Alan Phan: “Làm ăn ở Việt Nam phải có chống lưng đỡ đầu!”

Alan Phan: “Làm ăn ở Việt Nam phải có chống lưng đỡ đầu!”

Nguoi-viet.com

Hà Giang/Người Việt (thực hiện)
LTS: Tiến sĩ Alan Phan là một tên tuổi quen thuộc trong giới kinh doanh, với 43 năm kinh nghiệm về đầu tư vào thị trường Trung Quốc, Hồng Kông và cả Việt Nam. Ông hiện là sáng lập viên của Alan Phan Associates (APA) có trụ sở tại California và Hồng Kông, chuyên tư vấn chiến lược kinh doanh toàn cầu cho các công ty đa quốc. Là tác giả của 11 cuốn sách về kinh tế, xã hội của những thị trường mới nổi, Tiến sĩ Alan Phan còn là một cây bút quen thuộc với nhiều bài phân tích sâu sắc, với thương hiệu “góc nhìn Alan” được nhiều người biết đến. Nhân dịp sắp đến buổi ra mắt hai cuốn sách mới “Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Kinh Tế Toàn Cầu” và “42 Năm Làm Ăn Tại Mỹ Và Trung Quốc -Ấn Bản Usa,” vào lúc 2 giờ chiều thứ Bảy, 25 tháng Bảy, 2015, tại hội trường nhật báo Người Việt,  ông dành cho ký giả Hà Giang cuộc phỏng vấn dưới đây:

Hà Giang (NV): Vừa là một người cầm bút, một nhà đầu tư, một giáo sư dậy về kinh doanh, ông tự tả về mình như thế nào?

Alan Phan: Thực tình thì cũng không có gì nhiều để tả. Tôi 70 tuổi, thì đương nhiên là có nhiều trải nghiệm, sống qua bao nhiêu những tình huống, khác hơn là những thế hệ trẻ hơn. Nhưng tôi là con người rất là bình thường: đi học, làm việc, sống cho gia đình, bạn bè, vui chơi. Cũng hưởng thụ nhiều, cũng đau khổ nhiều khi làm ăn. Nhưng nói tóm lại thì cũng là một đời rất là bình thường, không có cái gì đặc biệt. Tôi rất bình an với những gì mình đã có, đă mất, đã thua, đã thắng, nghĩa là cái chuyện nó đã xẩy ra rồi, thế thôi.

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi phỏng vấn với ký giả Hà Giang, nhật báo Người Việt (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

NV: Ông có thể nói sơ về Alan Phan Associates có trụ sở tại California và Hồng Kông?

Alan Phan: Tôi làm việc bên Hồng Kông cũng khoảng 14, 15 năm, làm một cái quỹ đầu tư do tôi và ba anh bạn khác, người Trung Quốc và người Hồng Kông sáng lập. Chúng tôi đầu tư vào những công ty nhỏ và đem họ lên sàn chứng khoán, mà mình đồng thời cũng là một nhà đầu tư có lợi trong cái dịch vụ đó. Quỹ đầu tư đó hiện giờ vẫn được những người bạn tôi tiếp tục điều hành, thực tình thì là thế hệ sau của những người bạn tôi. Cách đây hai năm, tôi về lại Mỹ, có thể nói là tìm một cuộc đời an lành khác. Nhiều người bạn vẫn đưa công việc tới cho Alan Phan Associates do tôi và khoảng chừng sáu người chuyên gia tư vấn độc lập. Chúng tôi giúp họ tạo ra chiến lược toàn cầu, giúp họ làm những cái M & A (Merger and acquisition), tức thâu tóm và sát nhập vào những công ty bên Mỹ. Thay vì bỏ sức bỏ tiền lập những công ty ở đây, tôi luôn luôn tôi khuyên họ là lợi dụng những công ty có sẵn thị trường ở đây, có sẵn tên thương hiệu, có sẵn những sản phẩm đặc thù, và mình sát nhập vào với công ty của mình bên Trung Quốc hay bên Việt Nam, thì tương đối chặng đường nó dễ hơn, nhanh hơn, thì đó là chiến lược (M&A) toàn cầu mà tôi luôn luôn chủ trương và cổ võ.

NV: Qua 70 năm thăng trầm của cuộc sống, nếu được làm lại, thì ông sẽ giữ phần nào và thay đổi phần nào? Ông có điều gì hối tiếc không ?

