hôm nay không ai còn chết vì thiếu ăn thiếu mặc nữa mà chết vì ăn nhiều quá và chết vì tốn nhiều tiền cho chuyện mặc của mình quá.

Và vì thế, tôi có cái cảm giác là cuộc sống của những người lớn tuổi như tôi đây nên chăng phải cảm thấy mình đủ.  Khi cảm thấy đủ mình sẽ được bình an và sẽ dành nhiều thời gian hơn nữa để kết hợp mật thiết với Chúa, để dọn lòng thanh thản ra trình diện trước mặt Chúa.

Có một chuyện mà tôi cảm thấy nực cười đó là ông bà và cha mẹ quá khéo lo cho con cháu đến độ con cháu bực mình.  Hay là lo cho chúng cho đã để rồi nhận lại thái độ lạnh lùng bất hiếu.  Sau đó, lại oán trách chúng bởi lẽ suy nghĩ giữa hai thế hệ khác nhau.

Cứ như phương Tây, 18 tuổi đủ trưởng thành và ta cho nó tự lập.  Có chăng ta đứng sau lưng để dõi theo và nhắc nhở.  Phần của ta, ta cứ lo phần của ta để sao ta có thời gian nhiều để cầu nguyện, để gắn bó với Chúa.

Có nhiều bậc cha mẹ đổ lỗi vì lo cho con cái đến độ không có thời gian dành cho Chúa!  Nhưng thử hỏi có cha mẹ nào lột da để sống đời bên cạnh lo cho con cái đâu?  Cuối cùng, đời cũng chẳng ra đời mà đạo cũng chẳng giữ cho suông vì cứ viện lý do này lý do nọ.

Tôi trộm nghĩ tuổi già là cái tuổi đẹp để ta có nhiều thời gian gần Chúa hơn, và khi gần Chúa, ta sẽ thấy mình thật thư thái, bình an và có thời gian nhiều để cầu nguyện cho con cháu nữa.

Vấn đề chính tôi cảm và tôi chia sẻ ở đây đó là thời gian dành cho Chúa ở cái độ tuổi về chiều.  Đôi khi vì lý do nào đó ta cứ biện minh là lo cho con cho cháu đến độ không còn thời gian.  Hay là lo cho cơm áo gạo tiền đến độ không còn giờ cho Chúa nữa.

Nếu suy nghĩ như thế và hành xử như thế, ta nên nhìn lại để quân bình đời sống tâm linh và đời sống thể xác của ta.  Có khi mãi cứ chăm chút vào thể xác mà quên đi phần hồn của ta là điều quan trọng hơn cả.

Chính vì lẽ đó nên ở cái tuổi về chiều, xin mọi người hãy nhìn lại cuộc đời của mình, xin nhìn lại phần tâm linh mà suốt thời gian còn trẻ mình đã quên phần nuôi dưỡng.

Cuộc đời qua đi quá vội và rất vội!  Xin hãy dành nhiều thời gian cho Chúa bằng kinh nguyện và những hy sinh.  Sống như thế, khi Chúa gọi ta về, lòng ta sẽ nhẹ nhàng và thanh thản, và khi đó ta vui vẻ hát rằng: “Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi ngàn lời ca hát, ngàn dân tung hô tôi thật vinh phúc”.

Micae Bùi Thành Châu

Thảm họa Bắc thuộc: Phim Tài liệu

Thảm họa Bắc thuộc: Phim Tài liệu

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-06-15

06152015-kowt-to-the-north.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Hình bìa bộ phim Tài liệu Thảm họa Bắc thuộc

Hình bìa bộ phim Tài liệu Thảm họa Bắc thuộc

Files photos

Một nhóm làm phim tại hải ngoại vừa cho ra đời một bộ phim tài liệu mang tựa đề Thảm họa bắc thuộc, nói về quan hệ Việt nam Trung quốc. Sau đây là trao đổi giữa Kính Hòa và ông Chu Lynh, một trong những người thực hiện bộ phim về việc xây dựng bộ phim cũng như nội dung của nó. Ông Chu Lynh cho biết:

Ông Chu Lynh: Cuốn phim Thảm họa bắc thuộc đã được thực hiện trong hơn hai năm, với cái nội dung chính yếu là nhận diện cộng sản Trung Hoa, và nhận diện cộng sản Việt nam trong cái thảm kịch đưa đất nước Việt nam vào tình trạng thảm họa bắc thuộc. Sau đó chúng tôi có nói tới, đề cập tới một phần khá quan trọng, đó là những ngọn lửa Việt xuất phát từ trong quá khứ của lịch sử Việt nam cho đến ngày hôm nay. Những người trong nước, đặc biệt là giới trẻ, tổ chức thành những đoàn thể để mà lên tiếng về cái thảm họa bắc thuộc ngày hôm nay. Và sau cùng là chúng tôi cũng gửi đi một thông điệp, thông điệp này trước tiên là của tiền nhân, kế tiếp là của những nạn nhân trong thảm kịch bắc thuộc.

