Hai Thế Hệ, Một Tấm Lòng

Hai Thế Hệ, Một Tấm Lòng

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Huống chi chúng mình cũng là người có đôi chút chữ nghĩa Thánh Hiền.

Cho nên có vài hàng tâm sự.

Thấm thoát mà đã 40 năm, từ khi cha mẹ tay bế tay bồng mang bầy con chạy trốn trước nguy cơ trả thù của những người thắng cuộc. Bây giờ, các bậc cha mẹ này đều ở tuổi trên dưới “cổ lai hy”. Nghĩ lại mà thấy kinh hoàng. Vì so với thời gian “Tôi xa Hà nợi năm lên mười tám khi vừa biết yêu”, rồi 20 năm “Bắc Kỳ Di Cư”, thì thời gian lưu vong xa xứ quá dài. Những 40 năm!.Và họ đã nghĩ đến trách nhiệm của các con trong nối tiếp công việc gia đình, xã hội.

Di tản tới một môi trường hoàn toàn mới lạ, cha mẹ đã phải vất vả cực nhọc lắm để gây dựng lại cho con cái.

Với tuổi đời trung bình từ 35 tới 40, họ phải bắt đầu lại từ số không với rất nhiều khó khăn.

Anh ngữ là trở ngại đầu tiên. Chỉ có một số nhỏ có tiếp xúc với nhân viên các quốc gia đồng minh là nói được chút đỉnh tiếng Anh. Còn hầu hết không nói được ngôn ngữ này. Mà không có ngôn ngữ thì rất khó hội nhập vào quốc gia mới. Có nhiều giai thoại rất vui về sự “đàm thoại bằng tay” này. Một lão bà, đi máy bay, mót tiểu, cứ ôm lấy cô chiêu đãi viên hàng không mà la “Rét Run! Rét Run!”. Cô ta không hiểu mô tê ất giáp gì. Nhưng khi bà cụ chỉ tay xuống bụng dưới , nhăn mặt là cô ta biết ý đưa bà cụ vào cầu tiêu…

Kiếm việc là trở ngại kế tiếp. Đa số các bậc làm cha mẹ khi đó là quân cán chính cũ ở Miền Nam, làm việc văn phòng hoặc đánh trận. Cho nên vào Mỹ là không có một nghề nào có thể xin việc được ngay. Ở xứ này, nghề nào cũng cần giấy phép hành nghề. Ngoại trừ nghề rửa chén, lau nhà. Do đó đa số bắt đầu với các công việc tương tự. Để có tiền cấp bách nuôi dưỡng con cái đi học rồi mới nghĩ tới việc học tiếng Anh, học nghề cho mình.

Rồi thích nghi với nếp sống văn hóa Mỹ quốc.

Văn hóa mình vốn kín đáo, dè dặt, ít nói người Mỹ thì cởi mở, nghĩ sao nói vậy và nói thật nhiều. Họ sẵn sàng tranh luận, phê bình để làm tỏ vấn đề thì ta“ chín bỏ làm mười”, “ai sao tôi vậy”. Nhưng về nhà thì ấm ức, không vui nếu ý kiến của mình bị bác bỏ.

Họ hướng ngoại, quan tâm tới sự việc chung quanh, còn các cụ ta phần nhiều chỉ nhìn về phía mình, làm một mình…. Vì thế trong những giao tiếp, họ thấy mình quá thụ động và bị hiểu nhầm là bất hợp tác. Cho nên khoảng cách hiểu nhau lại càng xa ra.

Ngay cả với con cái, dân Mỹ cũng có đối xử khác với mình. Họ coi con cái vừa là con vừa là bạn. Đôi bên có sự thảo luận, tìm hiểu rất cởi mở để đi đến hành động.

Còn khá đông các bậc làm cha mẹ Việt thì vẫn ôm lấy mớ kinh nghiệm hơi xưa của mình mà không chấp nhận lối suy tư, hành động của con trẻ. Các vị vẫn theo tập tục cũ, có nhiều ra lệnh, cưỡng bách mà không có đối thoại, chia xẻ. Các cụ không hiểu, không đánh giá đúng khả năng của con cháu. Và khi gặp sự đối kháng thì các vị lại hờn dỗi, tủi thân, cho là hết quyền lực với con cái…

Và nhiều vất vả khác nữa để vươn lên.

Nhưng chỉ với những kiên nhẫn, cần cù, chung lưng đấu cật với nhau mà các gia đình tỵ nạn Việt đã tạo ra một thế đứng vững vàng trên đất Mỹ. Họ đã có những cơ sở thương mại tương đối thỏa đáng; đã có những việc làm ở hạng trung, không đến nỗi “ chân lấm tay bùn”. Con cái họ đã đạt được nhiều thành tích sáng chói tại học đường. Nhiều cháu đã tham dự vào việc tham mưu, điều hành chính quyền từ liên bang tới địa phương, đại diện dân cử cũng như trong các lãnh vực y tế, khoa học, giáo dục và ngay cả trong quân đội. Và cũng đóng góp nhiều vào sự “dễ thở hơn” cho đồng bào nghèo khó ở quê hương.

Sự thành công của người Việt tỵ nạn đã làm ngạc nhiên không ít cho dân bản xứ. Và đôi khi họ cũng nhìn mình với con mắt ghen tỵ. Và nhiều người đã ví von rằng Nữ Thần Tự Do còn quay lưng về phía châu Á, hướng về trời tây, đón mừng dân da trắng châu Âu cơ mà.

Sau gần 35 năm xa xứ, nhiều bậc làm cha mẹ xưa kia bây giờ cũng đã “ mỏi gối, chùn chân”.Tuổi đời chồng chất. Sức khỏe không còn hùng dũng như xưa. Thị lực giảm, thính giác khi nghe khi không. Bước chân đi đã bắt đầu nghiêng ngả. Vì mấy chục năm chiến tranh, tù đầy hành hạ. Cộng với 40 năm vất vả lập nghiệp từ hai bàn tay trắng..

Họ đã nghĩ tới việc bàn giao trách nhiệm cho các con. Trách nhiệm nối dõi tông đường. Trách nhiệm với cộng đồng mình, với đất tạm dung. Và nhất là trách nhiệm với quê hương xứ sở.

Với gia đình, họ kiêu hãnh nhìn bầy con trưởng thành, thịnh vượng, dâu rể, cháu chắt đoàn tụ. Như vậy là họ yên lòng. Chúng có phận của chúng. Vợ chồng già bây giờ “ An hưởng Tuổi Vàng” với nhau. Mọi sự chắc sẽ an lành cho tới ngày ra đi.

Với cộng đồng mình thì còn nhiều điều cần để tâm.

Làm sao cộng đồng đoàn tụ, nương nhau mà tiến tới, mà hội nhập với dòng chính bản xứ. Tranh đấu cho các quyền lợi y tế xã hội cũng như giáo dục cho nhóm thiểu số mình. Hướng dẫn đồng hương về các quyền lợi cũng như trách nhiệm với đất tạm dung. Quyền của người công dân Hiệp Chủng Quốc, tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do tôn giáo…Những thứ mà đồng bào mình rất thiếu ở quê hương.

Nhưng mình cũng có những trách nhiệm phải làm. Đóng góp xây dựng, bảo vệ lãnh thổ và quyền lợi Hoa Kỳ, nhiệm vụ bầu cử ( và quyền ứng cử nữa chứ) và các nhiệm vụ khác. Đa số chúng ta đã là người Mỹ gốc Việt rồi mà.

Rồi bảo vệ văn hóa, truyền thống Việt Nam.

Mỹ quốc là những trộn lẫn của nhiều văn hóa khác nhau. Các sắc dân khác duy trì văn hóa của họ được thì ta cũng có thể làm được. Nếu chúng ta ngồi lại với nhau. Tương nhượng, khoan dung nhau để đi tới mục đích, dù đường lối có thể khác nhau. “ Mọi con đường đều đưa tới cổ thành La Mã. Hơn nữa, chúng ta còn có cả “ Bốn Ngàn Năm Văn hiến” hỗ trợ cơ mà.

Đó là trách nhiệm cộng đồng mà thế hệ đi sau có bổn phận phải gánh vác. Với sự khích lệ, góp ý của thế hệ đi trước và với một chút nền móng mà thế hệ này trao lại.

Với quê hương, đất nước thì công việc dường như phức tạp hơn.

Có người nghĩ là nó hơi ở ngoài tầm tay của chúng ta. Chúng ta đã cố gắng. Chúng ta đã xử dụng rất nhiều nhiệt tâm. Mà kết quả dường như khiêm nhường. Và đã có người trông cậy ở giới trẻ. Giới trẻ trong và ngoài nước.Vì thường thường giới trẻ thực tiễn và cởi mở hơn. Họ có nhiều sáng tạo, hoài bão ước mơ. Họ dám làm, dám thử lửa.

Trong nước, giới trẻ quan tâm tới các nhu cầu canh cải điều hành, phát triển kinh tế, thay đổi giáo dục, bảo vệ lãnh thổ. Họ đang tích cực nhìn ra bên ngoài, để học hỏi, cầu tiến. Như các tiền nhân ta trong phong trào Đông Du thuở trước. Đóng cửa, bế quan tỏa cảng chỉ đưa tới diệt vong, hậu tiến.

Bạn trẻ mình ở nước ngoài thì kiến thức rộng, kỹ thuật cao, sẵn sàng đóng góp tiếp tay với lớp cùng lứa tuổi trong nước. Khi hoàn cảnh thuận tiện. Hy vọng là giữa họ, có một tương quan tốt về tâm tư, ý chí và rất ít tị hiềm, phe đảng.

Đất nước quê hương là của mọi con dân, dù viễn cư hay tại xứ. Chia nhau công việc hỗ trợ nhau mà làm chứ chẳng nên chuyên chính, tập trung cũng như không theo phương thức của ta là chao đảo, tay sai.

Trong nước cũng như ngoài nước, lớp người sinh trước, thì lần lượt cũng  hai tay buông xuôi. Cũng trao lại bó đuốc cho lớp đến sau. Hy vọng là những bó đuốc được sửa soạn chu đáo và mang nhiều nhiệt tình, tốt ý.

Một điều mừng là lớp trẻ trong ngoài đều sẵn sàng lãnh đuốc. Nhiều người sốt ruột đợi chờ. Họ đã từng tâm sự: “Chúng cháu chỉ đợi các bác, các chú giao cho là chúng cháu sẵn sàng”.

Và nhiều người lạc quan nghĩ là họ sẽ thành công.

Để làm đẹp cho quê hương cũng như cộng đồng.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

Trước phán quyết đau buồn của Tối Cao Pháp Viện Mỹ về hôn nhân, người Công Giáo được kêu gọi sống chứng nhân

Trước phán quyết đau buồn của Tối Cao Pháp Viện Mỹ về hôn nhân, người Công Giáo được kêu gọi sống chứng nhân
Trần Mạnh Trác

Mặc dù Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ công nhận quyền hôn nhân đồng tính, Hội đồng giám mục Hoa Kỳ lên tiếng kêu gọi người Công Giáo hãy can đảm sống chứng nhân cho sự thật của hôn nhân.

“Bất kể những gì đa số nhỏ hẹp của Tòa án Tối cao đã tuyên bố tại thời điểm này trong lịch sử, bản chất của hôn nhân cuả loài người vẫn không thay đổi và không thể thay đổi,” Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của Louisville, chủ tịch hội đồng các giám mục Hoa Kỳ cho biết.

“Chúa Giêsu Kitô, chuá cuả tình yêu, đã dạy rõ ràng rằng hôn nhân ngay từ khởi đầu là sự hợp nhất suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà,” Tổng Giám mục Kurtz nói thêm. “Là giám mục Công Giáo, chúng tôi đi theo chân cuả Chúa và chúng tôi sẽ tiếp tục giảng dạy và hành động theo sự thật này.”

Trong một quyết định 5-4 ngày thứ Sáu, Tối Cao Pháp Viện đã phán quyết vụ Obergefell v. Hodges rằng, theo Tu chính án thứ mười bốn, các tiểu bang phải cấp giấy phép kết hôn cho các cặp vợ chồng đồng tính và công nhận hôn nhân đồng tính cuả các tiểu bang khác.

Tu chính án thứ mười bốn bảo vệ quyền của mọi công dân được “sống, tự do, và tài sản” trên mặt luật pháp, bảo đảm cho họ “sự bảo vệ bình đẳng trên pháp luật” ở các tiểu bang. Trong trường hợp này, tòa án phán quyết rằng định nghĩa hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ tước đoạt các cặp đồng tính quyền kết hôn hợp pháp của họ.

Phán quyết lật ngược quyết định tháng mười cuả toà thượng thẩm quận 6 của Mỹ đã duy trì luật hôn nhân truyền thống ở các tiểu bang Michigan, Ohio, Kentucky và Tennessee. Sau phán quyết này thì hôn nhân đồng tính trở thành hợp pháp trên tất cả 50 tiểu bang.

Mặc dù Tòa án công nhận quyền hợp pháp cuả hôn nhân đồng tính, người Công Giáo phải dạy và làm chứng cho hôn nhân thật sự, các giám mục Hoa Kỳ khẳng định.

“Ý nghĩa độc đáo của hôn nhân như là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ đã được ghi trong cơ thể cuả chúng ta là nam và nữ,” Tổng Giám mục Kurtz phản ánh.

“Việc bắt buộc định nghĩa lại hôn nhân trên khắp đất nước là một lỗi lầm bi thảm làm tổn hại đến lợi ích chung và đến những thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta, đặc biệt là trẻ em. Luật pháp phải có nhiệm vụ hỗ trợ quyền cơ bản của mọi đứa trẻ là được giáo dục, nếu có thể, bởi cả cha và mẹ của mình trong một gia đình ổn định. ”

Mặc dù phán quyết, người Công Giáo cần tiếp tục rao giảng sự thật về bản chất của hôn nhân với “đức tin, hy vọng và tình yêu” cho tất cả mọi người, và mời gọi “tất cả mọi người hiện chí” hổ trợ người Công Giáo trong việc ” tự do tìm kiếm, sống và làm chứng cho sự thật ”

Phán quyết “sẽ không kết thúc các cuộc tranh luận về hôn nhân và tại sao nó quan trọng đối với chính sách công,” là lời cuả bà Jennifer Marshall, Phó chủ tịch viện ‘gia đình, cộng đồng, và cơ hội’ (the Institute for Family, Community, and Opportunity) cuả viện Heritage Foundation.

Các chuyên gia pháp lý thừa nhận rằng sau phán quyết Obergefell này, thì sự hỗ trợ cho ‘hôn nhân thật sự’ sẽ gặp nhiều trở ngại xã hội và pháp lý đáng kể.

“Định nghĩa lại hôn nhân để trở thành một định chế vô giới tính như thế sẽ thay đổi cơ bản cuả hôn nhân”, ông Ryan Anderson, chuyên viên nghiên cứu về định chế và chính sách công của Mỹ tại Heritage Foundation cho biết.

“Nó làm cho mối quan hệ (hôn nhân) dựa vào những mong muốn của người lớn nhiều hơn là về những nhu cầu và quyền lợi của trẻ em,” ông nói thêm.

“Chúng ta cần phải làm việc nhiều hơn để bảo vệ quyền tự do ngôn luận, hội họp và tôn giáo của những người tiếp tục tuân theo sự thật của hôn nhân là giữa một người đàn ông và một người phụ nữ.”

Tòa án Tối cao cũng đã trở thành “những người cổ võ ” cho việc tái định nghĩa hôn nhân, một vấn đề mà chính ra phải được giải quyết qua tiến trình dân chủ, theo ông Caleb Dalton, một cố vấn pháp lý cuà Alliance Defending Freedom (Liên minh Bảo vệ Tự do.)

Tòa án đã “phát minh ra một quyền hiến pháp mới,” ông Dalton nói.

“Tu chính án thứ mười bốn không đề cập đến hôn nhân, nhưng ngày nay Tòa án tối cao đã quyết định rằng họ biết nhiều hơn hàng triệu người Mỹ về những chính sách xã hội nào là tốt nhất đối với Hoa Kỳ.”

