“Thiên đường có chỗ màu đen,”

Tin Mừng (Mc 6: 1-6)

Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.

“Thiên đường có chỗ màu đen,”

Anh nằm nghe thấy vẫn còn tiếng mưa.

Tiếng trời gõ nhịp tiếng trưa,

Tiêng cho sâu thẳm tiếng khuya tuyệt vời.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá, lược dịch

Nếu có lần nào, ta cần xác tín xem chúng dân thị thành thường đổi ý ra sao, hãy cứ nhớ sự việc diễn tiến trước sau cái chết của công nương Diana, là sẽ thấy. Hai tuần trước đó, báo chí ở Luân Đôn chạy nhiều hàng tít lớn, nào là: “Công nương ơi, hãy nói Không với Dodi!”, hoặc “Hỡi nữ hoàng của phim kịch, hãy bỏ nước Anh mà theo Hồi giáo”; và “Diana, kẻ bêu xấu đất nước.”

Ta còn được bảo, Diana là người nữ phụ phụ tâm thần tật bệnh, có sức quyến rũ thật ma mãnh. Và, cái chết của bà mẹ hai con vừa tròn 36, vẫn là thảm trạng lớn, của nhiều người. Nào ai đoán trước được, chỉ sau buổi tối ở Paris hôm ấy, nhiều người đã đổi hẳn lập trường, nên mới tìm đến để thấy được rằng công nương Diana thực sự trở thành “nữ hoàng của mọi con tim”. Là, thần tượng của thời đại. Phải chăng, họ đã quên những chuyện xảy ra, hai tuần trước?

Quả thật, những gì xảy đến với ký ức con người về công nương nước Anh, cũng không xa lạ chuyện xảy đến với hồi niệm của người đời về Đức Giêsu đối với Hội thánh, thời tiên khởi. Đọc Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay, ta vẫn nghĩ rằng những người cùng quê thành làng mạc với Đức Giêsu sẽ giang tay chào đón Ngài. Cả những tài năng dỗ dạy, những khôn ngoan tài đức và sức mạnh hành động của Chúa, cũng bị coi là những điều sơ xuất, khiến chúng dân quay lưng lại Ngài, vì Ngài đòi hỏi quá nhiều, cho mình. Nói nôm na, thì Đức Giêsu không được trọng vọng ở quê mình.

Tin Mừng thánh Mác-cô được viết vào lúc Hội thánh tiên khởi bắt đầu bị bách hại. Nên, cộng đoàn rất cảm thông khi thấy Chúa chịu thống khổ. Bị mọi người từ khước, chối bỏ. Chuyện ấy có gì lạ? Tín hữu thời tiên khởi, cũng từng bị trục xuất/chối bỏ khỏi hội đường. Và, nhiều người cũng trải nghiệm cảnh tình tương tự, khi gia đình/bạn bè bỏ rơi, từ khước họ. Có thể, một số vị phải bỏ quê nhà thành thị, cũng nên. Trong bối cảnh ấy, thân phận của họ cũng tương tự như Chúa. Tình cảnh họ, cũng mang nặng ý nghĩa và hướng đi, tương tự. Do đó, họ mới có thêm nhiều hy vọng.

Kinh nghiệm về nỗi niềm bị ruồng rẫy, khước từ, mất cảm thông, bực tức, còn là sự thật phũ phàng của nhiều người. Ngay như hôm nay, chỉ mỗi việc sống niềm tin của mình thôi, ta cũng bị người đời cho là mình ngông cuồng/khờ dại hoặc bị đẩy lùi khỏi cộng đoàn, môi trường sống.

Trong bối cảnh này, ta cũng có thể tạo cho mình niềm hy vọng và lòng quả cảm tương tự như cộng đoàn tín hữu thời tiên khởi, đã duy trì. Tuy nhiên, ở cấp độ cao hơn, với tư cách cộng đoàn, có thể ta có nguy cơ xử sự như cư dân làng Nazarét, thuở trước. Chẳng cần biết, một số người trong cộng đoàn tín hữu ta đang sống, khôn ngoan đến độ nào, có uy quyền hoặc sống lành thánh là bao, chừng như nhiều người vẫn được cho biết là ta không chấp nhận họ. Ta đối kháng chống lại họ và khước từ trục xuất họ khỏi chốn sống của ta, nữa.

Nhiều bạn đạo phải xa rời chúng ta, chỉ vì cộng đoàn không tin rằng quà tặng Chúa ban cần nhận lĩnh ngang qua họ. Dân làng Nazarét hôm trước, không cảm nhận được giá trị của sự việc xảy đến với mình, là vì quần chúng cứ nghĩ rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều hơn ai hết.

Tin Mừng hôm nay, còn đánh động lên mái ấm cơ ngơi, ta đang sống, nữa. Cơ ngơi đó, ta chẳng thể nào bỏ đi, mang theo được gì. Và, cũng chẳng có được gì nhiều, những khẳng định. Và điều này còn dẫn đến những cực đoan không lành mạnh, khi cha mẹ và các anh chị đề cao bậc vợ chồng, con cái, hoặc các người anh/người chị cho hết mọi người, ngoại trừ người đáng được đề cao, chúc tụng. Có trường hợp, ta lo nhiều về thành viên trong nhà, được ‘bốc thơm quá mức” trong khi người ấy chưa nghe ta khuyến khích ca tụng, cho phải lẽ.

Là tín hữu, ta cũng nên tìm dịp để tìm cách mà ngợi ca những người ta quen biết, và yêu thương. Khi Diana tử nạn, thế giới có phản ứng hơi trễ, để quyết định xem bà đã làm những gì xứng đáng để thế giới có thể cất lời tụng ca. Dân làng Nazarét cũng thế, vẫn cứ coi là quá trễ khi họ khước từ Đức Giêsu, cùng một kiểu.

Tin Mừng thánh Máccô cho biết: Chúa không còn quay trở lại nơi đó nữa. Với chúng ta, không có gì là quá trễ. Cũng có thể, chẳng ai nói chúng ta coi thường người dân khôn ngoan, dám cho ta những bài học răn dạy. Chẳng ai nói, ta vùi dập/nhận chìm người có khả năng/tài cán nhận lãnh từ quyền uy, của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn nhắc nhở ta, rằng: chẳng bao giờ là quá trễ để ta có thể chấm dứt những gì mình nghi ngờ và không tin.

Cũng trong một tinh thần như thế, nhà thơ hôm ấy, lại cũng ngâm những lời rằng:

“Đêm mưa có chỗ bất ngờ,

Chỗ thêm ấm áp chỗ thờ phượng nhau.”

(Nguyên Sa – Bất Ngờ)

Chỉ thờ phượng nhau khi nhìn ra được Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu nằm ở cung lòng của người nghèo khó, đớn đau, sầu buồn. Tìm được rồi, người người lại sẽ ngâm thêm lơ rằng:

“Mai về mẹ hỏi đi đâu,

Đắp chăn trùm kín ngang đầu nghe em.”

(Nguyên Sa – bđd)

Thế thì, khi em về với Thiên-Chúa như thế, mẹ cha có tra vấn hỏi han điều gì, thì anh và em cũng chẳng còn sợ vì Thiên-Chúa đã ấp ủ chúng ta bằng Tình Yêu của Ngài, thật rất rõ. Có trùm kín chăn ngang đầu Ngài cũng vẫn tìm ra ta để mà yêu thương và đùm bọc. Như Ngài vẫn đùm bọc hết mọi người, cả những người nghèo hèn khổ sở hoặc đớn đau , rất âu sầu nhiều nỗi.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

Khủng hoảng rác ở Sài Gòn

Khủng hoảng rác ở Sài Gòn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-06-26

rac-622.jpg

Rác gắn liền với đời sống của người nghèo.

RFA

Your browser does not support the audio element.

Sài Gòn với một thuở mệnh danh hòn ngọc viễn đông, một thuở mà ông Lý Quang Diệu đã từng mơ một ngày nào đó sẽ biến quốc đảo Singapore thành một Sài Gòn khác. Thế rồi câu chuyện về Sài Gòn hoa lệ cũng nhanh chóng đi vào quá khứ, thay vào đó là một Sài Gòn chằng chịt đường dây điện, nhà cửa chồng chất lên nhau, những con đường kẹt xe luôn cho cảm giác Sài Gòn là một tổ mối quá tải và khi mùa mưa đến, những con đường lại hóa thành sông đen chảy ngược chảy xuôi, mang theo rác rưởi và mùi hôi thối tiến thẳng vào nhà dân. Nỗi khủng hoảng về rác ở Sài Gòn đã lên mức báo động đỏ.

Rác khắp nơi

Một cư dân Sài Gòn tên Thủy, chia sẻ với chúng tôi về nỗi quan ngại của chị trước cảnh Sài Gòn ngày càng phì đại những con đường rác: “Nhìn chung thì thành phố bây giờ cũng tương đối khá hơn nhưng khủng hoảng nhất vẫn là những chiếc xe chở rác của các công ty môi trường. Họ cứ mở nguyên cả một hộc rác sau đuôi xe, chạy từ đầu đường đến cuối phố, để lại mùi hôi thối thật là kinh khủng…”

” Thành phố bây giờ cũng tương đối khá hơn nhưng khủng hoảng nhất vẫn là những chiếc xe chở rác của các công ty môi trường. Họ cứ mở nguyên cả một hộc rác sau đuôi xe, chạy từ đầu đường đến cuối phố, để lại mùi hôi thối thật là kinh khủng.
-Bà Thủy”

Theo bà Thủy, vấn đề rác ở Sài Gòn hiện nay là vấn đề đáng báo động, mọi sự đã đi quá khả năng khống chế của con người. Sở dĩ nói như vậy bởi bà căn cứ trên hai yếu tố: Rác xã hội và; Rác tư tưởng. Mà thường thì rác xã hội đến sau rác tư tưởng. Giả thích thêm, bà Thủy cho rằng Sài Gòn giống như một cái hố rác khổng lồ chất đầy rác tư tưởng. Có một thứ chủ nghĩa vốn dĩ đã thành rác của thế giới tiến bộ từ lâu nhưng không may, Sài Gòn lại thành cái hố để chứa nó.

Nhiều con đường Sài Gòn trở thành nơi tập trung của rác vào những chiều cuối tuần. Tuy đã có những qui định về việc không vứt rác bừa bãi nhưng hầu như gười dân cứ vứt rác thoải mái, nơi nào cảm thấy tiện tay thì vứt, miễn sao không vứt vào nhà, ngõ và cửa nhà mình là được.

Và hệ quả của việc này là Sài Gòn dần trở nên phức tạp, mất hẳn vẻ hào hoa và diễm lệ một thuở. Thay vào đó là một Sài Gòn đầy rác xã hội. Ở khái niệm rác xã hội, bà Thủy cho rằng đó là những thứ rác tâm hồn. Khi con người trở nên khô cằn bởi đời sống cạnh tranh khốc liệt, thiếu tình người, cộng với sự hoài nghi, tệ nạn trộm cắp cũng như nạn tham nhũng có tính hệ thống đã phát triển đến độ “phát tiết” thành loại rác hằng ngày, biểu hiện qua những bịch rác mà người ta ném một cách vô tội vạ, vô tâm và vô văn hóa.

Là một người từng du học ở Nhật, bà Thủy cho rằng người Sài Gòn, chỉ riêng việc ứng xử về rác, đến ba trăm năm sau cũng chưa chắc sánh kịp người Nhật Bản. Bởi với người Nhật, các thùng rác luôn có ba lổ để phân loại rác công nghiệp, rác thô và rác phi công nghiệp. Trong lúc du học, bà học được của người Nhật thái độ yêu quí những người lao động nghèo. Trong đó có cả việc súc thật sạch các vỏ chai, bóp thật kĩ các vỏ lon cho gọn gẽ và phân loại từng thứ rác riêng trước khi bỏ vào thùng rác.

rac-400.jpg

Rác được phân loại để tái chế tại một cửa hàng ve chai. RFA PHOTO.

Hành vi phân loại tỉ mỉ từng loại rác không chỉ cho thấy trách nhiệm của mỗi người sau khi sử dụng một loại sản phẩm nào đó và thải những thứ phế bỏ vào xã hội, tự nhiên mà nó còn cho thấy tính sâu sắc, suy nghĩ đứng đắn của con người ở đây. Người ta không hô hào theo kiểu hãy bảo vệ, thương yêu và chia sẻ với người nghèo bằng miệng lưỡi đãi bôi mà người ta ý thức được trong từng chi tiết hành động nhằm đảm bảo người nghèo, người lao động bậc thấp không bị tổn thương. Rửa sạch vỏ chai, vỏ lon trước khi phân loại và bỏ vào thùng rác theo thứ tự từng loại là một hành vi thể hiện lòng yêu thương, nễ trọng và bình đẳng giữa con người với con người.

Còn với Sài Gòn hiện tại, người ta vứt rác vô tội vạ, chỉ cần thấy chỗ nào có thể vứt được là vứt. Đương nhiên vẫn có nhiều người ý thức và trăn trở về chuyện rác Sài Gòn. Nhưng rất tiếc con số này rất nhỏ. Con số vô tâm, vứt rác bừa bãi lại chiếm rất đông, thậm chí có người ngồi trên xe hơi mang biển số đẹp, xe hơi khủng ngang nhiên vứt rác xuống đường và họ xem thành phố giống như một bãi rác không bờ bến, muốn vứt thì cứ vứt, chẳng cần phải suy nghĩ!

Chính những nếp nghĩ hết sức ấu trĩ này đã mang lại cho Sài Gòn một bầu khí quyển chứa toàn mùi rác. Đó là chưa nói đến kiểu làm việc đậm chất cơ chế và quan liêu của một số công ty vệ sinh môi trường đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy rác, tranh chấp bãi đổ rác nhưng lại không nghĩ đến phương án xử lý rác. Vô hình trung, rác lại thành một thứ cơ hội để người ta đút lót, tham nhũng.

