Ngả mũ với ông Phùng Quang Thanh

Ngả mũ với ông Phùng Quang Thanh

Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Trong cuốn Đèn Cù, nhà văn Trần Đĩnh kể lần đầu từ Hà Nội vào Sài Gòn ông chứng kiến một cảnh khiến ông suy nghĩ: Một đám tang đi qua, một thanh niên đứng bên đường dừng chân lại, bỏ mũ, cúi đầu. Lâu lắm Trần Đĩnh mới được thấy cảnh đó, dấu hiệu của một xã hội biết giáo dục trẻ em.

Trước năm 1954 trẻ em ở Hà Nội vẫn được dậy cử chỉ đó: Dừng chân, ngả mũ, để tỏ lòng kính trọng thi hài người đã chết. Vì vậy, khi viết về chuyện Tướng Phùng Quang Thanh đã chết hay chưa chết, đang gây dư luận sôi nổi, tôi xin theo lời các thầy giáo, huynh trưởng dạy mình từ thuở bé. Xin bỏ mũ trước. Nếu ông đã qua đời tôi cũng không thất lễ.

Trước khi nghe tin ông Phùng Quang Thanh tạ thế, nhà báo Phạm Chí Dũng đã nhận xét trên Người Việt rằng những tin tức trong vụ ông đi chữa bệnh quá nhiều mâu thuẫn. Báo chí nhà nước Việt Nam đăng hình Tướng Phùng Quang Thanh chụp với bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, nhưng không loan tin tướng Thanh nói chuyện gì, ông làm gì ở Pháp. Phạm Chí Dũng nhận xét trong cả tháng qua, “Trên báo Nhân Dân và đặc biệt Quân Đội Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc Phòng Việt Nam, người ta không thể tìm ra dấu vết hiện diện của viên tướng bốn sao.” Và, “Cùng với sự thay đổi đồng loạt hai cấp tướng tư lệnh và chính ủy của Bộ Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô vào đầu Tháng Bảy, 2015, tức chỉ ít ngày sau khi tướng Phùng Quang Thanh – người chịu trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp khối đơn vị vài chục ngàn quân này – bị MIA.” MIA nói về các quân nhân mất tích, không tìm thấy xác.

Ngày Chủ Nhật, 19 Tháng Bảy, hãng thông tấn Đức Deutsche Presse-Agentur (DPA) loan tin ông Thanh đã qua đời tại bệnh viện Georges Pompidou vào tối hôm đó; họ dựa vào một nguồn tin của một nhân viên Bộ Quốc Phòng. Ngày hôm sau, Trung Tướng Võ Văn Tuấn, phó Tổng Tham Mưu Trưởng nói với các báo trong nước rằng tin này sai. Tướng Võ Văn Tuấn xác định, “…tôi gọi điện thoại cho đại tướng Phùng Quang Thanh vào chiều 19 tháng 7. Đại tướng nói chuyện nghe giọng rất thoải mái…” Hôm sau, hãng DPA làm tin mới, cho biết chính quyền Việt Nam đã cải chính rằng Tướng Phùng Quang Thanh còn sống. Nhưng hãng thông tấn này không viết một lời nào phủ nhận tin đã viết hôm trước. Bản DPA tin mới còn nói thêm rằng họ nhận được tin ông qua đời “từ bệnh viện,” để người đọc thấy chắc chắn hơn.

Tướng Võ Văn Tuấn dùng các báo nhà nước để cải chính bản tin của DPA. Nhưng tại sao không cải chính một cách mạnh mẽ, rõ ràng hơn? Tin ông bộ trưởng Quốc Phòng một nước còn sống hay đã chết là một tin khá quan trọng. Nếu sai, đáng lẽ chính Bộ Quốc Phòng phải cải chính, trong một cuộc họp báo; ít nhất cũng làm một bản thông cáo chính thức. Báo trong nước chỉ thuật lời Tướng Võ Văn Tuấn mà không kèm theo một bài phỏng vấn đầy đủ để được nghe ông trả lời rất nhiều thắc mắc trong dư luận cả tháng nay. Đúng như nhà báo Phạm Chí Dũng kết luận, đây là một “Thất bại của hệ thống tuyên giáo đảng.” Cả Đảng Cộng Sản bị mất mặt vì lúng túng ném ra những thông tin chậm trễ, mơ hồ, trái nghịch, chỉ trong câu chuyện một người “mất tích” không biết chết hay sống.

Nhưng “hệ thống tuyên giáo đảng” bị tội oan. Cảnh “tang gia bối rối” diễn ra do nhiều nguyên nhân phức tạp, ngoài khả năng của các ông bà tuyên giáo. Người sống bên ngoài cũng thấy trong vụ này tất cả Đảng Cộng Sản đang lúng túng, có thể nói cả nhóm lãnh đạo đang “kẹt cứng.” Chắc họ không biết phải “xử lý tình huống” cách nào, cho nên đành lộ cảnh tang gia bối rối, mất mặt cũng đành chịu.

Guồng máy tuyên truyền của đảng phơi bày tình trạng lúng túng này. Mạng Infonet và báo Một Thế Giới cho biết Tướng Võ Văn Tuấn đã “khẳng định” rằng hãng tin DPA đã “xin đính chính.” DPA không hề đính chính; cho nên, hoặc ông Võ Văn Tuấn nói dối, hoặc có người ra lệnh các báo trên nói dối. Thông tấn xã của nhà nước còn trâng tráo hơn, viết một điều hoàn toàn sai sự thật, “DPA đã cải chính về sức khỏe Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh.”

Các thủ đoạn che đậy, gian dối, “cả vú lấp miệng em” trên đây đã tập huấn lâu đời. Thói quen nói láo đã thấm vào xương tủy Đảng Cộng Sản từ thời còn làm báo in thạch bản ở trong hang. Nhưng đem dùng thủ đoạn đó trong thời đại Internet, năm 2015, chỉ khiến người ta khinh. Bởi vì nếu Đảng Cộng Sản muốn chứng tỏ ông Phùng Quang Thanh còn sống thì họ chỉ cần trưng ra một tấm hình ông đang cầm trên tay tờ báo Le Monde xuất bản ngày 19 hay 20 Tháng Bảy – dù ông đủ sức khỏe đọc được báo hay không! Giản dị hơn nữa, là nhờ vợ con ông lên tiếng cải chính với hãng DPA – mà theo tin của nhà nước thì gia đình ông đã qua Paris săn sóc ông từ tháng trước. Tại sao cả gia đình không ai nói một câu nào khi cả nước bàn tán không biết chồng, cha của họ đã chết hay chưa? Họ đâu phải người rưng nước lã?

Không ai trong Đảng Cộng Sản cải chính theo cách giản dị này. Lý do vì nó nằm ngoài khả năng cả đám người cầm quyền. Họ không thể làm gì được. Hoặc vì ông Thanh đã qua đời rồi. Hoặc vì gia đình ông không cộng tác. Hoặc cả hai.

Nhưng nếu Tướng Phùng Quang Thanh thật đã mãn phần thì tại sao guồng máy Đảng Cộng Sản lại phải lúng túng che đậy, để người dân coi càng khinh, càng ghét như vậy?

Người ngoài không biết đủ các tin tức trong đảng của họ với nhau, cho nên chúng ta chỉ có thể suy diễn, dựa trên các sự kiện được tiết lộ.

Một điều ai cũng biết là trong cuộc tranh giành quyền lực chuẩn bị đại hội đảng sang năm, họ đang đấu đá nhau tận mạng. Riêng ông Phùng Quang Thanh và người con, một đại tá chủ tịch nhiều công ty, đã bị lôi lên mạng phơi bày đủ các trò lạm quyền, tham nhũng làm giàu. Ông Thanh cũng bị gắn cho nhãn hiệu một người “thân Trung Quốc.”

Ở Việt Nam, muốn chửi ai thì cứ bảo người đó theo đuôi Trung Cộng. Nhưng chúng ta biết rằng chẳng ai trong Đảng Cộng Sản dám cưỡng lại Trung Cộng. Toàn thể Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị Trung Cộng thao túng từ Hội Nghị Thành Đô 1992 đến giờ; không ai có thể ngoi lên ghế lãnh đạo nếu cưỡng lại. Nước Việt Nam bị Trung Cộng lấn áp đủ mặt: kinh tế, quốc phòng, chính trị, ngoại giao. Nguyễn Tấn Dũng mới lên chức thủ tướng đã dâng cho Trung Cộng món quà Bô Xít. Trương Tấn Sang qua Tàu ký thỏa ước hợp tác đủ trăm ngành không thiếu thứ gì. Từ khi Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng thì hầu hết các món thầu lớn đều lọt vào tay các công ty Trung Cộng, đường sá, phi trường, hầm mỏ tới điện lực. Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh chưa ai lập được những công trạng đáng khen thưởng như vậy.

Tất cả Đảng Cộng Sản Việt Nam “thân Trung Quốc,” không anh nào thoát được, nếu muốn sống. Họ tranh giành nhau các chức quyền trong đảng; nhưng không thể bước ra ngoài vòng giới hạn Bắc Kinh vẽ ra. Nằm trong cái giọ đó, các con cua tha hồ chen chân đạp lên nhau. Lâu lâu có anh được phép nói những lời bất kính với thiên triều cho dân chúng xì hơi. Không sao, miễn khi làm việc anh cứ làm theo ý các cố vấn. Lâu lâu có anh lại nói một lời nịnh bợ, vì cả Bộ Chính Trị đang lo bị thiên triều “hiểu lầm.” Trò phân biệt hai phe, “thân Trung Quốc” và “chống Trung Quốc” là một ảo tưởng bày ra để ru ngủ dân chúng. Nhiều người cũng thích được ru ngủ, vì nghe sướng tai hơn sự thật. Họ có thể tự an ủi rằng trên đầu mình không phải chỉ toàn những thằng bán nước ngồi.

Vì vậy, các vụ đánh Phùng Quang Thanh trên mạng gần đây hoàn toàn do tranh giành quyền lực ở bên trong đảng với nhau. Nếu ông Thanh qua đời vì bệnh nan y thì cuộc giành giựt này vẫn tiếp tục, chắc còn gay go hơn. Bởi vì một người chết đi để lại nhiều thứ mà những người còn sống sẽ được dịp chia nhau. Nhiều đám tang từng bị trì hoãn, chỉ vì họ không biết chia chác di sản ra sao. Xác Tề Hoàn Công để thối trong cung, vì ba ngàn năm trước bên Tàu chưa có phòng lạnh.

Trong số di sản ông Thanh để lại, nếu ông qua đời, có các chức vụ ông đã giữ và tài sản ông nắm trong tay. Những người còn sống chưa “nhất trí” được với nhau sẽ chia chác ra sao. Tướng Phùng Quang Thanh rất nhiều quyền, Bộ Chính Trị, quân ủy, chính phủ; ông còn được coi là người giàu nhất nước Việt Nam, chỉ thua Nguyễn Tấn Dũng. Ông ký giấy mua các thứ vũ khí, máy bay, chiến hạm, tầu ngầm, vân vân. Công nghệ quốc phòng Nga nổi tiếng là bao giờ cũng hậu tạ các khách hàng. Ông giành toàn quyền sử dụng đất đai của quân đội hay được quân đội trưng dụng, rộng bát ngát khắp nước và nằm trên nhiều địa điểm kinh tế “chiến lược.” Nhiều khu đã được thương mại hóa hay biến thành cư xá sang trọng, con trai ông thường trúng thầu. Những tài sản này trị giá nhiều tỷ Mỹ kim, còn tiếp tục sinh lợi hàng thế kỷ nữa, chưa biết ai sẽ hưởng.

Trong các xã hội bình thường có luật pháp thì gia đình ông Phùng Quang Thanh sẽ được hưởng gia tài của ông. Nhưng xã hội Việt Nam không bình thường, từ cách tạo dựng tài sản, thủ đắc cho tới sử dụng tài sản. Đây có thể là một lý do khiến gia đình ông, nhất là những người đang ở Paris bên cạnh ông, trong mấy ngày qua không cộng tác với bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản. Họ chưa biết Đảng Cộng Sản sẽ chia cho họ thế nào khi ông Phùng Quang Thanh ra đi, hay đã qua đời rồi. Đảng Cộng Sản cũng chưa trả lời dứt khoát được, vì ngay việc phân chia giữa họ với nhau cũng chưa ngã ngũ. Việc chia nhau di sản quyền và tiền ông Phùng Quang Thanh để lại cũng liên quan đến tất cả những cuộc mặc cả khác, trước khi đảng họp đại hội năm tới. Dù sao, khi nào được tin ông Phùng Quang Thanh qua đời chúng tôi sẽ ngả mũ lần nữa, cầu nguyện và mừng ông thoát được cõi ta bà đại hội này.

Nhiều ẩn số về tình trạng Đại tướng Phùng Quang Thanh

Nhiều ẩn số về tình trạng Đại tướng Phùng Quang Thanh

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-07-21

07212015-make-it-clear-Namngueyn.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ảnh minh hoạ

Ảnh minh hoạ

File photo

Việt Nam có vẻ đã huy động các kênh truyền thông nhà nước để bác bỏ tin Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã chết. Tuy vậy phát biểu của Trung Tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng Tham Mưu trưởng Quân đội nhân dân VN được cho là chưa đầy đủ, không trưng dẫn hình ảnh tướng Thanh trong thời gian chữa bệnh và hồi phục.

Chỉ cần một vài giây phút hình ảnh của tướng Thanh

Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên vào tối 21/7/2015, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nguyên tư lệnh Quân Khu 4 từng là Thủ trưởng của Đại tướng Phùng Quang Thanh đã làm rõ hơn về tình trạng của Đại tướng, một điều mà truyền thông trong nước không hiểu vô tình hay cố ý bỏ qua chi tiết này. Vị Trung tướng 89 tuổi nhưng rất dõng dạc, từ nơi nghỉ hưu ở Hà Nội cho biết, lần cuối cùng mà ông trực tiếp nói chuyện qua điện thoại với Đại tướng Phùng Quang Thanh là 18 ngày trước, tính đến 21/7/2015. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước phát biểu:

“ Sự việc tôi biết được vào ngày 27 và từ ngày mùng 3 mỗi ngày tôi đều trao đổi tình hình với thư ký của Đại tướng như tôi đã nói trên mạng. Riêng ngày mùng 3/7 lúc 8 giờ tối bên mình tức là buổi chiều ở bên kia vì cách nhau 6 tiếng Bộ trưởng có điện thoại trực tiếp cho tôi, tôi nhắc lại ngày mùng 3 đấy nhớ. Bộ trưởng nói thế này, bác rất quan tâm tình hình sức khỏe của tôi anh em thư ký nói lại, hôm nay tôi trực tiếp mói chuyện với bác để bác yên tâm. Chúng tôi trao đổi với nhau đúng 7 phút đồng hồ, tất cả nội dung dõng dạc, nói rõ giống như chúng tôi ngồi nói chuyện ở Hà Nội vậy thôi. Tôi khẳng định rằng, những vấn đề tôi nói trên mạng những vấn đề tôi nói trực tiếp với thư ký của đồng chí Bộ trưởng hàng ngày và riêng ngày mùng 3/7 thì Bộ trưởng trao đổi với tôi trực tiếp, chứ không phải qua thư ký, thì tôi tin rằng, tất cả những việc người ta đưa lên mấy ngày hôm nay toàn là những việc để gây rắc rối cho đất nước chúng tôi.”