Phán quyết này tạo ra sự xung đột pháp lý giữa những vấn đề về hôn nhân và vấn đề tự do tôn giáo ở cấp quốc gia, và hậu quả cho tự do tôn giáo có thể là nghiêm trọng, ông Dalton lưu ý.

Những xung đột như thế đã xảy ra trong các tiểu bang hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, và nhiều chủ doanh nghiệp phải đã bị kiện cáo vì lý do phân biệt đối xử khi họ từ chối phục vụ những đám cưới đồng tính vì lý do tôn giáo.

Bây giờ hôn nhân đồng tính trở thành hợp pháp trên toàn quốc, nhiều vụ kiện như thế này có thể sẽ xảy ra.

Dân trí mình đúng thấp thật rồi, cảm ơn đảng và nhà nước!

Dân trí mình đúng thấp thật rồi, cảm ơn đảng và nhà nước!

THĐP

Ảnh: Chris Goldberg

Ảnh: Chris Goldberg

Câu nói của ông đại biểu: “Dân trí nước ta còn thấp.” Bị người dân, chủ yếu dân mạng phản đối ầm ĩ. Còn lại đa phần số đông, những người dân, người lao động không bao giờ online thì chẳng biết, chẳng bận tâm. Mà cho dù có biết đi chăng nữa thì cũng kệ vì chả thấy liên quan gì tới mình. Đấy, mình bị cái đứa mình nuôi nó chửi thẳng mặt là ngu mà cũng không biết, không quan tâm, thì thử hỏi mình có ngu thật hay không?

Chưa kể,

Dân trí cao cỡ nào khi mà ngoại trừ những người quan tâm chính trị ra thì còn mấy ai biết cụ thể công việc, trách nhiệm của những chức danh như Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban Nhân Dân, Ủy ban mặt trận Tổ Quốc… là cái gì? Họ làm những công việc gì? Trách nhiệm của họ đến đâu? Tại sao ông Đại Tướng chẳng bao giờ thấy mặt mũi trên các thông tin chiến trận ngoại trừ có mặt ở một vài cuộc họp vớ vẩn với ngoại bang? Tại sao những vụ doanh nghiệp Nhà Nước thua lỗ động trời không một ai phải đứng ra chịu trách nhiệm hay nói một lời xin lỗi?

Dân mù tịt không biết đâu mà lần, thậm chí cũng là không quan tâm chút nào hết. Thế thì hỏi có là ngu không? Ngu vì không được dạy hay ngu vì không biết tự tìm hiểu hay ngu vì tìm hiểu mãi cũng không ra… Dù cho là ngu vì bất cứ lý do gì thì vẫn là ngu. Ngu thì là dân trí thấp. Đúng quá rồi còn gì.

Dân trí có cao không khi đa phần người dân không hề muốn nghe muốn nói đến chuyện chính trị vì cho rằng nó không liên quan tới cuộc sống của mình. Không hề biết rằng chuyện chính trị chính là quyền của mình để lập ra một chính phủ có trách nhiệm chăm lo cho đời sống của mình.

Chính trị chính là nội dung giáo dục con cái mình nên người. Chính trị chính là niềm tự hào dân tộc của dân mình khi bước ra khỏi đất nước. Chính trị chính là liều thuốc con mình tiêm vào người, là con đường mình đi, là hàng hóa mình tiêu thụ, là không khí mình hít thở, là sức khỏe của chính mình và gia đình mình?

Tách rời chính trị khỏi cuộc sống và trách nhiệm của bản thân trong khi nó ảnh hưởng sâu sắc và gắn liền mật thiết đến nhau. Cho rằng nó thì không liên quan đến mình, mình thì không làm gì được nó, thì thử hỏi có ngu không, có dân trí thấp không?

Dân trí cao cỡ nào mà để cho Trung Quốc nó ngang nhiên chiếm đảo chiếm đất xây dựng sân bay, công trình mà vẫn im lặng không nói một lời.

Dân trí cao chắc chắn sẽ phải biết biểu tình và giữ im lặng khi bị bắt là hai trong những quyền cơ bản nhất của con người trên bất cứ vùng đất văn minh nào.

Dân trí cao thì đâu thể im lặng đi trên những cây cầu mới xây đã sập, bê tông cốt tre, đường cao tốc sóng trâu, công trình trăm ngàn tỷ vừa khánh thành đã hư hỏng, đập nước bờ kè mưa một trận đã sụt lún…

Dân trí cao thì nỡ nào mà để người dân mình tự lừa đảo người mình, tự đầu độc dân mình, tự làm hại đồng bào mình. Giúp người ta tiêu thụ hóa chất độc hại, nông sản độc hại còn nông sản của dân mình thì phải đổ bỏ đi vì thừa mứa và rẻ mạt.

Dân trí cao thì sao để chính quyền tự ý lấy thuế xây cái miếu vài trăm tỷ thờ một ông học giả ngoại bang rồi còn trơ trẽn tuyên bố xây thế thôi chứ chưa quyết định thờ ai. Hẳn là chính quyền dư nhiều tiền lắm. Nhưng dư tiền sao lại phải đi vay Trung Quốc tiền xây cái đường tàu cao tốc để rồi bị họ chèn ép. Dư tiền sao lại phải đi vay viện trợ bảo vệ môi trường trong khi tiền phí bảo vệ môi trường thì tận thu từ trong giá xăng giá điện?

Dân trí cao thì sao mà có mấy chuyện hy hữu cười ra nước mắt rằng cuộc sống của ta là hạnh phúc nhất, yên bình nhất.

Dân trí cao làm sao chịu nổi khi chính quyền làm được một việc nhỏ thì bắt dân mang ơn, tạc tượng. Còn khi chính quyền làm sai những việc tày đình thì không cần xin lỗi, từ chức, chịu trách nhiệm, chỉ cần rút kinh nghiệm là xong?

Dân trí cao thì hẳn đã chẳng phải xấu hổ khi dân ta ra nước ngoài mang bao tiếng xấu, trộm cắp, mại dâm, vô ý thức vô văn hóa.

Nếu dân trí mà có cao thì phụ nữ Việt đã chẳng phải lũ lượt ra nước ngoài bán dâm, bị mua làm vợ, bị hành hạ, bị xúc phạm. Người dân Việt đã chẳng phải qua Cam, qua Lào làm giúp việc, lao động nặng nhọc, chui nhủi.

Nếu dân trí mà không thấp thì hàng trăm ngàn sinh viên thạc sĩ tiến sĩ ra trường hẳn đã phải có công ăn việc làm, có những đồ án, công trình giúp ích cho cộng đồng chứ không xếp hàng dài thất nghiệp ăn bám gia đình xã hội.

Nếu dân trí cao thì hẳn phải biết đất nước đã đi thụt lùi thế nào sau những năm tháng “giải phóng”. Từ một nước tự sản xuất được xe hơi nội địa thành một nước không sản xuất được con ốc con vít. Từ một nước được miễn phí học hành, y tế biến thành có nhiều tiền cũng chưa chắc có được môi trường học hành, y tế đủ tốt. Từ một nước được bao nước thèm muốn, ước ao trở thành một nước bị xem thường.

Nếu dân trí cao hẳn đã phải nhận ra những mâu thuẫn, nhìn thấy những sự thật đang được giấu kín thay vì nói gì biết đấy, kêu gì làm đấy.

Nếu dân trí cao liệu có để cho các ngài lãnh đạo xem như trò hề, muốn làm gì thì làm, muốn chặt cây thì chặt, hứa một đằng làm một nẻo, muốn thay cây gì thì thay, muốn bán đất cho ai, bán tài nguyên cho ai, cho ai thuê đất bao lâu thì cho.

Nếu dân trí cao hẳn không thể để mặc cho những người được mình ủy quyền lộng hành tác oai tác quái. Sâu mọt khắp nơi từ trung ương đến địa phương, từ trong ra ngoài, từ lớn đến bé, từ xưa đến nay mà không một động thái ngăn cản.

Nếu dân trí cao người ta hẳn sẽ phải thích đọc sách hơn xem truyền hình, thích nghiên cứu tìm hiểu hơn là đọc tin tức giải trí. Nhưng xem kìa, Việt Nam là một trong những nước đọc sách ít nhất thế giới.

Nếu dân trí cao thì hẳn sẽ không cười xòa khi đọc tin tức “Cá mập cắn đứt cáp” “Nhím gà dê hỗ trợ nông dân đi lạc vào nhà bí thư, chủ tịch”.

Nếu dân trí cao hẳn người dân phải biết hợp sức lại, biết cất tiếng nói của mình, biết liên kết với nhau tạo nên sức mạnh.

Và quan trọng nhất, nếu dân trí cao thì người dân chắc chắn phải biết chuyện gì đang xảy ra với đất nước mình, với dân tộc mình.

Đấy, xin mời các bạn xem lại, tự vấn lại bản thân một chút. Rằng so với một vài biểu hiện của dân trí cao như trên, thì tự xem dân trí của mình có cao không? Nếu có, thì xem tiếp, xung quanh mình có bao nhiêu người có dân trí cao giống mình trên tổng số người mình quen biết và tiếp xúc hàng ngày? Còn nếu không, thì thôi, ông đại biểu nói đúng, dân trí mình thấp thật, nói thẳng tuột, mình thật là ngu, dân mình cũng ngu, rất ngu, đấy là sự thật không còn nghi ngờ và bàn cãi gì nữa.

Ấy thế thì, thay vì phản bác và chê trách ông đại biểu, người dám nói dân trí ta thấp, thì có lẽ, nên tuyên dương ông. Vì dám nói ra sự thật, sự thật mà các ngài lãnh đạo đều biết nhưng chưa ai có can đảm nói. Nhưng mà cũng không được, vì ông đại biểu này khi bị phản đối đã lại kịp có bài thanh minh rằng ông ta không nói ra điều đó. Ý ông không phải vậy, dân hiểu lầm ý ông rồi. Đấy, lại một lần nữa, dân trí thật thấp, thật ngu, lãnh đạo phát biểu gì người dân cũng hiểu lầm hết.

Từ “dân trí thấp” “quyền im lặng và biểu tình là nguy hiểm” “xu thế ghét Trung Quốc là nguy hiểm cho dân tộc” “nước ta còn dân chủ gấp vạn lần các nước tư bản” “đa số người dân ủng hộ chặt cây” “chưa quyết xem thờ ai trong miếu” “chúng ta phải cố gắng xây dựng quân đội mạnh như Triều Tiên” “dân sai thì dân chịu chứ kỷ luật ai”…

Đấy, câu phát ngôn nào cũng bị người dân hiểu lầm. Thế thì giờ sao? Lãnh đạo phải coi lại cách phát biểu sao cho dân hiểu. Hay người dân phải cố mà hiểu cho đúng ý lãnh đạo? Ôi tôi cũng không biết nữa, vì như đã nói, dân trí tôi thấp lắm. Sao hiểu được ý mấy ông. Nhưng mà dù dân trí tôi thấp đi chăng nữa, thì có một điều tôi dám cam đoan, rằng bất kể chuyện gì xảy ra bất kể kết quả thế nào, cũng là nhờ ơn Đảng và Nhà Nước. Nên dù cho cả nước có bị dân trí thấp, tôi cũng xin thay mặt toàn dân, cảm ơn Đảng và Nhà Nước!

Hỡi những ký giả Việt Nam

Hỡi những ký giả Việt Nam

Kantcer

Featured Image: Drew Coffman

Ảnh: Drew Coffman

Bạn có thấy báo chí Việt Nam hiện nay như đống giấy lộn? Tất cả đều không có một chút gì ý nghĩa. Nếu so sánh báo chí Việt Nam là một biển thông tin thì những thứ vô bổ trôi dạt lên, những thứ có ý nghĩa vì nhiều lý do bị chìm xuống.

Trên các trang tin trực tuyến, những cái tít luôn luôn nổi bật là cướp giật, hiếp dâm, lộ hàng, ngắm vòng 1 siêu khủng… Có bao giờ bạn tự hỏi: “Sao những chuyện như vầy mà cũng viết được thành bài báo?” Ví dụ như bản tin về một người đẹp đang xách chiếc túi trị giá vài ngàn USD, nội dung dài nhưng chỉ xoay quanh chuyện chiếc túi thì đắt tiền và người đẹp sang trọng bỏ tiền ra mua nó. Rồi chuyện gần đây một thiếu gia Trung Quốc xấu xí tên Trần Sơn với nhiều trò ngu cũng được nhiều tờ báo thèm thuồng khai thác, tung hô. Thế mới biết, có tiền, nhiều kẻ vô danh được tung hô một cách kệch cỡm.

Lại nói thêm về cách sử dụng từ ngữ. Những kiểu chữ nghĩa câu khách rẻ tiền như “Đắng lòng” “Lặng người” “Chết lặng”… nhà báo Việt Nam bây giờ lấy ở đâu ra? Ở Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền dạy họ ư? Vậy mà cũng nhiều người, nếu không nói là hầu hết, chủ yếu là giới trẻ thích thú khen hay, like, và áp dụng luôn vào cuộc sống hằng ngày như một cái mốt thời thượng.

Ngập trong đống thông tin vô nghĩa, thật tội cho những người độc giả chân chính, họ phải lọc bỏ hàng đống tạp chất mới tìm thấy cái họ cần. Trong những bài viết có ý nghĩa hiếm hoi, họ đăng lên ý kiến, giải pháp của mình, hy vọng là những người có trách nhiệm trong vấn đề đó sẽ lưu ý, nhưng tiếc là chẳng ai thèm quan tâm tới ý kiến của họ. Giáo sư Ngô Bảo Châu đưa ý kiến nhiều lần mà chính phủ còn không thèm đếm xỉa thì nói chi dân đen.

Toàn những chuyện lá cải tầm phào đầy rẫy trên các trang tin tức. Có những chuyện cần chia sẻ, cần phẫn nộ thì bị chìm ngập và lãng quên trong cái thế giới báo chí bẩn thỉu này. Như vụ Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên (2014) bị 5 công an viên bức cung, nhục hình, giết chết bất chấp nạn nhân kêu oan. Những đứa trẻ đeo khăn tang, người vợ mang bức hình thi thể dập nát của chồng mình kêu oan trước những ánh mắt nhân viên an ninh trừng trừng vô hồn đe dọa.

Những tin như vầy thì báo chí không dám đưa, nếu có thì cũng sẽ dùng từ ngữ ma mị bao che cho tội ác của công an viên. Những bản tin một chiều, bị kiểm duyệt, thậm chí bị bóp méo một cách trắng trợn vì nhắm “đụng chạm” tới chính quyền. Chính quyền là luôn đúng mà. Báo chí phải là một kênh tuyên truyền của Đảng.

Nói đến báo chí Việt Nam hiện nay là nói lên tính cách người Việt và mối quan tâm của họ ở thế kỷ 21 này. Xã hội Việt Nam hôm nay chỉ toàn là những người vô cảm, họ thấy nỗi đau của đồng loại mình trước mắt mà không mảy may động lòng. Ngay cả khi đó là đồng bào của mình. Thậm chí có người biểu tình chống chặt cây xanh bị côn đồ – nhân viên an ninh chìm kiếm chuyện đánh đập phải nhập viện có những đứa trẻ trâu hay già trâu vào bình luận như thế này: “Lấy máu lợn thoa lên giả tạo à. Thù oán ai bị chúng đánh rồi đổ lỗi cho công an tụi tao hả. Những thằng như mày không tử hình là may rồi đấy.

Cả một thế hệ bị tẩy não chỉ biết nghe theo lời nhà nước với chiêu bài chụp mũ tất cả những ai đụng chạm tới quyền lực của họ là “phản động”, là sản phẩm của thế lực thù địch, bị xúi giục, được trả tiền để gây mất ổn định cho đời sống bình yên tại quê hương.

Nhưng nói vậy không có nghĩa là không có những nhà báo có lương tâm. Chỉ là vì họ luôn bị áp lực, sách nhiễu, trấn áp. Những tấm gương như Kim Quốc Hoa hay Tạ Phong Tần là quá đủ cho họ sợ hãi.

