ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

Sau Ngôn Sứ Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo Dân Chúa, nay đến Ngôn Sứ Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.

Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số đó chính vị Ngôn Sứ là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho Dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai, vậy mà nay họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, vị Ngôn Sứ nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi tộc Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Ngài. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.

Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.

Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.

Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” ( 9, 2 ), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê ( 5, 1 ), bờ biển Phênicia ( 7, 24-31 ) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon ( 8, 27 ). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông Đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm Tông Đồ của mình ( 6, 30 ), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài trỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” ( 1, 35 ). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.

Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.

Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống Tông Đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để ra những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.

Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day… Trước khi khai mạc Công ĐồNG Vaticanô II, ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.

“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…

Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,

Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

TẠI SAO KHÔNG CÓ HÔI CỦA Ở NHẬT ?

TẠI SAO KHÔNG CÓ HÔI CỦA Ở NHẬT ?

Lúc gian khó mới tỏ lòng người, lấy lửa thử vàng, vàng vẫn còn nguyên vẹn. Khi trận động đất sóng thần năm 2011 xảy ra, người Nhật Bản đã cho tất cả các dân tộc trên thế giới một bài học sâu sắc về đạo đức và những chuẩn tắc làm người.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới mỗi khi có thiên tai đến là người ta lại chứng kiến những cảnh rối ren, hỗn loạn, cướp giật, hôi của tràn lan. “Nhưng ở xứ sở “mặt trời mọc” ( Nhật Bản ) thì lại khác. Nơi ấy, hàng vạn người đã mất hết nhà cửa, và thậm chí mất hết người thân… vậy mà họ vẫn lặng lẽ xếp hàng nhận từng nắm cơm trắng, cuộn mình trong những chiếc chăn mỏng thành hàng, thành lối trong chỗ trú nạn. Không hỗn loạn, không tranh cướp, không một ai tích trữ, không một ai kêu than. Có chăng chỉ là những dòng nước mắt lặng lẽ như lặn vào sâu thẳm”.

Cảnh tượng truyền thông thế giới ghi nhận không phải là cảnh tượng hỗn loạn, cướp giật, hôi của, mà là cảnh đoàn người trật tự xếp hàng chờ hàng cứu trợ. Dù khi tới phiên mình có thể lương thực đã hết nhưng họ vẫn kiên nhẫn xếp hàng. Nhiều câu chuyện kể lại có nhiều người đã nhường khẩu phần của mình cho người khó khăn hơn.

Tại một cửa hàng khác đã tan hoang vì động đất, người ta thấy một máy ATM và nhiều thùng lương thực bên trong vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù xung quanh không có ai bảo vệ.

Tờ Telegraph ghi nhận: Hàng hóa dù rất khan hiếm, lương thức thiếu thốn, như không hề có tình trạng đầu cơ tăng giá bán – các siêu thị giảm giá 20% và các chủ máy bán nước tự động phát không nước uống cho mọi người – tất cả cùng đoàn kết để tồn tại.

Du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản chia sẻ: “Không thấy cảnh cướp bóc, chen lấn, xô đẩy nơi mua thức ăn hay trong ga điện ngầm đang tắc nghẽn. Mọi người xử sự rất bình tĩnh dù ai cũng đều căng thẳng và lo lắng. Giá cả thị trường Nhật Bản cũng không nhân dịp này mà tăng.”

Anh Hà Minh Thành một người Việt ở Nhật Bản đã gửi mail kể một câu chuyện như sau: “Tối hôm qua em được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng em chú ý đến một đứa nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà nó lại xếp hàng cuối cùng, em sợ đến phiên của nó thì chắc chẳng còn thức ăn. Nên mới lại hỏi thăm. Nó kể nó đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha của nó làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường nó nhìn thấy chiếc xe và cha nó bị nước cuốn trôi, 100% khả năng chắc là chết rồi. Hỏi mẹ nó đâu, nó nói nhà nó nằm ngay bờ biển, mẹ và em của nó chắc cũng không chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe em hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy nó lạnh em mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người nó. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của em bị rơi ra ngoài, em nhặt lên đưa cho nó và nói: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói.”

Thằng bé nhận túi lương khô của em, khom người cảm ơn. Em tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, em hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Nỏ trả lời: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ”.

Em nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác khóc để mọi người không nhìn thấy. Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi mới học lớp 3 đã có thể dạy em một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.”

Câu chuyện này được rất nhiều báo chí trong nước đăng tải, gây xúc động mạnh mẽ, xem đây là điều huyền hoặc diễn ra tại Nhật Bản.

Một câu chuyện khác đăng trên blog của cô gái lấy tên Shopia. Chuyện kể về bạn của Sophia, cùng với mẹ và đứa em trai 2 tuổi bị mắc kẹt trong cơn sóng thần và đang tìm mọi cách để trèo lên ban công tòa nhà gần nhất. “Họ không ngừng kêu cứu, và một người đàn ông đã nhìn thấy họ từ ban công căn nhà phía sau. Rồi người đàn ông đó ngay lập tức nhảy khỏi ban công xuống nước, giúp bạn tôi, mẹ cô ấy và cậu em trai trèo lên ban công vào căn nhà. Nước lúc đấy càng ngày càng mạnh, không thể đứng vững được nữa. Trong hoàn cảnh đó, người mẹ đã kiên quyết để hai đứa con mình lên trước rồi người đàn ông xa lạ đứng dưới đỡ bà lên. Khi chỉ còn người đàn ông ở bên dưới, và người mẹ đang nắm chặt tay ân nhân để kéo lên, “bất chợt một chiếc ôtô ( trong hàng trăm chiếc ) bị nước cuốn tràn tới đúng hướng người đàn ông đó. Mọi người ở bên trên gào thét, nhưng rồi đột nhiên, người đàn ông ấy giật khỏi tay mẹ bạn tôi, để bà ấy không bị kéo theo xuống nước. Chiếc ô tô đâm vào ông ấy và cuốn ông hất đi.”

Trước đó, họ là những con người hoàn toàn xa lạ, có gia đình riêng, có cuộc sống riêng… nhưng khi thảm họa bất ngờ ập đến, đứng trước những lựa chọn giữa sự sống và cái chết, họ có thể chấp nhận tặng cả cuộc sống cho nhau. Những câu chuyện ấy ngày nay tưởng chừng chỉ có trong trí tưởng tượng thì lại xảy ra ở Nhật Bản.

Truyền thông thế giới đều ngả mũ thán phục kỳ tích Nhật Bản

Ông Ed West viết trên tờ Telegraph: “Tinh thần đoàn kết của người Nhật thật mạnh mẽ. Sức mạnh của xã hội Nhật Bản có lẽ gây ấn tượng còn hơn cả sức mạnh công nghệ của họ.”

Còn tổng biên tập báo Bangkok Post Pichai Chuensuksawadi không thể tin được đã phải thốt lên: “Chẳng phải đã bao nhiêu lần chúng ta thấy cảnh hôi của, cướp giật và bạo lực sau một thảm họa thiên nhiên đó sao ?”

Giáo sư Gregory Pflugfelder chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại học Columbia ( Mỹ ), nhận định: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ nào để mô tả chính xác hành động này.”

Nhà phân tích Ed West đặt câu hỏi trên tờ Telegraph: “Tại sao không có hôi của ở Nhật Bản ?” Trang web tìm kiếm Google cho thấy có 2.770.000 người đã đặt ra vấn đề tương tự như ông West.

Điều gì tạo nên kỳ tích Nhật Bản ?

Sau trận động đất gây sóng thần ở Nhật Bản, thế giới lao vào tìm hiểu xem điều gì đã tạo nên kỳ tích ở Nhật Bản, và họ đã tìm được câu trả lời: Đó là đức tin và giáo dục đạo đức.

– Đức tin

Đa số người Nhật theo Thần Giáo, Phật Giáo. Ngoài ra Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín của Nho Giáo ( do Khổng Tử đề xướng ). Với những ai sống ở các quốc gia bị ảnh hưởng bởi thuyết vô Thần thì khi nói đến “đức tin” họ chỉ phì cười, đơn giản bởi vì họ không còn tin nữa, mà không nghĩ rằng bản thân mình đã bị học thuyết vô thần tẩy não cắt đứt mất mối liên hệ với cội nguồn văn hóa truyền thống dân tộc, đến mức không còn hiểu tin để làm gì.

Còn tại các nước khác như Nhật Bản thì “đức tin” đó là tự nhiên và đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người. Người Nhật đã sử dụng “đức tin” của mình khi đối mặt tất cả những vấn đề trong cuộc sống, kể cả những tình huống hiểm nguy nhất.

Một dân tộc có “đức tin” thì dân tộc đó vẫn còn có chuẩn mực đạo đức, nếu một dân tộc không còn “đức tin” thì càng ngày càng sa đọa, đạo đức tụt trên dốc lớn.

Một dân tộc không có “đức tin”, lại còn bị ảnh hưởng của học thuyết đấu tranh thay cho văn hóa cổ truyền dân tộc, thì con người sẽ đấu tranh với nhau, người với người xem nhau như thù địch, bằng mặt không bằng lòng, không thể đoàn kết.

– Giáo dục lấy đạo đức là cốt lõi

Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật. ( Hình bìa sách giáo khoa Đạo Đức của học sinh Nhật ).

Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền của dân tộc mình. Tinh thần kế thừa và phát triển văn hóa cổ truyềnlà một trong những mục tiêu chủ yếu nhất trong giáo dục, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.

Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”. Phương châm của người Nhật là: “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng công dân có thể mài giũa nhân cách bản thân…”

Trẻ em Nhật Bản ngay từ mẫu giáo đã được giáo dục những quy tắc ứng xử căn bản. Trẻ em được dạy khi gặp tình huống nào phải xin lỗi hay cảm ơn, và áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế mà trẻ em đã biết những gì tốt đẹp nên làm, và những gì không nên làm từ rất sớm.

Trẻ cũng được thực hành thói quen giúp đỡ người khác như phục vụ đồ ăn cho các bạn.

Khi học tiểu học, trẻ em được giáo dục nhân cách và tính sáng tạo, ứng xử văn minh.

Bìa sách giáo khoa Đạo đức của học sinh Nhật. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Bìa sách giáo khoa Đạo đức của học sinh Nhật. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Không nên làm những điều xấu như chơi xấu bạn, ăn cắp, vẽ bậy... Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Không nên làm những điều xấu như chơi xấu bạn, ăn cắp, vẽ bậy… Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Luôn quan tâm giúp đỡ người xung quanh. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Luôn quan tâm giúp đỡ người xung quanh. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Sách giáo khoa môn đạo đức là rất quan trọng, các giáo viên luôn nhắc nhở học sinh rằng: “Bất kỳ ở đâu, bất kỳ khi nào, bao nhiêu lần đi nữa các em hãy giở cuốn sách đạo đức, để suy nghĩ xem trong cuộc sống điều gì là quan trọng nhất đối với chúng ta, và hãy phát huy nó trong đời sống của bản thân mình.”

