Nhiều tiến sĩ kỹ sư nhưng không làm nổi ốc vít
httpv://www.youtube.com/watch?v=cJajbysfFVY
Sưu tầm – Bình Luận-Sự Kiện
httpv://www.youtube.com/watch?v=cJajbysfFVY
Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà
(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên)
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Ngài là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Ngài, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Ngài thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Trường hợp ông trưởng hội đường
Ông trưởng hội đường đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông này chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.“ Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta có thể làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22).
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj
Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43
Họa sĩ Holman Hunt (1827 – 1910) vẽ xong bức tranh Đức Giêsu đang đứng gõ cửa một ngôi nhà nhỏ. Ông mời bạn bè đến góp ý xem có gì sai sót.
Thấy bức họa, các bạn trầm trồ khen ngợi và không thấy có gì sai. Ông Hunt cứ thúc dục các bạn xem kĩ lại. Cuối cùng, một hoạ sĩ còn rất trẻ lên tiếng : “Thưa Ngài, tôi thấy có một sai lỗi trên bức danh hoạ. Ngài đã quên không vẽ tay cầm hay ổ khoá nơi cửa”.
Hunt đáp: “Này bạn, khi đức Giêsu gõ cửa nhà bạn, thì cửa phải mở từ bên trong”.
Bà góa mắc bệnh băng huyết và của ông trưởng hội đường tên là Giarô có người con bệnh nặng sắp qua đời đã mở cửa tâm hồn mình bằng niềm tin như Tin Mừng Mc 5,21-43 ghi lại:
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Ðược lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý nhưng còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng.
Còn ông Giarô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai: “Con ông đã chết rồi ” (Mc 5,35).
Sống đức tin là mở cửa tâm hồn dám sẵn sàng đi ra khỏi chính mình để gặp Chúa tin và đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp, sờ áo Chúa và ông Giarô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.
Thánh Augustinô đã suy niệm: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin”. Bà góa tin rằng sờ vào áo thầy thôi là được khỏi, và bà đã được như lòng tin muốn, ông Giarô tin rằng Thầy sẽ chữa lành con ông đang bị bệnh, còn lạ lùng hơn, ngay cả con ông đã chết vẫn được sống như ông mong ước khi tin vào Thầy.
Ngày hôm nay, với cái nhìn tổng quát cuộc sống, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn… Thế nhưng chúng ta lại có vẻ bề ngoài như người mạnh khỏe, có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của mình và vì thế cơn bệnh luôn hiện diện và hoành hành trong chúng ta thầm lặng, có lúc bùng phát như cơn bệnh ung thư. Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giarô xin Thầy đến bên con gái đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.
Thật thế, mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131,1)
Và xác tín rằng: “Ai tin ở Người thì được sống…” (Ga 3,15)
Lm. Vinh Sơn,
Sài Gòn, 27/06/2015
Hội Nhà báo ĐLVN ra tuyên bố số 6 phản đối công an đàn áp ông Phạm Chí Dũng
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-06-29

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.
File photo
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự không thuộc Nhà nước, hôm nay ra tuyên bố số 6 phản đối Công an Thành phố Hồ Chí Minh đàn áp chủ tịch hội là ông Phạm Chí Dũng.
Theo nhận định thì biện pháp của công an nhằm loại bỏ tờ báo của hội mà sau chưa đầy một năm ra đời đã thu hút được nhiều độc giả quan tâm tình hình đất nước, muốn biết sự thật.
Thực tế đàn áp
Tuyên bố nhắc lại việc chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, ông Phạm Chí Dũng trong hai ngày 25 và 26 tháng 6 vừa qua bị nhân viên an ninh ép đi làm việc.
Đây không phải là lần đầu tiên mà trong vòng chưa đầy hai năm kể từ cuối năm 2013 sau khi công khai từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam, rồi tham gia thành lập Hội Nhà báo Độc lập, ông Phạm Chí Dũng từng bị triệu tập gần 20 lần, bị bắt giữ một số lần, bị tịch thu hộ chiếu cấm xuất cảnh. Và cơ quan an ninh thường xuyên theo dõi ông.
Một người biết vụ việc của chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nhà báo Võ Văn Tạo, từ Nha Trang cho biết:
“ Về yêu cầu của bên Công an đối với anh Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập yêu cầu phải dẹp bỏ tờ Việt Nam Thời báo- tờ báo mạng của Hội Nhà báo Độc lập, thì tôi cũng biết thông tin này. Ngay tối anh Dũng được thả ra sau khi bị bắt lúc sáng đến 5 giờ chiều mới được thả ra; sau đó có thông tin trên mạng Internet là công an yêu cầu anh như thế.
Công an hỏi về liên quan với nhà văn Nguyễn Quang Lập- Bọ Lập; họ lấy cớ vụ án của Nguyễn Quang Lập là chưa điều tra, nên muốn điều tra những quan hệ với nhà văn; nhưng chủ yếu là họ yêu cầu anh Dũng chấm dứt trang báo đó.”
Nhận định lý do
Bản thân chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, ông Phạm Chí Dũng cũng có nhận định là cơ quan an ninh muốn loại bỏ mạng Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam:
” Cuối cùng họ đưa ra yêu cầu đóng trang Việt Nam Thời báo, và tôi hiểu là tiếp sau trang Việt Nam Thời báo là họ nhấn mạnh phải loại trừ vai trò ở Hội Nhà báo Độc lập đối với cá nhân tôi
ông Phạm Chí Dũng”
“ Họ mời tôi với cớ về vụ Nguyễn Quang Lập vì vụ đó chưa đình chỉ; nhưng tôi hiểu đó chỉ là cái cớ thôi vì hầu hết những câu hỏi không phải hỏi về Nguyễn Quang Lập mà hỏi về Hội Nhà báo Độc lập và trang Việt Nam Thời báo thôi. Cuối cùng họ đưa ra yêu cầu đóng trang Việt Nam Thời báo, và tôi hiểu là tiếp sau trang Việt Nam Thời báo là họ nhấn mạnh phải loại trừ vai trò ở Hội Nhà báo Độc lập đối với cá nhân tôi.”

Ông Phạm Chí Dũng trong một lần đi biểu tình phản đối Trung Quốc
Một người cho biết hằng ngày vẫn phải vượt tường lửa để vào mạng xem Việt Nam Thời báo của Hội Nhà báo Độc lập cho biết lý do phải tìm đến với tờ báo này:
“ Tại vì tờ báo đó là tờ báo đa chiều, nó tập hợp những bài viết, những quan điểm khác nhau và không giấu diếm những sự thật.
849 cơ quan báo đài của Nhà nước thì thông thường những bài viết ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà Nước cho dù đó là sự thật đi nữa cũng không được đăng lên. Những tiếng nói trái chiều hay không đúng chủ trương Nhà nước thì lại không được đăng tải. Cho nên tôi phải đi tìm những trang như Việt Nam Thời báo để tìm những tin tức, những sự thật để hiểu biết chính xác về tình hình của đất nước.”
Nhà báo Võ Văn Tạo đưa ra nhận định về lý do tại sao công an thẳng thừng đưa ra yêu cầu đối với chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam phải ngưng Việt Nam Thời báo:
“ Ở Việt Nam ai sống lâu năm ở thể chế này đều biết rằng mọi thứ mà không do Đảng cộng sản chủ trương lập ra thì đều bị coi là bất hợp pháp và là kẻ thù nguy hiểm của thể chế. Không chỉ hội Nhà báo, kể cả những hội thông thường nhất như Hội Làm vườn; bất cứ hội gì Đảng đều tìm cách cài cắm người mình vào. Từ lâu chúng tôi biết rằng những hội đó do Đảng lập ra chẳng qua chỉ là những thứ hình thức để xiềng xích tất cả những giai tầng trong xã hội thôi.

Trang mạng tờ Việt Nam Thời Báo ngày 29 tháng 6, 2015
Thế thì Hội Nhà báo Độc lập do anh Phạm Chí Dũng làm chủ tịch khi ra mắt thì như cái gai. Mà trong năm 2014 không chỉ có Hội Nhà báo Độc lập mà có một số hội đoàn, xã hội dân sự khác nữa như Công đoàn Độc lập, Hội Phụ nữ cũng độc lập… chừng trên 20 hội độc lập như thế và họ tự tuyên bố thành lập chứ không đăng ký vì có đăng ký cũng không bao giờ được công nhận; mà theo truyền thống là đăng ký với cơ quan Sở Nội vụ thì tôi tin chắc chắn họ sẽ cung cấp cho đăng ký vì những tổ chức đó không phải do Đảng lập ra. Nên Hội Nhà báo Độc lập như một cái gai đối với thể chế này và đối với an ninh.”
” Ở Việt Nam ai sống lâu năm ở thể chế này đều biết rằng mọi thứ mà không do Đảng cộng sản chủ trương lập ra thì đều bị coi là bất hợp pháp và là kẻ thù nguy hiểm của thể chế. Không chỉ hội Nhà báo, kể cả những hội thông thường nhất như Hội Làm vườn; bất cứ hội gì Đảng đều tìm cách cài cắm người mình vào
Nhà báo Võ Văn Tạo”
Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nhà báo Phạm Chí Dũng, chia sẽ một số nguồn tin mà ông có được về mạng Việt Nam Thời báo của hội này:
“ Tôi có nghe những thông tin ( không biết có đúng không) là phía chính quyền đánh giá trang Việt Nam Thời báo và Hội Nhà báo Độc lập hiện nay có tầm ảnh hưởng khá rộng; đặc biệt ảnh hưởng đến cả khối công chức và người về hưu thành thử có thể đó là lý do họ không muốn tồn tại một chủ thể mặc dù đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992 và 2003. Họ không muốn tồn tại một Hội Nhà báo Độc lập bên cạnh một Hội Nhà báo Việt Nam. Và vẫn muốn giữ vai trò chuyên chế, độc tài về các hội đoàn dân sự của Nhà nước. Đó là nguồn thông tin riêng của tôi, tôi nghe được như vậy.
Một cơ sở nữa có lẽ lượng truy cập đối với Việt Nam Thời báo tăng đáng kể trong thời gian một năm vừa qua. Lượng truy cập bình quân hiện nay của Việt Nam Thời báo một ngày là từ 70- 80 ngàn; khi cao hơn có 100 ngàn một ngày. Có lẽ đó là một lý do để Nhà nước và ngành Công an cảm thấy lo ngại sự ảnh hưởng của trang Việt Nam Thời báo; đặc biệt là chúng tôi đặt ra yêu cầu trang Việt Nam Thời báo phải gia tăng tính phản biện về các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và kể cả tôn giáo nữa; phản ánh sự thật khách quan và nói lên tiếng nói của người dân.
Tôi nghĩ rằng trong một xã hội mà người ta không quan tâm nhiều lắm, hay quan tâm rất ít về tự do ngôn luận và kể cả vấn đề tự do tư tưởng, tự do báo chí thì có lẽ người ta chưa quen với sự tồn tại của cơ chế xã hội dân sự và các tổ chức xã hội dân sự độc lập như là Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.”
Báo chí Nhà nước và báo chí độc lập
Nhà báo Võ Văn Tạo cho biết trong thực tế tại Việt Nam có nhiều trang mạng của những người được gọi là ‘trí thức dấn thân’ cũng bị chặn tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến thông tin sự thật vẫn tìm cách vượt tường lửa để đến với các trang mạng đó và nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng cuộc chiến giữa cơ quan tuyên truyền Nhà nước và truyền thông ‘lề dân’ không chịu sự kiểm soát nào là một cuộc chiến một mất, một còn.
“ Trong thời đại phát triển khoa học- kỹ thuật có Internet, có facebook và có các phương tiện truyền thông khác và rất khó chặn. Có những quốc gia như Trung Quốc họ cũng ngặt nghèo hơn nhưng tôi cho rằng cũng vẫn bị lọt vì theo tôi việc họ chặn thì vẫn cứ ngăn chặn nhưng cái đà tiến bộ của khoa học- kỹ thuật và tiếp cận của cộng đồng ‘trí thức dấn thân’ thì tôi cho rằng người ta vẫn tìm cách vượt qua.
Hiện nay ở Việt Nam một số trang web trang blog cá nhân mà mạnh dạn, tương đối thẳng thắn và can đảm cũng bị chặn; rất khó vào nhưng những người biết cách bày nhau để vào xem.”
Xin được nhắc lại Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với tờ báo mạng Việt Nam Thời báo ra đời vào ngày 4 tháng 7 năm ngoái.
Làn sóng người tỵ nạn chính trị từ Việt Nam (4)
Anh Vũ, thông tính viên RFA
2015-06-27

Một nhóm người Thượng Việt Nam từ Campuchia chạy qua Thái Lan.