Và những con sông đen

Ông Trọng, một cư dân đang sống ở gần chợ Thị Nghè, buồn bã chia sẻ: “Bây giờ nhìn cũng khá hơn đôi chút nhờ nạo vét các con kênh. Tuy nhiên nhìn chung thì việc nạo vét vẫn không tới đâu bởi còn quá nhiều con kênh và dòng sông nước đen ngòm, hôi thối. Ý thức bảo vệ môi trường của người dân mình quá kém, khó có thể mà giữ được thành phố sạch đẹp nếu như ý thức người dân cứ lẹt đẹt như thế. Đó là chưa muốn nói đến những chuyện khác…”

” Ý thức bảo vệ môi trường của người dân mình quá kém, khó có thể mà giữ được thành phố sạch đẹp nếu như ý thức người dân cứ lẹt đẹt như thế. Đó là chưa muốn nói đến những chuyện khác…
-Ông Trọng”

Theo ông Trọng, mọi con sông ở Sài Gòn đã trở nên hết sức dơ bẩn, cho dù có nạo vét hay xử lý cách nào, tốn cả ngàn tỉ đồng cũng chỉ để làm sạch tạm thời rồi sau đó lại tiếp tục dơ dáy chứ không thể nào giữ được độ sạch lâu dài.

Sở dĩ có chuyện vô lý khi đất nước còn nghèo, ngân sách quốc gia còn eo hẹp nhưng nhà nước phải dùng tiền ngân sách từ thuế của dân để nạo vét sông để rồi vài năm sau đâu lại vào đó là do nhiều nguyên nhân. Ý thức người dân kém là một phần nhưng phần quan trọng hơn cả là môi trường chính trị không trong sạch.

Cũng theo ông Trọng, việc hạn chế rác rưởi tràn lan ở Sài Gòn không khó, việc đầu tiên là phải dọn sạch rác trong hệ thống chính trị. Một khi hệ thống chính trị không còn rác rưởi, tư tưởng người dân sẽ thông thoáng tỉ lệ và ý thức làm sạch môi trường chung quanh sẽ dần được phục hồi, thành phố sẽ tự dưng xanh, sạch, đẹp.

Để khẳng định vấn đề mình nói là có cơ sở, ông Trọng đưa ra mức cược gồm hai căn biệt thự ông đang sở hữu tại khu Phú Mỹ Hưng, Sài Gòn. Ông nói rằng nếu như hệ thống chính trị thực sự trong sạch mà Sài Gòn vẫn còn nhiều rác thì ông sẽ chung cho chúng tôi hai căn biệt thự.

Ngược lại, nếu hệ thống chính trị còn lắm chuyện rác rưởi như hiện tại mà Sài Gòn sạch rác thì ông chỉ cần chúng tôi chung cho ông đúng hai lon bia Heiniken. Đương nhiên chúng tôi không nhận lời thách thức cá độ này vì dù thắng hay thua thì cũng chẳng hay ho gì, thậm chí thêm đau đầu.

Nhưng dẫu sao thì vấn đề ông Trọng nêu ra cũng để lại ấn tượng sâu sắc với chúng tôi!

“Chỉ cần tin thôi”

“Chỉ cần tin thôi”

CN 13 B

Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.

Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.“. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ“. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin“. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.

Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con“. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.

– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.

Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.

2. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

  • Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

  • Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

  • Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

  • Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.

Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.

Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.

Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.

Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)

Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).

Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).

Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.

  1. Niềm tin thắp sáng hy vọng

Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.

Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.

Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.

Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.

Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.

Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại

40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại

Nguyễn Quang Dy

“Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”

(Richard Nixon nói với William Safire (bình luận gia của New York Times) năm 1994, trước khi chết).

40 năm sau Chiến tranh Việt Nam, cuối cùng người Mỹ và Việt Nam đang làm những gì mà họ đáng lẽ phải làm từ năm 1978 khi nước Việt Nam thống nhất rất cần hòa giải và hợp tác với Mỹ (là kẻ thù cũ) để tái thiết và đối phó với hiểm họa mới từ Trung Cộng (là anh em bạn thù); hoặc từ năm 1945 khi nước Việt Nam mới do Hồ Chí Minh đứng đầu đang cố giành sự ủng hộ của Mỹ để hóa giải sự thù nghịch của nước Pháp thực dân và Trung hoa Dân quốc; hoặc từ năm 1875 khi vua Tự Đức cử ông Bùi Viện sang Mỹ tìm kiếm sự ủng hộ để chống lại ý đồ nước Pháp thực dân muốn biến Annam thành thuộc địa. Nhưng hai nước đã để tuột mất những cơ hội lịch sử, bây giờ phải “trở về tương lai”, sau khi bị bầm dập bởi cuộc chiến tranh sai lầm đẫm máu, và lãng phí quá nhiều thời gian, sức lực và mạng sống vào những trò chơi hậu chiến điên khùng, bao gồm cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” không kém khốc liệt giữa “anh em bạn thù” và những đồng minh mới của họ.

Đấy là phác thảo nhanh bức chân dung đầy bi kịch của quan hệ Việt-Mỹ. Thật trớ trêu là tương lai quan hệ Việt-Mỹ lại gắn liền với tương lai của Biển Đông, mà tương lai của Biển Đông nay lại gắn liền với quan hệ Trung-Việt, cũng như quan hệ Trung-Mỹ. Để làm rõ những khía cạnh đầy uẩn khúc của những mối quan hệ này, hãy bình tâm xem lại một số bối cảnh lịch sử có liên quan và một số biến chuyển gần đây, như những dấu hiệu mới. 

Ngăn chặn Trung Quốc: Trở về tương lai?

Ai quan tâm đến lịch sử chắc vẫn nhớ 60 năm về trước (sau chiến tranh Triều Tiên và Điện Biên Phủ), Mỹ đã triển khai chiến lược Ngăn chặn Trung Cộng bằng cách sử dụng SEATO (South East Asia Treaty Organization) làm cơ chế an ninh tập thể ở Đông Nam Á. Chẳng có gì sai khi Mỹ ngăn chặn Trung Quốc lúc đó cũng như bây giờ khi họ hung hăng trỗi dậy và bành trướng ở khu vực, bằng cách “xoay trục sang Châu Á” để tái cân bằng lực lượng, và sử dụng TPP (Tran-Pacific Partnership) làm khuôn khổ hợp tác mới ở khu vực. Nhưng mục đích kinh tế của TPP có lẽ không quan trọng bằng mục đích chiến lược.

Nói cách khác, đây là trò “rượu cũ bình mới”. “Rượu cũ” là mối đe dọa tiềm ẩn của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (không hề thay đổi). “Bình mới” là Trung Quốc nay áp đặt “Đường Lưỡi bò” và dùng dàn khoan để lấn chiếm Biển Đông, và ráo riết xây dựng các đảo nhân tạo và công trình quân sự tại các đảo san hô mà họ chiếm ở Hoàng Sa và Trường Sa, hòng kiểm soát Biển Đông (như “lợi ích cốt lõi”). “Rượu cũ” là Mỹ “Ngăn chặn” Trung Cộng, và “bình mới” là trò chơi TPP (thay cho “SEATO”). Quan hệ Trung-Việt đầy phức tạp vừa là đối tác chiến lược (cùng ý thức hệ), vừa là đối thủ chiến lược (do tranh chấp chủ quyền). Đó là mối quan hệ bất bình thường (vừa yêu vừa ghét) như “anh em thù địch”. Nhưng lúc này thật là dại dột và bất khả thi, nếu Việt Nam cố duy trì nguyên trạng mối quan hệ bất bình thường đó bằng cách đong đưa và đi trên dây để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ.

Cách đây 60 năm, Mỹ đã ngăn chặn một Trung Quốc nghèo nàn (như con “hổ giấy”), tuy ngoài mặt thách thức Mỹ nhưng trong bụng rất muốn bắt tay. Còn bây giờ, Mỹ đang ngăn chặn một Trung Quốc giàu có như một “quái vật kinh tế và quân sự”, vừa muốn giữ nguyên trạng (bên trong), lại vừa muốn thay đổi nguyên trạng (bên ngoài), thách thức vai trò cầm đầu của Mỹ. Trước đây, Mỹ ngăn chặn Trung Quốc bằng cách đánh Việt Nam (tưởng là kẻ thù ý thức hệ). Còn bây giờ Mỹ ngăn chặn Trung Quốc đang hung hăng trỗi dậy bằng hợp tác với Việt Nam (như đối tác chiến lược mới).

Đây là một sự chuyển đổi đầy kịch tính, để sửa chữa một sai lầm lớn mà cả hai nước đã mắc phải. Chiến lược Ngăn chặn và chiến tranh Việt Nam là hai chuyện khác nhau, không nên nhầm lẫn. Đáng lẽ Mỹ không nên can thiệp vào Việt Nam bằng “một cuôc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, với một kẻ thù sai” (Omar Bradley, 1951). Nhưng phải 20 năm sau cuộc chiến, ông Robert McNamara mới công khai thừa nhận sai lầm này (trong cuốn sách xuất bản năm 1995). Thực ra, ngay từ năm 1965, ông George Ball (trợ lý Ngoại trưởng) đã nhìn thấy trước một cuộc chiến sai lầm, đã cảnh báo và khuyên can Tổng thống John Kennedy đừng quyết định đưa quân sang Việt Nam để can thiệp trực tiếp.

Nhưng đáng tiếc là không ai muốn nghe George Ball, mà người ta còn cười nhạo ông ấy. Theo tôi, George Ball giỏi không kém gì George Kennan. Họ là những người Mỹ thông minh, dũng cảm, có tầm nhìn xa. Nếu Chính quyền biết lắng nghe họ, thì nước Mỹ đã tránh được bao tổn thất về xương máu và nguồn lực tại Việt Nam (và Iraq sau này). Việt Nam và Iraq là những bài học đẫm máu, còn tiếp tục ám ảnh người Mỹ. Thomas Vallely (cựu chiến binh, Giám đốc chương trình Việt Nam tại Harvard) đã nói rất đúng (trong tư liệu TV, 1985), “chúng ta không nên làm cái việc sai lầm là đưa thanh niên đến chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”.

Khi ông Archimedes Patti (cựu sĩ quan OSS) ký tặng tôi cuốn sách “Why Vietnam” (Bangkok, 1990), tôi có hỏi ông ấy, “lúc đó họ có đọc sách của ông không”. Ông Patti nói với ánh mắt buồn rầu, “chẳng ai đọc nó cả, chẳng ai nghe tao cả”. Trong một lần báo chí phỏng vấn (năm 1981), ông Patti đã nói rất rõ, “Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại Giao, và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”

Điều đó làm tôi nhớ lại sự kiện “Blood Telegrams” (mà chắc nhiều người đã quên). Ông Archer Blood, Tổng lãnh sự Mỹ tại Dacca (thủ phủ Đông Pakistan lúc đó) đã gửi điện khẩn về Washington (ngày 6/4/1971, có 29 cán bộ ngoại giao Mỹ ký tên) cảnh báo về nạn “diệt chủng có chọn lọc” đang biến Dacca trở thành “thành phố ma” (3/4 dân số bị giết hoặc bỏ chạy). Họ công khai phản đối chính sách của Mỹ ủng hộ chính quyền quân sự (của tướng Yahya Khan) đàn áp dã man người Bengali đòi độc lập cho Bangladesh. Nhưng Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Henry Kissinger lúc đó đã lờ đi, vì muốn tướng Yahya Khan làm cầu nối với Trung Quốc để Tổng thống Nixon đến Thượng Hải bắt tay Mao Chủ tịch, như một “bước ngoặt lịch sử”. Tôi xin trích một đoạn bức điện đó, “Chính phủ chúng ta đã không lên án việc đàn áp dân chủ. Chính phủ chúng ta đã không lên án tội ác. Chính phủ chúng ta đã không có biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ công dân của mình, trong khi đó ra sức làm vừa lòng chính phủ do người Tây Pakistan nắm quyền và làm giảm bớt đi mọi sức ép tiêu cực của dư luận quốc tế đối với chính phủ Pakistan. Chính phủ chúng ta đã chứng tỏ một điều mà tất cả mọi người đều coi là phá sản về đạo đức…”.

Tham dự tích cực: Trò chơi kết thúc?

Tôi không biết Tổng thống Nixon thực sự nghĩ gì khi ông ta bắt tay Mao Chủ tịch tại Shanghai năm 1972. Nhưng tôi tin ông Nixon đã một lần nói thật khi ông ấy nhận xét một cách chí lý (năm 1994, trước khi ông ấy chết), “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”. Ông Nixon lúc sắp chết đã trở thành “thiên tài”! Thực tế là phải 42 năm sau, đến tận 2014, đa số người Mỹ mới nhận ra “hệ quả không định trước” này và bắt đầu lo ngại về sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc (tuy vẫn tranh cãi về nguy cơ xung đột Trung-Mỹ).

Công bằng mà nói, không nên đổ lỗi cho ông Nixon vì Dr Henry Kissinger mới chính là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc, từ “Shanghai Communique” để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam “trong danh dự” và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, đến “Constructive Engagement” để thay thế “Containment” giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, và “China Card” để biến Trung Quốc thành đồng minh “trên thực tế” chống Liên Xô, và cuối cùng “China Lobby” để vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc trong mọi chuyện làm ăn khác.