Lên cấp 2 trẻ được học cách ứng xử với những lời phê bình, tôn trọng người khác và tôn trọng sự thật.

Đạo đức là môn học bắt buộc và được chú trọng, nhưng lại không có giáo trình thống nhất, điều này giúp giáo viên linh động sáng tạo được các bài giảng riêng phù hợp với học sinh. Trong đó văn hóa cổ truyền của dân tộc luôn là kho tàng quý giá được các giáo viên vận dụng vào các bài giảng và thực hành. Học sinh sớm học các tình huống ứng xử khác nhau, mỗi tình huống đều vận dụng đạo đức để xác định mình nên hành xử thế nào cho đúng.

Trẻ em Nhật Bản được giáo dục lao động từ những công việc vừa sức. (ảnh: Internet)

Trẻ em Nhật Bản được giáo dục lao động từ những công việc vừa sức. (ảnh: Internet)

Hiệu quả có được từ giáo dục đạo đức

Do được giáo dục đạo đức từ nhỏ rất kỹ về lý thuyết, đặc biệt về thực hành, liên hệ thực tiễn, tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, học sinh được thực hành hành vi đạo đức ở mọi lĩnh vực nên hành vi đạo đức được hình thành ở mọi học sinh.

Không có hiện tượng quay cóp, ăn cắp, bạo lực học đường. Học sinh thể hiện tình yêu thương, kính trọng thầy cô, tình thân ái với bạn bè đúng mức. Các hành vi vi phạm đạo đức của học sinh là ít và cá biệt chứ không nổi cộm.

Ở ngoài xã hội, học sinh Nhật luôn là người ứng xử có văn hóa. Người Việt Nam hay nước ngoài đến Nhật Bản có thể thấy có nhiều cây ăn trái chín trĩu quả, hay những cây hoa cảnh khoe sắc hấp dẫn ở công viên, ở hai bên đường đi. Nhưng không hề có ai có suy nghĩ hái những bông hoa hay trái cây đó cả.

“Đức tin” và giáo dục đạo đức đã tạo nên một kỳ tích Nhật Bản, một kỳ tích mà bất kỳ một nhà giáo dục hay một nhà lãnh đạo nào trên thế giới cũng đều ngưỡng mộ và mong muốn.

NGỌN HẢI ĐĂNG, từ Đại Kỷ Nguyên Việt Nam

Từ EPHATA 650

Ăn Trộm của huyện còn là chuyện nhỏ

Ăn Trộm của huyện còn là chuyện nhỏ

Nguyệt Quỳnh

19-07-2015

Trịnh Khả là bậc thái tể đứng đầu triều đình nhà Lê. Ông là người thẳng thắn, giữ phép nước rất nghiêm. Một hôm, viên quan giữ chức Chuyển vận Phó sứ của huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ. Việc ấy bị phát giác, ông muốn nghiêm trị nhưng các quan hai bên tả hữu đều một mực xin tha. Trịnh Khả cương quyết nói:

Ăn trộm của một nhà còn không thể nào tha, huống chi là ăn trộm của một huyện.

Nói xong, liền giao xuống cho các quan tra xét. Rốt cuộc, viên quan cấp huyện ấy bị xử tội phải chết. Các quan thời bấy giờ, trên dưới không ai là không sợ.

***

Thời Trịnh Khả không có những loại “bình quý” để chuột ẩn núp. Thời ấy ông bà ta sống đối diện với Trời với Đất, với quỷ thần trên hai vai. Người ta tin rằng có nhân quả, có kiếp trước, kiếp sau. Người ta nhắc nhau làm lành, lánh dữ vì cho rằng ở ác thì sẽ gặp quả báo, gian tham của kẻ khác thì sẽ bị trời phạt. Biết bao đời vua, không thiếu những vị quan làm đến chức tể tướng trong triều mà trong nhà vẫn thanh sạch.

Ngày nay, thể chế độc tài, độc đảng trong cơ chế thị trường định hướng của nước ta đã sản sinh ra nhiều “lợi ích nhóm”. Chuyện ăn cắp của một huyện còn là chuyện nhỏ và là chuyện rất “bình thường” ! Bộ máy nhà nước đang trở thành công cụ cho một nhóm người độc quyền kinh tế và độc quyền chính trị. Đến nỗi chính phủ đã phải huy động toàn xã hội tham gia phòng chống tham nhũng. Chỉ cần lược sơ qua các ban nghành được thành lập đủ thấy mức độ hệ trọng của nó: đứng đầu là Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng Trung ương thuộc Đảng CSVN, bên Chính phủ thì có Thanh tra Chính phủ do Tổng Thanh Tra chính phủ đứng đầu và hầu như tất cả các Bộ ngành, Uỷ Ban Nhân Dân đều có cơ quan phòng chống tham nhũng.

Thế mà theo Trace International, một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ; cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới thì Việt Nam đứng hạng 188 với 82/100 điểm, nằm lọt thỏm trong nhóm mười quốc gia tham nhũng nhất. Đó là chỉ số đo lường của một cơ quan bên ngoài, còn trong nhà thì sao? Về thành quả phòng chống tham nhũng, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nhấn mạnh rằng trên thực tế, trong tổng số bị can bị khởi tố về hành vi tham nhũng, các cán bộ cấp xã, phường chiếm tỷ lệ 30,9% còn cấp Trung ương chỉ chiếm rất ít chỉ có 0,3%.

Liếc sơ qua hai chỉ số trên, người ta biết ngay rằng những ổ chuột lớn đang được bảo vệ. Đại biểu Quốc Hội Lê Như Tiến xác nhận: “Phòng chống tham nhũng chỉ dừng lại ở việc bắt sâu nhỏ lá cành chứ chưa bắt được sâu lớn đục khoét thân cây gốc rễ. Đó mới là nguyên nhân chính làm suy kiệt nhựa sống của cơ thể xã hội”. Dẫu cho các quan chức ở thượng tầng có hô hào với đầy lòng quyết tâm và hàng trăm lời thề độc cũng sẽ chẳng làm được gì. Kế hoạch đã bế tắc ngay từ nguyên thuỷ vì người được giao trách vụ chống tham nhũng cũng chính là người bảo vệ tham nhũng, là người đã từng tham nhũng hoặc cũng đang ở trong các nhóm lợi ích.

Cấp huyện có thể ngang nhiên tham ô nhũng nhiễu được là vì có bao che, ăn chia với cấp tỉnh, cấp thành phố. Cấp tỉnh, cấp thành phố có ung dung được như vậy là do có sự thông đồng của cấp cao hơn nữa, cho đến cấp cao nhất… bởi thượng bất chánh hạ tắc loạn. Cứ xem dinh cơ của quan Trần Văn Truyền, chỉ mới ở cấp trung ương đảng, rồi đến cung điện của ông Nông Đức mạnh, Lê Khả Phiêu… thì biết, lương họ bao nhiêu? bổng ở đâu ra? Các hình ảnh tràn lan trên mạng cho thấy có cả ngà voi, trống đồng – tức là đồ quốc cấm – trong nhà riêng của họ. Đây mới là lý do tại sao cấp tỉnh, cấp huyện ăn cắp mà vẫn nhởn nhơ. Ai cũng bảo rằng những vụ được lôi ra chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Còn hằng hà sa số “các đồng chí chưa bị lộ”.

Tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, các cơ chế chống tham nhũng nhiều đến nỗi tưởng chừng như con ruồi bay qua không lọt, thế nhưng chưa bao giờ các cơ chế ấy phát hiện ra một vụ tham nhũng nào. Tại sao? Nhà báo Kim Quốc Hoa, Tổng biên tập báo Người Cao Tuổi chỉ vì lôi ra nhiều vụ tham nhũng và tha hoá thì bỗng dưng chính ông lại trở thành tội phạm. Bài báo “ Bàn về thị trường Sao Và Vạch” là giọt nước cuối cùng đưa ông vào chốn tù tội!

Sâu xa trong lòng mọi người VN, ai cũng muốn được sống trong một xã hội thượng tôn pháp luật. Không thiếu những cán bộ trong bộ máy công quyền ngày nay đã một thời hy sinh, một thời chấp nhận đổ xương máu để mong đem lại một đất nước tự do no ấm cho đồng bào mình. Tuy nhiên, sự im lặng ích kỷ đang đánh đồng họ với những kẻ cơ hội, gian dối, sách nhiễu và tham nhũng…

Ngày xưa khi đi vào chiến tranh, người ta không màng đến sống chết, không nghĩ đến bom đạn, hiểm nguy. Cái chết của đồng đội hay của chính bản thân được nhìn thấy trước mắt, hàng ngày, nơi cụm vườn, miếng ruộng, rừng cói, lạch nước… nhưng người ta không lùi bước vì người ta biết mình là ai, mình muốn gì, mình phải sống ra sao. Người ta gắn kết chính mình với quê hương và niềm tự hào dân tộc. Người ta gắn kết mật thiết với nhau bởi tình yêu nước, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với tổ quốc.

Ngày nay sự gắn kết đó bị gãy đổ. Lý tưởng, lòng nhiệt thành yêu nước bị đánh bạt trước bạo lực và sợ hãi. Cái xấu lên ngôi, kẻ xấu kéo theo bầy đàn. Người ta không còn dám tin vào điều thiện, không dám đứng lên chống lại cái xấu và cái ác, người ta làm ngơ trước những bất công, ngang trái. Đồng sự, ông A không thể đưa con mình ra bảo vệ biển đảo khi con ông B đang du học yên ấm ở xứ người. Các tướng tá quân đội không thể đẩy con mình ra chiến trường để bảo vệ đất nước, khi con của Thủ Tướng đương nhiệm đang làm chủ cả một khối tài sản khổng lồ ở Hoa Kỳ bao gồm cả một vận động trường trị giá lên đến hàng trăm triệu Mỹ Kim…

Và thế là tham nhũng nối tiếp tham nhũng, cầu sập kéo theo cầu sập. Từ Cầu treo Chùa Bung đến cầu treo Cái Bảng rồi đến Chu Va…người ta đành chấp nhận sống với những tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào do những công trình bị tham nhũng rút ruột. Những tuyến đường sắt chênh vênh mạng người như Cát linh – Hà Đông với chi phí đội vốn lên đến gấp đôi dự tính; thế mà cũng chỉ thấy đây đó phản ứng bằng những cái lắc đầu ngao ngán hoặc một tiếng than não lòng: “sao có thể đem tính mạng, của cải của dân ra đùa giởn?”

Các cán bộ nhà nước, giới trí thức, báo chí còn im lặng, còn cam chịu như thế; hỏi sao dân đen không bị chúng cho lưu manh dùng xe ủi đất cán lên người? Nhưng mối hoạ không chỉ dừng ở đó. Đức thánh cha Phanxicô bảo rằng: “Một xã hội tham nhũng thì như một xác chết đang thối rữa”.