Alan Phan: Thật tình thì tôi ít khi suy nghĩ về quá khứ, những chuyện gì nó qua thì nên để cho nó qua luôn. Có những chuyện mình rất là tự hào, rất là vui thú, thì nhìn lại ở cái điểm khác có thể nó không vui thú, không tự hào như mình nghĩ. Hay là những chuyện ngày xưa mình xấu hổ, mình thua thiệt, thì bây giờ nhìn lại nó lại là cái bài học hay. Thành ra thật tình tôi không quan tâm lắm về chuyện quá khứ. Mình sống thì bây giờ đã hơn bảy mươi năm thì cũng trải qua nhiều, từ đỉnh hạnh phúc đến đáy đau khổ, ông trời đã định như vậy rồi, bây giờ mình ngồi nghĩ là nên giữ cái này, vứt cái này, thì với tôi không cần thiết.

Dĩ nhiên có những cái hối tiếc lặt vặt, nhưng mà rồi mình quên đi. Thực tình theo tôi nghĩ những người mà gọi là thành công, không phải thành công lớn như Warren Buffet hay Bill Gates, mà thành công bình bình như tôi, thì khi về già có nhiều thất vọng mang theo, những điều mà mình chưa thực hiện được. Có khá nhiều hối tiếc, đáng lẽ mình nên làm như này, nên làm như thế kia và thêm một cái nữa là thích khuyên bảo như là để lại một cái di sản gì đó cho thế hệ sau. Nhưng với tôi điều quan trọng là mình sống thực với mình, mình không làm hại ai, không chơi xấu ai, tất cả rất là fair play, theo Mỹ nói. Tất cả những cuộc chơi gì mình vào, lúc mình bước ra ngửng cao đầu, dù thắng dù thua, đó là quan trọng.

NV: Hai nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc có những điểm gì tương đồng và dị biệt? Liệu rồi kinh tế Trung Quốc có sụp đổ vì thị trường chứng khoán đang bị thụt giá của họ không?

Alan Phan: Chính sách kinh tế của những nhà nước độc tài rất giống nhau, đó không phải là những nền kinh tế thực sự thị trường. Về việc thị trường chứng khoán đang tuột dốc tại Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc sẽ có những biện pháp chống đỡ, có thể sẽ kéo dài năm mười năm. Tại Việt Nam cũng vậy, lúc trước tôi cũng gây nhiều tranh cãi về vấn đề bất động sản tại Việt Nam, tôi cho rằng cứ để cho những dự án này chết, rồi sẽ có nguồn đầu tư khác và sẽ làm lại, nhưng với chính quyền thì họ không thích như vậy. Thà rằng hy sinh kinh tế để giữ cho xã hội ổn định, luôn luôn là phương châm của Trung Quốc và của Việt Nam. Thành ra thị trường chứng khoán của Trung Quốc nó cũng giống như thị trường bất động sản tại Việt Nam, đáng lẽ thì nó phải chết, nhưng chính phủ họ cứ nhất định nuôi. Họ cứ chống đỡ cho càng lâu càng tốt, hy vọng 10 năm sau đó sẽ có phép lạ hay có gì thay đổi, hay những thế hệ sau sẽ giải quyết, phải giải quyết bằng một cách nào đó.

Về dị biệt thì có hai điểm. Thứ nhất là kích cỡ. Trung Quốc, kinh tế của nó phải nói là lớn gấp 15 lần Việt Nam, và nó đi trước Việt Nam khoảng 12, 13 năm, thành ra Việt Nam nghĩa là đang copy những gì Trung Quốc đã làm và đôi khi đã thất bại rồi, nhưng mà mình vẫn cứ làm thế. Và thị trường mình nó nhỏ, không thể phát huy được. Điểm yếu thứ hai là doanh nhân và con người. Tôi đã làm việc với doanh nhân Trung Quốc lẫn Việt Nam thì tôi thấy người Trung Quốc họ chịu khó hơn người Việt Nam nhiều, họ tiết kiệm nhiều hơn, họ cần cù hơn, và họ thủ đoạn hơn, dù là Việt Nam rất là mánh mung không kém ai về mặt thủ đoạn, nhưng để lấy lời ngay lập tức. Người Trung Quốc họ thâm hiểm hơn, họ nghĩ xa hơn, dài hơn, Việt Nam mình so với Trung Quốc thì “mì ăn liền” hơn, còn Trung Quốc thì nó biết nấu nướng, và nó biết đợi.