Kính Hòa: Hiện nay Việt nam là một quốc gia độc lập, thế thì cái đe dọa là như thế nào để Việt nam lệ thuộc Trung Hoa như ông vừa nói, thì ông có thể nói rõ hơn không?

Ông Chu Lynh: Chuyện Bắc thuộc không phải chỉ có bây giờ mà nó xuất phát từ trong quá khứ. Nhưng mà người Tàu không làm gì được nước Việt nam, bởi vì lúc đó triều đình với dân là một để chống lại quân xâm lăng từ phía bắc. Nhưng ngày hôm nay, triều đình tức là cộng sản Việt nam không đứng về phía dân chúng, tức là không đứng về phía dân tộc, cho nên người dân rất khó lòng chống lại người Tàu. Ngược lại thì cộng sản Việt nam đã toa rập, thần phục, tiếp tay cho người Tàu để mở cửa, từ biên giới cho đến các lĩnh vực khác, để người Tàu chiếm các cuộc đấu thầu, những cuộc đấu thầu có tính chiến lược về kinh tế và quốc phòng đều lần lượt nằm trong tay người Tàu. Chúng tôi không đi vào chi tiết vì trong cuốn phim có nõi rõ những lãnh vực đó.

” Nội dung chính yếu là nhận diện cộng sản Trung Hoa, và nhận diện cộng sản Việt nam trong cái thảm kịch đưa đất nước Việt nam vào tình trạng thảm họa bắc thuộc

Ông Chu Lynh”

Chúng tôi nghĩ rằng nếu mà ngày nay, cộng sản Việt nam trở về với dân tộc và đứng về phía dân chúng, thì chúng tôi nghĩ sẽ không có thảm họa bắc thuộc.

Kính Hòa: Thưa ông Chu Lynh, đây là một bộ phim tài liệu, vậy thì ông có thể cho biết những nguồn tài liệu nào đã được sử dụng và những nhân vật nào xuất hiện trong phim?

Ông Chu Lynh: Tài liệu về thảm họa bắc thuộc trôi nổi trên Internet rất là nhiều. Mà nếu mình lấy tài liệu trên Internet thì phải nói là rất khó khăn vì có quá nhiều tài liệu. Có nhiều bài báo có tính cách nghiên cứu, mà nhận định cũng không thuần nhất, thì cái nhiệm vụ của chúng tôi khi làm phim tài liệu là lọc và hệ thống hóa tất cả những dữ diệu trong quá khứ, và hiện tại. Chúng tôi lọc ra và chọn những tài liệu. Cộng với một số nhà nghiên cứu có uy tín ở hải ngoại, đồng thời chúng tôi cũng có phỏng vấn một số người trong nước.

Đặc biệt chúng tôi có mời ba nhân vật ngoại quốc là đạo diễn David Setter, ông là đạo diễn của bộ phim The age of Delirium, hình như dịch ra là Thời đại mê sảng. Giáo sư Stephen Young, ông là Giáo sư tại trường Đại học Hamline, Minnesota. Và sau cùng là Giáo sư Carlyle Thayer là chuyên viên về Đông Nam Á, rất nổi tiếng chuyên về bình luận vấn đề thời sự của Đông Nam Á. Nói tóm lại chúng tôi phỏng vấn 21 người.

Kính Hòa: Thưa ông Chu Lyng, trờ về với cái vấn đề bắc thuộc, có vẻ như người ta nói một trong những nguyên nhân của nó là do sự đồng ý thức hệ giữa hai đảng đang cầm quyền ở Trung quốc và Việt nam, có phải đó là nguyên nhân mà nhóm làm phim cho rằng dẫn tới thảm họa bắc thuộc của dân tộc Việt nam hay không?

