Trung Quốc: mối lo lớn nhất của người Việt

Trung Quốc: mối lo lớn nhất của người Việt

60% những người được hỏi tại Việt Nam cho biết họ ‘hết sức lo ngại’ về tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trong khi 56% số người được khảo sát ở Philippines cũng cho đáp án tương tự.

Trà Mi-VOA

Hầu hết người dân Việt Nam ‘cực kỳ quan ngại’ về Trung Quốc và các tranh chấp chủ quyền với nước này ở Biển Đông, theo khảo sát từ một trung tâm nghiên cứu toàn cầu.

Qua kết quả thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew có trụ sở tại Mỹ công bố hôm 14/7, tại Việt Nam, 60% những người được hỏi cho biết họ ‘hết sức lo ngại’ về tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trong khi 56% số người được khảo sát ở Philippines cũng cho đáp án tương tự.

Cuộc khảo sát được thực hiện từ đầu tháng 4 đến đầu tháng 5 năm nay tại Việt Nam và từ ngày 13/4 đến 28/4 tại Philippines với 1 ngàn người được hỏi ý kiến ở cả hai nước.

Thanh Phong, một người trẻ ở Đà Lạt thường xuyên theo dõi thông tin qua các trang mạng xã hội, nói với VOA Việt ngữ lòng tin của người dân Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp trong xã hội đối với Trung Quốc đã xuống tới mức thấp nhất, nếu không muốn nói là chạm đáy:

“Cứ nói ‘16 chữ vàng-4 tốt’ và ‘môi hở răng lạnh’ nhưng từ xưa tới giờ họ chỉ lăm le xâm chiếm Việt Nam thôi. Từ người trẻ tới người già, ngay cả con nít bây giờ đều ghét Trung Quốc. Nếu cho con nít đồ chơi mà nói là đồ chơi Trung Quốc, nó không lấy. Chỉ cần nghe tới Trung Quốc thôi thì ngay cả em bé cũng đã không thích rồi.”

Anh Phong nói ngoài lòng tin với đất nước Trung Quốc sụt giảm, tình cảm của người Việt Nam đối với dân Trung Quốc cũng rạn nứt tới mức xấu nhất không chỉ vì các chính sách chủ quyền ‘hung hăng’ của nước này, mà còn vì rất nhiều yếu tố ‘mất uy tín’ khác của người láng giềng khổng lồ: từ hàng hóa kém chất lượng đến thực phẩm độc hại, làm ảnh hưởng mọi mặt đến đời sống kinh tế-xã hội của người dân Việt Nam.

“Có cảm giác như là có ác cảm với người Trung Quốc luôn. Những năm gần đây, người Trung Quốc qua Việt Nam làm việc, họ có thái độ rất là kỳ cục. Cho nên, giờ người Việt cũng không thích người Trung Quốc mấy nữa. Hiện nay càng lúc càng đi xuống, xuống tới mức rất thấp. Hồi trước không đến nỗi người ta kỳ thị Trung Quốc, nhưng vài năm gần đây, các vấn đề từ thực phẩm đến nguy cơ bị xâm lược khiến người ta càng lúc càng kỳ thị người Trung Quốc nhiều hơn. Người ta vừa sợ, vừa kỳ thị.”

Vẫn theo kết quả thăm dò của Pew, Hoa Kỳ quốc gia bị xem là cựu thù với Việt Nam thời chiến tranh thập niên 60 và 70, nay dẫn đầu danh sách các nước bạn đáng tin cậy đối với người Việt giữa lúc dân chúng tại 8 trong số 11 nước Châu Á được khảo sát cũng chọn Hoa Kỳ là đối tác quốc tế hạng nhất.

Thanh Phong nói khái niệm xem Mỹ là cựu thù, nếu có, chỉ đối với những người cộng sản mà thôi. Bạn trẻ này cho rằng kết quả khảo sát phản ánh đúng thực tế rằng trong ánh mắt người dân Việt Nam, Mỹ là người bạn đáng gần nhất cho dù quá khứ đã cho người Việt một kinh nghiệm ‘đau đớn’ với Mỹ từ cuộc chiến cách đây 40 năm.

“Đại đa số người Việt, kể cả người cộng sản, muốn đi theo Mỹ. Nếu nói Mỹ là ‘cựu thù’ của Việt Nam thì chỉ là ‘cựu thù’ với giới cộng sản thôi. Theo dõi trên mạng xã hội, em thấy những người thuộc giai cấp thống trị, con ông cháu cha, những người có lợi ích trong chính phủ thì họ ủng hộ Trung Quốc. Họ ủng hộ nhưng chỉ ngoài mặt thôi, chứ trong thâm tâm thì tất cả đều muốn ngã sang Mỹ  và muốn Mỹ hợp tác. Mặc dù hồi xưa miền Nam Việt Nam bại trận cũng là do các nước lớn người ta bắt tay với nhau, nhưng hiện giờ nếu được chọn lựa thì đa số người Việt sẽ ủng hộ Mỹ hơn để cân bằng về chính trị-quân sự vì trong khu vực không có nước nào đối lại Trung Quốc bằng Mỹ. Vì đồng minh của Mỹ hiện rất rộng lớn, trên khắp khu vực luôn, và Mỹ có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới luôn.’

Hoa Kỳ, quốc gia có hiệp ước quân sự với Philippines, đang xây dựng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam về nhiều mặt trong chính sách ‘Xoay trục về Châu Á’ để cân bằng lực lượng trước sự ‘giương oai diễu võ’ của Trung Quốc với các chính sách chủ quyền lấn lướt ở Biển Đông.

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

LM GB Văn Hào

Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi.  Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình.  Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”  Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn.  Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình.  Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.

Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục.  Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể.  Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện.  Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?” Cụ già chất phác và chân chất trả lời  “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả.  Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi.”  Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cõi lòng.  Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.

Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện.  Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện.  Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha.  Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.

Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy.  Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông.  Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập.  Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa.  Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người.  Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ.  Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình.  Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.

Bác học Ampère đã nói: “Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện.” Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa.  Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện.  Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song.  Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế.  Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyên Chúa nói với chúng ta hôm nay “Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.

Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình.  Vị ẩn sĩ đó trả lời “Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối.  Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch.”  Anh thương gia hỏi lại “Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?”  Vị ẩn sĩ nói tiếp: “Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng.”  Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai.  Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa.  Chính Đức Giêsu đã nói “Không có thầy, anh em không làm được gì.”

Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng.  Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế.  Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương.  Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.  Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu.  Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên.  Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác.  Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên.  Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.

Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay.  Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình.  Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn.  Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi.  Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa.  Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.

Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.

Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta.  Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần.”  Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”

LM GB Văn Hào

Trước Thằng Thời Đại

Trước Thằng Thời Đại

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tao vui vì luôn nhìn thấy Đảng loạng choạng lùi, trước thằng … Thời Đại.

Trần Đĩnh

Đảng đang “loạng choạng” ra sao, hay “loạng choạng” cỡ nào –  nói thiệt – tôi không rõ lắm, và cũng không mấy quan tâm. Thân tôi lo chưa xong. (Ngó bộ mình cũng hơi loạng choạng tới nơi rồi). Sức đâu mà vui/buồn, theo kiểu bao đồng, như tác giả Đèn Cù.

Chỉ riêng cái “thằng thời đại thông tin” không (thôi) cũng đủ khiến tôi mệt muốn ứ hơi. Tin tức rồn rập, tràn ngập, và cấp kỳ tràn lan trên mạng khiến tôi phát ngộp nên (thỉnh thoảng) vẫn bỏ sót nhiều chuyện quan trọng, hay thú vị.

Mãi tới chiều qua, tôi mới biết là trên nhật báo Người Việt – phát hành từ California, số ra ngày 13 tháng 2 năm 2014 – có mẩu tin ngăn ngắn sau:

SÀI GÒN (NV) – Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và cũng là tu viện của Dòng Chúa Cứu Thế tại Sài Gòn sẽ tổ chức cầu nguyện cho ông Lê Quốc Quân vào chiều chủ nhật 18 tháng 3-2014.

Theo dự kiến, buổi cầu nguyện cho ông Quân tại Giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp và cũng là tu viện của Dòng Chúa Cứu thế tại Sài Gòn sẽ bao gồm một thánh lễ đồng tế, có thắp nến cầu nguyện cho ông Quân và công lý, hòa bình sớm đến trên quê hương. Trước đó, Giáo xừ Thái Hà và cũng là một tu viện khác của Dòng Chúa cứu thế ở Hà Nội cũng loan báo sẽ tổ chức cầu nguyện cho ông Lê Quốc Quân vào ngày chủ nhật 16 tháng 2…

Sau thông báo vừa kể, Công an Hà Nội tăng cường giám sát khu vực nhà thờ Thái Hà. Tối 11 tháng 2, hai sĩ quan và dân phòng của Công an phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội đã luồn vào tu viện của Dòng Chúa Cứu thế ở Thái Hà bằng cửa sau.

Một số giáo dân lập tức đánh trống, gióng chuông báo động. Hàng trăm giáo dân từ khắp nơi đã đổ về nhà thờ Thái Hà vây chặt hai sĩ quan và dân phòng này. Tới lúc đó, một viên thiếu tá là trưởng nhóm mới loan báo cả nhóm vào Tu viện Thái Hà để kiểm tra tạm trú. Giáo dân phản đối cả cách làm lẫn lối giải thích đó. Theo họ, nếu muốn kiểm tra tạm trú, công an và dân phòng phải dùng cửa trước, phải xin phép tu viện, chứ không thể hành xử tùy tiện như thế…

Giờ chót, hai sĩ quan công an và năm đội viên dân phòng của phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội đã phải xin lỗi các linh mục, tu sĩ và giáo dân Giáo xứ Thái Hà vì xâm nhập tu viện trái phép. Để có thể ra về, viên thiếu tá tên Nguyễn Duy Hưng là Phó Công an phường Quang Trung, thay mặt cả nhóm, nói: “Thưa linh mục và thưa bà con giáo dân, những gì chúng tôi làm không đúng hôm nay chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm”.

Sau khi viên sĩ quan trưởng nhóm xin lỗi vì xâm nhập trái phép, giáo dân Thái Hà đã mở đường cho nhóm này ra về bằng… cổng sau. ”

Hai sĩ quan công an CSVN giắt theo đám “dân phòng” xâm nhập bất hợp pháp vào Nhà thờ Thái Hà bị buộc phải xin lỗi. Ảnh và chú thích: VRNs

Những dòng chữ thượng dẫn khiến tôi chợt nhớ đến lời tường thuật của Mặc Lâm, về một hồi chuông báo động (khác) cách đây gần sáu mươi năm:

Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục giã vang lên chỉ một ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1959. Không phải báo hiệu sự ra đời của Chúa Giê Su, mà tiếng chuông kêu cứu với giáo dân vì Nhà Thờ Lớn đang bị một nhóm người đến phá rối…

Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy nhóm người đến phá nhà thờ do chủ trương quá khích của một nhóm người và kết quả là linh mục Trịnh Văn Căn, linh mục Nguyễn Văn Vinh cùng một số giáo dân bị quy tội phá rối trị an. Linh mục Căn chịu 12 tháng tù treo, linh mục Nguyễn Văn Vinh chịu 18 tháng tù giam vì tội “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”

Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết sau đó, trong trại giam Cổng Trời.

Ngài sống, và chết, ra sao, sau mười hai năm (chứ không phải 18 tháng) bị giam ở trại Cổng Trời?

Tuân Nguyễn, một người bạn đồng tù với  linh mục Nguyễn Văn Vinh, đã kể lại như sau:

“Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị.

Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi.

Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương. Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.

Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen…

Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế, người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Ðó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi ” thằng khùng ” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm.

Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

–  Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rầm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.  Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật…

Cha Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971). Ảnh: RFA

Chữ NHẪN viết bằng than có lẽ chỉ in đậm trên lòng bàn tay của Tuân Nguyễn khoảng vài tiếng đồng hồ nhưng nó sẽ lưu mãi với thời gian. Và thời gian thì luôn chậm rãi, từ tốn hoàn thiện công việc của nó –  với tất cả sự  “nhẫn nhục”  cần thiết– như đã ghi trên:

Giờ chót, hai sĩ quan công an và năm đội viên dân phòng của phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội đã phải xin lỗi các linh mục, tu sĩ và giáo dân Giáo xứ Thái Hà vì xâm nhập tu viện trái phép. Để có thể ra về, viên thiếu tá tên Nguyễn Duy Hưng là Phó Công an phường Quang Trung, thay mặt cả nhóm, nói: “Thưa linh mục và thưa bà con giáo dân, những gì chúng tôi làm không đúng hôm nay chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm”.

Sau khi viên sĩ quan trưởng nhóm xin lỗi vì xâm nhập trái phép, giáo dân Thái Hà đã mở đường cho nhóm này ra về bằng… cổng sau. (G.Đ)”

Tôi thực qúi mến thái độ phục thiện của viên sĩ quan công an trưởng nhóm, và cách ứng xử đúng đắn của những giáo dân ở Thái Hà, vào đêm 11 tháng 2 năm 2014. Tôi cũng thành thực tin rằng không riêng gì nhóm giáo dân nhỏ bé này mà nhiều người Việt cũng sẽ rộng lượng để chấp nhận lời xin lỗi của những người cộng sản Việt Nam, nếu họ chân thành. Tôi còn hy vọng rằng dân tộc chúng ta đủ bao dung để (có thể) cho phép họ rút lui bằng “cổng trước,” qua một cuộc trưng câu dân ý đàng hoàng.

Đã bị thời thế đẩy lùi, đến độ phải “chập choạng lùi mà vẫn còn có đường để lùi là một trường hợp may mắn hiếm hoi. Lịch sử nhân loại đã để lại vô số những tấm gương (thê thảm) của những kẻ không biết, hay không kịp, lùi đúng lúc.

Dân chủ? Vẫn là mơ thôi?

Dân chủ? Vẫn là mơ thôi?

Cao Huy Thuần

Bác Cao Huy Thuần đã có một bài viết cực đỉnh, đỉnh về sự uyên bác, sự từng trải, lịch lãm ở đời. Không sống ở nước ngoài, không có cặp mắt nhìn thấu “bốn cõi” và không có khát vọng dân chủ thì không thể viết được như vậy. Lại nữa, văn bác rất hoạt, bác nói những điều khó nói, khó diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ dân chủ: giản dị, minh bạch, ai cũng hiểu.
Tuy nhiên, đọc bác chỉ thấy buồn và thất vọng cho câu chuyện dân chủ nhiều tập cho đến nay vẫn chưa rõ ràng gì cả và không hẳn là sẽ có một cái kết có hậu như nhiều người vẫn tưởng. Đó là chuyện của thế giới, còn chuyện nước mình, càng đáng buồn và đáng thất vọng hơn. Vừa qua bác Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố ở Mỹ rằng hiện tại nhân dân Việt Nam đang được sống trong một thời kỳ dân chủ nhất từ trước đến nay. Hẳn ý bác Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn nói thứ dân chủ mà người dân Việt Nam được hưởng là dân chủ theo kiểu cộng sản (chứ không phải dân chủ là một thứ giá trị phổ quát của nhân loại) chăng? Là dân chủ tập trung chăng?
Dân chủ tập trung là một khái niệm mù mờ chưa ai duy danh định nghĩa chính xác được. Nó cũng khó hiểu và mù mờ như khái niệm làm chủ tập thể.
Người ta nói trong toán học có một bài toán (hình như gọi là fac ma fac mơ gì đó thì phải) tồn tại hàng trăm năm, nếu ai giải được hẳn là nhận giải Nobel. Đảng ta cũng nên mở một cuộc thi định nghĩa “tập trung dân chủ”. Ai định nghĩa hay nhất sẽ nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Hẳn đó là một Giải thưởng Hồ Chí Minh xứng đáng nhất từ trước đến nay.
Người viết những dòng này không dám giấu dốt, xin thưa thật rằng từ hồi sinh viên đến giờ trải qua mấy chục mùa lá vàng rơi rồi mà vẫn chưa hiểu khái niệm dân chủ tập trung là cái chi chi. Tuy nhiên có thể tạm hiểu một cách chung chung rằng dân chủ tập trung là một thứ bảo bối của Đảng ta dùng để cai trị dân ta giống như cái vong kim cô trên đầu Tôn Ngộ Không Đường Tăng dùng để “cai trị” con khỉ này. Không tự do ngôn luận, không tam quyền phân lập, không đa nguyên đa đảng chi hết, chỉ có dân chủ tập trung – gấp vạn lần dân chủ tư sản! Dân chủ tập trung muôn năm! Làm chủ tập thể muôn năm! Chuyên chính vô sản muôn năm!
Không biết nhà bác Cao Huy Thuần giờ này đang ở đâu, mời bác về quê nghiên cứu xem thế nào là dân chủ tập trung để còn dạy dỗ con dân đất Việt, chứ cứ ù ù cạc cạc cả đám thế này mãi thì không biết bao giờ mới lên đỉnh xã hội chủ nghĩa!