Kim Quốc Hoa – Tổng biên tập báo Người Cao Tuổi bị khởi tố, vì cho đăng bài động tới ông thanh tra gì gì đấy, cậu công tử ra Hoàng Sa gì gì đấy mà tôi cũng sợ nên không dám nêu tên ra ở đây. Sự thật là tôi cũng sợ sẽ đi tù như ông Kim Quốc Hoa khi đụng tới mấy người này.

Tạ Phong Tần từng là một nhà báo, một chiến sĩ công an, nhưng vì viết những bài viết chống tham nhũng trên blog mà bị cho thôi việc, bị bắt tù đày. Những người ra lệnh bắt cô ở Bạc Liêu là ai? Chính là những kẻ mà cô cáo buộc tham nhũng.

“Viết Công Lý – Sự Thật
Tù mười năm khổ sai
Viết “thư” dâng biển đảo
Tù ấy mấy vạn ngày?” (- Phạm Văn Đồng, 1958)

Hỡi những nhà báo chân chính, đừng sợ hãi nữa, hãy liên minh lại với nhau. Chúng tôi, những độc giả luôn trung thành, ủng hộ các bạn muốn thấy có một ngày “Ký giả đi ăn mày II” trên quê hương này.

Kantcer

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 3) – CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẬN 8 SAIGON

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 3) – CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẬN 8 SAIGON

Đoàn Thanh Liêm

*   * Khác với Chương trình Công tác Hè 1965, Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon đặt trọng tâm vào công việc phát triển cộng đồng tại một quận ven biên của thành phố Saigon, lúc đó quận này chỉ có dân số cỡ 150,000 người. Những anh em chủ trương thiết lập chương trình này, thì phần đông cũng đã từng tham gia với công tác cứu trợ bão lụt miền Trung vào cuối năm 1964, cũng như ít nhiều tham gia cộng tác với Chương trình Hè trong mấy tháng đầu năm 1965. Cho nên tuy đây là ba loại công tác khác nhau, nhưng cũng đều do giới thanh niên đứng ra khởi xướng và đảm trách, nên có thể nói được rằng cả ba chương trình hoạt động này đều là sự biểu lộ của tinh thần dấn thân nhập cuộc của giới thanh thiếu niên tại miền Nam Việt nam, hồi giữa thập niên 1960, với những công việc cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ tầng lớp đồng bào kém may mắn nhất trong xã hội thời ấy. Anh chị em đều có một mẫu số chung, tức là đem hết tâm sức và khả năng hiểu biết của mình vào việc thực hiện cho được những việc có ích lợi rõ rệt cho quần chúng nhân dân, mà hiện đang phải sống trong những điều kiện rất khó khăn thiếu thốn về nhiều mặt vật chất, cũng như tinh thần.

Trong khoảng tháng 5 và 6 năm 1965, một số chừng trên 15 anh em đã hội họp bàn thảo với nhau để lập ra một dự án công tác (project) nhằm phát động công cuộc phát triển tại một quận kém mở mang nhất tại Saigon, đó là quận 8 tọa lạc phía bên kia cầu chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, giáp ranh với quận Cần Giuộc, Long An. Sau vài tháng miệt mài tìm hiểu tình hình tại chỗ và nghiên cứu soạn thảo, anh em đã hoàn thành được một bản dự án mệnh danh là “ Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon “ và đệ trình lên văn phòng Thủ tướng Chánh phủ lúc đó do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu, để xin duyệt xét và chấp thuận cho anh em được quyền cùng chung nhau thực hiện chương trình này.

Sau khi cứu xét, văn phòng Thủ tướng đã chấp thuận trên nguyên tắc mấy đề nghị ghi trong dự án, đại cương như sau :

1/ Chấp thuận cho hai người trong anh em là Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh giữ chức vụ Quận trưởng và Phụ tá Quận trưởng Quận 8.

2/ Cấp phát 10 triệu đồng VN để làm Quỹ Điều hành của Chương trình.

3/ Đặt Chương trình Phát triển Quận 8 dưới sự bảo trợ và kiểm soát của  Đô trưởng Saigon (lúc đó là Bác sĩ Văn Văn Của) và Bộ trưởng Thanh niên (lúc đó là Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng).

Như vậy là chỉ có hai người của Nhóm anh em trong Ban Điều hành Chương trình mới là viên chức của nhà nước mà thôi. Còn tất cả các anh chị em khác, thì đều là những thiện nguyện viên, không hề có giữ chức vụ gì trong guồng máy chánh quyền địa phương cả. Và sau một vài phiên họp với Tòa Đô chính và Bộ Thanh niên là hai cơ quan bảo trợ, để bàn thảo về các chi tiết thi hành dự án, thì anh chị em bắt đầu khởi sự kéo nhau xuống làm việc ở Quận 8, vào giữa tháng 8 năm 1965.

Phải thành thật mà nói, anh chị em chúng tôi đều có lòng hăng say, có thiện chí muốn phục vụ đồng bào, nhưng tất cả đều còn quá trẻ, mới ở vào lứa tuổi 20-30, làm gì có kinh nghiệm nào trong loại việc vận động quần chúng địa phương tham gia vào công việc cải tiến dân sinh. Vì thế, phải mất một thời gian dò dẫm, thăm hỏi các vị thân hào nhân sĩ, các vị tôn trưởng, các vị tu sĩ của các tôn giáo và nhất là các thầy cô giáo trong các phường khóm, thì lần hồi chúng tôi mới nắm bắt được cái phương thức sinh hoạt và làm việc với bà con trong cộng đồng địa phương.

Nhờ thái độ khiêm tốn nhã nhặn trong cách giao tiếp với các vị tôn trưởng tại địa phương như thế, nên chúng tôi đã nhận được nhiều sự góp ý chân tình và thiết thực về tất cả những gì cần phải làm, cần phải chuẩn bị để có thể lôi cuốn, thuyết phục được người dân tích cực và phấn khởi tham gia vào các việc có ích lợi cho tập thể cộng đồng. Bắt đầu bằng những công tác đơn giản, nhỏ bé như sửa chữa đường hẻm, khai thông ngập úng, đặt đường cống thoát nước, tu sửa cầu tiêu công cộng v.v…Rồi lần lần tiến lên  mời gọi bà con tham gia vào những công tác có quy mô lớn lao và phức tạp hơn, điển hình như chỉnh trang gia cư tại những khu ổ chuột, xây cất thêm trường lớp cho các học sinh có chỗ học vào các giờ mát mẻ, thay vì phải học vào ca buổi trưa nóng bức, bắc cầu qua các kinh rạch để bà con đi lại cho thuận tiện và an toàn v.v…Các dự án cải tiến nhỏ bé, đơn giản như vậy mà được bà con cùng góp công, góp vật liệu để cùng chung nhau thực hiện cho thành công tốt đẹp, thì có tác dụng tinh thần và tâm lý rất tốt, tạo thêm sự quen biết gắn bó, liên đới thân thương với nhau giữa các thành viên trong khu xóm, cũng như giữa bà con với cán bộ thiện nguyện chúng tôi. Và một khi đã có được sự tin tưởng của quần chúng địa phương như vậy, thì sự vận động cho những dự án tiếp theo sẽ dễ dàng êm xuôi hơn. Rồi qua năm 1966, thì chương trình đã mở rộng thêm sang các quận 6 và 7 nữa, với tổng số dân trong cả 3 quận lên đến 500,000 người.

Nói cho ngắn gọn lại, qua thời gian cộng tác mật thiết với bà con ở các khóm hẻm rải rác trong quận, anh chị em chúng tôi đã học tập được vai trò “làm chất men, chất súc tác”, được hòa vào với môi trường của quần chúng nhân dân địa phương và đã phát huy tác dụng là khơi động được sự hăng hái, phấn khởi nhiệt tình của số đông quần chúng, trong việc hưởng ứng tham gia tích cực vào công cuộc phát triển xã hội văn hóa tại địa phương của chính họ. Đây chính là cái quá trình “gây ý thức, gây men và vận động quần chúng “ (mass conscientisation/fermentation/mobilization) mà các nhà nghiên cứu xã hội học thường hay nói tới. Và quần chúng tại hạ tầng cơ sở lần hồi đã cảm nhận ra được các nhu câu cần phải cải thiện môi trường sinh hoạt tại địa phương của mình (felt needs), để rồi từ đó ra tay dấn thân nhập cuộc vào công trình xây dựng và phát triển của địa phương, nơi chính họ và gia đình cùng sinh sống cư ngụ.

Trong 6 năm hoạt động tại cả 3 quận 6,7 và 8, chương trình đã cùng với đồng bào thực hiện được hàng mấy trăm công trình cải tiến ngõ hẻm, và đặc biệt hoàn thành được việc chỉnh trang gia cư tại trên 20 khu trong khắp 3 quận, với tổng số căn nhà được xây cất mới lên đế 8,000 đơn vị gia cư. Sở dĩ số nhà phải chỉnh trang tái thiết lên cao như vãy, đó là vì do các vụ tấn công hồi Tết Mậu thân năm 1968, khu vực 3 quận này bị thiệt hại rất nặng nề. Chương trình cũng giúp tổ chức nhiều lớp dậy nghề như các lớp nữ công gia chánh, các lớp may cắt, thêu đan cho nữ giới, các lớp sửa máy xe hơi, máy thủy động cơ, sửa radio, TV cho nam giới. Phần lớn các lớp này là do các tu sĩ Phật giáo hay Công giáo đứng ra tổ chức tại khuôn viên các chùa hay các nhà thờ. Và Chương trình đi xin các phương tiện máy móc và vật liệu từ những cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế, để rồi chuyển đến cho các trung tâm dậy nghề này. Về mặt y tế, chương trình còn có một xe y tế lưu động, để đi khám bệnh và phát thuốc cho bà con tại các khu vực hẻo lánh trong cả 3 quận nữa.

Ngoài ra cũng cần phải kể đến 2 công trình phát triển có ảnh hưởng lâu dài nhất, đó là chương trình đã xây dựng được hai trường trung học cộng đồng ờ quận 6 và quận 8, mà tổng số học sinh vào năm 1974-75 lên đến trên 3,000 em. Các em học sinh lớp đầu tiên nhập học năm 1966 ở trung học quận 8 (nay là trường Lương Văn Can) lúc đó cỡ 13-14 tuổi, thì nay đã ở vào tuổi 57-58, đã có cả cháu nội, cháu ngoại cả rồi. Và hiện vẫn còn nhiều thành phần trong số các em đó vẫn tiếp nối được cái tinh thần “ tự nguyện dấn thân vào công cuộc phát triển tại địa phương”, mà lớp cha bác và thầy của các em đã từng tham gia và truyền lại cho thế hệ các em bây giờ. Đó mới chính là cái thành quả bền vững nhất, đáng ghi nhớ nhất của chương trình phát triển cộng đồng mà đã khởi sự tại 3 quận 6,7,8 cách nay đã trên 45 năm rồi vậy.

*  *  Tóm lược về mục  “ Thanh thiếu niên và Công tác Xã hội”

Trong ba bài trên đây, chúng tôi đã trình bày đại cương ngắn gọn về ba chương trình công tác xã hội do giới thanh thiếu niên tại miền Nam Việt nam thực hiện hồi giữa thập niên 1960. Đó là “ Ủy ban Phối hợp Cứu trợ Bão lụt miền Trung năm 1964”, “Chương trình Công tác Hè 1965” và “Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon”. Tất cả ba chương trình đều phát xuất từ tinh thần hy sinh tự nguyện của giới trẻ để tham gia đóng góp vào những công việc xã hội cụ thể, thiết thực, nhằm phục vụ đồng bào gặp cảnh khó khăn ngặt nghèo, cũng như tạo cơ hội cho giới thanh thiếu niên được gặp gỡ thân thiện gắn bó với nhau, trong khi cùng nhau theo đuổi công tác xã hội, phục vụ đồng bào.

Đó chính là các anh chị em đã bắt đầu “có ý thức về xã hội” (social awareness), rồi lôi cuốn rủ rê nhau cùng tích cực tham gia những chương trình phục vụ đồng bào và phát triển xã hội tại các địa phương. Thực hiện các chương trình xã hội cụ thể, thực tiễn như thế đó, chính là các anh chị em đã đóng vai trò “làm đối tác” (counterpart) của Xã hội Dân sự để cùng chung với Nhà nước trong việc phục vụ quần chúng nhân dân tại hạ tầng cơ sở vậy.

Nếu ta chú ý đến bối cảnh chính trị, quân sự vào giai đoạn những năm sau 1965, khi cuộc chiến mỗi ngày một leo thang với bao nhiêu sự thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản và tình hình chính trị bất ổn ở miền Nam hồi đó, mà nội các chánh phủ cứ bị thay đổi hoài hoài, thì việc giữ cho phong trào sinh hoạt văn hóa xã hội của giới thanh thiếu niên vẫn có thể tiến hành tương đối tốt đẹp, êm thắm như đã được thể hiện qua 3 chương trình công tác như được ghi lại trong mục này, phải được coi như là một sự thành công ngoạn mục của lớp huynh trưởng sáng lập và điều hành của phong trào.

Vào thời gian đó, thì vẫn có một số thanh niên ngả hẳn theo đường lối tranh đấu chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt nam do Hanoi chỉ đạo. Giới thanh niên này luôn chỉ trích các chương trình xã hội nhân đạo nói trên như là một thứ “cải lương”, chỉ có tác dụng làm hậu thuẫn cho cái “ chánh quyền bù nhìn của các Tướng Thiệu Kỳ” mà thôi. Thế nhưng đại đa số anh chị em thanh niên ở miền Nam hồi đó đã “bỏ ra ngoài tai các lời chỉ trích cực đoan” như thế, mà vẫn tiếp tục dấn thân vào những dự án xã hội văn hóa cụ thể và thiết thực của mình, ngay cho đến năm 1975, khi chế độ Việt nam Cộng hòa sụp đổ.

Vào năm 2010 này, ghi lại cái kỷ niệm thân thiết của giới trẻ ở miền Nam cách nay đã trên 40 năm, người viết lại càng xác tín rằng lớp người trẻ này đã có sự chọn lựa đứng đắn và can đảm trong bối cảnh đất nước đen tối vì cuộc chiến tranh tàn khốc thưở đó. Và cảm thấy lương tâm thanh thản nhẹ nhàng, vì đã cố gắng hết sức mình trong công cuộc phục vụ số đông đồng bào nạn nhân chiến cuộc của mình trong giai đoạn khó khăn đó vậy./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 2) – CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC HÈ 1965 (SUMMER YOUTH PROGRAM 1965)

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 2) – CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC HÈ 1965 (SUMMER YOUTH PROGRAM 1965)

Đoàn Thanh Liêm

*   * Phấn khởi với sự thành công của công tác cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung vào cuối năm 1964, các anh chị em trong thành phần lãnh đạo chiến dịch này đã bàn thảo với nhau là cần phải mở rộng thêm khuôn khổ sinh hoạt và phục vụ xã hội của giới trẻ, đặc biệt là các sinh viên và học sinh còn đang theo học tại các trường ở khắp miền Nam. Vào năm 1965, thì đã có ít nhất 4 trường Đại học, đó là ĐH Saigon, ĐH Huế, ĐH Đalat và ĐH Vạn Hạnh và một số trường Cao Đẳng Kỹ thuật. Về bậc trung học, thì có đến vài ba trăm trường trung học công lập, cũng như tư thục. Và tổng số sinh viên và học sinh trung học trên toàn quốc cũng phải lên tới hàng mấy trăm ngàn người. Đó là một quân số rất lớn, mà các huynh trưởng này nhắm để tổ chức cho giới trẻ học đường có điều kiện gặp gỡ, vui chơi và hợp tác với nhau trong một tinh thần lành mạnh và xây dựng, trong ý hướng góp phần cải thiện môi trường xã hội về mặt vật chất, cũng như về mặt tinh thần, trong giới hạn khả năng hạn hẹp của mình. Việc làm như thế này, trên nguyên tắc, thì luôn được sự khuyến khích và hỗ trợ của các Bộ Giáo Dục, Bộ Xã Hội, và nhất là của Bộ Thanh niên.