Trong nửa thế kỷ qua (nói chính xác là qua 8 đời Tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ), Washington vẫn cho rằng chủ trương “Can dự tích cực” là cách duy nhất để khuyến khích Trung Quốc cởi mở dần trong quá trình mà ông Kissinger gọi là “co-evolution” (hay diễn biến hòa bình) theo các giá trị của Mỹ, và “trỗi dậy trong hòa bình”. Chỉ gần đây, người Mỹ mới bắt đầu thất vọng như bị bạn tình Trung Quốc phản bội. Các chuyên gia về Trung Quốc bắt đầu nói đến sự cần thiết phải “ngăn chặn” Trung Quốc, và hai bên bắt đầu coi nhau như đối thủ (thay cho đối tác). “Đồng thuận Washinton” về lợi ích của “Constructive Engagement” bắt đầu đổ vỡ.

Điều này làm ta nhớ lại trận Trân Châu Cảng (7/12/1941) khi hạm đội Mỹ tại đây đã bị hải quân Nhật đánh đắm, nhưng đa số người Mỹ lúc đó vẫn không tin là Nhật Bản dám khởi chiến. Có lẽ “Đồng thuận Washington” giống như một con voi quá lớn và quá chậm để dễ dàng chuyển động. Không biết người Mỹ có thật ngây thơ về Trung Quốc không, hay là cái bóng của ông Kisinger quá lớn, nhưng gần nửa thế kỷ qua, chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn xoay quanh “cái trục Trung Quốc” mà ông Kissinger đã thiết kế.

Dù nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy ngày cànghung hăng (như đầu gấu tại khu vực) có phải do chính sách “Can dự tích cực” hay không, thì nhiều người cho rằng Mỹ và Trung Quốc khó tránh khỏi chiến tranh lạnh (thậm chí xung đột). Gần đây, tỷ phú George Soros lập luận rằng nếu không nhân nhượng Trung Quốc về vấn đề tài chính sống còn đối với họ, thì lãnh đạo Trung Quốc có thể phải dùng đến xung đột vũ trang để tồn tại, dễ gây ra chiến tranh thế giới mới. Điều này làm ta nhớ lại chính sách “Appeasement” của chính phủ Anh (Neville Chamberlain) đã thỏa hiệp quá nhiều với Hitler (tại Munich, năm 1938). “Constructive Engagement” nếu đi quá đà, mà không có điều kiện khắt khe ràng buộc, sẽ phản tác dụng hơn cả “Appeasement”.

Michael Pillsbury (một chuyên gia kỳ cựu về Trung Quốc) nhận xét, “Trung Quốc không đạt được hầu hết những mong muốn màu hồng của chúng ta”. David Lampton (một học giả về Trung Quốc tại Johns Hopkins) kết luận, “Quan hệ Trung-Mỹ đã đi đến chỗ đổ vỡ”. Robert Blackwill (một chuyên gia về an ninh quốc tế tại Belfer Center, Harvard) cho rằng “Constructive Engement với Trung Quốc chỉ giúp cho đối thủ mạnh lên”. Kevin Rudd (cựu Thủ tướng Australia, một chuyên gia về Trung Quốc) đã tóm tắt quan điểm của người Trung Quốc về mục tiêu của Mỹ là “nhằm cô lập, ngăn chặn, làm suy yếu, phân hóa Trung Quốc, và phá hoại lãnh đạo chính trị của Trung Quốc”. Ông ấy còn khuyến nghị “Constructive Realism” để thay cho “Constructive Engagement”.

Tôi cũng không rõ liệu cao kiến của ông Kevin Rudd, tuy có thực tế hơn, nhưng liệu có hiệu quả hơn không, khi điều chỉnh quan trọng gần đây của Washington vẫn tỏ ra “quá ít và quá muộn”. Thái độ cứng rắn hơn của Mỹ (điều máy bay quân sự đến Biển Đông) là một tín hiệu tích cực và lời cảnh báo rõ ràng đối với Trung Quốc, nhưng có lẽ vẫn chưa đủ thuyết phục Bắc Kinh phải thực sự nghiêm túc, và chưa đủ thuyết phục các nước Asean đang bị Trung Quốc bắt nạt và phân hóa cần phải dựa vào Washington hơn là Bắc Kinh. Ít nhất đó là cách hiểu (không chính thức) về thái độ nhìn nhận của Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La gần đây (May 29-31, 2015).

Biển Đông: Một thùng thuốc súng?

Hơn một năm nay, từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông và ráo riết xây dựng các công trình quân sự và đảo nhân tạo trên các đảo san hô họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị thiết lập khu vực nhận diện phòng không, đe dọa tự do hàng hải, thì Biển Đông đã nóng lên như thùng thuốc súng. Quốc hội Mỹ và giới nghiên cứu đã chuyển biến mạnh,  buộc Chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn, đưa máy bay quân sự và tàu chiến vào Biển Đông để răn đe, bất chấp Trung Quốc phản đối. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế đã thực sự lo ngại. Một số nước đồng minh của Mỹ (như Japan và Australia) đã thay đổi hẳn thái độ, sẵn sàng tham gia tuần tra hải quân trên Biển Đông.

Trong khi bức tranh địa chính trị tại khu vực thay đổi nhanh và rõ nét hơn, thì tương lại Biển Đông vẫn mù mịt và bất định. Liệu đối đầu Trung-Mỹ tại Biển Đông có dẫn đến chiến tranh thật không, hay chỉ là chiến tranh lạnh? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể thỏa thuận với nhau để chia sẻ quyền lực (như trước đây)? Liệu căng thẳng Trung-Việt có dẫn đến chiến tranh không, hay tiếp tục nhùng nhằng (không hòa không chiến) và Trung Quốc tiếp tục chiến thuật “cắt lát gặm dần” như “chuyện đã rồi”, không đánh vẫn thắng? Và cuối cùng, liệu sức ép của Mỹ và cộng đồng thế giới, cũng như quá trình dân chủ hóa tại Trung Quốc, có đủ sức xoay chuyển thái độ của Bắc Kinh, và hóa giải được xung đột lợi ích tại Biển Đông để biến thùng thuốc súng này thành khu vực hợp tác hòa bình và cùng khai thác?

Một số chuyên gia về Trung Quốc theo thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison đặt tên) cho rằng xung đột Trung-Mỹ là khó tránh khỏi, và Biển Đông có thể là cái ngòi nổ cho Thế chiến thứ Ba. Một số khác theo thuyết phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế (phái Neo-liberalism) lập luận rằng chiến tranh Trung-Mỹ rất khó xảy ra vì hai nền kinh tế khổng lồ này đã quá phụ thuộc vào nhau, nên khả năng cùng bị hủy diệt do chiến tranh là một sự răn đe hiệu quả. Số còn lại đưa ra nhiều giả thuyết và kịch bản khác nhau, chủ yếu dựa trên phân tích học thuật, thường làm rắc rối hơn là làm sáng tỏ vấn đề, và góp phần làm cho Biển Đông nóng hơn (trên mặt báo và các diễn đàn nghiên cứu) như thêm gia vị vào các thực đơn nghiên cứu.

Graham Allison dựa vào thực tế lịch sử để rút ra quy luật, chủ yếu nhằm cảnh báo về một nguy cơ tiềm tàng khó tránh, để biết mà phòng tránh chứ không phải để kết luận như đinh đóng cột rằng chiến tranh nhất thiết sẽ xảy ra. Trong thế giới đầy biến động khôn lường và đầy biến số này, không ai có thể chắc chắn về một điều gì như hằng số.

Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia trong thế giới phẳng là một thực tế hiển nhiên. Trong trường hợp quan hệ Trung-Mỹ thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới càng lớn hơn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn thì mâu thuẫn cũng càng lớn và rủi ro cũng càng cao, rất khó kiểm soát. Sự khác biệt về hệ thống giá trị cơ bản giữa hai quốc gia này như mặt trăng và mặt trời. Trong khi Mỹ dẫn đầu thế giới trong việc phát triển phương tiện truyền thông xã hội, thì Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát nó. Trong khi Mỹ muốn Trung Quốc áp dụng hệ thống giá trị của mình, thì lãnh đạo Trung Quốc coi đó là lật đổ.

Nếu cả hai xu hướng chính là “cái bẫy Thucydides” và “phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” cùng tồn tại trong quan hệ Trung-Mỹ thì nó có thể triệt tiêu lẫn nhau, dẫn đến nhùng nhằng (không hòa không chiến) như chiến tranh lạnh kiểu mới (như xu hướng thứ ba). Nếu tình huống này thắng thế, thì Trung Quốc càng có lợi, tiếp tục “cắt lát” để gặm nhấm, biến thành “chuyện đã rồi”, và cuối cùng đạt được mục tiêu kiểm soát Biển Đông mà không tốn một viên đạn.

Có lẽ cả Trung Quốc và Mỹ đều quá bận tâm về các vấn đề chính trị nội bộ nên muốn hướng dư luận vào các vấn đề chính trị quốc tế. Họ cũng có thể gây căng thẳng tại vài nơi trên thế giới để thử gân nhau. Nhưng có lẽ lúc này cả hai đều không muốn và không sẵn sàng chiến tranh tổng lực. Kết quả có thể là chiến tranh lạnh kiểu mới, một dạng chiến tranh nửa dơi nửa chuột (hybrid warfare) hoặc mượn tay người khác (proxy warfare). Tuy nhiên, khi căng thẳng được đẩy lên thành kịch tính thì rủi ro càng lớn, và hai bên cần một cơ chế kiểm soát rủi ro để tránh sử dụng vũ lực. Dù sao, người ta cho rằng chiến tranh lạnh vẫn còn hơn là “Thế chiến thứ 3”.

Trong khi chưa biết là chiến tranh lạnh hay Thế chiến thứ Ba, thì các học giả về Trung Quốc cho rằng màn chót của chế độ Trung Cộng có lẽ đã bắt đầu. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ giàu có và hùng mạnh, nhưng nó che đậy một hệ thống đã đổ vỡ bên trong. Không phải chỉ có ông Gordon Chang lâu nay dự báo “Trung Quốc sắp sụp đổ”, mà cả Giáo sư Paul Krugman (được giải Nobel kinh tế) cũng báo động rằng “Trung Quốc đã kịch đường” (tới điểm giới hạn). Đáng chú ý là cả Giáo sư David Shambaugh (một chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc tại George Washington University) đã tuyên bố “màn chót của chế độ Trung Cộng đã bắt đầu”…

Chiến dịch “đả hổ” chống tham nhũng quyết liệt của ông Tập Cận Bình để cứu chế độ (hay củng cố địa vị) đang đẩy màn chót đến nhanh hơn. Việc tăng cường đàn áp càng bộc lộ sự rạn nứt của hệ thống và đẩy nhanh quá trình sụp đổ. Thay vì mở cửa, ông Tập Cận Bình đang tăng cường kiểm soát gấp đôi. Giới tinh hoa ở Trung Quốc sẵn sàng ra đi hàng loạt nếu hệ thống bắt đầu sụp đổ. Theo Elizabeth Economy (Council on Foreign Relations) 2/3 (hoặc 64%) người Trung Quốc có tài sản trên 1.6 triệu USD đang di cư hoặc định như vậy.

Anh em bạn thù: Làm sao để thoát?

Định mệnh về địa lý

Dù muốn hay không, Việt Nam vẫn phải sống cạnh người láng giềng khổng lồ, như một định mệnh về địa lý, không thể thay đổi được. Vì vậy về lâu về dài, Việt Nam phải tìm cách chung sống hòa bình tử tế với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Là một nước nhỏ hơn, muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình, Việt Nam phải thay đổi và mạnh lên để Trung Quốc phải tôn trọng. Nếu Việt Nam yếu đi trong khi Trung Quốc mạnh lên, thì chắc chắn Việt Nam sẽ mất độc lập, chủ quyền vì trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng bá quyền Trung Quốc. Đáng tiếc tình trạng hiện nay đúng là như vậy. Không phải Việt Nam chỉ mất đất biên giới và hải đảo tại Biển Đông, mà có thể sẽ mất tất cả, để “trở về tương lai” như thời kỳ Bắc thuộc.

Tương quan lực lượng

Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang thách thức vai trò số một của Mỹ, và muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không chỉ là con quái vật kinh tế, mà còn là con quái vật quân sự và ý thức hệ, với tham vọng bành trướng bá quyền như đầu gấu trong khu vực. Họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng dân Trung Quốc vào “Giấc mộng Trung Hoa”, hòng che đậy những mâu thuẫn cơ bản đang đe dọa sự tồn tại của chế độ. Biển Đông chỉ là một mảnh trong ván cờ lớn của họ. Trung Quốc muốn giữ chặt Việt Nam trong cái bẫy ý thức hệ, như một nước chư hầu, không được thân với Mỹ và Phương Tây. Vì vậy, Việt Nam phải mạnh lên, để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ đó. Nếu không mạnh được như Israel, thì chúng ta cũng phải đi theo hướng đó. Để khai thác được cái mỏ người hơn 90 triệu dân, chúng ta phải nâng cao dân trí, đổi mới thể chế kinh tế và chính trị. Việc này không thể một sớm một chiều mà cần vài thập kỷ (Đáng tiếc là chúng ta đã đánh mất ít nhất bốn thập kỷ).

Chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Chủ nghĩa dân tộc luôn là động lực chính trong quan hệ quốc tế. Trong lịch sử, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh và sức sống tiềm tàng, như những đối thủ truyền kiếp. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền là hiểm họa cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Khi chủ nghĩa dân tộc trở thành cực đoan và bá quyền, nó như con quái vật, xô đẩy các nước vào lò lửa chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc thường bị các chế độ độc tài thao túng để kích động lòng yêu nước và huy động dân chúng ủng hộ các tham vọng cực đoan của họ, hoặc che đậy những mâu thuẫn xã hội và xung đột nội bộ.

Người Đức thông minh tài giỏi như vậy, nhưng cũng bị Hitler và đảng Quốc Xã cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa chiến tranh thế giới. Người Trung Hoa có bề dày lịch sử và văn hóa như vậy, nhưng cũng bị Mao và các phái cộng sản cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa Cách mạng Văn hóa. Người Khmer hiền lành như vậy, nhưng cũng bị Pol Pot và Khmer Đỏ thao túng, trở thành nạn nhân của họa diệt chủng. Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là do chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Muốn tránh thảm họa chiến tranh và xung đột, cần phải nâng cao dân trí và dân chủ hóa.