Và sự thối rữa đó lây lan. Nó đang lan sang quân đội, lực lượng được coi là đứng đầu sóng ngọn gió để bảo vệ tổ quốc. Một bản tin gần đây cho hay bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Trị đã kê khai để thanh toán hàng tỷ đồng tiền xăng dầu nhưng chẳng hề đi tuần tra để hỗ trợ ngư dân. Thế là kẻ cướp cứ tha hồ đâm tàu, đuổi đánh, ức hiếp, cướp bóc ngư dân VN vì lực lượng vũ trang biên phòng chỉ đi tuần…trên giấy!

Tham nhũng tàn phá tất cả. Từ văn hoá, xã hội, đến con người và chính nó là nguy cơ dẫn đến mất chủ quyền đất nước. Tham nhũng đã mời Trung Cộng vào độc chiếm Tây Nguyên, cho phép kẻ thù đào đường hầm bí mật ở Hà Tĩnh, tự do làm bất cứ điều gì họ muốn ngay trên mảnh đất của tổ quốc! Nếu ngày xưa trong chiến tranh biên giới, nhân dân VN đã đổ máu để giành giật từng đường hầm, từng điểm cao ở Đồng Đăng, Móng Cái…thì ngày nay ta mở rộng cửa, mời đón họ vào đóng trụ ở những nơi hiểm yếu nhất. Nếu ngày xưa ta quan niệm rằng chính mình có thể bị huỷ diệt, nhưng đất nước này dân tộc này không thể bị huỷ diệt, thì ngày nay chỉ vì đồng tiền ta vất bỏ tất cả.

***

Trong cái tối tăm mịt mờ ấy, kẻ tối dạ nhất trong mỗi người dân chúng ta cũng biết rằng “tham nhũng chỉ chấm dứt khi đất nước có dân chủ”. Có điều vẫn còn rất nhiều người chưa biết là dân chủ sẽ có mặt khi nó đến từ quyết tâm của mỗi chúng ta. Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng hồi ức những ngày máu lửa vẫn còn nguyên đó. Sâu xa trong lòng, tôi vẫn tin đất nước sẽ là điểm nối kết cho người dân VN, bởi nỗi đau trong tim tôi cũng là nỗi đau trong tim anh. Không còn cách nào khác, đất nước chúng ta đã đụng đáy. Sự thay đổi phải đến từ chính mỗi chúng ta. Hãy chặn đứng tham nhũng ngay từ vị trí, chỗ đứng của mình. Khi chúng ta bắt tay hành động, môi trường chung quanh sẽ thay đổi, xã hội sẽ thay đổi và đất nước sẽ hồi sinh.

Đừng trông chờ nơi lãnh đạo CS, vô ích! Để bảo vệ được chế độ, chính họ đang chủ động sử dụng tham nhũng để duy trì sự trung thành của hàng ngũ cán bộ đảng viên. Cao hơn nữa, Trung Cộng đang dùng chính hàng ngũ lãnh đạo tham nhũng này để chiếm đoạt đất nước VN.

Trận chiến này Trung Cộng đang thắng thế. Chúng đã chẳng hề tốn chút xương máu gì; cái giá trả cho cuộc trường chinh của họ quá rẻ so với cuộc chiến tranh biên giới năm nào!

Bạn lòng thân mến,

“Bạn lòng thân mến,”

đây giây phút thần tiên

Nghe chan chứa hương đời.

Nhạc lời êm ái tôi ca ấm vành môi,

Mong sao đến bên người.”

(Nhạc: Hoàng Trọng/Lời: Hồ Đình Phương – Bạn Lòng)

Trần Ngọc Mười Hai

(Lc 6: 36-38)

Lời nhắn gọi như trên, mà lại nghe được từ loa phóng thanh hơi bị lớn tiếng vẫn không hay bằng những tâm tình tỉ-tê trên ipod, ipad hoặc iphone, đấy chứ nhỉ? Chưa đâu. Bắt đầu bài hát chỉ là lời nhắn hoặc tiếng gọi mời mà thôi. Trứ-danh hơn, phải nghe câu tiếp mới thật trời ơi…sao lại như thế, đến thế này:

“Bạn là trăng sáng,

Trong đêm tối hồn tôi,

Soi lên bao ánh tươi.

Bạn là hoa thắm,

trên hoang vắng tình tôi,

vun lên một mùa mới!

Gặp nhau năm ấy,

trao câu hát làm tin,

Đem cung phím gieo tình.

cùng yêu sông núi,

yêu duyên nước trời xanh,

yêu hương lúa thơm lành.

Đời ta chung hướng,

bao nhiêu ý chờ mong,

Xay đắp nên mái tranh.

Để cùng vui sống,

Say sưa đón bình minh,

Chứa chan mộng ngày xanh.”

(Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Quả có thế. Chẳng cần ới gọi gì nhiều. Sơ sơ chỉ vài ba lời nhắn thôi, người nghe hát hay nghe được lời nhủ này, cũng sẽ thấy tuyệt vời trên mức tuyệt diệu. Ai đời, sống vui, sống mạnh chỉ những là: “Say sưa đón bình minh”, “Chứa chan mộng ngày xanh”, “Xay đắp nên mái tranh”.

Thế còn, đắp xây mái nhà thần-học của Hội rất thánh là Nước Trời thì thế nào?

Để trả lời thật vắn gọn, thì đây, xin mời bạn và mời tôi ta nghe thử những lời nhắn rất nhè nhẹ của đấng bậc chủ quản cả một Giáo hội/hội rất giáo điều, như sau:

“(Anh chị em) hãy cởi mở đối với chiều-kích xã-hội và Giáo-hội rộng lớn hơn, mời gọi cả những người có dịp tiếp-xúc với đoàn sủng của anh chị em, tuy không thường xuyên tham-dự các sinh-hoạt của nhóm…

Thật là đẹp, khi giúp đỡ cả những người gặp khó khăn và vất vả nhiều hơn trong việc sống đức tin của họ, giúp họ tiếp xúc với Mẹ Giáo-hội…

Tôi khuyến khích anh chị em hãy ‘luôn đi xa hơn!’ trung-thành với đoàn-sủng của mình! Hãy giữ cho lòng nhiệt-thành, ngọn lửa của Chúa Thánh Linh luôn thúc-đẩy các tín-hữu Chúa tìm đến những người ở xa, ra khỏi cuộc sống tiện-nghi, thoải-mái của mình và có can-đảm đi tới mọi khu ngoại-ô đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (Phong trào Cursillo trích Lời Đức Phanxicô kêu gọi trong buổi tiếp 7,000 thành viên Châu Âu hôm 30/4/2015, Lm Trần Đức Anh, OP dịch)

Vâng. Rất đúng như thế. Nếu không đi xa, ra ngoài khuôn khổ đạo-giáo/nhà thờ, thì làm sao nghe được những ‘lời nhắn’ không từ iphone, ipad hoặc ipod, mà từ loa phóng thanh hồi đó những lời lẽ rất như sau:

“Tôi đang còn ghi nhớ sớm nào,

trời đẹp màu nắng.

Ta cùng hòa nhịp đồng tâm trong câu:

“Ôi không gì êm ấm cho bằng,

Tinh bạn vừa kết tâm đầu,

Rồi hẹn đừng có xa nhau.

Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca.

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Rất như thế, một lời vừa nhận-định đúng múc, vừa nhắn nhủ rất dễ thương như thấy nhiều trong cuộc đời ở ngoài, nhiều hơn trong “nhà thờ”. Bạn không tin ư? Thế thì, xin mời bạn và mời tôi, ta cứ tiếp tục ‘đi xa’ hơn nữa, rồi sẽ thấy sẽ nghe được những lời lẽ như thế vầy:

“Có phải Ngài muốn đưa người khác đi vào sứ-vụ của Ngài? Phải công-nhận là: việc dùng cụm-từ “sứ-vụ” cốt để mô-tả những gì Đức Giêsu từng thực-hiện, bởi: việc Ngài làm, mang nhiều ý-nghĩa hơn lối sống riêng-tư của Ngài.

Dĩ nhiên, ý của tôi không phải bảo: ta nên hiểu cụm-từ “sứ-vụ” là toàn-bộ công-trình Ngài quyết làm; chẳng hạn như hành-trình kéo dài nhiều tháng/ngày của ông Phaolô xuyên vùng Địa Trung Hải, cũng là những điều nói về việc rao-giảng Tin Mừng của các tín-hữu thời sau này.

Nhưng đối với riêng tôi, rõ ràng là: Đức Giêsu có tầm-nhìn tuyệt-vời về Vương-Quốc-Nước-Trời ở đây, dưới đất này; và Ngài đã sống-thực tầm nhìn ấy.

Cũng thế, những gì còn rõ hơn nữa, đối với tôi, là việc Ngài trợ-lực rất nhiều người khác để tất cả sẽ tham-gia/can dự một cách năng-động trong sứ-vụ này, với Ngài.

Hẳn bà con còn nhớ, chính ông Gioan Tẩy Giả cũng đã lập nên cộng-đoàn gồm những người được tẩy rửa, để rồi họ sẽ lan-truyền xuyên-suốt đất/miền người Do-thái ngõ hầu kỳ-vọng Thiên-Chúa có hành-động trả thù giùm cho họ.

Tôi vẫn nghĩ: Đức Giêsu khi xưa cũng thiết-lập phong-trào nào đó, nhưng Ngài vẫn đính kèm một sứ-điệp rất khác từ một Thiên-Chúa, cũng khác lạ. Ta có thể gọi sự việc này là tình thân-thương kết bạn nhiều hỗ-trợ và đỡ-nâng,.

Đức Giêsu thực-thi “tiệc bàn rộng mở” và Ngài cũng đã chữa-lành miễn phí rất nhiều người. Theo tôi, sứ-vụ của Ngài đặt nền-tảng thế này: Ngài mời gọi mọi người mặc vào mình lối sống có thách-thức, nhưng đầy trợ-lực.

Trọng-tâm cuộc vận-động do Ngài thành-lập từ đầu là cùng tham-gia “tiệc bàn rộng mở” và Ngài còn chữa-lành miễn phí cho nhiều người. Phối-hợp việc sẻ-san chất-lượng ăn uống bằng chất-liệu thiêng-liêng để chữa-lành như thế, còn thấy rõ nơi cốt-lõi của sứ-vụ Đức Giêsu thực-hiện.

Tiến-trình này, còn đưa vào thứ linh-đạo khác biệt hẳn về nền-tảng. Sự việc này, nhằm mục-tiêu đưa các bản-thể gộp chung vào cộng-đoàn vốn trải-nghiệm tình thương-yêu Chúa đặt nơi bạn đồng-hành cùng một cảm-tính, không chỉ ngang qua mỗi động-thái đồng-hành ấy, mà thôi.

Ngài không theo hệ-cấp trên/dưới nối kết chủ-nhân với người trung-gian/môi giới; cũng chẳng kết-hợp với người ở thế đứng trung-lập trong xã-hội vốn tạo cơ-cấu Đạo/đời ở Địa Trung Hải. Đức Giêsu sống-thực quan-hệ rộng mở và trực-tiếp với Thiên-Chúa và Ngài mời gọi mọi người hãy hành-xử giống như Ngài.