RFA Photo
Your browser does not support the audio element.
Trong làn sóng những người Việt Nam đi tỵ nạn ở nước ngoài, không thể không nhắc đến những người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan. Cuộc sống của họ hiện nay ra sao và họ có những mong muốn gì?
Vì mất đất canh tác
Trong những năm 2001 đến 2007, trước hiện trạng đất canh tác dần dần bị rơi vào tay các đồn điền cao su của người Kinh di cư từ miền xuôi lên, cộng với sự cấm đoán ngặt nghèo của chính quyền đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, hàng loạt các cuộc biểu tình của người Thượng Tây nguyên đã nổ ra để đòi trả lại đất đai bị thu hồi và đòi nới rộng quyền tự do tôn giáo.
Để đối phó với các cuộc biểu tình đông người, chính quyền VN đã tiến hành nhiều đợt đàn áp nhằm vào người Thượng ở Tây Nguyên, từ đó nhiều người Thượng Tây nguyên tìm đường trốn chạy sang Campuchia để tìm qui chế tỵ nạn.
” Người Thượng mình hiện nay ở Thái Lan nếu gom lại thì có khoảng hơn 300 người. Chạy sang đây tỵ nạn vì mình không có tự do tín ngưỡng về tôn giáo, còn về đất đai của mình thì chính quyền họ đã cướp đi. Họ còn đàn áp những người có niềm tin tôn giáo, có người bị bắt bỏ tù và cũng có người đã chết trong tù.
-Ông R’Ma B’Lie”
Nói về lý do phải chạy sang Thái Lan tỵ nạn, ông R’Ma B’Lie người dân tộc Jarai, ở tỉnh Gia rai đến Thái Lan tỵ nạn vào tháng 12/2011 cho chúng tôi biết:
“Người Thượng mình hiện nay ở Thái Lan nếu gom lại thì có khoảng hơn 300 người. Chạy sang đây tỵ nạn vì mình không có tự do tín ngưỡng về tôn giáo, còn về đất đai của mình thì chính quyền họ đã cướp đi. Họ còn đàn áp những người có niềm tin tôn giáo, có người bị bắt bỏ tù và cũng có người đã chết trong tù.”
Ông Y Thoat Knul dân tộc M’Nông ở tỉnh Đaklac, một tín đồ Tin lành tiếp lời:
“Do sự truy đuổi của cộng sản VN nên tôi đã phải bỏ chạy sang Campuchia xin tỵ nạn. Trong thời gian ở trong trại tỵ nạn ở Campuchia tất cả những người Thượng đang tỵ nạn đã bị Cao ủy LHQ trục xuất về Việt Nam. Tôi không thể chấp nhận quay trở về VN vì nếu quay về VN thì sẽ bị cầm tù hoặc là chết. Chính vì thế tôi đã phải liều chết để chạy trốn sang Thái Lan để xin tỵ nạn.”
Ông Y Heo KNuil Ly dân tộc Ê đê ở tỉnh Đaklac đã chạy sang tỵ nạn tại Thái Lan từ năm 2008 nói với chúng tôi:
“Từ trại tỵ nạn ở Campuchia chúng tôi phải chạy trốn sang Thái Lan vào năm 2008, lý do tôi phải bỏ trốn khỏi đất nước quê hương tôi một phần cũng vì vấn đề chính trị. Trước việc đất đai của cha ông chúng tôi đã bị chính quyền thu hết thì chúng tôi đã đi biểu tình để phản đối cái đó và yêu cầu chính phủ Hà nội phải tôn trọng quyền của người Thượng ở Tây nguyên. Một phần nữa họ đã ghép tôi tội hoạt động tôn giáo Tin lành và họ đã ghét bỏ tôi nên buộc tôi phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn.”
Nói về những khó khăn của những người Thượng Tây nguyên tỵ nạn ở Thái Lan đã và đang gặp phải trong thời gian vừa qua, ông Y Thoat Knul bày tỏ:

Ngày 20/03/2014, nhiều người dân tộc H’mong cũng đã tập trung phản đối phiên tòa kết tội hai người H’mong vi phạm điều 258. (Hình minh họa)
“Vì mình không có giấy tờ nên phải đi làm chui thôi, làm phụ hồ, làm rửa xe, làm đủ các công việc. Mỗi ngày phải làm việc từ 10-14 tiếng đồng hồ, không có nghỉ, phải chấp nhận làm nô lệ thôi. Với cuộc sống bơ vơ hiện tại thì khôngbiết tin vào ai, không biết phải làm gì và không biết mình sẽ rơi vào tay ai. Đó còn chưa kể đến chuyện ốm đau, bệnh tật và biết bao các thứ chuyện khác.”
Trước cuộc sống vô vàn khó khăn của họ như vậy, song việc cứu xét để chấp thuận quy chế tỵ nạn cho những người Thượng Tây nguyên hiện nay của Cao ủy LHQ cũng hết sức khó khăn. Ông R’Ma B’Lie khẳng định:
“Tình trạng người Thượng tỵ nạn ở đây hết sức là khó khăn, cuộc sống thì tạm bợ không có giấy tờ, về vật chất thì hết sức thiếu thốn. Còn thủ tục giấy tỵ nạn thì UN hoãn đi hoãn lại, có khi UN hẹn ngày phỏng vấn rồi họ hoãn lại sang ngày khác nữa. Trung bình một người thì họ hoãn tới 2-3 lần.”
Gia đình còn ở lại VN
Một trong những khó khăn của những người Thượng Tây nguyên tỵ nạn là gia đình, vợ con họ còn ở lại VN đã bị chính quyền phân biết đối xử và liên tục sách nhiễu. Ông Y Heo KNuil Ly bày tỏ:
“Trước khi tôi rời bỏ VN thì gia đình tôi còn ở lại VN hết, gia đình tôi có 02 cháu và một vợ và đã bị họ phân biệt đối xử rất khó nghe lắm. Họ bảo với con tôi là bố mày là phản quốc bán nước, còn vợ tôi là giáo viên thì bị họ làm khó dễ. Vừa rồi vợ tôi có nhắn cho tôi trên facebook rằng họ đang làm khó khăn cho mẹ con em ở nhà.”
” Trước khi tôi rời bỏ VN thì gia đình tôi còn ở lại VN hết, gia đình tôi có 02 cháu và một vợ và đã bị họ phân biệt đối xử rất khó nghe lắm. Họ bảo với con tôi là bố mày là phản quốc bán nước, còn vợ tôi là giáo viên thì bị họ làm khó dễ.
-Ông Y Heo KNuil Ly”
Song vượt lên các khó khăn của cuộc sống hiện tại, các sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng người Thượng Tây nguyên vẫn được duy trì thường xuyên. Ông R’Ma B’Lie cho hay:
“Việc sinh hoạt tôn giáo ở Thái Lan thì bây giờ chúng tôi đang làm lễ ở một nhà thờ người Thái của mục sư Phonchai. Hiện tại vào mỗi ngày chủ nhật vào buổi chiều thì tôi qua đó làm thông dịch cho nhà thờ để bà con người Thượng đang tỵ nạn ở Thái Lan.”
Tuy vậy, cũng có một số người cũng không có điều kiện để thực hiện mong muốn của họ. Ông Y Thoat Knul nói với chúng tôi:
“Bây giờ ở Thái Lan một thân một mình tôi không thể tham gia sinh hoạt về tôn giáo, vì hàng ngày bây giờ chỉ biết cắm đầu cắm cổ để đi làm nên không có thì giờ. Cũng vì ở chỗ tôi đang ở bây giờ cũng không có nhà thờ, không có hội thánh. Từ đây đi đến nhà thờ nếu đi bằng xe taxi 500-600 baht, cả đi cả về tới 1.000 baht thì lấy đâu ra tiền để đi.”
Bất kể ở trong hoàn cảnh nào song không ít những người Thượng Tây nguyên vẫn mong muốn được tiếp tục đấu tranh cho một nước VN có tự do và dân chủ một cách thực sự. Ông Y Heo KNuil Ly ghi nhận:
“Bây giờ thú thật việc đấu tranh thì hiện tại chưa có, song cũng rất muốn có một ai hoặc một tổ chức nào để tâm sự. Tôi muốn có một người nào đó thúc đẩy tôi để tham gia đấu tranh vì dân chủ, vì tôi nghĩ rằng chỉ khi nào đất nước mình có nhân quyền và dân chủ thì con người mình ở VN mới có được tự do. ”
Tình cảnh những người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan khó khăn là như vậy, song sự quan tâm của các tổ chức và cá nhân người Việt đối với họ còn ở mức hết sức khiêm tốn. Trong một tâm trạng buồn tủi, ông Y Thoat Knul nói về nguyện ước của ông và bà con người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan. Ông nói:
“Cuộc sống của chúng tôi rất mong manh, không biết sẽ đi đâu, về đâu khi mà Cao ủy LHQ đã bỏ rơi chúng tôi hoàn toàn. Chúng tôi bây giờ chỉ cầu mong tất cả cộng đồng người Việt ở Hải ngoại và các tổ chức hãy quan tâm đến sự sống của người Thượng tỵ nạn. Đây là lời nói chân thành từ đáy lòng.”
Chính quyền Hà Nội luôn cho rằng những người Thượng lợi dụng vỏ bọc tôn giáo nhằm hoạt động chính trị, từ đó có thể gây bất ổn và ảnh hưởng đến quyền lực của đảng CSVN. Trong lúc đó, những người Thượng ở Tây nguyên thì cho rằng các chính sách thiếu công bằng của chính quyền đã biến họ trở thành các sắc tộc thiểu số bị chèn ép ngay trên quê hương xứ sở của họ.
MỘT CÁI TÊN ĐÃ THÀNH DANH: TRẦN QUANG CƠ
28-06-2015
Tuy từ chối chức bộ trưởng Ngoại giao, ông Trần Quang Cơ vẫn là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất lên đường lối đối ngoại của Việt Nam – không phải bằng quyền lực, chức vụ mà bằng những gì ông bạch hóa trong cuốn Hồi Ức & Suy Nghĩ được “leak” ra hồi đầu thập niên 2000s. Cuốn hồi ký có giá trị cảnh báo nguy cơ Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc mới.
Năm 1991, ông Nguyễn Cơ Thạch chịu nhiều áp lực phải rời khỏi chính trường. Chiếc ghế bộ trưởng ngoại giao được chuẩn bị cho ông Trần Quang Cơ nhưng ông từ chối. Khi Quốc hội đã nhóm họp, ông Trần Quang Cơ vẫn “công tác” ở Lào. Ông Đỗ Mười tưởng ông Cơ “đòi” cái ghế ủy viên Bộ chính trị nên hứa là nếu ông Cơ nhận, Trung ương sẽ bổ sung. Ông Cơ kiên quyết từ chối.
Thật tình cờ, tôi nhận được điện thoại của đại sứ Đinh Hoàng Thắng báo ông Trần Quang Cơ đồng ý trả lời phỏng vấn khi đang ở trong Thành phỏng vấn Tướng Lê Đức Anh. Phải ngồi với cả hai mới thấy được sự khác nhau giữa họ về nhân cách, tầm nhìn; sự khác nhau giữa tham vọng quyền lực và lòng yêu quê hương đất nước.
Trong cuộc gặp vào chiều cùng ngày (có đại sứ Đinh Hoàng Thắng), tôi hỏi, vì sao ông lại không nhận chức bộ trưởng Ngoại giao. Ông Cơ thẳng thắn: “Lúc ấy, trong Bộ chính trị đã phân công cho Tướng Lê Đức Anh, Chủ tịch Nước, phụ trách quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Tướng Lê Đức Anh là kiến trúc sư chính của Hội nghị Thành Đô. Nghị quyết Đại hội VII xác định đường lối ngoại giao đa phương. Nhưng chúng tôi biết rõ ‘phương ưu tiên’ của ông ta là ai, là ngược lại với chúng tôi, dẫu có nhận chức, trước sau cũng mất chức”. Tôi nói: “Tại sao anh không nhận chức rồi đấu tranh, nếu có mất chức vì bất đồng quan điểm thì lịch sử càng làm rõ ai công, ai tội”. Ông Trần Quang Cơ cười: “Cậu nghĩ là người ta sẽ cho tôi mất chức vì bất đồng quan điểm ư”. Khi ông Cơ nói điều đó, chưa xảy ra vụ “hai bao cao su” nhưng tôi cũng phần nào hiểu được.