Ông Chu Lyng: Trong cuộc phỏng vấn, Giáo sư Carlyle Thayer có nói cái vấn đề là trước đây là ý thức hệ, nhưng cộng sản Việt nam không ngờ là ý thứ hệ bây giờ không còn nữa, mà bây giờ là ý thức dân tộc, quyền lợi của dân tộc. Cộng sản Việt nam đâu có ngờ rằng bây giờ là quyền lợi của Trung quốc. Khi nhận ra bây giờ đã quá muộn rồi, cái ý thức hệ bây giờ không còn nữa.

Kính Hòa: Dạ thưa ông, người ta cũng hay nói rằng là Việt nam đang thực hiện một chính sách gọi là chính sách đu dây giữa các cường quốc. Và dường như là họ cũng có những nổ lực như là mua sắm vũ khí, đôi khi họ cũng lên tiếng mạnh mẽ chống lại Trung quốc. Thì liệu khi nói rằng họ sẽ dẫn tới thảm họa bắc thuộc thì có quá đáng hay không?

” Giáo sư Carlyle Thayer có nói cái vấn đề là trước đây là ý thức hệ, nhưng cộng sản Việt nam không ngờ là ý thứ hệ bây giờ không còn nữa, mà bây giờ là ý thức dân tộc, quyền lợi của dân tộc

Ông Chu Lynh “

Ông Chu Lynh: Chúng tôi không phải là những bình luận gia về thời cuộc, tuy nhiên nói về phương diện tài liệu, thì nếu bây giờ cộng sản Việt nam sắm tàu bè thì theo chúng tôi cũng là một cái điều cần, nhưng những cái lực lượng đó chưa chắc đối lại nổi với Trung quốc. Cái vấn đề bây giờ là nội lực của mình là chính chứ không phải là những vũ khí đó. Những vũ khí đó nếu đi kèm với nội lực, cộng sản Việt nam nếu khía thác được cái tinh thần dân tộc của mình, cái độc lập. Viện trợ của các nước chỉ là phần nhỏ.

Nếu nói là đu dây thì theo tôi nghĩ cộng sản Việt nam họ không có đủ khả năng để đu dây. Bởi vì đu dây là đu dây đường dài, chứ còn họ đu dây trong một thời gian thì người ta thấy cái sự man trá của họ.

Kính Hòa: Trước khi dừng lời, ông còn có ý nào nữa không về bộ phim này để nói với quí khán thính giả?

Ông Chu Lynh: Dạ thưa đó là một điều chưa được đề cập đến, hoặc đề cập đến mà quá sơ sài. Nếu ông Trung tá thủy quân lục chiến Hoa Kỳ James Zumwalt có nói về biến cố đá Garma, ông nói rằng đó là một thảm sát mà thế giới chưa biết đến, nhưng có một tổn thất lớn nhất là dân chúng tại biên giới sáu tỉnh phía bắc. Đây cũng là một thảm sát mà thế giới chưa biết đến. Người dân Việt nam trong nước hay ngoài nước nên chú ý tới cái điều này. Chúng tôi nghĩ là nếu ở trong nước có những nhà báo độc lập, những nhà làm phim độc lập, chứ không phải của nhà nước, làm một cuốn phim, một phóng sự, một bài viết về tình tại biên giới, về cái thảm kịch của họ, từ chiến tranh 1979 cho đến giờ, thì chúng tôi nghĩ là rất hữu ích cho đất nước.

Kính Hòa: Xin cám ơn ông.

Hãy chống Trung Quốc bằng sức mạnh ý chí

Hãy chống Trung Quốc bằng sức mạnh ý chí

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok

Cám ơn nhà báo Mặc Lâm đã thực hiện một cuộc phỏng vấn rất hay. Cám ơn Thiếu tướng Lê Văn Cương đã phát biểu rất thẳng thắn và chí lý. Tôi cũng đã viết rõ: “Việt Nam không liên minh với nước này để chống nước khác, nhưng Việt Nam cần có đồng minh trong cuộc chiến để tự vệ”.

Tôi rất tiếc trong lần gặp Thiếu tướng Lê Văn Cương ở một hội nghị Việt-Mỹ tại Đại học Johns Hopkins sau khi hai nước thiết lập quan hệ bình thường, tôi đã không có dịp trao đổi riêng với ông. Có lẽ vào thời điểm đó, hai bên còn có sự nghi ngại về quan điểm và thái độ đối với nhau.