NV: Ông có lời khuyên gì cho người muốn mang tiền về Việt Nam đầu tư?

Alan Phan: Thật ra thì tôi không dám khuyên, nhưng có hai điều cần yếu quan trọng để thành công ở Việt Nam. Thứ nhất là phải có quan hệ, phải có người chống lưng đỡ đầu thì mới đi xa được. Thứ hai là phải có một sự kiên nhẫn, quan hệ với người Việt Nam mà muốn cho sâu đậm, cũng phải mất vài ba năm, chứ không phải đi vào làm ào một cái mà được, người ta chưa tin mình. Muốn có sự tin cậy cũng phải mất vài ba năm. Sau đó thì là chuyện hên xui may rủi, nếu quan hệ đúng với người đang lên, có quyền lực chính trị quan trọng, thì tiền sẽ vào như nước. Còn đi nhằm một cái ông đang đi xuống, thì có thể bị tù tội dễ như chơi, đó là chuyện rất bình thường ở Việt Nam. Cái thằng đấy mình đang tính là mấy năm nữa nó lên, mà đùng một cái nó qua bên Tây chữa bệnh, hay nó bị ám sát thì điều đó phiền lắm (cười.)

NV: Điều gì khiến ông bắt đầu sự nghiệp viết lách, cho ra đời nhiều bài viết rất được ưa chuộng, và thương hiệu nổi tiếng “góc nhìn Alan?”

Alan Phan: Khi còn ở bên Trung Quốc thì cuối tuần tôi có đi dạy, dạy những lớp MBA cho executives. Dạy thì phải soạn bài, nên tôi bắt đầu viết lách từ đó, nhưng cũng không viết nhiều. Đến năm 2007 thì tôi về Việt Nam thường xuyên hơn. Lúc đó mấy anh bạn, anh Trần Trọng Thức, báo Doanh Nhân, anh Tuấn ở Vietnamnet, họ nhờ tôi viết về Trung Quốc. Bài đầu tiên tôi viết là cái chuyện về  “Con voi Trung Quốc,” khi viết xong lại tạo ra được một luồng sóng thích thú. Thì người viết giống như người nghiện, có một chút thuốc vô rồi lại say, lại viết tiếp tục. Giờ thì lớn tuổi rồi, viết cũng là một lối tiêu khiển, ngày xưa khi mình còn trẻ thì mình lông nhông ngoài đường, bây giờ thì ăn uống cũng sợ, sức khỏe cũng lo, thành ra mình không đi ra ngoài tiệc tùng, ăn uống chơi khuya nhiều nữa. Ở nhà không có gì thì viết đại cho rồi.

NV: Ông có thể kể lại vài kỷ niệm vui, lý thú khi làm việc ở Việt Nam?

Alan Phan: Ở Việt Nam thì luôn luôn nó đi cập với hai vấn đề.  Thứ nhất là mình sẽ có rất nhiều bạn, vì thứ nhất là mình có tiền mà thứ hai là họ có thì giờ, cho nên bất cứ lúc nào, mình không kêu họ thì họ kêu mình, cho nên luôn luôn bao quanh bởi bạn bè, gia đình, muốn hay không muốn, tương đối khá vui. Đi chơi biển, đi chơi núi, tất cả đều dễ dàng hơn ở Mỹ. Ở Mỹ mà muốn tập trung được ba, bốn người đi, mà có thì giờ đi chung với nhau thì là cả một sự xếp đặt. Còn ở Việt Nam thì rất dễ, nếu hứng, thì chỉ 5 phút sau là lên đường thôi. Nghĩa là niềm vui nó tự phát, nhưng đồng thời nó cũng có nhiều cái bực, đi ra xa lộ một tí là tai nạn này, tai nạn kia, rồi ô nhiễm, rồi khói bụi, rồi người này người kia, rồi môi trường hỗn loạn, đôi khi mình muốn bình an cũng không được. Đôi khi mình muốn muốn góc lặng nào đó để đừng ai quấy rầy mà kiếm cũng không ra. Trong khi ở Mỹ thì mình có muốn quấy rầy người ta, người ta cũng không muốn. Đó là cái khác biệt giữa  hai văn hóa và môi trường. Với lại người Việt Nam thì sống rất là open, nhà hàng xóm biết nhau, biết đủ thứ, và ai cũng nhẩy xổm vào. Cái câu hỏi mà tôi được hỏi nhiều nhất là ‘anh có bao nhiêu tiền? Hồi trước anh làm gì, làm gì?’ họ muốn biết tất cả mọi điều về đời mình. Trong khi người Mỹ thì người ta tôn trọng cái riêng tư của mình. Nó hơi khác một tí, nhưng rồi mình ở đâu rồi cũng điều chỉnh được. Vấn đề là mình muốn điều gì.