Báo chí do nhà nước quản lý, khi trích lời Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, bác bỏ tin của Thông Tấn Xã Đức DPA nói Tướng Thanh đã chết hôm 19/6, nhấn mạnh rằng sức khỏe ông Thanh ổn định, cuối tháng sẽ về. Chúng tôi nêu câu hỏi, thời gian từ nay (21/7) tới cuối tháng chỉ là 8 tới 9 ngày. Phải chăng lúc ấy tất cả những lời đồn đoán, thông tin thất thiệt sẽ bị xóa sạch vì sự thật sẽ chứng minh. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước đáp lời:

“ Ngươi ta nói là khoảng cuối tháng lúc ổn định thì sẽ về chứ người ta không có nói ngày giờ nào cả. Riêng đồng chí thư ký nói với tôi là bác sĩ bảo khi nào ổn định tình hình sẽ về, thời gian không bao lâu nữa, chỉ có vậy thôi. Còn ai nói cuối tháng là việc của người khác chứ tôi nghe qua đồng chí thư ký là như vậy. Tôi mong rằng tất cả những ai quan tâm vấn đề này, vì lợi ích của đất nước vì sự ổn định của Việt Nam chứ đừng vì những việc này gây rắc rối cho Việt Nam…những động cơ, những hành động như vậy tôi hoàn toàn phản đối.”

Cuộc nói chuyện qua điện thoại từ Washington DC với Trung tướng Nguyễn Quốc Thước ở Hà Nội bị mất tín hiệu, dở dang câu hỏi của chúng tôi là chỉ cần một vài giây phút đưa hình ảnh của Đại tướng Phùng Quang Thanh đang đi bộ tập hồi phục ở ngoại ô Paris lên truyền thông nhà nước thì sẽ lập tức đánh tan mọi tin đồn đoán không hay về sức khỏe của ông Bộ trưởng.

DPA không cải chính chỉ thêm tin Việt Nam bác bỏ

Đảng và Nhà nước Việt Nam cho tới nay luôn giữ bí mật về tình hình sức khỏe của các giới chức lãnh đạo. Trường hợp Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh trước đây và nay câu chuyện của Đại tướng Phùng Quang Thanh là những thí dụ điển hình.

Bô Thông tin Truyền thông, Bộ Quốc Phòng Việt Nam hay cao hơn là chính phủ đã chọn lối ứng xử không cần đưa tin về sức khỏe của lãnh đạo, trong trường hợp này một Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng vắng mặt tại nơi làm việc gần 1 tháng. Không hề có tin là ai tạm thay thế chức vụ quan trọng này. Theo tin ngoài luồng thì một Ủy ban của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu đang thực tế điều hành chính sách Quốc phòng.

Trong dịp trả lời chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập từ Saigon nhận định:

Tôi đồ rằng có lẽ có vấn đề gì đó bất bình thường, nói cách khác hoàn toàn không bình thường đối với ông Phùng Quang Thanh, vì vậy vậy người ta mới cố gắng giữ kín. Nhưng càng giữ kín lại càng xuất hiện quá nhiều tin đồn và cho tới bây giờ những tin đồn đó đang đẩy tình trạng ông Phùng Quang Thanh không phải theo kịch bản như lúc đầu dự đoán là vấn đề sức khỏe nữa, mà theo những kịch bản xấu hơn. Đó chính là vấn đề mà tôi nghĩ rằng hệ thống tuyên giáo họ đã thất bại và họ để càng lâu thì tin đồn lại càng mưng mủ và do đó số phận của tướng Phùng Quang Thanh lại càng thêm bí ẩn.”

Ngày 20/7/2015, Trung tướng Võ Văn Tuấn Phó tổng tham mưu trưởng khi trả lời báo Thanh Niên đã nói nguyên văn: “sức khỏe của Bộ trưởng Quốc phòng Đại tướng Phùng Quang Thanh bình thường, không có vấn đề gì và không cần đi thanh minh trước các tin đồn thất thiệt.”

Xin được nhắc lại, Hãng thông tấn Đức DPA trong bản tin phổ biến chiều Chủ nhật 19/07/2015 trích từ nguồn tin quân sự ẩn danh, nói rằng Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã qua đời sau gần một tháng điều trị tại bệnh viện Georges Pompidou ở Paris Pháp. Tiếp ngay sau đó báo chí Việt Nam phỏng vấn Trung tướng Võ Văn Tuấn, phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam và vị này đã bác bỏ tin của hãng DPA.

Khác với những gì truyền thông nhà nước cho rằng hãng tin Đức DPA đã cải chính. Trên thực tế DPA không cải chính vẫn giữ tin đã đưa của mình, nhưng đưa thêm tin Việt Nam bác bỏ tin tướng Thanh đã chết. Đặc biệt trong bản tin thứ hai DPA nói lả theo nguồn tin từ nhân viên Bệnh viện chứ không ghi là nguồn tin quốc phòng nữa.

Dù muốn dù không tình trạng thực sự của Đại tướng Phùng Quang Thanh sẽ chắc chắn được làm rõ trong thời gian tới. Ông còn sống hồi phục sức khỏe và về nước, hoặc như trường hợp ông Nguyễn Bá Thanh người ta đưa ông về nước để lo hậu sự.

Họ để Người ở đâu?

Họ để Người ở đâu?

Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

(Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Trần Văn Giàu và căn bệnh “Sùng bái Liên Xô”

Trần Văn Giàu và căn bệnh “Sùng bái Liên Xô”

Ghi nhận của : Đoàn Thanh Liêm

Ông Trần Văn Giàu, một đảng viên cộng sản kỳ cựu gốc miền Nam, vừa mới qua đời vào cuối năm 2010, ở tuổi đại thọ gần con số chẵn 100 năm (1911 – 2010). Báo chí của nhà nước cộng sản đã viết rất nhiều về ông với lời ca tụng tán dương hết mực. Và một số học giả ngoại quốc cũng đã từng viết về ông với một vài sự dè dặt.

Trong bài này, tôi không chủ ý viết lời khen chê nào đối với một nhân vật, mà mình đã không để tâm theo dõi tìm hiểu gì nhiều, mà cũng chưa hề bao giờ tôi đã gặp mặt, hay chuyện trò gì với ông ta nữa. Mà như trên nhan đề, tôi chỉ muốn ghi lại cái căn bệnh “Sùng bái Liên Xô”, mà nhiều nhà lãnh đạo cộng sản Việt nam trước đây đã mắc phải, và trong số những người đó, ông Giàu là một tiêu biểu khá rõ nét.

Thật vậy, ông Giàu đã có lần phát biểu một câu chắc nịch đại ý có thể được ghi lại như sau : “ Nói gì thì nói, chứ Liên Xô thì không bao giờ mà lại có thể sai lầm được”. Mà cả lãnh tụ Hồ Chí Minh của ông Giàu, thì cũng đã từng tuyên bố đại khái rằng : “ Tôi chẳng có tư tưởng lý thuyết riêng nào cả, mà các lãnh tụ Staline và Mao Trạch Đông đã suy nghĩ đày đủ chu đáo lắm rồi…” Còn ông Tố Hữu, thì đã có bài thơ ca tụng lãnh tụ Stalin vĩ đại lúc ông này từ trần vào năm 1953, với những  “câu thơ bất hủ” như sau :

“ Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười”.

Vào hồi đầu thập niên 1940, lại còn có một đảng viên cộng sản ở miền Nam – cũng vào cùng thế hệ với ông Giàu – thì còn lấy cả tên hai địa danh chiến tích nổi tiếng của Hồng Quân Liên Xô để mà đặt tên cho hai cô con gái của mình, đó là Huỳnh Thị Crimée và Huỳnh Thị Odessa. Cái tên gọi này được chính thức ghi rõ ràng trong giấy khai sinh hồi đó còn viết bằng tiếng Pháp trong sổ hộ tịch ở xứ Nam kỳ thuộc địa, chứ đó không phải chỉ là tên gọi trong chỗ riêng tư của gia đình.

Và như ta đã biết, kể từ thập niên 1920, tổ chức Đệ Tam Quốc Tế Comintern do Liên Xô lãnh đạo đã tài trợ cho không biết bao nhiêu cán bộ nòng cốt của đảng cộng sản Việt nam, để họ theo học tại Đại học Phương Đông ở thủ đô Moskva. Đó là những nhân vật với tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Văn Giàu, Bùi Công Trừng… Hồ sơ về các sự việc này đều còn được lưu giữ với nhiều chi tiết trong văn khố đồ sộ của cơ quan này.

Ngày nay, với sư “Giải mật” (Declassification) về các tài liệu vẫn thường được giữ kín trong các văn khố của nhiều quốc gia, đặc biệt là của Liên Xô, thì giới nghiên cứu lịch sử có thể cung cấp cho chúng ta hình ảnh mỗi ngày thêm chính xác hơn về sự yểm trợ tài chánh và sự chi phối của Comintern và của Liên Xô đối với chính sách và hành động của đảng cộng sản Việt nam, kể từ ngày đảng này mới được thành lập vào đầu thập niên 1930, cho đến các thập niên 50-60 sau này.

Điển hình là gần đây, công chúng Việt nam vừa mới được biết đến hai bức thư viết tay bằng tiếng Nga do chính ông Hồ Chí Minh ký năm 1952, để gửi cho lãnh tụ Stalin mà có đính kèm dự thảo chính sách cải cách ruộng đất đã được đảng cộng sản Việt nam soạn thảo, với sự cố vấn của người lãnh đạo cộng sản Trung quốc là Lưu Thiếu Kỳ.  Sự kiện này càng chứng tỏ rằng : “ đảng cộng sản VN đã theo rất sát với sự chỉ dẫn và lãnh đạo của bậc đàn anh Liên Xô”. Và đó là nguyên ủy của mọi tai ương khốn khổ cho dân tộc chúng ta từ hơn 60 năm qua, do lũ người cộng sản cuồng tín quá khích đã du nhập cái chủ thuyết “ bạo lực cách mạng đày hận thù đẫm máu” từ Liên Xô, Trung Quốc vào Việt nam để mà tàn phá tan hoang cơ đồ non nước chúng ta.

Công cuộc Cải Cách Ruộng Đất được phát động rầm rộ ở miền Bắc trong thập niên 1950, mà người cộng sản gọi là  một cuộc “Cách Mạng Long Trời Lở Đất”, thì đã gây ra biết bao đau thương chết chóc, khổ nhục cho cả hàng mấy chục vạn nạn nhân được xếp vào lọai “giai cấp địa chủ”. Sự việc này đã được nhiều người biết đến từ lâu rồi, tôi khỏi cần nhắc lại ở đây nữa.

Mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến một điểm chủ yếu sau đây : “Đó là đảng cộng sản Việt nam đã áp dụng đúng theo sự chỉ đạo của người anh cả Liên Xô và của người anh lớn Trung Quốc trong vụ cải cách ruộng đất cực kỳ dã man tàn bạo này”.

Và trước sự ta thán hốt hỏang, bất mãn của đa số quần chúng về sự tàn ác vô nhân đạo đó, thì vào năm 1956 giới lãnh đạo ở Hanoi mới làm bộ dàn cảnh sửa sai, bằng cách cử Tướng Võ Nguyên Giáp đứng ra “ xin lỗi quốc dân”, đồng thời “cách chức Tổng Bí Thư Trường Chinh và một vài cán bộ cao cấp khác”. Việc này chỉ nhằm tạm thời xoa dịu nỗi uất ức của các gia đình nạn nhân mà thôi. Chứ về thực chất, thì chính sách cải cách ruộng đất này là do tòan bộ giới lãnh đạo chóp bu của cộng sản Việt nam đã thông qua quyết định, và tuyệt đối áp dụng theo đúng sự lãnh đạo của các đàn anh Liên Xô, Trung Cộng.

Rồi tiếp liền theo sau đó, họ vẫn tung ra chiến dịch “Hợp tác hóa, Tập thể hóa Nông Nghiệp” cũng lại rất tàn bạo sắt máu, cũng lại rập khuôn theo đúng với chính sách của Liên Xô, Trung Quốc.

Trở lại với chuyện ở miền Nam vào các năm 1945 – 47, đúng vào cái thời ông Trần Văn Giàu còn đang nắm giữ việc lãnh đạo chánh quyền tại đây, thì đã xảy ra hàng lọat các vụ sát hại những người ái quốc theo khuynh hướng cộng sản Đệ Tứ Quốc Tế (còn gọi là phe trotskyst, tức là theo chủ trương của lãnh tụ Leon Trotsky, người bị Stalin cho tay sai tới ám sát vào năm 1940, lúc ông sống lưu vong ở Mexico). Điển hình là trường hợp bị thủ tiêu ngay tại khu vực phía bắc thành phố Saigon của các ông Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà… Cũng cần phải ghi lại việc thủ tiêu ám hại Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập ra Phật Giáo Hòa Hảo, cũng đã xảy ra vào năm 1947 tại khu vực miền Tây Nam Bộ. Các chuyện tàn ác động trời này, ông Giàu và phe cộng sản Đệ Tam của ông đã thực hiện đúng theo chủ trương của Liên Xô, mà ông coi là “không bao giờ mà lại có thể sai lầm được”, như đã ghi ở phía trên của bài viết này.

Tóm tắt lại : Những người lãnh đạo cộng sản nòng cốt vốn được cái tổ chức Đệ Tam Quốc Tế (Comintern) đào tạo từ lâu tại Moskva, như ông Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu…, thì họ đã áp dụng đường lối chính sách rập theo khuôn mẫu của Liên Xô dưới thời Stalin, mà họ đã thật tâm rất mực sùng bái, đúng như lời phát biểu công khai của họ trước công chúng. Mà cho đến ngày nay bước qua thế kỷ XXI rồi, thì giới lãnh đạo cộng sản ở Hanoi cũng vẫn còn tuyên bố “kiên trì đi theo đường lối Cách Mạng Tháng Mười của Liên Xô” nữa.Thật đây rõ ràng là một tai họa thảm thương cho cả một dân tộc Việt nam chúng ta vốn đã có lịch sử trên 4000 năm văn hiến vậy.