Rồi các đồng nghiệp của ông Trần Quang Cơ sẽ đánh giá về sự nghiệp ngoại giao của ông. Nhưng, việc ông và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch bị gạt khỏi cuộc chơi hồi thập niên 1990s đã để lại một khoảng trống trí tuệ to lớn cho Hà Nội. Trong khoảng trống đó, người ta mặc sức sử dụng con ngoáo ộp “diễn biến hóa bình” những con ngoáo ộp “made in” Trung Quốc.
Chúng ta chỉ mới biết đến những mất mát ở thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm, điểm cao 1509… Chúng ta còn rất ít biết đến những mất mát to lớn hơn: những cơ hội để cải cách chính trị; những cơ hội để cải cách kinh tế theo hướng thị trường; những cơ hội hội nhập sâu rộng hơn với các quốc gia tiến bộ; những cơ hội để ký BTA, đi trước Trung Quốc trong làm ăn với Mỹ.
Cho dù rất chia sẻ với quyết định của ông; vẫn kính trọng tài năng và tâm huyết của ông; không dám trách ông “bỏ cuộc chơi”… nhưng vẫn tiếc, vận nước vào những lúc khó khăn, lại quá thiếu vắng những con người tử tế.
Xin tiễn biệt ông. Ông ra đi nhưng người đời sẽ còn nhắc tên ông, một cái tên đã thành danh: TRẦN QUANG CƠ.
Vô trách nhiệm và vô cảm

Xã hội Việt Nam hiện nay có nhiều khuyết tật, nhưng hai khuyết tật chính, theo tôi, có ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước là: Một, sự vô trách nhiệm của các cán bộ, kể cả các cán bộ lãnh đạo; và hai, sự vô cảm của dân chúng, kể cả các thành phần trí thức.
Đã có nhiều người viết và nói về sự vô cảm của dân chúng. Nói một cách tóm tắt, sự vô cảm ấy có ba biểu hiện chính.
Thứ nhất, vô cảm trước những đau khổ của người khác. Đã đành ở Việt Nam vẫn có những người quan tâm đến dân oan, đến những người bệnh tật và nghèo khổ trong xã hội. Nhưng rõ ràng đó chỉ là thiểu số, một thiểu số cực kỳ ít ỏi. Còn đại đa số thì vẫn dửng dưng. Tai nạn xảy ra ngoài đường: người ta dửng dưng. Vô số người không có đủ cơm ăn, áo mặc: người ta dửng dưng. Bao nhiêu người bị chà đạp: người ta dửng dưng. Hình ảnh tiêu biểu nhất cho loại dửng dưng này là các youtube ghi hình ảnh một số học sinh bị bạn bè đánh đập một cách tàn nhẫn: Tất cả những người chung quanh đều yên lặng đứng nhìn, không có chút nỗ lực can thiệp hay thậm chí, cũng không bày tỏ một thái độ nào cả. Họ nhìn một cách hờ hững như không có chuyện bất bình thường nào đang xảy ra ngay trước mắt mình cả.
Thứ hai, vô cảm các các tệ nạn trong xã hội. Ai cũng biết xã hội Việt Nam đầy những tệ nạn. Tệ nạn từ trong nhà đến trường học và ngoài xã hội. Tuy nhiên số người thực sự quan tâm rất ít. Thấy kết quả điều tra của quốc tế về chất lượng sống, ở đó, Việt Nam bị xếp vào dưới đáy cùng của thế giới, thậm chí, còn thua cả Campuchia và Lào, cũng không có mấy người động lòng. Mỗi người hầu như chỉ nhìn vào sự thành công hay thất bại của bản thân mình, còn tệ nạn xã hội nói chung là thuộc về trách nhiệm của những ai khác.
Thứ ba, vô cảm trước tình hình của đất nước. Ở đây lại có nhiều khía cạnh. Kinh tế Việt Nam càng lúc càng sa lầy trong nợ nần: người ta mặc kệ. Giáo dục Việt Nam càng ngày càng xuống dốc: người ta mặc kệ. Văn hoá càng lúc càng suy thoái: người ta mặc kệ. Đạo đức càng ngày càng suy đồi: người ta mặc kệ. Quan trọng nhất, Việt Nam càng ngày càng đối diện với nguy cơ bị Trung Quốc xâm lược: người ta cũng mặc kệ. Tất cả những thái độ mặc kệ ấy có một cái tên chung: sợ chính trị. Ai cũng né tránh chính trị. Người ta phó thác chuyện chính trị, từ đối nội đến đối ngoại, cho chính phủ và đảng cầm quyền. Người ta thừa biết chính phủ và đảng cầm quyền cũng đang bế tắc, không tìm ra một phương hướng hay sách lược nào để giải quyết cả, người ta vẫn bất chấp.
Tôi có khá nhiều bạn bè thuộc giới trí thức trong nước. Hỏi chuyện, ai cũng biết tất cả những nguy cơ mà Việt Nam đang đối diện, trong đó có cả nguy cơ mất nước, nhưng hầu như ai cũng chỉ thở dài ngao ngán: Trung Quốc bây giờ mạnh quá, làm sao chống lại được? Rồi thôi. Người ta xem đó như những chuyện không thể tránh khỏi. Và vì không thể tránh khỏi, chúng cũng không còn là vấn đề nữa. Sau đó, người ta an tâm tập trung hết tâm trí vào việc kiếm sống. Chuyện nước non như thuộc về ai khác.
Dân chúng như thế, còn cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo thì sao? Thì ở đâu cũng thấy một điều: Vô trách nhiệm.
Biển hiện đầu tiên của tinh thần vô trách nhiệm ấy được nhìn thấy trong công việc làm hàng ngày của họ. Ví dụ gần đây nhất là những chuyện liên quan đến cây xanh ở Hà Nội. Thành phố chủ trương chặt hơn 7000 cây xanh mà không hề nghiên cứu cẩn thận những cây nào là đáng chặt. Đến lúc dân chúng phản đối kịch liệt, người ta mới dừng lại. Sau đó, trồng cây thế. Hứa trồng cây vàng tâm nhưng thực tế lại trồng cây mỡ, một loại cây rẻ tiền hơn. Cũng chưa hết. Sau trận dông lốc vừa rồi làm hàng ngàn cây bị bứng gốc đổ nhào, người dân mới phát hiện rễ những cây mới trồng còn để nguyên cả bao ny lông chung quanh. Đến lúc dân chúng tố cáo, người ta mới lén lút để cào đất và cắt các bao ny lông ấy ra. Tất cả diễn tiến chặt cây rồi trồng cây ấy cho thấy điều gì? – Sự vô trách nhiệm. Không phải chỉ những người thợ chặt cây hay trồng cây vô trách nhiệm mà cả giới lãnh đạo của họ, thậm chí, lãnh đạo của cả thành phố cũng vô trách nhiệm.
Những hành động vô trách nhiệm ấy xuất hiện ở khắp nơi: xây đường thì chỉ vài tháng, hay có khi, vài tuần là bị sụp lún. Trồng trụ điện thì không có cốt sắt nên cứ gặp gió lớn là bị đổ. Dây điện treo lằng nhằng và lòng thòng ngay trên đầu dân chúng cũng không ai để ý.
Nhưng nguy hiểm nhất là thái độ vô trách nhiệm đối với đất nước. Trong cái gọi là đất nước ấy, khía cạnh quan trọng nhất là độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ; trong khía cạnh ấy, yếu tố nòng cốt là các hiểm hoạ đến từ Trung Quốc. Chỉ nêu các sự kiện gần đây nhất làm ví dụ. Đó là việc Trung Quốc cho bồi đắp các bãi đá ngầm hoặc rạn san hô làm đảo nhân tạo. Việt Nam phản ứng ra sao? Cũng chỉ là những lời phản đối lấy lệ của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao. Ngay trên diễn đàn cuộc đối thoại Shangri-la ở Singapore vừa rồi, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng không tham dự. Chỉ có Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh hiện diện. Nhưng ông Vịnh cũng không phát biểu gì cả. Ông chỉ làm một việc như ông tự nhận là “lắng nghe”. Như những diễn biến mới nhất liên quan đến cuộc tranh chấp ở Biển Đông là thuộc trách nhiệm của ai khác.
Theo dõi tin tức từ báo chí những tháng gần đây, người ta thấy rõ quốc gia có phản ứng gay gắt nhất trước hành động xây đảo nhân tạo ở Trường Sa chính là Mỹ. Cho máy bay vờn qua vờn lại chung quanh các hòn đảo nhân tạo ấy là Mỹ. Tố cáo và phản đối âm mưu xây đảo nhân tạo ấy của Trung Quốc cũng là Mỹ. Vận động dư luận thế giới, đặc biệt các quốc gia thuộc nhóm G7, để mọi người thấy rõ âm mưu của Trung Quốc cũng lại là Mỹ. Việt Nam, từ trước đến sau, giữ một sự im lặng rất khó hiểu.
Dường như nhà cầm quyền Việt Nam xem chuyện mang Trung Quốc ra các toà án quốc tế là trách nhiệm của Philippines và lên án các hành động xây dựng đảo nhân đạo trái phép ở Trường Sa là nhiệm vụ của Mỹ. Giới chức Việt Nam thì chỉ khoanh tay đứng nhìn.
Khoanh tay thật ra cũng là một hình thức bó tay.
Bó tay ngay cả trước khi nỗ lực làm một cái gì đó là một sự bó tay rất vô trách nhiệm.
Tác giả: Trầm Thiên Thu

Vài tháng qua, nhất là sắp sửa có Công nghị về Gia đình vào mùa Thu này, nhiều tin đồn cho rằng Giáo Hội sẽ nói hoặc không nói gì. Trong số đó có sự suy đoán về một số vấn đề Giáo Hội phải, nên, và sẽ có chính sách mới để hợp pháp hóa việc rước lễ đối với người Công giáo đã ly hôn, tái hôn, sống chung không hôn nhân, và các vấn đề nóng ngày nay là đánh giá tích cực về hôn nhân đồng giới. Trước đây không lâu, hồi thập niên 1960, lời đồn đại cũng cho rằng Giáo hội Công giáo sẽ gia nhập các nhóm Kitô giáo khác để chấp nhận việc ngừa thai. Thất đáng để nói vài điểm về thời gian đó.
Năm 1963, khi Thánh GH Gioan XXIII còn sống, ngài đã khởi xướng một nhiệm vụ đặc biệt để nghiên cứu về vấn đề ngừa thai. “Commission on Problems of the Family, Population, and Natality Members” (Nhiêm vụ về Vấn đề Gia đình, Dân số, và Sinh sản) là nhóm gồm các giáo sĩ, những người trong ngành y khoa hoặc tâm lý, có cả các cặp vợ chồng. Công việc của họ vẫn tiếp tục sau khi ĐGH Gioan XXIII qua đời, khi họ hoàn tất thì giao cho ĐGH Phaolô VI vào năm 1966. Đây là câu chuyện về Thông điệp “Humanae Vitae” (Sự sống Con người) rất thú vị.
Người ta nói rằng Giáo Hội có thể có chính sách cho phép các cặp vợ chồng dùng biện pháp tránh thai. Họ tranh luận từ một quy luật của tổng thể, nói rằng sử dụng biện pháp tránh thai trong hôn nhân của một số trường hợp, trong khi cứ mở ngỏ hành vi tính dục đối với việc tránh thai trong thời gian lâu dài sẽ khả dĩ chấp nhận về luân lý, với kế hoạch có con trong hôn nhân. Dĩ nhiên có thêm các vấn đề trong bản tường trình của họ, nhưng đây là sự tranh luận khó. Như định mệnh an bài, bản tường trình của họ – hoặc ít là một phần – được đưa ra cho báo giới biết trước khi ĐGH Phaolô VI đưa ra câu trả lời.
Tác giả George Weigel viết trong tiểu sử của Thánh GH Gioan Phaolô II rằng, khi chuẩn bị viết Thông điệp “Humanae Vitae”, Chân phước GH Phaolô VI đã có cuốn thần học luân lý của ĐGM Karol Józef Wojtyla người Ba Lan (về sau là GH Gioan Phaolô II). Tựa đề là “Yêu thương và Trách nhiệm”, ĐGM Wojtyla phản ánh về luân lý tính dục, ngài viết sau nhiều năm thường xuyên gặp gỡ giới trẻ và các cặp vợ chồng. Thật vậy, ngài được coi là một phần trong hội nghị về nhiệm vụ, nhưng hồi đó chính quyền Ba Lan không cho ngài ra khỏi nước. Ngài và một số linh mục bạn đã quy tụ và làm nhiệm vụ riêng. Ngài viết tường trình xác định giáo huấn lâu đời của Giáo Hội về việc ngừa thai. Sau đó, ngài đưa ra một loạt phản ánh về Thông điệp “Humanae Vitae”, xác nhận giáo huấn dẫn chứng nhiều.