Bài trả lời phỏng vấn của Thiếu Tướng Cương cần phổ biến thật rộng rãi ở trong nước. Cũng cần được dịch ra Anh văn để gửi cho các Đại sứ quán ngoại quốc và truyền thông quốc tế.

Lê Xuân Khoa

Có những chân lý đơn giản, hiển nhiên, bàng bạc trong tâm trí nhiều người từ lâu, nhưng khi được một nhân vật tầm cỡ nào đấy nói lên thì bỗng  nhiên trở thành chân lý phổ biến, có sức lan tỏa lớn. Thiếu tướng Lê Văn Cương đã làm được một điều như vậy đúng vào những ngày cuối tháng Giêng năm 2015 này. Ông nói đại ý: Liên minh với Mỹ là yêu cầu lịch sử của Việt Nam, không phải để tấn công một nước nào khác mà để chống lại sự xâm lược của kẻ thù truyền kiếp Trung Quốc. Thật rõ ràng, giản dị, như hai với hai là bốn, và đúng là chân lý được bảo đảm bằng vàng, bởi người nói là một nhà chiến lược quân sự uy tín, từng nghiên cứu Trung Quốc trong rất nhiều thập niên. Theo quan sát của chúng tôi, từ lâu ông cũng là người đã thoát khỏi quan điểm “đu dây” nhập nhằng cố hữu của Đảng Cộng sản.

Cám ơn Giáo sư Lê Xuân Khoa đã có nhã ý nhắc chúng tôi đăng lại bài phỏng vấn đã cũ này, với lý do đã là chân lý thì không bao giờ cũ. Nói chính xác hơn, thực tiễn nóng bỏng ở Biển Đông trong những tháng vừa qua, không khí tranh luận ở một số hội nghị bàn tròn quốc tế gần đây, cũng như việc mời đón ngọt nhạt và ký kết xỏ xiên của Tập Cận Bình đối với TBT ĐCS Việt Nam trước khi ông này đi Mỹ, cho thấy chân lý mà Thiếu tướng Lê Văn Cương đã vạch ra, đang thực sự trở thành  ý chí mạnh mẽ của người dân Việt.

Bauxite Việt Nam



Báo chí TQ có hàng loạt bài viết cho rằng từ đảo Chữ Thập quân đội của họ có thể triển khai tấn công TP-HCM chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ. RFA/Google map