Hỡi ôi! Cái thời đại sao mà quá ư nhiễu nhương u ám mê hoặc!/

California, Tháng Giêng 2011

Đòan Thanh Liêm

Việt Nam – 70 năm dưới thể chế cướp bóc

Việt Nam – 70 năm dưới thể chế cướp bóc

Nhà văn Võ Thị Hảo

RFA

“Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”.  Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng”…

(Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ – đại biểu QH Bến Tre)

Trên đời này có nhiều loại cướp bóc nhưng không loại cướp bóc nào có thể hủy hoại cả một đất nước như loại dùng thể chế chính trị và bộ máy chính quyền làm công cụ cướp đoạt của người dân. Bao đau thương khổ nạn của loài người cũng chủ yếu từ đó mà ra.

Cướp bóc theo kiểu nói trên là những cuộc cướp bóc tầm quốc gia, qua những Hiến pháp, luật, thông tư chỉ thị, bảo hộ độc quyền, các loại thuế và phí… nhằm cướp bóc của dân. Những tội ác này được cả hệ thống truyền thông nô lệ và bộ máy đàn áp che giấu, mỵ dân. Ai dám nói sự thật hoặc phản đối sẽ phải hứng chịu bạo lực dưới nhiều hình thức. Bạo lực của bộ máy cướp bóc này được tung ra từ tất cả các khâu từ Đảng cộng sản, nhà nước, cơ quan, hội đoàn tới lập pháp, tư pháp, hành pháp. Bạo lực cũng thể hiện rõ nhất ở hệ thống công an và bộ máy hành chính các cấp.

Việc “rút xương tủy” của dân dưới nhiều hình thức để tham nhũng dưới danh nghĩa công dân phải đóng góp xây dựng tổ quốc là chiêu bài cướp bóc mà bộ máy độc tài luôn tận dụng.

Tăng thuế, phí và lạm thu

Chỉ tính riêng giá xăng dầu, kể từ đầu năm 2015 đến nay, giá đã tăng 3 lần liên tiếp. Theo các chuyên gia thì nguyên do tăng không phải do giá xăng dầu thế giới mà bởi nhà nước vô cớ tăng thuế môi trường lên 300%. Dù là nước xuất khẩu dầu, nhưng giá xăng tại VN đắt hơn Mỹ. Trong khi đó Mỹ có mức thu nhập cao hơn Việt Nam (2011) lên tới 31,7 lần. Mỗi lần tăng giá xăng, điện, tăng thuế và phí, giá thị trường tăng theo và dân càng khốn cùng.

Theo báo Tuổi trẻ, nhiều khoản thuế và phí lạm thu đã khiến cho nhiều gia đình ở Hà Tĩnh ngập chìm trong nợ vì họ đã đói ăn mà vẫn phải vay để nộp. Trưởng phòng tài chính huyện Can Lộc thừa nhận, có rất nhiều khoản thuế và phí vô lý. Sự lạm thu đang khiến người dân bị bần cùng hóa, nhiều người phải tha phương cầu thực.

Tình trạng này đã xẩy ra từ nhiều năm trước nhưng không khắc phục mà ngày càng lạm thu vô tội vạ. Báo cáo tại Quốc hội cho biết, ngay từ năm 2002, qua khảo sát thấy rằng các cơ quan cấp TƯ và địa phương có  quyền đặt định thu của dân ít nhất 432 khoản phí và lệ phí ngoài thuế. Việc đặt mức thu hết sức tùy tiện, lộn xộn, không thể quản lý nổi.

Nhiều chuyên gia kinh tế cho biết, mức thu từ thuế và phí tại VN ngày càng tăng vọt. Trong 5 năm vừa qua, nguồn thu từ thuế và phí của VN dẫn đầu khu vực, là 20% GDP. Báo cáo “Tổng quan môi trường thuế VN 2014” cho biết, tình trạng phí chồng lên phí và lạm thu đang khiến mỗi người dân phải gánh tỉ lệ chịu thuế, phí/GDP cao gấp 1,4-3 lần so với các nước trong khu vực, trong khi thu nhập bình quân đầu người VN vào hàng thấp nhất.

Thống kê của Bộ NNPTNT cũng cho biết nông dân phải gánh đến 131 khoản đóng góp, trong đó có 93 loại phí, lệ phí theo quy định và 38 khoản “đóng góp xã hội” khác.

Theo T.S Lê Đăng Doanh – nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế trung ương (CIEM), thì chính “thói quen” chi tiêu ngân sách như hiện nay là căn nguyên khiến gia tăng các loại phí và lệ phí đối của người dân, DN. Theo lý giải của TS Doanh, năm 2015 xuất hiện nhiều hình thức thu phí, lệ phí là nhằm bù đắp thiếu hụt của thu ngân sách Nhà nước.

Chẳng hạn đoạn đường  cao tốc Pháp Vân – Ninh Bình (chỉ dài 20km) cũng đã được Bộ này ban hành mức thu phí xe container 400 feet cao nhất lên đến 5 triệu/tháng. Hay ngày 8/4 tại cầu Đồng Nai đã áp dụng mức thu phí 15.000 – 120.000/vé/phương tiện… Đây chỉ là một trong số các ví dụ của việc Nhà nước đang dùng nhiều cách để tăng thu, bù đắp cho thâm hụt ngân sách.

Cái chết hàng loạt trong nhiều năm của các doanh nghiệp VN và sự nghèo khó khốn cùng của người dân VN chính là hệ quả của những hành vi cướp bóc qua thuế, phí, qua các chính sách bảo hộ doanh nghiệp độc quyền như xăng dầu, điện…

Thắng lợi của Đảng: đổi bằng xương máu dân

Nhân dịp Đảng CS VN kể công rầm rộ nhân dịp kỷ niệm 85 năm thành lập, người VN không thể không nhìn lại lịch sử 70  năm của thể chế độc tài cộng sản VN.

Căn cứ các sự kiện lịch sử, thì thấy đúng là Đảng „đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác“, nhưng Đảng thắng là dân thua. Đảng chỉ có nghĩa là một nhóm người có quyền lực chiếm được quyền lãnh đạo. Mỗi thắng lợi của Đảng đều đổi bằng hoặc xương máu và nước mắt của dân VN.

„Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa“.  Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng“. Tội tham ô, tham nhũng mà không tử hình thì không hợp lòng dân, bởi tham nhũng không phải là những người nhỏ mà đều là người làm to có chức có quyền, đục khoét công quỹ, bóc lột nhân dân”.

(Phát biểu của thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ, phó giám đốc Học viện Quốc phòng (đại biểu Bến Tre) Tuổi trẻ – 277572015)

Có thể thấy, hầu hết những thắng lợi của Đảng cộng sản và chính quyền VN ngay từ khi mới thành lập cho đến nay đã lấy phương châm „cướp“ làm kim chỉ nam cho mọi hành động.

Chúng ta có thể thấy vô số từ „cướp“, „giết“… trong các văn bản trang trọng của nhà cầm quyền độc tài cộng sản VN: “cướp của người giàu chia cho người nghèo“, „cướp chính quyền“, cướp kho thóc của Nhật“, „Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ“…

Chính quyền cộng sản VN cũng do cướp mà có được và từ đó nhiều hành xử của nó đối với những người dân cũng theo „tôn chỉ cướp bóc“. Chẳng hạn việc quyền lực trong bộ máy đều trao cho các đảng viên. Chỉ một nhóm người trong đảng nhưng lại tự đoạt lấy quyền đại diện cho quyền lợi của công dân cả nước là  bất công và phản lại quyền con người.

Untitled-1-400.jpg

Ông Hoàng Văn Ngài bị tra tấn đến chết trong đồn công an Đak nông nhưng họ đã dựng hiện trường giả, đổ cho ông tự tử. Ảnh do thính giả gửi cho RFA

Cải cách Ruộng đất là cuộc đại cướp bóc làm đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu bò và công cụ sản xuất. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì nó không khác gì một cuộc diệt chủng áp dụng lên chính đồng bào của mình.

Người VN sẽ không bao giờ quên những cuộc giết người rùng rợn, do chính người VN, mà trước đây có thể là bạn bè, hàng xóm sống yên vui đầm ấm. Để không bị chính quyền đoạt mạng, con tố oan cha, chồng vợ tố oan nhau. Nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban Cải cách ruộng đất là „Thà chết mười người oan còn hơn là để sót một địch“( Hồ sơ của Hội đồng CCRĐ –  Thư viện Pháp luật VN).

Theo con số thống kê chưa đầy đủ, sách Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 – 2000, tập 2 xuất bản tại Hà Nội năm 2004, chỉ riêng cuộc CCRĐ đợt 5(1955- 1956) được thực hiện ở 3.563 xã, có khoảng 10 triệu dân và tổng số người bị sát hạt trong đợt này lên đến 172.008 người, trong đó có tới 123.266 người(71,66%) là giết oan!

Cải cách ruộng đất với hàng trăm ngàn cuộc đấu tố, giết lương dân vô tội đã khiến dân VN táng đởm kinh hồn, đành khuất thân làm nô lệ. Nông dân được chia đất từ chỗ cướp lại của địa chủ  nhưng sau đó thì việc tổ chức các hợp tác xã nông nghiệp đã cướp tất cả đất đai của họ vào tay chính quyền và nông dân lại trở thành vô sản đến tận bây giờ vì Luật, Hiến pháp vẫn quy định „đất đai là sở hữu toàn dân“.

Một trong những hành động cướp bóc quyền của dân lớn nhất gần đây là vào năm 2013, khi sửa đổi Hiến pháp, điều 4 Hiến pháp này quy định Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Việt Nam, trong khi ngay cả những Hiến pháp trước đó, mặc dù đã rất mất dân chủ, cũng không đủ can đảm để quy định một điều phi dân chủ và và vi phạm nhân quyền như vậy.

Xóa độc tài để giữ mạng Dân và mạng Nước

Chính vì sự lãnh đạo độc tài và theo phương châm cướp bóc đã khiến cho dân VN không những nghèo khó mà còn bị mất quyền làm người, có thể bị đoạt mạng sống bất kỳ lúc nào bởi nhân viên công quyền.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng công an là đối tượng chính phải chịu trách nhiệm về việc có tới hơn 260 người chết trong lúc bị tạm giam chỉ trong vòng 3 năm gần đây.

Làm chết người nhưng kẻ giết người lại được bao che bởi chính các đảng viên cộng sản cấp trên và đồng nghiệp cùng hệ thống tư pháp, hành pháp.

Sự bao che ấy thực sự là hành vi bật đèn xanh cho nhân viên công quyền tha hồ cướp bóc, đánh giết dân. Điều đó tung ra một thông điệp ngầm: cơ quan công quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là vua, là trời, để dân sống thì dân được sống, bắt dân chết là dân phải chết, bất cần pháp luật.

Sự bao  che ấy thể hiện quyền sinh sát của nhà cầm quyền trong việc đánh đập, giết dân hoặc giả dạng côn đồ để hãm hại, mạt sát, bỏ tù  những người đi kêu oan, người dám lên tiếng đòi nhân quyền và dân chủ…Sau khi đã làm cho dân khiếp sợ, biết rắng mình có kêu oan cũng vô vọng, nhà cầm quyền càng tha hồ cướp bóc. Và chính sự cướp bóc này đã khiến cho vận mạng VN, trước sự xâm lấn của TQ, trước sự tiếp tay của những kẻ bán nước, đang hết sức nguy ngập.

Ông là một người làm thơ được chính quyền vinh danh vì công lao trong việc tụng ca thể chế độc tài này và cho Đảng. Vì thế, ông  lên đến tận chức Phó Thủ tướng thường trực. Có lẽ con đường thành đạt của ông đã được xây bằng những bậc thang tụng ca mục đích tôn chỉ của nhà cầm quyền cướp bóc:

„Giết! Giết nữa, bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt“

(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37- Nguồn: Truclamyentu.infor).

Bài thơ của ông mặc dù được nhiều người có uy tín đánh giá là „khát máu“, nhưng chỉ trong bốn câu văn vần này mà ông đã thâu tóm, khắc họa được phương thức hành xử của chính quyền độc tài này với nhân dân.và cũng cắt nghĩa được người VN khốn khổ vì đâu.

Rõ ràng là thể chế này cần phải xóa bỏ vì nó đã lỗi thời, mục ruỗng và càng vận hành càng gây nhiều hành vi cướp bóc. Thay đổi VN bằng một thể chế chính trị đa nguyên, dân chủ,  xóa bỏ sự độc quyền của Đảng cộng sản, liên kết với các nước dân chủ và văn minh là con đường để giữ mạng nước Việt và người Việt.

VTH

Những con ma ẩn mình chờ chết

Những con ma ẩn mình chờ chết

Blog RFA

CanhCo

20-07-2015

The Thorn Birds của nhà văn nữ người Úc, bà Colleen McCullough khi được dịch ra tiếng Việt trở thành “Những con chim ẩn mình chờ chết”.  Theo nhà báo Trần Trọng Thức thì “The Thorn” là một loài chim huyền thoại, cái chết của chúng đã thi vị hóa từ nhà thơ Phạm Thiên Thư trong Đưa em tìm động hoa vàng khi viết “Chim ơi chết dưới cội hoa, tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà….”

Đảng cộng sản Việt Nam ngoài công việc chính trị “nặng nhọc” khả năng viết tiểu thuyết của họ không hề kém thế giới tư bản. Tựa quyển tiểu thuyết diễm tình của Colleen McCullough được cải biên rất hay, rất phù hợp với thể trạng cộng sản: Quyền sinh sát của tập thể lãnh đạo đối với đồng chí của mình là tuyệt đối. Họ cho sống thì sống họ bắt chết thì phải chết.

Khi họ bắt chết thì trăm phương ngàn kế nạn nhân sẽ trở thành một cái xác nằm im bất động dưới lòng đất hoặc sống mà như đã chết trong các nhà tù nổi tiếng. Họ có biệt tài đối phó với người đồng chí khiến nạn nhân có miệng mà như không lời, đến khi được thả ra khỏi nhà tù rồi vẫn còn sợ không dám thở mạnh huống chi là tố cáo.

Đó là người sống, những con người.

Còn những con ma thì sao?

Vâng, ma là tiếng dùng để chỉ con người đã chết, mà theo y học thì “chết” thông thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngừng vĩnh viễn mọi hoạt động sống, không thể phục hồi, của một cơ thể. Tim, phổi và não khi ngưng không hoạt động nữa thì bác sĩ sẽ xác nhận là đã chết. Và sau khi chết thì không thể gọi là người mà phải gọi là ma.

Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận cách khám nghiệm của y khoa trước một xác chết mà nó phải được Đảng có chấp nhận cho nó chết thì mới được chết. Những con ma này trong tiểu thuyết nhiều tập có tên “Những con ma ẩn mình chờ chết”.

Sở dĩ chúng ẩn mình vì không thể lên tiếng công khai cho cái chết của chúng và vì vậy chưa được gia nhập vào thế giới ma. Những con ma ấy thường là cấp lớn nhất trong hệ thống lãnh đạo và do đó Đảng phải đắn đo ngày giờ phù hợp cho nó chết. Trong lịch sử Đảng “đương đại” con ma gây tốn giấy mực nhất là Nguyễn Bá Thanh, đã chết từ bên Mỹ và xác được chở về Việt Nam nằm đó chờ thủ tục được gia nhập “tập đoàn ma” tức là các đồng chí của ông ta. Ông ta nằm trong tư thế một thi hài nhưng Đảng nằng nặc nói là ông ta chưa chết.

Trước tiên thẩm quyền nhất là ông GS Phạm Gia Khải, bác sĩ riêng của Bộ chính trị, người chuyên bắt mạch cho toàn bộ cấp lãnh đạo khi họ đã vào một bệnh viện nào đó ở ngoại quốc. Vì bắt mạch từ xa nên có khi “nhiễu sóng”. Ông Khải bảo ông Nguyễn Bá Thanh sức khỏe tốt đang diễn tiến thuận lợi. Vài ngày sau ông Bá Thanh rất thuận lợi nằm trên máy bay riêng hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng.

“Tau khỏe mà có chi mô” là lời kể của một ông Đảng viên ưu tú tại thành phố khi ra đón ông Thanh để rồi vài ngày sau đó, phái đoàn cao cấp của Đảng lục tục xếp hàng phúng điếu, xác nhận ôngThanh đã chết, đã thành ma.

Con ma thứ hai cũng tên Thanh nhưng chưa được phép chết.

Phùng Quang Thanh sang Pháp chữa bệnh không ai biết. Tin đồn râm ran trên trang mạng xã hội ngày càng nhiều khiến GS Phạm Gia Khải lại được lệnh Đảng một lần nữa ngồi tại Hà Nội, bắt mạch một con ma tận Paris để rồi đưa ra kết quả rất khả quan: Phùng tướng quân đã hoàn toàn bình phục.

Tin đồn bổng trở thành tin nóng sốt khi hãng tin DPA của Đức chính thức thông báo ông Phùng Quang Thanh đã trở thành ma, tức là đã chết vào chiều ngày 19 tháng 7 năm 2015 tại bệnh viện Georges Pompidou tại Paris.

Đảng lại một lần nữa không cho ông Thanh Phùng chết vào lúc này, lúc mà bọn phản động đang chăm chăm nhìn vào hoạt động thay ngựa giữa dòng của Đảng. Lập tức Thứ trưởng Bộ quốc phòng Võ Văn Tuấn yêu cầu DPA cải chính vì ông Thứ trưởng xác nhận như đinh đóng cột rằng ông vừa gọi điện cho ông Thanh và ông ấy vẫn còn khỏe sẽ về Việt Nam vào cuối tháng này.

Hảng tin DPA ghi lại nguyên văn lời ông tướng Tuấn nói, và vẫn giữ ý chính của bản tin đã được loan đi vào ngày hôm qua, nguyên văn như sau:

“An earlier dpa report said the general died Sunday after receiving treatment at the hospital, citing a source at the hospital.”

“Bản tin của dpa trước đó tường thuật rằng Tướng (Thanh) đã chết vào ngày Chúa Nhật sau khi được chữa trị tại bệnh viện, trích từ một nguồn tin của bệnh viện”’

Có nghĩa là DPA chả cải chính gì sất mà nó còn mượn lời phát biểu của ông Thứ trướng quốc phòng để khoáy sâu thêm vào sự ngờ vực của dư luận về một con ma chưa được Đảng cho chết.

Con ma họ Phùng vậy là còn “ẩn mình” chờ chết.

Nhưng một con ma khác, lớn hơn và “vĩ đại” hơn sẽ không bao giờ được chết mặc dù ông có lăng có miếu đường bệ. Ông là Hồ Chí Minh, vẫn sống mãi trong lòng các Đảng viên và vì vậy ông sẽ không bao giờ chết.

Đảng không cho ông chết mặc dù khi lâm chung ông đã yêu cầu được hỏa thiêu và nhất là không được làm rầm rộ trên xác chết của ông. Nhưng Đảng muốn rầm rộ thì toàn dân phải rầm rộ. Đảng muốn ông chưa được chết thật sự thì dù ông là ma cao cấp nhất vẫn phải ẩn mình chờ chết.

Ông đợi hơi lâu, vì duy nhất chỉ có một sức mạnh khẳng định cho cái chết của ông chính là lịch sử. Lịch sử đến từ từ nên ông vẫn còn phải vật vạ ẩn mình.

Buổi tiếp chuyện với Linh mục Vitaly Borovoy

Chuyện  xưa  chuyện  nay (13)

Buổi tiếp chuyện với Linh mục Vitaly Borovoy

(tại Geneva, tháng Ba năm 1972)

Hồi tưởng của Đòan Thanh Liêm

Suốt tháng Ba, năm 1972, trong dịp đến làm việc với văn phòng của Hội Đồng Tôn giáo Thế giới” (The World Council of Churches = WCC) tại thành phố Geneva Thụy sĩ, tôi có cơ hội tiếp xúc với một số nhân vật trong các bộ phận chuyên môn của tổ chức quốc tế này. Trụ sở chính của WCC tọa lạc trong một khu vực khá rộng lớn phía ngọai ô của cái thành phố êm ả thanh bình có danh tiếng trong lịch sử Âu châu, trên Đại lộ Route de Ferney, là khu vực mà xưa kia vào thế kỷ XVIII văn hào nổi danh người Pháp Voltaire đã từng có thời gian dài cư ngụ tại đây. Dù đã là tiết xuân, nhưng tại vùng đồi núi ở đây, trời vẫn còn khá lạnh lẽo với nhiều ngày có tuyết đổ làm trắng xóa cả các bụi cây ven đường, nhất là mỗi khi trời nắng thì khối tuyết trên các đỉnh núi cao ngất lại phản chiếu ánh sáng mặt trời, coi thật uy nghi lộng lẫy.

Vào một buổi sáng, tôi đã có cuộc tiếp chuyện dài đến 2 giờ đồng hồ với vị Linh mục thuộc Nhà thờ Chính thống giáo nước Nga, tên là Vitaly Borovoy. Năm 1972 đó ông đã ngòai 55 tuổi, người tầm thước trong bộ áo tu sĩ dài màu đen phủ kín tòan thân, cổ đeo một thập giá mạ vàng khá lớn, và với bộ râu quai nón cũng khá rậm rạp vốn là hình ảnh đặc trưng của các Linh mục trong hàng ngũ Giáo phẩm Chính thống giáo (Orthodox Hierarchy). Linh mục đã từng làm việc trong bộ phận phụ trách về ngọai vụ của Giáo hội Chính thống giáo Nga. Ông nói tiếng Anh với giọng lắp bắp ngập ngừng, nhưng lại sử dụng từ ngữ khá chính xác.

Biết tôi từ miền Nam Việt nam tới, ông hỏi thăm về tình hình chiến tranh mỗi ngày một leo thang ở đó ra sao. Tôi nói với ông rằng suốt đời tôi từ khi có trí khôn vào năm 1941- 42 đến nay đã 30 năm rồi, tôi chỉ biết có chiến tranh tàn sát trên quê hương tôi mà thôi. Tôi đã chứng kiến nạn đói tại làng quê tôi vào năm 1945, làm chết bao nhiêu người bà con và bạn hữu, kể cả ông chú út là em của cha tôi nữa. Tôi thật đau lòng trước bao nhiêu tang thương đau khổ liên miên ròng rã đã bao lâu nay xảy đến cho những người thân yêu của tôi như vậy. Nghe tôi trình bày rõ ràng thành thật như thế, ông tỏ vẻ thông cảm và câu chuyện giữa hai chúng tôi đã mau lẹ trở thành thân mật và cởi mở, giống như giữa hai người anh em bà con trong cùng một dòng họ vậy.

Sau câu chuyện mở đầu thân mật đó, vị Linh mục bắt đầu tâm sự với tôi bằng lời lẽ thẳng thắn, quả quyết đại khái có thể tóm lược vào mấy điểm như sau :

1 – Thứ nhất, về phương diện đối ngọai, Giáo hội Chính thống chúng tôi không thể nào mà có thể có được một quan điểm công khai trái ngược với lập trường của chánh phủ Liên bang Xô Viết. Cụ thể như đối với cuộc chiến tranh hiện nay ở Việt nam, thì chúng tôi phải đứng về phe Xã hội chủ nghĩa mà bênh vực chánh phủ Hanoi, để chống lại chánh phủ Saigon và phe Tư bản do người Mỹ lãnh đạo. Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn cố gắng để mà giữ được vị thế và sắc thái riêng biệt theo truyền thống lâu đời của Tôn giáo mình, chứ chúng tôi không phải là một thứ cơ quan trực thuộc chánh quyền hay là một thứ cơ sở ngọai vi của đảng cộng sản Liên Xô. Nhưng xin ông cũng thông cảm cho việc chúng tôi bị “kiểm sóat, khống chế” khá là ngặt nghèo trong cung cách giao dịch với thế giới bên ngòai, đặc biệt là trong lãnh vực chính trị và bang giao quốc tế.

2 – Thứ hai, về phương diện sinh họat nội bộ, thì từ khi chế độ cộng sản được thiết lập và củng cố vững chắc trên tòan thể nước Nga và các nước Cộng hòa khác thuộc Liên bang Xô Viết, thì Giáo hội Chính thống chúng tôi phải liên tục chịu đựng những sự hạn chế, đàn áp vô cùng là ngặt nghèo tàn bạo không làm sao mà kể cho xiết được. Trong hơn nửa thế kỷ nay, chúng tôi đã có đến hàng chục vạn thánh đường, các tu viện, cơ sở tôn giáo, các chủng viện, các cơ sở văn hóa xã hội bị triệt hạ đến mất hết cả dấu tích luôn. Và bao nhiêu đồ tượng ảnh quý báu được dát bằng quý kim vàng bạc, cẩm thạch đá quý tích lũy từ bao nhiêu thế hệ xa xưa trong các cơ sở phụng tự đó đều bị tịch thu và mang đi đâu chẳng còn ai mà biết được nữa.

Đó là về phương diện cơ sở và tài sản vật chất. Còn về tinh thần và nhất là về phương diện nhân sự tức là thành phần các tu sĩ, giáo sĩ, thì thật là thảm thương bi đát không một ai lại có thể tưởng tượng được nữa. Đã có hàng ngàn giáo sĩ bị hành quyết (executed), hàng nhiều ngàn bị bắt, bị đầy ải ở Siberia và trong các trại tập trung và hầu hết đều đã kiệt sức vì đói, vì lạnh, vì bị làm việc nặng nhọc quá sức chịu đựng của con người. Đó là chưa kể đến con số hàng triệu tín đồ bị hành hạ, bạc đãi, bị cưỡng bức phải di chuyển đi đến những vùng khô cằn hẻo lánh. Chưa bao giờ Giáo hội chúng tôi lại bị bách hại thảm thương tàn ác đến thế!

3 – Nói chung, thì nhà nước Xô Viết vẫn triệt để tìm mọi cách để tiêu diệt tôn giáo và thay thế vào đó bằng chủ thuyết vô thần. Nếu có được một sự nới lỏng, dễ thở nào đó cho sinh họat tôn giáo, thì chỉ vì nhu cầu giai đọan cấp thời mà thôi. Cụ thể như từ lúc nước Nga bị quân Đức Quốc Xã đến xâm lăng vào năm 1941, thì ông Stalin mới ra lệnh cho thuộc cấp trả lại một số cơ sở phụng tự, trả tự do cho một số giáo sĩ, tu sĩ và cho tín đồ được hành đạo tương đối thỏai mái. Nhưng đó chỉ vì muốn lấy lòng các tầng lớp dân chúng để cho họ cùng tham gia vào công cuộc bảo vệ tổ quốc mà thôi. Sau chiến tranh rồi, thì guồng máy kềm kẹp lại tiếp tục vận hành, mà lại càng dã man cuồng nhiệt hơn nữa.

Cả ngay dưới thời của ông Krushchev, thì nạn bài trừ và đàn áp tôn giáo vẫn còn rất ngặt nghèo sắt máu, có đến hàng vạn nhà thờ bị phá hủy hay tịch thu trong các năm dưới quyền của ông lãnh tụ này. Chỉ gần đây, dưới thời của ông Brezhnev, thì mới có sự nới lỏng đôi chút mà thôi.

4 – Ngày nay, nhờ áp lực mạnh mẽ của quốc tế mà Giáo hội chúng tôi cũng mới bắt đầu phục hồi lại được phần nào. Nhưng nói chung, mọi tôn giáo ở Liên Xô, kể cả Chính thống giáo, Tin lành, Công giáo, Hồi giáo, Phật giáo…, thì vẫn còn phải chịu nhiều sự khốn khó hạn chế đủ mọi bề.

Những điều tôi nói với ông lúc này, thì các sách báo ở phương Tây đều đã viết lên đầy đủ cả rồi, dựa trên những chứng từ đáng tin cậy của bao nhiêu người đào thóat từ nước Nga, hay do các nguồn tin do chính người dân ở Liên Xô tiết lộ ra cho các bạn hữu của họ ở nước ngòai. Tôi vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân để có thể xác nhận với ông về những sự việc thực tế hết sức phũ phàng đau đớn này.

Nhưng tôi cũng xin lưu ý ông là không nên công bố danh tính của tôi khi ông viết thuật lại những điều tôi tâm sự riêng tư với ông bữa nay, vì nếu nhà nước Liên Xô mà biết được chuyện “tôi nói không tốt về họ”, thì họ sẽ trách cứ và làm phiền cho văn phòng ngọai vụ của chúng tôi.