Bauxite Việt Nam

Các anh chị thân mến, vấn đề mà tôi đặt ra hôm nay đã cũ rích, cũ mèm, nghe nói đã mòn tai mà chính chúng ta cũng đã nói mòn lưỡi trong bao nhiêu năm Hội Thảo Hè này. Vậy tại sao lần này vẫn đem cái chuyện “dân chủ” cũ mèmấy ra mà nói nữa? Có lẽvì đề tài của Hội Thảo Hè năm nay: “Nhìn lại 40 năm” chăng? Nhìn lại thì phải nói chuyện cũ. Nhưng nhìn lại cũng phải để nói chuyện mới. Vậy thì cái chuyện gì mới phải nói lần này? Trong 40 năm qua, chúng ta vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân chủ. Vậy chuyện mới phải chăng chính là cái bước đầu phải đi? Nhưng đi thế nào? Thế nào để không xa thực tế?

Tôi đề nghị một cách đặt vấn đề mới. Một câu hỏi khác. Bốn mươi năm đã qua, ngay cả tình trạng dân chủ ở các nước Tây phương cũng đã biến chuyển cùng với thời đại toàn cầu hóa. Dân chủ ở đấy không tránh khỏi vài du nhập độc đoán. Ngược lại, các chính thể độc đoán, không nhiều thì ít, bị bắt buộc phải vay mượn vài cơ chế dân chủ. Một mặt, chính dân chủ cũng bất toàn, cho nên khái niệm “dân chủ hóa” cũng mất bớt đi tính chính xác. Một mặt, các chính thể độc đoán có đi vài bước dân chủ thật, nhưng không phải để tiến đến dân chủ mà để củng cố chế độ. Vậy nếu chúng ta cũng đi được vài bước như thế, chúng ta phải nghĩ như thế nào? Rằng: ta đang ở trên quá trình “dân chủ hóa”? Hay rằng: ta đang củng cố độc đoán? Rằng: ta cũng nên tạm bằng lòng? Hay rằng: ta nên thất vọng?

Tôi biết: cách đặt vấn đề và câu hỏi như thế này phát xuất từ một tâm trạng bi quan. Bi quan trước lo ngại khủng hoảng dân chủ ở Tây phương. Bi quan trước triển vọng dân chủ ở các nước độc đoán, triển vọng ấy có thể bị tương lai hứa hão. Bốn mươi năm rồi, chưa đi một bước mà lạc quan thì mới lạ. Nhưng chính phải bi quan như vậy để đừng bắt đầu với những mơ mộng cao xa, tách lìa thực tế.

Tôi bắt đầu với bi quan thứ nhất của tôi: vấn đề “dân chủ hóa” bị lu mờ, trên sân khấu thế giới cũng nhưtrong học thuyết.

1

Khi các nước Á Phi mới độc lập, vấn đề dân chủ hóa đã sôi nổi ngay, trong chính trị quốc tế cũng như giữa các lý thuyết gia. Từ đó cho đến gần đây, học thuyết về dân chủ hóa xoay quanh một câu hỏi: làm thế nào để các chếđộđộc đoán trở thành dân chủ? Câu hỏi đó hàm ý: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích. Trong khoảng một phần tư thế kỷ đầu, lý thuyết ngự trị trên tư tưởng dân chủ hóa mang tên là “phát triển chính trị” (political development). Lấy ý từ lý thuyết phát triển kinh tế, dân chủ hóa cũng phải trải qua nhiều giai đoạn mà giai đoạn đầu là “cất cánh”. Các lý thuyết gia vạch ra nhiều điều kiện tất yếu để cất cánh mà các nước dân chủ Tây phương đã hội đủ trong lịch sử phát triển chính trị của họ. Phát triển kiểu này, chắc chúng ta đành lắc đầu thôi, vì chẳng lẽ chúng ta phải để cả trăm năm để hội đủ điều kiện? Được tán dương hoặc bị chỉ trích, lý thuyết ấy tiếp tục sống dai cho đến khi khối Liên Xô sụp đổ, các nước Đông Âu cháy bỏng nhu cầu dân chủ hóa. Lý thuyết “phát triển chính trị” nhường chỗ cho một cao trào lý thuyết khác, ào ạt như thủy triều, mang tên là lý thuyết “chuyển tiếp“, có tham vọng trở thành cả một khoa học, cả một transitologie. Đồng thời với các nước Đông Âu, khắp nơi trong “thế giới thứ ba”, Á Phi, Trung Đông, nhất là Nam Mỹ, bùng lên nhiệt huyết dân chủ, thủy triều Đông Âu dâng lên thành triều cường của cả thế giới. Không còn tranh cãi gì nữa, vấn đề duy nhất còn lại là làm thế nào để chuyển tiếp. Chuyển tiếp là tất nhiên, giống như “lịch sử chấm dứt” của Fukuyama cũng là tất nhiên.

Nhưng lịch sử đã không chấm dứt như vậy. Nước Nga không chuyển tiếp. Phi châu không chuyển tiếp. Nếu có chuyển tiếp thì chuyển tiếp từ chính thể độc đoán này đến chính thể độc đoán khác. Nước Pháp có đem viện trợ ra để dọa phải dân chủ hóa thì mới viện trợ, chẳng nước nào tin. Chỉ Nam Mỹ là có thay đổi, nhưng chuyển tiếp lại không vững chắc, hoặc quân đội lại lên thay dân sự, hoặc dân sự khác lên thay nhưng dở hơn. Một tiếng thở dài thốt ra trên sách vở của Pháp: désenchantement!1 Vỡ mộng! Các lý thuyết gia của trường phái chuyển tiếp xoay giấy mực qua đề tài mà họ cho là then chốt của quá trình chuyển tiếp: củng cố. Làm sao củng cố thành quả của chuyển tiếp. Nhưng cách nhìn vấn đề của họ vẫn như từ đầu, nghĩa là: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích, và dân chủ đó là dân chủ Tây phương.

Thế nhưng, ngày nay, dưới áp lực của toàn cầu hóa, chính dân chủ Tây phương lại đang trăn trở trên tình trạng khủng hoảng của mình.Một mặt, dân chúng khinh khi giới chính trị, cử tri không thèm đi bỏ phiếu, đảng phái làm mất lòng tin, Quốc hội yếu kém, bất mãn diễn ra ngoài đường, dư luận thờ ơ trước chính sự. Một mặt, việc đối phó với khủng bố, với cực đoan tôn giáo, với làn sóng di tản từ khắp nơi tràn vào, làm các chính quyền Tây phương hụt hơi, giải quyết nạn an ninh và nạn thất nghiệp chưa xong, hơi sức đâu nữa mà lo toan dân chủ hóa cho thiên hạ. Thay vì dân chủ hóa, ngôn ngữ chính trị của Tây phương chuyển qua nhân quyền, mà cũng chỉ nhân quyền ở đầu môi chót lưỡi để hù kẻ yếu. Nước Pháp, quê hương của nhân quyền, thay kép chính trên sân khấu ngoại giao, cổ võ cho “ngoại giao kinh tế” để bán máy bay cho các nước độc tài. Trên sân khấu chính trị cũng như ở trong lòng xã hội Tây phương, các khuynh hướng cực đoan khuynh loát dư luận, ảnh hưởng lên chính trị, len vào Quốc hội, ngự trong các cơ quan dân cử. Dân chủ Tây phương, từ Aristote, đặt nền móng trên tinh thần ôn hòa (modération); ngày nay cực đoan đe dọa đánh cắp gia bảo ấy. Nguy cơ diễn ra trên chính nước Pháp. Ở Bắc Âu, nguy cơ đã thành sự thật. Tại Phần Lan, bầu cử tháng 4 vừa qua, 2015, các bác cực hữu đứng vào hàng thứ hai, bây giờ đã vào chính quyền. Tại Thụy Điển, cũng các bác mỵ dân cực hữu ấy trở thành lực lượng chính đảng thứ ba, chấm dứt mô hình dân chủ xã hội mà thế giới vẫn hằng ca tụng. Tại Đan Mạch, cực hữu đứng đầu trong bầu cử Quốc hội Âu châu năm ngoái 2014, đứng đầu trong bầu cử Quốc hội năm nay, 18-6-2015, đang chơi nước cờ đứng ngoài chính quyền để mặc cả chính sách với giá cao nhất. Tại Na Uy, ôi thôi, các bác ấy cũng đã dõng dạc kéo ghế chính quyền. Có cần phải nói thêm dân chủ nước Mỹ, gương mẫu cho cả thế giới? Có cần phải nhắc lại đạo luật Patriot Act 2001 biểu quyết để chống khủng bố nhưng gây phản cảm lớn trong giới bảo vệ tự do, nhân quyền? Phải chăng cái mầm độc đoán đã thâm nhiễm vào các chính thể dân chủ Tây phương? Tôi trích ở đây một câu của một luật gia danh tiếng Pháp, bà Mireille Delmas-Marty, cảnh báo về mối đe dọa mà khủng bố đang đè nặng trên chính dân chủ Âu Mỹ: “Chúng ta đã có thể phải sợ rằng Ben Laden đã thắng cuộc trong thách thức. Y muốn đánh đổ dân chủ, chí ít y đã thấy trước y sẽ ném dân chủ vào vòng tay của Big Brother”. Chứ gì nữa! “Chiến tranh chống khủng bố” mà ông Bush mở màn từ 2001 ngày nay đã hội đủ nguyên liệu để trở thành “một nội chiến toàn cầu và thường xuyên”, chữ của bà Delmas-Marty.2 Đã đi vào “chiến tranh”, mà lại là “nội chiến”, mà lại là “toàn cầu”, mà lại là “thường xuyên”, làm sao tự do, làm sao nhân quyền, làm sao dân chủ khỏi sa vào cái bẫy của những luật pháp ngoại lệ?

Từ tình trạng ấy, học thuyết bắt đầu bàn luận trên hiện tượng lai giống: chính thể dân chủ lai giống độc đoán. “Không một chế độ dân chủ nào, ngay cả ở châu Âu, được bảo vệ khỏi áp lực của độc đoán”,một tác giả có uy tín trong đại học Pháp khẳng định như vậy.3 Chính mình đã không còn nguyên chất nữa, dạy dân chủ cho ai? Trong sách vở, xuất hiện nhiều khái niệm kỳ quái: “dân chủ độc đoán”, “độc đoán dân chủ”.4 Toàn cầu hóa làm xâm nhập ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai loại chính thể vốn được coi là đối kháng, khiến dân chủ không còn trinh bạch mà độc đoán cũng không hẳn là sở khanh. Bên này có “dân chủ độc đoán” thì bên kia có “độc đoán dân chủ”. Vậy thì làm sao còn nói “quá trình dân chủ hóa” được nữa? Quá trình ấy có đưa đến “dân chủ” như mẫu mực cổ điển đâu? Vậy thì “độc đoán dân chủ” là tương đương với “dân chủ hóa”?

Lấy ví dụ Vénézuela. Cựu tổng thống Chavez là độc đoán chăng? Đúng thế. Nhưng ông được bầu lên hẳn hoi trong một cuộc bầu phiếu có tranh cử hẳn hoi. Hơn thế nữa, ông chấp nhận thất bại khi bị thiểu số trong trưng cầu dân ý. Vậy là độc đoán hay là đã dân chủ hóa rồi? Nước Nga hiện nay: dân chủ hay độc đoán? Sao không gọi là dân chủ được khi Putin thực sự được bầu lên, tam quyền phân lập là nguyên tắc? Nhưng sao không khỏi mang tiếng là độc đoán khi truyền thông bị áp lực, ký giả Anna Politkavskaïa bị ám sát ngay giữa thủ đô, khi Putin mạnh không thua gì Sa Hoàng, lấn lướt một Quốc hội yếu xìu, đẩy vào bóng tối các chính đảng? Ấy là độc đoán hóa? Ấy là dân chủ hóa? Iran là độc đoán chăng? Hiển nhiên. Mà còn độc đoán thần quyền. Nhưng cựu tổng thống Ahmadinejad được bầu lên trung thực rồi bị mất chức trung thực trong cuộc bầu cử tiếp theo. Ấy là gì? Dân chủ hóa? Đâu phải!

Các chính thể cứ lai nhau như vậy, đến nỗi học thuyết đã bắt đầu đặt câu hỏi: phải chăng mọi chính thể ngày nay đều là chính thể lai?5 Rồi sáng tác ra nhiều khái niệm mà nếu Montesquieu hay Rousseau sống lại chắc tưởng là quái vật. Về dân chủ thì: “dân chủ hậu toàn trị”, “dân chủ ủy nhiệm”, “dân chủ bán phần”, “dân chủ bầu cử”, “dân chủ bất tự do”… Về độc đoán thì: “bán độc đoán”, “độc đoán tự do hóa”, “độc đoán có chứa dân chủ”, “chuyên chế dịu dàng”, tyrannie douce, nghe rất nên thơ. Một bên thì xôi đậu. Một bên thì đậu xôi. Chỉ khác nhau ở chỗ bên này nhiều nếp hơn đậu, bên kia nhiều đậu hơn nếp. Nhưng nhiều nếp bao nhiêu cũng không phải là xôi. Chỉ là xôi đậu. Đâu nữa khái niệm nguyên thủy “dân chủ hóa”?

Có “dân chủ hóa” bởi vì có một bên là dân chủ, một bên là độc đoán, ranh giới phân minh. Ranh giới ấy, Raymond Aron đã vạch ra hồi 1965, khi thế giới còn phân ra hai khối. Ranh giới ấy là đa nguyên. Bên này bức màn sắt là đa đảng, bên kia độc đảng. Bên này là dân chủ, bên kia là toàn trị. Trong vòng 50 năm nay, quanh đi quẩn lại, học thuyết chính trị không ra khỏi khái niệm căn bản ấy. Nhưng ngày nay, anh nói: đa nguyên? Đâu chẳng có! Bên này hay bên kia đều có. Có thể, bên này có thật, bên kia có dổm, nhưng đều có. Có thật là dân chủ? Có dổm là dân chủ hóa? Bởi vì thà dổm còn hơn là độc một mình? Tiêu chuẩn đa nguyên đang bị khủng hoảng. Một tác giả danh tiếng, Juan Linz, cố hiện đại hóa tiêu chuẩn của R. Aron, sáng tác ra khái niệm “đa nguyên hạn chế”,6 nhưng không phải ai cũng nghe. Nhiều tác giả còn bác bỏ cả lối phân ranh lưỡng cực vì ranh giới đã nhoè nhoẹt khi hai bên xâm nhập lẫn nhau. Có tác giả, cũng danh tiếng không kém, bi quan thở dài: “Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của độc đoán”.7 Hết thật rồi chăngước mơ dân chủhóa?

2

Tôi tiếp theo với bi quan thứ hai của tôi. Bởi vì tôi sắp lấy ví dụ Trung Quốc để tự hỏi: chính thể Trung Quốc có phải là một chính thể lai? Một chính thể độc đoán đang lai giống dân chủ? Đang đi vào quá trình… dân chủ hóa? Hayđể củng cố chếđộ?