Đó là đại cương sự suy nghĩ tính toán của những anh chị em cùng đứng ra thiết lập một chương trình hành động cụ thể, dành riêng cho giới thanh niên, sinh viên và học sinh tại miền Nam Việt nam. Và danh xưng chính thức của chương trình này đã trở thành : “Chương Trình Công Tác Hè 1965”. Những huynh trưởng khởi xướng chương trình này đều đã ở vào lớp tuổi trưởng thành từ 21 đến 30 tuổi, phần đông đã tốt nghiệp đại học và đi dậy học. Họ cũng đã từng hoạt động lâu năm trong các đoàn thể như Hướng Đạo, Thanh niên Thiện chí, Sinh viên Phật tử, Sinh viên Công giáo v.v… Do đó mà họ rất có kinh nghiệm trong việc tổ chức sinh hoạt cho giới trẻ như đi cắm trại, đi thăm các cô nhi viện, đi làm công tác thiện nguyện như sửa sang trường lớp tại miền ngoại ô hay miền quê, tham gia giúp đồng bào khai thong các khu phố bị lầy lội, ngập lụt v.v… Vì thế mà họ rất tự tin về nội dung các công tác sẽ đề ra cho Chương trình hè này, mà thường có sức lôi cuốn giới trẻ tham gia, nhằm mục đích phục vụ công ích cho đồng bào ở các vùng nông thôn hay ngoại ô nghèo túng.

Điểm thuận lợi khác nữa, đó là những người sáng lập Chương trình này lại được sự hợp tác và hỗ trợ hết mình của tổ chức IVS (Đoàn Thanh niên Chí nguyện Quốc tế). Vì IVS gồm các đoàn viên thiện nguyện còn trẻ, mới tốt nghiệp đại học, và đã từng hoạt động tại một số tỉnh ở miền Nam từ 5-7 năm trước, nên họ rất gần gũi gắn bó với giới sinh viên và thanh niên Việt nam. Sự tham gia của IVS lại càng quan trọng, vì chính IVS đã vận động để cơ quan Viện trợ Mỹ cấp ngân khoản điều hành lên đến 25 triệu $ VN cho Chương trình. Cho nên có thể nói Chương trình Hè 1965 này là một thứ Dự án hơp tác (joint project) giữa IVS và Ban Điều Hành của chương trình.

Vì tính cách độc đáo mới lạ của cái “joint project” này, nên các Bộ bảo trợ lúc ban đầu tỏ ý e ngại, không dám quyết đáp trong việc chấp thuận cho phép Chương trình tiến hành hoạt động trên toàn quốc.

Nhưng may, mà anh chị em lại biết đích thân xin được gặp và trình bày vấn đề với chính Vị Phó Thủ tướng đặc trách về Kế hoạch lúc đó là Luật sư Trần Văn Tuyên, thì cuối cùng mọi việc về phương diện hành chánh pháp lý đối với cơ quan nhà nước mới được giải quyết êm thắm tốt đẹp. Lý do Luật sư Tuyên dễ dàng chấp thuận Dự án này, đó là khi xưa vào hồi còn trẻ ở thập niên 1930, ông đã là một huynh trưởng trong Phong trào hướng đạo mới được thành lập ở Việt nam, cho nên ông nhận ra ngay tức khắc sự quan trọng và ích lợi của Chương trình Hè này. Và từ đó chính vị Phó Thủ tướng Chánh phủ đã ký giấp phép chấp thuận cho Chương trình này được phép hoạt động, và chỉ thị cho  các Bộ liên hệ như Bộ Giáo dục, Bộ Thanh niên và Bộ Xã hội phải tích cực giúp đõ giới thanh niên trong các hoạt động lành mạnh và hữu ích như thế này.

Kết cục là trong mấy tháng hoạt động, Chương trình Hè 1965 đã gây được bàu không khí sinh hoạt rất là phấn khởi, náo nhiệt cho giới trẻ ở Saigon cũng như ở các tỉnh địa phương miền Trung, miền Nam cũng như tại Cao nguyên. Thường các bạn trẻ tổ chức gặp gỡ nhau qua các hình thức trại công tác kéo dài cỡ vài ba ngày, để cùng sinh sống chung với nhau, trao đổi kinh nghiệm công tác và sinh hoạt theo nhóm và đoàn thể ở địa phương, kèm theo các màn văn nghệ ca hát, diễn kịch. Và nhất là cùng nhau hoàn thành một công tác có ích lợi thiết thực cho cộng đồng địa phương, điển hình như tu bổ đường hẻm, khai thông cống thoát nước, sửa cầu bắc qua kinh rạch, sửa sang lớp học, làm nhà vệ sinh cho các học sinh ở địa phương v.v…Những trại công tác và sinh hoạt như vậy tạo cơ hội cho giới trẻ gặp gỡ vui chơi thân thiện với nhau, đồng thời cũng nâng cao tinh thần phục vụ xã hội bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần vào việc cải thiện môi trường sinh sống của bà con lối xóm, về vật chất cũng như tinh thần. Nói chung, thì những việc làm nhỏ bé, khiêm tốn, mà thiết thực như thế dễ gây được thiện cảm của bà con, cô bác ở các vùng nông thôn, cũng như tại khu vực ngoại ô thành phố.

Đáng kể nhất trong loại trại công tác này trong khuôn khổ của Chương trình Hè 1965 là một trại rất quy mô lấy tên là  :“Công trường Thanh niên Tự do”   (Liberty Youth WorkCamp) được tổ chức vào tháng 10 năm 1965, tại xã Thạnh Lộc Thôn, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Mục đích chính yếu của công trường này là xây dựng 200 căn nhà cho đồng bào tỵ nạn phải di tản từ vùng mất an ninh về khu ven biên Saigon-Gia định. Các trại sinh là đại diện của nhiều tỉnh tề tựu lại, cùng sinh hoạt và làm việc chung với nhau trong gần 2 tuần lễ, để thực hiện một “ công trình đại quy mô này”. Ban tổ chức còn có sáng kiến mời thêm được mấy sinh viên quốc tế có mặt ở Saigon lúc đó đến tham dự nữa. Với tổng số trại sinh lên đến trên 200 người, có thể coi đây là một công tác tiêu biểu nhất trong bảng thành tích của chương trình vậy.

Với một số thành tựu như vậy, nên sau khi Chương trình Hè 1965 kết thúc vào cuối năm, thì kể từ năm 1966, Bộ Giáo Dục đã thiết lập một chương trình khác tương tự, lấy tên là “ Chương trình Phát triển Sinh hoạt Học đường”, mà thường được viết tắt là CPS. Lúc đầu, CPS hoạt động cũng khá quy mô và lôi cuốn được sự tham gia hăng say của nhiều anh chị em học sinh, sinh viên trong một thởi gian mấy tháng. Nhưng về sau vì do Bộ Giáo dục trực tiếp quản lý và chỉ đạo quá chặt chẽ, gần như theo quy chế của một cơ quan hành chánh, không cho phép các huynh trưởng điều khiển chương trình được tự do phát huy sáng kiến của mình, nên nó đã không thể phát triển thoải mái, tự nhiên như là ở Chương trình Hè 1965, hay như tại Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon, mà sẽ được trình bày trong một bài sau.

Nhân tiện, cũng xin ghi qua về sự phát triển của Phong trào Du ca của giới thanh thiếu niên hay đi tham dự công tác xã hội vào thời gian sau năm 1965. Đó là một sáng kiến của những huynh trưởng thanh niên như Hoàng Ngọc Tuệ, Trần Văn Ngô, Đỗ Ngọc Yến, Đỗ Quý Toàn, và đặc biệt là các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Ngô Mạnh Thu …, nhằm gây thành một phong trào sinh hoạt ca hát vui tươi lành mạnh cho giới thanh niên vốn từng tham gia công tác xã hội tại khắp nơi, ở miền quê, tại đô thị, cũng như nơi các trại tạm cư của các nạn nhân chiến cuộc, mà phải rời bỏ nhà cửa vì lý do chiến tranh tàn phá, nhất là tại các tỉnh ở về phía bắc miền Trung, kể từ năm 1967 trở đi, lúc chiến sự mỗi ngày càng trở nên khốc liệt, đẫm máu. Anh chị em thanh thiếu niên quy tụ sinh hoạt văn nghệ với nhau, cùng nhau trình bày những bài ca mới sáng tác, phản ánh tâm trạng của giới trẻ trong tình hình xã hội đen tối bế tắc vì cuộc chiến tranh không có lối thoát. Nói chung phong trào Du ca này đã tạo nên một luồng sinh khí sinh động và phấn khởi lôi cuốn giới trẻ gắn bó, gần gũi với nhau trong khi cùng tham gia công tác xã hội nhân đạo, để phục vụ đồng bào, đặc biệt là các nạn nhân chiến cuộc./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 1) – VIỆC TRỢ GIÚP NẠN NHÂN BÃO LỤT Ở MIỀN TRUNG NĂM 1964.

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 1) – VIỆC TRỢ GIÚP NẠN NHÂN BÃO LỤT Ở MIỀN TRUNG NĂM 1964.

Đoàn Thanh Liêm

Lời mở đầu – Đã từ lâu, tôi dự tính viết một Bản Phác thảo về Lịch sử Sinh hoạt của giới Thanh Thiếu niên tại Miền Nam Việt nam trong giai đoạn 1950-1975. Nhưng vì còn bận rộn với nhiều chuyện khác có tính cách thời sự cấp bách hơn, nên việc soạn thảo này đã phải tạm gác lại, để khi nào có điều kiện thâu thập được nhiều tài liệu chính xác hơn, thì sẽ lại tiếp tục với công trình biên soạn có tính cách sử liệu này.

Tạm thời, người viết xin ghi lại một cách đại cương ngắn gọn về những công tác xã hội tương đối có quy mô rộng rãi, mà giới thanh thiếu niên ở miền Nam Việt nam đã thực hiện được trong thời gian 1964 đến 1975, dưới đề mục : “ Thanh thiếu niên và Công tác xã hội”. Loạt bài này sẽ gồm 3 bài, mỗi bài chỉ dài chừng 2,000 – 2500 chữ mà thôi.

Người viết chưa có điều kiện để đi sâu vào chi tiết về các sinh hoạt của phong trào thanh thiếu niên trong giai đoạn trước năm 1975 tại miền Nam Việt nam, nhất là của từng đơn vị đoàn thể, hiệp hội đã từng được thành lập từ lâu và đã có những hoạt động khá sôi nổi, bền vững trong một thời gian dài. Điển hình như Hội Hướng Đạo, các đoàn thể thanh thiếu niên do các tôn giáo tổ chức v.v… Do đó tác giả mong ước rằng tại mỗi một đơn vị đoàn thể, hiệp hội, sẽ có một ban đặc trách biên soạn về lịch sử sinh hoạt của riêng tổ chức của mình. Các tài liệu này sẽ là căn bản cho sự tham khảo của giới viết về lịch sử chung của toàn thể phong trào thanh thiếu niên ở miền Nam trong giai đoạn 1950-1975 vậy.

Xin mời quý bạn đọc quan tâm theo dõi mấy bài sau đây như là một gợi ý cho một công trình biên soạn hoàn chỉnh và đày đủ hơn trong tương lai vậy nhé.

Xin cảm ơn sự thông cảm của các bạn. ĐTL

*  * Năm 1964 vào tháng 10 và 11, có trận bão lụt rất lớn tại một số tỉnh Miền Trung, đặc biệt Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam là các nơi bị thiệt hại nặng nề nhất. Đáp ứng lời kêu cứu của các bạn hữu là nạn nhân từ các địa phương bị lụt, giới thanh niên, sinh viên, học sinh tại Saigon đã hợp tác chung với nhau nhằm ra tay tiếp cứu những bà con nạn nhân của trận bão lụt dữ dội này. Anh chị em lập ngay ra một tổ chức lấy tên là “Ủy ban Phối hợp Cứu trợ Bão lụt Miền Trung” và chia nhau đảm trách các công việc tùy theo khả năng chuyên môn của mình. Đây đúng là sự phối hợp của nhiều đoàn thể, tổ chức của giới thanh niên, sinh viên và học sinh các trường Đại học cũng như Trung học, với tổng số người tham dự lên đến hàng vạn người.

Bắt đầu là do sáng kiến của Tổng Nha Thanh niên do Ông Nguyễn Đình Tú làm Tổng Giám Đốc. Ông Tú kêu gọi các đoàn thể đến Nha Thanh niên để bàn thảo cách thức hỗ trợ khẩn cấp cho các nạn nhân bão lụt. Và kết quả là Ủy ban Phối hợp đã được thành lập với sự tham gia tích cực của hầu hết các tổ chức tư nhân như Hội Thanh niên Thiện chí, Hội Hướng Đạo, ngành Nam cũng như ngành Nữ, Đoàn Sinh viên Phật tử, Đoàn Sinh viên Công giáo, Đoàn Thanh niên Chí nguyện, Phong trào Học đường Phục vụ Xã hội, Đoàn Thanh niên Ích thiện, Tổng hội Sinh viên, Ban Chấp hành Đoàn sinh viên và học sinh các trường v.v…

Có thể nói đây là lần đầu tiên có sự quy tụ đông đảo của các tổ chức tư nhân của giới trẻ ở thủ đô Saigon, nhằm đóng góp vào công tác xã hội nhân đạo cấp bách tại một số tỉnh xa xôi ở miền Trung. Các bạn trẻ đã có dịp phát huy sáng kiến về mặt tổ chức sinh hoạt nội bộ, và phân công cho nhau đi quyên đậu sự đóng góp của bà con từ khắp các ngõ ngách của thành phố. Các nhà thờ, các chùa, các trường học đều mở rộng cửa cho đoàn cứu trợ mượn làm kho chứa gạo, quần áo, vật dụng và thực phẩm do đồng bào đích thân mang đến tặng cho Ủy ban Cứu trợ. Để tránh sự lạm dụng, Ủy ban không trực tiếp đứng ra nhận tiền bạc của bà con có nhã ý hiến tặng. Nhờ sự thận trọng đó, mà anh chị em thanh niên sinh viên, học sinh tránh được sự dị nghị, thắc mắc của một số người vốn có tính đa nghi đối với những cuộc lạc quyên công cộng.

Hồi đó vào năm 1964 ở Saigon, thì chưa có đài truyền hình. Cho nên sự vận động công chúng tham gia cứu trợ, thì hoàn toàn phải nhờ vào đài phát thanh và các báo chí, cũng như cơ quan thông tin địa phương của chánh quyền cấp thành phố, cấp quận xuống đến tận cấp phường khóm. Trên phương diện cấp bộ, thì Bộ Xã hội là cơ quan tập trung các tin tức về tình hình biến chuyển từng ngày, từng giờ tại các địa phương. Và trên nữa, thì có một cơ quan cấp liên bộ do Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh điều khiển, để phối hợp các hoạt động cứu trợ cho toàn thể các khu vực bị lâm vào cảnh cô lập, rất khó tiếp tế, bởi lẽ đường xá giao thông bị úng ngập không sao di chuyển dễ dàng được. Cho nên Ủy ban Cứu trợ của giới thanh niên phải làm việc ăn ý với các cấp chánh quyền ở địa phương, cũng như ở trung ương, thì mới có thể hoạt động có hiệu quả được.

Những phái viên của Ủy ban Phối hợp Cứu trợ được cử đến các tỉnh bị lụt, thì thường được sự cộng tác rất chặt chẽ và thân tình của các đoàn thể thanh niên cũng như của những cơ quan chánh quyền tại địa phương. Đặc biệt anh em chúng tôi lại được sự tiếp sức của các sinh viên Mỹ thuộc Đoàn Thanh niên Chí nguyện Quốc tế (IVS = International Voluntary Services) vốn đã từng làm việc trong ngành giáo dục và canh nông tại địa phương từ lâu, nên họ đã giúp chúng tôi hết sức hiệu quả, bằng cách liên hệ với các giới chức người Mỹ để cung cấp phương tiện chuyên chở người, và đặc biệt là phẩm vật cứu trợ đến tận tay các nạn nhân bị kẹt tại các vùng bị cô lập lâu ngày, vì đường xá bị hư hỏng, xe bình thường khó mà di chuyển đến được.