Vương-Quốc-Nước-Trời không là chương-trình dành cho người đơn chiếc, tách-biệt nhưng là đường lối sống đại-đồng có trợ-lực người tham-gia/can-dự để họ có thể tiếp-cận trực tiếp với Thiên Chúa, thay vì trở-thành thứ gì đó thay cho thách-thức này.

Tiếp theo đây là đoạn Tin Mừng từng đề-cập đến sứ-vụ này:

“[Đức Giêsu] bảo các ông: Anh em hãy ra đi. Này, Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.”

“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình-an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình-an, thì bình-an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình-an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. [Với tác-giả Luca thì như thế; còn tác-giả Mát-thêu lại gọi đó là thực-phẩm] Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.

“Vào bất cứ thành nào được người ta tiếp đón, hãy cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa-lành người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều-Đại Thiên-Chúa đã đến gần các ông.”

Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em hãy ra quảng-trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông nên biết điều này: Triều-Đại Thiên-Chúa đã gần kề.” (Lc 10: 2-11, cộng thêm một đôi điều để nhấn mạnh)

Ở đây, một số câu hỏi cần đặt ra để ta tra-vấn đoạn này. Trước nhất, hỏi rằng: Ai là người được Đức Giêsu sai lên đường thực-hiện sứ-vụ như thế? Trình-thuật tác-giả Thomas ghi, chỉ nói: họ là những người “dấn bước theo” Ngài, thôi. Còn, trình-thuật Tin Mừng Nguồn (tức Quelle) lại qui về “70 tông-đồ khác”.

Trong khi đó, trình-thuật tác-giả Mác-cô qui về nhóm “Mười Hai”. Nên, câu trả lời của tôi ở đây, cho vấn-nạn này là: các vị được Đức Giêsu sai đi, không thuộc nhóm/hội gần-cận với Ngài và chẳng phải môn-đồ đặc-biệt.

Nhưng, có thể là, một số các vị lại không là người từng tự-ý từ-bỏ hết mọi sự, mà là thừa-sai vừa để mất tất cả mọi thứ. Các vị này được định-danh là người tách-bạch nghèo đói khỏi niềm tuyệt-vọng.

Ở nơi đó, đã thấy ló rạng tiến-trình thành-thị-hoá do người La Mã áp-đặt nặng-nề lên những người nhà quê chân-chất, ở thôn làng. Không phải mọi nông-gia đều ra như tuyệt-vọng hết, nhưng cuộc sống của họ lại đã trở-nên bấp-bênh, bất ổn.

Theo tôi, Đức Giêsu đã tạo hệ-thống chữa-lành mang tính khải-huyền sẻ-san cho mọi người hệt như ông Gioan cũng đã tạo hệ-thống các kỳ-vọng được san sẻ.

Điểm đặc-trưng/đặc-thù tôi đưa ra để bàn về chuyện này, là cụm-từ “vốn dĩ là người…” Kịp khi tác-giả Mác-cô kể truyện, ông đã đặt vào miệng Đức Giêsu lệnh-bài sai nhóm Mười Hai ra đi từng hai người một.

Ở đây, ta nên hỏi: sao lại thế? Nhìn về đoạn trước, khi hướng về truyện kể mang tính biểu-trưng để ta được học nhiều điều hơn nữa. Học kỹ-lưỡng các chương/đoạn nói về Phục Sinh –như truyện “Trên đường Emmaus” chẳng hạn, ta nhận ra được ý-nghĩa làm nền cho việc thực-hiện thừa-sai theo phương-cách đi từng cặp “hai người một”.

Truyện kể hai đồ-đệ dấn bước theo chân Đức Giêsu đi từ Giêrusalem đến Emmaus vào Chúa Nhật Phục Sinh hôm ấy, thì: một vị mang tên Cleopas, là nam-nhân. Còn vị kia, không được nêu danh-tánh, nhưng ta vẫn đoán được vị ấy là nữ-phụ.

Tuy thế, cũng nên nhớ rằng: thừa-tác-viên nữ này chưa từng được Kinh Sách định-danh gọi là vợ của đồ-đệ mang tên Cleopas, bao giờ hết. Nên, ta phải hiểu câu “Hãy đi từng cặp hai người một” theo nghĩa nào, ở đây?

Tác-giả Phaolô, khi bàn về sinh hoạt mục-vụ của ông ở “thư thứ nhất gửi giáo-đoàn Côrinthô”, ông lại viết: “Phải chăng tôi không có quyền đem theo một chị/em tín-hữu như tông-đồ khác, như anh em của Chúa và như ông Kê-pha sao?” (ICor 9: 5)

Tiếng Hy-Lạp, nghĩa đen của cụm từ “chị-vợ” dịch sang Anh-ngữ lại trở-thành “là vợ và cũng là kẻ tin”. Ông Phaolô, trên thực-tế, không lập gia-đình với ai hết. Thế nên, theo tôi thì, khi định-danh bằng cụm-từ “chị-vợ”, ta không nên qui về người phối-ngẫu trong hôn-nhân, mà chỉ là thừa-tác-viên nữ từng tháp-tùng các nam thừa-tác-viên như ta thường thấy thế-giới bên ngoài làm thế.

Nữ-phụ đi cùng đồ-đệ Cléopas ấy, chắc-hẳn không là ai khác ngoài bà vợ của ông. Thế nhưng, hỏi rằng: Sao phải đi từng cặp hai người một như thế? Câu trả lời, hẳn sẽ rõ là: có làm thế mới, bảo-vệ được nữ thừa-tác-viên về mặt xã-hội, vốn dĩ là người từng lữ-hành ở thế-giới do nam-nhân chuyên cầm-cân-nẩy-mực, chuyên khuynh-loát theo cung-cách rất bạo-lực.

Theo tôi, đó là chủ-đích ban đầu của Đức Giêsu khi Ngài sai-phái mục-tử “đi-từng-cặp-hai-người-một” cốt để cho nữ-giới cũng được phép làm công-tác mục-vụ, như nam-nhân.

Sinh-hoạt mục-vụ “đi-từng-cặp” như thế có nghĩa rất rõ ở điểm: nó không chỉ giúp ta hiểu được ý của Đức Giêsu, nhưng còn cho phép nữ-giới có vai-trò đáng kể nơi Đạo Chúa, ở thời hiện-đại.

Đoạn trên, giúp ta có cái nhìn thận-trọng hơn qua lời dặn: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép [đó là lời dặn-dò các giới-chức]. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Đây là hình-ảnh về những gì mà ngày nay ta thường gọi là “qui-định về sắc-phục” đặt ra cho cuộc vận-động Vương-Quốc-Nước-Trời. (X. John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1999, tr.88-89)

Thế đấy! Ra đi với người ở ngoài, ngoài Đạo/ngoài đời là như thế. Không sắc-phục lộng-lẫy, cũng không phận-biệt gái/trai, già/trẻ. Ra đi, trong tư-thế thoải-mái, dễ chịu như những người không còn gì để sợ mất. Nhưng, là giúp người khác không sợ mất mát gì. Bởi, người đời vẫn cứ bảo-ban và nhắn-nhủ những lời như:

“Bạn lòng thân mến

đây tôi hiến bài ca

mong ai hát vui hòa

Bạn là xuân thắm

Cho tôi đón nhiều hoa

gieo hương mái tranh nhà

Rồi ta chung ngắm

Đôi chim lướt trời xa

Say sưa muôn tiếng ca

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Nay dâng đẹp tình thơ” qua điệu nhạc, là như thế. Như thế, tức: vẫn đẹp một cuộc đời giống như lời kể ở cốt truyện nhè nhẹ như sau:

Tại một quán ăn ở Thượng Hải, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rớt xuống, rơi xuống chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng tôi nhảy dựng lên, nộ khí xung lên, khuôn mặt trở nên sầm xuống.

Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì, con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”

Nữ hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp da của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”

Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch rồi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu, không cần phải đặt nặng trong tâm đâu ạ.”

Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn. Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, khi hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự:

Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm. Để huấn luyện tính tự lập cho nó, tôi và chồng không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, chúng tôi muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.

Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn, khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước, những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.

“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.” giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

“Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: Em gái, em không sao chứ?”

Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!

Đối với con, ngay đến cả một chữ nửa câu trách móc cũng không có!”

Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ.

Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”

Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm, tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết: “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thiết thân của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

Bạn thân mến, chúng ta cảm động khi người khác cảm động, điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình, hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta sẽ đều là hạnh phúc và may mắn!” (Theo NTDTV)

Nghe truyện kể nhè nhẹ như thế rồi, nay lại xin bạn, xin tôi ta hãy về với vườn nho đầy Lời Nhắn rất thanh tao, nhè nhẹ ở Kinh Sách, như sau:

“Anh chị em hãy có lòng nhân từ,

như Cha anh chị em là Đấng nhân từ.

Anh em đừng xét đoán,

thì anh chị em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.

Anh chị em đừng lên án,

thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.

Anh chị em hãy tha thứ,

thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.

Anh chị em hãy cho,

thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Người sẽ đong cho anh chị em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn,

mà đổ vào vạt áo anh chị em.

Vì anh chị em đong bằng đấu nào,

thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh chị em bằng đấu ấy.”

(Lc 6: 36-38)

Nghe Đấng Thánh Nhân-hiền trong Đạo bảo thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta lại nghe hát thêm một lần nữa, những lời êm ả, nhè nhẹ như câu ca vẫn nghe thấy:

“Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca,

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ,

câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Có hát lời ‘dâng hiến một bài ca’ thôi, cũng rất đủ. Bởi, cứ hát như thế mãi rồi ra cũng có ngày bạn và tôi, ta thực hiện được những lời nhắn ở trong Đạo, lẫn ngoài đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nghe những lời

Từng nhắn và nhủ cũng rất nhiều.

Nhưng, nhớ và thực hiện

Vẫn chẳng được bao nhiêu.

Thế mới chết!

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,

“Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,”

Ta trói thân vào nợ nước mây.

Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mai Tá, lược dịch

“Ai biết thương nhau từ thuở trước, nên vẫn trói thân vào nợ nước mây”, lời thơ đời nhiều lúc cũng xứng-hợp với tâm-tình nhà Đạo, vào những ngày có Chúa tỏ bày sự thật tình thương yêu với nhiều người, dù thiếu thốn. Tình nhà Đạo hôm nay, lại được diễn-bày một lần nữa bằng nhiều thứ cả truyện kể dân gian, lẫn trình thuật.

Về truyện kể, mới đây tôi được mời đến ăn tối ở nhà người bà con, thân thuộc. Gia đình lúc ấy đang ở trong tình huống lúng túng với cô con gái tuổi mới 13, mà tinh khí đã thất thường. Trước mặt khách quan, mà cô bé vẫn tỏ thái độ bất cần đời, nổi loạn. Cô không thích món rau trộn mẹ cô làm. Nên, mặt mày cô ủ rũ, nhất quyết tuyệt thực, để phản đối. Tự nhiên, món rau trộn trở thành đầu giây mối nhợ cho một mâu thuẫn, nghịch thường giữa hai thế hệ, mẹ và con.