Tại nước Thụy sĩ này, tôi được chứng kiến sự thịnh vượng sung túc và cuộc sống thanh thản an bình của người dân, mà tôi càng cảm thương cho dân tộc Nga thật là bất hạnh của tôi. Tôi cũng thương xót cho bao nhiêu đồng đạo, bao nhiêu anh em tu sĩ của tôi đã bị tàn sát do bàn tay của người cộng sản. Và tôi cũng xót thương cả đối với một ít tu sĩ đã vì hèn nhát mà cam tâm làm tay sai cho công an mật vụ, để phản bội lại chính các anh em đồng đạo của mình nữa…

Vitaly Borovoy, vị Linh mục cao tuổi và có thâm niên nhất của Giáo hội Chính thống giáo nước Nga, – tính theo ngày được thụ phong năm 1944 – đã qua đời vào năm 2008, ở tuổi thọ 92 (1916 – 2008). Ông được đánh giá là người đã góp công rất lớn vào công cuộc giữ vững và phục hồi nếp sống tinh tuyền trong truyền thống lâu đời của Giáo hội Chính thống Nga.

*Sau cùng, người viết chỉ xin ghi thêm vài dòng vắn tắt về Giáo hội Chính thống Nga đã tồn tại trên đất nước này từ trên một ngàn năm nay, đã bám rễ sâu vào nếp sống văn hóa và tình cảm tâm linh của dân tộc Slave này. Và dù chế độ cộng sản trong suốt trên 70 năm đã dùng mọi phương cách bạo hành thâm độc nhằm tiêu diệt tôn giáo này, thì rốt cuộc chính các thủ phạm tàn ác là người cộng sản lại bị người dân Nga lọai trừ chối bỏ. Và các nạn nhân khốn khổ là những tín đồ tôn giáo nay đang trên đà phục hồi lại được cái truyền thống đạo hạnh và nhân ái ngàn xưa của cha ông mình.

Và công cuộc phục hồi này, dù vẫn còn khó khăn phức tạp, thì vẫn rõ ràng đang là một quá trình không thể nào mà có thể đảo ngược lại được nữa vậy (an irreversible processus)./

California, Tiết Trung Thu Ất Mão 2011

Đòan Thanh Liêm

Người sắc tộc thiểu số tại vùng cao nguyên miền Nam

Chuyện  xưa  chuyện  nay (14)

Người sắc tộc thiểu số tại vùng cao nguyên miền Nam

Đòan Thanh Liêm

Tôi chỉ mới đi tới Đà lạt mấy lần, kể cả sau năm 1975, chứ chưa bao giờ được đặt chân đến vùng Ban mê thuật, Pleiku, Kontum… Nên phải thú thật là mình chưa thực sự sinh sống tại vùng cao nguyên, để mà có kinh nghiệm thực tế cụ thể với người thuộc các sắc dân thiểu số vốn đã lâu đời định cư tại vùng đó.

Tuy nhiên, do sự gặp gỡ với một số người có quan tâm mật thiết tới số phận của các sắc dân thiểu số, cũng như được đọc nhiều sách báo viết về họ, nên tôi cũng để tâm theo dõi những vấn đề nan giải tại vùng này, đặc biệt là kể từ khi chuyện khai thác quặng beauxite đã và đang gây ra sự phản ứng sôi nổi trong dư luận ở trong cũng như ở ngòai nước trong mấy năm gần đây. Tôi xin lần lượt kể lại một ít điều tôi được biết liên quan đến vấn đề này.

*  1 -Trước hết là cuộc gặp gỡ với Linh mục Jacques Dournes tại Paris vào cuối năm 1970. Linh mục này thuộc Dòng Thừa sai ngọai quốc ở Paris, thường được biết đến với tên gọi quen thuộc là : “Missions Étrangères de Paris” ( MEP). Ông sinh năm 1922 và mất năm 1993 tại Pháp. Trong hơn 20 năm sinh sống với người dân thiểu số tại vùng cao nguyên miền Nam Việt nam từ cuối thập niên 1940 đến năm 1968, ông chú trọng nhiều đến việc tìm hiểu về ngôn ngữ, phong tục, văn hóa của các sắc dân này, đặc biệt là của sắc dân Jarai và có lòng yêu mến cùng tìm mọi cách bảo vệ họ trước cảnh khai thác bất công và xâm lấn của đa số người Kinh tại vùng đất rừng núi hẻo lành này. Trong bộ áo chùng thâm, trông ông có vẻ khắc khổ, nghiêm trang với đôi mắt đày vẻ nhiệt thành.

Trong một bữa ăn trưa tại một nhà dòng của các nữ tu Phan Sinh  (Franciscaines) trong quận 14, gần với khu Đại học xá (Cité universitaire), tôi đã có cả một buổi chuyện trò trao đổi với vị linh mục này. Ngay từ mấy phút đầu tiên gặp gỡ, ông đã tới tấp trút lên người tôi những lời lẽ thật là nặng nề, lên án những bất công tệ hại do người Kinh là sắc dân đa số gây ra đối với các sắc dân thiểu số ở vùng cao nguyên. Ông thuật lại những sự việc hết sức tồi tệ tiêu cực, mà bản thân ông đã chứng kiến sau nhiều năm tháng sinh sống và truyền giáo tại đó.

Sau khi ông đã bớt cơn giận dữ, tôi mới từ tốn thưa lại với ông là tôi sinh trưởng tại miền đồng bằng ngòai Bắc, rồi vào sinh sống tại Saigon từ năm 1954, nên không được biết gì về vùng cao nguyên, nói gì đến chuyện của các sắc dân ở đó. Nhưng là một luật sư, thì tôi có nhiệm vụ phải bênh vực những nạn nhân của các vụ bóc lột, đàn áp bất công ở xã hội. Tôi sẵn sàng tiếp thu những điều cáo buộc của ông và sẽ cố gắng trong khả năng hạn hẹp của mình để tìm cách góp phần làm giảm thiểu được những điều tệ hại đó. Và cuộc trao đổi giữa chúng tôi đã trở nên thân mật, cởi mở với sự thông cảm về cả hai phía. Đại cương, tôi có thể ghi lại cái ấn tượng sâu sắc mà vị linh mục này đã đem lại cho tôi, đó là cần phải chú ý đến thân phận của những sắc dân đang là nạn nhân khốn khổ không những của chiến tranh, mà còn của sự bành trướng thế lực của kẻ mạnh là người Kinh như tôi, khiến gây ra những sự thiệt thòi quá đáng của các người thiểu số vốn ngây thơ chậm chạp mà đã định cư tại địa phương từ bao nhiêu thế hệ trước đây.

* 2 – Vào hồi những năm 1965 – 66 trở đi, thì tôi lại có dịp tiếp súc với những người ngọai quốc làm việc trong tổ chức chuyên môn có tên là “Viện Ngôn ngữ Mùa Hè” (Summer Institute of Linguistics = SIL), có trụ sở trên đường Nguyễn Minh Chiếu – Phú Nhuận gần với doanh trại của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Đây là các chuyên gia về ngữ học hay các nhà truyền giáo thuộc các quốc gia nói tiếng Anh như Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan. Họ chuyên sống tại những bản làng của người thiểu số để nghiên cứu về ngôn ngữ khác lạ và tìm cách ghi thành chữ viết theo mẫu tự La tinh (phonetic transcription), rồi từ đó dịch bản Kinh thánh ra nhằm sử dụng cho việc truyền giáo. Thành ra đây là sự cộng tác giữa các nhà ngữ học (linguists) và các nhà truyền giáo (missionaries), mà kết quả là điều có ích lợi cho cả việc phổ biến ngôn ngữ và văn hóa của các sắc dân thiểu số trước kia ít người bên ngòai biết đến được. Dĩ nhiên là các vị trong viện này có thiện cảm với người thiểu số mà họ có dịp tiếp cận và sinh sống lâu năm chung nhau tại các bản làng hẻo lánh ở vùng cao nguyên. Họ cho tôi một số sách báo trình bày về những kết quả của việc nghiên cứu kiên trì về ngôn ngữ và văn hóa của các sắc dân thiểu số tại Việt nam.

Trong các tác giả nghiên cứu về vấn đề này, tôi chú ý đến ông Gerald Hickey là chuyên gia về dân tộc học và nhân chủng học. Sau khi làm việc ít lâu ở Việt nam cho tổ chức nghiên cứu RAND Corporation, ông Hickey trở về Mỹ và làm công việc giảng dậy và nghiên cứu tại các Đại học Chicago và Cornell. Ông mới qua đời năm 2010 ở tuổi 85. Cuốn sách “Sons of the Mountains” của ông xuất bản năm 1982  viết về người sắc tộc vùng cao nguyên được nhiều người chú ý và đánh giá cao.

* 3 – Sau năm 1975, thì có nhiều đợt di dân từ ngòai Bắc vào các tỉnh miền cao nguyên. Trong số người di dân này, thì có khá nhiều bà con từ vùng quê tỉnh Hà Nam Ninh xưa kia của tôi, vốn là nơi “đất hẹp người đông”. Họ là dân thường, nhưng cũng có người là bộ đội giải ngũ hay cựu viên chức của chính quyền ở ngòai Bắc, do vậy mà dễ được chính quyền địa phương hỗ trợ trong việc khai thác đất đai rộng mênh mông ở cao nguyên. Sự việc này gây thêm sự bất mãn của người dân thiểu số tại chỗ, đến nỗi gây ra những mâu thuẫn xung đột giữa các sắc dân tại đây.

Vào các năm 1992 trở đi, khi ở trại tù Hàm Tân, thì tôi có nghe nói là đã có nhiều người thiểu số bị giam giữ tại đây, sau những vụ “bạo lọan nổi dậy lẻ tẻ ở vùng cao nguyên” vào cuối thập niên 1970 qua đầu thập niên 1980. Tôi hiểu được phản ứng của họ trước việc bị mất đất đai canh tác như vậy, nhưng rõ ràng đây là những cuộc chiến đấu tuyệt vọng, kiểu như “lấy trứng chọi đá” vậy. Làm sao mà các nhóm dân lẻ tẻ lại có thể đối chọi cho được với cái guồng máy quân sự và an ninh đồ sộ của chính quyền cộng sản Hanoi vốn triệt để áp dụng sách lược “vô sản chuyên chính”?

Và kể từ khi ra đến hải ngọai từ năm 1996, thì tôi đã dễ dàng tìm hiểu thêm về tình hình thật đáng thương tâm của bà con người thiểu số tại vùng cao nguyên này. Cụ thể là Trung tá Nguyễn Văn Nghiêm, người đã gắn bó lâu năm với cơ quan thuộc Bộ Phát triển Sắc tộc thời chính quyền của Việt nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông đã viết nhiều bài báo cũng như diễn thuyết trình bày về vấn đề gai góc này. Cũng như tổ chức Human Rights Watch trong mấy năm gần đây cũng đã liên tục phổ biến nhiều tài liệu nói về sự đàn áp của chính quyền cộng sản đối với các sắc dân thiểu số ở vùng cao nguyên, đến nỗi nhiều người đã phải trốn thóat sang nước láng giềng Cambodia. Những người tỵ nạn mới này tố cáo về thảm trang bị cán bộ chiếm hết đất đai của họ, rồi còn ngăn cản họ không được sinh họat tôn giáo, đặc biệt là theo đạo Tin lành trong các nhà thờ nhóm họp tại các tư gia (House Churches).

* 4 – Tại trong nước, thì nhà văn Nguyên Ngọc từ lâu nay đã lên tiếng rất mạnh mẽ, tố cáo chính sách tàn phá nặng nề đến môi sinh tại vùng rừng núi cao nguyên, khiến cho các sắc dân thiểu số tại đây phải lâm vào cảnh khốn đốn cùng cực không làm sao có thể cứu vãn được nữa. Và đặc biệt từ ngày chính quyền Hanoi để cho người Trung quốc vào khai thác quặng beauxite tại cao nguyên, thì đã gây ra những phản ứng rất mãnh liệt của giới trí thức chuyên gia nêu ra các phản biện chống lại dự án có thể gây ra những thiệt hại khủng khiếp đối với môi trường và cuộc sống của bao nhiêu con người hiện đang sinh sống trong vùng này. Trang web Beauxite Việt nam hiện đang được rất nhiều người dân trong nước, cũng như ngòai nước theo dõi tham gia và gây ra một phản ứng chống đối cực kỳ mạnh mẽ trong công luận.

Về phần mình, thì từ đầu năm 2000 tôi đã viết một bài báo nhan đề là : “Lẽ công bằng đối với người thiểu số ở Việt nam”, bài này đã được đăng tải trên nhiều tờ báo, đặc biệt là tạp chí Thế kỷ XXI phát hành tại California. Rồi trong nhiều cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại các trường đại học ở các tiểu bang Virginia, Tennessee, Indiana…, tôi đã có dịp nêu ra những sự bất công đàn áp bóc lột đối với các sắc dân thiểu số ở Việt nam hiện nay. Cử tọa phần đông là các sinh viên trẻ tuổi từ nhiều quốc gia đến tham dự, và họ đã bày tỏ sự thông cảm đối với những nỗi khó khăn thiệt thòi của lớp người dân thiểu số này.

Là một luật gia, tôi phải đứng về phía những nạn nhân yếu đuối thân cô thế cô, chứ không bao giờ lại đồng lõa tiếp sức cho giới cầm quyền chuyên môn áp bức đè nén những người dân thấp cổ bé miệng, đặc biệt là các người thuộc sắc tộc thiểu số, như đã được ghi rõ chi tiết trong bài viết này vậy./

California, tháng Chín năm 2011

Đòan Thanh Liêm

Sức khoẻ của lãnh đạo và hệ thống

Sức khoẻ của lãnh đạo và hệ thống

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

Hai ông Putin và Bush: dư luận luôn chú ý đến sức khoẻ của lãnh đạo

Bệnh tình của Đại tướng Phùng Quang Thanh đang là đề tài số một thu hút dư luận Việt Nam và gợi lại cả vấn đề muôn thuở rằng sức khoẻ của quan chức cao cấp đôi khi còn phản ánh nhịp tim của quốc gia.

Hồi 2002, Tổng thống Hoa Kỳ khi đó, ông George W Bush ngất vài giây khi bị hóc miếng bánh vòng (pretzel) lúc đang xem thể thao một mình trong phòng.

Nhà Trắng chỉ mất 2 tiếng 30 phút sau đã có thông cáo giải thích với dư luận mọi chi tiết của vụ việc, trích lời các bác sỹ.

Nhưng chính quyền vẫn không làm được gì khi báo Mỹ chạy đầy các bài với tựa đề như ‘Choking on Pretzel, Bush Faints Briefly’, tạm dịch là ‘Nghẹn vì nuốt bánh Bush đã chợt bất tỉnh’.

Sức khoẻ và chính trị

Trước đó, các đài truyền hình Mỹ cho ông Bush điểm cao về độ tín nhiệm của dân, có lúc lên tới 90% vào tháng 11/2001.

Và không hiểu vì sao từ năm 2002 thì ‘điểm’ của ông tụt dần đều.