Dân chủ hóa

Đối với các xã hội chuyển đổi (như Trung Quốc và Việt Nam), dân chủ hóa là quy luật tất yếu và quá trình cần thiết để xã hội phát triển. Quá trình này nhanh hay chậm tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và xã hội của từng nước. Dân chủ hóa thường song hành với quá trình phát triển tầng lớp trung lưu và dân trí. Nó vừa là động lực để đổi mới và phát triển kinh tế, vừa là đối trọng để hạn chế chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa phức tạp nên quan hệ Việt-Trung vừa bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền, vừa bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản cực đoan. Chỉ có dân chủ hóa và nâng cao dân trí thì Việt Nam và Trung Quốc mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và nguy cơ xung đột. Sự phát triển bùng nổ của internet và truyền thông xã hội dựa trên kỹ thuật số gần đây có vai trò rất lớn trong quá trình này, như một cuộc cách mạng truyền thông.

Cất cánh kinh tế

Tuy Trung Quốc và Việt Nam có thể chế chính trị giống nhau (do Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), nhưng kinh tế hai nước phát triển không giống nhau, làm quan hệ trở thành bất bình đẳng và lệ thuộc. Trong khi kinh tế Trung Quốc cất cánh với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong suốt 3 thập kỷ, thì kinh tế Việt Nam không cất cánh lên được, thậm chí còn tụt hậu. Mặc dù đều độc tài và tham nhũng, nhưng Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng theo kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam vẫn duy trì “định hướng XHCN”, dựa vào các doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và yếu kém làm chủ đạo, dẫn đến thua lỗ và phá sản (như Vinashin và Vinalines). Trong khi Trung Quốc vơ vét tài nguyên khoáng sản toàn cầu để nuôi con quái vật kinh tế khổng lồ, xuất khẩu hàng hóa ra khắp thế giới để tích lũy tư bản, thì Việt Nam không công nghiệp hóa và nội địa hóa sản xuất, chỉ bán rẻ tài nguyên khoáng sản lấy tiền nhập siêu hàng tiêu dùng. Đây cũng là một bi kịch quốc gia. Nếu không thay đổi cơ bản về thể chế kinh tế và chính trị, để hội nhập vào thị trường thế giới, thì Việt Nam khó tránh khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc và mất chủ quyền tại Biển Đông.

Đối tác chiến lược.

Muốn đối phó với một láng giềng lớn chuyên bắt nạt (như Trung Quốc), Việt Nam phải liên kết với đối tác chiến lược mạnh hơn (như Mỹ) làm đối trọng và răn đe. Đó là quy luật tất yếu ai cũng biết, nhưng vận dụng như thế nào là một chuyện khác. Có nhiều bài học lịch sử. Ví dụ, không nên dựa hẳn vào bên này để chống bên kia, gây thù chuốc oán, như trước đây Việt Nam đã dựa hẳn vào Trung Quốc để chống Mỹ, rồi sau này lại dựa hẳn vào Liên Xô để chống Trung Quốc. Nhưng cũng không nên có quan hệ đối tác chiến lược với quá nhiều nước, mà chẳng nước nào có khả năng đương đầu với Trung Quốc để bênh vực Việt Nam. Nó giống như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”. Việc giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng cách đi trên dây không phải là một chiến lược lâu dài. Càng không phải là một cái cớ để trì hoãn quan hệ đối tác chiến lược sống còn với Mỹ khi Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt thật là mối đe dọa chung đối với khu vực. Không nên nhầm lẫn mục tiêu chiến lược với phương tiện chiến thuật. Nếu không có quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và gia nhập TPP, Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt nạt và đô hộ. Muốn có quan hệ đối tác chiến lược hiệu quả, trước hết người Việt Nam phải đoàn kết và tự cường mạnh lên, để các đối tác tôn trọng và tin cậy. Quan hệ đối tác chiến lược sẽ trở thành vô nghĩa nếu không dựa trên tầm nhìn chiến lược và lòng tin chiến lược.     

N.Q.D.

6/2015

Tham Khảo

  1. “Hitting China’s Wall”, Paul Krugman, the New York Times, July 18, 2013
  2. “Pivot 2.0”, A Report of the CSIS Asia Program, CSIS, Jan 2015
  3. “The Coming Chinese Crackup”, David Shambaugh, the Wall Street Journal, March 6, 2015.
  4. “Revising US Grand Strategy Toward China”, Robert Blackwill & Ashley Tellis, Special Report, Council on Foreign Relations Press, April 2015
  5. “The Future of US-China Relations under Xi Jinping”, Kevin Rudd, Summary Report, Belfer Center, Harvard Kennedy School, April 2015,
  6. “A Tipping Point in US-China Relations is upon us”, David Lampton, speech at the Carter Center conference, May 6-7, 2015
  7. “Retaining America’s balance in the Asia-Pacific: Countering China’s Coercion in South East Asia”, Patrick Cronin, Crongressioanl Testimony, May 13, 2015
  8. “China’s Place in US Foreign Policy”, Karl Eikenberry, the American Interest, June 9, 2015
  9. “Can China Be Contained”, Andrew Browne, the Wall Street Journal, June 12, 2015

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 23-6-15

Nguồn: http://viet-studies.info/kinhte/NQuangDy_LichSuDangLapLai.htm

Ăn, ăn… lấy cái cục c. gì mà ăn!

Ăn, ăn… lấy cái cục c. gì mà ăn!

VietTuSaiGon

RFA

Từ những ngày đầu năm (Tết Nguyên Đán) đến nay, các phương tiện thông tin trong và ngoài nước xuất hiện khá nhiều hình ảnh đời sống xa hoa, vương giả của những quan chức Việt Nam hiện tại cũng như sự giàu có của gia đình, họ hàng của họ. Và đương nhiên bản thân các quan chức và cựu quan chức này đang sống trên đất Hà Nội, dòng họ, bà con của họ thì sống rải rác khắp nơi từ Bắc chí Nam. Nhưng cách Hà Nội không xa, chưa đầy hai trăm cây số đường bộ và năm chục cây số đường chim bay, có những cuộc đời hết sức khủng khiếp, sự nghèo khổ của họ được xếp vào hàng vĩ đại của thế giới.

Từ Ninh Bình đến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận… cho đến Tây Nguyên, miền Đông Đất Đỏ, Mũi Cà Mau hay Móng Cái… Đi đâu cũng gặp những cảnh đời nghèo đến mức khó mà tin được!

Đơn cử trong một chuyến đi, tôi đến huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa, đây là huyện trước đây ba năm xếp trong nhóm nghèo nhất nước. Sau ba năm, nhờ sự chiếu cố của Đảng, nhà nước, huyện thoát khỏi cảnh nghèo. Phương tiện thông tin trong nước đều nói vậy. Nhưng khi đến đây, tôi hết sức bất ngờ và buồn cười. Bất ngờ ở chỗ nhà tranh mái lá vừa rất thơ mộng, vừa nghèo lại vừa mát mẻ của người đồng bào Mường, Thái, H.Mong không còn nữa. Thay vào đó là những ngôi nhà xây lúp xúp, lợp tôn, nhìn xa thì giống chuồng heo, lại gần thì giống chuồng lợn.

Hỏi ra mới biết là nhà nước đã hỗ trợ tiền, bắt buộc người nhận hỗ trợ phải xây dựng nhà, xóa bỏ nhà tranh. Như vậy là bút sa gà chết, bà con thi nhau cặm cụi xây nhà. Nhưng vùng này vốn là vùng nghèo thuộc diện chó ăn đá gà ăn muối, cho bao nhiêu thì bà con xây bấy nhiêu, tiền ăn còn không có, lấy đâu mà xây nhà?! Và với khoản tiền mười đến mười lăm triệu cho mỗi mái nhà, khỏi cần tưởng tượng thì cũng biết căn nhà xây lên to cỡ nào rồi.

Nói thì tội, đâm ra xúc phạm đồng bào của mình, nhưng thú thực nếu xây nhà kiểu như vậy, ở nhà tranh tốt hơn nhiều. Bởi vì nhà tranh dù sao cũng mát, không ồn khi mưa rơi và cũng ít lo bị sét đánh. Đằng này, xóa bỏ nhà tranh theo chủ trương của nhà nước (thực chất là để tránh ống kính của những du khách đi qua đường Trường Sơn, bởi trên tuyến đường này, sự phân biệt giàu nghèo nhìn rất rõ, nhà nào xây bề thế, có cổng ngõ, ra dáng biệt thự, dinh thự thì đó là của quan chức, nhà nào xập xệ là của dân), dân phải xây với mức tiền ít ỏi, nhiều người xây dở chừng thì vật liệu xây dựng tăng giá, phải chạy vay chạy mướn trả bằng lúa. Cuối cùng, căn nhà xây xong giống cái chuồng, người thì đeo nợ.

Thử nghĩ, với mức tiền từ mười đến mười lăm triệu đồng (tùy vào số người nhiều hay ít mà dao động từ mười đến mười lăm triệu) để vừa mua gạch, mua ciment, mua tôn để lợp thậm chí phải mua gỗ để làm đòn tay, kèo chứ rừng đã bị cấm, đến cây tre rừng cũng không được đốn hạ thì lấy đâu ra để làm nhà. Và với ngần đó tiền, cái nhà xây được sẽ bằng một phần ba diện tích căn nhà tranh cũ, lợp tôn, ngột ngạt. Trong điều kiện thời tiết mà mùa Đông thì lạnh cắt da cắt thịt, mùa nắng thì ngộp thở, thêm phần gió Lào thì thà ở nhà tranh còn tốt hơn nhiều. Đó là chưa kể đến việc nhiều nhà lâm vào nợ nần triền miên do vay tiền bù khoản chênh lệch vật liệu xây dựng (gọi là tiền phát sinh).

Ghé thăm một gia đình, thấy ông lão người Mường ngồi tiu ngĩu, mắt kèm nhèm, mặt buồn xo, thi thoảng có con ruồi bay vi vu qua mắt ông. Không biết hỏi câu gì, cũng chẳng biết nên bắt đầu từ câu nào bởi vì ông cũng không buồn chào khách, thậm chí có ánh nhìn không mấy thiện cảm. Tôi buột miệng hỏi một câu cho có hỏi: “Cụ ơi, cụ ăn uống gì chưa?”. Vì lúc này đang là 12h trưa nên tôi hy vọng câu hỏi này tạo được gần gũi với ông cụ. Ông ngồi nhìn tôi một hồi rồi trả lời bâng quơ: “Cán bộ hả? Hỏi hay nhỉ! Gạo sạch trong đít nồi, lấy cái cục cứt gì mà ăn!”. Câu nói vừa có chút nóng giận, lại vừa tục tằn một cách rất hồn nhiên của ông khiến tôi thấy thương ông lạ lùng và cũng không tránh khỏi bật cười.

Tôi hỏi tiếp: “Ủa, sao lại… Nhà mình đi đâu hết rồi cụ?”. Ông nhìn lại tôi một lúc, ra chiều thiện cảm: “Đi mót củi rừng cả rồi. Mấy đứa lớn vào Nam làm thuê”. Hỏi chuyện một lúc nữa, tôi được biết ông cụ năm nay chỉ mới 60 tuổi, nhìn bề ngoài thì có vẻ như trên 90. Ông vốn là thợ rừng, giờ thất nghiệp, con cái bỏ đi làm thuê ở miền Nam, ông sống với hai đứa cháu nhỏ. Hiện tại, ông chẳng còn gì để ăn. Hai đứa nhỏ đang đi hái măng rừng và mót củi rừng (chứ không chặt như trước đây vì rửng cũng đã trơ trụi) để bán dưới chợ. Ông bị bệnh mấy tuần rồi nên chỉ ngồi nhà chờ cháu mua gạo về nấu cháo cho ăn, từ sáng tới giờ ông chưa có gì bỏ vào bụng, tối bữa trước thì ăn cháo với măng rừng.

Nghe đến đây, tôi chẳng biết nói gì hơn, lục túi, biếu ông hai trăm ngàn đồng, ông cầm hai trăm ngàn đồng mà giống như người dưới xuôi đang cầm hai trăm triệu vậy, thật khó tả. Tôi đi được một đoạn, nghĩ lại, quyết định giảm bớt cà phê và ăn kiêng một chút, quay lại biếu ông thêm ba trăm ngàn nữa. Ông nhìn tôi tròn xoe mắt và hết cả kèm nhèm. Khi tôi đi ra, ông chắp tay vái lên trời, nói to: “Cầu Trời Phật phù hộ cho cậu, cậu đi đường bình an, mạnh khỏe!”. Lời nguyện cầu cùng âm sắc hết sức lạ lẫm của ông khiến tôi cứ ám ảnh trên đường đi, mà mỗi khi nhớ lại hình ảnh ông chắp tay cầu nguyện cho tôi thì tôi lại ứa nước mắt…

Tôi cũng chẳng thể bàn luận gì thêm về chính sách của nhà nước cũng như đời sống của những người nghèo nữa. Tôi chỉ nghĩ rằng: Với lời cầu nguyện đầy tâm huyết của người đàn ông Mường này, tôi sẽ được bình an. Và nếu thực dụng một chút, những người có nhiều tiền mà sợ nhiều thứ, tốt nhất nên mang tiền đến tặng những người nghèo như ông cụ vừa nói. Sự biết ơn và lời cầu nguyện của họ hướng về người đã giúp họ có khi còn tốt hơn cả triệu lần việc xây chùa, cúng dường, bày trò công đức, đốt vàng mã… Bởi vì nếu lời cầu nguyện của họ không thành sự thật, vô nghĩa chăng nữa thì ít nhất cái công đức cứu đói, giúp nghèo hiện ra kết quả rất rõ, ngay trước mắt, chẳng phải siêu hình và tù mù.