Bà mẹ cố nhỏ nhẹ thuyết phục con gái yêu bằng những lời lẽ, rất ôn tồn: “Con à, phí của giời như thế, tội chết! Con biết không, trên thế giới còn rất nhiều người thèm được ăn cọng rau con bỏ đi, đấy. Họ mà ăn được đĩa sà-lát này, chắc sẽ nhớ ơn suốt đời”. Nghe thế, chẳng nói chẳng rằng, cô bé vụt dậy, bỏ đi nơi khác.

Hồi sau trở lại, cầm chiếc phong bì lớn với cây bút nét đậm, cô đổ luôn đĩa rau vào phong bì, dán lại rồi vùng vằng nói: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi gói rau thúi cho đứa chó chết nào đây? Địa chỉ đâu?” Chứng kiến cảnh ‘hỡi ôi’ ấy, tôi thấy, ở đời làm cha làm mẹ không phải chuyện dễ. Sống độc thân như tôi, có khi thế mà lại hay. Nhưng, tất cả vẫn là: thông cảm, hoà hoãn, và kết hợp.

Phúc âm hôm nay cho thấy, khi biến 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi đủ 5 ngàn người, Đức Kitô nói thêm: “Mấy ông hãy thu nhặt các vụn vặt, còn thừa. Đừng bỏ phí.” Nghe Ngài nói, chắc người phương Tây chúng ta cũng chẳng bao giờ mường tượng nổi cái cảnh bụng đói cồn cào mà người dân ở các nước chậm phát triển đang gặp, hằng ngày.

Có chứng kiến cảnh người nghèo đói chết dọc đường, các nước Âu Mỹ mới biết họ đang phung phí của ăn thức uống, đến chừng nào. Có lẽ, phải là thân thuộc người nhà đang chết dần chết mòn vì đói, hẳn mọi người mới thấy quý cuống rau, hột gạo. Và, dân tộc nào một khi đã kinh qua cảnh kinh tế suy thoái, chiến tranh điêu tàn, mới thấu hiểu ý nghĩa của câu nói: “Đừng bỏ phí!”.

Ngày nay, những ai có kinh nghiệm về đói-nghèo, đều đã cảnh giác trước những tình huống phung phí, đổ bỏ. Trong khi đó, ngược lại, vẫn có nhiều người tìm cách quên đi những tháng ngày cồn cào, thời bĩ cực. Họ chỉ biết quan tâm đến chuyện ‘khoan khoái’, hưởng thụ. Với người sống ở các nước đã phát triển, như cô bé tuổi 13 vừa kể, đói và khát chỉ là chuyện trong sách vở, quá khứ. Con người ngày nay đã quen đi các thảm cảnh xưa cũ, đang ‘ăn vào’ thân xác của mình, để rồi cứ thế béo phì, dư mỡ.

Có người còn cho rằng: câu truyện Phúc âm về 5000 người được nuôi béo, đủ ăn, hoàn toàn có tính cách tượng trưng, giả tưởng. Chẳng cần tranh cãi, câu truyện Tin Mừng hôm nay qui chiếu về Thân Mình Đức Kitô, nơi đó chúng ta đang được Đức Chúa nuôi dưỡng bằng tình thương yêu, linh đạo. Tin Mừng của Chúa còn soi dọi về bữa tiệc lòng mến viên mãn, kéo dài. Ở nơi đó, không còn ai bụng đói, chết thèm. Dù chỉ cuống rau, hột gạo hoặc giọt nước trong lành.

Tin Mừng của Chúa đòi chúng ta nhìn vào thế giới hôm nay, với nhãn giới Vương quốc Nước Trời; ở đó, vị Chúa tể Tình thương vẫn san sẻ, quyết rời bỏ chốn ngai vàng bệ cao, ngõ hầu những người bụng cồn dạ đói, mới có được sự đỡ nâng, no đầy. Và, lúc ấy, các người giàu sang, phung phí lâu nay chẳng đoái hoài gì chuyện sẻ san, nuôi sống kẻ khác, sẽ bị án phạt, chúc dữ.

Có một yếu tố được gọi là sự ‘lầm-lỡ ân-tình’. Chính nhờ yếu tố này, chúng ta biết được những gì ta chịu làm, hoặc vẫn không muốn làm, ngõ hầu đem Vương quốc Nước Trời về với thế-giới-có-quá-nhiều-thức-ăn-thừa-mứa.

Nếu biết rằng, trên thế giới, mỗi ngày bình quân có đến 29,000 người đã và đang chết một cách lãng phí, chỉ vì thiếu thức ăn, nước uống; và từ đó, là bệnh tật do thiếu thốn, do thái độ cố ý quên lãng nơi những người dư ăn, dư mặc là chúng ta; thì thử hỏi: phải chăng đây là một đáp trả có lý lẽ, hẳn hòi?

Vấn đề đặt ra hôm nay, là: có một khoảnh khắc trầm lặng, lành mạnh nào đó khơi dậy cuộc sống của chúng ta, về một chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong mọi sự việc. Chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong hành động, để rồi dẫn đến kêu gọi phải có thay đổi trong quyết định đối xử với nước nghèo, người nghèo?

Cụ thể hơn, cần có một thay đổi về hệ cấp ưu tiên trong hành xử; ưu tiên cao, từ nay, không còn tùy vào số lượng và kết quả của súng ống bom đạn nữa, mà là số lượng các bé lê lết thân gầy, những bụng cồn, dạ đói, đang chết khát.

Tôi vẫn tự hỏi: Đức Chúa nghĩ gì khi Ngài nghe người các nước giàu sang biện luận rằng: sở dĩ họ không chia sớt thức ăn, của cải cho người nghèo đói, là vì tại đây vẫn còn các nhà độc tài, tự cao tự mãn, chuyên ăn trên ngồi chốc, không lo cho con dân của mình; thậm chí, vẫn cứ vơ vét tiền tài, vật chất đem chôn giấu tại các ngân hàng úp mở ở Thụy sỹ -hay đâu đó- hoặc vẫn bỏ tiền ra quyết xây dựng thật nhiều vũ khí hạt nhân, qui ước. Và, muôn ngàn lý do khác khả dĩ biện minh cho thái độ ơ hờ, quên lãng.

Dù có phải đối đầu với những vấn đề phức tạp như thế, chúng ta vẫn còn khá nhiều phương thế thực tiễn hầu cứu sống người đói kém, nghèo hèn. Bởi, người nghèo đói có được cứu sống, đỡ nâng tăng cường sinh lực, thì một ngày no đó, mới có khả năng lo cho đất nước, dân tộc của chính mình.

Với câu nói xấc xược của cô bé tuổi 13: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi mớ rau thúi cho đứa nào đây?” tôi đã có câu trả lời: “Này cháu, hãy viết chính tên mình vào bì thư mà gửi. Bởi, chính sự dư dật thừa mứa lâu nay đã biến cháu thành người có nhiều nhu cầu nhất thế giới đó.”

Cầu mong Tiệc thánh hôm nay giúp ta làm được đôi chuyện cho trái đất này, như ta sẽ làm ở nơi cao, chốn vĩnh hằng, muôn thuở. Bởi, Vương quốc Nước Trời chính là chốn có nhiều người bụng đói, môi miệng khát thèm dù chỉ một giọt nước trong lành. Bởi, nơi đó, mọi người không kể đói no giàu nghèo, đều được đón tiếp, ăn uống thỏa thuê. Bởi, những gì ‘dư thừa còn sót’ đã được các đấng công chính thu nhặt lại, chẳng bỏ phí. Và, ở nơi đó, chẳng có gì để vứt bỏ, phung phí.

Quả là, trần gian còn đó nỗi buồn. Buồn, vì vẫn còn nghịch lý, trớ trêu. Trớ trêu, vì lý lẽ rất nghịch là bởi người đời sống với nhau rất gần, kéo dài nhiều năm tháng, nhưng vẫn chẳng tìm đâu ra nỗi niềm hân hoan, trao đổi. Người người vẫn cứ quan hệ đối trao, nhưng nào có được sự cảm thông, kết hợp. Chí ít, là thông cảm thắm thiết tình mẹ con, chồng vợ.

Nỗi buồn trần gian cứ mãi miên trường, không dứt. Và, trớ trêu vẫn chỉ chấm dứt, khi những người con trâng tráo, xấc xược biết thông cảm, hiểu được mẹ hiền. Nghịch lý cuộc đời sẽ chỉ kết thúc, một khi kẻ giàu người sang biết san sẻ tiền tài, vật chất với dân hèn mạt kiếp, đang cồn cào đói khát hiệp thông, chia sớt.

Chia của ăn thức uống, sớt tình thương yêu, vỗ về, khi ấy, Nước Trời đã trở thành hiện thực. Vương quốc Đức Kitô đã nên ngời sáng. Đấy mới là nhu cầu ‘ắt và đủ’ trong cuộc sống, người đời.

Bằng động-thái san sẻ tình thương-yêu qua bánh/cá, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Nguyễn Bính – Hành Phương Nam)

Thương nhau từ thuở trước, là thương và san sẻ cho nhau những gì những gì người còn thiếu thốn. Sẻ và san tất cả, để mỗi người và mọi người sẽ còn nhớ mãi tình Chúa yêu thương hết muôn người. Thương yêu mọi người, Ngài luôn tỏ bày trong mọi tình-huống có sẻ san, giùm giúp rất đùm bọc, ở trong đời. Với mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn – Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng ((Ga 6: 1-15)

Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ ở Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêriat. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái.

Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! ” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Chuyện Hai Người “Quét Rác”“Đổ Rác”

Vào sáng Chủ  Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ phá hoại và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:

–     Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!

Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:

– Ông nói gì?

– Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!

Mặt chàng thanh niên đỏ gay:

–     Bộ đường phố này của ông hả?

Người đàn ông trả lời ngay:

Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi. Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!

Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:

–     Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.

***

Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy tr trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.

***

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:

–     Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?

hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.

***

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành ./.

Chi Nguyễn Kim Bằng gởi

MẤT ĐI ĐỂ ĐƯỢC LẠI

MT ĐI Đ ĐƯỢC LI

Có một câu chuyện kể như sau:

Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một tổ cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo chào đón cô.

Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.

Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.

Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.

***

Cô gái chỉ “được lại” niềm vui khi cô bằng lòng chịu “mất đi” chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Cần phải “mất đi” để “được lại”.

Người Kitô chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại trường tồn.

Người Kitô chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng “mất đi” của cải phù vân để “được lại” gia tài vĩnh cửu, “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Hiểu được cái gì phải “mất đi” và cái gì sẽ “được lại” đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.

Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất, những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.

Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.

Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve nuông chiều.

Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về “cái được”, “cái mất”, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). “Theo Thầy “là “vác thập giá mình mà theo” lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27)

Các tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.

Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.

Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.

Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiên lừng danh trong Giáo hội.

Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui an bình, và hạnh phúc.

Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của sự hy sinh, Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.

***

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con biết cái gì cần phải “mất đi, cái gì cần phải “từ bỏ”, để chúng con được nhẹ nhàng bước theo Chúa trọn con đường mà Chúa muốn chúng con đi. Xin cho chúng con trung thành theo Chúa đến cùng, cho dù là chông gai, đau khổ, vì chỉ có Chúa mới là cùng đích cuộc đời chúng con. Amen.

Thiên Phúc

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Richard Holbrooke (1941 – 2010) * nhà ngọai giao lỗi lạc & nhà báo tài năng*

Richard   Holbrooke (1941 – 2010)

* nhà ngọai giao lỗi lạc & nhà báo tài năng*

Bài viết của Đoàn Thanh Liêm

Nhân đọc sách :

* The  Unquiet  American

Richard Holbrooke in the world

Edited by :  Derek Chollet & Samantha Power

Published by : Public Affairs, New York 2011

(Sách nguyên tác tiếng Anh dày 383 trang, bìa cứng)

Có bản E Book : www.publicaffairsbooks .com

*     *     *

Richard Holbrooke là một nhân vật kiệt xuất trong nền ngọai giao hiện đại của nước Mỹ. Ông còn là một nhà báo ngọai hạng được sự mến chuộng và tin tưởng của giới truyền thông báo chí. Không may, ông mất sớm vào cuối năm 2010, khi mới có 69 tuổi đang lúc còn làm việc trong chính quyền của Tổng thống Barack Obama. Bao nhiêu nhân vật lãnh đạo trong chính giới của Mỹ và của nhiều quốc gia trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc trước sự ra đi của một chính khách lỗi lạc này.

Riêng đối với số đông người tỵ nạn từ Đông Dương, thì Richard Holbrooke có thể coi như là một vị ân nhân thật đáng quý – bởi lý do ông là một người đã tận tình tranh đấu thuyết phục được Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho nhập cư vào nước Mỹ mỗi năm 144,000 người chạy thóat khỏi chế độ độc tài cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngay sau khi ông mất, các bạn hữu thân quen đã hợp lại với nhau để cùng viết về những kỷ niệm sâu sắc với ông và cuốn sách được thành hình do sự biên tập chu đáo của hai nhà báo tên tuổi là Derek Chollet và Samantha Power.

Cuốn sách được xuất bản vào cuối năm 2011 với nhan đề chính là : ” The Unquiet American “ (Người Mỹ Không Thầm Lặng). Đó là do dụng ý của các tác giả khiến chúng ta nhớ đến cuốn sách có tên tương tự là : “The Quiet American” (Người Mỹ Thầm Lặng) của nhà văn nổi tiếng người Anh là Graham Greene – được xuất bản hồi giữa thập niên 1950 và đã hai lần được xây dựng thành phim vào năm 1958 và 2002 – (bản tiếng Pháp có nhan đề là : “Un Américain bien tranquille” được nhiều bà con ở Việt nam biết đến)

Trước khi giới thiệu chi tiết về cuốn sách, xin mời bạn đọc xem qua về tiểu sử của Richard Holbrooke.

I – Sơ lược về tiểu sử của Richard Holbrooke.

Sinh trưởng năm 1941 tại New York trong một gia đình mà cha mẹ có nguồn gốc Do Thái di cừ từ nước Nga sau cuộc cách mạng Bolshevik, Richard Holbrooke sớm có năng khiếu về ngành báo chí và bang giao quốc tế. Cha ông là một bác sĩ, nhưng không may bị mất sớm lúc Richard mới có 15 tuổi. Nhưng theo ý nguyện của cha, cậu đã siêng năng học tập và được học bổng để theo học tại Đại học danh tiếng Brown và đã sớm tham gia cộng tác với tờ nhật báo của Đại học này; đó là một tờ báo mà ít có một đại học nào có thể duy trì nổi.

Từ hồi còn theo bậc trung học, Richard kết thân với David Rusk là con của vị Giáo sư nổi danh Dean Rusk – mà sau này là Bộ trưởng Ngọai giao dưới thời các vị Tổng thống Kennedy và Johnson. Gia nhập ngành ngọai giao, Richard Holbrooke được bổ nhiệm tới làm việc ở Việt nam vào tháng 6 năm 1963, chỉ vài tuần sau cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ở Saigon. Các bạn đồng sự với Richard ở Việt nam vào thập niên 1960 như Tony Lake, John Negroponte v.v… mà nhiều giới chức Việt nam hay có dịp gặp gỡ tiếp súc – thì sau này đều trở thành những nhân vật quan trọng trong chức vụ Cố vấn An ninh bên cạnh Tổng thống hay Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quóc.

Là chuyên viên có tài năng và nhiều kinh nghiệm, Richard Holbrooke đã  gặt hái được nhiều thành tích đáng kể trong lãnh vực ngọai giao dưới thời các vị Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ – cụ thể như là Phụ tá Ngọai trưởng đặc trách về Á châu dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, rồi làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Richard Holbrooke đặc biệt nổi danh và được nhiều người đánh giá cao trong công cuộc giàn xếp ổn thỏa cho vụ tranh chấp đẫm máu tại Bosnia thuộc Liên bang Nam Tư cũ – mà cụ thể là Thỏa ước Hòa bình được ký kết giữa các bên lâm chiến tại thành phố Dayton trong tiểu bang Ohio vào năm 1995 (Dayton Peace Agreement). Sau này, ông đã viết cuốn Hồi ký về chuyện này với nhan đề : “To End a War”, cuốn sách đã trở thành một thứ sách bán chạy nhất (bestseller).

Ông cũng còn là một nhà báo có tên tuổi với nhiều bài viết được đăng tải trên các tờ báo và tạp chí nổi tiếng như New York Times, Washington Post v.v… Đặc biệt ông còn làm Chủ bút trong nhiều năm cho tạp chí Foreign Policy (từ 1972 đến 1977). Cuốn sách khác ông viết chung với một người khác với nhan đề “Counsel to the President” cũng là một bestseller nữa.

Trong lãnh vực kinh doanh, Richard Holbrooke cũng giữ vai trò điều hành cho hai cơ sở tài chính quan trọng là Crédit Suisse First Boston và Lehman Brothers. Lọai công việc trong ngành tài chính ngân hàng này đã đem lại cho ông một nguồn lợi tức đáng kể.

Trong lãnh vực từ thiện nhân đạo cũng như văn hóa xã hội, ông cũng tham gia tích cực với các tổ chức có quy mô họat động rộng lớn điển hình như Global Business Coaliton nhằm chống lại bệnh HIV/AIDS hay viện Hàn Lâm Mỹ tại Berlin là một trung tâm trao đổi văn hóa giữa hai dân tộc Mỹ – Đức.

Về cuộc sống riêng tư gia đình, Richard Holbrooke có hai bà vợ trước đã ly dị – và người vợ sau cùng của ông là Kati Marton cũng là một nhà báo và tác giả nổi danh xuất thân từ một gia đình tỵ nạn cộng sản vào giữa thập niên 1950 từ nước Hungary ở khu vực Trung Âu.

II – Giới thiệu tổng quát về cuốn sách.

A – Điểm qua về một số tác giả có bài đóng góp (Contributors)

Cuốn sách được phân bố trong 12 chương với tất cả là 12 tác giả viết bài đóng góp trong mỗi chương đều có tiêu đề riêng. Và trong mỗi chương đều có kèm theo nhiều bài báo của chính Richard Holbrooke viết trước đây trong thời gian gần 50 năm họat động sôi nổi trong nhiều lãnh vực đa dạng của ông.

Xin kê ra một số tác giả là những nhà báo và tác giả nổi danh :

* Trước hết là chính phu nhân Kati Marton đã viết bài Giới thiệu cho cuốn sách. Bà là tác giả của 7 cuốn sách, trong đó cuốn mới nhất có nhan đề là : “Enemies of the People” được đánh giá cao mà người viết đã có dịp giới thiệu vào năm 2011. Bà làm việc lâu năm cho hãng Truyền hình ABC News, National Public Radio và hiện là Giám đốc Ũy Ban Bảo Vệ Ký Giả. Người chồng trước của bà là Peter Jennings cũng là một nhà hướng dẫn chương trình thật tài ba và duyên dáng của hệ thống truyền hình ABC trong nhiều năm trước đây nữa.

* Hai Biên tập viên  (Editors) : Derek Chollet và Samantha Power thì cũng đều là những nhà báo cộng tác với các tờ Washington Post, Financial Times, The New Yorker, The New Republic. Riêng Samantha Power còn được giải thưởng Pulitzer vì cuốn sách “A Problem from Hell : America in the Age of Genocide”. Còn Derek Chollet thì là tác giả cuốn sách “ The Road to Dayton Accords : A Study of American Statecraft”. Ông cũng là người sọan diễn văn cho Richard Holbrooke khi ông này làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc nữa

* Strobe Talbott là Thứ trưởng Ngọai giao trong Nội các của Tổng thống Bill Clinton. Hiện ông là Chủ tịch của \Brookings Institution một thứ Think Tank danh tiếng của nước Mỹ.

* Jonathan Alter : Là nhà bỉnh bút cho Bloomberg View và có thời đã từng làm ký giả Phân tích Thời sự (Analyst) cho hệ thống Truyền hình NBC.

* Gordon Goldstein : Từng viết cho các báo NY Times, Washington Post, Newsweek và là tác giả cuốn sách nổi tiếng : “McGeorge Bundy & the Path to War in Vietnam”.

B – Liệt kê một sô chương đáng chú ý.

Nói chung, thì cuốn sách do những nhà báo có tên tuổi viết – mà tất cả lại đều có sự quý trọng, thông cảm và quen biết lâu năm với Richard Holbrooke – nên bài nào, chương nào cũng đem lại những mới lạ thích thú cho người đọc. Quả thật Holbrooke là một viên chức lỗi lạc đã có những đóng góp thật quý báu cho nền ngọai giao của nước Mỹ trong gần nửa thế kỷ gần đây.

* Riêng đối với người Việt chúng ta, thì nên chú ý đến hai chương III và IV có tiêu đề như sau :

Chương III :” Richard Holbrooke and the Vietnam War : Past and Prologue” do Gordon Goldstein viết trải dài trong 20 trang từ trang 76 đến 95, kèm thêm 5 bài viết của chính Holbrooke từ năm 1969 đến năm 2008 (trang 96 – 113).

Chương IV : “ Asia in the Carter Years” trong đó có bài “Restoring America’s Role in Asia” do Richard Bernstein viết trải dài từ trang (116 đến 131) – kèm theo 4 bài do chính Holbrooke viết từ 1975 đến 2008 (trang 132 – 161).

* Ngòai ra, thì cũng nên chú ý đến các chương V, VI, VII, VIII và IX nói về các đề tài :

Chương V : Europe in the Clinton Years

Chương VI : Bosnia & Dayton

Chương VII : The United Nations

Chương VIII : Fighting HIV/AIDS

Chương IX : Afghanistan & Pakistan

III – Để tóm lược lại.