Tôi biết câu hỏi đó sẽ làm nhiều người phản đối vì một phản biện rất đúng: chế độ Trung Quốc là một chế độ riêng biệt, không giống ai, không theo mẫu mực nào, nếu có dính dáng gì đến dân chủ thì không phải là dân chủ hóa mà là “dân chủ với màu sắc Trung Quốc” như bất cứ sản phẩm chính trị nào khác. Vâng, đúng vậy, nhưng giả thuyết tôi sắp nói có phải là dân chủ hóa đâu? Lai thôi mà. Và lai để làm gì?

Không thiếu gì giới học thuật cũng như giới chính khách hoặc doanh nhân ở Mỹ đánh cuộc với tương lai rằng Trung Quốc của họ trước sau gì rồi cũng phải dân chủ như họ. Bao nhiêu lâu? Năm chục năm, trăm năm? Trước mắt, và ngay cả trung hạn, khó mà ngây thơ như họ. Tuy vậy, ai cũng phải nhìn nhận và ngả mũ chào khả năng chuyển biến để thích nghi với hoàn cảnh mới từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Tất nhiên đó không phải là những canh tân chính trị, lại càng không phải là “đệ ngũ hiện đại hóa” (dân chủ) như Wei Jingshen đãkhản cổ kêu gào. Đó chỉ là những biện pháp cụ thể nhắm canh tân một vài cơ chế, nhưng có thể gây ảnh hưởng gián tiếp trên tiến trình của chếđộ. Xin kể sơ lược một vài biện pháp đó:8

Về bộ máy hành chánh: đào tạo hàng ngũ cán bộ có khả năng hơn; xây dựng một thế hệ công chức hữu hiệu hơn nhờ lương bổng cao hơn và quy chế ổn định hơn; đơn giản hóa thủ tục hành chính; sửa đổi thẩm quyền của các cơ quan chính phủ (bộ, ban, ngành…) không phải để quản lý trực tiếp nữa mà để chịu trách nhiệm về việc thực hiện các chính sách liên hệ… Về các cơ quan chuyên môn: hiện đại hóa các ngành thuế, ngân hàng, chứng khoán, hưu bổng, an sinh xã hội… Quan trọng hơn và liên quan đến vấn đề ta đang bàn cãi hơn: ban cấp cho các hội đồng nhân dân vài thẩm quyền – hạn chế– để góp phần vào quá trình lập pháp; thử nghiệm bầu cử ở cấp độ địa phương với ít nhiều cạnh tranh; sửa đổi luật lệ để đem lại nhiều bảo đảm hơn cho người dân và cho các doanh nghiệp ngoại quốc nhất là từ khi vào WTO; mở mang thêm các biện pháp giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa xã hội và Nhà nước mà họ gọi là “Nhà nước pháp quyền”: trọng tài, hòa giải, thủ tục tố tụng, khiếu nại…; phát triển việc thăm dò ý kiến để tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của người dân. Xin kể đại khái như vậy thôi, không cần dông dài, các anh chị quá biết. Chỉ nói thêm về “pháp quyền”: đây là điều mà Tập Cận Bình được xem như đang quyết tâm thực hiện.

Kể như vậy để đặt câu hỏi: Các biện pháp ấy nhắm mục đích gì? Dân chủ hóa? Hayđể nắm vững trong tay tình trạng bất bình đẳng kinh tế và xã hội, để quản lý chặt chẽ hơn, giải quyết hiệu quả hơn, tránh trước những tranh chấp, những tình trạng nguy hiểm, cốt bảo đảm ổn định xã hội, quan tâm hàng đầu của Đặng Tiểu Bình? Dù sao đi nữa, dù chẳng liên quan gì đến “đệ ngũ hiện đại”, ai dám nói các biện pháp ấy không liên quan gì đến thể chế? Nó còn làm tăng tính chính đáng của chế độ trước mắt người dân thường và càng tăng hơn nữa trước mắt thế giới. Chỉ có điều là cách thức ổn định ấy tránh rất kỹ, không du nhập toàn vẹn một biện pháp nòng cốt của chế độ dân chủ: định chế hóa. Định chế hóa là để bảo đảm ổn định, an ninh của người dân đối với chính quyền. Ngược lại, cứ để mỗi biện pháp lửng lơ, tùy nghi áp dụng, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, là để bảo vệ an ninh của chính quyền, ổn định của chế độ. Thiếu định chế hóa, cho nên các quyết định đều làm trong bóng tối của bí mật và tùy tiện, chẳng ai biết tại sao vị này được bầu vào Bộ chính trị, vị kia lên chức bí thư, ai là “nhóm Thượng Hải”, ai là “nhóm Bắc Kinh”, ai tống ai xộ khám.

Ngoài các biện pháp kể trên, bất cứ ai cũng nói rằng phồn thịnh kinh tế đã làm xuất hiện một giai cấp xã hội mới, một loạt “tư bản đỏ” lớn nhỏ, một thế lực kinh tế làm ăn với chính quyền nhưng cũng cạnh tranh với chính quyền và với nhau, đưa đến hiện tượng mới là đa nguyên quyền lợi. Tây phương nghĩ rằng các thế lực kinh tế này càng ngày càng muốn thoát ra khỏi cái khung chật hẹp của chế độ chính trị, càng ngày càng muốn có tiếng nói mạnh hơn: đa nguyên kinh tế, đa nguyên xã hội sẽ đưa đến đa nguyên chính trị. Vậy thì, theo họ, dù muốn dù không, yếu tố trụ cột của dân chủ, đa nguyên, không hẹn vẫn đến.

Thế nhưng, lại thế nhưng, hai thế lực ấy ở Trung Quốc đang liên minh với nhau. Là thống soái, chính trị nói: anh liên minh với tôi, chúng ta cùng hưởng lợi. Kết quả là một thể chế chính trị nhiều tiếng nói tư vấn, nhiều hợp tác ý kiến hơn, nhưng tập trung ở quan hệ thượng đỉnh. Và chúng ta thấy gì? Ra đời lý thuyết chính trị “tam cá đại biểu” mà Giang Trạch Dân đã quảng bá hồi 2001. Từ nay, Đảng Cộng sản đại diện cho “những lực lượng sản xuất tiến bộ, văn hóa tiên tiến, và những quyền lợi thiết yếu của đa số quần chúng”. Đâu rồi, công nhân và nông dân? “Đa số quần chúng” đứng vào hạng bét. Đầu đàn là giai cấp quý tộc đỏ.

Giới quân tử đỏ ấy được ban cấp một thứ tự do ngôn luận nội bộ, tin tức không được lộ ra ngoài cho thứ dân. Đại gia, thê tử của các vị lãnh đạo nắm giữ các xí nghiệp công và bán công, cả một nomenklatura thượng tầng xã hội ấy sống trên pháp luật, được tập tục riêng của chế độ bảo vệ. Ngay cả doanh nghiệp tư và bán tư ở cấp địa phương cũng được chính quyền địa phương ưu đãi, ban phát cho thông tin riêng. Đứng vào hàng thứ hai trong bảng sắp hạng của Giang Trạch Dân, “văn hóa tiên tiến” cũng được ăn theo hưởng lợi chung: đại học, trung tâm nghiên cứu, think tank được ban cấp một thứ tự do hàn lâm rộng rãi, viết lách, tranh luận thoải mái nhưng cẩn thận không phát tán. Sinh viên được biểu tình, nhưng để rốc máu nóng dân tộc chủ nghĩa vào đấu tranh chống Mỹ Nhật, tuy rằng thỉnh thoảng cũng để phản đối bất an ninh trong khu đại học.

Đại học sản xuất ra chuyên gia, chuyên gia xuất hiện để được tư vấn. Còn gì vinh dự hơn được lãnh đạo nghiêng tai? Vậy là chuyên gia tranh nhau bày tỏ lời vàng tiếng ngọc, tuy rằng quyết định đã có trước rồi. Ngây thơ là bệnh kinh niên của trí thức, nhưng dù vậy chăng nữa, một khi khung cửa hẹp được mở ra cho ý kiến, một khi chính quyền biết nghĩ rằng mình không phải là ông thánh nắm hết mọi tri thức chuyên môn của thời đại, tư vấn với thiện chí học hỏi cũng giúp ích phần nào cho quá trình lấy quyết định hoặc để quyết định được trau chuốt hơn. Nóí khác đi, đa nguyên quyền lợi, đa nguyên ảnh hưởng, đa nguyên áp lực, đa nguyên thế lực, đa nguyên thương lượng, đa nguyên mặc cả… tất cả không khỏi đưa đến đa nguyên nội bộ, đa nguyên phenhóm, đa nguyên cấu xé nhau như thế giới đã thấy sau hậu trường của Tập Cận Bình. Bộ máy chính trị vẫn vận hành theo lối sắp xếp nội bộ, nhưng sắp anh hay sắp tôi tùy thuộc vào nhiều tiêu chuẩn mới làm bằng những quan hệ đan xen nhau giữa lãnh đạo chính trị và giai cấp tân quý tộc. Bề ngoài, bộ máy ấy vẫn vững như đồng, khó mà tin rằng những phần tử “thiên dân chủ” dám liều mạng đem quyền lợi đang hưởng của mình đánh đổi một cuộc phiêu lưu chính trị, nhưng ai dám nói chắc một biến đổi xã hội bất ngờ sẽ không bao giờ xảy ra trong bối cảnh bất bình đẳng cao độhiện nay?

Kết quả: một chế độ độc đoán đang thành công, thành công ở cấp trên nhờ ban cấp nhiều tự do và quyền lợi, thành công ở cấp dưới nhờ thành quả kinh tế và tự hào dân tộc được vuốt ve. Không ai chối cãi tính chính đáng của chế độ độc đoán ấy, tuy rằng tham nhũng vẫn hoành hành, truyền thông bị bóp nghẹt, nhân quyền bị coi rẻ, toà án và luật lệ bất công. Khó mà nghĩ rằng đa nguyên trong lòng chế độ sẽ đưa đến dân chủ. Thực tế mà xét, cái tài thích nghi của chế độ chỉ đưa ta đến kết luận rằng: trước mắt, cái thứ độc đoán có lai chút ít giống dân chủ ấy, dù có lai thêm đi nữa, cũng là để củng cố độc đoán thôi, đừng hòng nói dân chủ hóa với phát triển chính trị.

Tôi dông dài cho đến đây cũng chỉ để hỏi các anh chị một câu: Ví thử các anh chị sống trong chế độ ấy, tự hào với nó vì nó đưa đất nước lên địa vị thống soái thế giới, và ví thử các anh chị biết rằng đòi hỏi dân chủ chỉ đưa đến một chế độc tài được củng cố hơn, dễ chấp nhận hơn, mềm dịu hơn, các anh chị còn đòi hỏi dân chủ không hay bằng lòng như thế? Nói cho rõ hơn: phải chăng một chế độ độc đoán mềm dịu và hữu hiệu có thể thay thế đòi hỏi dân chủ hóa? Hay là cả hai là một, tương đương với nhau? Ngày trước, Voltaire ca tụng Cathérine II của nước Nga, nữ hoàng của một chếđộ mà lịch sử học thuyết chính trị gọi là “chuyên chế sáng suốt” (despotisme éclairé). Các anh chị nghĩ sao nếu bước chân đòi hỏi dân chủ của các anh chị dẫn đến một chếđộ mà tôi muốn bắt chước đểgọi là “độc đoán sáng suốt“?

3

Nói vậy chứ tôi không bi quan. Bởi vì tôi biết rằng nước chúng ta là một nước trung bình, không lớn mênh mông như Trung Quốc, nên không có những vấn đề như Trung Quốc, không thể lấy mô hình chính trị của một nước cực lớn được. Từ trước đến nay, hễ nói đến chính thể độc đoán là ai nấy đều chỉ vào Singapore. Hễ hỏi có chính thể độc đoán nào thành công không, ai nấy cũng chỉ vào Singapore. Chỉ có nước ấy xứng đáng để gọi là thành công. Vậy, tôi đặt câu hỏi: họ có muốn dân chủ hóa không? Hay là bằng lòng thành công với độc tài sáng suốt? Tôi đặt câu hỏi tại một thời điểm thích hợp: trên sân khấuchính trị của Singapore không còn ông Lý Quang Diệu. Các lý thuyết gia muốn nghiên cứu chuyển tiếp, không đâu bằng đến đây. Các lý thuyết gia chủ trương “chính thể lai giống“, đến đây cũng tìm ra chất liệu.

Độc đoán: mẫu mực không ai đúng hơn ông Lý Quang Diệu. Một mình ông làm thủ tướng từ 1959, trước khi nước ông độc lập, cho đến 1991 mới nhường ghế kế vị cho người được ông lựa chọn. Ghế ấy lại trao cho con ông, năm 2004. Nhưng ông đâu có từ bỏ chính trường: chế độ gia trưởng mà ông mở đầu tiếp tục đi theo ông cho đến phút cuối. Cũng như ông, đảng PAP (People’s Action Party) của ông nắm quyền một mình. Mãi đến 1981, đối lập mới chiếm được một ghế trong Quốc hội. Một ghế! Vậy mà ông đã lo cảnh giác, siết chặt báo chí, kềm kẹp đối lập, ra luật cho phép bắt giữ không cần xét xử trong một thời gian vô hạn định. Dân biểu đối lập ChiaThye Poh nằm khám 32 năm mà chưa hề ra tòa. Năm 2010, trang nhất của báo chí quốc tếđồng loạt phản đối việc một nhà báo Anh bị bắt vì dám chỉ trích chính quyền. Trước đó, Singapore được sắp hạng 133 trên 175 nước vặt lông báo chí ưu tú nhất.

Thế nhưng, trong bàn tay sắt của ông, không phải không có vài yếu tố dân chủ. Có đa nguyên chăng? Có chứ, vì có một đảng đối lập hoạt động công khai, hợp pháp, đảng Worker’s Party. Đã đành, đảng ấy hiện hữu như một ngón tay thừa trong bàn tay năm ngón, nhưng trong suốt 56 năm cầm quyền, đảng PAP chịu tranh cử hẳn hoi và chưa bao giờ bắt chước trò hề suýt soát 100% như các đảng độc quyền trong các nước độc đoán khác. Tuyển cử cuối cùng, năm 2011, PAP chiếm tỷ lệ trên 66% số phiếu, con số cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, số ghế của đối lập trong Quốc hội tăng lên thành 6. Một dấu hiệu dân chủ được hân hoan chào đón như một rạng đông của lịch sử mới. Một vinh dự cho cảđảng PAP vì tính chính đáng của chế độ càng được xác nhận thêm. Không quan sát viên nào không tán dương những thành quả xuất chúng của Singapore: tư pháp độc lập, luật pháp được tôn trọng từ trên chóp bu, bộ máy hành chánh trong sạch, công chức có trình độ học thức cao, giáo dục tiên tiến, an sinh xã hội được bảo đảm, y tế phát triển, và nhất là, nhất là, sao giỏi thế, tham những bịquét sạch.

Một “chế độ lai” thành công đến mức ấy, tương lai sẽ cứ là “độc đoán sáng suốt” như vậy mãi hay là sẽ dân chủ hóa lần hồi để càng ngày càng dân chủ? Hỏi người dân: muốn củng cố cái gì, củng cố độc đoán hay củng cố từng bước đi của dân chủ, cam đoan chẳng mấy ai, kể cả ở bên Tàu, trả lời độc đoán. Bởi vì dân chủ là ước muốn tự nhiên của con người, nhất là sau khi cơm áo đã có. Ở tầng lớp dưới, người dân muốn dân chủ để thoát ra khỏi cường hào. Ở tầng lớp trên, phồn thịnh kinh tế đưa đến một xã hội trung lưu phức tạp, vừa trong cách sống, vừa trong cách suy nghĩ, và cách cai trị một xã hội đa dạng, đa diện, phức tạp, nếu muốn tiếp tục thành công, không thể là cách cai trịmột đàn cừu. Chính ông Lý Quang Diệu đã thấy điều đó. Chính ông nói: thế hệ trẻ không còn nhìn quan điểm của ông với cùng một trọng lượng và đồng tình như giới già đã nhất loạt quy tụ xung quanh ông trong giai đoạn khó khăn của thời độc lập.9 Giữa già với trẻ, giữa giới thủ cựu và giới tân tiến, quan điểm khác nhau, kể cả trên những vấn đề đạo đức. Đồng tính luyến ái, lưỡng tính, chuyển tính, dục tính, quan hệ nam nữ trước hôn nhân, vợ chồng không hôn thú, cái roi của đức Khổng mà ông Lý lăm lăm trong tay để biến nước ông thành con rồng không làm giới trẻ cúi đầu nữa. Một xã hội phức tạp không cần cây roi để lãnh đạo bằng cái còi. Cái còi của người trọng tài. Các người kế vị ông Lý không học ở ông nghệ thuật cầm roi bằng nghệ thuật trọng tài. Trọng tài giữa nhiều quan điểm, nhiều xu hướng khác nhau tất nhiên phải có trong một xã hội phức tạp.