Sau hai năm ban hành thông điệp của ĐGH Phaolô VI, tiếng đồn có khắp nơi, nhiều người cho rằng Giáo Hội sẽ cho phép ngừa thai, ít là đối với các cặp vợ chồng. Mọi thứ đã không như người ta dự đoán.
Như chúng ta biết, giáo huấn của Chân phước Phaolô VI đưa ra không có gì mới lạ. Đó là giáo huấn của Giáo Hội, dựa trên nền tảng Kinh Thánh, đã được dạy trong Giáo Luật, và không một thần học gia Công giáo nào trong lịch sử Giáo Hội đã có ý kiến ngược lại. Người ta tạo nên cơn bão lửa chỉ vì thiếu hiểu biết về nhiệm vụ cũng như thiếu suy nghĩ. Cùng với các sự thay đổi khác từ Công đồng Vatican II, vấn đề ngừa thai chỉ là mộng miếng nhỏ trong bảng câu đố xếp hình.
Một nhóm thần học gia thuộc Đại học Công giáo Hoa Kỳ đã kích động những người bất đồng quan điểm ở Hoa Kỳ, nhưng vấn đề đã được lan ra khắp thế giới. Mặc dù theo cách giới thiệu của một số người bất đồng ý kiến (nhóm Charles Curran), không có nhóm giám mục nào từ chối giáo huán, đa số phản đối nhiều người đã hy vọng có sự thay đổi.
Cuối cùng, như lịch sử đã chứng minh, giáo huấn của Chân phước GH Phaolô VI vẫn là chân lý. Từ viễn cảnh nào đó, điều đó có vẻ rất mầu nhiệm. Ngài đã có sứ vụ nghiên cứu vấn đề này, người ta tranh luậnđể thay đổi, và mọi người trên thế giới đang đi trên cùng một con đường tiến tới sự chấp nhận luân lý của việc ngừa thai. Ngài biết rõ cuộc tranh luận ngài phải đối mặt. Thật vậy, ngày nay không nhiều người tuân theo giáo huấn này. Nhưng sự tiên báo của ngài về việc sa sút ngày nay đang bắt đầu xuất hiện trong các cuộc tranh luận về vấn đề này.
LUKE
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
Nguyễn Thượng Chánh ( Bac si THU Y )
& Nguyễn Ngọc Lan (Duoc Si)
Trong đời sống của mọi người, đến một lúc nào đó chúng ta cũng phải ngưng làm việc để nghỉ hưu. Đây là một giai đoạn mới vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi người. Hai vợ chồng người gõ cũng đã gác kiếm từ quan từ năm 4-5 năm nay rồi. Tôi đã nghỉ hưu – Giã từ căng thẳng, chào đón hưu liễm. “I’m retired – Goodbye tension, hello pension!”Gõ cho người hay gõ cho ta?
Tuy có chuẩn bị tinh thần nhưng cũng vẫn bị shock
Ai cũng vậy, làm việc đến một tuổi nào đó thì cần phải nghỉ hưu.
Tuy luật không bắt buộc mình phải nghỉ nhưng thông thường thì thiên hạ nghỉ khi họ được 65 tuổi để nghỉ ngơi và để lãnh tiền già (pension du Canada hay old age pension).
Đây là nói trường hợp những người làm việc cho các công ty hay xí nghiệp lớn, làm việc cho chánh phủ hay công chức v.v.
Còn trường hợp tự mình làm chủ thì muốn nghỉ lúc nào thì tự do mình quyết định.
Mặc dù đã có chuẩn bị tư tưởng từ nhiều năm trước nhưng khi bắt đầu ngưng làm việc thật sự, bỏ lại sau lưng tất cả các thói quen cũ để bước vào một nề nếp sinh hoạt hoàn toàn mới, thì mấy tháng đầu vợ chồng người gõ cũng phải chịu nhiều xáo trộn về tinh thần lẫn vật chất.
Phải cần một thời gian đôi ba tháng mới quen và thích ứng được vào với hoàn cảnh mới!
Nhiều thay đổi trong cuộc sống
Thời gian nghỉ hưu thường tạo ra nhiều sự thay đổi trong đời sống.
Đó có thể là sự thay đổi chỗ ở và phải hòa mình vào một khung cảnh mới, bởi lý do này nên hưu viên phải chịu mất đi một số bạn bè và những mối giao tiếp xã hội của mình từ xưa nay…Và họ cần phải có một thời gian để tìm hiểu và thích ứng vào nếp sinh hoạt mới.
Không ít người nghỉ hưu bán nhà để dọn đến những nơi gần con cái.
Có người chọn giải pháp mua condo để ở cho đỡ phải dọn dẹp, và khỏi lo săn sóc nhà cửa cũng như để tiện bề đi du lịch trong thời gian dài.
Có người nhảy ra làm từ thiện hay làm thiện nguyện.
Đi du lịch
Đi du lịch xa là cái mode thường thấy nhất trong mấy năm đầu khi vừa mới nghỉ hưu.
Theo nhiều cụ kinh nghiệm, thì mấy năm đầu lúc vừa mới nghỉ thì thiên hạ có khuynh hướng đi du lịch ào ào.
Từ 75 tuổi trở đi thì họ bắt đầu thấm đòn, sức khỏe yếu đi, thường hay mệt mỏi bất tử, nên sự hăng say du lịch của buổi đầu cũng dần dần giảm theo năm tháng.
Du lịch cũng không quên cái “hobby”
Các tours du lịch xa có guide hướng dẫn rất được giới cao niên ưa chuộng vì tiện lợi và khỏe trí.
Bạn bè chí thân hay tâm đầu ý hợp thường hay rủ nhau đi chung cho vui.
Hầu như không ít bà con mình, đặt ưu tiên chuyện về Việt Nam trong chương trình du lịch của họ, cũng có người có ý định quay về chốn xưa ở cho đến ngày cuối đời…
Kế đó là qua Mỹ hoặc qua các nước Âu Châu, trước là đi chơi và sau là ghé thăm bà con hay bạn bè luôn thể.
Có người thì đi tours Trung Cộng, đi hành hương Ấn Độ, v.v.
Người thì đi tours nghỉ mát tại các resort ở Mexico, Cuba, Dominican Republic hay các đảo thuộc vùng Caribbean, v.v… Thường bãi biển ở những vùng nầy rất là lý tưởng, sạch sẽ và có một màu trong như sữa xanh ngút ngàn giống như một bức tranh vĩ đại rất ư là đẹp…
Giá cả có khác nhau và cũng tùy theo mùa. Trung bình, nguyên trọn gói, bao vé máy bay khứ hồi từ Montréal, ăn ở một tuần trong hotel 4 sao của resort lối 1300- 1500$.
Mùa low season, giá có thể còn rẻ đi hơn nhiều.
Có người đi theo tours du thuyền cruise trong một tuần lễ tại vùng biển Caribbean. Ghé qua các đảo như Saint Martin, Sainte Croix, Saint Kitts, Virgin Islands, Grenada…
Có người đi tours vùng Nam Mỹ, Panama hoặc tours vùng Hawaii, tours Alaska xem gấu trắng…
Các tours du thuyền vùng Caribbean, tàu chạy ban đêm cho tới sáng thì cập bến vào một đảo và du khách có thể lên bờ dạo chơi hay đi đây đó và trở lại tàu trước hoàng hôn.
Mấy lúc gần đây du lịch Dubai nằm về phía đông nam của United Arab Emirates (UAE) vùng Trung Đông cũng được một số hưu viên chiếu cố.
Tours du thuyền: lối 80% du khách là người cao tuổi
Có người đi theo các tours du thuyền lâu nhiều tuần bên Âu Châu, Á Châu hay Trung Đông. Mục đích để thăm viếng được nhiều xứ.
Du thuyền Princess Cruises ghé qua nhiều nước như Thái Lan, Singapore, Sài-gòn Nam Việt Nam, Hong Kong hay Pusan Nam Hàn, v.v.
Tours du thuyền có thể được xem là sang trọng và thích hợp cho lớp tuổi già.
Nhưng có một sự thật là đi đâu lâu ngày lâu tháng, khi trở về tới nhà mình thì vẫn cảm thấy khỏe cách gì đâu…Được nằm ngủ trên cái giường của mình thì không có gì sung sướng và hạnh phúc cho bằng!
Dân nghỉ hưu thường hay đi đâu?
Sáng sáng, dân nghỉ hưu thường hay đến mấy cái thương xá hay mấy tiệm cà phê bình dân ngồi chùm nhum với nhau đấu láo và ngó ông đi qua bà đi lại.
Các bà thì thích đi ngắm nghía vẻ đẹp như xem thời trang, xem nghệ thuật, cây cảnh, vân vân.
Có bà lại thích đi tà tà hoặc đi vòng vòng trong thương xá để…rửa con mắt và cũng là một cách để thư giãn (relaxation).
Ông nào có muốn chở vợ thì nên chọn giải pháp ngồi chờ ở phía ngoài cho nó khỏe và cũng tiện để ngó cô đi qua bà đi lại luôn thể, tiện mọi bề cho cả bà lẫn ông!
Some studies have led to a conclusion that shopping is one of the ways to combat depression. A woman tends to get so engrossed in shopping, that she can shop for hours together without eating or getting tired.
Thankfully most of the shopping malls have a coffee shop, where men can enjoy sipping their espresso while women enjoy a stress free experience! Happy shopping ladies!!!
Các ông thì lại ưa thích hẹn hò nhau để tán gẫu ở những quán cà-phê, quán phở, v.v.
Có ông bạo hơn cũng như văn minh hơn, muốn tự thưởng mình sau bao năm dài đăng đẳng làm việc vất vả, bằng những chuyến du lịch về Việt Nam trước thăm mồ mả ông bà, sau là nếu có thể giúp người-em-gái-nhỏ nào đó thoát cảnh nghèo đói để đổi đời mà cả hai đều có lợi, vân vân và vân vân. Nội cái được người-em-gái-nhỏ gọi mình bằng anh xưng em ngọt xớt như mía lùi, thấy sướng tê cả người, được trẻ ra ít nhất cũng 30 tuổi rồi.
Ai mà không ham!
Nghe nói với số tiền trợ cấp hưu pension hay tiền già 1000$ một tháng bên nầy, nhưng về bển thì tha hồ mà ăn chơi phè phỡn, dư sức…qua cầu gió bay!
Dân nghỉ hưu thường hay…làm gì?
Phần đông đa số người già nghỉ hưu rất rảnh rỗi.
Tập thể dục thể thao như chạy bộ jogging, đi bộ; tập tài chi dưỡng sinh, khí công, aerobic; đánh cờ tướng hay chơi golf, đánh tennis, đánh ping-pong, vân vân.
Việc giữ hộ cháu nhỏ trong vòng đôi ba ngày cũng là một niềm vui cho các bậc ông bà.
Một số cụ lo xa, quan tâm đến việc tu hành cũng như việc thiền định để tìm sự an lạc cho tinh thần cũng như để chuẩn bị cho kiếp sau, vân vân.
Cũng có người thì cảm thấy quá nhàn rỗi…Không biết làm gì trong ngày, hết đứng thì ngồi, ra vô, đi tới đi lui, ngó trước ngó sau, hết ngồi rồi nằm.
Vào phòng nghiền ngẫm internet, chốc chốc lại check email.
Xong ra salon mở ti-vi.
Đọc báo thì đọc hết tờ nọ tới tờ kia, lướt qua tin xe cán chó, đến các mục quảng cáo bán nhà, sang nhà hàng, sang tiệm nails…Kế đến là mục gỡ rối tơ lòng, riêng mục tìm bạn bốn phương sao thấy nhiều phụ nữ đầy đủ công dung ngôn hạnh mà sao số lại cô đơn hẫm hiu vậy cà, thấy tội quá!
Rồi làm luôn tất cả các tin vui lẫn tin buồn, cáo phó lẩn phân ưu, rồi không biết chừng nào tới phiên…mình đây?
Đôi khi lấy phone gọi đầu nầy đầu nọ, nói chuyện tầm xàm bá láp cho đỡ buồn.
Tình trạng nầy mà kéo dài dám sẽ khiến nhiều cụ dễ bị rơi vào sự buồn chán hay trầm cảm lắm!
Chiều tà về tới sân nhà
Vợ tôi mong ngóng trong nhà ngó ra
Nghỉ hưu quanh quẩn đôi ta
Quay đi ngó lại, chỉ bà với tôi
(Nguyễn Thượng Chánh)
Gặp lại bạn bè
Bạn bè lâu ngày gặp lại vợ chồng tác giả thì thường hay hỏi những câu đại loại như sau:
– Lúc rày nghỉ có khỏe không? Khỏe chớ!