*  * Kết quả là trong 3 – 4 tháng cùng chung nhau hoạt động trong Ủy ban Phối hợp Cứu trợ này, anh chị em thanh niên chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều về các phương diện “đối nhân xử thế” đối với đồng bào tại các địa phương hẻo lánh, ”về sự giao tế “với các cấp chánh quyền trung ương cũng như địa phương, và nhất là được “chứng kiến tận mắt nỗi khó khăn vất vả” của người nông dân tại các tỉnh miền Trung, vốn xưa nay là vùng đất khô cằn, mà “đất cày lên sỏi đá”.

Thế hệ chúng tôi lúc đó mới ở vào lứa tuổi 20-30, lòng còn đày nhiệt huyết, mà có dịp được sát cánh với nhiều bậc cha bác, các vị huynh trưởng ở Saigon, cũng như ở các địa phương nhằm cứu trợ những nạn nhân rất đông đảo ở các vùng quê bị bão lụt tàn phá, thì mở rộng được nhãn quan để hiểu biết và yêu mến xã hội đất nước và dân tộc của mình hơn trước đây, chỉ có ru rú ở một nơi tiện nghi an toàn của thành phố thủ đô, mà dễ bị lây nhiễm theo lối sống hào nhoáng kiêu sa của lớp người phong kiến, quan liêu trưởng giả. Và chúng tôi cũng đón nhận được những tình cảm thân thương, chân tình và bền chặt của đồng bào các giới, đặc biệt là của bà con từ các miền quê hẻo lánh. Nhờ sự tiếp cận cụ thể với các tầng lớp quần chúng nhân dân như vậy, mà lớp anh chị em chúng tôi có được cái ý thức sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội, cũng như văn hóa trong cộng đồng dân tộc thân yêu của mình.

Rõ ràng là qua “chiến dịch cứu lụt” này, anh chị em chúng tôi đã trưởng thành, chín chắn, và chững chạc hẳn ra. Và rút kinh nghiệm từ giai đoạn hoạt động xã hội nhân đạo thực tiễn này, vào đầu năm 1965, bọn chúng tôi lại dấn thân vào một số chương trình hoạt động có quy mô còn lớn hơn công việc cứu lụt này rất nhiều. Đó là “Chương Trình Công Tác Hè 1965” và “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Saigon” cũng khởi sự từ năm 1965, mà người viết sẽ xin được trình bày chi tiết cặn kẽ hơn trong các bài sau./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

Vaclac Havel và Cách Mạng Nhung ở Tiệp Khắc

Vaclac Havel và Cách Mạng Nhung ở  Tiệp Khắc

Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tài liệu tham khảo chính yếu :

HAVEL : A Life

by Michael Zantovsky

do Grove Press New York ấn hành

năm 2014, sách dày 543 trang

* * Năm 1989, lịch sử thế giới đã ghi nhận một biến cố cực kỳ quan trọng: đó là sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại khu vực Đông Âu để rồi kéo theo sự giải thể của Liên Bang Xô Viết vào cuối năm 1991. Và kể từ đó là sự kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh (The Cold War) giữa hai khối Cộng sản và Tư bản – cuộc đối đầu thật căng thẳng liên miên giữa hai siêu cường Mỹ và Nga khởi sự ngay sau khi thế chiến II chấm dứt vào năm 1945.

Trong bối cảnh chính trị xã hội sôi động của Đông Âu vào thời kỳ đó, thì tuy chỉ là một nước nhỏ với dân số tổng cộng chỉ vào khỏang 15 triệu người, thì Tiệp khắc đã được cả thế giới chú ý và ca ngợi vì thành tích tranh đấu bền bỉ để dành lại Tự do và Nhân quyền thông qua Phong trào Hiến chương 77 khởi sự từ đầu năm 1977 (The Charter 77 Movement). Và đặc biệt là cuộc Cách Mạng Nhung diễn ra trong các năm 1988 – 1989 (The Velvet Revolution) cùng với một nhân vật lãnh đạo xuất chúng: đó là Vaclac Havel – người sau này được bầu vào chức vụ Tổng thống suốt mấy nhiệm kỳ kéo dài trên 13 năm.

Bài viết này được xây dựng dựa trên những thông tin và tư liệu rất phong phú được chứa đựng trong cuốn sách có nhan đề là: “Havel : A Life” do tác giả Michael Zantovsky biên sọan và cho ấn hành mới đây vào năm 2014 – sau khi Vaclac Havel qua đời vào cuối năm 2011.

I – Sơ lược về tác giả Michael Zantovsky.

Michael Zantovsky hiện đang là Đại sứ của Cộng hòa Czech tại Anh quốc và là Chủ tịch của Viện Aspen Praha. Ông là một trong những thành viên sáng lập phong trào điều hợp công cuộc lật đổ chế độ cộng sản ở Tiệp khắc.

Năm 1990, ông trở thành phát ngôn viên, tùy viên báo chí và cố vấn cho Tổng thống Vaclac Havel. Sau đó, ông giữ chức vụ Đại sứ của Czech tại Washington và Tel Aviv. Ông họat động trên lãnh vực chính trị, ngọai giao và  còn là một tác giả và dịch giả chuyên giới thiệu tác phẩm của các tác giả đương đại của Anh và Mỹ cho độc giả người Tiệp khắc.

II – Giới thiệu tổng quát về cuốn sách “Havel: A Life”.

Là một bạn chiến hứu thân thiết đã từng sát cánh lâu năm với Havel, nên tác giả Zantovsky đã có thể cống hiến cho chúng ta rất nhiều tư liệu và thông tin về đời tư và nhất là về những họat động thật hăng say sôi động của Vaclac Havel (1936 – 2011), đó là một nhân vật cực kỳ nổi danh của Tiệp khắc vào cuối thế kỷ XX qua đầu thế kỷ XXI.

Cuốn sách trải dài 543 trang, được phân chia thành 47 đề mục với mỗi tiêu đề riêng cho từng mục. Tuy vậy, tác giả lại không chia thành những chương, những phân đọan như thường gặp trong các sách khác và cũng không chịu ghi số thứ tự của mỗi mục. Vì thế mà  người đọc gặp khó khăn trong việc theo dõi diễn biến của các sự việc với vô số chi tiết xảy ra xung quanh cuộc sống và họat động của Havel là nhân vật chính yếu của tác phẩm.

Đại cương, ta có thể ghi nhận tóm lược về cuộc đời của Havel với mấy nét nổi bật như sau:

(II) 1 – Trong thế chiến II, gia đình của Havel đã phải trải qua những đày đọa do chế độ độc tài Đức Quốc Xã gây ra cho tòan thể nước Tiệp Khắc. Rồi sau khi hết chiến tranh chẳng bao lâu, thì kể từ năm 1948 chế độ cộng sản do Stalin lãnh đạo đã bao trùm lên tòan thể khu vực Đông Âu và cậu bé Havel vừa đến tuổi 12, thì đã bị gạt ra ngòai lề xã hội, không được tiếp tục đi học và cũng thật khó mà kiếm được một việc làm tương đối ổn định – vì lý do là cậu xuất thân từ một gia đình tư sản địa chủ được coi như là một thứ “kẻ thù của cách mạng vô sản”.

Tuy vậy, do cố gắng vượt bậc vào độ tuổi 30 Havel đã trở thành một nhà viết kịch có tên tuổi với nhiều vở kịch được công chúng trong nước cũng như ngòai nước yêu chuộng – nhờ vậy mà ông đã có thể sống tự túc được bằng công việc sáng tác.

(II) 2 – Biến cố Mùa Xuân Praha năm 1968 và tiếp theo là cuộc “xâm lăng ào ạt” của các đạo quân thuộc khối Liên minh Quân sự Varsava do Liên Xô điều động để xâm nhập vào Tiệp khắc – nhằm dẹp bỏ cái chủ trương “Xã hội chủ nghĩa với bộ mặt nhân bản” (Socialism with Human Face) do giới lãnh đạo cộng sản địa phương phát động – đã khơi dậy tinh thần quật cường yêu nước của đa số nhân dân Tiệp khắc.Điển hình là vụ tự thiêu vào đầu năm 1969 của sinh viên Jan Palach tại công trương Wensceslav nơi trung tâm thủ đô Praha.

Và rồi với Thỏa ước Helsinki năm 1975, phong trào tranh đấu nhân quyền trong các quốc gia do cộng sản Liên Xô cầm trịch đã nhất lọat vùng lên – sự kiện này lại càng tiếp sức cho công cuộc đòi hỏi tự do và nhân quyền ở Tiệp khắc kể từ ngày nước này bị Liên Xô chiếm đóng sau vụ Mùa Xuân Praha như đã ghi ở trên.

Và chính trong bối cảnh chính trị xã hội sôi động đó mà Havel đã dấn thân nhập cuộc cùng với các bạn đồng chí hướng với mình trong việc đòi hỏi nhà nước cộng sản đương quyền phải trả tự do cho những tù nhân lương tâm bị giam giữ vô lý  – điển hình như vụ các nghệ sĩ bị đàn áp vì lý do trình diễn lọai nhạc theo trào lưu Rock N Roll ở các nước Tây phương. Đó là điểm xuất phát của Phong trào Hiến chương 77 với sự phổ biến tòan văn Bản Hiến chương này được gửi đến chính quyền cộng sản. Ta sẽ bàn thảo chi tiết về biến cố cực kỳ quan trọng này khởi sự từ đầu năm 1977 ở mục sau.

(II) 3 – Tiếp theo là cuộc Cách Mạng Nhung phát động vào năm 1988 – 89 đưa đến thắng lợi cuối cùng là giải thể được chế độ cộng sản vào cuối năm 1989 và sau đó Vaclac Havel được dân chúng tín nhiệm giao cho trách nhiệm lèo lái con thuyền quốc gia Tiệp khắc trong giai đọan xây dựng và tái thiết đất nước kể từ đầu thập niên 1990.

Lãnh tụ Havel đã được cả thế giới biết đến và yêu chuộng vì phong cách hòa ái nhân hậu khi điều hành guồng máy nhà nước – mà cũng vì lập trường tranh đấu bất bạo động và hết sức kiên cường chống lại chế độ độc tài chuyên chế cộng sản. Ta sẽ ghi thêm chi tiết về họat động của người nghệ sĩ và chiến sĩ Havel trong mục sau.

III – Vaclac Havel là một nghệ sĩ mà cũng là một chiến sĩ nữa.

Là người sọan kịch (playwright) với nhiều tác phẩm được công chúng tán thưởng yêu chuộng, Havel luôn cố gắng trau dồi vê học thuật tư tưởng theo truyền thống nhân bản của Âu châu. Nhờ vậy mà ông đã có được một căn bản sở học vững vàng để hội nhập được với trào lưu văn hóa tiến bộ của thế giới.

Và mặc dầu phải sống trong khung cảnh ngột ngạt do sự kềm kẹp của Liên Xô sau biến cố Mùa Xuân Praha năm 1968, Havel vẫn tìm cách liên hệ được với giới văn nghệ sĩ trí thức tại các nước Âu Mỹ qua những vở kịch được trình diễn ở nước ngòai. Nhờ đó, mà ông được sự yểm trợ và bênh đỡ tận tình của những nhân vật có tên tuổi trên thế giới – mỗi khi bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, bắt giam vì những họat động tranh đấu cho Tự do và Nhân quyền. Dưới đây, ta sẽ xem xét chi tiết hơn về sự nhập cuộc của Havel khi bước vào tuổi 30. Và sau đó, cũng điểm qua một số thành tích nổi bật nhất của ông trong thời giam giữ chức vụ Tổng thống của Tiệp khắc tự do dân chủ.

(III) 1 – Cuộc tranh đấu kiên cường ròng rã suốt trên 20 năm (1968 – 1989)

Nói chung, sau vụ khối Liên Xô kéo quân đội vào Tiệp khắc năm 1948, thì giới trí thức văn nghệ sĩ tại xứ này cũng như tại Đông Âu lại càng trở nên bất mãn và chống đối lại chính quyền cộng sản do Liên Xô áp đặt để kềm kẹp dân chúng chặt chẽ, khắc nghiệt hơn nữa – theo chính sách mà họ gọi là “bình thường hóa” (normalisation) để tái lập quyền thống trị tòan diện của đảng cộng sản chống lại khuynh hướng cải cách (reformist). Havel đã mỗi ngày tham gia nhiệt thành hơn vào cuộc tranh đấu của những phần tử cấp tiến nhất trong giới văn nghệ sĩ trí thức tại quê hương mình.

Nổi bật nhất là việc Havel góp phần sọan thảo bản văn của Hiến Chương 77 và rồi được giao phó trách nhiệm là một trong ba người phát ngôn viên của tổ chức này (spokeman). Lời văn nhẹ nhàng, khiêm tốn, nhưng nội dung thật dứt khóat tập chú vào việc đòi hỏi chính quyền phải tôn trọng nhân quyền bằng cách thả những người bị bắt giữ vì lý do chính kiến bất đồng (dissident).

Cũng vì tích cực hành động như vậy mà Havel đã bị giam giữ ngặt nghèo liên tục đến gần 5 năm từ năm 1978 đến 1983.

Tiếp đến là vào năm 1988, nhân kỷ niệm 40 năm ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948 – 1988), giới tranh đấu lại quy tụ với nhau dưới danh nghĩa “Diễn Đàn Công Dân” (Civic Forum) để đẩy mạnh hơn nữa cuộc tranh đấu cho Tự do và Nhân quyền. Và đó là căn nguyên của cuộc Cách Mạng Nhung đưa đến sự sụp đổ dứt khóat của chế độ cộng sản ở Tiệp khắc vào cuối năm 1989. Gọi là Cách Mạng Nhung bởi vì không hề có bạo động đổ máu và cũng không có sự trả thù của bên thắng cuộc là phe tự do dân chủ của Havel đối với những cựu đảng viên cán bộ cộng sản ở bên thua cuộc.

Tổng thống Havel được quốc tế ca ngợi và mến phục vì thái độ trượng phu quân tử khi nắm quyền lãnh đạo quốc gia sau khi chế độ cộng sản sụp đổ năm 1989 đó vậy, mặc dầu ông cũng bị một số bà con đồng bào ấm ức bất mãn vì chuyện quá ư nhân đạo bao dung cho kẻ đã từng gây ra bao nhiêu tội ác trong suốt hơn 40 năm đảng cộng sản nắm giữ quyền hành.

(III)  2 – Một vị Tổng thống được nhiều người mến mộ.

Từ sau năm 1990, ít có vị lãnh đạo quốc gia nào mà lại được tòan thể chính  giới quốc tế ca ngợi mến chuộng như là đối với Tổng thống Havel của Tiệp khắc, một nước nhỏ mà vừa mới thóat khỏi ách cộng sản do thắng lợi kỳ diệu của cuộc Cách Mạng Nhung. Nhưng thành tích nổi bật nhất của Tổng thống Havel là ông đã thật khôn ngoan nhiệt thành trong việc vận động để Tiệp khắc được gia nhập minh ước phòng thủ  NATO và tiếp theo là gia nhập vào Liên Hiệp Âu Châu (EU = European Union).

Đó quả thật là một kỳ công để Tiệp khắc có thể trở về trong vòng tay ấm cúng của đại gia đình Âu châu vốn có truyền thống văn hóa lịch sử cũng như học thuật tư tưởng sáng chói –  mà nước này cũng như Ba Lan, Hungary ở Đông Âu đã chia sẻ chung với nhau từ cả ngàn năm trước. Chỉ có tầm nhìn thật bao quát rộng lớn của người nghệ sĩ trí thức như Vaclac Havel mới có thể lôi cuốn thuyết phục được giới lãnh đạo chính quyền cũng như xã hội dân sự tại các nước Tây Âu và Hoa kỳ chấp thuận cho Tiệp khắc hội nhập êm thăm với cộng đồng Tây Âu như vậy mà thôi.