Vì hiện tại, có rất nhiều người nghèo, đồng bào thiểu số miền núi đã đến mùa giáp hạt, họ chẳng có cái cục c. gì để mà ăn đâu! Thưa các quan, các ông các bà, các ngài đạo đức đang ngồi trên ngai vàng, đang sống như các hoàng đế thế kỉ 21 trong bộ vó thanh liêm và mẫu mực ạ!

NHỎ LẠI !

NHỎ LẠI !

Tác giả: Huệ Minh

Trong vườn hoa nhà Chúa, có một nhân vật thật diệu kỳ, thật nhỏ bé. Nhân vật nhỏ bé đó có cái tên là Gioan Tẩy Giả.

Gioan Tẩy Giả được sinh ra trong kế hoạch tiền định của Thiên Chúa. Em nhỏ được sinh ra khi mẹ em và cha em ở cái độ tuổi đã già và hai ông bà son sẻ : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” (Lc 1, 18). Thế nhưng, nhờ lời nguyện cầu cũng như đời sống đạo đức của Cha, em đã cất tiếng khóc chào đời. Chính vì sự công chính trước mặt Thiên Chúa nên ân phúc của Thiên Chúa đã tuôn đổ trên gia đình Dacaria và Êlizabet và người con đó “sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ.” (Lc 1, 15-16).

Và rồi, Gioan cất tiếng khóc chào đời nhờ ân sủng của Thiên Chúa.

Với cái tên gọi thân thương Gio-an. Gioan được cảm nghiệm, được xác tín như một quà tặng diệu kỳ: Theo tục lệ Dothái, một trẻ nam sinh được tám ngày, thì phải dâng vào Đền Thờ để chịu lễ cắt bì và đặt tên. Vì thế “Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan.” Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” (Lc 1, 59-66).

Sự xuất hiện của Gioan có là gì đâu mà khiến cho mọi người bỡ ngỡ và kinh sợ như vậy ?

Kinh sợ, ngạc nhiên bởi lẽ vì “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” (2 Cr 6, 2).

Thiên Chúa rất cần có một nhân vật dọn đường mở lối cho Đấng Cứu Độ trần gian nhập thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Nhân vật quan trong ấy không ai khác đó chính là Gioan, một qùa tặng diệu kỳ Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Theo ngôn ngữ Hípri, thì Gioan có nghĩa là “Thiên Chúa thi ân” hay “Thiên Chúa tặng ban”.

Đây không chỉ là một quà tặng diệu kỳ Thiên Chúa ban cho ông bà Dacaria và Êlizabet, mà còn là món quà vô giá tặng ban cho dân tộc Israel nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung.

Thật vậy, Gio-an Tẩy Giả vì được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, ngài đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý (bị Hêrôđê sát hại – x Mc 6, 17-29).

Và như thế, Gioan xứng đáng với lời khen tặng của Đức Giêsu Thiên Chúa: “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” (Lc 7, 28).

Chúa Giêsu đã khẳng định như thế về con người, về cuộc đời của Gioan nhưng ta thấy ông lại thể hiện một cung cách sống khác hẳn với những gì Chúa nói về ông.

Chính Gioan đã nói : “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại(Ga.3,30); ” Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa ( Lc 3, 16 ). Và rồi ta thấy Gioan Tẩy Giả đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: “…Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”( Ga 1, 15 )

Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái : xin gì ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.

Ngày hôm nay, nhất là trong xã hội và ngay trong Giáo Hội, cần lắm những Gioan Tẩy Giả chân chính. Cần lắm bởi lẽ trong thực tế cuộc sống, ta vẫn thấy nhiều và nhiều người đã đánh bóng tên tuổi của mình, đánh bóng những việc làm của mình dưới những vỏ bọc là nhân ái, là yêu thương … để tôn mình lên và không tìm thấy Chúa Giêsu đâu cả.

Thực tế trong cuộc sống cho ta thấy dù là người tài ba lỗi lạc, danh nhân tài hoa đi chăng nữa nhưng cuối cùng cũng phải ra đi. Có khi sự ra đi lại vội vã và thoáng qua như cơn gió thổi nhẹ bởi lẽ cuộc đời này là vô thường.

Và, ta cũng thấy khi ta làm cho ta lớn lên thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ không có chỗ trong đời của ta cũng như ta không có chỗ trong cung lòng Thiên Chúa. Chính vì vậy, ta phải nhỏ lại để Thiên Chúa lớn lên trong ta cũng như ta có một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa vậy.

Bản thân tôi, khi suy niệm về cuộc đời của Gioan Tẩy Giả, tôi chợt nhìn ra cũng không kém những lần mình đi tìm cái danh của mình hơn là đi tìm danh Chúa. Thật ra, mình chỉ là một thụ tạo nhỏ bé trong tay của Chúa nhưng nhiều khi mình tự sướng và quên đi cái nhỏ bé đó và mình vùng vẫy. Buồn cười ở chỗ là càng nhoi thì mình lại càng thấy kệch cỡm bởi lẽ tất cả đều khép lại sau cái chết như cái chết của Gioan. Thế nhưng, chuyện quan trọng là sống như thế nào và chết như thế nào và có can đảm sống và chết như Gioan Tẩy Giả hay không ?

Suy nghĩ như thế, nhìn như thế để rồi ngày mỗi ngày ta cũng xin cho ta được nhỏ lại, bé lại để khi Chúa khép đời ta lại ta được bình an và thanh thản.

Nhìn đời sống của thánh Gioan Tẩy Giả, chợt nhận ra rằng mình đã nhiều lần nhiều lúc đi tìm mình, đánh bóng mình mà quên rằng điều căn cốt là đi tìm Thiên Chúa cũng như giới thiệu Đấng Cứu Độ trần gian cho anh chị em đồng loại. Sống như thế, mới cầu mong được một chỗ nơi mà Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như nhiều vị thánh khá đang sống trong cung lòng Thiên Chúa.

Huệ Minh

ĐỤNG ĐẾN ÁO

ĐỤNG ĐẾN ÁO

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài.  Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang.  Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.  “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”  Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.  Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.  Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.

Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.  Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.  Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.  Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.

Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.

Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.  Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.

Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy chỗi dậy.”

Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.  Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.  Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.

Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).

Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).

Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.  Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.

Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.

Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

*************************************

Lạy Chúa Giêsu,

Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.  Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.  Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Trích trong “Manna”

Bức thư của thiên tài Einstein gửi con gái Lieserl

Bức thư của thiên tài Einstein gửi con gái Lieserl

Vào cuối những năm 1980, Lieserl – con gái của vị thiên tài nổi tiếng Einstein đã trao tặng 1.400 bức thư của ông cho trường đại học Hebrew, với yêu cầu duy nhất là không tiết lộ nội dung của những bức thư này trong vòng 2 thập kỷ sau khi ông qua đời. Đây là một trong số những bức thư đó- bức thư dành cho chính Lieserl Einstein.

[Chuyện đẹp] Bức thư của thiên tài Einstein gửi con gái Lieserl

“Khi cha đưa ra Thuyết tương đối, rất ít người có thể hiểu được. Tương tự như vậy, điều mà cha sắp tiết lộ với nhân loại bây giờ đây rồi cũng sẽ vấp phải những hiểu lầm và thành kiến của mọi người.

Cha mong con giữ kín những bức thư này của cha hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ nếu cần thiết, cho tới khi nào xã hội đủ tiến bộ để có thể chấp nhận những điều mà cha sẽ giải thích dưới đây.

Có một loại Lực vô cùng mạnh mẽ, mà cho tới nay khoa học cũng không thể tìm ra lời giải đáp chính xác dành cho nó. Lực này bao gồm và chi phối tất cả những lực khác. Nó thậm chí còn đứng sau bất kỳ hiện tượng nào được vận hành bởi vũ trụ mà chúng ta vẫn chưa thể lí giải. Đó chính là TÌNH YÊU.

Khi những nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ sót Lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này.

Tình yêu là Ánh sáng chiếu rọi những người biết trao và nhận nó.

Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta có thể bị cuốn hút bởi một ai đó.

Tình yêu cũng chính là sức mạnh, bởi nó sinh sôi, nảy nở và giúp con người không bị vùi dập bởi sự ích kỷ mù quáng.

Tình yêu hé lộ và gợi mở.

Vì tình yêu chúng ta sẵn sàng sống, và hy sinh.

Tính yêu chính là Thượng đế, và Thượng đế cũng chính là Tình yêu.

Thứ lực này giải thích cho tất cả mọi điều và mang ý nghĩa đến cho cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ do tồn tại một nỗi sợ hãi rằng: đây là loại năng lượng duy nhất trong vũ trụ mà con người không thể học cách điều khiến bất kỳ lúc nào.

Để có một hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể đạt được bằng tình yêu được sản sinh với tốc độ ảnh sáng bình phương, thì chúng ta hoàn toàn có thể đi đến kết luận:Tình yêu chính là một lực mạnh vô song, bởi nó không hề có bất kỳ giới hạn nào.

Sau những sai lầm của nhân loại trong việc sử dụng và điều khiển những nguồn lực trong vũ trụ dẫn tới phản tác dụng, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác…

Nếu loại người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những loài hữu tình khác, Tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để chế tạo một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Nhưng mỗi cá nhân vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.

Lieserl con yêu, khi chúng ta học cách cho và nhận nguồn năng lượng vũ trụ này, chúng ta phải thừa nhận rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, vượt qua bất kỳ chướng ngại nào, bởi tình yêu chính là tinh tuý của sự sống.

Cha vô cùng ân hận vì đã không thể nói lên những điều trong trái tim mình, nơi mà từng nhịp đập trong cả cuộc đời này đều dành cho con. Có lẽ đã quá trễ để nói lời xin lỗi, nhưng thời gian cũng chỉ là sự tương đối, cha vẫn cần phải nói với con rằng Cha yêu Con, và nhờ có con mà cha mới có thể đi đến câu trả lời cuối cùng!”

Cha của con,

Albert Einstein

tinhhoa.net

Sẽ không ai thay thế được GS-TS Trần Văn Khê’

Sẽ không ai thay thế được GS-TS Trần Văn Khê’

Giáo sư - Tiến sĩ Trần Văn Khê là thành viên Hội đồng Quốc tế Âm nhạc thuộc UNESCO.

Giáo sư – Tiến sĩ Trần Văn Khê là thành viên Hội đồng Quốc tế Âm nhạc thuộc UNESCO.

Khánh An-VOA

24.06.2015

GS-TS. Trần Văn Khê, một cây “đại thụ” trong làng văn hóa Việt Nam, vừa từ trần vào lúc 2:55 ngày 24/6/2015 ở tuổi 94. Với bề dày đồ sộ các công trình nghiên cứu âm nhạc, ông là thành viên danh dự Hội đồng Quốc tế Âm nhạc thuộc UNESCO và là người có công đầu trong việc giới thiệu âm nhạc dân tộc Việt Nam đến với thế giới. Ngoài vốn kiến thức lỗi lạc, GS-TS. Trần Văn Khê còn được giới văn nghệ sĩ Việt Nam kính phục vì những phẩm chất đáng quý của một người làm văn hóa một cách nghiêm túc và tử tế.

GS-TS. Trần Văn Khê sinh ra trong một gia đình được xem là “nhà nòi” làm nghệ thuật. Gia đình ông có bốn đời chuyên về âm nhạc truyền thống. Cụ cố Trần Quang Thọ là nhạc ông triều đình Huế trước đây. Ông nội là Trần Quang Diệm biết đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà. Cha là Trần Quang Triều biết nhiều nhạc cụ, đặc biệt là độc huyền cầm và đờn kìm.

Cụ cố ngoại là Nguyễn Tri Phương làm đến chức Khâm sai Kinh Lược Nam Kỳ. Ngoại tổ là Nguyễn Tri Túc vốn là người đã nuôi rất nhiều nhạc sĩ danh tiếng vùng Cần Đước, Vĩnh Kim. Các cô, cậu họ hàng của GS-TS. Trần Văn Khê cũng là những người đã góp phần trong kho tàng âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Tuy nhiên, ông lại bị mồ côi rất sớm. 9 tuổi ông mất mẹ, 10 tuổi mất cha. Trong cuốn tự truyện rất được mến mộ, GS-TS. Trần Văn Khê xem biến cố đau thương này vừa là nghịch cảnh, lại vừa là động lực cho ông cố gắng hoàn thiện mình trên mỗi bước đường đời.

” Có thể sau này có người tài ba hơn thầy, giỏi hơn thầy, nhưng vị trí, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cuộc sống của thầy Trần Văn Khê là sẽ không thay thế được.

Đạo diễn Tấn Phát”

Thuở bé, GS-TS. Trần Văn Khê đã tỏ ra rất sáng dạ. Ông là một trong hai người duy nhất trong tỉnh đậu bằng chữ Hán khi mới học tiểu học. Lên trung học, ông được cấp học bổng vào trường Trương Vĩnh Ký và năm nào ông cũng đứng đầu lớp. Hoàn tất trung học, ông lại được cấp học bổng đặc biệt của chính phủ thuộc địa để ra Hà Nội học Y khoa. Nhưng đến năm thứ nhì thì vấn đề sức khỏe và sự kiện phong trào “Xếp bút nghiên” đã khiến ông phải bỏ dở trường thuốc.