– Lúc này nghỉ rồi làm gì? Không có làm gì hết, nghỉ mà!
– Có đi đâu chơi không? Có khi đi, có khi không!
– Có đi về Việt Nam chưa? Dzà, chưa có tính lúc nầy!
– Có đi làm thiện nguyện không? Dạ có, làm từ lâu rồi, giữ cháu đó!
– Có làm công việc gì khác không? Có chớ, nhiều việc không tên, nhớ hổng hết!
– Nghỉ ở nhà có chán không? Đâu còn thì giờ dư đâu mà chán!
– Nghỉ ở nhà có thường bị bả đì không? Anh sao tui vậy mà!
– Nghỉ ở nhà, ổng thường làm cái gì? Dzà thưa lúc nào? sáng hay tối? cũng giống như mấy ông khác thôi!
– Sao cũng còn trẻ (?) hoặc job thơm (?) mà nghỉ chi cho uổng vậy! Thôi đi, bộ xỏ ngọt người ta hả!
Bao nhiêu câu hỏi trên cũng đủ nói lên tâm trạng lo lắng chung của mọi người trước viễn tượng về hưu.
Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, không ai giống ai hết.
Có người phải nghỉ hưu vì hãng đóng cửa, vì bị mất việc, vì vấn đề sức khoẻ hay cũng vì hoàn cảnh bắt buộc, vân vân và vân vân.
Tóm lại, những điểm lo lắng chung của mọi người mà tác giả nhận thấy quan trọng chính là ở ba điểm như sau:
1/ quan hệ giữa vợ chồng
2/ sức khỏe
3/ tiền bạc
Giai đoạn “tang chế” sau khi nghỉ làm
Ai cũng phải trải qua một giai đoạn buồn chán vì phải thay đổi nếp sinh hoạt thường ngày từ mấy chục năm nay lúc còn đi làm. Thời gian nầy dài hay ngắn tùy theo người.
Các nhà tâm-lý-học gọi đây là giai đoạn “tang chế” (période de deuil), nghĩa là hưu-viên cảm thấy mất mát một cái-gì-đó mà mình hằng quen thuộc trong đời sống.
Trong thời gian nầy, họ rất dễ bị rơi vào tình trạng trầm cảm.
Nếu tình trạng nầy kéo dài thì cần phải đi tham khảo ý kiến của bác sĩ.
Tại sao có người sợ nghỉ hưu?
– Có người đã đủ tuổi về hưu nhưng không muốn nghỉ vì còn quá yêu…công việc hay ghiền việc (workaholic)!
– Có người muốn nghỉ hưu nhưng phải ráng cày vì họ còn phải nuôi con ăn học thêm một vài năm nữa!
– Có người vẫn còn duy trì sự làm việc, nhưng chỉ làm bán thời gian (part time) hoặc chỉ làm một hay hai ngày trong tuần!
– Có người đã nghỉ hưu, nhưng sau đó trở vô xin làm việc lại!
Ngoài ra, cũng còn nhiều lý do phức tạp khác…
“Tui sợ ở nhà hoài sanh bệnh” hoặc
“Tui cũng muốn nghỉ lắm nhưng sợ ở nhà không có gì làm, chán lắm”
Đây là những câu tâm tình mà người gõ thường hay nghe các bạn đàn ông nói.
Phải chăng đó là những lý do thật sự?
Nhưng cũng không hiểu tại sao dân chúng lại phản đối dữ dội khi chính phủ sở tại muốn kéo dài tuổi làm việc ra thêm nữa, thí dụ như bên Pháp?
Còn ở Canada, chấp nhận cho nghỉ hưu hiện nay là 65 tuổi, nhưng sẽ tăng lên 67 tuổi trong vài năm tới.
Báo Tây có nêu những lý do tại sao một số người vẫn còn muốn tiếp tục đi làm mặc dù họ đã tới tuổi cần hưu trí rồi, hai lý do chính là tại vì:
– ông anh sợ phải ở nhà thường xuyên với bà chị (?)
– kinh tế, tài chánh khó khăn nên cần phải đi làm thêm để kiếm thêm chút đỉnh cho bả vui (?).
Có bạn thì thành thật hơn: “tui ngại ở nhà vì phải chạm mặt thường xuyên với bà xã quá. Sợ gây lộn tối ngày, sợ chiến tranh lạnh quá”.
Vấn đề nầy là một sự thật mà ai cũng phải đành chịu thôi. Chạy đâu cho khỏi!
Nhưng gần đây báo chí Mỹ có nêu một…tin mừng. Không biết có nên tin hay không?
Tin mừng cho những cặp vợ chồng khắc khẩu: “Cãi nhau sống lâu”
Cãi nhau thường xuyên để xả bớt xú bắp rất tốt cho sức khỏe tâm thần và sẽ sống rất lâu để mà cãi với nhau cho tới ngày xuống lỗ (?) Hi hi hi!
Spouses who fight live longer!
In the current study, the authors suggest a combination of factors to explain the higher mortality for couples who don’t express their anger. These include “mutual anger suppression, poor communication (of feelings and issues) and poor problem-solving with medical consequences,” they write in the January issue of the Journal of Family Communication.
http://www.livescience.com/4814-spouses-fight-live-longer.h…
Trong các khóa học coaching “chuẩn bị nghỉ hưu” (pre-retirement courses) cho nhân viên nhà nước hoặc cho các công ty, các thuyết trình viên là các nhà tâm-lý-học thường nêu cái vấn nạn nầy lên để chúng ta đừng ngạc nhiên lúc phải ở nhà thường trực với người hôn-phối của mình.
Ai cũng vậy cả! Chạy đâu cho thoát!
Nhưng nếu suy nghĩ cho tận cùng, thì còn đôi bạn cũng vẫn còn thấy mình may mắn và hạnh phúc hơn rất nhiều, phải không các lão ông lão bà?
Cái gì cũng cần phải có sự chuẩn bị hết
Theo ý riêng của tác giả, thì cần phải chuẩn bị tư tưởng trước khi nghỉ hưu:
+ cái gì cũng phải có ngày chấm dứt, để bước sang một giai đoạn khác trong cuộc đời;
+ phải ý thức là mình già rồi, cần phải nghỉ ngơi để đi đây đi đó khi còn đầy đủ sức khỏe;
+ bệnh hoạn có thể đến với mình bất cứ lúc nào;
+ nghỉ hưu để vui sống với chồng, với vợ mình mà hình như từ mấy chục năm nay mình không có thể sống cho nhau một cách trọn vẹn được vì sự ràng buộc về sinh kế, về con cái, vân vân;
+ nghỉ hưu để có thể có nhiều thời gian hơn bên cạnh các cháu nội ngoại và để nhìn thấy chúng lớn lên;
+ nghỉ hưu để có thể mỗi sáng tĩnh lặng, bên cạnh tách cà phê nóng, cùng nhau thảnh thơi nghe tiếng chim hót líu lo sau nhà hay cùng ngắm bình minh ló dạng hay nhìn những giọt sương đêm còn lấp lánh đọng trên các tàn cây ngoài mái hiên nhà, hoặc cùng thưởng thức mặt trời toả đủ màu sắc trước khi lặn vào mỗi chiều hoàng hôn, vân vân và vân vân;
+ muốn cho sự nghỉ hưu được tốt đẹp, không nhiều sóng gió thì chúng ta cần phải tạo cho mình một lịch trình sinh hoạt đều đặn, để nó trở thành một nếp quen thuộc (routine) trong cuộc sống và mình phải tuân hành theo bằng mọi giá;
+ đừng bao giờ để bị rơi vào tình trạng quá rảnh rỗi vì sẽ dễ bị đưa đến sự buồn chán;
+ cuối cùng là phải tạo cho mình có một thời khóa biểu…bận rộn (busy).
Mỗi người mỗi cách mỗi kiểu!
Kết luận
Nghỉ hưu lúc mình còn sức khoẻ để đi đây đi đó chớ chần chờ đến lúc ngồi xe lăn hay hui nhị tì thì có hối tiếc cũng không còn kịp.
Nghỉ hưu khi con cái đã trưởng thành, nhà chỉ còn có đôi ta mặc sức mà lớn tiếng…cãi qua cãi lại mà không cần phải đóng cửa vì sợ con cái buồn phiền.
Nghỉ hưu, một giai đoạn mới trong cuộc đời bắt đầu với không đồng hồ, không ngày, không tháng, không stress, muốn ngủ lúc nào, muốn thức lúc nào, ăn lúc nào, ăn ở đâu, ăn cái gì, ăn làm sao…thì cho dù ngoài kia có mưa to gió lớn bảo bùng hay tuyết rơi trắng xoá mịt mù cũng chẳng làm cho ta lo lắng nao lòng.
Nghỉ hưu, đối với tôi, là một sự khám phá ra cái đẹp. Từ trước đến nay, tôi chưa từng bao giờ có thời giờ để nhận thấy hết những nét đẹp của các cháu tôi, của vợ tôi cũng như của cây cỏ ngoài ngõ. Và, lẫn cả cái đẹp của thời gian nữa.
“Retirement has been a discovery of beauty for me. I never had the time before to notice the beauty of my grand kids, my wife, the tree outside my very own front door. And, the beauty of time itself.” Harman Jule.
Ôi, tự do ơi, một lần nữa, ta xin chào mi bằng hai tay và cả…hai chân!
Đồng vợ đồng chồng, tát bể…Hưu cũng cạn!
Nguyễn Thượng Chánh ( Bac si THU Y )
& Nguyễn Ngọc Lan (Duoc Si)
Montreal
Bàn Chân Năm Ngón
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Một người thanh niên tên là Tony Melendez bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người kể từ khi Ðức Gioan Phaolô II (nay là thánh G.P.II) đến viếng thăm tiểu bang California, Hoa Kỳ dạo mùa hè năm 1987.
Nhiều người đã chứng kiến buổi lễ tiếp đón Ðức Thánh Cha hôm đó và khó quên hình ảnh vô cùng cảm động khi vị Giáo Hoàng bước xuống từ một lễ đài cao để ôm hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn Guitar của mình. Ðiều gì đã làm cho khung cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy đã trở nên luyến nhớ cho nhiều người?
Tony là hiện thân của niềm Hy Vọng. Tony đã chào đời không có hai cánh taỵ Nhưng Tony đã vận dụng những ngón chân của mình để học đàn guitar. Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác như xếp quần áo, vắt một ly nước chanh.
Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục.
Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh: “Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận chính mình để sống bình thường mà còn sử dụng guitar một cách tuyệt diệu như thế ?”.
Anh đã trả lời như sau: “Tôi đã cầu nguyện : Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúạ Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhậm lời tôi”.
· Không ai trong chúng ta chọn lựa được sinh ra hay không sinh ra.
· Không ai trong chúng ta chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà.
· Không ai trong chúng ta chọn lựa được làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, khỏe mạnh hay bệnh tật, giàu sang hay nghèo hèn …
Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với cả một định mệnh. Người ta vẫn nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người kém may mắn.
Nhưng trong ánh mắt Tình Yêu của Thiên Chúa, thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả.
Trong chương trình Quan Phòng của Ngài, mỗi người, dù nhỏ bé hèn mọn, dù tàn tật bất hạnh đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng. Do những bất trắc của thiên nhiên, hay do hậu quả của tội lỗi, nhiều người phải sinh ra với tất cả một gánh nặng của bất hạnh. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc vì những hư hỏng ấy, Ngài luôn có một chương trình cho mỗi người.
Lắm khi chúng ta thấy được những kỳ diệu của Thiên Chúa được thể hiện qua những bất hạnh, mất mát của con người.
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
httpv://www.youtube.com/watch?v=zlZPYGBXQ44
Sống tiền Pháp, chữa thuốc Tây, Đi xế Nhựt, ăn cơm Tàu, thờ Việt Cộng –
Tác Giả: TS. Phan Văn Song

Bài viết của ký giả Xuân Mai trên báo áp phê số 4 tại Paris như sau:
« Ông Nguyễn Văn Tuyền, 59 tuổi đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như sau: “Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù không có ngày ra. Vì lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp, vui lòng chấp thuận cho tôi được tỵ nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về quê cũ khi nào quê hương tôi không còn chế độ độc tài Cộng Sản.”