A – Cuốn sách chứa đựng rất nhiều thông tin vừa chính xác, vừa sinh động về cuộc đời và sự nghiệp của một nhân vật kiệt xuất trong ngành ngọai giao và truyền thông báo chí tại nước Mỹ trong vòng gần nửa thế kỷ gần đây. Đúng như tác giả Strobe Talbott đã viết trong bài đầu với nhan đề :” Thinker, Doer, Mentor, Friend”, quả thật Richard Holbrooke  là một con người có sự suy nghĩ chín chắn vững vàng, mà cũng là một người hành động khôn ngoan cương quyết. Ông cũng là một người cố vấn, hướng dẫn tận tình cho lớp đàn em đặc biệt trong ngành truyền thông báo chí, mà Richard cũng còn là một người bạn thân tình ngay thẳng chân thật. Ít có viên chức cao cấp nào trong chính phủ Hoa kỳ mà lại có được cảm tình quý mến sâu đậm của nhiều người trên khắp thế giới như là Richard Holbrooke.

B – Ngay từ thời còn theo học ở Đại học Brown, lúc mới ở tuổi 18 – 19, Richard đã biết tìm đến phỏng vấn lãnh tụ Alexander Kerensky năm 1959 ở San Francisco, ông này lúc đó đã 78 tuổi. Kerensky là lãnh tụ đầu tiên của nước Nga sau khi chế độ Sa Hòang bị lật đổ năm 1917 và chính ông đã phải sớm đào thóat khỏi chế độ Bolshevik y hệt như người cha của Richard vậy.

Năm 1960, Richard còn được tờ nhật báo của Đại học Brown cử đi Paris để theo dõi Phiên họp Thượng đỉnh Eisenhower với Khrushev, nhưng phiên họp bị bãi bỏ vì Khrushev viện cớ Mỹ cho phi cơ U-2 do Francis Gary Powers lái để do thám Liên Xô mà bị bắn hạ trên đất Nga. Nhờ nói thông thạo tiếng Pháp, nên Holbrooke dễ thành công trong công tác ngọai giao sau này ở Việt nam cũng như ở Âu châu.

C – Nhân tiện, cũng xin ghi chi tiết hơn về việc Holbrooke tranh đấu vận động với Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho nhập cư mỗi năm 144,000 dân tỵ nạn từ Đông Dương. Tại trang 130 trong sách, nhà báo Richard Bernstein có tường thuật lại chứng từ của John Negroponte rằng : “Dick Holbrooke có chỉ thị cho ông phải tìm cách thuyết phục Quốc Hội Mỹ chấp thuận nhận cho nhập cư mỗi tháng 12,000 dân tỵ nạn từ Đông Dương – như vậy mỗi năm tổng cộng là 144,000 người…” Lúc đó là vào năm 1978, Holbrooke đang là Phụ tá ngọai trưởng đặc trách về Á châu trong chính phủ Carter, nên ông đã tận tình lo lắng cho số phận người tỵ nạn chúng ta.  Dù nay ông đã quy tiên, tôi cũng xin được thay mặt cho các đồng bào tỵ nạn để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa và chân thành đối với vị ân nhân đáng quý này vậy./

San Clemente California, Tháng Hai 2013

Đoàn Thanh Liêm

‘Mồm loa mép giải’

‘Mồm loa mép giải’

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thành ngữ “mồm loa mép giải” của Việt Nam có nghĩa là “to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác.” Một định nghĩa khác gay gắt hơn là “lắm mồm, ngoa ngoắt, đanh đá, luôn lấn át người khác, bất chấp cả đúng hay sai!”

Những cái loa phóng thanh ở phố phường Hà Nội.
(Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Thành ngữ này làm chúng ta nhớ đến cái loa.

Loa và cái mã tấu là hai dụng cụ đáng sợ nhất thời Việt Minh. Ở những vùng “xôi đậu,” nửa đêm nghe giọng nói oang oang qua chiếc loa giấy kết tội Việt gian là sáng ra, thế nào cũng thấy một xác người bị cắt họng hay mất đầu nằm ngoài ngõ. Ba mươi năm từ mã tấu đến AK, rồi tên lửa, cái loa cũng thay hình đổi dạng, từ thời thô sơ làm bằng giấy bồi đến thời hiện đại, loa sắt có đường kính 1.7 m, có công suất từ 500w đến 600w do Liên Xô và Trung Cộng viện trợ.

Trong một bài trước, chúng tôi khi viết bài cái cột đèn có nhắc tới một vật gắn liền, đè đầu cưỡi cổ cái cột đèn, làm khổ lỗ tai, nhức đầu thiên hạ là cái loa.

Nói về loa, tài liệu trong nước cho biết loa thường gắn thành cụm (chùm), mỗi cụm thường có hai đến ba loa, các cụm loa đặt cách nhau từ 400 đến 600 mét.

Mỗi xã có từ 12 đến 20 cụm loa, ở các huyện thị trên toàn quốc có trung bình từ 300 đến 400 loa. Cả nước có 698 huyện, nên tổng số loa trong cả nước là 279,000 cái.

Theo tài liệu của Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn nêu ra, thì trong cả nước Việt Nam hiện nay có 900,000 cái loa (http://press.anu.edu.au/wp-content/uploads/2013/11/Vietnam.pdf.) Hệ thống loa tiếp cận dân số hơn 58 triệu người (chiếm 67.1% dân số Việt Nam). Như vậy cứ hai người dân xã hội chủ nghĩa thì có hơn một người phải chịu cảnh đày đọa tra tấn của cái loa phóng thanh mỗi ngày.

Con số loa nêu ở trên còn ít ỏi nếu so với loa thời nay. Xã Tả Phời, thuộc thành phố Lào Cai, theo quy định của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, toàn phố đã lắp đặt 380 cụm loa, với tổng số 900 loa công cộng, chuyển âm thanh từ 85% 2010 lên 90% năm 2014, 100% (theo Nghị Quyết Đại Hội Chi Bộ 2010-2015). Loa trong XHCN không những sắp đặt san sát, mà năng suất của loa càng ngày càng lớn đủ sức làm cho người dân chảy máu tai.

Thời gian trước năm 1975, ở bờ Bắc Bến Hải, Cộng Sản Bắc Việt đã lắp đặt những chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1.7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, bốn loa loại 250W của Liên Xô.

Bắc Việt lấy lý do “đài địch” ở bờ Nam, Tháng Tám, 1963, quyết định xây dựng một mạng lưới loa dày đặc dọc theo tuyến bờ bắc sông Bến Hải. Bốn cụm loa 500W được mọc lên (mỗi cụm gồm 20 loa nén loại 25w), thêm ba cụm loa cực mạnh ở Hiền Lương, mỗi cụm loa 1,000w gồm 40 loa loại 25w. Tại mỗi cụm, loa được gắn vào một dàn sắt kiên cố hình chữ nhật đứng trên hai trụ bê tông cốt thép cao 11 m, hướng miệng loa sang bờ Nam. Họ khoe là mỗi lần hệ thống loa cất lên “giống như sấm rền, làm cả một vùng sông nước cứ sôi lên ùng ục!” Như vậy chưa đủ, Bắc Việt xây thêm trạm tiếp âm lớn đặt ở ngã ba Hiền Lương với hai máy khuếch âm 10,000W. Vĩnh Linh còn có một xe lưu động có máy nổ riêng, gắn loa 180W và loa đại có công suất 500W do Trung Cộng sản xuất.

Hệ thống loa là để tuyên truyền nhắm về phía Nam, nhưng ai nghe?

Truyền thông miền Bắc nói rằng “đêm đêm, nhân dân bờ Nam ngóng về phương Bắc, lặng lẽ lấy ảnh Bác Hồ được cất giấu kỹ ra xem và cầu mong lực lượng vũ trang miền Bắc tấn công tiêu diệt hết lũ xâm lược…” hay “những ngày lễ tết, đoàn văn công trung ương từ miền Bắc vào thường ghép thuyền, dựng sân khấu bên mép sông để biểu diễn cho nhân dân xem, người dân mà cả lính miền Nam cũng đổ ra bờ sông để ngóng vọng sang thưởng thức. Nội dung tin, bài rất phong phú, đa dạng… hấp dẫn đến mức cảnh sát bờ Nam đến giờ đài Vĩnh Linh phát sóng là lẳng lặng bấm nhau trốn ra nơi vắng để nghe,” và “một số cảnh sát ngụy háo hức đứng xem văn nghệ,” và “nghe tiếng loa vang lên, mặc dù bị lính ngụy ngăn cản, đồng bào bờ Nam vẫn đổ xô đứng dọc bờ sông Bến Hải hoan hô, reo hò: ‘Bà con ơi, o Nhạn, eng Tích chưa chết. Đài Vĩnh Linh còn. Quốc gia nói láo!’”

Thậm chí “lợi dụng lúc pháo sáng của ta bắn sang, bà con các xã ven sông như Trung Sơn, Xuân Mỹ, Bạch Lộc… hô nhau chạy ùa ra sông, lội bộ sang bờ Bắc” … “một số binh lính ngụy ngồi trên một xe quân sự chạy thẳng qua cầu Hiền Lương để cố vượt sang phía ta, song chiếc ô tô bị cảnh sát ngụy bắn thủng lốp và tất cả xuống xe chạy bộ, đều bị chúng bắt lại, tống vào nhà tù…”

Đúng là miệng lưỡi XHCN: “Xạo Hết Chỗ Nói!”

Những ai đã từng đi du lịch Dubai, Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, một xứ theo Hồi Giáo, dù ở đâu, trong khách sạn sang trọng hay ngoài đường phố, mỗi ngày ba lần, đều phải chịu cảnh tra tấn bằng cách phải nghe kinh Koran qua những chiếc loa mà công suất không kém loa Hà Nội.

Trong một bài viết về cái loa, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc đã phát biểu, “Tôi nghĩ cái loa phường ở Việt Nam cũng là một loại nghi thức tôn giáo, nhưng chỉ có khác là nó rè và cũ mèm hơn cái loa bên Saudi Arabia.”

Du khách đến Hà Nội cũng phải chịu cảnh tra tấn tương tự bằng những chiếc loa chõ mồm vào cửa sổ khách sạn, oang oang vào lúc 5 giờ sáng, và những du khách đã đi nhiều nơi, ngạc nhiên vì họ đã gặp loại tuyên truyền này “ở Moscow năm 1956 thì nay nó xuất hiện (hay tồn tại) ở một quốc gia Đông Nam Á vào năm 2014.”

Người ta không hiểu vì sao trong một thời đại văn minh như hiện nay, Việt Nam còn cần đến cái loa sắt kiểu này? Một cái loa không đem lại kiến thức gì cho con người mà chỉ nhồi nhét vào tai của người dân, theo ký giả Michael Totten, một ký giả người Mỹ thường viết về Việt Nam, “những loại ‘rác rưởi’ (bullshit) bất kể người dân có thích hay không!”