Báo chí Trung Quốc lại tiếp tục gây hấn Việt Nam với những bài viết cho rằng Bắc Kinh có thể tấn công thành phố Hồ Chí Minh chỉ trong vòng 1 giờ từ đảo Chữ Thập, nơi họ công khai xâm chiếm của Việt Nam trước đây. Hành động khiêu khích nước lớn này xảy ra liên tục nói lên điều gì khi Việt Nam luôn luôn nhẫn nại chịu đựng? Mặc Lâm phỏng vấn Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Bộ Công an để tìm hiểu thêm quan điểm của một chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc.
Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng báo chí Trung Quốc đang có chiến dịch khiêu khích Việt Nam khi hàng loạt bài viết cho rằng từ đảo Chữ Thập quân đội của họ có thể triển khai tấn công TP.HCM chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông nghĩ thế nào về những luận điệu này và phía sau nó là gì ạ?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Thật ra mà nói thì đây không có vấn đề gì mới. Sách lược của Trung Quốc chưa kể lịch sử 4.000 năm với họ, chỉ kể từ mùng 1 tháng 10 năm 1949 tới giờ và có lẽ mãi mãi về sau cũng thế thôi.
Trước hết chúng ta phải nhận diện họ là ai cái đã. Nói theo tiếng Nga, Trung Quốc họ là ai? (китай, кто ты?) Đến giờ chúng ta vẫn mơ hồ về chuyện này, vẫn bị một cái bóng ý thức hệ nó đè lên lợi ích dân tộc. Bản chất chính quyền Trung Quốc ở Bắc Kinh hiện nay là một chính quyền theo đường lối dân tộc Sô vanh nước lớn chứ không có phần trăm nào cộng sản cả. Làm gì có cái chuyện cộng sản như ông Marx ông Lenin khuyến khích Trung Nam Hải làm cái trò vớ vẩn như vậy được? Điều thứ nhất là phải nhận thức cho rõ.
Điều thứ hai bản chất của họ là “mềm nắn rắn buông”. Trong 2.500  năm lịch sử khi Việt Nam đứng vững thì Trung Quốc không dám lấn nhưng khi Việt Nam tỏ ra yếu kém, hèn yếu nhu nhược thì nó lấn. Đấy là quy luật mà không chỉ riêng Việt Nam cả thế giới đều thế cả, chỗ nào rắn thì bỏ chỗ nào mềm thì dấn tới.
Tôi có cảm giác rằng lãnh đạo Trung Quốc đã ngửi thấy mùi chúng ta đang lùi và đang lùi thì họ tiến thôi. Không phải bây giờ mà cách đây mười, mười lăm năm đã lùi rồi. Chuyện đe dọa tấn công thành phố Hồ Chí Minh không phải bây giờ mà trước đây họ đã có đưa ra kịch bản đánh và chia đôi Việt Nam từ Nghệ Tĩnh trở ra là một phương án, chia đôi Việt Nam từ Nam Trung Bộ là một phương án và người ta làm rất nhiều rồi chứ không phải bây giờ đâu ạ.
Các phương án ấy chuẩn bị đầy đủ và được tung ra trên báo Hoàn Cầu và các báo khác để thử xem phản ứng của Việt Nam thế nào. Ở Việt Nam còn khối người còn sợ Trung Quốc, đến giờ phút này vẫn sợ. Cho nên đây là đòn gió nếu mà sợ thì nó làm thật, còn không sợ thì họ sẽ tính lại. Cái trò của Trung Quốc là vừa nắn vừa thăm dò nhưng cái này không có gì mới cả đâu ạ, bản chất Trung Quốc là thế rồi. Điều thứ ba tôi muốn nói là không có gì mới.
Điều thứ tư là chúng ta phải phản đối vì chúng ta không phản đối thì họ tiếp tục. Phản đối có nhiều cách. Tờ Hoàn Cầu là báo của đảng chứ không phải là báo lá cải vì vậy Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng phải gửi công hàm cho Trung Quốc hỏi họ xem tại sao các ông lại có những việc như vậy? Những việc này đi ngược lại tuyên bố của ông Tập Cận Bình đã ký với ông Trương Tấn Sang vào tháng 6 năm 2013. Nó cũng đi ngược lại tuyên bố của ông Lý Khắc Cường ký với ông Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 10 năm 2013.
Mấy chuyện này thì phải nói chứ chúng ta im lặng như thế là sao? Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phải gửi công hàm cho Vương Nghị yêu cầu các ông không nên tung những loại như vậy lên báo chí, làm cho người Việt Nam hiểu sai Trung Quốc và kích động lên chủ nghĩa dân tộc, nó đi ngược lại những điều các ông cam kết. Chúng ta phải phản đối chứ? Tại sao chúng ta không phản đối, thiếu gì cách? Cho nên nếu chúng ta lùi thì họ tiến, cuộc đời chỉ đơn giản như vậy thôi. Có lẽ Trung Quốc đang cảm thấy Việt Nam đang lùi đang sợ họ thì họ lấn chứ có gì đâu!
Khi Việt Nam đứng vững thì họ không làm gì hết. Chín mươi triệu người chứ không phải chín trăm ngàn người. Chín mươi triệu người là một khối sắt đá bất khả xâm phạm. Nhưng chín mươi triệu người rời rạc thì không bằng chín trăm ngàn người cố kết với nhau, quan điểm của tôi không có gì mới cả.