Trọng tài để giải quyết những căng thẳng trong xã hội cũng là trọng tài cần thiết để giải quyết những căng thẳng trong chính trị chắc chắn phải xảy ra. Làm sao giải quyết trong ôn hòa? Làm sao tránh những vấp váp của thời chuyển tiếp mà các con rồng khác đã trải qua? Làm sao đừng thấy diễn ra cảnh hai ông cựu tổng thống Hàn Quốc, một ông vô tù, một ông tự tử? Làm sao để dân chúng khỏi xuống đường như ở cả ba con rồng kia? Trong quá khứ, dân trao trọn quyền cho ông Lý và khoanh tay chờ quyết định. Ngàyấy qua rồi, các trí thức Singapore quả quyết như vậy.”Chúng ta không bao giờ trở lui về lại được nữa sự nhất trí cao độ mà chúng ta đã được hưởng hàng chục năm qua. Rạn nứt sẽ xảy ra”.10 Xã hội mới, họ báo trước, chắc chắn sẽ đem lại nhiều phản đối. Làm thế nào để xuôi buồm giữa các chiều gió nghịch?

Trí thức Singapore đặt vấn đề như vậy. Họ tự hỏi: làm sao thuận buồm xuôi gió để qua bờ bên kia, bờ dân chủ? Họ đâu có tự hỏi: làm sao củng cố cái thuyền cho chắc đểở lại yên ổn với bờ bên này, bờ độc đoán? Họ đâu có muốn lai mãi lai hoài một thứ chính thể dù thành công vượt mức? GDP đâu phải là mục đích thiên thu của con người? Mục đích thiên thu của con người là tự do. Singapore là bài học đáng để chúng ta suy ngẫm hơn cả. Bởi vì, cũng như ta, họđang suy nghĩ về bước đi đầu tiên. Họđã chờ cho đến khi Lý Quang Diệu mất đểđặt vấn đề cái bước đầu tiên ấy. Họ có đủ điều kiện để bước: một xã hội tân tiến, một xã hội trọng luật, một xã hội có giáo dục cao, một xã hội lành mạnh, một xã hội phồn vinh. Vậy mà trí thức của họ rất khiêm tốn trong bước đi. E rằng ta cũng phải khiêm tốn như họ chăng?

Tôi chọn một người trí thức có uy tín ở Singapore và trên quốc tế đểđọc: đó là Kishore Mahbubani mà tôi vừa trích câu nói ở trên.11 Đọc ông, rồi đọc những bài viết đăng trên báo chí sau khi Lý Quang Diệu mất, tôi thấy có hai chữ sáng lên như một cặp đèn pha trong sương mù: “normal” và “consensus“. Bình thường và đồng thuận. Singapore sẽ, và sẽ phải là, một chính thể “bình thường”. Một chính thể bình thường là một chính thể không cần đến anh hùng vĩ đại. Vĩ nhân chỉ xuất hiện trong những giai đoạn bất bình thường. Xong nhiệm vụ bất bình thường, vĩ nhân bay lên trời như Phù Đổng, để mặt đất lại cho anh, cho tôi, cho chúng ta, những người bình thường. Những người bình thường cần định chế vững chắc để sống chung với nhau trong hòa bình. Định chế ấy phải được xây dựng trên nền tảng dung hòa, bởi vì đa nguyên quyền lợi là tình trạng bình thường trong xã hội. Nói đến dung hòa là nói đến đồng thuận. Nếu không thì là cưỡng chế và cưỡng chế là bất bình thường. Đồng thuận là đồng thuận trong xã hội và đồng thuận giữa chính quyền và người dân. Nếu không thì là áp bức và áp bức là bất bình thường, chẳng ai ưa áp bức cả, ai cũng muốn thở không khí tự do, vì tự do là bình thường.

Làm cách thế nào để “thoát Lee”, thoát ly ra khỏi tình trạng bất bình thường của một bàn tay sắt, khi cái roi “nhất trí” không còn hợp thời nữa, khi chính tinh thần nhất trí phải nhường chỗ cho đồng thuận? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói, bởi vì chẳng lẽ chúng ta cũng cứ ở mãi trong tình trạng bất bình thường từ bốn chục năm qua? Cứ chiến tranh với nhau hoài? Cứ hận thù hoài? Cứ đánh gục mọi ý kiến khác, dù đầy thiện chí, như nã súng cối vào kẻ thù? Cứ đặt vòng kim cô trên đầu xã hội với mệnh lệnh và khẩu hiệu? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói để xem ông có giải quyết được giùm tôi cái vòng luẩn quẩn mà một tác giả danh tiếng của đại học Mỹ cứ làm tôi khổ sở hoài: “Chỉ một Nhà nước dân chủ mới tạo ra được một xã hội dân chủ, chỉ một xã hội dân chủ mới nâng lên được một Nhà nước dân chủ“.12 Làm sao đi bước đầu trong cái vòng luẩn quẩn ấy? Tôi cám ơn ông bạn trí thức lân bang của ta, ông nói: Chỉ có cách phát triển một văn hóa chính trị mới, một political culture, lấy dung hòa làm căn bản thay cho mệnh lệnh. Khiêm tốn thế thôi.

Các anh chị thân mến, tôi chưa bao giờ mơ tưởng đa đảng như là bước đi đầu tiên. Cũng chưa bao giờ nghiêm túc sử dụng Hán văn “tam quyền phân lập”. Tôi không dám mơ tưởng xa xôi khi vấn đề định nghĩa chính xác thế nào là “đảng lãnh đạo” chưa được chính thức đặt ra để cả nước cùng góp ý kiến trong bầu không khí tin tưởng, cởi mở, tự do. Tôi chỉ có thể làm một người trí thức bình thường, khiêm tốn trongmơ ước. Văn hóa là chuyện bình thường của chúng ta. Và văn hóa dung hòa là chuyện quá bình thường trong văn minh của Việt Nam. Nhưng làm thế nào để nói lên cái văn hóa ấy? Làm thế nào để tháo ra cái vòng luẩn quẩn, để mở đầu với cái chìa khóa xã hội dân chủ? Đố ai có thể tìm ra được một câu trả lời nào khác: không có quyền ngôn luận thì không có cảvăn hóa, nói gì văn hóa chính trị. Đó là bước đầu, trước khi nói đến cái gì khác. Tôi đề nghị: Với quyền ngôn luận thẳng thắn, trong sáng, tự do, và với tinh thần trách nhiệm, hãy bước cái bước đầu sau 40 năm dằng dai, trên câu hỏi đầu tiên: thế nào là “đảng lãnh đạo”? Thế nào là “đảng lãnh đạo” trong tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng” hiện nay, kể cả tận “cấp cao“?13 Đâu là biện chứng giữa lãnh đạo và đồng thuận trong bối cảnh không còn là bất bình thường nữa của chiến tranh? Thế thôi, khiêm tốn, bước đầu. Nhưng đó là bước đầu để đi đến dân chủ. Dù chỉ là giấc mơ, dân chủ vẫn là lý tưởng. Không ai mơ độc tài, dù là sáng suốt.

Vĩ thanh: Khi tôi viết bài này xong thì được GS Trần Ngọc Vương gửi cho bài viết của anh về Tập Cận Bình, trong đó tôi vô cùng thích thú thấy anh cùng đưa ra luận điểm “độc tài sáng suốt”. Xin đọc bài rất đặc sắc của GS Trần Ngọc Vương, “Thử giải mã Tập Cận Bình“, Tạp chí Người Cao Tuổi, số Tết 2015.

C.H.T.

© Thời Đại Mới

1 GuyHermet, Les désenchantements de la liberté. La sortie des dictatures dans les années 1990, Fayard, 1993.

2 La démocratie dans les bras de Big Brother, phỏng vấn Mireille Delmas-Marty, Le Monde, 6-6-2015.

3 Bertrand Badie, Aucune démocratie n’est à l’abri d’une poussée autoritaire, même en Europe, Le Monde.fr, 22-9-2009.

4Olivier Dabène, Vincent Geisser, Gille Massardier, Autoritarismes démocratiques et démocraties autoritaires au XXIè siècle. Convergence Nord-Sud, La Découverte, 2008.

5Lydie Fournier, Entre démocratie et autoritarisme vers des régimes hybrides? Sciences Humaines, n° 212, Février 2010.

6 Juan Linz, Totalitarian and Authoritarian Regimes, trích bởi Michel Camau, Remarques sur la consolidation autoritaire et ses limites, http://books.openedition.org/cedej/1111?lang=fr

7Ralf Dahrendorf, trích trong chú thích (4) ởtrên và www.editionsladecouverte.fr(giới thiệu quyển sách).

8Jean-Pierre Cabestan, La Chine évoluerait-elle vers un autoritarisme “éclairé” mais ploutocratique?, Perspectives chinoises, n°84, Juillet-Août 2004. Tôi lấy nhiều chi tiết và khái niệm “độc đoán sáng suốt” từđây.

9Ang Cheng Guan, Singapore and the Worldview of Lee Kuan Yew, The Diplomat, 3-3-2015.

10 Kishore Mahbubani, Nurturing the Art of Compromise, Straits Time, 13-92014.

11 Kishore Mahbubani, bài đã dẫn.

12 Michael Walzer, The Concept of Civil Society, trích bởi Michel Camau, xem chú thích (6) và (7).

13Ngàynay, chữ “suythoái” đã quá phổ thông trên mọi lĩnh vực, kể cả… kinh tế. Nhưng đặc biệt ởđây, trong bối cảnh của bài này, chữ ấy lại càng có ý nghĩa khi đi vào Nghị quyết 4 Trung ương: “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên kể cả cấp cao, suy thoái vềtưtưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng”.

Nguồn: http://www.tapchithoidai.org/, số 33, tháng 7/2015

 

Tìm đâu hạnh phúc?

Tìm đâu hạnh phúc?

Đời-em-tìm-đâu-ra-hạnh-phúc

Bất hạnh, em thấy đời mình ngập tràn bất hạnh! Cảm nhận ấy không chỉ đến trong giây phút nào đó nhưng trải dài cả đời em…

Từ thuở chào đời em đã khóc! Em biết, ai cũng khóc khi vừa lọt lòng mẹ. Thế nhưng, những tiếng khóc chào đời khác được đáp lại bởi vòng tay yêu thương của cha, bởi dòng sữa ngọt ngào của mẹ; còn em, tiếng khóc ấy không tìm được lời đáp khi em bị bỏ lại trong một góc phố khuất vắng khi em được sinh ra. Em đã khóc, khóc hết nước mắt, khóc đến tím tái, khóc đến lặng đi.

Lớn lên trong nhà mồ côi, đời em là một dấu chấm lặng dầu được sống giữa bao bạn cùng cảnh ngộ, sống trong tình thương yêu bao bọc của những tấm lòng hảo tâm. Những tình cảm ấy phần nào bù đắp, nhưng không thể khỏa lấp khoảng trống trong đời em. Bởi em nhận ra tuổi thơ mình không giống như các tuổi thơ khác, không có một gia đình thực sự: có mẹ có cha yêu thương vỗ về.

Trong trường lớp, em thuộc về một thế giới riêng. Trong khi bạn bè có cha mẹ đón đưa, em thì không. Em thầm ước mong có được những lời dặn dò hướng dẫn, những hành vi dạy dỗ uốn nắn, cho dù đó là lời mẹ mắng la hay bị cha đánh đòn … Thế nhưng, em thậm chí chưa một lần được biết mẹ em ra sao, cha em thế nào!

Ra đời, em mang theo mình một nỗi mặc cảm. Nó ẩn sâu đâu đó nơi em, nhưng rồi chợt ùa đến bủa vây mỗi khi em thất bại, thua kém bè bạn. Nó bày ra trước mắt em cả một quá khứ đau thương và một hiện tại phũ phàng. Nó nhấn em ngập chìm trong biển khổ của đời mình … Thường con người ta khi cùng đường bí lối nơi đường đời, vẫn còn hy vọng tìm được đường về với gia đình, tựa nương nơi cha, thở than cùng mẹ; còn em thì không, em nào biết đến mẹ nào để đỡ, cha nào để nâng.

… Phũ phàng, bế tắc! Đời em tìm đâu ra hạnh phúc?

Bỏ lại tất cả, em đăng ký tham gia một hoạt động nhân đạo, mong tìm được đâu đó chút bình an tĩnh lặng cho đời mình. Thủa ở cô nhi viện, em có dịp gặp gỡ nhiều đoàn từ thiện. Lục lọi trong ký ức, em thấy lờ mờ đâu đó vài niềm vui khi bắt gặp được ánh mắt và sự cảm thông chia sẻ của ai đó trong đoàn từ thiện ấy. Đó là chút ánh sáng leo lét còn sót lại nơi cuộc đời tăm tối của em.

Đến với mái ấm của những chị em lầm lỡ, em biết đến cảnh đời nổi trôi của những người mẹ trẻ. Các chị được giúp đỡ để chờ mong đến ngày chào đời của những người con. Các em bé ấy được sinh ra trong vòng tay người mẹ, thiếu vắng tình cha. Thế nhưng các em vẫn hạnh phúc hơn những thai nhi xấu số không có được cơ hội cất tiếng khóc chào đời, bởi người mẹ đã nhẫn tâm phá bỏ sự sống mong manh ấy. Mường tượng ra ngày mình cất tiêng khóc chào đời, em nước mắt rưng rưng. Bởi em biết rằng ít nhất em đã được sinh ra trên cõi đời này! Nếu không được sinh ra, em không biết mình là gì, ở đâu …

Đến với trung tâm khuyết tật, em chẳng thể cất nên lời bởi có gì đó ngẹn ứ nơi cuống họng, ngẹn ngào trong trái tim. Nếu đời em là bất hạnh, em biết dùng lời lẽ nào để diễn tả đời sống của các bạn nơi đây. Không cha, không mẹ, không cả một tấm thân bình thường! Cảnh thiếu mẹ vắng cha, em có thể hiểu. Thế nhưng, được sinh ra và lớn lên với một cơ thể khỏe mạnh lành lạnh, em không thể hình dung ra thế nào là cảm nghĩ của các bạn nơi đây khi mà các bạn phải vật lộn từng ngày với những khiếm khuyết như thế của cơ thể. Bỡ ngỡ và lạ lùng, em không hiểu nổi tại sao đa số các bạn ấy vẫn có thể vui vẻ, lạc quan và hạnh phúc ngay giữa những nghịch cảnh của đời họ như thế. Họ tìm đâu ra hạnh phúc ấy?…

Bừng tỉnh, lần đầu tiên em thấy đời mình ý nghĩa và hạnh phúc. Giờ đây, em không còn phải trộm nghĩ về câu hỏi “Tìm đâu để có được hạnh phúc?”, vì em đã biết mình phải tìm hạnh phúc nơi đâu: “Chính lúc cho đi là khi lãnh nhận!”

Vinhsơn Phạm Văn Đoàn, S.J.

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời

Hôm Thứ Ba ngày 23 tháng 6 năm 2015.

Đài truyền hình HTV tại VN  vừa cho lên internet  bộ phim 5 tập với tựa đề

“Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời”.

Trong chế độ cộng sản thì HTV đương nhiên là một trong khoảng 800 cơ quan truyền thông lề phải.