Nhưng ông Tuyền đã phản bội tư cách tỵ nạn của ông đến 7 lần từ năm 1995 đến năm 2000. (Theo tài liệu của OFPRA = Office Francais de Protection des Réfugiés et Apatride – Cơ quan Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc)
Ngày 27-6-2000, ông Tuyền và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ tỵ nạn, với lý do trở về quê cũ khi còn chế độ độc tài Cộng Sản. “Chiếu theo điều 1, khoản 2A của Hiệp Định Genève ngày 28-7-1951, chúng tôi thu hồi thẻ tỵ nạn. Đồng thời cũng trình lên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA không còn chịu trách nhiệm với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xã hội theo diện người tỵ nạn chính trị”.
Được biết, từ năm 1988 đến năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tỵ nạn và quyền lợi, với con số là 22,417. Bài viết ghi như sau: “Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Võ Văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh Ngọc Thái đến Nguyễn Chiến Thắng đã coi người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông. Đó là, dễ giãi trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ bị OFPRA cắt quyền tỵ nạn và trợ cấp xã hội.
Sau khi cấp chiếu khán, tòa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội vụ Pháp biết tên họ của những người vi phạm luật tỵ nạn.Một khi mất thẻ tỵ nạn, thì mất luôn thẻ thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm.Trường hợp đó, muốn sống ở Pháp trên 3 năm, thì phải có Passport của chính phủ CSVN, để trở thành công dân Việt Cộng cho đến mãn kiếp. »
Và Nhà báo kết luận :
«Cái thâm độc của VC là như thế! ».
Chúng tôi xin phép quý độc giả trích nguyên văn bài viết của báo Ép-Phê Paris là tờ báo việt ngữ duy nhứt được phát không ở các thương hiệu và chợ Á đông ở Paris và nhở vậy được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt tại Paris và vùng lân cận. Dĩ nhiên với điện thoại, người Việt tỵ nạn phe ta sẽ thông báo cho bà con toàn xứ Pháp biết. Nhưng theo điều tra và hiểu biết của chúng tôi thì cho đến ngày hôm nay bản tin giựt gân nầy của báo Ép-phế hổng có Ép-phê tí nào. Người Việt tỵ nạn vẫn về Việt Nam đều đều, vì từ năm 2000 trở về nay, phe ta vào quốc tịch Pháp đông hơn.
Quy chế tỵ nạn chánh trị ở Pháp
Nhắc sơ đến quý độc giả hải ngoại rằng từ ngày 30 tháng tư 1975 trở đi. Người Việt Nam đến ở Pháp có thể xin phép ở lại thường trú với quy chế là người tỵ nạn chánh trị. Quy chế tỵ nạn chánh trị được chứng minh bằng tư cách vượt biên trốn chạy ra khỏi biên giới nước Việt Nam của mình, …vượt biên bằng đường bộ, đường biển, vượt biển được tàu buôn vớt, hay vượt biên đến một trại tỵ nạn…Nhưng khi đến nước Pháp, nghĩa là khi được nước Pháp nhận rước vào, việc đầu tiên là làm đơn xin tỵ nạn, kể lể thống thiết nỗi khổ khi phải sống dưới chế độ Cộng sản và tuyên thệ không trở về quê cũ, nói rằng (hù dọa rằng) khi mình trở về nước mình, thì sẽ lãnh cái búa của Việt Cộng. Và cơ quan bảo vệ người tỵ nạn, ( tức là OFFRA – Office Français des Réfugiés et des Apatrides) sau khi mình tuyên thệ và ký tên hứa hổng về Việt Nam nữa, sẽ cấp cho cái thẻ tỵ nạn, gọi là thẻ OFFRA. Với cái thẻ nầy, người mang thẻ được chứng minh là người réfugié, tức là người tỵ nạn, và từ nay réfugié cũng là người apatride luôn, nghĩa là mình mất luôn cái quyền có một đất nước, có một tổ quốc, mình hết còn là người Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa nữa ( mà mình đã trốn chạy thục mạng thì cũng đâu cần có quốc tịch ấy làm gì ! Mình chỉ còn giữ cái (chủng) tộc Việt, cái Văn hóa, cái tập tục của người Dziệt mình đó thôi ! Từ nay mình nhận nhau, gọi nhau là người mình.

Từ ngữ tây Apatride là vô tổ quốc. Từ ngữ họp bởi tiếp ngữ đầu a = không, phi, hổng có, mậu, (thí dụ apolitique = phi chánh trị). patrie = tổ quốc. a-patride = mậu tổ quốc, phi tổ quốc, hổng có tổ quốc. Từ nay, khi đã vượt biên rồi, người gốc gác miền Nam Việt Nam ta, vì mất cái thẻ căn cước Việt Nam Cộng hòa ( mà dù có, cũng không ai nhìn nhận, vì Việt Nam Cộng hòa đã chết sau ngày 30 tháng tư năm 1975 rồi) và cũng chẳng có, hay chưa có cái chứng mình nhơn dân Việt Cộng nên khi đến Pháp. Sau vài ngày ói mữa, thoát chết, khát nước, bị hải tặc, lêng đêng sóng nước lưng trời, giữa biển cả hãi hùng …, sau một cuộc sống vài tháng, chen chúc nóng nực, chen lấn chầu chực phờ người…. ở một Pilau nào đó ở Mãlai, hay một trại kiểu Songkla ở Thái lan, hay trại gì gì đó… hoặc được tàu Đảo Ánh sáng rước, hoặc theo quy chế đoàn tụ gia đình kiểu tây giấy, tây thiệt, tây giả, tây dỏm … gì cũng được, nhưng khi làm thủ tục với Offra, lãnh giấy réfugié đều mất quy chế công dân Việt Nam và thành người apatride hết trọi.
Mà apatride ngon lắm, apatride và réfugié, là được giấy tạm trú nè (Carte de séjour temporaire), với giấy tạm trú nhận được giấy đi làm (Carte du travail). Có carte du travail, cũng như có thẻ xanh bên Mỹ, là có quyền tự kiếm ăn sanh sống, tự lập, tự chủ đời sống mình rồi !. Đi làm ! có quyền đi làm ! mà bên Tây nầy, có quyền đi làm là có trợ cấp Bảo hiểm Xã hôi (Sécurité Sociale), do ông chủ đóng tiền, do mình đóng tiền, (chút chút thôi),… do Nhà nước Chánh phủ Tây tổ chức : đi Bác sĩ gần như miễn phí ( 75 % chí phí được hoàn lại), nằm Nhà thương cũng gần như miễn phí (75 %), sản phụ sanh con, thì chắc chắc free rồi (100%), còn thuê nhà không trả nỗi thì có trợ cấp nhà, APL (Allocation Pour le Logement = một loại tiền housing kiểu Mỹ). Chưa kể một lô trợ cấp khác : trợ cấp con nhiều con ít, trợ cấp mẹ đơn chiếc không chồng mà phải nuôi con, đẻ con cho con bú thì trợ cấp cho con bú – allocation d’allaitement, không có sữa, hay sợ xệ vú không cho con bú mà phải đi mua sữa bò hay sữa bột (hiệu Guigoz chẳng hạn) thì có trợ cấp mua sữa. ..Nói tóm lại khi đã có giấy tỵ nạn tạm trú rồi thì cũng như dân tây local địa phương đẻ ở đây dzậy! Họ hưởng cái gì mình hưỏng cái đó. Có thẻ đi làm, có nghĩa là không phải bắt buộc phải đi làm. Tiếng Tây ba xí ba tú, chưa thông ? Tây cho đi học, thế là kể như đi làm, trợ cấp dzô đầy mâm. Hổng biết nghề vì hồi bên Việt Nam, chuyên ra Chợ cũ chạp áp-phe, bây giờ phải đi học nghề, Tây cho đi học. Mà đi học, thì kể như đi làm. Réfugié mới đến có quy chế đi học nghề, đi tìm nghề, chưa làm việc ngày nào cũng lãnh tiền đi học, ngang bằng tiền thất nghiệp. Dân Tấy nó làm thụt con mắt, điếc con ráy, mới được lãnh thất nghiệp, đây mình chưn ướt chưn ráo, ba xí ba tú, có tiền đi học tiếng Tây, học nghề học nghiệp vẫn lãnh tiền khỏe re ! Còn muốn đi du lịch, no problem, có cái giấy Thông hành – Titre de Voyage. Thẻ Du lịch, nghĩa Thẻ đi chơi ( Vì quyền du lịch đi lại là một Nhơn quyền). Quốc gia nào cần visa thì ta mua visa, quốc gia nào tư do đi lại như các quốc láng giềng Pháp ở Tây Âu là cứ đi thả giàn : Ý, Đức, Hòa Lan, Bỉ, Toà Thánh Roma, Đức mẹ Lộ Đức, Fatima, hành hương, du lịch chụp hình tự do…
Chỉ có một cái cấm: dù sao mình cũng là người tỵ nạn mà, là cấm đi du lịch ở các quốc gia gần Việt Nam, nơi mình bỏ xứ ra đi vì « nạn Cộng sản » Lào, Miên và Thái và dỉ nhiên là không đi về Việt Nam, vì mình đã khai là «hổng dìa khi còn bóng dáng Cộng sản là kẻ đã hành hạ mình » để nhận cái căn cước người vô tổ quốc và tỵ nạn.
Nói tóm lại, apatride , réfugié, tỵ nạn có tất cả quyền lợi như người bản địa, trừ một điểm là không phải công dân Pháp, không có quyền ứng cử, bầu cử thôi ! Nhưng thật sự phe ta cũng lè phè, sống theo Tây, bắt chước Tây thích ăn bánh mì Tây, nhưng thích ăn cái cùi (hay bánh mì thịt), thích ra la cà các tiệm cà-phê Tây nhưng để đánh lô tô và cá ngựa. Phần còn lại đời sống xã hội Tây, mặc kệ nó.

(Tây cũng có trò chơi tên là Kéno – người viết biết tên nhưng hổng biết chơi ra sao – ai biết viết lên báo chỉ dùm. Cá nhơn người viết có một cái ngu rất lớn là hổng biết luật lệ cờ bạc gì cả : hổng biết cờ tướng vì khó quá toàn chữ Tàu đã đành, hổng biết cờ échec của Tây, hổng biết cờ dame đánh sao ăn thua sao Tứ sắc không biết, xập xám cũng không, belote cũng chịu, bridge cũng “no-way”, biết đánh croix-zéro, làm chữ thập với vòng tròn chơi lúc thuở học trò thôi. Bạn dắt đi viếng Casino, ở Úc, ở Monaco, ở Las Vegas nhìn vào như nhìn trận đồ bát quái chẳng hiểu gì cả. Poker, phé nghe dzậy OK, nhưng cũng không hiều ra sao. Chắc bữa nào phải tìm một anh bạn chỉ giáo vài chiêu để nói chuyện với đời. Quê quá !)
Việt Kiều
Báo Ép phê khi đang cái tựa dùng từ « Việt kiều Pháp » là sai. Người tỵ nạn ở Pháp gốc Việt Nam không phải là Việt kiều. Vì đã là tỵ nạn là chúng ta đã là apatride rồi, chúng ta không có quốc tịch Việt Nam nữa. Chúng ta là người Việt, chứ chúng ta không phải là công dân Việt Nam, nghĩa là chúng ta không phải là người của nước Việt Nam.
Từ ngữ Việt kiều (les resortissants vietnamiens) nên dùng để gọi những người quốc tịch của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, với Thông hành Việt Nam (từ Việt cộng gọi là Hộ chiếu). Việt kiều là người quốc tịch Việt cư ngụ tại Pháp và như vậy có giấy tạm trú của Pháp. Nhưng muốn được tạm trú, phải có giấy chứng nhận của Lãnh sự quán Việt Nam, chứng nhận họ là công dân Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, thông hành Việt Nam, phải hoặc là sanh viên ( có ghi danh ở đại học đóng tiền hoặc có học bổng) hoặc làm việc ở một cơ quan Việt Nam thuộc ngoại giao đoàn, hay có hợp đồng làm việc với một công ty địa phương (Pháp) hay ngoại quốc nhưng có địa chỉ tại địa phương (Pháp) và như vậy được cấp thẻ làm việc của Pháp, và đóng thuế lợi tức cho nước mình cư ngụ và làm việc làm nước Pháp. . Người có quốc tịch Việt Nam đi du lịch ba tháng qua Pháp, cũng không được gọi là Việt kiều, nên gọi là người Việt đi du lịch thôi. (les touristes vietnamiens).