(III)  3 – Một số tác phẩm tiêu biểu của Vaclac Havel.

Tại cuối sách “Havel:A Life”, tác giả Michael Zantovsky đã ghi ra khá nhiều tác phẩm của Havel mà ông đã trích dẫn trong sách. Xin ghi nơi đây một số tác phẩm tiêu biểu ;

A – “Disturbing the Peace” do Paul Wilson dịch, ấn hành năm 1990.

B – “Letters to Olga” cũng do P.Wilson dịch, ấn hành 1990. Olga là bà vợ lâu năm của Havel, hai người không có con với nhau. Bà chết vì bệnh ung thư năm 1995. Sau khi Olga mất, Havel tục huyền với Dasa Dagmar.

C – “Toward a Civil Society” do P. Wilson và những người khác dịch, ấn hành năm 1995.

D – “ The Power of the Powerless” tiểu luận viết năm 1978  (có đề tặng và  tưởng niệm triết gia Jan Patocka người bị chết sau cuộc điều tra của công an mật vụ vì là đồng tác giả và phát ngôn nhân của Hiến chương 77).Bản dịch tiếng Anh ấn hành năm 1985 tại London.

E – “Selected Plays, 1963 – 83”, do Vera Blackwell dịch ấn hành tại London năm 1992

*  * Tóm tắt lại, Vaclac Havel là một nhân vật xuất chúng của Tiệp khắc vào cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI. Ông là một đại diện nổi trội nhất của tầng lớp trì thức văn nghệ sĩ tại Đông Âu với lòng dũng cảm kiên trì trong phong trào tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền để đạt tới thắng lợi cuối cùng vào năm 1989 – là dẹp bỏ dứt khóat được chế độ cộng sản độc tài tòan trị do Liên Xô áp đặt trên quê hương đất nước ông từ năm 1948. Cả thế giới đều ngưỡng mộ con người kiệt xuất này của thời đại chúng ta ngày nay vậy./

Costa Mesa California, Tháng Sáu 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tình Yêu Thương trong Hành Động

Tình  Yêu  Thương  trong  Hành  Động

( Love  in Action )

( Hồi tưởng về một ngày sinh họat với giới trẻ ở Hòa Lan năm 1971)

Đòan Thanh Liêm

Đầu năm 1971, tôi được mời qua tham dự một ngày “Trò chuyện với Giới Trẻ” tại thành phố Utrecht ở Hòa Lan. Đây là một thứ Đại Hội của giới trẻ nhân dịp đầu năm với cái tên thật ngộ nghĩnh : “Palaver” theo tiếng Anh, còn tiếng Pháp thì viết là “Palabre” mà phiên âm ra Việt ngữ là “Ba láp”, tức là nói thả giàn, lung tung ( Có người còn gọi là “ba láp, ba xàm” hàm nghĩa là không nghiêm chỉnh). Nhưng mà chủ đề của Palaver 1971 thì lại rất là nghiêm túc, đó là : “Love in Action” (Tình Yêu Thương trong Hành Động).

Dịp đó, từ đầu tháng 12 năm 1970, tôi qua tham dự sinh họat với Nhóm Thành lập INODEP (Institut oecumenique au service du developpement des peuples = Viện Đại Kết Phát triển Các Dân Tộc) ở Paris. Nhân tiện Ban Tổ chức ở Hòa Lan cũng mời tôi đến tham dự luôn, sau khi công việc ở Pháp đã hòan tất. Từ Paris, tôi đi xe lửa qua thủ đô Bruxelles nước Belgique để thăm gia đình anh chị Nguyễn Văn Tánh/Lê Thị Bạch Nhựt, rồi từ đó lại đi tiếp qua Hòa Lan. Xe lửa xuyên Âu châu hồi đó đã khá là tiện nghi, thuận tiện.

Lúc đó ở Việt nam chiến tranh còn đang diễn ra tàn khốc, khói lửa tang thương khắp nơi mù mịt. Mà ở các nước Âu châu, thì cuộc sống thật là thanh bình êm ả, thịnh vượng sung túc.

Ban Tổ chức là do Liên Hiệp  các Hội Thánh Kinh (Union of Bible Societies) đứng ra đảm trách việc quy tụ giới trẻ để cùng nhau trao đổi về việc sống theo tinh thần của Tin Mừng trong thời đại hiện nay. Người đại diện cho tôi biết : “ Chúng tôi đã phân phát ra cả hàng triệu cuốn sách Thánh Kinh cho công chúng; nhưng mà chẳng thấy có được mấy người chịu khó đọc và học hỏi về Thánh Kinh cả. Vì thế cho nên chúng tôi từ mấy năm nay, mới tổ chức các buổi Palaver như thế này, để tạo cơ hội cho thế hệ trẻ trao đổi, chuyện trò thỏai mái về những đề tài cụ thể, thiết thực liên quan đến cuộc sống thường ngày của họ (everyday life). Chúng tôi không thể áp dụng cái lối giảng đạo cứng nhắc như ngày trước, mà bây giờ bị coi là nhàm chán lỗi thời mất rồi…” Một vị khác lại nói thêm: “ Chúng tôi mời các vị khách quốc tế đã từng dấn thân phục vụ như ông trong hòan cảnh khó khăn thiếu thốn ngặt nghèo ở các nước trong thế giới thứ ba, hay tại các nơi có chiến tranh như ở Việt nam của ông, để mong các “guestspeaker” này, mỗi người một vẻ, gửi cái chứng từ của việc quý vị đang làm tại xứ sở của mình cũng chính là “thể hiện cái tình yêu thương đồng lọai bằng những hành động cụ thể, trong môi trường riêng biệt của mỗi vị. Tuổi trẻ của chúng tôi ở Hòa Lan hiện đang sống trong cảnh sung túc, an bình thịnh vượng, nên nhiều khi đã sao lãng không chú ý gì đến người đồng lọai đang đau khổ ở nhiều nơi vì đói rét, vì bất công áp bức, hay vì chiến tranh tàn sát với lòng hận thù cuồng nhiệt … Xin quý vị cứ thỏai mái nói lên cái kinh nghiệm và cảm xúc của mình, hầu giúp cho con em chúng tôi có được sự thông cảm và liên đới với nhân dân trong xứ sở của quý vị…”

Địa điểm tổ chức là khu vực trình diễn tranh tài thể thao gồm nhiều tòa nhà rất đồ sộ rộng lớn, có sức chứa đến cả mấy vạn người. Thời tiết đang ở giữa mùa đông, nên nhiệt độ ngòai trời rất thấp, cỡ trên dưới zero độ bách phân. Thành ra trong các tòa nhà đều phải có hệ thống sưởi ấm cho đủ tiện nghi. Buổi sáng được dành cho việc thăm viếng các gian hàng triển lãm tranh ảnh, vừa có tính cách mỹ thuật, vừa có tính thời sự, trưng bày đồ thủ công mỹ nghệ từ các nơi xa của các tổ chức nhân đạo từ thiện gửi tới, lại có một số diễn đàn dành cho các khách từ ngọai quốc đến trao đổi theo yêu cầu của công chúng. Năm đó, đề tài gây được sự chú ý nhất là “ Vấn đề tranh đấu bất bạo động theo tinh thần của Thánh Gandhi và nhất là của Mục sư Luther King là người vừa mới bị ám sát tại Mỹ năm 1968”.Dĩ nhiên là cũng có nhiều quày bán đồ ăn, thức uống cho số khách tham dự rất là đông đảo, đặc biệt là lớp trẻ từ 14-15 đến 20-25 tuổi. Tính ra có đến trên vài chục ngàn người tham dự Ngày Đại Hội này.

Mục chính yếu của Palaver gồm hai phần được bắt đầu vào lúc 1.00 PM tại đại sảnh đường và kéo dài đến 5.00 PM. Hai phần đó là :

1/ Cuộc thi hát trong chương trình “Relipop Song Festival”, tức là Religious Popular Song (Ca nhạc Tôn giáo Đại chúng).

2/ Diễn thuyết của 7 khách mời quốc tế (International Guestspeakers).

Cuộc thi hát chung kết đã rất sôi động hào hứng do sự hợp tác của nhiều tổ chức văn hóa tôn giáo của tòan thể các nước Tây Âu, trong đó có Đài truyền Hình Âu châu (Euro-Vision). Do vậy mà giới truyền thông báo chí tới theo dõi làm phóng sự rất đông. Ban giám khảo gồm 5 vị đều là các nhạc sĩ nổi danh từ nhiều nước Âu châu. Và số thí sinh trình diễn cũng khá đông và đều là các ca sĩ nổi tiếng. Đó là các ca sĩ đã lọt qua được vòng sơ khảo tại mỗi quốc gia, nay thì họ đại diện cho xứ sở của mình để tranh giải chung kết của tòan Âu châu. Đáng chú ý nữa là cả một ban nhạc hùng hậu của Salvation Army từ London cũng đến, để tiếp sức khơi động hào khí nhiệt thành của tòan thể lớp khán giả, mà hầu hết đều còn rất trẻ ở vào tuổi teen age.

Những bài hát trình diễn tuy là phản ảnh tâm tình đạo đức tôn giáo, nhưng đó không phải là thứ “Thánh ca phụng vụ” (Liturgical Song) như các ca đòan vẫn hát ở nhà thờ trong các thánh lễ. Và bài ca này lại có tính cách phổ biến rộng rãi trong quần chúng, chứ không phải hòan tòan có tính cách nghệ thuật trau chuốt. Và kết cục, ca sĩ người Hòa Lan năm ấy đã được Ban Giám Khảo đồng thuận trao giải nhất cho bài ca cô trình diễn.

Về phần các diễn giả quốc tế, thì năm ấy có tất cả 7 vị từ Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh. Mỗi người chỉ được có 7 phút để trình bày, kể cả thời gian để dịch ra tiếng Hòa Lan nữa. Mỗi diễn giả được mời phát biểu xen lẫn vào giữa các bài hát của các ca sĩ đại diện mỗi nước Âu châu. Nhờ vậy mà các bài diễn thuyết không bị dồn cục vào cùng một lúc, khiến cho cử tọa dễ buồn chán. Tôi thấy mỗi diễn giả đều trình bày ngắn gọn và gây được sự chú ý theo dõi của mọi người, xuyên qua câu chuyện dí dỏm, độc đáo và đặc thù của hòan cảnh thực tế sinh động trong môi trường sinh họat tại địa phương của từng người diễn giả một. Cụ thể là cử tọa đã luôn vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt sau mỗi lần trình bày của các diễn giả.

Riêng tôi là người từ Việt nam đến, thì được cử tọa chú ý hơn là vì lý do tin tức và hình ảnh về cuộc chiến tranh được phổ biến hàng ngày trên báo chí, radio, tivi. Tôi nói đại ý là : “ Người Việt nam chúng tôi như đang sống trong địa ngục chiến tranh, mà ở Hòa Lan thanh bình này, thì các bạn như đang sống ở thiên đàng vậy. Nhưng sau mấy ngày nữa, thì tôi cũng lại trở về với gia đình, với bà con bạn hữu của tôi ở Việt nam, dù nơi đó đang quả thật là một thứ “địa ngục trần gian”. Tôi phải trở về để sống chết với gia đình và dân tộc thân yêu của tôi. Đơn giản vậy thôi. Cụ thể, thì tôi vẫn tiếp tục tham gia vào công việc từ thiện nhân đạo để chăm sóc cho các nạn nhân chiến cuộc (war victims), ngay trong vùng ven biên thành phố tại các quận 6,7 và 8 Saigon, nơi mà cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 đã tàn phá hàng mấy chục ngàn căn nhà, sát hại bao nhiêu nạn nhân thường dân vô tội, như các bạn đã thấy rất rõ trên màn ảnh tivi. Điều mong ước sâu xa nhất của người dân Việt nam chúng tôi là : “Làm sao chấm dứt được cuộc chiến tranh tàn bạo này, để cho chúng tôi cũng được sống an lành như các bạn trên xứ sở Hòa Lan thanh bình này…”

Sau đó, thì chị Elisabeth trong ban Tổ chức có trao đổi tâm sự với tôi, đại khái chị nói như sau : “ Chúng tôi nhận được cái tín hiệu(message) của anh gửi đến cử tọa rất rõ ràng, chân thực. Đó là một đóng góp rất quý báu, giúp cho giới trẻ Hòa lan chúng tôi hiểu biết và thông cảm hơn với nỗi khổ đau của người dân Việt nam trong cuộc chiến tranh tàn khốc hiện nay. Chúng tôi cũng mong ước có thể đóng góp phần nào trong việc dập tắt được cái ngọn lửa chiến tranh đó, như lời kêu gọi rất ư là thống thiết, chân tình của anh…”

Cũng trong dịp ban Tổ chức khỏan đãi các diễn giả chúng tôi tại bữa tiệc kết thúc Palaver, tôi còn có cơ hội trao đổi chi tiết và thân mật hơn với các bạn quốc tế khác, kể cả người Hòa Lan là chủ nhà. Nhờ vậy mà thắt chặt hơn nữa cái mối tình liên đới keo sơn giữa những anh chị em cùng nhằm chung về một hướng, đó là phục vụ cụ thể cho những người đồng lọai kém may mắn hơn trong môi trường xã hội địa phương của mình.

Nói chung, thì tôi học hỏi được rất nhiều qua những cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình như thế này. Nó còn giúp cho tôi thêm nghị lực để tiếp tục công việc cụ thể, tích cực là :“Đem yêu thương vào nơi óan thù” như trong kinh nguyện Hòa bình của Thánh Phanxicô, mà bây giờ người công giáo ở Thái Hà đang hát mỗi ngày./

California, Tháng Năm 2009

Đòan Thanh Liêm

Những cái cột đèn

Những cái cột đèn

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Thời thơ ấu, ở trong một thành phố nhỏ, có hai thứ âm thanh luôn luôn ám ảnh tôi, đó là tiếng chuông chùa và tiếng còi tàu. Trong khi tiếng chuông chùa mang lại sự thanh thản, an nhiên cho những cuộc đời thầm lặng thì tiếng còi tàu luôn luôn thúc giục, kêu gọi thoát ra khỏi những cảnh đời trói buộc, như lời vẫy gọi cho những chuyến đi xa.

Một cột đèn tiêu biểu ở Hà Nội, Việt Nam. Những chiếc loa được gắn trên cột đèn là một thói quen phát xuất từ thập niên 1960, vì nhu cầu tuyên truyền của cuộc chiến thời đó. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Chẳng bao giờ “tôi thấy tôi thương những chuyến tàu,” trái lại từ sân ga, tôi thấy con tàu luôn luôn hăm hở như muốn bứt xiềng lao về phía trước. Tiếng máy phì phò, rít lên từng chặp như chính nó không chịu nỗi kìm hãm ngột ngạt, muốn bung ra, chạy về phía chân trời xa lạ, nhưng hẳn là mênh mông, đầy hy vọng.

Con tàu sẽ đi qua những cánh đồng bát ngát, hít thở lấy mùi vị của cỏ cây, đồng nội; con tàu sẽ chạy qua những nhịp cầu với dòng sông còn ngái ngủ, phủ đầy màn sương buổi sáng; con tàu sẽ chạy đến những thành phố xa lạ, mái ngói lô nhô đầy ánh nắng, gửi những tiếng còi dội vào vách núi, tỏa ra trên bờ cát trắng đang được vỗ về bởi những đợt sóng biển nhẹ nhàng.

Tôi có những người bạn đã may mắn, một ngày lên những con tàu ấy để ra đi. Khi trở lại, họ đã là một con người khác, những thay đổi dưới mắt tôi, là sự tươi tắn, tự tin và cả cuộc sống mới đã làm tôi thèm thuồng, mơ ước.