NV: Đã sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới, tại sao cuối cùng ông lại về Mỹ, mà không nghỉ hưu ở Việt Nam, chẳng hạn?

Alan Phan: Thực tình thì có nhiều tiền thì ở đâu nó cũng vui cả, Việt Nam hay Trung Quốc, hay Mỹ hay là Monaco hay là bất cứ chỗ nào. Thành ra cái yếu tố quan trọng là yếu tố có nhiều tiền. Thực tình trong một lựa chọn của con người, ngoài vấn đề tiền bạc còn vấn đề môi trường sống, còn vấn đề bạn bè, gia đình, còn vấn đề mà mình không muốn phải đối diện hàng ngày, nó cũng đôi khi làm mình bức xúc. Mình muốn tâm mình được an bình hơn. Lúc trẻ thì những điều này không quan trọng lắm, mình thích stress, thích áp lực, thích tất cả những chuyện thử thách, nhưng mà đến khi già rồi thì những áp lực thử thách, những khó khăn phải đương đầu thì mình muốn giảm thiểu tối đa. Tôi nghĩ môi trường Mỹ nó giúp cho tôi được điều đó. Với tôi đó là lý do quan trọng.

NV: Cảm ơn tiến sĩ Alan Phan đã thì giờ cho cuộc phỏng vấn, và chúc ông nhiều thành công trong buổi ra mắt sách vào 2 giờ chiều thứ Bảy, ngày 25 tháng Bảy này, tại hội trường nhật báo Người Việt.

Chương trình H.O. – Thư của Tưởng Vessy gởi Cộng Đồng Minnesota

Chương trình H.O. – Thư của Tưởng Vessy gởi Cộng Đồng Minnesota

Nhớ ơn Tổng Thống Ronald Reagan!

H.O.!

General John W. Vessey, Jr. – The 10th Chairman of the Joint Chiefs of Staff

năm 1997.

Tôi hân hạnh được đọc bức thư của Tướng John W. VESSY, người đã thừa ũy nhiệm Tổng Thống Reagan qua Hà Nội năm 1987 – 1988 để thương lượng và ký kết các điều khoản liên quan toàn thể những “Tù Cải Tạo” ra khỏi trại giam và lần lượt định cư ở Hoa Kỳ theo chương trình H.O. bắt đầu từ 1990.

Nguyên văn thư nói trên được gởi cho ông Nguyễn Xuân Huấn, Chủ Tịch Hội CTNCT Minnesota, ngày 1-9-1997; trong thư có đoạn viết rõ như sau:

“…Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu tôi được Tổng Thống giao phó là phải tìm cách giải thoát những cựu chiến hữu Nam Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái gọi là trại cải tạo. Tôi được quyền bảo đảm với chính phủ Hà Nội rằng Hoa Kỳ sẳn sàng chấp nhận và tiếp đón những người tù cải tạo cùng gia đình sang Mỹ.

Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, vì chúng tôi không có hy vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều được mang danh “Chiến Dịch Nhân Đạo” (Humanitarian operations – gọi tắt là H.O.).

Do đó danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt Mỹ xữ dụng để nói về những cựu tù nhân chính trị đang sinh sống trên đất Mỹ” “Riêng đối với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ và lòng hy sinh, tất cả những ai thuộc diện H.O. dều là những anh hùng thật sự của thời đại nầy.”