Đến hết nhiệm kỳ đầu ông chỉ còn được chừng 50% dân Mỹ ủng hộ, vẫn đủ để thắng cử nhưng hết nhiệm kỳ 2 vào năm 2008 thì chỉ còn 20% dân Mỹ mến mộ ông.

Miếng bánh ‘nghẹn cổ’ có thể chỉ là một sự cố nhưng chuyện ngồi ăn bánh cũng ngã và ngất hẳn không giúp cho hình ảnh của vị tổng thống ‘cường quốc số một’.

Ngược lại, người ta cũng có thể nói bộ máy của Hoa Kỳ về cơ bản là mạnh khoẻ vì luôn có một phó tổng thống sẵn sàng thế chỗ cho nhân vật số một nếu xảy ra chuyện gì.

Nhưng tại Liên Xô cũng thì lại khác.

Sử sách nhắc lại ‘kỷ nguyên trì trệ Brezhnev’ để nói về Liên Xô suy thoái.

null

Tranh biếm họa của Sergei Yelkin về ông Brezhnev nhìn 5 vòng tròn Olympics đọc thành 5 chữ O.

Năm 1975, ông Leonid Brezhnev, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (69 tuổi) bị một cú đột quỵ, báo hiệu thời kỳ đau yếu kéo dài.

Nhưng Liên Xô không có cơ chế thay ông và chỉ có thể trao bớt quyền cho hai ủy viên Bộ Chính trị khác, Mikhail Suslov và Andrey Kirilenko.

Đến năm 1978 thì ông Brezhnev còn yếu hơn nữa và quyền lực được chuyển dần cho người mà ông tin cẩn là Konstantin Chernenko.

Một cuộc tranh giành quyền lực bùng nổ với Cựu lãnh đạo KGB Yuriy Andropov tìm cách hạ uy tín của cả Brezhnev và Suslov.

Năm 1982, ông Brezhnev bị đột quỵ một lần nữa và ông Suslov qua đời, khiến ông Andropov gần như nắm trọn quyền lực.

Nhưng phải đợi đến lúc ông Brezhnev mất vào tháng 11/1982, ông Andropov mới lên thay.

Tất cả diễn ra sau bức tường Điện Kremlin và báo chí Liên Xô không được phép nói gì vì sức khoẻ lãnh tụ là ‘bí mật quốc gia’.

Nhưng các bản cáo phó liên tiếp đưa ra cũng khiến giới quan sát quốc tế đặt câu hỏi về sự lão hóa của hệ thống.

Ông Andropov lên cầm quyền vào tháng 6/1983 thì đến tháng 2/1984 đã chết.

Ông Chernenko lên kế nhiệm ngay để rồi đến ngày 10/3/1985 cũng qua đời.

Vì thế ở Đông Âu từng có tiếu lâm nói Đài Tiếng nói Moskva đưa tin ‘Dù sức khoẻ chưa thật tốt, sau khi phẫu thuật và vẫn còn hôn mê, đồng chí tổng bí thư vẫn chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị”.

Các khách nước ngoài kể lại những cuộc gặp mà lãnh đạo Liên Xô được đẩy trên xe lăn ra gật đầu chào mấy câu rồi quay vào bệnh viện.

Người kế tục trẻ tuổi là Michail Gorbachev đã chuyển hẳn hướng đi của chính trị Liên Xô nhưng văn hóa chính trị Nga thì vẫn luôn có một truyền thống đầy sức sống về những đồn đoán liên quan tới sức khoẻ lãnh đạo.

Lý do là vận mệnh quốc gia ở đó thường gắn liền với sức khoẻ quan chức.

Gần đây nhất, tháng 3/2015, Tổng thống Vladimir Putin vắng mặt một số ngày, làm nổ ra nhiều đồn đại, khiến Điện Kremlin phải họp báo giải thích.

null

Ông Putin luôn tỏ ra ‘cường tráng’ hơn bình thường

Người ta quan tâm vì ông Putin luôn tỏ ra ‘rất cường tráng’ với các màn cởi trần cưỡi ngựa, lái phản lực được tuyên truyền rộng rãi.

Còn tại Trung Quốc, nhiều nhân vật trong bộ máy Đảng Cộng sản và Quân Giải phóng vào thời Cách mạng Văn hóa đã bị hạ bệ, xét xử, thậm chí để cho chết, báo hiệu một thời đại loạn.

Nguyên soái Hạ Long (1896-1969), nhân vật số hai trong Quân ủy Trung ương và từng làm Phó Thủ tướng, chỉ vì muốn bảo vệ Bành Đức Hoài mà bị Giang Thanh quy kết là ‘đầu sỏ hữu phái’.

Báo chí Trung Quốc hùa theo và gọi ông là kẻ phản Đảng.

Năm 1966 ông bị hạ bệ và giam tại gia cho tới lúc qua đời năm 1969 vì ngã bệnh nhưng chính quyền cắt điện nước vào nhà và không cho chạy chữa.

Nhu cầu thông tin

Những trường hợp kinh khủng như trên ở Trung Quốc xảy ra đã lâu nhưng ngày nay, quy luật sinh lão bệnh tử vẫn xảy ra với mọi con người, kể cả họ là chính trị gia.

null

Không thấy thông tin chính thức ai tạm thay Tướng Thanh khi ông ra nước ngoài chữa bệnh

Điều quan trọng là tin về bệnh tật của quan chức có được thông báo công khai, đồng thời tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân và gia đình họ hay không.

Mới hồi tháng 2/2015, Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore phải phẫu thuật khối u tiền liệt tuyến.

Chính phủ thông báo rõ trong một tuần ông vắng mặt chữa bệnh (medical leave), Phó Thủ tướng Teo Chee Hean sẽ tạm điều hành nội các Singapore.

Ở Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã “ở Pháp chữa bệnh” nhiều tuần liền mà chưa thấy thông tin ai tạm thay ông nếu ta đọc Cổng Thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng.

Dư luận ở đâu cũng có nhu cầu chính đáng cần được thông tin về quan chức cao cấp.

Đồn đoán, bình phẩm là thứ không tránh khỏi nhưng các thủ tục rõ ràng về quyền nghỉ ốm và cơ chế kiêm nhiệm chức vụ sẽ giúp làm giảm bớt lời đồn thổi và tạo được niềm tin là quan chức ốm nhưng hệ thống vẫn vận hành mạnh khoẻ.

Hành trình cuộc đời: 30, 40,…và 70

Hành trình cuộc đời: 30, 40,…và 70

Hàn Mai

Hành trình của mỗi đời người có lẽ nhiều lắm là 100 năm, họa hoằn lắm mới được hơn con số này, nhưng ai cũng sẽ như nhau, sinh lão bệnh tử, một đời người trôi qua như thế, ngắn ngủi chóng vánh. Thôi thì hãy cứ làm tròn trách nhiệm của bản thân mỗi khi chạm mốc thời gian trên đường đời.

Khi chúng ta 30

Khi 30 tuổi, bạn đã có thể tùy theo bản lĩnh của mình mà chịu trách nhiệm cho những sự việc mình phải đảm đương, cũng như đã có thể tự mình xác định mục tiêu trong cuộc sống và phương hướng phát triển. Nói đơn giản, ở cái tuổi 30, bạn đã có thể thản nhiên mà đối mặt với hết thảy mọi thứ. Ba phương diện khái quát mà một người 30 tuổi đã có thể tạo lập cho chính mình, đó là lập thân, lập nghiệp và lập gia.

Lập thân hay chính là xác định phẩm cách và sự tu dưỡng bản thân, bao gồm ba phương diện: tu dưỡng tư tưởng, hàm dưỡng đạo đức và bồi dưỡng năng lực.

Tự mình biết vươn lên chính là căn bản của đạo lập thân, chớ vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà trông nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ, cũng đừng trông mong chạy vạy ở người khác, vì đó chẳng khác nào biểu hiện của sự mềm yếu nhu nhược. Lập thân đối với mỗi cá nhân thì yêu cầu tối thiểu nhất chính là đặt chân trong xã hội.

Lập nghiệp chính là tự mình xác lập sự nghiệp của bản thân. Người 30 tuổi ít nhất cũng đã phải có được công ăn việc làm tương đối ổn định. Lập nghiệp không những là phương thức mưu sinh mà còn là chuẩn bị hoàn thành trách nhiệm đối với xã hội.

Lập gia chính là xây dựng gia đình của riêng mình. Cạnh tranh trong xã hội hiện nay đang rất kịch liệt, nên các thanh niên thường hay trì hoãn chuyện hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, khi đã bước vào tuổi 30, việc kết hôn không còn là sớm nữa. Còn chuyện lập gia trước lập nghiệp sau hay lập gia sau lập nghiệp trước, đều là tùy thuộc vào bản thân mỗi người, cũng không quan trọng chuyện trước sau. Người thanh niên tất yếu phải có khả năng đảm đương trách nhiệm gia đình lẫn xã hội, thế nên hoàn thành sớm hẳn là tốt hơn.

Đối với người trẻ tuổi, tam thập nhi lập chính là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, giữa  thực tế và kỳ vọng của bản thân chúng ta thường có khoảng cách rất lớn. Điều này là tất nhiên đối với trẻ em nước ta vốn luôn được cưng chiều khi gặp phải áp lực trong công việc. Đây là chuyện vốn rất thường tình.

40, cái tuổi chững chạc và hiểu chuyện

“Tứ thập nhi bất hoặc”, tức người 40 tuổi đã rất chững chạc. Người đến 40 tuổi biết nghiền ngẫm cái gió mưa nóng lạnh của đường đời, cảm hoài sự vô tình của thời gian, nhìn lại những chuyện đã qua, 40 năm như một cái búng tay, thăng trầm nếm trải bao ngờ vực, boăn khoăn, phấn chấn, lúc náo nhiệt khi trầm tư, rồi bỗng nhiên bừng tỉnh. Mất đi những cảm xúc mãnh liệt, nên bình ổn hơn, bớt đi sự vô tâm, để có trách nhiệm hơn, buông bỏ nhiều phiền não nên cũng thêm lý trí, chẳng còn cái sôi nổi thuở nào nên cũng trầm tĩnh hơn, cũng không còn mù quáng nên đã biết trông cậy vào chính mình. Người 40 tuổi đã trọn vẹn sự thanh tỉnh và lý trí; đối ngoại, họ biết hiểu về xã hội; đối nội, họ hiểu bản thân mình; đối với bản thân, họ hiểu về trách nhiệm.

40 tuổi, ta bước vào thời kì huy hoàng nhất của cuộc đời, cũng là thời kì ta cống hiến nhiều nhất cho gia đình và xã hội.

50, “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, ở cái tuổi 50 bạn đã thấu hiểu nhân tình thế thái

Triết học cổ đại coi Trời là Thần, Trời có thể định đoạt vận mệnh con người. Học thuyết của Khổng Tử vẫn bảo lưu quan điểm về “Thiên mệnh” này. Ông nói, “Năm mươi tuổi biết thiên mệnh”. Thiên mệnh chính là chúng ta hôm nay nói về “nhân quả báo ứng”, trong mệnh đã có thì nhất định có, trong mệnh đã không có thì cưỡng cầu cũng vô ích, chấp nhận số mệnh bởi cưỡng cầu cũng không thể có được. Người 50 tuổi hiểu rất rõ đạo lý này, hiểu rất tường tận.

Hiểu rõ vận mệnh đường đời, nên cũng không oán trời. Người 30 tuổi đa phần đều có đường đời quanh co, đứng trên mặt đất nhưng luôn muốn được bay nhảy, người 40 tuổi có đường đời đã bước vào đỉnh cao, 50 tuổi đường đời tương đối vững vàng. Nếu không có chuyện gì đặc biệt thì người 50 tuổi cũng rất khó gặp phải biến động lớn trong đường đời. Người 50 tuổi, đã bước qua hết nửa đời người và đang thời kì thanh tỉnh nhất của cuộc đời. Người ấy nhất định không một lời oán thán ông trời bất công, mà tĩnh lặng đón nhận hiện thực. Hơn nữa, họ còn tuyệt đối thanh tỉnh đoán định được tương lai của mình, cũng như tuyệt đối bình tĩnh trong mọi công tác và đời sống xã hội.

Người 50 tuổi hiểu rõ những trách nhiệm mà bản thân chưa hoàn thành, nên không hề giải đãi. 50 tuổi chưa phải tuổi về hưu nhưng cách thời điểm ấy cũng không còn xa lắm. Khi ấy vẫn nghĩ đến việc tiếp tục sự nghiệp 10 năm tiếp theo, cũng là hoàn thành trọn vẹn trách nhiệm đối với xã hội. Người 50 tuổi thì cha mẹ hẳn đều đã già, nên cũng thường xuyên chu toàn những việc vặt vãnh cho người già, bởi họ cũng muốn làm tròn trách nhiệm đối với gia đình.

Người 50 tuổi, con cái đang ở độ tuổi đi học, cũng sắp bước vào ngưỡng cửa lập nghiệp, tiền đồ của con trẻ cũng là điều mà cha mẹ quan tâm nhất, đồng thời họ cũng mong muốn trở thành người cha người mẹ mẫu mực. Người 50 tuổi, mỗi khi nghĩ về trách nhiệm, đều tự nhiên sinh ra cái cảm giác không hề nghĩ cho bản thân, cũng không hề dễ giải, kiên trì không ngừng nỗ lực, hoàn thành trọn vẹn trách nhiệm của mình.

Người 50 tuổi đã là bước vào giai đoạn thành thục nhất của đời người, thành công, huy hoàng, sung túc đều đồng thời tồn tại, đôi khi có chút áp lực, nhưng họ đều thản nhiên mà đối mặt, bởi họ đã quá hiểu xã hội, cũng đã quá am hiểu chính bản thân mình.

60 nhĩ thuận, nhìn thấu mọi thứ

Người bước vào tuổi 60, người đời dẫu nói lời hay hoặc lời không tốt đều chẳng nói lại, lời có thể vẫn lọt tai nhưng tâm chẳng hề động, dẫu có chuyện không vui nhưng lòng vẫn bình ổn. Hồ Thích từng nói: “Nhĩ thuận nghĩa là dễ dàng bỏ qua cho những lời nói khó nghe”, lời nói dẫu có “trái tai” cũng không hề thấy khó nghe. Họ coi trọng việc thấu hiểu, người ở độ tuổi này chẳng quan tâm đến thị phi, dẫu gặp phải chuyện trớ trêu rối rắm, cũng có thể làm cho tâm mình không bị xáo động, mà bình tĩnh tự mình suy xét, để nỗi lo âu của bản thân thuận theo hoàn cảnh khách quan và quy luật vận động của vạn vật. Họ cũng biết rằng bản thân không được bộp chộp, nổi giận hay bi thương, không chùn bước, cũng không để tâm vào hơn thua được mất, từ đầu đến cuối chỉ biểu hiện duy nhất một tâm thái.