3. Thẻ tạm trú, thể đi làm, thông hành
Thẻ tạm trú (carte de séjour temporaire) hạn định một năm, gia hạn ba lần, sau ba lần được thẻ thường trú hạn định ba năm (carte de résident), sau hai lần có thể xin carte de résident permanente – thẻ cư ngụ vĩnh viễn, thẻ này 10 năm xin lại một lần. Có thẻ nầy rồi, với quy chế nầy rồi, khỏi phải vô dân Tây làm gì cho mệt ! Nếu không phải Việt kiều, vì Việt kiều có thông hành (hộ chiếu Việt Cộng) đi về Việt Nam, dân tỵ nạn có một cái nhức đầu là làm sao dìa Việt Nam chơi đây bây ? Lỡ đưa tay thề với thằng Tây là đến Tết Congo, còn thằng Việt Cộng là ta hổng dìa. Nhưng nhớ đồng nhớ ruộng, nhớ mắm con ba khía, nhớ con cá nướng trui, nhớ làng nhớ xóm…làm sao đây bây?
Dễ lắm : dễ ợt. Tòa Đại sứ Việt Nam Công sản ở Paris bèn tổ chức rất điệu nghệ. Mặc dù hồi đó, tụi bây bỏ tao ra đi theo tiếng gọi tư bản nhưng ngày nay tao cũng ráng thương tụi bây vì tình nghĩa khúc ruột ngàn dặm tha hương. Dễ lắm, tụi bây ráng dzô Hội Việt Kiều Đoàn kết (cựu Liên Hiệp Việt Kiều, cựu Việt Kiều Yêu nước Chống Mỹ Ngụy Cứu nước ). Vô Hôi Đoàn kết xong, vì Hôi có Travel Agency – Agence de Voyage của Hôi, Hội sẽ bán giấy đi du lịch Mã lai. Đến Mã lai, Toà Đại sứ CHXHCN Việt Nam sẽ cầp cho một cái giấy rời xuất cảng nhập cảng Mã lai/ Việt Nam/ Mã lai Aller Retour, Khứ hồi Round trip, giá phải chăng. Về Việt Nam incognito, chẳng ai biết, khi về Pháp cũng chẳng thằng Tây nào biết, mình đi du lịch Mã lai mà, báo hại mấy năm đó sao mà thông kê Mã lai thấy sao nhiều khách du lịch ở Pháp tới đông quá vậy ? nhưng sao các khách sạn hổng có khách phương Tây vãng lai ? Thế là dân tỵ nạn phe ta quên hết tất cả lời thề Kinh kha, « một ra đi không bao giờ trở lại », thiên hạ ùn ùn rủ nhau về Việt Nam. Người Việt tây giấy về đã đành, người tỵ nạn càng về đông hơn. Thoạt đầu còn mắc cở với đám bạn bè chống cộng, lén lén lút lút về …chơi tí, thăm má, thăm tía nay đã già . riết rồi cũng chả thành mắc cở gì nữa, bây giờ tranh nhau xem thằng nào về nhiều hơn thằng nào. Riết rồi, nếu lở tía má có mất, thì về xây mồ, sửa mả. Riết rồi … kẹt quá …ở lại hổng xong với bà xã, bỏ về thì nhớ …con nhỏ vừa mới quen. Rồi bắt đầu trong cộng đồng có những chuyện nho nhỏ « wánh ghen wánh tương » … ! Vài gia đình thôi, hổng bao nhiêu, một thiểu số mà !. Thiệt tình ! quý vị nghĩ coi, đi tù Cộng sản, học tập cải tạo tù đày gia đình không bể, ngon lành ; đi kinh tế mới cũng hổng bể, vượt biên cũng ngon lành hổng bể, qua Tây làm cu-li cực như con chó cũng hổng… Nay mới về Việt nam chợi có một hai chiến gì đó, thằng chả gặp con nhỏ, cà chớn, thế là gia đình bể.
Và một buổi đẹp trời ,Việt cộng nó chơi cú xí mứn ! Nó đưa cách danh sách những người tỵ nạn Việt Nam đi lậu về Việt Nam. Ô thôi bỏ mạng sa trường, thằng hành chánh Tây nó thật thà, thôi kệ tụi tỵ nạn, nó nhớ nhà, nostalgie… mà ! Nhưng Cơ quan Offra, nó đâu có chịu vậy, các anh đã hứa mà, … « Có Việt Cộng là tui hổng dìa ». Nhưng nay cac anh dìa. Mất mặt bầu cua, Offra cúp, không cấp thẻ tỵ nạn nữa !. Thế là mất cả, chì chài, ghe thuyền…mất quy chế tỵ nạn là hết đi làm, hết tạm trú, thường trú… Chỉ còn một cách hoặc về Việt Nam, hoặc vô quốc tịch Việt Nam (Cộng sản). Làm Công dân Công sản Việt Nam tại quốc nội hay làm Việt kiều tại Pháp. To be or not to be .. that is the question!
Chúng tôi đã nghe câu chuyện Việt Cộng chơi cú xí mứn nầy một lần vào năm 1988 rồi. Danh sách lúc ấy vào khoảng đô chưa đến 2000 người ? Nhưng lúc bấy giờ, Offra chơi đẹp, lờ đi và nói rằng từ nay, nếu có những chuyện cần thiết, tang ma, hôn lễ gì gì đó thì được phép về, nhưng phải xin phép và phải chứng minh đàng hoàng. Nhưng phe ta ngon lắm ! chả nhẽ đi sợ thằng Tây. Vả lại Việt Cộng cần tiền mình mà, cần mình về du lịch, chơi đâu cũng dzậy, chơi đây cho em nhờ. Mình hằng năm về ào ào, nó đâu có dại gì mà nó giết con gà đẻ trứng vàng. Nhưng than ôi, cũng tại vì tin cái thằng Bàng Quyên mà ngày hôm nay Tôn Tẩn què giò. Và Việt công chơi luôn một cú thứ hai, rồi cú thứ ba …và từ năm 1988 đến năm 2000, chơi tới luôn bác Tài: trên 22 ngàn tên tỵ nạn bị rút thẻ tỵ nạn.
Và kết quả của ngày nay, Việt kiều càng ngày càng đông vì vô dân Việt Công để ở lại làm ăn ở Pháp ( bắt buộc, vì kẹt giỏ, Có thề ở lại như thường trú nhờ có việc làm, với quy chế immigrant/di cư nhưng vẫn apatride). Và cũng nhờ vậy, người tỵ nạn gốc Việt cũng dzô dân Pháp ào ào cho nó phẻ. Bây giờ mỏa français rồi, mỏa dìa Dziệt Nam vã cẳng (vacances), mỏa hổng sợ chết thằng Tây nào cả. Ngày nay không biết mấy ai còn thẻ tỵ nạn Offra nữa không ? và chuyện dài carte de séjour temporaire chắc cũng chẳng mấy ai kể lể nữa.
4. Người Việt tỵ nạn / Việt Kiều
Nếu ai cắt cớ hỏi, ở Pháp có bao nhiêu người Việt Nam, chúng tôi đành chịu thua, không làm sao biết được, thứ nhứt là vì chánh sách Pháp đối với người ngoại quốc nhập tịch không có thống kê theo cộng đồng. Khi một người ngoại quốc đã nhập Pháp tịch, người ấy vào thống kê người Pháp và phía người ngoại quốc giảm đi một đơn vị. Vì không có thống kê kiểu cộng đồng nên không thể biết cộng đồng Việt Nam bao nhiêu người, còn muốn biết thành phần cộng đồng người Việt Quốc gia tỵ nạn Cộng sản sau năm 1975 trở đi thì càng khó nữa vì rất nhiều người vào Pháp tịch, thêm hồi tịch nữa ( những thành phần sanh ở Nam kỳ trước 1954). Chỉ biết chung chung người gốc Việt Nam chúng ta khá đông, ở nhiều xung quanh các thành phố lớn như Paris và vủng phụ cận, gọi chung là Île de France – tên đặc biệt của vùng phụ cận Paris, đừng dịch, đừng tìm hiểu. Île de France là Île de France, hổng phải Đảo Tây Đảo France gì cả. nó gồm Paris (tỉnh Seine số 75) rồi các tỉnh phụ cận, 77,78, 92,93,95, chúng tôi có dịp sẽ nói đến – Người Việt cũng có mặt ở Marseille rất sớm, hồi thời đệ nhứt thế chiến lận, Montpellier, Toulouse, Bordeaux, Lyon… Người Việt hội nhập rất tốt với dân bản xứ. Các thế hệ 2,3 có mặt đầy ở tất cả các nghề nghiệp. Nhưng rất ít người gốc Việt tham gia vào các đoàn thể chánh trị. Vì pour vivre heureux, vivons cachés( Muốn sống hạnh phúc ta nên sống kín đáo). Trái với cộng đồng người Việt ở Mỹ, người Việt ở Pháp sống rất kín đáo.
Nhưng người tỵ nạn Cộng sản ? nhưng tại sao có cái tin của báo Ép phê?
Người Việt tỵ nạn Cộng sản với các tin giựt gân của tờ báo Ép phê cho biết là một sự thật. Người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Pháp phần đông không phải tỵ nạn chánh trị, họ chỉ là những người tỵ nạn kinh tế. Vì vậy khi làm ăn thoải mái ở Pháp rồi thì phải về khoe của với bà con bên nhà. Quyền lợi công dân bên Pháp rất bảo đảm. Người Việt Nam quen tằn tiện, 150 grammes thịt bò xào củ hành cả nhà ăn với cơm và nước mắm. Tây mỗi người một miếng bít tết 250 grammes, đủ so sánh rồi. dành dụm tậu nhà tậu cửa. Gia đình con cái lớn vẫn còn ở với cha mẹ. Con cái Tây 18 tuổi là nói đi ra khỏi nhà rồi.
Thiệt tình, theo kinh tế mà nói, thì người Việt phe ta hổng đem lợi nhuận gì cho Tây cả, ăn thì đi chợ Tàu ( nói chợ Việt nam cho đở tủi thân chứ thật sự hàng hóa Tàu nhiều hơn). Người Việt Nam mình ít tiêu thụ, hàng ăn uống thì á đông, sách báo thì cũng á đông, vừa xin, vừa photocopie, tranh ảnh trên tường trang trí thì lịch tàu lịch tây xin về, treo lẫn với hình chụp đi du lịch. Ít thấy nhà một người Việt nam nào có các tranh thật các họa sĩ, có chăng cũng copies căt từ báo. Đi làm, ăn tiền ông chủ Pháp, ăn tiền chánh phủ Phủ, bệnh hoạn có bảo hiểm xã hội Tây lo, đi Bác sĩ miễn phí, uống thuốc pharmacie Tây miễn phí, (lâu lâu cũng gặp người ghiền cạo gió bằng dầu cù là con cọp phải gời mua tận Mã lai hay Singapore, nhưng đó là trường
hợp rấy hiếm hoi, hi hữu).
Vậy thì sắm xế ? Xế thì có tiền đi xế xịn Mercedès. Xế ít tiền, đi xế Toyota, hay Hyundai, nói tóm lại cũng không mua xe Tây. Vây dư tiền làm gì ? dạ thưa , về chơi Việt Nam. Chơi đâu cũng vậy, chơi đây em nhờ. Giờ đây về Việt Nam, ở Hôtel 5 sao, ở Tây ở Mỹ sức mấy mà vào được những Palace 5 sao ấy. Sức mấy mà có bồi bếp phục vụ. Về Việt Nam có cả. Nào Mủi Né, nào Nha Trang… Người Việt ở Pháp, suốt một năm làm thợ, nghỉ hè, nghỉ Tết, về Việt Nam một tháng làm thầy, thôi cũng đặng !
Chỉ tôi nghiệp cho những người còn tâm huyết ký tên thỉnh nguyện với chánh phủ Mỹ, chánh phủ Úc xin hãy đặt điều kiện Nhơn quyền với chánh phủ Việt Nam. Người Việt tỵ nạn chúng ta có ai đặt điều kiện Nhơn quyền với Hà nôi không ? khi hằng năm gởi về 10 tỷ, khi hằng năm trở về du hý, du lịch ? Mình không thể nhờ người ta đấu tranh Nhơn quyền, cho Dân chủ cho Tự do của dân tộc mình khi mình hổng làm gì hết !
Ít hàng tâm sự cùng quý vị, có đụng chạm phật lòng ai, xin mở lòng tha thứ cho người viết.
Tác Giả: TS. Phan Văn Song
Peter F Drucker : Một con người chính trực
(1909 – 2005)
Bài của : Đoàn Thanh Liêm
Peter Ferdinand Drucker sinh năm 1909, tại thành phố Vienna, thủ đô nước Áo. Ông mới qua đời tại thành phố Claremont, thuộc miền Nam California vào năm 2005, ở tuổi thọ 96. Trong suốt trên 60 năm ông chuyên dậy học tại nhiều trường đại học ở Mỹ, viết rất nhiều sách chuyên về vấn đề quản lý, và đồng thời còn làm cố vấn cho rất nhiều đại công ty kinh doanh tư nhân, cho các cơ quan chánh phủ tại ba quốc gia Mỹ, Nhật và Canada, và đặc biệt ông đã tận tình hỗ trợ cho các tổ chức thiện nguyện bất vụ lợi.