Còn tôi, trong tuổi ấu thơ, tôi trở về dưới mái nhà tù mù ánh điện vàng, ngạt thở với cái gia đình, nơi đó, tôi đã sinh ra và lớn lên. Mái ấm gia đình nào cũng thân quen, hiền hậu, quyến luyến, không ai muốn bỏ đi, nhưng với tôi là một khung cảnh buồn thảm, phiền muộn.

Những đứa trẻ vừa mới lên quá tuổi mười lăm vẫn thường ghét gia đình cũng như tâm trạng một người vừa đến tuổi trưởng thành muốn rời bỏ thành phố mình đang ở để đi đến một nơi khác. Cho đến một ngày kia, tôi đã được lên con tàu ấy, khởi đầu cho một chuyến đi xa. Rồi con tàu bỏ nhà ga, để lại tất cả ngôi nhà, con sông, chiếc cầu, những khuôn mặt thân quen, bạn bè, cùng những kỷ niệm của thời học trò. Tất cả hình ảnh hai bên con tàu đều chạy giật lùi về phía sau, xa dần, rồi khuất trong tầm mắt. Tôi không hề tiếc nuối, lưu luyến những gì giờ đây đã ở lại sau làn khói đen. Con tàu chạy mãi về phía trước, đi xa và xa mãi.

Không những chỉ đến Sài Gòn, từ Sài Gòn tôi đã vượt qua đại dương, đi hết nửa vòng trái đất, để đến những phương trời xa lạ, được tự do thở hơi mặn nồng của gió biển đại dương, hay may mắn nghe hương thơm của những cánh rừng lục địa.

Tôi có nhiều người bạn thời thơ ấu, sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà của cha mẹ, khi cha mẹ qua đời ở lại trong ngôi nhà ấy. Người bạn này trở thành thầy giáo và trở lại dạy ở ngôi trường cũ mình học, kết hôn với một cô giáo cùng trường và nuôi con cũng lớn lên trong ngôi nhà cũ, mái ngói đã rêu phong ấy. Ngôi nhà mà hai mươi năm về trước tôi đã đứng ở ngoài cổng gọi tên anh cùng đi học, hai mươi năm sau, trở về thành phố cũ, tìm thăm lại bạn ngày xưa, cũng đã gặp lại anh trong ngôi nhà ấy, có thể cũng được ngồi lại trên bộ “trường kỷ” ngày xửa ngày xưa ấy. Có khác chăng là chúng tôi đã lớn lên, trưởng thành mỗi người mỗi cách, và gần như định mệnh đã trói buộc anh, gần nửa cuộc đời, gắn bó với những gì, mà có lẽ đối với tôi, đã trở thành dĩ vãng. Trong câu chuyện, người bạn cũ của tôi đã thổ lộ ý nghĩ của anh, là được như tôi, không phải vì cái địa vị hay công việc tầm thường của tôi, mà chuyện được đi xa và sống xa cái thành phố này.

Đối với cư dân Huế, được sống ở Sài Gòn đã là một điều mơ ước. Đối với người Sài Gòn, những người vượt qua đại dương, đi đến những phương trời xa lạ, hẳn cuộc sống phải tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Trong cảnh đời thay đổi, nay sống, mai chết, cơn lốc của chiến tranh đã chia lìa, xô đẩy người ta đi xa, từ một ngọn nguồn, chia ra làm trăm hướng. Có những sự thay đổi khốc liệt đến ngỡ ngàng, đau xót, cảnh “thương hải, tang điền,” chuyện “sông kia rày đã nên đồng,”để một đêm trở mình xót xa thế sự, “giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!”

Thế nhưng vẫn có những người ở một chỗ, đứng một nơi, vẫn có những cuộc đời bất di bất dịch như một cái nhà ga nhỏ, ở một quận lỵ xa xôi nào đó, chứng kiến biết bao những chuyến tàu đi qua, hối hả với những tiếng máy hào hển, nhả những tàng khói đen trở lại, trong khi nhà ga vẫn đứng đó nhìn theo, và vì nhà ga không có đôi mắt nên không cảm thấy hơi cay mà nhỏ lệ.

Câu chuyện này làm tôi liên tưởng người cô già, trong khi anh em, con cháu đã tản mác hay lưu lạc bốn phương trời, cô vẫn còn ở đó, dưới mái từ đường cũ nát, nơi cô đã sinh ra và lớn lên, chịu cảnh thiệt thòi góa bụa, để lo hương khói và mồ mả cho ông bà, cha mẹ. Không có cô, ai còn lo được chuyện này!

Tôi còn nhớ rõ người đàn bà ngồi bán vé sau “guichet” của rạp chiếu bóng thường trực Vĩnh Lợi trên đường Bonard ngày nào, sau ngày gần một triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Tôi nhớ rõ khuôn mặt và hình ảnh của bà, trong những ngày bỏ học cùng bạn bè chui vào rạp giữa một ngày Sài Gòn nóng bức. Lúc nào cũng thấy bà mặc một bộ y phục màu đen, không hề nghe bà nói, cũng chẳng bao giờ thấy bà cười. Hơn mười năm sau, sau khi lập gia đình, sinh con đẻ cái, vào quân đội, đi nhiều nơi, một ngày trở về thành phố, ngang qua rạp Vĩnh Lợi ngày xưa, tôi vẫn thấy bà lặng lẽ ngồi đó, như tôi đã thấy bà nhiều năm về trước. Hình như mọi sự thay đổi, xáo trộn ở ngoài kia, bà không có can dự hay bà không cần biết tới.

Tôi nghĩ đến những cái cột đèn cùng những số phận của nó.

Ngày xưa ở cái thành phố nhỏ, nhà chật, trời nóng, nhiều muỗi, lũ trẻ vẫn thường đem sách ra ngồi dưới vùng ánh sáng của ngọn đèn đường để học bài. Rồi lũ trẻ lớn lên, đỗ đạt, ra đời, mỗi người đi mỗi hướng, già đi hay thay đổi cùng thời gian. Chúng đã trở lại cái xóm cũ ấy đã bao lần, nhưng vô tâm, thờ ơ, có bao giờ nhớ tới hay nghĩ tới cái cột đèn ngày xưa đã cho bọn trẻ một vùng ánh sáng của chữ nghĩa trong thời thơ ấu.

Bây giờ những chiếc cột đèn không còn mang nguồn ánh sáng vàng vọt nữa, mà tràn đầy một vùng ánh sáng của ngọn đèn huỳnh quang, nhưng vẫn chôn chân nơi ấy, như mỗi số phận đã được an bài cho mỗi người.

Cũng những cái cột đèn đó, trên mình đã mang bao nhiêu khẩu hiệu, qua thời gian và thời đại, được cột trên mình với bao nhiêu sợi thép cứng, da thịt là vôi vữa trên thân thể đôi khi đã vỡ nát, có nơi lòi cả bộ xương sắt thép đã hoen rỉ.

Có những cái cột đèn mà số kiếp đọa đày, bỗng dưng một ngày nọ chịu mang trên mình bao nhiêu chiếc loa nặng nề, để từ đó nhận bao nhiêu lời nguyền rủa. Có thể ngày xưa, những chiếc cột đèn đó đã mang lại ánh sáng cho những vùng tăm tối, nhưng ngày nay chúng mang lại tai họa cho mọi người trong thành phố, với những âm thanh cuồng nộ, chát chúa, như giọng sủa hỗn xược của những con chó muốn chồm đầu vào khung cửa nhà người khác.

Có những chiếc cột đèn mà số phận hẩm hiu sinh ra và nằm cạnh chiếc cửa sổ nhà ai, có thể ngày xưa đã có lần hãnh diện, dù đêm đã khuya, còn rọi ánh sáng vào căn phòng của cô tiểu thơ nhà nọ, nhưng hôm nay lại mang đại họa lại cho cả gia đình này, khi mà người ta không thể bỏ đi, chạy trốn số phận cay nghiệt của định mệnh, đành phải ở lại với tai ương suốt cuộc đời còn lại.

Những cái cột đèn đã bị chôn chân, bị trói tay, không đường vùng vẫy, cựa quậy.

Những cái cột đèn chờ một trận động đất, một cơn bão lửa, hay một trận cuồng phong.

Tôi thấy tôi thương cho những cái cột đèn!

Những cái cột đèn chôn mình suốt đời theo cùng số phận.

CHÚA GIÊSU TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ

CHÚA GIÊSU TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 647

Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hiroshima nước Nhật thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.

Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng Thánh Lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng Thánh Lễ. Nhà Nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn.

Tôi bắt đầu dâng Thánh Lễ giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự Thánh Lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các Linh Mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng !

Vài phút sau, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giêsu Kitô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết, “Không biết Ngài ở giữa họ” ( Ga 1, 26 ). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài.

Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”.

Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này !” ( Mt 9, 36; Mc 6, 34 ). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” ( 1Tm 2, 4 ).

Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã Nhà Dòng chúng tôi ( chỉ có hai người đã chết ở đó ), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Tất cả họ đều nhận ra Đức Ái Kitô Giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. ( Phêrô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi ).

Tin Mừng Chúa Nhật 13 thường niên hôm nay, Thánh Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.

Chạm tay

Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.

Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Pharisêu mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các Bí Tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Kitô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.

Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa.

“Từng ngàn bệnh nhân trong nhà Thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 232 ).

Cầm tay

Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi”. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.

Trong ba phép lạ cho sống lại, như Ladarô ( Ga 11, 43-44 ), con trai bà góa thành Nain ( Lc 7, 12-15 ) và con gái ông Giaia ( Mc 5, 41 ), thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt ( Mc 1, 31 ), cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt ( Mc 8, 23 ), cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám ( Mc 9, 27 ).

Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” ( Tv 23 ).

Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán ghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.

“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em ( 1Ga, 3, 16 ). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân ?” – “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình”, “dấn thân thương mại.” ( Đường Hy Vọng, số 612 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già”

“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già”
Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
Lời tôi xây cho vững tay cầy
Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy
Lời ca êm ru giấc ngủ say.”

(Phạm Duy – Tiếng Hát To)

(Êphêsô 4: 29 tt)

Trần Ngọc Mười Hai

Cái “Tôi” đó, có hát to hơn cả bầy “tôi” đây là bần đạo, thì cũng vẫn lạo khạo/lào xào, nhưng chẳng bao giờ “nổ bạo” như ở trên.

Quả thật, trên đời này là gì có ai lại tự hào rằng mình hát to hơn cả sung đạn, lẫn thuốc “nổ” bạo, bên bờ ruộng già kia chứ? Thôi thì, ta cứ để nhạc-sĩ già nhà mình cứ hát thêm đôi lời lẽ đượm nhoè giòng lệ, vẫn như sau:


“Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa

Một miền quê, một miền quê tim héo và khô

Lời tôi ca khâu vá tình thương

Lời hôm qua chắp nối Con Ðường (1)

Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn (2)

Lời mai đây cao ngút Trường Sơn (3).

(Phạm Duy – bđd)

Tuy hát thế, nào đã to bằng những lời nho nhỏ vẫn còn vang vọng ở đâu đó, như bảo rằng:

“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù

Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu

Lửa âm u ai đốt từ lâu

Miền quê tôi khan tiếng kêu gào

Lời tôi ca như nước nhiệm mầu

Thành mưa rơi cho dứt niềm đau

Lời tôi ca, lời tôi ca xua hãi hùng đi

Mùa xuân qua ai mất tuổi thơ

Lời tôi ca hôn má xuân già

Còn yêu nhau xin cứ mặn mà

Ðừng cho ai ăn cướp tình ta”…

(Phạm Duy – bđd)

Thế đó, là giọng hát to/nhỏ ở ngoài đời, thật thấm-thiá. Còn đây, là những lời nhỏ/to nơi nhà Đạo. Nơi, vẫn có bậc thánh-nhân hiền-lành tuy không hát, nhưng vẫn nhắn và nhủ những lời rất như sau:

Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,

nhưng nếu cần,

hãy nói những lời tốt đẹp,

để xây dựng và làm ích cho người nghe.

Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa,

vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em,

để chờ ngày cứu chuộc.

Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn,

hay la lối thoá mạ,

và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.

Trái lại, phải đối xử tốt với nhau,

phải có lòng thương xót

và biết tha thứ cho nhau,

như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.”

(Thư Êphêsô 4: 29tt)

Thật ra thì, có hát hoặc nói những lời to nhỏ, không phải để thốt ra những lời độc địa”, mà chỉ muốn bà con mình “nói những lời tốt đẹp”, ở trên đời. Thật sự thì, cứ nói nhỏ nói to hoặc biểu-tỏ những điều hay/lẽ phải ở đâu đó trong nhà Đạo, không bằng lời. Nhưng đôi lúc lại cứ như tiếng khóc được nghệ-sĩ diễn-tả ở câu tiếp:

Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang ngồi vỉa hè

Trẻ bơ vơ, trẻ bơ vơ đi giữa vườn hoa

Hỏi thăm em, em có mẹ cha

Hỏi thăm em, em có ông bà

Hỏi thăm em, em có cửa nhà

Một ngày qua em mất cả bạ

Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang tìm nụ cười

Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, xin đến gần tôi

Cùng em côi tôi có bàn tay

Và đôi môi tôi hát ăn mày

Chia hạt cơm rơi hay bát gạo đầy

Cùng ngủ ven sông hay gối bụi câỵ

Tôi sẽ khóc cho em gái nhỏ theo mụ chủ nhà

Một chiều mưa, một chiều mưa đi trong ngõ bùn nhơ

Từ vườn quê ra chốn phồn hoa

Người em xua dĩ vãng đen nhoà

Rồi đêm đêm son phấn nhạt mờ

Mới nhận của tôi dâng mấy lời thơ

(Phạm Duy – bđd)

Hôm nay đây. Bần đạo này, có nói hoặc có khóc những lời to/nhỏ, hay sao đó, cũng chỉ để thưa và thốt với bạn bè người thân đang đọc giòng chảy văn hoa đầy ý nhạc, cũng là có ý muốn trích thêm những điều được đấng bậc ở chốn trên cao, nhà Đạo Úc Châu từng nói và có khi khóc ròng, những giòn viết như sau:

“Lần họp cuối cùng vừa rồi ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma dạo tháng 10 năm 2014, có nhiều vị vẫn tìm cách nhìn vào gia-đình thời hiện-đại ngang qua viễn-kính mục-vụ; thành thử, mới thấy rằng có quan-ngại đặc-biệt về cảnh-tình trong đó, xem như vẫn có một tranh-chấp hoặc còn gọi là xung-đột giữa tín-điều của Hội-thánh và nhu-cầu mục-vụ cho chúng dân. Ở đây, lại thấy nảy sinh hai chủ-đề chính khiến ta cần tìm đến.

Có vị quan-ngại về tình-huống của những người con ở Giáo-hội đã lớn lên nên mới khám-phá ra rằng: bản-chất tự-nhiên của họ vẫn cứ hướng chiều về tính-dục như người đồng-tính nam hay nữ, cả những người lưỡng-tính hoặc những kẻ chuyển giới.

Tín-lý với giáo-điều từng bảo rằng: bất cứ hành-xử tình-dục nào thực-hiện ngoài phạm-vi giữa nam-nhân và nữ-giới đã hôn-phối và mở ra để cùng kiến-tạo đều méo-mó và vi-phạm tội trọng đến chết người. Nhu-cầu mục-vụ lại bảo rằng: hôn-nhân khác phái không là điều để những người như thế sử-dụng mà thay-thế. Và, mấy người này lại cảm thấy không phải là lời mời gọi nhẹ nhàng nhất cho cuộc sống độc-thân hoàn-toàn mà lời giáo-huấn như thế đòi hỏi họ phải chịu sự trừng-phạt đớn đến muôn đời.

Quan-ngại thứ hai, là: tình-cảnh của các người Công-giáo từng thất-bại trong hôn-nhân và sau đó lại đã tái-giá. Tín-lý trong Đạo từng dạy rằng: hôn-nhân là điều ta không thể phân-cách/giải-toả, thế nên cặp phối ngẫu ấy phải cố sống trong tình-trạng tội trọng vẫn kéo dài. Trong khi nhu-cầu mục-vụ lại bảo rằng: những người như thế vẫn cảm thấy mình luôn bị đẩy lùi ra khỏi Thánh hội và không được hiệp-thông rước Chúa vào lòng.