Đây có thể nói là lần đầu tiên 4 chữ “Trung Quốc xâm lược” xuất hiện một cách chính thức, cũng như nói rõ về biến cố 1979, Trung Cộng kéo quân sang đánh Lào Cai, Cao Bằng… và nhiều biến cố khác nêu rõ dã tâm xâm lăng của Tàu.

5 clips này chứa đựng nhiều tài liệu cổ có giá trị.

Published on Jun 23, 2015.

 

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời – Tập 1

 

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời – Tập 2

 

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời – Tập 3

 

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời – Tập 4

 

Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời – Tập 5

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (III)

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự (III)

Lọat bài nhiều kỳ

Đòan Thanh Liêm

Bài 3 – Tôn giáo và Xã hội Dân sự Tòan cầu.

(Religion and the Global Civil Society)

Trong bài viết từ năm 2009 với nhan đề “ Sơ lược về Xã hội Dân sự Tòan cầu”, tôi đã có dịp trình bày về những nét chính yếu của một thực thể văn hóa xã hội đang mỗi ngày một thêm phát triển trong thế giới ngày nay với khuynh hướng tòan cầu hóa về nhiều phương diện, đặc biệt là về mặt khoa học kỹ thuật, về kinh tế chính trị, cũng như về văn hóa xã hội, và nhất là về sự bùng nổ thông tin qua kỹ thuật của mạng lưới tòan cầu internet vào những năm đầu của thế kỷ XXI hiện nay.

Trong bài viết này, tôi muốn được trình bày rõ ràng chi tiết hơn về các mặt sinh họat của Tôn giáo trên bình diện địa lý trải rộng khắp mọi vùng của thế giới nhân sinh, cũng như trên phương diện quy mô những vấn đề hệ trọng có liên hệ mật thiết đến sự sống còn của tòan thể các dân tộc hiện đang sinh sống trên hành tinh trái đất này.

Để độc giả dễ bề theo dõi câu chuyện, tôi xin được nhắc lại một cách hết sức vắn tắt về vài ba điều cốt yếu đã được đề cập đến trong các bài trước thuộc về chủ đề Xã hội Dân sự, mà có liên quan chặt chẽ đến sinh họat của càc tổ chức thuộc bất kỳ niềm tin tôn giáo nào. Tiếp theo, ta sẽ nêu ra những đường hướng phát triển sinh họat tôn giáo trong bối cảnh chung của xã hội đang trên đà tòan cầu hóa hiện nay vào đầu thế kỷ XXI.

A –  Tôn giáo phát triển cùng nhịp với Xã hội Dân sự.

1 – Trước hết, tôn giáo là một thành phần quan trọng nằm trong khu vực Xã hội Dân sự, với tính chất “ phi chính phủ “ (non- governmental NGO) và “bất vụ lợi” (non-profit), tức là nằm ngòai khu vực chính quyền Nhà nước, mà cũng khác biệt với khu vực Thị trường của các công ty xí nghiệp là những cơ sở kinh doanh chỉ nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (for profit). Bình thường XHDS, cũng như Thị trường kinh doanh sinh họat trong khuôn khổ của một quốc gia, và chịu sự chi phối của luật pháp trong quốc gia đó. Trong nhiều quốc gia hiện nay, điển hình như ở Mỹ, ở Ấn độ, thì đã có đến hàng triệu những tổ chức NGO và nhiều triệu những nhóm nhỏ (small groups) mà lại có những họat động tại nhiều nơi trên trường quốc tế, chứ không phải chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ bé của riêng nước mình. Lại nữa, nhiều tổ chức nhỏ như Phong trào Bảo vệ Môi sinh (Green Peace), tổ chức Minh bạch Quốc tê (Transparency International), Ân xá Quốc tế (Amnesty International) v.v…, thì lại có họat động trên phạm vi tòan cầu, mặc dầu ngân sách và nhân sự của họ rất là eo hẹp hạn chế.

2 – Nhưng với sự phát triển của những công ty đa quốc gia (multi-national corporations), những định chế kinh tế tài chính đồ sộ như Ngân Hàng Thế giới (World Bank WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới  (International Monetary Funds IMF)…, thì trên thế giới ngày nay đang trổi lên một thực thể kinh tế đồ sộ được gọi là nền kinh tế tòan cầu (the Global Economy).

Rồi đến tổ chức Liên Hiệp Quốc tuy chưa phải là một thứ “Chính phủ Tòan cầu” với thẩm quyền bao trùm trên mọi quốc gia thành viên, thì đó cũng là một Diễn Đàn, một Cơ cấu chính trị có tính cách tòan cầu nhằm giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn giữa các quốc gia, cũng như tăng cường sự hợp tác phát triển và tình liên đới huynh đệ giữa mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế.

Và cũng trong chiều hướng phát triển tương tự như thế, mà ta có thể nói rằng hiện đang có một thực thể văn hóa xã hội bao quát trong thế giới hiện đại được gọi là “Xã hội Dân sự Tòan cầu” (the Global Civil Society).

3 – Nhờ sự giao thông di chuyển mau lẹ, cũng như thông tin liên lạc dễ dàng, và nhất là phong trào di dân từ nước này qua nước khác mỗi ngày một thêm phát triển, các tôn giáo đã thiết lập được cả một hệ thống những tổ chức họat động riêng biệt của mình vượt ra ngòai mọi biên giới quốc gia, qua các nhà dòng thừa sai hay do các cơ sở văn hóa xã hội, từ thiện nhân đạo. Hiện tượng phổ biến này không phải là đặc trưng duy nhất xưa nay của Thiên chúa giáo từ các quốc gia Âu Mỹ, mà còn được thấy trong mọi tôn giáo, cụ thể như với phong trào phát triển Hồi giáo rất mạnh mẽ khắp nơi từ hơn nửa thế kỷ nay, hoặc sự phổ biến tại các nước Âu Mỹ của các trung tâm về thiền học xuất phát từ Á châu, của đạo Hindu xuất phát từ tiểu lục địa Ấn độ, của đạo Bahai’ xuất phát từ Ba Tư v.v…

Thành ra tình trạng đa dạng và đa nguyên về Tôn giáo (religious diversity/pluralism) mỗi ngày càng thêm khởi sắc tại nhiều quốc gia tiến bộ trên thế giới ngày nay. Và hậu quả là nhân lọai đang có một tinh thần bao dung về phương diện tôn giáo (religious tolerance) được cổ võ khích lệ ở mức độ cao nhất trong lịch sử các dân tộc từ xưa tới nay. Đó quả là một bước tiến bộ rất đáng lạc quan cho lòai người sau bao nhiêu thế kỷ tranh chấp đẫm máu tàn bạo vì lý do mâu thuẫn tôn giáo.

B – Tôn giáo ngày nay lại có thêm nhiều điều kiện     thuận lợi hơn để phục vụ con người và xã hội.

1 – Một số nhân vật điển hình nổi bật vì những họat động từ thiện nhân đạo và tranh đấu bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền, cũng như góp phần vào công cuộc xây dựng hòa bình trên thế giới.

Trước khi phân tích về cơ cấu tổ chức và lề lối điều hành của các chương trình hành động xã hội dựa vào niềm tin tôn giáo ( Faith-based Social Action Program), ta có thể liệt kê ra một số nhân vật tôn giáo xuất chúng với những họat động được cả thế giới biết đến và cảm phục, cụ thể như sau đây :

a/ Mục sư Albert Schweitzer với bệnh viện chăm sóc cho người nghèo túng ở vùng rừng rậm trong xứ Gabon ở Phi châu. Ông sinh trưởng tại vùng Alsace, mà vừa là nhà thần học, nhạc sĩ và bác sĩ y khoa, ông có liên hệ bà con với thân mẫu của triết gia Jean Paul Sartre. Sự hy sinh kiên trì của ông trong việc chăm sóc cho các bệnh nhân ở Phi châu đã được thế giới đánh giá rất cao, và ông đã được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1952.

b/ Nữ tu Teresa ở Calcutta, thường được gọi là Mẹ Teresa (Mother Teresa) là người xứ Albania mà qua phục vụ những người khốn cùng nhất trong khu vực Calcutta thuộc tiểu lục địa Ấn độ. Cả thế giới khâm phục sự hy sinh của bà cũng như của các chị em nữ tu Bác ái do bà điều khiển để tận tình chăm sóc cho những người tuyệt vọng vì bệnh họan, đói khát cận kề với cái chết. Chính cái cung cách chăm lo trìu mến chân thành như thế đối với lớp người cùng đinh mạt hạng trong xã hội Ấn độ đã làm cho tòan thế giới cảm kích mến chuộng và Chánh phủ Na Uy đã cấp phát cho Mẹ Teresa giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1979, và chánh phủ Ấn độ cũng đã cấp phát quy chế công dân danh dự cho bà.

c/ Giám mục Desmond Tutu tại Nam Phi là một trong những người nổi tiếng trên thế giới vì đã tận lực tranh đấu chống nạn kỳ thị chủng tộc Apartheid ở Nam Phi và ông đã được vinh danh với giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1984, cùng với nhiều giải thưởng cao quý khác trên thế giới. Ông cũng được Tổng thống Nelson Mandela mời chủ tọa Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải ở Nam Phi vào cuối thập niên 1990, nhằm hàn gắn những hận thù sâu đậm nặng nề giữa các sắc dân da trắng và da màu do chế độ kỳ thị tàn ác lâu đời Apartheid gây ra.

d/ Mục sư Martin Luther King ở Mỹ là một kiện tướng lãnh đạo phong trào tranh đấu dân quyền của lớp người da màu chống lại nạn kỳ thị tàn bạo, dày xéo nhân phẩm lâu đời đối với người Mỹ gốc Phi châu tại các tiểu bang thuộc khu vực miền Nam. Việc tranh đấu bất bạo động mà rất mực kiên quyết của ông đã được tòan thể người da màu hưởng ứng, và gây được sự ngưỡng mộ và thiện cảm của khắp thế giới, ông được tôn vinh với giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1964. Nhưng tiếc thay, vào năm 1968, ông lại bị một kẻ cuồng tín sát hại.

e/ Mục sư Rick Warren tại Saddleback Valley Community Church trong Quận Cam, California được tạp chí Time xếp vào danh sách “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004”. Ông là tác giả của cuốn sách bestseller, bán được trên 30 triệu cuốn  trong vòng có 6 – 7 năm. Cộng đòan tín hữu xung quanh ông hiện đã lên đến con số trên 25,000 người, được xếp hàng thứ 8 trong số trên 1,200 Megachurch (Đại giáo đòan) tại Mỹ. Megachurch này đặc biệt đang góp phần cộng tác với chánh phủ và nhân dân Rwanda trong việc thực hiện một chương trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội và nhân đạo rất lớn lao tại xứ sở này ở Phi châu là nơi đã xảy ra vụ tàn sát diệt chủng ghê rợn vào năm 1994. Megachurch này cũng tham gia hết sức tích cực vào việc chăm sóc cho hàng chục triệu nạn nhân bệnh HIV/AIDS ở Phi châu nữa.

f/ Ông Inamullah Khan là vị sáng lập và Tổng thư ký Hội nghị Hồi giáo Thế giới (The World Muslim Congress) tại Karachi, Pakistan. Ông dành trọn cuộc đời để xây dựng hòa bình giữa người Muslim, Thiên chúa giáo và Do thái giáo. Đặc biệt, ông còn đóng vai trò chủ yếu trong việc giàn xếp chấm dứt cuộc chiến tranh giữa Iran và Irak hồi đầu thập niên 1980. Năm 1987, ông được cấp phát Giải thưởng Hòa bình Niwano của Nhật bản. Và năm 1988, ông còn được lãnh Giải thưởng Templeton ở Anh quốc vì những đóng góp cho sự Tiến bộ về Tôn giáo, giải thưởng này có giá trị hiện kim là 1,000,000 đồng bảng Anh, còn cao hơn giải Nobel Hòa bình nữa. Ông qua đời vào năm 1997 ở tuổi 85, trước sự thương tiếc của biết bao nhiêu người.

g/ Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần và chính trị của Tây tạng cũng đã được trao tặng giải Hòa bình Nobel năm 1989, vì luôn cổ võ giải pháp hòa bình dựa trên sự khoan dung và tương kính lẫn nhau  nhằm bảo tòan truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Tây tạng. Vị lãnh đạo này kiên quyết chống đối việc sử dụng bạo lực trong cuộc tranh đấu nhằm giải phóng cho xứ sở của ông. Ngài được người dân Tây tạng tôn kính như là Vị Phật sống vậy.

2 – Chương trình Hành động Xả hội dựa vào Niềm Tin.

Nói chung, thì tôn giáo nào cũng có ba lọai sinh họat chính yếu, đại để là : Giảng đạo- Giáo lý-Nghi lễ (Ministry), Phục vụ Xã hội (Service) và Xây dựng Hòa bình (Peacebuilding).

Vì lý do kỹ thuật quản lý điều hành, các nhiệm vụ này được phân bố cho các cơ sở khác nhau, cụ thể như cơ quan Catholic Relief Services (CRS = Cứu trợ Công giáo) thì dù do Giáo Hội Công giáo Mỹ thành lập, nhưng họat động lại tách biệt khỏi hệ thống mục vụ của giáo quyền. Cơ quan World Vision (WV) cũng vậy, đó là một tổ chức họat động rất mạnh mẽ cùng khắp thế giới, nhưng cũng không trực tiếp thống thuộc vào một thẩm quyền của một Giáo hội Tin lành nào.

a/ Sau một quá trình họat động lâu dài, các tổ chức từ thiện nhân đạo này đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm quý báu, để mở rộng phạm vi họat động ra nhiều lọai dịch vụ phong phú nhằm đáp ứng được nhu cầu mỗi ngày thêm phức tạp của người dân, với sự khác biệt rõ rệt về truyền thống văn hóa xã hội, cũng như tôn giáo tại các châu lục khác nhau.

Khởi đầu, đó chỉ là một chương trình cứu trợ khẩn cấp để cấp phát thực phẩm, quần áo, thuốc men cho các nạn nhân thiên tai vì động đất, bão lụt hay do chiến tranh gây ra. Nhưng lần hồi, thì các tổ chức lớn như World Vision, Catholic Relief Services… lại đã có sáng kiến thực hiện những dự án có tính cách phát triển về kinh tế kỹ thuật (economic and technical development projects) nhằm giúp người dân có thể tự túc mưu sinh một cách lâu bền được, mà không phải cứ ngửa tay đi xin viện trợ, xin của bố thí mãi. Muốn làm được như vậy, các tổ chức này phải tìm cách “liên kết” (in partnership) với các đối tác ở từng địa phương, cũng như với các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc như UNESCO, UNICEF, UNHCR, WHO, ILO ( Cơ quan Văn hóa, Cứu trợ Nhi đồng, Cao Ủy Tỵ nạn, Tổ chức Y tế, Văn phòng Lao Động) v.v…

b/ Một vài con số thống kê minh họa.

*Vào năm 2007, ngân sách của World Vision là 2.6 tỉ mỹ kim, với tổng số nhân viên là 40,000 người, mà trên 90% là người địa phương các quốc gia sở tại và họat động sát cánh với người dân tại trên 100 quốc gia trong cuộc tranh đấu chống lại nạn đói, sự nghèo túng, nạn bất công xã hội… Riêng tại Ấn độ, WV đã có kinh nghiệm làm việc ở đây từ trên 50 năm dàn trải khắp 26 tiểu bang của quốc gia rất đông dân này. WV còn có sáng kiến hướng dẫn cho giới nông dân ở các nước Á châu, Phi châu, châu Mỹ Latinh mở những nông trại nhỏ với những kỹ thuật đơn giản để cho họ và gia đình có thể tự túc được (small farms for self-reliance).

*Vào năm 2010, ngân sách của CRS là trên 900 triệu mỹ kim với tổng số nhân viên là trên 5,000 người và cũng họat động tại 90 quốc gia. CRS cũng đã chi ra 190 triệu mỹ kim để cứu trợ các nạn nhân nạn Sóng thần Tsunami ơ Indonesia năm 2004. CRS cũng dự trù cung ứng 200 triệu mỹ kim trong 5 năm cho các nạn nhân nạn động đất ở Haiti năm 2010.