Có thể nói Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng, với sự nghiệp chuyên môn hết sức lớn lao, và nhất là một nhân cách sáng ngời của sự ngay thẳng chính trực.
Bài viết này xin được giới thiệu chi tiết với quý bạn đọc người Việt về con người sĩ phu trí thức rất mực cao quý này của thế kỷ XX.
A – Học tập ở Âu châu, thành danh ở Mỹ châu.
Sinh trưởng trong một gia đình trí thức tên tuổi, với người cha là một vị luật sư và giáo sư đại học, Peter Drucker ngay từ buổi thiếu thời đã được tiếp xúc với những vị thức giả có tên tuổi lớn tại Âu châu, điển hình như Sigmund Freud là người đã khai sinh ra ngành Phân tâm học (Psychanalysis).
Sau khi tốt nghiệp trung học tại quê nhà vào năm 1927, thì Peter qua học về luật tại đại học Frankfurt bên nước Đức. Tại đây, ông đậu văn bằng tiến sĩ về luật quốc tế và công pháp. Ông chịu ảnh hưởng của bậc đại sư, mà cũng là một người bạn của thân phụ ông, đó là giáo sư Joseph Schumpeter về sự quan trọng của tinh thần sáng tạo và tài năng tháo vát trong lãnh vực kinh doanh. Rồi sau này khi rời bỏ nước Đức lúc Hitler lên cầm quyền vào năm 1933, để qua sống tại Anh quốc, thì ông được thụ giáo với cả vị kinh tế gia lừng danh thời trước chiến tranh là John Maynard Keynes.
Ở tuổi đôi mươi ông đã hăng say tham gia viết báo, làm việc trong ngành bảo hiểm, rồi ngành xuất nhập cảng và ngân hàng tại nước Đức và nước Anh.
Vào năm 1937, với tư cách là đặc phái viên cho một nhóm báo chí Anh quốc, ông qua Hoa Kỳ cùng với người vợ mới cưới là Doris Schmitz. Vào tuổi ba mươi, với tài năng chín mùi, Peter Drucker đã có nhiều cơ hội phát huy sở học và kinh nghiệm thâm hậu của mình. Ông được mời giảng dậy tại nhiều trường đại học tại phía miền đông nước Mỹ như trường New York University trong gần 30 năm. Đồng thời, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các tờ báo nổi danh về kinh tế tài chánh như Wall Street Journal, The Economist, Harvard Business Review, và với cả các tờ báo có uy tín hàng đầu như The Saturday Evening Post, The Atlantic Monthly v.v…
Kể từ năm 1945, ông được nhiều đại công ty như General Motors mời làm cố vấn. Tính ra ông đã nhận làm cố vấn cho trên 50 công ty tầm cỡ rất lớn như General Electric, Coca Cola, IBM, Citycorp, Intel… Ông cũng được giới doanh nhân ở Nhật rất tín nhiệm và mời ông vào chức vụ cố vấn cho các vị giám đốc của Toyota Motor Corp., Ito-Yokado Group v.v… nữa. Đó là chưa kể đến việc làm cố vấn miễn phí cho các tổ chức bất vụ lợi như Hội Nữ Hướng đạo Mỹ, Salvation Army, Hội Hồng Thập Tự, tổ chức CARE v.v…
Sau đó vào thập niên 1970, thì ông qua California, tiếp tục việc dậy học và làm cố vấn cho nhiều cơ sở kinh doanh tại phía bờ biển miền tây nước Mỹ. Ông giữ chức vụ Giáo sư về Khoa học Xã hội và Quản trị tại trường Cao học về Quản trị Claremont, mà sau này được đổi tên là “Peter F. Drucker School of Management” để vinh danh ông vào năm 1987. Lớp học cuối cùng ông dậy tại trường này là vào năm 2002, lúc ông đã bước vào tuổi 92.
Về sự nghiệp biên soạn sáng tác, ông đã cho xuất bản 39 cuốn sách, phần lớn bàn về vấn đề quản trị, mà điển hình là cuốn “The Practice of Management” xuất bản năm 1954 và cuốn “Management : Tasks, Responsabilities, Practices” xuất bản năm 1973. Riêng về lãnh vực các tổ chức bất vụ lợi, thì có cuốn viết năm 1990 với nhan đề : “Managing the Non-Profit Organisation : Principles and Practices”. Phần lớn các sách của ông đã được dịch ra trên 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
B – Các giai thọai về nhân vật xuất chúng Peter Drucker.
Ít có nhân vật nào mà lại xông xáo họat động năng nổ tích cực trong cả ba khu vực cấu thành “không gian xã hội” như là Peter Drucker (the social space bao gồm khu vực Nhà nước, khu vực Thị trường kinh tế và khu vực Xã hội dân sự). Ông giúp cho các nhà lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như giám đốc công ty xí nghiệp tư nhân trong việc họach định được một chính sách tối ưu. Mà đặc biệt ông còn hỗ trợ hết mình cho các tổ chức phi chánh phủ, bất vụ lợi thực hiện được những thành tựu tốt đẹp cao nhất trong công cuộc phục vụ nhân quần xã hội.
Những khám phá của ông trong lãnh vực quản lý xí nghiệp đã trở thành một huyền thọai, được truyền tụng trong giới doanh nhân cũng như trong giới hàn lâm đại học. Nhiều người đã gọi ông là nhà tư tưởng táo bạo, một triết gia của xã hội kỹ nghệ đang ở vào giai đọan phát triển cao độ. Lớp học do ông giảng dậy thu hút quá đông sinh viên theo học, đến nỗi nhà trường phải sử dụng cả khu tập thể dục mới có đủ chỗ rộng rãi cho thầy trò sinh họat, trao đổi thảo luận với nhau cho thoải mái được
Một cựu sinh viên kể lại câu chuyện như sau : Dù lớp học đày ắp sinh viên, mà giáo sư Drucker vẫn tìm cách nêu các câu hỏi gợi ra sự tranh luận sôi nổi giữa cử tọa. Có lần ông hỏi cả lớp như thế này đây : “ Các bạn cho tôi biết sự kiện nào nổi bật, gây ảnh hưởng nhất trong thời gian 100 năm gần đây trong xã hội nước Mỹ? Các sinh viên lần lượt kê ra, nào là sự phổ biến điện thọai, điện lực, hai cuộc thế chiến, cuộc khủng hỏang kinh tế …Tất cả các câu trả lời đều bị giáo sư lắc đầu, từ chối. Cuối cùng thì ông cho chúng tôi biết : Đó là việc sản xuất xe hơi hàng lọat (the mass production of automobile), vì nó tạo cho giới nông dân phương tiện để chở vợ con ra thành phố vào cuối tuần – nhờ đó mà họ mới tránh được lọai bệnh tâm thần do sự cô lập quạnh hiu ở nông thôn gây ra… Đây quả thật là một lối suy luận độc đáo, bất ngờ khiến cả lớp chúng tôi cứ nhớ hòai!”
So với các bậc tiền bối, thì quả thật Peter Drucker là thứ “hậu sinh khả úy”, là môn đệ mà đã vượt qua cả bậc sư phụ của mình. Cụ thể như đối với Frederik Taylor (1866 – 1915) là người khai sáng ra môn tổ chức công việc sản xuất theo khoa học nhằm nâng cao năng xuất trong kỹ nghệ, thì Drucker đã bổ túc môn này bằng cách mở rộng sự nghiên cứu trong lãnh vực văn hóa, quan hệ nhân bản, và nhất là viễn tượng tương lai đối với những thách đố và khả năng trong xã hội kỹ nghệ. Và đối với John Maynard Keynes (1883-1946) thì cũng vậy, Drucker đưa thêm vào lý thuyết định lương vĩ mô (macro-economics) của vị đại sư này cái phương pháp nghiên cứu về động thái con người (behavior of people); như vậy là làm tăng thêm khía cạnh nhân bản trong lãnh vực kinh tế vi mô (micro-economics).
Các giám đốc công ty đã không tiếc lời ca ngợi vị đại sư Peter Drucker. Điển hình như Andy S. Grove của công ty Intel Corp., thì đã viết : “Lời khuyến cáo của ông đã ảnh hưởng đến không biết bao nhiêu hành động hàng ngày tại các xí nghiệp. Và riêng đối với tôi, thì cái ảnh hưởng đó đã kéo dài liên tục trong nhiều thập niên”. Tom Peters thì gọi Drucker là người đã sáng lập ra môn khoa học quản lý hiện đại; ông là người đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta thứ dụng cụ để quản lý những tổ chức kinh doanh mỗi ngày càng trở thành phức tạp hiện nay.
C – Con người ngay thẳng chính trực.
Nhưng Peter Drucker còn làm cho bao nhiêu người mến phục bởi sự ngay thẳng chính trực lạ thường của ông. Ngay từ thời còn ở bên nước Đức, lúc mới có 23-24 tuổi, ông đã viết một cuốn sách về nhà triết học Friedrich Julius Stahl, mà đã bị chính quyền Đức quốc xã tịch thu và cho đốt hết đi. Mấy năm sau, thì cuốn sách thứ hai nhan đề “Vấn đề Người Do Thái tại nước Đức” cũng lại chịu chung số phận đó. Đến nỗi mà hiện nay chỉ còn sót lại một cuốn duy nhất trong văn khố nước Áo với dấu hiệu chữ vạn đóng trên bìa sách.
Được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm túc của đạo Tin lành, Peter Drucker đã sống và hành động theo những nguyên tắc chặt chẽ về luân lý và đạo hạnh. Mặc dầu được các đại công ty trả lương rất hậu cho dịch vụ cố vấn của ông, Drucker cũng không ngần ngại phê phán những thiếu sót bất cập của giới doanh nghiệp tại Mỹ. Khi được biết giới đứng đầu doanh nghiệp dành cho mình những bổng lộc quá lớn, lên đến cả trăm lần lương của người công nhân bình thường, ông đã không cầm được sự giận dữ và lên tiếng phê phán gắt gao chuyện này. Ông nói : “Đó là điều không thể tha thứ được, xét về mặt luân lý cũng như về mặt xã hội; và chúng ta sẽ phải một cái giá nặng nề cho tình trạng này.” (This is morally and socially unforgivable, and we will pay a heavy price for it). Ông còn ghi rõ là : “ Thâu nhập của người giám đốc không được gấp quá 20 lần mức lợi tức của người công nhân”.
Thất vọng trước sự sa sút về phương diện giá trị đạo đức của giới doanh nghiệp Mỹ, ông đã phải thốt lên : “Đó là sự thất bại cuối cùng của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp” (the final failure of corporate capitalism).
Và kết cục là ông đã dành hầu hết thời giờ và năng lực vào việc yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi. Đó là lãnh vực xã hội dân sự, mà ông tin tưởng sẽ góp phần quan trọng vào việc phục hồi lại hệ thống giá trị tốt đẹp truyền thống của nước Mỹ. Ông đặc biệt dành sự ưu ái cho mục sư và cũng là một tác giả nổi danh với cuốn sách bestseller “The Purpose-driven Life” Rick Warren của Nhà thờ Saddleback tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam miền Nam California. Vị mục sư này thuật lại rằng : Ông Peter Drucker căn dặn tôi : “Chức năng quản lý trong một nhà thờ là làm cho nhà thờ đó mỗi ngày đích thực là nhà thờ hơn, chứ không phải là một loại tổ chức kinh doanh (to make the church more churchlike, not more businesslike). Như vậy thì nhà thờ mới có thể thực hiện đúng sứ mệnh riêng biệt của mình.”
** Tóm tắt lại, ta có thể ghi nhận rằng Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng của thế kỷ XX. Sự đóng góp chuyên môn trong việc giáo dục đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong ngành quản trị doanh nghiệp, trong sự nghiệp trước tác, cũng như trong việc cố vấn hướng dẫn cho giới lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như xí nghiệp tư nhân, và nhất là trong sự yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi thuộc khu vực Xã hội Dân sự, thì thật là lớn lao vĩ đại ít người nào có thể sánh kịp được.
Mà còn hơn thế nữa, cái nhân cách trong sáng và tính ngay thẳng chính trực của ông mãi mãi là một tấm gương cao quý cho giới sĩ phu trí thức cùng khắp thế giới hiện nay noi theo vậy./
California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010
Đoàn Thanh Liêm