Nhiều vị đã phát-biểu ở Thượng Hội-Đồng Giám Mục vừa rồi từng cố-gắng tìm cách có giải-pháp mục-vụ nằm trong khuôn-khổ tín-lý/giáo-điều; nhưng, lại phải nói rằng điều các vị làm vẫn chưa đạt kết quả là bao nhiêu. Một số vị khác lại kiên-quyết chống lại các động-thái tựa hồ như thế, nên đã nhấn mạnh nhiều vào tính-cách xít-xao trọn vẹn của giáo-huấn trong Đạo.

Với tôi, chừng như đa số các nghị-phụ đều rất chân-phương khi các ngài lo-lắng làm sao phải đạt nhu-cầu mục-vụ mới được. Tuy thế, các vị này lại tin rằng bất kỳ giải-pháp mục-vụ nào cũng phải nằm trong khuôn-khổ của truyền-thống giáo-huấn có tín-lý/giáo-điều hẳn hoi và các ngài lại đã thực sự không biết mình sẽ đi về đâu.

Riêng tôi, có đề-nghị là giả như nghị-trình thứ hai của Thượng Hội-đồng Giám Mục Rôma năm 2015 là kiếm tìm câu giải-đáp, thì việc đầu tiên các nghị-phụ phải làm cho được là nghiêm-chỉnh nhìn vào giáo-huấn của Hội-thánh có liên-quan ngõ hầu xem các ngài có thể cho phép mở ra con đường mà tiến về phía trước trong kiếm tìm các giải-pháp mục-vụ, thì hơn. Đó là điều, riêng tôi vẫn muốn làm trên cương-vị của mình, ở đây, bây giờ.

Tôi đây, không tìm cách áp-đặt mọi người phải thông-hiểu điều này điều nọ, cho bằng mở ra cho thấy còn có nhiều thứ phải tính đến hơn là chỉ mỗi hai chủ-đề hiện có trong giáo-huấn của thánh hội mình.

Thế nên, đề nghị với bạn đọc phần “Mở Đầu” gọn nhẹ theo bối-cảnh ấy của cuốn “The 2015 Sydnod, The crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015 đã xuất-bản)

Xem thế thì, bạn và tôi đây, ta cũng nên tìm đọc cho biết cuốn sách của đấng bậc có tên ở trên đã xuất bản, nhưng chưa kịp dịch. Giả như, tôi và bạn có trong người đầy tính thi-ca/âm nhạc theo lối nói ở trên, chắc sẽ phải hát tiếp những câu sau:

“Tôi hát tiễn đưa dăm thiếu phụ quay về đường nhà

Lời tôi ca, lời tôi ca hun bếp lạnh tro

Lời như tơ như tóc tìm nhau

Giường thơm tho chăn gối tươi mầu

Mảnh gương to rơi vỡ ngày nào

Còn lại bao nhiêu vẫn soi rõ mặt nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Ấy! Ấy! Hỡi ngài nghệ-sĩ già của tôi ơi. Ngài có hát gì thì hát, cũng đừng hát những câu buồn rầu như thế. Mà, chỉ nên nói và nhắn nhủ với bà con người đọc cùng người nghe, những lời lẽ như sau:

“Trong các bài giáo lý vừa rồi, chúng ta đã nói về vấn-đề gia-đình sống có tính-chất mỏng dòn ở thân-phận con người, như nghèo khổ, bệnh hoạn, chết chóc.

Hôm nay, chúng ta chia sẻ về các vết thương thực sự xảy ra trong cuộc sống chung của gia-đình. Đó là những tai hại xảy đến trong chính gia-đình, một điều đáng sợ hơn cả. Chúng ta đều rõ là đời sống của bất cứ gia-đình nào cũng không thiếu các giây phút xảy đến các hành-xử của các phần-tử chạm đến những tình-cảm thân-mật chí-thiết. Có những lời nói và hành động cùng những việc bỏ qua không làm, thay vì tỏ bày tình yêu thương, thì lại làm giảm-sút hay tệ hơn nữa, còn sát-hại tình yêu thương, nữa…

Mọi sự đều liên-hệ với nhau trong cuộc sống gia-đình, khi tinh-thần của nó bị thương-tích ở nơi nào đó, thì mọi người đều bị cảm-nhiễm. Và khi người nam và nữ dấn thân để trở nên một xác-thịt hình thành gia đình, mà chỉ nghĩ đến nhu-cầu tự-do và thoả-mãn nhu-cầu tư riêng của mình, thì việc lệch-lạc này sẽ tác-hại sâu xa đến cõi lòng và đời sống của con cái. Rất nhiều lần con cái cứ phải âm-thầm khóc than…” (x. bài Giáo-lý số 23 Đức Phanxicô nói về Gia-đình hôm 24/6/2015, do bạn bè dịch và gửi qua vi-tính.)

Thế mới biết, tiếp tục cuộc sống gia-đình trong hoàn-cảnh khó-khăn, lạ lùng hơn khi trước, cũng không phải là chuyện dễ. Rất không dễ, nên nhiều đấng bậc trong Đạo lại đã tỏ bày bằng nhiều cách rất như sau:

“Trong một thế-giới đầy những giá-trị kiểu “bóng xà-phòng” cùng những thói giả-hình và lừa-bịp, thì Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khuyên các người trẻ hãy biết chiến-đấu “đánh trả”  bằng tình thương-yêu đích-thực, đồng thời hợp-tác dựng-xây nền kinh-tế mới mẻ dựa trên đức tính sáng-tạo và dũng-cảm.

Ngài cũng xin các bạn đạo ở Waldensia hãy tha thứ cho Hội thánh Công-giáo khi xưa đã xúc-phạm họ bằng việc “dứt phép thông công” và hành-quyết một số trong các vị tiên-tổ của họ từ nhiều thế-kỷ đến hôm nay.

Ngài có nói: “Tôi yêu-cầu quý vị tha-thứ cho các động-thái thiếu chất Kitô, có khi còn vô-nhân-đạo cùng những hành-xử mà trong quá khứ Hội thánh chúng tôi đã làm chống lại tiên-tổ của quý vị trong lịch-sử. Nhân danh Đức Giêsu Kitô, xin thứ lỗi cho chúng tôi…

Và cũng cùng ngày hôm ấy, 21 đến 22 tháng 6 năm 2015, trong chuyến viếng thăm thị thành ở miền Bắc nước Ý, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ cử chỉ có một không hai trong lịch-sử. Đức Giáo Hoàng thăm viếng khu tàng-trữ di-tích khăn Turin và cũng nhân dịp mừng kính 200 năm ngày sinh của thánh Gioan Bosco, ở đây.

Trong chuyến này, Đức Phanxicô còn kêu gọi tín-hữu Đức Kitô thuộc các giáo-phái khác nhau hãy hiệp nhất để đảm-bảo là từ nay mọi người trong chúng ta sẽ tập-trung nhấn mạnh vào Thiên Chúa trước nhất và sau đó mới để ý đến các khác-biệt của nhau. Việc tỏ-bày xin lỗi đại-diện những người anh em Waldensia và các Giáo-phái lâu nay vẫn cách-biệt, như: nhóm bạn đạo thuộc phái Mê-tô-đi, giáo-phái Tin Lành Truyền Đạo, Giáo-hội Luther và cộng-đoàn các giáo-hội bạn cùng tin vào Đức Kitô.

Ngài cũng đã thêm, rằng: vốn dĩ là anh em, chị em trong niềm tin, cũng tương-tự như anh chị em trong cùng một gia-đình, điều đó không có nghĩa là chúng ta giống nhau hoàn toàn như giọt nước, nhưng lại có nghĩa là: ta có cùng một số điều giống nhau, cũng xuất tự một nguồn gốc.

Thượng-phụ phái Waldesia là Mục sư Eugenio Bernardini có n ói với Đức Phanxicô là: sự việc ngài thăm viếng đất miền này tượng-trưng cho việc vượt cao lên tường thành ngăn-cách từng dựng đứng đến tám thế-kỷ, khi phong trào của Waldensia bị kết-án là bè rối và bị dứt phép thông công khỏi Giáo hội Công giáo…” (xem phần tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 28/6/2015, tr. 12)

Nghe biết thế rồi, nay đã rõ: ở trong Đạo lẫn ngoài đời, vẫn có tình-huống khá khó xử. Bởi thế nên, để minh-hoạ một đời sống không khó mấy trong hiệp-thông đoàn-kết, tưởng cũng nên học hỏi nhiều điều từ trường đời ở đó có những người từng bày-tỏ như sau:

“-Tôi học được rằng:

Tự hiểu mình là điều quan trọng nhất.

-Tôi học được rằng:

Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v…*

-Tôi học được rằng:

Hãy xét đoán chính mình mà đừng xét đoán kẻ khác dầu họ tốt xấu thế nào đi nữa …

-Tôi học được rằng:

Đừng là gì cả… Nếu là gì đó bạn sẽ đau khổ…Vì bạn sẽ khó mà sống với con người thật, với giá trị thật của chính mình….

-Tôi học được rằng:

Ai biết lắng nghe, học hỏi, chiêm nghiệm bài học của chính đời mình, dù khổ hay vui, dù thành hay bại, người ấy đang thật sự thiền, hay đúng hơn là đang sống giáp mặt với chân lý muôn đời*

-Tôi học được rằng:

Đừng bám víu vào điều gì, vì bám víu là dính mắc, là trói buộc là đau khổ…Và là không còn thong dong tự tại nữa*

-Tôi học được rằng:

Thương và ghét, cả hai đều đau khổ bởi vì đều do tham ái gây ra. Muốn là khổ. Muốn mà không được cũng khổ. Ngay cả khi có được cái mà bạn muốn, cũng là đau khổ nữa, bởi vì khi được chúng, bạn lại lo sợ sẽ mất chúng.

-Tôi học được rằng:

Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành

-Tôi cũng học được rằng:

Mỹ phẩm tốt nhất là nụ cười. Nữ trang quý nhất là sự khiêm tốṇ. Trang phục đẹp nhất chính là sự tự tin!

-Tôi học được rằng:

Cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim

-Tôi học được rằng:

Bí quyết lớn nhất của thành công là thành thật.

-Tôi học được rằng:

Cuộc sống muôn đời vẫn đẹp chỉ có cái ta ảo tưởng mới

biến cuộc đời thành bể khổ mà thôi.

-Tôi học được rằng:

Cuộc sống vận hành khi bạn chọn những gì bạn đang có. Thật ra, những gì bạn đang có chính là những gì bạn đã chọn.

-Tôi học được rằng:

Thế giới là một sàn diễn. Ai cũng phấn đấu để có một vai. Đừng nản lòng khi gặp những điều kiện bất lợi.

-Tôi cũng học được rằng:

Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó về mình

-Tôi học được rằng:

Tâm là tên lừa đảo lớn nhất. Người khác có thể dối bạn nhất thời, tâm dối gạt bạn suốt đời.

-Tôi cũng học được rằng:

Hạnh phúc đích thực là ngay nơi thực tại đang là…

-Tôi học được rằng:

Nếu suốt đời chỉ lo chờ mưa bão, thì sẽ không bao giờ thưởng thức được nắng ấm.

-Tôi cũng học được rằng:

Đừng bao giờ so sánh cuộc đời mình với bất cứ ai, vì mỗi người là bài học nhân quả của chính cuộc đời của họ

-Tôi học được rằng:

Mỗi khi xa rời người thân yêu, hãy luôn nói lời thương yêu nhất, bởi có thể đó là lần cuối ta gặp họ.

-Tôi học được rằng:

Ngay cả khi trắng tay, ta vẫn có thể thấy được mình thật giàu có để giúp đỡ mỗi khi bạn bè cần đến.

-Tôi cũng học được rằng:

Đã là bạn thân, dù không làm gì cả…”lặng nhìn không nói năng” ta vẫn có những phút giây tuyệt vời khi bên nhau.

-Tôi học được rằng:

Tình bạn chân thành sẽ mãi lớn lên dù cho có cách xa ngàn dặm, và tình yêu đích thực cũng thế đấy.

-Tôi học được rằng:

Mỗi khi ta rơi vào tâm trạng buồn, thương, giận, ghét…v…v…chỉ nhìn vào tâm như nó đang là…Đừng đặt tên, phán xét gì cả…Chính là ta đang trải nghiệm chân lý…

-Tôi học được rằng:

Hoàn cảnh sống có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của chúng ta, nên hãy ý thức về điều đó.

-Tôi học được rằng:

Người trưởng thành có nhiều điều phải suy nghĩ với những kinh nghiệm đã qua, và có được những bài học rút ra từ đó, và không bao giờ quan tâm nhiều đến việc mình đã tổ chức bao nhiêu lần sinh nhật.

-Tôi cũng học được rằng:

Chính sự mất mát, dạy cho chúng ta giá trị của mọi thứ.

-Tôi cũng học được rằng:

Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó cũng mỉm cười với bạn…” (Như Tuệ ghi lại lời chỉ bảo của đại sư Viên Minh)

Thế đó, là giòng chảy đầy suy tư để bạn và tôi, ta thưởng lãm. Thưởng lãm, bằng và ngang qua tâm-tình trầm-lắng, thân thương, khắc-phục. Tất cả, đều trong tư-thế rất vui vẻ có đính kèm đôi lời kể cũng khá vui, làm câu truyện minh-hoạ đáng để đời, như sau:

Một hành khách hớt hơ hớt hải gọi taxi và nói vội:

-Ông làm ơn chở tôi gấp đến phi trường giùm.

Tài xế bắt chuyện:

-Ông đi chuyến bay nào mà vội thế?

-Chuyến 386 đi Paris!

-Ồ, vậy thì có gì đâu mà gấp gáp đến như thế. Bởi lẽ, truyền thanh phát sóng trên loa đài báo là: chuyến bay số 386 này bị hoãn chờ phi-hành-đoàn…đấy! Ông tài xế dõng dạc tiếp lời thông-báo ra dáng sành sỏi việc nắm bắt thông tin trong/ngoài nước.

-Giời ạ! Nhanh lên một tí có được không, tôi đây là phi công chính của chuyến đó!

Thế đó, là thông-tin xẹt lửa đầy tình-tiết như chuyện thật ở đời. Chuyện xẹt lửa hay xịt khói ở đời còn tình-tiết hơn nhiều nữa với truyện kể rất dễ nể ở bên dưới:

“Ở cửa hàng bán hoa hôm ấy, có người đàn ông trạc cỡ trung niên chọn 3 đoá hoa hồng rồi bảo bà bán hàng rằng:

-Mấy bông hoa này, là để tôi gửi cho vợ tôi làm kỷ niệm ngày cưới đấy bà ạ. Thế nên, đề-nghị bà đính kèm vào đây một dải băng lụa thật đẹp với giòng chữ: Mỗi bông này đánh dấu một năm anh được hưởng hạnh phúc vợ chồng, với em cưng!

Bà bán hàng tỏ vẻ xúc động, bèn hỏi:

-Ông mới lấy vợ được có 3 năm thôi à?

-Dạ, không phải thế đâu! Tôi lấy vợ có đến 30 năm trời cơ đấy. Nhưng hạnh-phúc ấy à, cũng chỉ nói được mỗi thế thôi!”

Hạnh-phúc trong hôn-nhân hay gia-đình, nhà Đạo hoặc giữ các đạo hoặc giáo-phái, đôi lúc cũng khó diễn-tả. Hàng trăm năm là thế, nhưng về hạnh-phúc thì, thì… ai dám bảo là nhiều nhặn, cỡ bao lăm.

Thôi thì, hôm nay và mai ngày, hạnh-phúc của bày tôi bần đạo đây chỉ muốn gửi đến bạn đọc và bạn đạo bấy nhiêu thôi. Bấy nhiêu, là để tôi và để bạn, ta cùng cười vui, dù chỉ vài ba phút rất phù-du con bươm bướm ở đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn mọi người và mọi bạn

Sẽ hạnh phúc triền miên

Suốt mọi ngày trong đời mình.