Nếu nay mai, chế độ Cộng Sản tàn mạt trên đất nước Việt Nam, thì thể chế mới, xin làm ơn dẹp hết 900,000 cái loa, đem bán ve chai, vì quả cái loa, nó là một điều gì ám ảnh, một ám ảnh khôn nguôi về cái bóng ma Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến hôm nay.

TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG

TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG

(Suy niệm Tin Mừng thánh Mác-cô (6, 30-34)

Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.

Ông Delia kể tiếp: “Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”

Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chẳng biết tên của mình nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)

Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan… nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.

Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.

Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su (Mt 4,4).

Khao khát lương thực tinh thần

Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông Đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được. Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống. Chạnh lòng thương các Tông Đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút.

Kế đó, Chúa Giê-su và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi. Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm mà Chúa Giê-su và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giê-su.

Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giê-su lại gặp đông đảo những người mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.

Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình như đoàn chiên không có người chăn dắt, Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết là những lời dạy dỗ khôn ngoan. (Mc 6,34)

Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài như đám đông người Do-thái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giê-su là hiện thân của Sự Khôn Ngoan đang sống giữa chúng ta.

Vấn đề quan trọng là chúng ta có mở tâm  hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “Kho Tàng” vô giá này hay không.

Khai thác kho tàng trong tầm tay

Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.

Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.

Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.

* * *

Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy gian nan hiểm trở… Vậy muốn tìm được kho báu, chúng ta phải chấp nhận gian lao thử thách.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “Kho báu” trong Tin Mừng của Chúa, nhờ đó chúng con  được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng thánh Mác-cô 6, 30-34

30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.31 Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Khoảng Cách

Khoảng Cách

Một buổi trưa mùa hạ nắng như thiêu đốt, một người phụ nữ mù lòa bước đi chậm chạp trên con đường mòn của một vùng ngoại ô thưa thớt dân cư.

Tay không cầm gậy, lối đi này rất quen thuộc với bà. Bên vệ đường có một cây to, bà rẽ… vào đó dường như để trốn cơn nắng hạ dưới bóng mát tàn cây phủ trùm trên một khoảng đất rộng. Có thể bà sẽ nghỉ trưa ở đây như bà đã từng làm như thế sau những buổi đi xin.

Bà đến gần gốc cây. Bà sẽ dựa vào gốc cây để tìm một giấc ngủ yên lành. Bà sẽ cảm thấy hạnh phúc không thua gì một mệnh phụ ngã lưng trên chiếc giường nệm êm ái. Bà đang mơ màng với thứ hạnh phúc lớn lao nhứt mà bà có thể có được, thì bất ngờ bà vấp phải một vật gì, bà chao đảo, chưa kịp lấy lại thăng bằng, thì bà nghe một tràng âm thanh chua chát:
– Ai đó ? Bộ đui mù rồi hay sao mà không thấy tui đang ngồi đây vậy ? Thứ đồ gì mà sớn sác thế ?
Bà hốt hoảng trả lời khi gượng đứng lên được:
– Xin lỗi, xin lỗi ! Tôi mù cô ạ ! tôi mù thật ! Cho tôi xin lỗi ! xin lỗi cô !
Giọng nói thanh thót quá, chắc là cô ấy còn nhỏ lắm, tuổi cỡ con mình là cùng.
Im lặng ! Không có tiếng trả lời ! Đúng như người phụ nữ suy đoán, tiếng nói phàn nàn gây gắt vừa rồi là của một cô bé trạc tuổi mười bốn mười lăm,có điều bà không biết được rằng, cô bé ấy cũng mù như bà.
Cô bé cũng đi xin và dừng chân nghỉ nơi này trước bà.
Cô bé hối hận vì lời nói vừa rồi, cô bé im lặng !
Nghe ngóng một lúc, người phụ nữ mù lòa vẫn không nghe một lời nào đáp lại. Bà nói lớn lên một lần nữa: – Cho tôi xin lỗi nhé ! Tôi mù ! Tôi mù thật đó ! Rồi bà quay lưng bước đi.
Chợt cô bé gọi lại:
– Nè bà ơi, tôi cho bà một ngàn nè !
Số tiền duy nhất mà cô đang có.
Nghe thế, bà rất mừng. Bà mừng vì nghĩ cô bé tha thứ cho mình, hơn là mừng vì nhận được một ngàn đồng. Bà dừng lại, quay ngược chiếc nón lá cũ kỹ đưa về phía tiếng nói.
Chợt một chiếc lá vàng rơi vào chiếc nón của bà. Bà tưởng cô bé bỏ tiền vào nón, bà nói:
– Cám ơn cô, cám ơn cô !
Nhưng khi bà thọt tay vào nón lấy tiền, bà mới nhận ra đó chỉ là một chiếc lá khô.
Bà lẩm bẩm:
– Cô bé gạt mình. Chắc cô bé còn giận mình.
Bà buồn bã quay đi !
Trong khi đó, cô bé cầm tờ giấy một ngàn đồng đưa về phía bà chờ đợi bà lấy. Nhưng cô bé lại nghe tiếng bước chân xa dần.
– Bà ấy không lấy tiền, chắc bà ấy còn giận mình.
Cô bé nghĩ như vậy, và lòng vô cùng buồn bã.

*   *   *

Trong đời, có biết bao lần con người hiểu lầm nhau.
Thế giới vật chất mênh mông đã đành, thế giới tâm hồn của mỗi người càng bao la hơn nữa. Cho nên có khi một người đang ở bên cạnh ta, mà vẫn như xa cách nghìn trùng!
Ngày nay, khoa học càng tiến bộ, thế giới càng gần nhau hơn, nhưng con người thật sự đã hiểu nhau chưa?
Vô tri bất mộ”, không hiểu biết nhau, làm sao thương yêu nhau?

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

NGHỈ NGƠI

NGHỈ NGƠI

Lm. Louis M. Nhiên, CMC

Sống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn đề làm việc.

Một cha xứ mới được chuyển đến thay thế cha xứ cũ đã trông coi một giáo xứ trong nhiều năm.  Trong phiên họp, cha xứ mới ngỏ ý với Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Tài Chánh của giáo xứ là nên thuê một người lo cắt cỏ chăm sóc vườn tược chung quanh nhà thờ.  Một vị trong Hội đồng tỏ vẻ khó chịu nói:  “Xin cha nhớ cho rằng, cha xứ cũ chính ngài đã tự tay cắt cỏ chăm sóc vườn tược, không thuê ai cả.” Cha xứ mới mỉm cười trả lời:  “Tôi biết điều đó, và tôi đã hỏi cha xứ cũ rồi, nhưng ngài trả lời là bây giờ ngài không còn muốn cắt cỏ chăm sóc vườn tược nữa.”

Chuyện khác kể rằng một công ty nọ chẳng may thuê phải một người thư ký lười biếng, suốt ngày chỉ lang bang cho hết giờ.  Ông chủ tức giận khó chịu bảo: “Trong một tháng trời mà anh làm việc không tới được một giờ đồng hồ.  Anh thử nghĩ xem công ty có lợi được một cái gì khi thuê mướn anh làm việc không?” Anh thư ký trả lời:  “Dạ thưa ông chủ có chứ.  Vì khi tôi đi nghỉ hè, thì không một ai trong công ty phải làm thêm gánh đỡ công việc của tôi.”

Chúng ta không rõ thái độ và quan niệm của các tông đồ ra sao đối với vấn đề hoạt động làm việc, nhưng qua bài tin mừng hôm nay Chúa nhắc nhở các ngài: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”, đã bảo cho hay rằng, giữa những công việc vất vả bận rộn của cuộc sống, các tông đồ cũng như chúng ta có bổn phận và trách nhiệm dành thời giờ nghỉ ngơi.  Có lẽ điều này nghe hơi lạ nhưng là một sự thật.  Sự thật này đã được ghi lại trong chương đầu của sách Sáng thế ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh:  Thiên Chúa làm việc trong 6 ngày và ngày thứ 7 ngài nghỉ ngơi.

Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như là những con ong luôn bận rộn suốt thời gian.  Xe chạy thỉnh thoảng cần dừng lại để đổ xăng và nghỉ cho máy mát.  Chiếc cung giương mãi cũng sẽ có ngày đứt dây.  Thân xác con người cần nghỉ, cần ngủ, ai thử thức một hai đêm sẽ biết kết quả liền.

Hơn nữa, chúng ta cần dành thời giờ nghỉ ngơi là vì sống ở đất nước này, càng ngày càng thấy các công ty vì phải cạnh tranh và muốn kiếm lời nên đòi gia tăng mức sản xuất trong khi đó lại cắt giảm số nhân viên, nên các người làm việc đã bị áp lực bị stress, bị pressure do công việc đòi hỏi rất nhiều.

Ngoài thời giờ dành ra nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè, dành cho Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi dành thời giờ để suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống?  Phải chăng giá trị con người hệ tại sự có:  Càng có nhiều của cải tiền bạc vật chất, con người càng có giá trị nhiều, hay ở tại sự thanh thản bình an của tâm hồn?

Theo tài liệu nghiên cứu, trung bình một người Mỹ hàng ngày đối diện với 560 quảng cáo, và hầu hết các quảng cáo này đều muốn gây ảnh hưởng làm cho con người không thỏa mãn với những gì mình đã đang có và mời gọi con người ham muốn những cái mới hơn, lớn hơn, tốt hơn, tiện lợi hơn.  Chúng ta đang sống trong xã hội đó, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng, muốn có nhà to hơn, lớn hơn, đẹp hơn, một nhà một Tivi chưa đủ, bây giờ mỗi phòng cần một cái, rồi nào là iPhone, iPad, iPod…  Muốn có nhiều sự phải có nhiều tiền để mà iPaid…, và muốn có nhiều tiền phải đi làm nhiều.  Đơn giản là như thế.  Tuy nhiên, câu hỏi mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là bao giờ thì mới đủ, mới làm chúng ta hài lòng thỏa mãn, bao giờ chúng ta mới có một cuộc sống đơn giản, mới được sống thanh thản an bình hạnh phúc?

Cha ông đã bảo:  “Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” Có nghĩa là: Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ.  Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?

Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông.  Ông hỏi:  “Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?” Ngư phủ đáp:  “Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?” Thương gia hỏi:  “Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?” Ngư phủ hỏi lại:  “Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?”

Vị thương gia trả lời:  “Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền.  Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi.” Ngư phủ hỏi:  “Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?”

Vị thương gia nói:  “Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời.”

Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả:  “Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?”

Khi tạo dựng nên con người và cho vào đời, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mệnh.  Không ai có sứ mạng quan trọng như của Chúa Giêsu, nhưng Ngài biết những điều quan trọng không thể thành đạt được nếu không có tâm hồn an bình trong thinh lặng yên tĩnh nghỉ ngơi cầu nguyện:  “Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” Mỗi người chúng ta có trách nhiệm và bổn phận dành thời giờ nghỉ ngơi suy nghĩ tìm ra sứ mệnh của mình và điều cần để ý đó là đời sống này quá ngắn ngủi, hãy sống cuộc sống này đầy ý nghĩa.

Lm. Louis M. Nhiên, CMC