Sau đó, ông sang Pháp và thi đậu vào trường chính trị nổi tiếng Sciences Po ở Paris. Rồi ông sang La Haye học Luật quốc tế và được tuyển vào làm thư ký quốc tế cho Liên Hiệp Quốc. Năm 1952, ông ghi tên soạn luận án tiến sĩ đại học Paris. Năm 1954 – 1958, ông theo học khoa nhạc học và chuẩn bị làm luận án tiến sĩ. Đến tháng 6/1958, ông đậu tối ưu tiến sĩ Văn khoa, môn Nhạc học tại đại học Sorbonne, với luận án chính về âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Một biểu tượng của văn hóa Việt Nam

Sự nghiệp nghiên cứu và đóng góp ủa ông cho âm nhạc truyền thống Việt Nam cho tới nay không ai có thể sánh bằng. Ông là người đã có công đầu trong việc giới thiệu âm nhạc truyền thống Việt Nam với thế giới.

TS. Nguyễn Xuân Diện, người có vinh dự được làm việc cùng với ông trong thời gian làm hồ sơ đề nghị đưa ca trù Việt Nam vào UNESCO cho biết:

“Tất cả những hoạt động của ông từ nửa thế kỷ nay đều phụng sự cho văn hóa, âm nhạc Việt Nam, giới thiệu văn hóa, âm nhạc Việt Nam đi khắp năm châu bốn bể. Ông có những việc làm để gìn giữ tất cả những nét đẹp tinh hoa của Việt Nam trong văn hóa và âm nhạc. Chúng ta nhớ là năm 1976, khi mà quan họ, ca trù có một đời sống lay lắt thì GS. Trần Văn Khê trở về và ghi những đĩa hát về quan họ và ca trù, ghi âm với những nghệ nhân giỏi nhất thời bấy giờ, để đi giới thiệu với UNESCO, cho UNESCO in ra 400 đĩa gửi đi khắp nơi. Sau đó, nó có một tiếng vọng rất lớn trở lại Việt Nam. Tuy GS. Trần Văn Khê đã qua đời nhưng tất cả di sản đồ sộ cũng như những cống hiến lớn lao của ông đã khiến cho GS. Trần Văn Khê trở thành một biểu tượng của văn hóa Việt Nam”.

Một nhân cách lớn

Làm việc nghiêm túc nhưng rất bình dị, gần gũi, quan tâm đến những người xung quanh là đặc điểm khiến cho nhiều người có dịp làm việc với GS-TS. Trần Văn Khê kính phục và yêu mến ông. Đạo diễn Tấn Phát, người đã cùng làm việc với ông gần đây nhất trong chuỗi chương trình “Vinh danh văn hoá Nam bộ”, kể:

“Thầy vô cùng bình dị. Ngày xưa khi chưa gặp thầy, tôi nghĩ một người lỗi lạc như thầy chắc có lẽ phải cao sang, cao xa. Nhưng khi làm việc với thầy thì thầy rất bình dị, từ cách ăn mặc đến cách giao tiếp. Đối với mọi người, thầy rất quan tâm, chu đáo. Người nào thầy đã gặp rồi thì thầy nhớ. Cuộc sống thầy cũng rất đơn giản. Căn phòng thầy ở, món ăn thầy ăn đều rất đơn giản và dân tộc. Đó là một trong những điều khiến tôi khâm phục thầy nhất”.

” GS. Trần Văn Khê đã qua đời nhưng tất cả di sản đồ sộ cũng như những cống hiến lớn lao của ông đã khiến cho GS. Trần Văn Khê trở thành một biểu tượng của văn hóa Việt Nam.

TS. Nguyễn Xuân Diện”

TS. Nguyễn Xuân Diện rất nể phục GS-TS. Trần Văn Khê về tính công tâm, minh bạch trong công việc. Ông kể:

“GS. Trần Văn Khê luôn là một người thật sự công tâm, khách quan, minh bạch. GS. Trần Văn Khê được chính phủ Việt Nam mời về để làm cố vấn cho việc trình hồ sơ lên UNESCO cho ca trù Việt Nam, giáo sư đã yêu cầu Viện Âm nhạc và Bộ Văn hóa mời tôi để viết phần lịch sử và sự phát triển của ca trù. GS. Trần Văn Khê có gọi tôi đến và yêu cầu tôi phải đưa ra những tư liệu xác thực nhất, có thể kiểm chứng được trên thực tế, không được dựa trên những huyền thoại, truyền thuyết, mà phải dựa trên những tài liệu xác đáng bằng văn bia và các tài liệu Hán Nôm”.

TS. Diện kể trong một lần khác, chính phủ Việt Nam đề nghị giáo sư đưa môn đờn ca tài tử (vốn là sở trường của ông) trình lên UNESCO để được công nhân là văn hóa phi vật thể, giáo sư đã từ chối với lý lẽ đờn ca tài tử tuy đặc biệt nhưng vẫn xếp sau một số bộ môn nghệ thuật khác.

Tuy sự ra đi của GS-TS. Trần Văn Khê đã được dự báo trước, nhưng nhiều người không khỏi bồi hồi, luyến tiếc. Đạo diễn Tấn Phát nhận định việc mất đi GS-TS. Trần Văn Khê là một mất mát to lớn cho nền âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Đạo diễn nói:

“Sẽ không có người thay thế. Có thể sau này có người tài ba hơn thầy, giỏi hơn thầy, nhưng vị trí, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cuộc sống của thầy Trần Văn Khê là sẽ không thay thế được”.

Ngay cả đến lúc cuối đời, GS-TS. Trần Văn Khê cũng khiến cho nhiều người phải ngả mũ kính phục ông vì những sắp xếp hậu sự qua bản di chúc, trong đó, ông tiếp tục cống hiến phần tài sản cuối cùng cho những công việc lưu truyền và phát huy văn hóa Việt Nam. Ông cũng không quên sắp xếp cuộc sống cho người giúp việc đã đỡ đần ông trong nhiều năm cuối đời.

Nỗi Bất An Giữa Thời Tan Rã

Nỗi Bất An Giữa Thời Tan Rã

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Vấn đề với chủ nghĩa xã hội là tới lúc nào đó nó sẽ dùng hết tiền của người khác.

Margaret Thatcher

Tôi rời Cali đã lâu. Đủ lâu để bắt đầu thấy nhớ ánh nắng dịu dàng của Thung Lũng Hoa Vàng, và thèm tô phở gà (Nguyễn Huệ) trên phố Bolsa. Nắng Phnom Penh không chỉ chói chang mà còn nóng bỏng, và phở Nam Vang thì vô cùng nhạt nhẽo, và hoàn toàn không có mùi vị gì ráo trọi. Nó gần giống như cái thứ hủ tíu ăn liền ở một quán ăn xa xôi, nghèo nàn (nào đó) dù luôn có thịt bò tươi. Rất tươi và cũng rất dai, mười tô như chục.

Thiệt là hoạ vô đơn chí: nóng chịu không thấu; dở nuốt không vô. May mà có bia, đời còn dễ thương!

Có ai ngờ California (cứ tưởng là chốn tạm dung) lại có thể hoá “ngang” thành một thứ … quê hương thứ hai cho những hạt bụi đường viễn xứ, và mọi thứ đến từ “quê mình” đều bỗng trở nên gần gũi  – kể cả email.

Hôm rồi, ký giả Nguyễn Tuyển gửi thư tâm tình: “Tác giả Đèn Cù tới Quận Cam. Tôi có ngồi nói chuyện với ông ấy nhưng không được nhiều vì bận làm tin cho tờ báo. Ông có vẻ lạc quan, tin rằng chỉ hai ba năm nữa là chúng nó có thể sập. Dựa vào sự oán ghét, căm hận của người dân khắp nơi, ông ấy bảo Việt Nam như cái nồi nước sôi mà đậy nắp kín, thế nào cũng phải bung.”

Sự “lạc quan” của Trần Đĩnh khiến tôi nhớ đến một người cầm bút khác: Trần Khải Thanh Thủy. Mùa Hè năm kia, khi chúng tôi đang cùng Phan Quang Tuệ và Đỗ Thành Công ngồi bệt trước Lãnh Sự Quán (của nhà đương cuộc Hà Nội) ở San Francisco, cô bỗng nhỏ giọng nghiêm trang: “Chỉ vài tháng nữa là chúng nó đổ thôi. Qũy hưu trí cạn tiệt rồi, anh ạ.”

“Chúng nó” (rõ ràng) đã không “đổ” như Trần Khải Thanh Thuỷ mong đợi, và không chắc sẽ “xập” như Trần Đĩnh dự đoán. Chúng ta vẫn thường không nhìn thực tại như nó là mà chỉ như mình muốn. Đây là tâm cảm bình thường, và tự nhiên của mọi người trước hiện cảnh bức bối (và bí lối) hiện nay của đất nước.

Không phải ai cũng chia sẻ sự lạc quan và ước vọng của Trần Đĩnh và Trần Khải Thanh Thủy nhưng tất cả (tôi nói lại: tất cả) đều rất bi quan về tương lai của chế độ hiện hành. Chín mươi ngàn công nhân của Pouen, cùng đồng nghiệp ở những Long An, Tây Ninh, Tiền Giang đã lãng công (hồi tháng ba vừa qua) để phản đối điều 60 Luật BHXH  – điều luật chỉ cho phép người lao động nhận tiền BHXH một lần khi về hưu – chính vì họ nghi ngại về khả năng giữ tiền (và giữ quyền) của Nhà Nước trong những ngày tháng tới.

Ảnh: tuoitre.vn

Mọi giới chức có thẩm quyền, và có liên quan đến vấn đề BHXH, đều biết (rõ) như thế nhưng không ai dám thừa nhận như vậy. Tất cả đều chỉ nói dối quanh:

  • Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng: Việc công nhân phản ứng Điều 60 Luật bảo hiểm xã hội 2014 có nhiều nguyên nhân, trong đó có lý do công tác tuyên truyền đến phổ biến pháp luật chưa tốt nên khi động đến lợi ích trước mắt là có phản ứng dù luật chưa có hiệu lực. Có lẽ đây là lời nói dối trơ tráo nhất của ông Hùng. Luật BHXH mới được cái quốc hội của ông ta thảo luận “chui” và thông qua “lén,” có dám cho ai biết đâu (cho tới khi công bố) mà bảo rằng “công tác tuyên truyền … chưa tốt.”
  • Thứ Thứ Trưởng Lao Động Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân:  Cần làm cho người lao động hiểu rằng việc tích lũy để sau này có điều kiện hưởng lương hưu chắc chắn tốt hơn nhiều so với lĩnh một lần. Vấn đề không phải là “không hiểu” mà là “không tin,” Giời ạ! Ai cũng hiểu cả nhưng không ai tin rằng chế độ hiện tại có thể tồn tại đến “sau này” nên mọi người đều muốn nhận một cục tiền (và nhận liền) cho nó chắc ăn.
  • Vụ Phó BHXH Nguyễn Duy Cường: Không tính đến yếu tố trượt giá, nếu người lao động tích lũy đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để nhận lương hưu thì lợi ích thu được sẽ lớn gấp 4-5 lần so với việc nhận bảo hiểm xã hội một lần. Coi: “Gửi Tiết Kiệm Một Chỉ Vàng Nhận Lại Một Ổ Bánh Mì Thịt” / “Gửi Tiết Kiệm 20 Năm, Một Căn Hộ Còn Ba Tô Phở…” Tin tức hàng ngày nhan nhản như thế này trên mặt báo mà ông Cường lại nhất định “không tính đến yếu tố trượt giá” thì có bỏ mẹ con người ta không cơ chứ. Sao mà ông “tính” ngu vậy?
  • Phó Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân: Về quan điểm, mục tiêu khi xây dựng điều 60 Luật BHXH là đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và phù hợp với xu hướng quốc tế, hướng đến chiến lược an sinh lâu dài cho người lao động.

Quả là đúng xu hướng quốc tế thật nhưng ở những quốc gia khác qũy BHXH được điều hành bởi một chính quyền khả tín. Cái Đảng và Nhà Nước thổ tả của bà Kim Ngân (tiếc thay) lại là một tập đoàn thống trị vô cùng bất nhân, bất nghĩa, và bất tín nên không hề có được chút tín nhiệm nào cả – từ bất cứ ai. Đừng nói chi đến chuyện “an sinh lâu dài cho người lao động,” ngay giờ đây đã có tiếng cảnh báo rồi: “ Việc nhà nước Việt Nam vỡ nợ chỉ còn là vấn đề thời gian, khi nào thì công bố chính thức mà thôi.”

  • Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền : Nội dung Điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 là phù hợp với xu hướng phát triển chung, đã thể hiện đúng quan điểm, định hướng mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo đảm quyền thụ hưởng lâu dài của người lao động, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.

Cũng như bà Kim Ngân, bà Hải Chuyền phát biểu không có gì sai. Cả hai bà, cùng tất cả qúi vị có chức danh thượng  dẫn, chỉ đều không chịu nói thật thôi.

Sự thực là ở Việt Nam, cũng như ở Tầu, không ai cảm thấy an tâm về hiện cảnh cả.

Hãy nghe Tiến Sĩ Alan Phan nói qua về tình trạng ở Tầu:

“Theo một nghiên khảo của Hurun Consulting Group tại Shanghai, có 64% nhà giàu tại Trung Quốc đã và đang lên kế hoạch để xin di cư ra nước ngoài. Nhà giàu được định nghĩa là có tài sản hơn 12 triệu RMB (hay khoảng 1.8 triệu USD). Điểm đến mong ước? Mỹ (52%), Canada (21%), Úc (9%) và châu Âu (7%). Hai phần ba số người trên sẵn sàng bỏ quốc tịch Trung Quốc.”

Nguồn ảnh:vnmedia.vn

Từ Ba Lan, nhà báo Maciej Michalek cũng có nhận xét tương tự:

  • Họ gửi con cái đi học nước ngoài, chuyển tiền ra nước ngoài, cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có được hộ chiếu của các nước khác, và cuối cùng, nếu có thể, họ di cư để tìm kiếm một nơi tốt hơn để sống. Điều này cho thấy sự thiếu tin tưởng giữa chính phủ và các doanh nghiệp, cũng như sự thiếu niềm tin vào tương lai của người dân Trung Quốc tại chính quê hương của mình.”