Ngòai ra CRS lại còn thường xuyên tổ chức các khóa hội thảo quốc tế về Xây dựng Hòa bình tại các cơ sở chuyên môn như Mindanao Peace Institute ở Philippines, tại Joan B Kroc Institute for International Peace Studies tại Đại học Notre Dame ở Indiana Hoa kỳ.

c/ Họat động cứu trợ của Hồi giáo và Phật giáo.

*Từ 40 – 50 năm gần đây, với sự tăng giá của dầu hỏa, nên nhiều quốc gia Hồi giáo ổ vùng Trung Đông đã trở nên giàu có, và họ đã rộng rãi đóng góp vào việc từ thiện xã hội tại nhiều nới, nhất là đối với các đồng đạo của họ mà gặp khó khăn vì thiên tai hay do bị độc tài áp bức như ở Liên Xô thời đó. Tại nhiều nước như Ả rập Seoud chẳng hạn, chính quyền đã giúp thiết lập một cơ quan cứu trợ Hồi giáo lấy tên là “International Islamic Relief Organisation” (IIRO). Vào năm 1984, một tổ chức độc lập được thành lập và lấy tên là “Islamic Relief Worldwide” (IRW). Tổ chức IRW này được nhận vào làm thành viên của Hội Đồng Kinh tế Xã hội của Liên Hiệp Quốc, và liên kết họat động với Hội Hồng Thập tự Quốc tế và Hội Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent) và  cùng chung sức với 15 thành viên liên kết khác nữa. Ngân sách của IRW vào năm 2009 được ghi là có trên 100 triệu mỹ kim.

*Về phía Phật giáo, thì chưa có những tổ chức từ thiện nào có quy mô lớn lao có thể so sánh với các tổ chức WV, CRS, IRW nói trên. Nhưng từ xưa, tại các chùa ở miền quê hẻo lánh, thì các Phật tử ở địa phương vẫn thường xuyên tổ chức việc cứu đói, cứu nạn nhân thiên tai bão lụt v.v… Gần đây báo chí có đưa tin một số chùa ở Thái Lan đã thâu nhận và săn sóc cho những người bị bệnh HIV/AIDS mà bị gia đình hay xã hội ruồng bỏ. Trên Internet, ta có thể tìm thấy thông tin về một cơ quan lấy tên là Buddhist Global Relief (BGR) mới được thành lập 4-5 năm nay, và có chương trình họat động tai Kenya, Niger, Sri Lanka, India, Cambodia, Haiti, Mỹ và Việt nam. Ngân sách của BGR năm 2009 được ghi là có trên 111,000 mỹ kim.

Cũng cần ghi thêm về Quỹ Từ Tế ( Tzu Chi Foundation – the Buddhist Compassion Relief) do Sư Bà Chứng Nghiêm (Cheng Yen) ở Đài Loan thiết lập từ năm 1966 nhằm góp phần vào các chương trình phát triển cộng đồng, đặc biệt về y tế, giáo dục và nhân bản ở Đài Loan và tại nhiều quốc gia khác. Hiện nay Quỹ đã quy tụ được 10 triệu thiện nguyện viên và yểm trợ viên tại 50 quốc gia và điều hành các chương trình cứu trợ tại trên 70 nước khắp thế giới. Tháng 4 năm 2011, tuần báo Time đã xếp tên tuổi của Sư Bà Cheng Yen vào danh sách “ 100 Nhân vật có Ảnh hưởng nhất trên thế giới”. Có người còn gọi Sư Bà là một “Mẹ Teresa ở Đài loan” nữa.

C – Để tóm lược lại.

Qua sự trình bày sơ lược trên đây, ta có thể tạm thời rút ra được một vài ghi nhận khái quát như sau :

1 – Vì giàu lòng từ bi bác ái, nên tôn giáo nào cũng dễ dàng kêu gọi các tín đồ của mình tham gia tích cực vào công việc từ thiện nhân đạo để cứu trợ người đồng lọai đang gặp cảnh khó khăn ngặt nghèo do thiên tai hay do chiến tranh tàn phá. Khi dấn thân nhập cuộc để thực hiện những công tác này, các tôn giáo đã đóng vai trò “làm đối tác” đối với chính quyền nhà nước trong sự nghiệp phục vụ quần chúng nhân dân, như đã trình bày ở bài 1 trong lọat bài này (counterpart).

2 – Nhưng lần hồi các tôn giáo đã mở rộng thêm phạm vi họat động nhân đạo sang các lãnh vực khác như phát triển kinh tế xã hội, tìm mọi cách để bảo vệ các nạn nhân của nạn buôn người, của nạn bất công đàn áp bóc lột, nạn độc tài chà đạp nhân phẩm và nhân quyền của các công dân… Ngòai ra, các tôn giáo còn đi xa hơn nữa trong lãnh vực “Làm trung gian để giàn xếp những mâu thuẫn tranh chấp ở các địa phương”, cùng tìm cách góp phần vào công việc “Xây dựng Hòa bình trên Thế giới” nữa. Để có thể thực hiện viên mãn được những công việc khó khăn phức tạp này, các tôn giáo đã bắt đầu biết cách liên kết rộng rãi với giới hàn lâm đại học (academia),với các tổ chức NGO khác, và cả với các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc nữa. Làm như thế, các tôn giáo đã đóng được “vai trò làm Đối trọng đối với các chính quyền nhà nước” (counterbalance) trong ý hướng bảo vệ Công lý và Hòa bình cho con người trong xã hội ngày nay vậy.

3 – Nhờ sự cộng tác chân thành và sự liên kết bền chặt với nhiều thành phần có niềm tin tôn giáo khác nhau, qua những công tác cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ đồng lọai kém may mắn trong suốt một thời gian lâu dài như vậy, mà các tôn giáo đã tạo ra được sự thông cảm, bao dung và tương kính lẫn nhau giữa các khối đông đảo quần chúng tín đồ của mỗi tôn giáo, để cùng chung sức góp phần xây dựng được một cuộc sống an lành, hòa nhã và nhân ái cho mọi người trong xã hội ngày nay.

Dĩ nhiên là vẫn còn một số thành phần cực đoan quá khích trong hàng ngũ các tín đồ, nhưng đó chỉ là một thiểu số rất nhỏ bé mà thôi, ta không nên quá bi quan với tình trạng tiêu cực này. Đại bộ phận các tín đồ vẫn còn giữ được truyền thống đạo hạnh, lương hảo và luôn sẵn sàng liên đới chia sẻ với nỗi bất hạnh khốn khổ của người đồng lọai.

Đó mới đích thực là niềm hy vọng chứa chan cho nhân lọai chúng ta vào đầu thế kỷ XXI ngày nay vậy./

(Trong các bài kế tiếp, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày chi tiết cụ thể hơn về tình hình sinh họat xã hội của các tôn giáo ở các địa phương, đặc biệt là ở Phi châu, Á châu và châu Mỹ Latinh, cũng như tại các quốc gia cựu-công sản ở Đông Âu nữa.)

California, Tiết Vu Lan năm Tân Mão 2011

Đòan Thanh Liêm

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (II)

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự  (II)

Bài 2  – Từ Họat động Nhân đạo đến Xây dựng Hòa bình

(Trường hợp của Giáo hội Tin Lành Mennonite)

Bài của Đòan Thanh Liêm

Tin lành Mennonite là một giáo hội rất nhỏ, số tín đồ trên tòan thế giới tính ra chưa tới quá 1.5 triệu người. Số tín đồ đông nhất là ở nước Mỹ, thì cũng chỉ có trên 368,000 người. Nhưng họ lại tham gia rất tích cực trong lãnh vực từ thiện nhân đạo, cũng như trong công cuộc xây dựng hòa bình tại khắp nơi trên thế giới.

Giáo hội này đã khởi sự sinh họat tại Việt nam từ trên 50 năm nay, cả trong lãnh vực truyền đạo và họat động từ thiện nhân đạo.Trong những năm gần đây, các nhà thờ tại gia (house churches) của tín đồ Tin lành Mennonite bị chính quyền cộng sản làm khó dễ đủ điều, đặc biệt là đối với người sắc tộc theo đạo Mennonite tại các vùng rừng núi cao nguyên. Việc này đã bị dư luận quốc tế phản ứng mạnh mẽ, nên kể từ năm 2004 – 2005 trở đi, thì đã có sự nới lỏng dễ thở phần nào. Ta sẽ có dịp tìm hiểu cặn kẽ hơn về chuyện này trong khuôn khổ chính sách của chính quyền Hanoi đối với các tôn giáo ở Việt nam trong một dịp khác.

Trong bài này, người viết xin trình bày chi tiết hơn về các họat động của người Mennonite tại Mỹ, mà tôi đã có dịp gần gũi quen biết từ nhiều năm qua. Như đã ghi trên nhan đề, bài viết này sẽ lần lượt đề cập đến hai lãnh vực : Từ thiện Nhân đạo và Xây dụng Hòa bình.

I – Ủy ban Trung ương Mennonite – MCC

(Mennonite Central Committee)

Ủy Ban này là cơ quan lúc ban đầu chỉ chuyên về họat động từ thiện nhân đạo do sự phối hợp của hai giáo hội Mennonite ở Canada và Mỹ với tổng số tín đồ lên tới khỏang nửa triệu người. Nhưng sau này, thì MCC lại mở rộng phạm vi họat động thêm nữa sang lãnh vực xây dựng hòa bình, chuyển hóa tranh chấp, bênh vực công lý và nhân quyền. MCC có trụ sở chính tại thành phố Akron tiểu bang Pennsylvania, trong khu vực Lancaster gần với thủ phủ Harrisburg.

Cơ quan này khởi sự từ hồi đầu thập niên 1920 khi chế độ cộng sản bolshevik được thiết lập tại nước Nga, thì xảy ra nạn đói rất trầm trọng tại miền Ukraine vốn xưa kia nổi tiếng với “vựa lúa mì Ukraine”. Được thành lập tại Chicago vào năm 1920, lúc đầu MCC chuyên tìm cách cứu trợ những người đồng đạo Mennonite đang lâm vào cảnh đói khát tại Liên Xô trong thời kỳ nội chiến đẫm máu giữa hồng quân Liên Xô với quân bạch vệ. Chiến dịch cứu trợ này kéo dài cho đến năm 1925 với chi phí tổng cộng lên tới trên 1.2 triệu dollar theo giá trị vào thời đó. Sau đó trong thập niên 1930, MCC tập trung vào việc giúp định cư những người Mennonite tỵ nạn từ Liên Xô chạy qua các nước Brazil và Paraguay ở châu Mỹ latinh.

Trong thế chiến thứ hai 1939 – 45, MCC lo việc cứu trợ cho mọi nạn nhân chiến tranh (chứ không chỉ hạn chế cho các đồng đạo như lúc ban đầu) tại các nước Ba lan, Anh và Pháp. Và sau đó, MCC tiếp tục phát triển và tham gia vào việc cứu trợ tại nhiều nơi khác trên thế giới. Hiện nay, MCC đang họat động tại trên 50 quốc gia ở khắp 5 châu lục với tổng số nhân viên là trên 1,100 người và ngân sách hàng năm lên tới trên 70 triệu dollars.

Trong phần xác định mục tiêu họat động của mình, MCC ghi nhận ngắn gọn rõ ràng như sau : “ MCC tìm cách biểu lộ Tình yêu của Thiên Chúa bằng cách làm việc cùng với mọi người đang đau khổ vì nạn nghèo túng, vì tranh chấp, vì bị áp bức và vì là nạn nhân của thiên tai. MCC phấn đấu cho hòa bình, công lý và phẩm giá của mọi người bằng cách chia sẻ những kinh nghiệm, tài nguyên và niềm tin nơi Chùa Giêsu Kitô.”

Nhân đây, cũng cần phải phân biệt rằng họat động của MCC thì độc lập riêng biệt so với họat động truyền giáo của các nhà thờ Tin lành Mennonite, mặc dầu tất cả đều cùng theo đuổi một tôn chỉ là nhằm thể hiện tinh thần môn đệ Chúa Giêsu Cứu thế tại trần gian này.

1 / Hoạt động từ thiện nhân đạo.

MCC họat động tại rất nhiều nơi trong các chương trình cứu trợ khẩn cấp, phát triển cộng đồng, xây dựng hòa bình, điều giải tranh chấp, bênh đỡ các nạn nhân, bằng cách chi tiêu tiền mặt và cung ứng thực phẩm, thuốc men, quần áo và dụng cụ học sinh…Ngòai những cứu trợ cấp thời, MCC tập chú những cố gắng phát triển lâu bền vào các lãnh vực như y tế, giáo dục, công lý và hòa bình, và trao đổi thương mại sòng phẳng (fair trade).

Đặc biệt phải kể đến hệ thống các cửa hàng do MCC bảo trợ, có tên là “Ten Thousand Villages”, nhằm phổ biến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại nhiều nơi trên thị trường Mỹ và Canada với doanh số hàng năm lên tới 5 triệu US dollars.

Riêng tại Việt nam, thì từ nhiều năm gần đây MCC vẫn có chương trình họat động thường xuyên tại nhiều địa phương trong các lãnh vực cứu trợ, phát triển cộng đồng, giáo dục, y tế, tín dụng nhỏ, cung ứng nước sạch, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, cấp học bổng, dậy Anh ngữ tại đại học… Ngân khỏan chi tiêu mỗi năm cho các chương trình này ở Việt nam lên đến 9 triệu dollars, với số nhân sự lên tới gần 20 người.

2 / Họat động xây dựng hòa bình.

MCC tổ chức 3 văn phòng vận động (advocacy offices) bên cạnh tổ chức Liên Hiệp Quốc và các chính quyền Canada & Mỹ. Văn phòng ở New York được gọi là  MCC United Nations Liaison Office. Văn phòng ở thủ đô của Canada có tên là MCC Canada Ottawa Office. Văn phòng ở thủ đô Mỹ có tên là MCC US Washington Office. Cả ba văn phòng này vừa làm công tác thông tin liên lạc, phối hợp họat động và vận động về đường lối chính sách theo tinh thần hòa bình, công lý bên cạnh Liên Hiệp Quốc và các chính phủ Canada và Mỹ.

Các văn phòng này tiếp nối tinh thần của các vị tiên tri như Môisen, Esther, và John the Baptist là dám đương đầu với viên chức chính quyền về những vấn đề công lý và đức tin (challenge public officials on issues of justice and faith). Đó là một hình thức làm chứng nhân và phương cách cụ thể của lòng yêu thương con người đồng lọai bên cạnh mình vậy.

Lập trường kiên quyết chống việc sử dụng bạo lực và chiến tranh để giải quyết những mối bất đồng tranh chấp trong xã hội, thì luôn luôn được người Mennonite (cũng như người Amish và người Quaker) theo đuổi từ nhiều thế kỷ nay, mặc dầu họ thường bị các chính phủ ngăn cấm và đàn áp. Từ lâu nay, họ luôn tự nhận mình là “người chống đối không tham dự chiến tranh vì lý do lương tâm ” (Conscientious Objector = CO) và cương quyết không tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời chiến tranh, dù có bị chính quyền làm khó dễ đến mức nào đi nữa.

Vào cuối năm 2008, do sự sắp xếp của vị Đại sứ của chính quyền Hanoi cạnh Liên Hiệp Quốc, Giám đốc Văn phòng Liên lạc của MCC ở New York là Doug Hostetter đã có dịp trao đổi thân mật và thẳng thắn với phái đòan Ban Dân Vận Trung ương của Đảng Cộng sản Việtnam về sự liên hệ giữa Tôn giáo và Chính quyền nước Mỹ, dựa trên tinh thần của Khỏan 1 Bản Tu chính trong Hiến Pháp Hoa kỳ. Cụ thể là Nhà nước tách biệt với Tôn giáo, nhưng giữa hai phía lại có sự tương kính tôn trọng lẫn nhau và có sự bảo đảm về tình trạng ” tự do tín ngưỡng và đa nguyên tôn giáo”.

II – Sự kết hợp giữa Đại học và Tôn giáo.