Ta biết người 60 tuổi là người đã tu dưỡng đạt đến cảnh giới cao nhất, đã có thể khống chế và kiểm soát bản thân thật vững vàng. Có thể nói, người 60 tuổi có thể nhìn thấu đời người, sinh mệnh và danh lợi.

Người 60 tuổi đã được trui luyện theo năm tháng, nếm trải bao khó khăn trắc trở của cuộc đời, những thứ lưu lại chẳng qua chỉ là dấu chân nhân sinh, thành tựu đời người cũng chính là sự phong phú của những trải nghiệm. Bước vào tuổi 60 cũng là bước vào mùa thu đời người, cuộc sống chậm chạp trôi, nhưng qua đó mà thưởng thức nhân sinh một cách tinh tế, chiêm nghiệm đủ loại cảnh sắc của hành trình cuộc đời, thụ hưởng thành tựu xã hội vốn đã phải vất vả gầy dựng, tận hưởng cuộc sống dễ dàng không lo âu muộn phiền, cười cười khóc khóc với những ngọt bùi đắng cay từng nếm trải trong đời, rồi nhìn chúng với một cảm giác thật mới mẻ. 60 tuổi quả thực là tuổi đã vào thu, nhưng chỉ vào độ tuổi này họ mới có được phong thái không nhầm lẫn với bất kì ai.

70 tuổi tùy ý, muốn làm gì thì làm nấy

70 tuổi tùy tâm sở dục, thuận theo ý nghĩ của chính mình, muốn làm gì thì làm đó. Nói là tùy ý nhưng vẫn là rất xem trọng việc “không vượt quá khuôn phép”, tức không được làm gì trái với quy củ, thế nên dẫu có làm gì cũng đều là tùy thích nhưng vẫn phải thuận theo tự nhiên, tùy ý nhưng cũng phải ngó xem tình cảnh hiện tại, muốn làm gì thì làm nhưng đều không vượt ngoài khuôn phép.

Có người nói, người 60 tuổi làm quan hay không làm quan cũng như nhau, còn người 70 tuổi có tiền hay không có tiền cũng chẳng khác chi mấy. Khi đã bước vào tuổi 70 ai ai cũng như nhau, đều cầu mong thân thể khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh mới là điều cơ bản cần để đảm bảo chất lượng cuộc sống, cũng chẳng mong được trường thọ, chỉ hết lòng mong sinh mệnh được thăng hoa, ấy mới là cuộc đời hoàn mỹ.

70 tuổi bất quá cũng chỉ là một đoạn trong hành trình cuộc đời, đối với người ở độ tuổi này, 70 năm đã trôi qua, 70 năm tiếp nữa sẽ đến, và mọi thứ như khởi động lại từ đầu. Người 70 tuổi nếu có thể luôn xem bản thân như đang ở giữa hành trình đời người, vậy thì sẽ cảm thấy bản thân còn rất nhiều thời gian, nhờ đó mà không than vãn trước tuổi già suy yếu, tương lai khổ sở, mỗi ngày trôi qua đều thấy vui vẻ, hướng về phía trước mà cảm thấy cuộc sống sẽ luôn có điều mới mẻ, lòng ngập tràn vui sướng. Rồi họ sẽ thấy được một phần mong nguyện của sinh mệnh, ghi nhớ sự mỹ hảo đường đời phía trước.

Hàn Mai, Meizi, dịch từ Sound of hope

Chúng ta không còn là lọai người ở tỉnh lẻ nữa.

Chúng ta không còn là lọai người ở tỉnh lẻ nữa.

( We are no longer provincial )

Đòan Thanh Liêm

Vào đầu năm 1916, Tổng Thống Woodrow Wilson đã bắt đầu công việc vận động thuyết phục Quốc Hội là nước Mỹ cần phải tham gia giúp đỡ Liên minh Anh Pháp trong cuộc Đệ nhất chiến tranh thế giới khởi sự từ năm 1914. Ông phát biểu một câu đã thành nổi danh như sau : “Chúng ta không thể còn là một dân tộc ở tỉnh lẻ nữa” (nguyên văn tiếng Anh : “We can no longer be a provincial nation” ).Tức là ông muốn xác nhận rằng nước Mỹ đã là một cường quốc với trách nhiệm trong công cuộc bảo vệ tự do và hòa bình trên khắp thế giới, chứ không còn là một quốc gia nhỏ bé, mà tự cô lập khỏi cộng đồng nhân lọai được nữa.

Câu nói này cũng có thể áp dụng cho người Việt đang sinh sống ở trên 60 quốc gia tiến bộ khắp thế giới hiện nay. Nhất là đối với lớp người trẻ là con em chúng ta đang vào lớp tuổi 30-40 đã trưởng thành chững chạc rồi, mà lại tiếp thu được một nền giáo dục văn minh với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao độ tại các nước Âu Mỹ, thì rõ rệt là các em đã có một nhãn quan rộng rãi, thông thóang rất nhiều so sánh với thế hệ cha bác của mình.Đó là điều làm chúng ta thật vui mừng, vì như người xưa vẫn thường nói : “Hậu sinh khả úy”, và “Con hơn cha, nhà có phúc” vậy.

Vì được sinh sống trong một môi trường văn hóa xã hội tiền tiến như vậy, nên chúng ta dễ hấp thụ được những cái hay, cái đẹp của thế giới hiện đại. Nhờ vậy, mà số trên 3 triệu người Việt hải ngọai có thể đóng góp phần trí tuệ này vào công cuộc xây dựng và phát triển cho quê hương đất nước Việt nam của mình. Chứ không phải chỉ có sự chi viện kinh tế vật chất cho bà con ruột thịt ở quê nhà, như là đóng vai trò của một thứ “con bò sữa”. Cụ thể mà nói, thì chúng ta cần phải có được cái suy nghĩ tòan cuộc, cái viễn kiến sâu xa (global thinking/global vision) về tình hình các sự việc của tòan bộ thế giới ngày nay, cũng như của nước Việt nam nhỏ bé của mình trong khuôn khổ của cái thế giới ấy. Đúng như lời của Tổng Thống De Gaulle vào năm 1964-65 đã nhắn nhủ thanh niên sinh viên nước Pháp là : “Các bạn cần phải có một tầm nhìn vũ trụ (vision cosmique)”. Và còn hơn thế nữa, chúng ta lại có thể mời gọi, thuyết phục được các bạn bè quốc tế rất đông đảo, hùng hậu của mình, để cùng nhập cuộc liên đới với chúng ta trong sự nghiệp tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền của Việt nam, trong tinh thần ôn hòa, bất bạo động vốn là xu thế thời đại trong thế giới văn minh hiện nay.

Với ý hướng đó, trong bài viết này, tôi xin được trình bày về kinh nghiệm cụ thể rằng: “Phát triển Xã hội Dân sự chính là phương cách hiệu quả nhất để đi tới được một nền Dân chủ Tham gia” (Participatory Democracy). Như ta đã biết, XHDS là một trong ba khu vực cấu tạo thành cái không gian xã hội mà mỗi người chúng ta sinh sống trong một miền địa lý nhất định. Định nghĩa này có thể ghi vắn tắt thành một công thức như sau:

Không gian xã hội  =  Nhà nước + Thị trường kinh tế + Xã hội Dân sự.

( The Social Space   =  The State   + The Marketplace   + The Civil Society).

Cả ba khu vực này đều tồn tại song hành với nhau trong tư thế của sự cộng đồng sinh tồn (Coexistence), tức là không một khu vực nào lại tìm cách thay thế hay lọai trừ đơn vị kia.

Thông thường, thì ta có XHDS trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, hay trong một đơn vị hành chánh nhất định. Nhưng với xu thế tòan cầu hóa ngày nay, thì đã có nhiều tác giả đề cập đến các khía cạnh của một thực thể lớn rộng hơn nữa, đó là “Xã hội Dân sự Tòan cầu” (Global Civil Society), mà thành phần đơn vị cụ thể là các Hội Hồng Thập Tự, Hội Hướng Đạo, Phong Trào Green Peace (Bảo vệ Môi sinh), Tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), các Tổ chức Nhân đạo như Ford, Rockefeller, Bill Gates Foundation  v.v… Cũng tương tự như tổ chức Liên Hiệp Quốc (The United Nations = UN ), được khai sinh từ sau thế chiến thứ hai, thì cũng được coi như là một thực thể chính trị bao gồm mọi quốc gia trên thế giới ngày nay. Ta sẽ bàn chi tiết về XHDS Tòan cầu trong một dịp khác, vì bài này tập chú vào hiện tình XHDS tại Việt nam trong bối cảnh của phong trào phát triển về Dân chủ và Nhân quyền của thế giới ngày nay.

Trong vòng 30-40 năm nay, ý niệm về XHDS đã được phát triển phổ biến khắp nơi trên thế giới, qua môi trường hàn lâm đại học, cũng như qua các phương tiện truyền thông báo chí, và nhất là thông qua sự lớn mạnh của hàng triệu các tổ chức phi chánh phủ (NGO = Non-Governmental Organisations), các tổ chức từ thiện nhân đạo, các nhóm họat động xã hội dựa trên cơ sở một niềm tin tôn giáo (Faith-based social action groups) v.v… nhan nhản tại khắp các quốc gia trên thế giới, thì vai trò của XHDS lại càng được chú ý và được đề cao, cổ võ. Đặc biệt, kể từ khi chế độc độc tài tòan trị cộng sản bị xụp đổ tại Đông Âu và tại chính Liên Xô kể từ 20 năm nay, thì vấn đề “Phục hồi và Xây dựng lại XHDS tại các quốc gia cựu cộng sản này” lại càng được đặt ra một cách sôi nổi cấp thiết.

Xu thế chung tại các quốc gia “hậu cộng sản” này là : Quần chúng nhân dân dành lại được cái quyền chủ động của mình trong mọi lãnh vực chính trị, xã hội, kinh tế cũng như về mặt văn hóa, tâm linh. Cụ thể là các hội thiện nguyện về nhân đạo từ thiện cũng như về y tế, giáo dục và tôn giáo v.v… đã được phục hồi để cho các tư nhân được thỏai mái tham gia sáng kiến và hành động, mà không còn bị quyền lực của Nhà nước o ép, kiềm chế gắt gao như dưới chế độ cộng sản nữa. Và đây mới chính là sự thể hiện cái “Quyền Tự quyết, Quyền Tự Làm chủ” của người dân đối với xã hội và đất nước của mình. Kết quả là tại hạ tầng cơ sở của các xóm làng, các khu phố, người dân đã nô nức, phấn khởi hợp tác với nhau để tham gia vào công việc cụ thể và thiết thực, nhằm cải tiến môi trường sinh họat tại địa phương nhỏ bé của chính mình. Và xuyên qua những công tác cải tiến dân sinh cụ thể như thế, người dân càng thêm gắn bó thân mật với nhau và nhờ vậy mà xã hội được phát triển trong tình thân ái, tương trợ và liên đới giữa các thành viên với nhau hơn mãi. Tình trạng “Gắn bó xã hội” (Social Cohesion) này lại càng làm phong phú thêm cái nguồn” Vốn Xã hội” (Social Capital) của tòan thể cộng đồng. Nói cho gọn lại, thì XHDS trong giai đọan hậu cộng sản này đang đóng trọn vẹn cái vai trò làm “Đối tác với Nhà nước” (Counterpart) trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội ngay từ cấp hạ tầng cơ sở tại nông thôn cũng như tại môi trường đô thị.

Mặt khác, vì có tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do nghiệp đòan… là những nhân quyền căn bản như đã được ghi rõ trong Bộ Luật Quốc Tế về Nhân Quyền (The International Bill of Human Rights), nên XHDS đã có thể đóng trọn vẹn một vai trò khác nữa, đó là vai trò làm “Đối trọng” (Counterbalance) đối với Nhà nước, khiến cho chánh quyền không thể vượt quá giới hạn, lạm dụng quyền hành, tự tung tự tác, như dưới thời cộng sản chuyên chế độc tài được nữa. Tại Đông Âu hiện nay, giới sĩ phu trí thức, giới hàn lâm đại học, giới văn nghệ sĩ, cũng như giới lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, thì đều có điều kiện thỏai mái để góp phần phê phán, sửa sai đối với chánh quyền. Tiếng nói của họ được coi như “Tiếng nói Lương tâm” (The voice of conscience) của cả một dân tộc. Nhờ vậy, mà xã hội có thể tránh được bao nhiêu điều sai lầm tệ hại, thất nhân thất đức như đã xảy ra đầy rẫy dưới thời cộng sản, hay dưới thời độc tài phát xít Đức quốc xã trước đây. Kinh nghiệm này rất có ích cho quê hương chúng ta.

Tại Việt nam gần đây, tiếng nói phản biện về chuyện Nhà nước cộng sản đã để cho Trung quốc sang khai thác quặng bâu-xít ở miền cao nguyên, hiện đang gây một tiếng vang lớn trong dư luận quần chúng khắp nơi, cả ở trong cũng như ở ngòai nước. Đó là một dấu hiệu đáng mừng là giới sĩ phu trí thức đã mạnh dạn dấn thân nhập cuộc với tòan thể dân tộc trong việc bảo vệ môi sinh, bảo vệ lẽ sống còn của các sắc tộc thiểu số vốn xưa nay vẫn sinh sống tại miền rừng núi, với sắc thái văn hóa riêng biệt, đặc trưng của mình. Cũng như việc các thanh niên sinh viên đã dũng cảm chống lại việc Trung quốc xâm lấn Hòang Sa, Trường Sa và phần đất ở biên giới phía bắc của Tổ quốc ta. Mặc dầu bị chính quyền Hanoi đã thẳng tay đàn áp thô bạo, giới thanh niên này vẫn kiên trì theo đuổi công cuộc tranh đấu nhằm bảo vệ sự tòan vẹn của lãnh thổ Việt nam. Đây chính là điều rất tích cực góp phần tạo ra khí thế lạc quan, phấn khởi cho việc xây dựng tương lai của xứ sở. Và người ở hải ngọai như chúng ta cần phải hết lòng yểm trợ thật hiệu quả cho sự nghiệp tranh đấu và xây dựng trường kỳ như thế.