Hiện trạng Việt Nam, tất nhiên, cũng không thể khác.  Từ Hà Nội phóng viên Luke Bùi có bài tường thuật (“Người Giầu Ở Hà Nội Tìm Đường Sang Mỹ”) chi tiết:

“Trong bối cảnh nợ công của Việt Nam sắp vượt trần, phân hóa giàu-nghèo ngày càng cách biệt, đời sống xã hội có nhiều rủi ro, giới giàu có ở Hà Nội đang ráo riết tìm đường định cư ở Mỹ để bảo toàn khối tài sản.

Có mặt tại Hà Nội trong những ngày này, người ta không khó để bắt gặp những chiếc xe BMW, Bentley, Roll-Royce bóng lộn, trị giá cả vài trăm ngàn đô la xuất hiện ngạo nghễ trên những con phố chật hẹp. Nhưng trong tầm mắt của du khách cũng có cả những người buôn thúng, bán bưng chật vật với chuyện kiếm được dăm ba chục ngàn đồng mỗi ngày. Quang cảnh khiến người ta nhớ đến khái niệm ‘phồn vinh giả tạo’ mà một nhà thơ đã dùng để miêu tả thời thế…

Mà Hà Nội bây giờ không chỉ có mình Ciputra, người ta có thể kể thêm một loạt những The Manor, Indochina, Pacific Palace, Golden West Lake… như là minh chứng về đẳng cấp của giới thượng lưu tại thủ đô.

Nhưng đằng sau vẻ hào nhoáng ấy có khi là tâm thế bất an trước thời cuộc… Điều này được minh chứng trong thực tế. Gần đây, các buổi hội thảo giới thiệu chương trình đầu tư định cư EB-5 lấy thẻ xanh Mỹ được tổ chức dồn dập ngay tại thủ đô Hà Nội và thường không còn một chỗ trống.

Bình quân sau mỗi buổi hội thảo, công ty định cư làm thủ tục cho hàng chục khách hàng với phí dịch vụ khoảng hơn $40,000/trường hợp. Tuy vậy, theo một doanh nhân làm lĩnh vực môi giới định cư cho biết thách thức lớn nhất đối với công ty ông và các luật sư đối tác là chứng minh nguồn gốc tài sản của khách hàng…”

Nếu qúi bà (Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Thị Hải Chuyền…) và qúi ông (Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Minh Huân, Nguyễn Duy Cường …) đều là những người nghèo, không ai có tài sản gì ráo trọi để mà phải lo tẩu tán, và tất cả đều tin tưởng tuyệt đối vào sự bền vững của chế độ mà mình đang phục vụ thì tôi xin chân thành ngỏ lời xin lỗi vì đã có  những lời lẽ xúc phạm đến qúi vị. Bằng không, tôi xin mượn ý của một nhà văn Việt Nam để kết thúc bài viết ngắn ngủi này:

“Giá các ông ấy cứ ăn nhưng đừng giảng dậy đạo đức cho mình thì dễ chịu hơn.” (Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá. Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008).

Tác phẩm thượng dẫn đã được chuyển dịch sang Pháp ngữ (La Mer et le Matin-Pêcheur) bởi dịch giả Tây Hà, và được trao giải Henri Queffélec. Khi được biên tập viên Mặc Lâm ( RFA) yêu cầu tóm gọn đôi lời về cuốn sách này, tác giả đã phát biểu như sau:

“Tôi chỉ có thể tóm tắt lại như thế này, đây là sử thi, quyển tiểu thuyết sử thi thời sự tan rã. Tan rã trong hệ tư tưởng, tan rã trong quan hệ sản xuất, nghĩa là tan rã trong ý thức hệ, tan rã trong quan hệ giữa người với người.”

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ: Trong va li có một con rắn Trung hoa?

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ: Trong va li có một con rắn Trung hoa?

Võ Thị Hảo

RFA

  • VN vừa ký thêm một „văn tự bán nước“?

Theo tin từ VN thì Nguyễn Phú Trọng sẽ sang thăm Mỹ từ 7-9/7/2015.

Nghe nói chính quyền Obama đã chuẩn bị một lễ đón tiếp trọng thể dành cho vị Tổng bí thư(TBT) lãnh đạo một trong những chính thể được xếp hạng tham nhũng và đồi bại nhất thế giới.

Không cần quan tâm đến nguyện vọng của dân và xu thế thời đại, ông dùng bộ máy đàn áp trói chặt người VN với đường lối và thể chế cộng sản. Khốn thay cho dân VN, chủ thuyết ấy và chính thể cộng sản độc tài lại là cái nôi đã ấp và nở ra những „ma cà rồng“  kếch xù gây tội ác lớn nhất chống lại loài người như Stalin, Lê nin, Mao Trạch Đông…

Những người lạc quan cho rằng đây là một cơ hội lớn để ông Tổng Bí thư rửa tiếng nhơ „ bán nước cho TQ“ để giữ quyền lực – điều mà nhiều người vẫn nhận định về ông lâu nay.

Vì thế, nếu  ông TBT không nhân dịp này mà lập công chuộc tội với nhân dân VN, liên minh thực sự với Mỹ để bảo vệ và phát triển đất nước, giải tán Đảng cộng sản VN, thiết lập thể chế dân chủ tự do đa nguyên; chuyến đi của ông cũng theo khuynh hướng „chiến tích ngoại giao đen“ kiểu ông Phạm Quang Nghị trước đây thì tai tiếng „cõng rắn về cắn gà nhà“ của ông và giới cầm quyền tham nhũng VN thật ngàn năm khôn rửa.

Cánh cửa đẹp luôn để ngỏ. Những ai dù đã có sai lầm, gây hại cho dân nhưng nếu biết sám hối, nhân thời cơ mà lật ngược tình thế, đưa cộng đồng thoát khỏi ách cộng sản độc tài, xóa bỏ gần trăm năm nô lệ thì vẫn được nhân dân tha thứ và ghi nhận như một anh hùng cứu nước.

Bất kỳ ai trong „tứ trụ triều đình“ VN cũng có thể làm được điều đó, trong đó có Nguyễn Phú Trọng.

Nhưng cho đến giờ này, hy vọng ấy chỉ là hoang tưởng nếu căn cứ quá khứ và hiện trạng những hành vi mà ông đã và đang làm.

  • Nước Mỹ có biết „Truyện Nỏ thần“?

Việc Nguyễn Phú Trọng sắp đi Mỹ khiến nhiều người liên tưởng đến „truyện Nỏ thần“-

Đó là một truyền thuyết rất nổi tiếng của VN, kể về loại vũ khí cực mạnh(nỏ thần) làm từ móng chân của một vị thần. Thần này thương tình trao nó vào tay vua An Dương vương của VN(thời đó gọi là nước Âu Lạc) để chống quân xâm lược người TQ. TQ bẫy vị vua này bằng mối quan hệ vờ như gắn bó ruột thịt để trộm lấy nỏ thần, rồi đem nỏ thần tàn sát quân VN. Nước mất,  bị truy đuổi, vua bất lực trước giặc, quay lại trút căm hờn vào người nhà, chém chết con gái rồi lao xuống biển tự sát.

Thời đại nay đã khác xưa.

Xưa kia vua với nước là một. Nước mất thì vua chết.

Vua VN bây giờ không phải một người, mà là „một bầy sâu“ tham nhũng. Do thời thế cũng như thể chế, quyền lợi của „bầy sâu“ này không gắn chặt với đất nước VN mà lại gắn chặt với nhà cầm quyền TQ – tức là giặc của người VN.

Chính bởi thế, nhà cầm quyền VN thỏa hiệp với sự xâm lấn của TQ. Dư luận chứng minh rằng hết người này đến người khác, hết lần này đến lần khác, nhà cầm quyền VN đã liên tục ký „văn tự bán nước“ cho TQ.

Một động thái gần đây nhất đã làm chồng chất thêm sự phẫn nộ của người VN. TQ liên tục đe dọa, tấn công, đánh đắm, cấm đoán các phương tiện thủy vận, bồi đắp đảo nhân tạo, đưa chiến hạm đến chiếm cứ lãnh hải, hoàn tất đường lưỡi bò chiếm đoạt hầu hết lãnh hải VN rồi vu cáo và nhục mạ VN. Nhưng thay vì phải đấu tranh với TQ trên mọi phương diện để bảo vệ đất nước  thì ngày 17- 19/6/2015, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh đã mau mắn dẫn một đoàn quan chức sang Bắc Kinh để dự cái gọi là „phiên họp lần thứ 8 ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương VN-TQ“.

Đoàn quan chức này đã làm gì cho đất nước VN?

Ông Phó Thủ tướng đã   ký ngay bản Cam kết „không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, duy trì quan hệ hai nước và hòa bình, ổn định ở biển Đông“, „thỏa thuận những nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển VN – TQ, đàm phán và tìm kiếm giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được, cùng kiểm soát bất đồng trên biển“…(„Việt Trung nhất trí kiểm soát bất đồng trên biển Đông“- theo VnExpress – 18/6/2015)!

Thật ngược đời! Bên có hành động phức tạp, bên mở rộng tranh chấp, bên gây mất hòa bình, ổn định ở biển Đông chính là TQ. VN là nạn nhân. Ký cam kết như trên là chấp nhận không phản đối, là đồng thuận việc TQ xâm lấn VN.

Sự kiện này khiến người ta cực kỳ thất vọng với ông Phạm Bình Minh – con trai của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch trước đây đã phản đối Hội nghị Thành Đô bán nước cho TQ và não nề thốt lên tiếng nói của lương tâm:“thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự…“. Hóa ra ông Phạm Bình Minh chẳng nối được chí cha. Ông đã tự tha hóa khi đứng vào bộ máy quyền lực và quyền lợi?!

Đa phần những chuyến thăm TQ dày đặc của quan chức VN chỉ để ký kết các bản cam kết có hại cho VN theo lệnh của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương mà thực chất là VN thực hiện gần như vô điều kiện mọi yêu cầu của TQ.

  • Chiếc và li và con rắn

Người ta ngờ rằng việc ông Nguyễn Phú Trọng dám nhận lời thăm Mỹ sau khi thăm TQ cũng là do đã được lệnh của nhà cầm quyền Bắc Kinh, sau khi họ Tập đã tính toán kỹ kịch bản, đường đi nước bước để và biến họ Nguyễn thành một con bài lợi hại trong cuộc tuyệt giao với Mỹ để dễ bề thôn tính VN.

Ngay trước chuyến đi Mỹ của Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị năm 2014, nhiều người cũng đã khấp khởi hy vọng rằng việc lạ này sẽ mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ Mỹ – Việt, cho thấy khuynh hướng phe bảo thủ trong Đảng đã xích lại gần hơn với quyền lợi của dân VN.

Món quà ngoại giao mà ông Nghị tặng ông John McCain – người đại diện cho chính phủ Mỹ đứng ra mời ông sang thăm đã đi vào lịch sử đen tối của những món quà ngoại giao lố bịch nhất trên thế giới. Đó là ảnh chụp tấm bia dựng bên hồ Trúc Bạch sau khi ông John McCain bị bắt và giơ tay hàng với dòng chữ không thể nổi bật hơn: „Ngày 26/10/1967 tại hồ Trúc Bạch quân và dân Thủ đô Hà Nội bắt sống tên John Sney Ma Can thiếu tá không quân Mỹ…“.(lại càng thêm nổi bật vì ghi sai tên người, ghi sai binh chủng!)

Đó là một trong những món quà khả ố nhất được khách đem tặng để làm nhục chủ nhà mà theo nhận định của giới thạo tin thì đó là thành tựu ngoại giao của sự kết hợp hai Đảng cộng sản nhằm vô hiệu hóa mọi nỗ lực của phe cấp tiến VN muốn xích lại gần  hơn với Mỹ và thế giới văn minh để  thoát khỏi vòng trói của TQ.

Có vô số bình luận thể hiện bất bình về hành động trên. Hãy xem một trong những ý kiến được nhiều người cho là chuẩn xác, dù là của một blogger giấu tên để tránh sự truy bức : 11:22 Ngày 02 tháng 08 năm 2014„Nặc danh“ đã viết: „Được mời vào nhà làm khách lại có hành vi tiểu nhân, giấu dao đâm sau lưng, rồi cho đây là thắng lợi ư?

Dầu cho ĐCSVN có thần phục TQ, cũng không nên có hành động tiểu nhân như thế này, đây quả là một việc làm đầy nhục nhã, ngu muội.

Mỹ dại vì dây với ĐCSVN hay ĐCSVN trơ trẽn phơi bày bộ mặt chống Mỹ tới cùng và sẵn sàng ôm chân Tàu cộng.

Phải chăng đây là bằng chứng để ĐCSVN kể công với Tập Cận Bình.

Nói cho cùng, trước hành động này, là người Việt, mình cảm thấy rất nhục nhã“.

Để biết khuynh hướng và hiệu quả chuyến thăm Mỹ sắp tới của Nguyễn Phú Trọng, hãy xem hành trang của ông ta còn gì cho Mỹ và cho dân VN.

Dường như đó là một chiếc va li rỗng, trong đó cuộn tròn một con rắn Trung hoa?

Dường như vì quyền lợi của mình ở biển Đông, Mỹ vẫn muốn tạm thời hy sinh những đòi hỏi về nhân quyền, về thể chế chính trị với VN để trao cho VN một lệnh bỏ cấm vận vũ khí và đặc cách vào TPP – mạnh tương tự „nỏ thần“ cho VN tự vệ trước TQ?