Sau 44 năm tôi nghiên cứu Trung Quốc thì cái trò này không có gì. Tôi rất buồn vì không biết tại sao chúng ta không có phản ứng. Bây giờ các nhà khoa học có nói đến đâu.
Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng, về câu hỏi tại sao chúng ta không có bản lĩnh có thể xuất phát từ các vấn đề yếu kém nội tại của chúng ta như vũ khí, kinh tế, tiền bạc và là một nước nhỏ cho nên chính phủ có thể là đang…
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Hoàn toàn không phải, hoàn toàn không phải… anh nhớ rằng năm 938 Ngô Quyền dành độc lập trong trận Bạch Đằng thì lúc ấy sức mạnh nhà Tống là hai mươi mà Việt Nam chỉ có một. Cái trận Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt năm 1077 khi ấy phương Bắc là ba mươi mà ta chỉ một. Trận Xương Giang Chí Linh năm 1426 Lê Lợi, Nguyễn Trãi khi ấy triều đại rực rỡ nhất Trung Quốc cũng là ba mươi ba với một nhưng Việt Nam cũng vẫn thắng đấy ạ. Đấy là chưa nói trận nhà Thanh năm 1789 với Nguyễn Huệ đánh không còn cái lai quần, khi ấy nhà Đại Thanh đang ghê gớm lắm ta vẫn thắng cơ mà… cho nên không phải! không phải vì ta thiếu vũ khí, ta thiếu người.
Có lẽ chúng ta thiếu ý chí, có lẽ như vậy. Chính cái này mới quan trọng chứ chạy theo vũ khí thì 1.000 năm nữa Việt Nam vẫn không bì với Trung Quốc được. Phải có ý chí, phải có bản lĩnh chính trị, phải có quyết tâm chính trị. Cái này Trung Quốc mới sợ chứ làm sao trang bị mà đuổi kịp họ? Trung Quốc bây giờ đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nga, họ chỉ sợ ý chí của Việt Nam thôi.
Ý chí người dân quy tụ chín mươi triệu người trong nước và tám tỷ người trên hành tinh này, đấy là sức mạnh vô địch mà Trung Quốc không thể muốn làm gì thì làm được. Chứ còn mấy cái tàu ngầm thì có đủ sức răn đe gì đâu, không ăn thua. Tất nhiên vẫn phải sắm, vẫn phải có máy bay, tàu ngầm tên lửa nhưng những cái này không có ý nghĩa gì cả. Nếu như chín mươi triệu người mà rời rạc không quy tụ về một mối thì tất cả vũ khí đều chẳng có ý nghĩa gì hết.
Trung Quốc không bao giờ sợ Việt Nam trang bị những loại tàu ngầm tên lửa vớ vẩn ấy. Họ sợ nhất là 90 triệu người này một khối sắt đá.
Mặc Lâm: Xin Thiếu tướng một câu hỏi nữa là một trong các biện pháp đối phó với Trung Quốc thì người trong nước cho rằng Việt Nam nên liên minh với các nước trong khu vực để tạo thành một sức mạnh nhằm đối phó với Trung Quốc hữu hiệu hơn, ông thấy ý tưởng này đưa ra vào thời điểm hiện nay có thích hợp hay không?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Thật ra mà nói thì thế này, cứ chơi bài ngửa, chỉ liên minh với Mỹ thôi chứ ASEAN như một bị khoai tây chẳng ý nghĩa gì đâu. Nga bây giờ cũng đang khốn nạn đừng hy vọng gì ở Nga nữa, lợi ích của họ là tối thượng. Ấn Độ thì ốc mang mình ốc chưa nổi nữa thì làm sao? Duy nhất trên hành tinh này chỉ có mình Mỹ thôi. Mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ mở toang cánh cửa ra. Phải tiến tới quan hệ Mỹ Việt mà trên bạn bè dưới liên minh, cứ nói thẳng như thế.
Trung Quốc phải hiểu thấu người Trung Quốc, Trung Quốc rất sợ Mỹ. Trên hành tinh này Trung Quốc chỉ sợ Mỹ thôi. Bây giờ cho ăn kẹo Bắc Kinh cũng không dám đụng tới Mỹ vì đụng tới Mỹ là tự sát. Bản chất của họ là dọa nạt cưỡng bức những kẻ yếu chứ còn đối với kẻ mạnh như Mỹ thì cho họ ăn kẹo chocolate họ cũng không dám đụng tới Mỹ.
Bây giờ đặt ra cuộc thảo luận nói thẳng như thế này chứ không giấu giếm gì cả. Chúng ta không  liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc, hoàn toàn không, nhưng cùng tạo một sức mạnh như thế khi cần thiết thì ứng phó với hành động của Trung Quốc. Nói thẳng với Trung Quốc chơi bài ngửa: Việt Nam không liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc nhưng chúng tôi cần sức mạnh của Mỹ để răn đe mọi thế lực ngoại bang muốn xâm lược Việt Nam.
Nhà nước phải chơi bài ngửa với người dân, công khai và minh bạch. Với thế giới cũng thế.
Mặc Lâm: Xin cám ơn Thiếu tướng rất nhiều về những bộc bạch này.
M.L
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fight-cn-wt-pwr-of-wills-01292015052321.html