Nói vắn tắt lại, chúng ta cần phải chuyển giao cho thế hệ trẻ cái ngọn lửa nồng nàn của tình yêu thương chân thật và liên đới với đồng bào ruột thịt của mình, nêu cao tinh thần bảo vệ Nhân phẩm và Nhân quyền của người dân. Tình yêu thương đó phải được diễn tả cụ thể bằng hành động thiết thực, như tìm cách chấm dứt tệ nạn buôn người (Human Trafficking), đòi hỏi công bằng xã hội cho hàng triệu dân oan hiện đang bị mất nhà, mất đất tại khắp các miền nông thôn hẻo lánh, hỗ trợ cho các nhà tranh đấu cho Dân chủ, Nhân quyền mà đang bị chính quyền cộng sản sách nhiễu, bắt bớ giam cầm trong các nhà tù… Chúng ta cũng phải tận tâm chăm sóc cho các nạn nhân của thiên tai bão lụt, của bệnh tật ngặt nghèo như bênh phong cùi, bệnh HIV/ Aids…, góp phần nâng đỡ các học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo túng để các em có điều kiện tiếp tục việc học v.v…Các lọai việc này hòan tòan nằm trong phạm vi tầm tay của chúng ta, trong lãnh vực xã hội dân sự. Có ra  tay nhập cuộc cụ thể và tích cực như thế, thì ta mới thực sự góp phần vào việc tạo ra được một sự chuyển biến rõ rệt trong xã hội được. Như người Mỹ thường nói : That makes a difference, a change. ( Điều đó tạo ra sự khác biệt,sự chuyển biến).

Bài viết này được thành hình là nhờ ghi lại chi tiết câu chuyện tại bữa tiệc Mừng Xuân Kỷ sửu của Hội Luật gia Việt nam, được tổ chức vào ngày Chủ nhật 8 Tháng Ba 2009, nhằm đúng vào Ngày Quốc tế Phụ nữ, tại thành phố Milpitas, gần San Jose California. Tác giả xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Thẩm phán Phan Quang Tuệ, Luật sư Ngô Văn Quang trong Ban Chấp Hành Hội Luật gia là hai vị đã gợi ý ra đề tài cho buổi nói chuyện này. Và như đã thưa ở trên, người viết xin hẹn sẽ khai triển chi tiết hơn về đề tài Xã hội Dân sự Tòan cầu trong một dịp khác nữa, bởi lẽ bài viết này đến đây thì đã quá dài rồi./

California, Mùa Xuân Kỷ sửu 2009.

Đòan Thanh Liêm

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Bài của  :  Đoàn Thanh Liêm

Tại nước Mỹ kể từ sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, thì có nhiều vị mục sư nổi danh với ảnh hưởng rất lớn lôi cuốn được số đông quần chúng khắp nước Mỹ và cả ở ngoại quốc nữa. Trong số này, phải kể đến mục sư Billy Graham, mục sư Martin Luther King và mục sư Rick Warren.

Billy Graham sinh năm 1918 là một vị giảng thuyết lôi cuốn đến hàng trăm triệu người khắp nước Mỹ và cả trên thế giới. Luther King là vị lãnh đạo kiệt xuất của phong trào tranh đấu dân quyền  (civil rights movement) của người Mỹ gốc Phi châu trong các thập niên 1950-60. Rick Warren là một tác giả cuốn sách “The Purpose Driven Life” (Cuộc sống có mục đích) bán chạy nhất, đến trên 30 triệu cuốn trong vòng có 6-7 năm.

Trong bài này, tôi xin viết về mục sư Rick Warren là người trẻ tuổi nhất, sinh năm 1954 tại San Jose và là người sáng lập nhà thờ Saddleback Valley Community Church tọa lạc tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam, miền Nam California liền sát với khu Little Saigon của người Việt chúng ta. Trong bài sau, tôi sẽ viết riêng về mục sư Billy Graham. Còn về mục sư Luther King, thì đã có quá nhiều người biết đến rồi, nên tôi thiết nghĩ khỏi cần viết gì thêm về ông nữa.

1 / Tóm lược tiểu sử của Rick Warren.

Rick Warren là con của một vị mục sư và chính bản thân ông cũng đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu thế theo truyền thống của phái Tin Lành Southern Baptist. Ông tốt nghiệp bậc cử nhân tại California Baptist University ở Riverside, bậc cao học về Thần học tại Southwestern Baptist Theological Seminary ở Fort Worth, Texas và bậc tiến sĩ về mục vụ tại Fuller Theological Seminary ở Pasadena, California.

Ông thừa nhận mục sư Billy Graham, giáo sư Peter Drucker và mục sư Jimmy Warren người cha của ông là những vị trong số những cố vấn đáng tin cậy nhất của mình (mentor).

Năm 1975, sau khi được truyền chức mục sư, Rick Warren làm lễ thành hôn với Kay Lewis sinh trưởng ở San Diego trong một gia đình có người cha cũng là một vị mục sư. Hai ông bà có 3 người con hiện đều đã trưởng thành và 4 cháu nội ngoại. Cả hai người cùng hợp tác trong việc truyền đạo và phát triển cộng đoàn tín hữu từ con số vài trăm người lúc mới thành lập tại Saddeback trong thành phố Lake Forest vào năm 1980 lên đến con số trên 20,000 tín hữu vào năm 2005. Với số tín đồ thường xuyên tham dự thánh lễ và các sinh họat rất đa dạng hàng tuần đông đảo như vậy, Saddleback Valley Community Church đã trở thành một “Megachurch” đứng hàng thứ 8 trong số trên 1,200 “đại giáo đoàn” của toàn nước Mỹ hiện nay. Megachurch là một hiện tượng tiêu biểu cho phong trào phát triển tôn giáo rất mạnh mẽ, lôi cuốn được hàng triệu tín đồ của các giáo hội Tin lành trong vòng 50 năm qua tại nước Mỹ và cả tại Đại Hàn.

Song song với việc phát triển cơ sở mục vụ này, Rick còn đóng góp rất tích cực vào việc đào tạo, hướng dẫn cho trên 400,000 mục sư và giới chức lãnh đạo hội thánh trên toàn thế giới, dựa theo tinh thần đã được phác họa trong cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1995, được bán rất chạy, với nhan đề là “The Purpose Driven Church”.

Rick Warren lại còn nổi danh hơn nữa với cuốn sách được xếp vào loại bán chạy nhất (bestseller), mà hiện đã lên đến 30 triệu cuốn, đó là cuốn sách có nhan đề “The Purpose Driven Life”. Người viết sẽ giới thiệu chi tiết hơn về hai cuốn sách này trong một dịp khác.

Với số lợi tức thu nhập thật lớn lao do việc bán sách, vào năm 2005 Rick Warren đã hoàn lại cho nhà thờ toàn bộ số lương bổng  ông nhận được trong 25 năm với cương vị một mục sư. Và còn hơn thế nữa, ông tiếp tục đóng góp cho nhà thờ 90% số lợi tức thâu nhập của mình, thay vì số 10% mà người tín đồ thường đóng góp vào công quỹ của hội thánh, được gọi là “tithe” (thập phân).Và ông bà tiếp tục sống thanh đạm trong căn nhà nhỏ bé, với cái xe cũ kỹ, chứ không hề có một biểu hiện xa hoa nào của một gia đình triệu phú thường tình.

Nhưng điều đáng ghi nhận hơn cả về vị mục sư danh tiếng này, chính là việc ông đã tổ chức cho các tín đồ và các bạn hữu thân tín của mình tham gia dấn thân nhập cuộc với các dự án hết sức lớn lao về xã hội, y tế, giáo dục và phát triển có tầm vóc toàn cầu. Ta sẽ xem xét công việc này trong các mục tiếp theo đây.

2 / Sự gắn bó với Phi châu : Khởi sự ở Rwanda.

Sau mấy năm chuẩn bị, Rick Warren đã bắt đầu một loạt chương trình hành động của “đại giáo đoàn Saddenback” được mệnh danh là PEACE plan tại nước Rwanda là nơi có cuộc diệt chủng kinh hoàng vào năm 1994, tàn sát đến gấn một triệu sinh mạng trong một quốc gia với dân số chỉ có 9 triệu người. Chữ PEACE này ngoài ý nghĩa là Hòa bình, lại chính là chữ viết tắt của khẩu hiệu gồm 5 mục : Promote Reconciliation, Equip servant-leaders, Assist the poor, Care for the sick, Educate the next generation (Phát triển công cuộc Hòa giải, Trang bị cho người lãnh đạo-phục vụ, Giúp đỡ người nghèo khó, Chăm sóc người bệnh tật, Giáo dục thế hệ tương lai).

Vào năm 2005, tức là 11 năm sau vụ diệt chủng, Rwanda vẫn còn là một quốc gia vào loại nghèo nhất trên thế giới với 90% dân chúng có thu nhập chưa tới 2 dollars mỗi ngày. Ngay từ lúc đặt chân tới đây, Warren liền phát động ngay một chương trình hành động cấp thời gồm nhiều phương diện y tế, xã hội, giáo dục và nhất là cả kinh tế. Ông dẫn các giám đốc xí nghiệp, các doanh gia từ trong số các thành viên của cộng đoàn Saddenback đến tiếp súc và làm việc với giới doanh nghiệp và nhân viên chánh phủ Rwanda để tìm cách xây dựng nền kinh tế của xứ sở này. Họ chú trọng vào công việc đào tạo huấn luyện cho các nhà doanh nghiệp nhỏ tại các làng quê hẻo lánh, cho đến cả việc yểm trợ các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở rất lớn lên đến nhiều triệu dollar. Điển hình như  dự án xây dựng đường sắt dài 720 miles nối liền Rwanda với Tanzania và Burundi, chi phí lên đến 2.5 tỷ mỹ kim vừa do 3 nước đó ký kết vào tháng Tư năm 2009.

Rick Warren rõ ràng là có tầm nhìn xa và có uy tín để kết hợp được cả giới lãnh đạo chánh quyền, giới doanh nghiệp tư nhân, cũng như giới lãnh đạo tôn giáo ở hạ tầng cơ sở tại những xóm làng hẻo lành, để cùng nhau thực hiện được rất nhiều dự án cụ thể về y tế đại chúng, từ việc lo chăm sóc cho hàng vạn người mắc bệnh HIV/AIDS, cho bao nhiêu trẻ mồ côi cha mẹ đã chết vì căn bệnh hiểm nghèo này, cho đến việc cấp vốn cho các gia đình nghèo túng để giúp họ phương tiện tự lực mưu sinh, để khỏi phải lệ thuộc mãi vào sự bố thí của người khác.

Phái đòan do Rick Warren hướng dẫn đã được chính Tổng thống Rwanda là Paul Kagame và tòan thể chánh phủ tín nhiệm và hợp tác rất chặt chẽ; nhờ vậy mà sau mấy năm làm việc chung với nhau, thì quốc gia này đã gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, ngọai giao.

3 / Quần chúng tín đồ các tôn giáo là một nguồn tiềm năng vô biên.

Trong nhiều dịp được mời tham gia các diễn đàn quốc tế như ở New York, Washington DC, ở Davos Thụy sĩ v.v…, Rick Warren đã luôn luôn trình bày rất thẳng thắn đại để như thế này :  “Trên thế giới ngày nay, chúng ta có đến trên 2 tỷ người tín đồ Thiên chúa giáo gồm Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo, trên 1.5 tỷ người tín đồ Ấn độ giáo và Phật giáo và trên 1 tỷ người tín đồ Hồi giáo. Khối quần chúng tín đồ lớn lao như thế đó là một nguồn tài nguyên vô biên, mà cho đến nay chưa được mấy ai trong các tổ chức quốc tế chú trọng đúng mức để động viên thuyết phục họ cùng bắt tay dấn thân vào việc giải quyết những khó khăn bế tắc trầm trọng có tầm vóc tòan cầu. Riêng cá nhân tôi là một mục sư Thiên chúa giáo, thì với khả năng hạn hẹp của mình, tôi đã cùng với các tín đồ của nhà thờ Saddenback phát động kế hoạch PEACE để góp phần vào công cuộc phục vụ bà con đang gặp khó khăn ở nhiều nơi, cụ thể như ở Rwanda. Và tôi cũng ước mong quý vị tất cả nên chú ý đến cái khối tiềm năng vĩ đại này, hầu đề ra được những giải pháp tốt đẹp cho thế giới chúng ta đang gặp bao nhiêu bế tắc khủng hỏang ngày nay…”

Dịp khác, ông còn gợi ra hình ảnh tôn giáo là cái chân thứ ba để cùng hợp với khu vực nhà nước và khu vực tư nhân để tạo được thế đứng vững chắc cho tòan bộ chiếc ghế của thế giới ngày nay. Với uy tín sẵn có, Warren có dịp thường xuyên trao đổi và hợp tác với các nhân vật có tầm vóc họat động rộng rãi tòan cầu, điển hình như cựu Tổng thống Bill Clinton, cựu Thủ tướng Tony Blair …

Trong mùa tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008, Warren đã mời được cả hai ứng cử viên John McCain và Barak Obama cùng đến Saddenback để trình bày với cử tri về lập trường của mỗi người trước những vấn đề hệ trọng của đất nước. Và mục sư Warren lại còn được mời đọc lời kinh cầu nguyện trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Obama tại thủ đô Washington vào đầu năm 2009.

Tạp chí US News and World Report xếp hạng Rick Warren là một trong “25 vị lãnh đạo hàng đầu của nước Mỹ” vào năm 2005. Tạp chí Time thì gọi ông là một trong “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004” và cũng là một trong “100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới” vào năm 2005. Còn báo Newsweek trong năm 2006, thì gọi ông là một trong “15 nhân vật đã làm cho nước Mỹ trở thành vĩ đại”.

Tuy được tung hô khen tặng như vậy, Warren vẫn luôn giữ được sự khiêm cung đạo hạnh của một tu sĩ. Ông thường xuyên cầu nguyện và bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối vào sự dẫn dắt của Thiên chúa trên bước đường phục vụ tha nhân. Niềm xác tín và lòng nhiệt thành của ông đối với sứ mệnh rao giảng lời Chúa như vậy đã lôi cuốn, thuyết phục được hàng triệu tín đồ cũng như các mục sư khác cùng nhau dấn thân nhập cuộc vào những chương trình cụ thể, thiết thực nhằm chống lại nạn nghèo đói và bệnh tật, mở mang về giáo dục cho lớp người bị gạt ra ngòai lề xã hội và bảo vệ môi sinh trên phạm vi tòan cầu.

Tư tưởng cũng như hành động của mục sư Rick Warren quả thật là rất gần gũi với lập trường của Hội đồng Giám mục Công giáo Châu Mỹ La tinh (CELAM) đã được xác định từ lâu, đó là “Sự Chọn lựa của Giáo hội đối với Người Nghèo khổ” ( Church’s Option for the Poor) vậy./

California đầu tháng Mười 2010

Đòan Thanh Liêm