Riêng tại nước Mỹ, Giáo hội Mennonite đã thành lập được nhiều trường đại học, điển hình như  Eastern Mennonite University (EMU) tại Harrisonburg Virginia, Fresno Pacific University (FPU) ở California, Goshen College (GC) ở Indiana… Đó là chưa kể đến một chủng viện có quy mô lớn, lấy tên là Associated Mennonite Biblical Seminary (AMBS) tại Elkhart Indiana.

Các cơ sở giáo dục này là biểu hiện của sự hợp tác chặt chẽ giữa giới hàn lâm đại học và giới họat động tôn giáo. Đặc biệt trong vài chục năm gần đây, thì tại các cơ sở đại học này, ngòai công tác thường lệ về giảng dậy đào tạo sinh viên, thì lại đã có nhiều sự nghiên cứu trao đổi, gặp gỡ quốc tế để học hỏi thảo luận về những vấn đề sinh tử của thế giới ngày nay, điển hình như : – làm sao chấm dứt hay giảm bớt được những tranh chấp căng thẳng đẫm máu vì lý do sắc tộc, tôn giáo tại các địa phương? – làm sao chấm dứt được tình trạng bất công, bóc lột, đàn áp tàn bạo nhan nhản ở khắp nơi? – làm sao hàn gắn được những hận thù đổ vỡ giữa các nhóm đối nghịch cựu thù với nhau? v.v…

Những cuộc chiến tranh tại các địa phương khắp nơi kể từ sau năm 1945, thì còn gây ra sự thiệt hại khủng khiếp về nhân mạng tổng cộng gấp mấy lần so với hai cuộc thế chiến hồi đầu thế kỷ XX. Đó là điều khiến cho các tôn giáo hiện nay rất quan tâm lo lắng và cùng tìm mọi phương cách để giảm bớt lọai tai họa này do con người gây ra (man – made disaster) ngay tại mỗi địa phương.

Cụ thể như tại đại học EMU ở Virginia, cách xa thủ đô Washington DC chừng 100 miles, thì từ trên 15 năm nay đã thiết lập một cơ sở lấy tên là “Trung tâm Công lý và Xây dựng Hòa bình (CJP = Center for Justice and Peacebuilding) trong đó ngòai việc nghiên cứu lại còn có chương trình đào tạo bậc Cao học về “Chuyển hóa Tranh chấp” ( Master of Arts in Conflict Transformation). Hiện đã có đến trên 300 sinh viên tốt nghiệp về ngành này, trong số đó có mấy sinh viên từ Việt nam được cấp học bổng sang theo học tại đây.

Trong khuôn khổ của CJP tại EMU, lại còn có Viện Xây dựng Hòa bình Mùa Hè ( Summer Peacebuilding Institute = SPI). Viện này chuyên tổ chức các khóa hội thảo học tập trong suốt mấy tháng 5 và 6 mỗi năm dành cho các tham dự viên từ khắp nơi trên thế giới quy tụ gặp gỡ nhau để cùng trao đổi kinh nghiệm với nhau về các đề tài như “Hàn gắn Chấn thương” (Trauma Healing), “Chuyển hóa Tranh chấp” (Conflict Transformation), “ Công lý phục hồi” (Restorative Justice), “Phát triển cộng đồng và phát triển quốc tế”  (Community and International Development)… Các chương trình học hỏi trao đổi này đều do các giáo sư hướng dẫn điều khiển, nên có giá trị vững chắc theo đúng tiêu chuẩn nghiêm túc của môi trường đại học.

Hiện đã có trên 2,200 tham dự viên từ 121 quốc gia trên thế giới đến sinh họat trong các mùa hè tại đây. Các tham dự viên thuộc đủ mọi nghề nghiệp khác nhau và theo khuynh hướng tôn giáo khác nhau, như Tin lành, Công giáo, Chính thống giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo  v.v… Có người là mục sư, linh mục, nữ tu, chức sắc tôn giáo, hoặc chỉ là tín đồ bình thường. Có người là dân biểu, nghị sĩ, giáo sư, luật sư, kỹ sư, viên chức chính quyền hay là thiện nguyện viên… họat động ở những vùng xa xôi hẻo lánh.

Và hiện đã có tất cả 7 viện Xây dựng Hòa bình trong 6 quốc gia đang sinh họat theo mô hình SPI của EMU.

III – Đòan Xây dựng Hòa bình Thiên chúa giáo

(Christian Peacemaker Teams  CPT)

CPT là một tổ chức quốc tế được thành lập vào giữa thập niên 1980 nhằm yểm trợ các thiện nguyện viên họat động cho hòa bình trong các vùng có tranh chấp trên thế giới. CPT có nguồn gốc từ các nhà thờ theo chủ trương Hòa bình (Peace Churches) tại Bắc Mỹ và được sự hỗ trợ của các giáo hội Mennonite ở Mỹ và Canada và một vài giáo hội khác. Họ theo đuổi chủ trương bất bạo động trong việc góp phần hòa giải tranh chấp tại các địa phương. Hiện CPT có chừng 30 đòan viên họat động tòan thới gian cùng với trên 150 đòan viên trừ bị (reservists) tự nguyện tham gia công tác từ 2 tuần đến 2 tháng mỗi năm.

CPT đang họat động tại Colombia, Irak, West Bank (giữa Do Thái & Palestine), biên giới Mỹ- Mễ Tây Cơ, Kenora, Ontario Canada. Họ theo lý tưởng Xây dựng Hòa bình của Chúa Kitô, nhưng lại không nhằm đi truyền đạo như các vị thừa sai. Các đòan viên này là những tín hữu có niềm tin sâu sắc và kiên trì dấn thân bằng hành động cụ thể và bất bạo động theo đúng lời giảng dậy trong kinh thánh là : “Phúc thay cho những ai làm cho người hòa thuận” (Blessed are the peacemakers). Họ sinh sống và cùng làm việc với các người có thiện chí tại những vùng có tranh chấp căng thẳng,  nhằm mục đích duy nhất là tìm cách hòa giải giữa các phe đối kháng thù nghịch lẫn nhau. Vì thế mà họ gặp rất nhiều hiểm nguy đến tính mạng của bản thân mình.

Điển hình như vào cuối năm 2005, bốn thành viên họat động về nhân quyền liên kết với CPT đã bị bắt cóc ở thủ đô Baghdad của Irak, trong đó có ông Tom Fox bị hạ sát. Ông này 54 tuổi và là một vị lãnh đạo của chương trình sinh họat thanh niên tại Virginia. Và những đòan viên CPT họat động trong lãnh thổ của người Palestine tại vùng West Bank, thì nhiều khi bị thương tích do những cuộc xung đột thường xuyên giửa người định cư Do thái (settler) với người Palestine địa phương.  Cả ở Colombia, Mexico bên Nam Mỹ, thì CPT cũng thường gặp những chuyện hiểm nguy tương tự như vậy nữa.

Nói chung, thì trong mấy chục năm gần đây, các tôn giáo đã bắt đầu tham gia tích cực và cụ thể vào lãnh vực xây dựng hòa bình và bảo vệ công lý tại hạ tầng cơ sở ở các đia phương, cũng như tham gia góp phần xây dựng hòa bình trên bình diện tòan thế giới nữa. Từ vị thế làm đối tác (counterpart) với chính quyền nhà nước, thông qua những họat động từ thiện xã hội nhân đạo truyền thống, các tôn giáo đã can đảm chủ động dấn thân nhập cuộc hơn trong vai trò làm đối trọng (counterbalance) đối với chính quyền để bảo vệ người công dân trước những bất công, bóc lột đàn áp và dày xéo nhân phẩm do các thế lực chuyên chế thống trị gây ra. Những hoạt động của các tín đồ Mennonite tại Canada và Mỹ như được ghi lại vắn tắt trong bài viết này, thì đó là một minh họa rõ ràng cho chiều hướng nhập cuộc hết mình của Tôn giáo cùng với xã hội ngày nay vậy.

Trong một bài viết sau, chúng tôi sẽ trình bày về họat động của Hội đồng Giám mục Công giáo tại châu Mỹ Latinh (CELAM). Xin mời quý bạn đọc tiếp tục đón xem./

Costa Mesa, tháng 7 năm 2011

Đòan Thanh Liêm

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (1).

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự (1).

Lọat bài nhiều kỳ của : Đòan Thanh Liêm

Bài I –  Mối liên hệ giữa Tôn giáo và Chính quyền Nhà nước.

Như ta đã biết : Xã hội Dân sự (XHDS) là một khu vực khác biệt với khu vực Chính quyền Nhà nước và khu vực Thị trường Kinh doanh, đó là ba khu vực cấu thành cái Không gian Xã hội do con người sống hợp quần với nhau trong xã hội mà tạo lập ra. Và càng ngày với sự tiến bộ của nền dân chủ tại khắp nơi trên thế giới, thì sinh họat của XHDS mỗi ngày càng thêm khởi sắc phong phú hơn.

Ta có thể tóm lược cái định nghĩa này về XHDS trong một phương trình đơn giản như sau :

Không gian Xã hội = Nhà nước + Kinh doanh + Xã hội Dân sự

(The Social Space = The State + The Marketplace + The Civil Society).

Khu vực XHDS bao gồm các tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi (non- governmental, non-profit organisations – NGO – NPO) và các nhóm nhỏ (small groups) do các cá nhân hay tập thể tự nguyện đứng ra thành lập và điều hành. Như vậy, các tổ chức nhân đạo từ thiện hay văn hóa xã hội do các tôn giáo trực tiếp đảm trách hay yểm trợ, thì đều thuộc khu vực XHDS. Vì các tổ chức này đều có tính chất bất vụ lợi, nên cũng khác biệt với các công ty xí nghiệp có tính cách vụ lợi (for profit) thuộc khu vực thị trường kinh doanh.

Cụ thể như tại nước Mỹ, thì có đến cả triệu các đơn vị NGO ( mà hầu hết được chánh quyền cấp phát cho quy chế miễn thuế) và trên 3 triệu nhóm nhỏ (không cần đăng ký để được miễn thuế). Và trong các tổ chức này, thì có đến 60% xuất phát từ các tôn giáo, mà thường được gọi là các tổ chức họat động xã hội dựa vào niềm tin tôn giáo ( Faith-based social action organisations/groups).

Trong một thể chế dân chủ đích thực, thì chánh quyền nhà nước không bao giờ lại đi can thiệp vào sinh họat riêng biệt của các tổ chức thuộc khu vực XHDS. Mà trong một số trường hợp, nhà nước lại còn cấp ngân khỏan tài chánh, và yểm trợ cho các họat động từ thiện nhân đạo hay văn hóa xã hội của XHDS nữa. Và ngân khỏan điều hành chủ yếu của các đơn vị trong khu vực XHDS là do sự đóng góp tự nguyện của các thành viên, hay do sự tài trợ của các công ty xí nghiệp kinh doanh cấp phát cho (các khỏan tài trợ này đều được khai miễn thuế – tax exempt).

Chỉ có trong một chế độ chuyên chế độc tài tòan trị (totalitarian dictatorship) như tại Trung hoa, Việt nam, Bắc Triều tiên và Cuba hiên nay, thì đảng cộng sản mới xâm nhập, lũng đọan tòan thể khu vực XHDS, cũng như khống chế cả khu vực kinh doanh kinh tế nữa. Điển hình như tại Việt nam hiện nay, thì các cơ sở ngọai vi của đảng như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Công đòan, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đòan Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh, Hội Nhà văn v.v…, mặc dầu trên danh nghĩa đó là các tổ chức phi chánh phủ và bất vụ lợi, nhưng thực chất thì đều do đảng cộng sản lập ra để nắm giữ độc quyền thao túng và lũng đọan tòan bộ XHDS, nhất là để khống chế đối với các tổ chức tôn giáo.

Trong bài Dẫn nhập này, ta sẽ bàn về mối Liên hệ của Tôn giáo đối với chính quyền Nhà nước dưới các khía cạnh sau đây :

1/ Sụ tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà nước.

(Separation of  Church and  State)

2/ Vai trò Tôn giáo làm Đối tác đối với Nhà nước (Counterpart).

3/ Vai trò Tôn giáo làm Đối trọng đối với Nhà nước

(Counterbalance)

*  Sự tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà nước.

Từ mấy trăm năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng được một nền nếp sinh họat chính trị xã hội khá ổn định vững chãi, mà trong đó phải kể đến sự tách biệt rõ ràng giữa hai lãnh vực họat động của Tôn giáo và của chính quyền Nhà nước. Cụ thể là các Tôn giáo không tìm cách can thiệp, khuynh lóat hay thao túng vào công việc của cơ quan nhà nước. Và ngược lại, chính quyền Nhà nước cũng không xen vào sinh họat đạo đức tâm linh của các tổ chức tôn giáo.

Phạm vi họat động của một nhà nước thế tục càng ngày càng được quy định rõ rệt và chi tiết về nhiều phương diện chính trị, kinh tế xã hội cũng như văn hóa. Và dù có sự khác biệt tại một số quốc gia do ảnh hưởng của truyền thống lịch sử để lại, thì chiều hướng chung hiện nay trên thế giới vẫn là : lãnh vực thần quyền của tôn giáo không được lấn át hay đồng hóa vào trong lãnh vực thế tục của nhà nước; mà trái lại hai bên đều có sự tương kính và tương trợ lẫn nhau trong ý hướng cùng chung phục vụ quần chúng nhân dân. Đó là điều ta sẽ thảo luận chi tiết hơn trong hai mục tiếp theo sau đây.

** Vai trò Tôn giáo làm Đối tác với Nhà nước.

Chính quyền Nhà nước dù có thiện chí đến mấy đi nữa, thì cũng không thể chăm sóc đày đủ cho người dân về mọi phương diện vật chất cũng như tinh thần được, nhất là khi gặp thiên tai bão lụt, động đất, hay khi có chiến tranh tàn phá. Do đó mà cần phải có sự hợp tác của các tổ chức từ thiện nhân đạo của tư nhân, đặc biệt là của các tổ chức xã hội của Tôn giáo, để cùng chung sức góp phần vào việc phục vụ các nạn nhân, các bệnh nhân ngặt nghèo như bệnh phong cùi, bệnh HIV/AID, và tầng lớp quần chúng kém may mắn nhất của xã hội như trẻ mồ côi, góa phụ, người già neo đơn v.v… Về giáo dục, y tế cũng vậy, các trường công cũng như các bệnh viện công lập của nhà nước không thể thỏa mãn được nhu cầu của số quá đông các học sinh hay bệnh nhân, do đó mà cần phải để cho các tổ chức tư nhân cũng như các tôn giáo tham gia vào lãnh vực y tế giáo dục này.

Chỉ có trong chế độ độc tài cộng sản, thì nhà nước mới giữ độc quyền, không hề để cho các tổ chức tư nhân được tham gia vào việc phục vụ xã hội, như ta thấy ở Việt nam từ khi có chế độ cộng sản đến nay.

Tại các quốc gia dân chủ, không những tôn giáo được quyền tham gia vào các họat động xã hội, mà lại còn được nhà nước khuyến khích hỗ trợ để tôn giáo có thể phục vụ người dân một cách thỏa đáng hơn nữa. Cụ thể như ở nước Pháp, thì nhà nước thường trợ cấp và dành nhiều thuận lợi cho những cơ sở xã hội từ thiện nào mà được công nhận là có ích lợi công cộng, thí dụ như Hội Hồng Thập Tự, Hội Hướng Đạo, Hội Bác Ái Vincent de Paul v.v… (organisation reconnue d’utilité publique). Vì có sự hợp tác cụ thể và thường xuyên như vậy, nên đã phát sinh ra sự hiểu biết thông cảm và thân thiện giữa các viên chức cán bộ cùa Nhà nước với các tu sĩ và tín đồ của các tôn giáo. Và từ đó mà lần hồi tránh bớt được những ngộ nhận, thành kiến, ác cảm đối nghịch thường có giữa hai phía Nhà nước và Tôn giáo.