Tốt thôi. Nước Mỹ thường khôn ngoan và chỉ đôi khi  khờ khạo. Nhưng những ông Mỹ mắt xanh quen suy bụng ta ra bụng người theo lối suy nghĩ logic của loài người, nhiều khi lại thua „trắng bụng“ trước thói quen tráo trở của cộng sản VN và TQ vốn coi danh dự chỉ là thứ để giẫm dưới gót giày.

Vậy, kinh nghiệm cho hay rằng, trước khi muốn trao vũ khí cho VN, nước Mỹ cần đọc „truyện Nỏ thần“. Cần đề phòng trường hợp „nỏ thần“ Mỹ từ tay VN sẽ quay lại bắn thẳng vào Mỹ và người bật lẫy nỏ TQ. Nếu thế thì VN và thế giới, không loại trừ Mỹ, sẽ thêm một lần „chết dưới tay TQ“.

VTH

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN ( phần 3)

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN ( phần 3)

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-06-23

  • RFA
  • 06232015-vn-new-wve-refuge-part3.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Công an, côn đồ đàn áp giáo dân, tu sĩ giáo xứ Thái Hà và giáo dân của giáo phận Hà Nội biểu tình tại thành phố Hà Nội hôm 18/11/2011, để đòi hỏi nhà nước giải quyết quyền lợi chính đáng.

Công an, côn đồ đàn áp giáo dân, tu sĩ giáo xứ Thái Hà và giáo dân của giáo phận Hà Nội biểu tình tại thành phố Hà Nội hôm 18/11/2011, để đòi hỏi nhà nước giải quyết quyền lợi chính đáng.

File photo

Từ khi VN tiến hành cải cách về kinh tế vào năm 1986, cho dù nền kinh tế đã phần nào phát triển. Tuy vậy trước việc chính quyền VN tiếp tục, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ và tôn giáo, thì đến nay vẫn có một làn sóng ngầm không ít những người đấu tranh tìm đường trốn khỏi VN để xin tỵ nạn vì lý do chính trị và tôn giáo.

Trong phần một và hai thông tín viên Anh Vũ tại Bangkok và Tường An từ Paris đã đến với các bạn câu chuyện nơi dừng chân Thái Lan và những người tị nạn tại châu Âu và Úc. Trong phần cuối này là câu chuyện tại Bắc Mỹ của Kính Hòa từ Washington.

Triệt đường sống

Năm 2008 xảy ra vụ án Thái Hà, trong đó có việc tranh chấp tài sản đất đai giữa giáo hội công giáo và chính quyền Việt nam. Luật sư Lê Trần Luật là người đại diện cho Giáo hội công giáo. Sau phiên tòa, cơ quan an ninh đã gặp ông Luật và khuyên ông không nên theo đuổi những vụ án chính trị. Sau đó ông Luật bị cho là đã lợi dụng phiên tòa để tuyên truyền chống phá nhà nước.

Người ta đã tước bằng luật sư của ông Luật, và ông thường xuyên bị cơ quan công an mời làm việc. Theo ông nhớ lại thì trong khoảng thời gian 7 năm ông phải gặp cơ quan an ninh đến hơn 300 lần. Khi bị buộc phải chấm dứt hành nghề luật sư và cũng không tìm được việc làm nào khác, ông Luật lâm vào tình trạng rất khốn khó.

Khi biết được tình trạng này, cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ đề nghị rằng ông có thể xin đi tị nạn chính trị. Đứng trước tương lai không sáng sửa của gia đình và bản thân ông Luật chấp nhận xin đi cứ trú chính trị tại Mỹ.

Năm 2007 blogger Uyên Vũ và những người đồng chí hướng sáng lập câu lạc bộ nhà báo tự do với mong muốn cổ võ cho tự do ngôn luận. Lặp tức ông và những người khác rơi vào tầm ngắm của cơ quan an ninh. Cuộc sống của hai vợ chồng blogger Uyên Vũ cũng bắt đầu rơi vào tình trạng như luật sư Lê Trần Luật. Ông Vũ kể lại:

Chúng tôi gặp vô vàn khó khăn, tôi bị áp lực đến nỗi phải bỏ việc, ông giám đốc bị hăm dọa và không dám cho tôi tiếp tục làm việc nữa. Tôi cố gắng tìm một công việc nhưng không tìm được một công việc nào khác. Gia đình của chúng tôi là cha mẹ, anh chị thì cũng nhận những lời đe dọa của công an.”

Ông Uyên Vũ không còn con đường nào khác là quyết định xin đi tị nạn chính trị. Sau nhiều khó khăn ngăn trở từ phía nhà nước Việt nam ông đến Hoa Kỳ vào năm 2014 và hiện sống tại San Diego, California.

” Chúng tôi gặp vô vàn khó khăn, tôi bị áp lực đến nỗi phải bỏ việc, ông giám đốc bị hăm dọa và không dám cho tôi tiếp tục làm việc nữa. Tôi cố gắng tìm một công việc nhưng không tìm được một công việc nào khác. Gia đình của chúng tôi là cha mẹ, anh chị thì cũng nhận những lời đe dọa của công an

blogger Uyên Vũ”

Chuyện ra đi của ông Luật cũng không được dễ dàng. Cơ quan an ninh tìm nhiều biện pháp để xóa bỏ một hình ảnh tù chính trị và họ thường xuyên tuyên bố rằng ở Việt nam không có đàn áp chính trị. Ông Luật kể lại:

Họ nói là nếu mà tôi muốn đi Mỹ thì họ sẽ tạo điều kiện cho tôi đi, bằng cách là họ cấp hộ chiếu và để tôi lên sân bay thoãi mái, với điều kiện là tôi muốn đi Mỹ chứ không phải tôi bị đàn áp về mặt chính trị.”

Luật sư Lê Trần Luật (trái) và blogger Uyên Vũ

Luật sư Lê Trần Luật (trái) và blogger Uyên Vũ

Ông Luật từ chối điều này. Cuối cùng thì cơ quan an ninh Việt nam cũng cấp hộ chiếu và để gia đình ông lên đường sang Mỹ với lời nhắn gửi là đừng hoạt động gì ảnh hưởng tới hình ảnh của nhà nước Việt nam nếu muốn trở lại Việt nam sau này.

Để đối phó với những người mang quan điểm chính trị khác biệt, nhà cầm quyền Việt nam đã huy động một bộ máy an ninh khổng lồ. Ông Luật kể lại câu chuyện cơ quan an ninh điều tra nhân thân ông:

“Có những chuyện lâu rồi trong cuộc đời mình cách 10 hay 15 năm gì đó, mình đã quên, mà họ nhắc lại, chứng tỏ họ tìm hiểu về mình rất kỹ, họ có thể về cả quê nội quê ngoại của mình, để tìm hiểu cái động cơ mục đích, cũng như lý lịch của mình. Họ có thể bỏ ra hàng giờ hàng ngày để tiếp cận với bạn bè cũ, hồi học tiểu học, trung học của mình để tìm hiểu về cá tính, sở thích của mình.”

Ông Luật hiện sống tại thành phố Portland, tiểu bang Oregon.

Vượt biên

Có những người tị nạn chính trị khác không thể lên máy bay từ Việt nam, họ phải chọn con đường vượt biên trái phép sang Campuchia, rồi Thái Lan, rồi từ đây họ được chấp nhận qui chế tị nạn để sang Bắc Mỹ.

” Có những chuyện lâu rồi trong cuộc đời mình cách 10 hay 15 năm gì đó, mình đã quên, mà họ nhắc lại, chứng tỏ họ tìm hiểu về mình rất kỹ, họ có thể về cả quê nội quê ngoại của mình, để tìm hiểu cái động cơ mục đích, cũng như lý lịch của mình

Luật sư Lê Trần Luật”

Anh Đặng Chí Hùng hiện sống tại Toronto, Canada là một trong số những người như vậy. Anh Hùng sinh ra trong một gia đình cả cha mẹ đều là đảng viên cộng sản. Tuy vậy anh có một nguyên nhân khá lý thú đã thúc đẩy anh trở thành một nhân vật bất đồng chính kiến với chế độ cộng sản. Điều này nằm ngay trong những thông tin tuyên truyền về sự vĩ đại của ông Hồ Chí Minh, và sự phủ nhận nền âm nhạc của miền Nam Việt nam trước năm 1975. Anh Hùng đặt ra câu hỏi là tại sao một nhân vật như vậy lại được hết lời ca ngợi, và một nền âm nhạc như vậy lại bị chế độ hắt hủi.

Nhưng sự kiện quan trọng làm cho anh Hùng có một quyết định chính trị chống lại chủ nghĩa cộng sản là những cuộc biểu tình chống Trung quốc xâm lược bị đàn áp. Anh kể lại:

Anh Đặng Chí Hùng ngày đến Canada

Anh Đặng Chí Hùng ngày đến Canada

Khi Mỹ chuẩn bị đánh Iraq thì cộng sản Việt nam bắt bọn tôi phải xuống đường đi biểu tình chống Mỹ, nếu không đi biểu tình chống Mỹ thì sẽ trừ hạnh kiểm. Thật là kỳ lạ là tại sao Iraq thì lại biểu tình, còn người dân Việt nam mình bị Tàu giết thì không được đi biểu tình.”

Một người tù chính trị trẻ tuổi khác là anh Trương Quốc Huy. Anh Huy bị bắt giam sáu năm vì những bài viết bày tỏ chính kiến chính trị, cũng như tố cáo sự nhũng lạm của các quan chức địa phương. Anh kể lại hoàn cảnh của mình sau khi ra tù vào năm 2011:

Tôi ra khỏi tù thì họ không cấp giấy chứng minh nhân dân cho tôi, luôn kềm kẹp phía trước nhà tôi. Tôi không đi làm được vì không có giấy tờ, họ kéo dài cái tình trạng đó rất lâu. Mà khi ra tù thì tôi cũng cần phải sinh sống.”

Anh Trương Quốc Huy, cũng như anh Đặng Chí Hùng đã chọn con đường đào thoát sang Thái Lan. Ở đây họ bị chính quyền Thái bắt giam theo yêu cầu từ phía Việt nam. Ngoài ra Hà nội cũng yêu cầu Thái Lan trục xuất họ về Việt nam. Tuy nhiên với sự giúp đỡ của các tổ chức nhân quyền cũng như là Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc, chính quyền Thái lan đã phải cân nhắc và cuối cùng trả tự do cho họ để lên đường đi tị nạn chính trị.

Cuộc sống và quê hương

Cuộc sống của những người tị nạn chính trị mới tại Bắc Mỹ được nhìn nhận với những góc độ vui buồn khác nhau. Anh Trương Quốc Huy, ông Uyên Vũ thấy rằng mình hòa hợp với cuộc sống mới khá dễ dàng. Một người tị nạn chính trị trẻ tuổi là anh Nguyễn Xuân Thủy, đến Mỹ tháng 6/2015 cũng bằng con đường vượt biên sang Thái Lan kể với chúng tôi ấn tượng của anh về cuộc sống mới từ Houston:

Nó làm cho mình có cảm giác rằng tự do và khoáng đạt. Con người mình không bị để ý bị xoi mói nhiều, không bị đàn áp, tất nhiên là không bị công an đến nhà (cười.) Cảm thấy rất thoãi mái ở bên này.”

” Cái điều bất hạnh nhất là khi chúng ta không còn được sống trên quê hương chúng ta, nơi chôn nhao cắt rốn của mình. Quê hương nó luôn nằm trong lòng của mình, thành ra khi ình sống bên này thì điều kiện có thể tốt hơn khá hơn, nhưng nó không bao giờ bằng đất nước của mình quê hương của mình hết

Anh Trương Quốc Huy”

Luật sư Lê Trần Luật hiện đang làm việc tại một nhà máy ở Portland nói rằng:

Anh cứ tưởng tượng khi một người tị nạn đến Hoa kỳ hay bất cứ một đất nước nào, thì họ giống như người mới sinh ra, tức là công việc làm thì không có, xe cộ thì không biết đi, đường sá cũng không biết, ngôn ngữ không nói được, cũng không nghe được.”

Tuy nhiên cái nhìn của họ về quê hương đã bỏ lại sau lưng khá giống nhau. Ông Uyên Vũ nói rằng không biết bao giờ ông mới trở về Việt nam trong căn cước của một người tị nạn chính trị, nhưng khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ ở Việt nam làm ông cứ mang hình ảnh Việt nam trong tâm khảm ngay trong cuộc sống hiện nay tại miền Nam California.

Anh Trương Quốc Huy rất xúc động khi được hỏi về Việt nam:

Cái điều bất hạnh nhất là khi chúng ta không còn được sống trên quê hương chúng ta, nơi chôn nhao cắt rốn của mình. Quê hương nó luôn nằm trong lòng của mình, thành ra khi ình sống bên này thì điều kiện có thể tốt hơn khá hơn, nhưng nó không bao giờ bằng đất nước của mình quê hương của mình hết.”

Họ đều mong muốn sẽ quay về.

Anh Nguyễn Xuân Thủy, hiện đang chuẩn bị học đại học tại Texas nói:

Mình không thể quay mặt đi được, mình không thể làm ngơ được, cái đó là cái nghĩa vụ, cái trách nhiệm tôi nghĩ là của tôi. Tôi chắc chắn là sẽ quay về, được như thế nào thì tùy ở sức lực của mình.”

Anh Đặng Chí Hùng thì nói là anh không phải là một nhà hoạt động chính trị, anh sẽ tìm kiếm một nghề để kiếm sống, nhưng hoạt động nhằm thay đổi Việt nam là một hoạt động đương nhiên mà mọi người như anh phải làm.

Còn cựu luật sư Lê Trần Luật nói khi kết thúc cuộc trao đổi với chúng tôi rằng ông mong về Việt nam càng sớm càng tốt. Ông mong rằng Việt nam phải đổi thay để có thể đón tất cả những người tị nạn chính trị trở về với đất mẹ.