Triết gia người Pháp nổi danh là Jacques Maritain từ hồi giữa thế kỷ XX đã nhận định rằng tại nước Mỹ thì từ lâu đã có “ sự  phân biệt sắc nét và sự hợp tác thực tế ” giữa tôn giáo và nhà nước (sharp distinction and actual cooperation), mà ông gọi đó là một “kho báu lịch sử” rất đáng trân trọng cần phải được duy trì và phát triển thêm lên mãi (an historical treasure).  Và mới đây, vào đầu thế kỷ XXI Tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp cũng kêu gọi phải phát triển cái “tinh thần thế tục tích cực” (a positive laicité) với thái độ cởi mở hơn đối với tôn giáo.

*** Vai trò Tôn giáo làm Đối trọng đối với Nhà nước.

Chính quyền nào thì cũng dễ có khuynh hướng lạm quyền và vượt quyền, khiến gây ra những sự bất công áp bức đối với người dân. Vì thế mà tại các nước dân chủ, người ta mới phải áp dụng các phương thức gọi là “ kiểm soát và cân bằng” (checks and balance), nhằm ngăn chặn những vi phạm sai trái của cơ quan thi hành luật pháp mà thường gây ra thiệt hại cho dân chúng. Giới truyền thông báo chí, các tổ chức bênh vực nhân quyền, các đại diện dân cử do người dân bàu ra… đều có trách nhiệm đóng vai trò cảnh giác và ngăn chặn đối với những vi phạm này của nhân viên chính quyền.

Vì đi sâu đi sát với quần chúng nhân dân, nên Tôn giáo dễ phát hiện ra được những sự bóc lột bất công áp bức trong xã hội, và do đó cũng phải có trách nhiệm tham gia vào việc bảo vệ người dân bằng cách làm áp lực bắt buộc chính quyền phải sửa sai chấn chỉnh lại cái lề lối cai trị của mình, phải bài trừ nạn sa đọa quan liêu tham nhũng của nhân viên cán bộ nhà nước. Muốn làm được như vậy, thì giới tu sĩ và các tín đồ phải có lòng ngay thẳng và sự dũng cảm để dấn thân nhập cuộc cùng với tầng lớp sĩ phu trí thức, với giới văn nghệ sĩ – là những thành phần ưu tú của Xã hội Dân sự – trong sự nghiệp tranh đấu chung cho công bằng xã hội, cho nhân phẩm và nhân quyền của tòan thể cộng đồng dân tộc.

Thái độ im lặng, thụ động buông xuôi trước những bất công áp bức đày rẫy trong xã hội thì rõ ràng đó là sự lẩn tránh trách nhiệm, là cái tội đồng lõa với giới cầm quyền thống trị ác nhân ác đức. Đó là điều mà người chính nhân trượng phu quân tử, cũng như giới lãnh đạo tinh thần đích thực nơi các tôn giáo, thì không bao giờ lại có thể mắc phải được. Dân gian ta vẫn thường nói là : “ Anh hùng thấy sự bất bình chẳng tha”. Đó là sự nhắc nhở đề cao tán dương cái hành động cao quý của người có nghĩa khí hào hiệp, biết xả thân ra tay bênh vực cứu vớt những nạn nhân khốn khổ trước sự lộng hành của bọn côn đồ ác ôn thường hãm hại đàn áp dân lành vậy.

Nói vắn tắt lại, muốn làm tròn nghĩa vụ làm Đối trọng đối với chính quyền Nhà nước, thì giới lãnh đạo Tôn giáo cần phải có sự hợp tác chặt chẽ với giới Hàn lâm Đại học (Academy), vì giới này có sự hiểu biết bao quát và chính xác về tình hình xã hội, họ có tầm nhìn xa, có viễn kiến sâu rộng (global thinking / global vision). Họ có Trí tuệ thông suốt, mà Tôn giáo thì có cái tấm lòng từ bi nhân hậu, có sự hy sinh nhẫn nại kiên trì. Cho nên nếu kết hợp được cái Tâm và cái Trí như vậy, thì nhất định việc xây dựng và phát triển xã hội có cơ may thành công tốt đẹp, đáp ứng được niềm mong ước chính đáng của đại đa số quần chúng trong xã hội ngày nay vậy.

Nhân đây, cũng cần phải xác định cho rõ rằng : Xã hội Dân sự cũng như Tôn giáo, thì không bao giờ lại nhằm vào việc đánh đổ hay thay thế chính quyền Nhà nước. Mà XHDS chỉ nhằm hợp tác với Nhà nước để cùng chung nhau phục vụ dân tộc một cách có hiệu quả tối ưu mà thôi.

Trên đây là mấy suy nghĩ hết sức đại cương tóm lược về sự dấn thân nhập cuộc của Tôn giáo trong hòan cảnh xã hội đương thời, nhằm sát cánh chung với các thành phần khác của Xã hội Dân sự trong sự nghiệp xây dựng một xã hội tiến bộ, công bằng và nhân ái tại mỗi một địa phương quốc gia.

Trong các bài kế tiếp, chúng tôi sẽ xin trình bày chi tiết hơn về kinh nghiệm họat động cụ thể và suy nghĩ đúc kết của một số tổ chức tôn giáo điển hình có danh tiếng trên thế giới, và đặc biệt tại riêng một số quốc gia ở Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh.

Xin quý độc giả đón coi tiếp theo vậy nhé./

California, Tháng Năm 2011

Đòan Thanh Liêm

ÁNG HƯƠNG LÒNG

ÁNG HƯƠNG LÒNG

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.

Có nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa.  Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:
Làng kia có ngôi chùa.  Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa.  Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật.  Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang.  Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả.  Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật.  Dần dần bà đem lòng khó chịu.
Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo.  Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké.  Bà đâm lòng ghét bỏ.  Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch.  Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào.  Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia.  Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt  Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói.  Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.
Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta?  Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa.  Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta?  Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi.  Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu.  Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20)

Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng.  Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim.  Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.
Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước?  Nhóm mình hay nhóm kia?  Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?
Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi.  Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh.  So sánh thì có hơn thua.  Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện.  Thành công thì cũng có kém thành công.  Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra.  Nó âm thầm mà khó chịu.

Một con người ba khuôn mặt.

Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế?
Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy.  Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở.  Nghèo thì khổ.  Nghèo không thể tiến thân.  Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh.  Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi.  Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh.  Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình.  Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.
Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng.  Kẻ có quyền là người có miếng.  Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ.  Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng.  Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi.  Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua.  Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người.  Ai cũng muốn quyền lực.
Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời.  Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm.  Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.

Ba khuôn mặt trong đền thờ.

Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người.  Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị.  Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà.  Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt.  Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau.  Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.
Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo.  Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo.  Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia.  Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ.  Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác.  Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia.  Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn.  Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi!  Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào.  “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.”  Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm.  Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời.  Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”

* * *

Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia.  Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi.  Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa.  Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người.  Cạnh tranh dẫn đến lo âu.  Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình.  Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng.

Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh.  Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó.  Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng.  Thiên Chúa khổ tâm.
Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:
“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.

Học sinh VN: Quang Trung và Nguyễn Huệ là ‘bạn chiến đấu’

Học sinh VN: Quang Trung và Nguyễn Huệ là ‘bạn chiến đấu’

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI 13-7 (NV) – Các học sinh được đài truyền hành nhà nước VTV1 phỏng vấn trắc nghiệm kiến thức lịch sử đều không biết Quang Trung Nguyễn Huệ là ai, thậm chí còn nói các điều làm người ta ngỡ ngàng.

Học sinh này cho rằng Quang Trung và Nguyễn Huệ là bố con. (Hình: Dân Trí – cắt từ video clip).

Báo Dân Trí hôm Chủ Nhật 12/7/2015 thuật lại kèm theo video clip của đài VTV1 phát hình phóng sự phỏng vấn kiến thức học sinh trong mục “Chuyển động 24h” hôm Thứ Bảy trước đó. Các câu trả lời về kiến thức sử học của 7 học sinh cấp trung học cơ sở tại Việt Nam sây sốc cho mọi người khi được phóng viên hỏi “Quang Trung và Nguyễn Huệ có mối quan hệ gì với nhau?”

Một học sinh trả lời cho rằng Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em. Học sinh này còn nói “Ông Nguyễn Du chính là ông Quang Trung.” Một học sinh nói hai ông Quang Trung và Nguyễn Huệ là “bạn chiến đấu.” Một học sinh nói Quang Trung và Nguyễn Huệ là bố con. Chỉ có một học sinh hiểu đúng Quang Trung Nguyễn Huệ là … một.

Sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam ở các cấp từ tiểu học, đều nhắc đến trận chiến thắng lẫy lừng tại Ngọc Hồi – Đống Đa của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) chỉ huy đánh tan tành quân nhà Thanh xâm lược vào thế kỷ 18.

Môn sử học từ bậc Tiểu học đến Trung học ở Việt Nam từng bị đả kích rất nhiều về sai lầm đầy ngập trong sách giáo khoa do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo CSVN độc quyền in ấn phát hành, đến cách dạy máy móc buồn ngủ của các ông bà thày giáo. Các điều này dẫn đến hệ quả là học sinh không ưa môn sử.

Học sinh nói Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em. Em còn nói “Ông Nguyễn Du chính là ông Quang Trung” (Hình Dân Trí- cắt từ video clip)

Tờ VietnamNet hôm 13/7/2015 dẫn các con số thống kê từ kỳ thi tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông vừa diễn ra và năm 2014 cho thấy rất ít học sinh chọn môn sử (thi nhiệm ý).

“Số liệu thống kê của hai năm gần đây nhất cho thấy, trong kỳ thi tốt nghiệp THPT 2014 toàn quốc có 910,831 học sinh đăng ký dự thi, có số lượng thí sinh đăng ký thấp nhất trong 4 môn thi tự chọn là môn lịch sử với 104,959, chiếm 11.52%. “ Vietnamnet kể. “Trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2015 vừa qua, môn Lịch sử cũng có số lượng thí sinh chọn thi thấp nhất, với 153,688 em đăng ký (chiếm 15,3% trong tổng số gần 960 nghìn thí sinh đăng ký dự thi).”

Dẫn ra những chi tiết đáng ngao ngán hơn, Vietnamnet cho biết “Trường Lương Thế Vinh (Hà Nội), chỉ có 1 học sinh chọn môn Lịch sử. Trường THPT Việt Đức (Hà Nội) có 3% Trường THPT Đinh Tiên Hoàng có 6% học sinh đăng ký thi môn này… Trong buổi sáng ngày 4/7, các điểm thi ở Yên Thành và thị xã Thái Hòa (Nghệ An) do Hội đồng thi của Sở GD-ĐT Nghệ An chủ trì, chỉ có duy nhất 1 thí sinh thi môn Lịch sử…”

Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, phân tích trên Vietnamnet về sự sai lầm của những ông quan quản lý giáo dục: “Quan niệm hiện nay không đúng từ rất nhiều phía, khi cho rằng lịch sử chỉ là một môn học, mà quên đi nó còn là thứ để dung dưỡng tâm hồn, lòng yêu quê hương đất nước. Nếu nhìn nhận như vậy, thái độ của chúng ta đối với môn lịch sử sẽ khác chứ không phải như chúng ta đang làm hiện nay. Đây là lỗi của nhà quản lý.”

Học sinh cho rằng Quang Trung và Nguyễn Huệ là “bạn chiến đấu”. (Hình: Dân Trí – cắt từ video clip).

Đồng thời, ông nói “Nếu không cẩn thận, việc đưa các sự kiện, con số, ngày tháng vào chương trình dạy học lại thành ra mớ kiến thức cực kỳ khó nhớ. Dạy học theo phương pháp tiếp cận nội dung như hiện nay là một cách bắt học sinh phải nhớ những thứ khó nhớ đó, làm khô cứng một thứ lẽ ra rất sinh động. Đây là lỗi của chương trình”

Sách giáo khoa các cấp của Bộ Giáo Dục – Đào Tạo CSVN độc quyền phổ biến từng bị đả kích rất nhiều lần về những sai sót đầy ngập từ chính tả văn phạm đến kiến thức khoa học, lịch sử.

Hai năm trước, ngày 15/10/2013, tờ báo Người Lao Động trong bài “Sách giáo khoa đầy sạn” từng viết “Không phải chỉ một lần các chuyên gia lịch sử, thậm chí cả Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đã lên tiếng về những sai sót …này. Tuy nhiên, đến lần tái bản thứ 11 năm 2013, những “hạt sạn” nêu trên vẫn giữ nguyên.” (về sách lịch sử lớp 6).

Nạn chạy chọt, mua bán bằng cấp rất phổ biến tại Việt Nam, nhưng giữa Tháng 5-2015 vừa qua, hệ thống thông tin tuyên truyền tại Việt Nam dựa vào một phúc trình của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD) tung hô rằng giáo dục Việt Nam xếp hạng thứ 12, vượt xa nhiều nước tân tiến trên thế giới.

Trong cách phân tích của OECD, giáo dục của nước Anh đứng thứ 20, Pháp thứ 23, Mỹ thứ 28 và Thụy Điển chỉ xếp thứ 35. Không thấy học sinh sinh viên các nước vừa kể đổ xô nhau đến Việt Nam xin học, chỉ thấy những gia đình giầu có, quan quyền tại Việt Nam cho con sang Mỹ và các nước Âu Tây du học ngày một nhiều hơn chứ không ở lại Việt Nam. (TN)

Lời khuyên đáng ghi nhớ!

Lời khuyên đáng ghi nhớ!

  • 1. Người bạn quí mến của tôi…
  • 2. Xin hãy bảo trọng và giữ gìn sức khỏe…
  • 3. Dù bận bịu thế nào đi chăng nữa cũng phải quan tâm tới bản thân mình.
  • 4. Bạn bè tuy không thường xuyên liên hệ với nhau, nhưng vẫn cứ nhớ tới nhau.
  • 5. Hãy uống ít trà sữa, không nên ăn nhiều đồ ngọt và tránh xa nguồn điện cao thế.
  • 6. Ban ngày hãy uống nhiều nước vào, buổi tối cần uống ít đi. Không uống quá 2 cốc cà phê một ngày.
  • 7. Hãy ăn ít thức ăn có nhiều dầu và thường xuyên đi bộ.
  • 8. Sau 5 giờ chiều không ăn nhiều, ăn no. Mỗi ngày không uống quá 1 ly rượu.
  • 9. Nửa giờ trước lúc đi ngủ mà uống thuốc thì cần tránh uống thuốc xong là đi nằm ngay.
  • 10. Trung bình cần ngủ đủ 6 giờ, nếu bạn cảm thấy khó ngủ, hãy xem nằm là ngủ.
  • 11. Không sử dụng điện thoại di động khi chỉ thị nguồn điện giảm xuống còn 1 vạch. Bởi bức xạ lúc này lớn gấp 1.000 lần so với lúc bình thường.
  • 12. Nhớ là nghe điện thoại bằng tai bên trái, bởi nghe ở tai bên phải sẽ trực tiếp làm tổn thương đến đại não.
  • 13. Hai điều nên nhớ: Gặp phải sự việc không vui hãy bình thường hóa nó một chút. Nhìn thế giới lờ mờ một chút.
  • 14. Hãy “Quên đi” 3 thứ: – Quên đi tuổi tác, – Quên đi quá khứ, – Quên đi ân oán.
  • 15. “ Cần có” 4 thứ: – Có người yêu bạn chân thành, – Có bạn tri kỷ, – Có ý tưởng hướng lên, – Có nơi ở ấm áp.
  • 16. “ Cần” làm được 5 thứ: – Cần ca hát, – Cần nhảy múa, – Cần sự đẹp đẽ, – Cần cười vui, – Cần tha thướt, mềm mại.
  • 17. 6 thứ “Không thể được”: – Không để đói rồi mới ăn, – Không để khát rồi mới uống, – Không để nhíp mắt lại rồi mới đi ngủ, – Không để mệt rồi mới chịu nghỉ ngơi, – Không để phát bệnh rồi mới đi khám, – Không chờ đến quá muộn rồi mới ngồi ân hận.
  • 18. Tiếp nhận được tập tin này rồi, xin hãy chuyển nó tới từng bạn hữu mà mình quý mến! Đừng quên nhé…
  • 19. … Chúc bạn luôn luôn vui vẻ!
  • Anh chị Thụ Mai gởi