Thư của Tưởng Vessy gởi Cộng Đồng Minnesota năm 1997. Trích nguyên văn bằng Anh ngữ:

“…When the President Regan called me back from military retirement in 1987 to be his Presidential Emissary to Hanoi, one of the highest priority tasked he assigned me was to seek the release of our former South Vietnamese comrades who had been detained in the, so-called, reeducation camps. I was authorized to assure the Hanoi government that the United States would accept and welcome those detainees and their families in this country. Because, at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken in furtherance of the agreements reached were termed “humanitarian operations”. Consequently, the term “HO” has been used within the Vietnamese-American community to refer to former political detainees who are now resident in the United States.
To me, the term “HO” is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are among the true heroes of our time…”

Từ khi những H.O. và gia đình được định cư trên đất nước tự do, từng năm tháng làm việc miệt mài, bắt nhịp cầu cho con cháu vượt qua khó khăn, học hành thành đạt, trở thành những nhân tố có ích cho tương lai… thì các H.O. cựu tù đã già; người nào cũng trên sáu, bảy, tám chục tuổi… Có rất nhiều anh H.O. đã ra đi vì những bệnh trạng mang theo từ các trại tù sương lam chướng khí. Nhưng họ cũng ngậm cười nơi chín suối vì đã đưa được vợ con thấy ánh sáng tự do, thoát gông xiềng áp bức. Những ai được định cư Hoa Kỳ theo chương trình H.O. là những người tù cô đơn, không thân nhân bảo lảnh, không có khả năng vượt thoát khỏi bức tường ô nhục của người CSVN.

Kỷ niệm 25 năm riêng cho những “Con Bà Phước” mang danh H.O. là điều đáng làm. Những Cựu Tù Chính Trị đang định cư trên khắp thế giới, không ở trong “CHƯƠNG TRÌNH H.O.” nên khuyến khích và HỔ TRỢ, THAM DỰ, ĐÓNG GÓP vào ngày họp mặt do Anh Chị Em H.O. tổ chức. Mùa Thanksgiving 2015, đúng 25 năm người tù H.O thay da đổi thịt. Chúng tôi sẽ thành khẩn cám ơn nhân dân, chính phủ Hoa Kỳ và những cá nhân có công trong việc hình thành chương trình H.O. một chương trình đã cứu hàng trăm ngàn người TÙ CÔ ĐƠN và gia đình, để họ có điều kiện làm lại cuộc đời mới ấm no, tự do và hạnh phúc trên quê hương thứ hai nầy!

Xin cảm ơn nước Hoa Kỳ – xin cảm ơn mọi người!

letamanh

Nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại quê tôi

Chuyện xưa chuyện nay (Bài 3)

Nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại quê tôi

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

Làng tôi hồi trước năm 1945 được gọi là xã Cát xuyên, thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Dân số hồi đó vào khoảng 500 người sinh sống trong chừng 80-90 nóc gia. Bà con phần lớn là nông dân mỗi năm cày cấy hai vụ luá, gọi là vụ chiêm gặt hái vào giữa năm, và vụ muà thu hoạch vào cuối năm. Còn một số ít, thì sinh sống bằng nghề làm bánh và chế biến đồ ăn để bán cho khách hàng trong các phiên họp tại Chợ Cát là một loại “chợ phiên” họp định kỳ mỗi tháng 6 phiên vào các ngày mồng 1,6,11,16,21,26 mỗi tháng theo Âm lịch.

Vụ muà vào cuối năm 1944 bị “mất đến 70-80%”, nên thu hoạch rất kém, vì toàn là loại luá lép thôi. Do đó mà gây nên nạn đói kém vào mấy tháng đầu năm Ất Dậu 1945. Tính ra trong làng tôi phải có đến trên 150 người  (tức là khoảng 30% dân số) bị chết đói trong năm đó. Trong số nạn nhân này có rất đông bà con và bạn hữu cuả tôi. Điển hình là chính ông chú út, em ruột cuả cha tôi là chú Thiêm, thì chú ấy phải bỏ nhà đi kiếm ăn mà bị chết mất xác ở đâu, chẳng một ai trong gia đình còn biết được tin tức về chú ấy nưã. Nhiều gia đình chết hết, nên căn nhà với khu vườn cuả họ trở thành hoang phế tiêu điều, trông thấy mà phát sợ luôn.

Tôi nhớ rất rõ chuyện này, vì vào muà hè năm 1945 đó tôi chăn dắt con trâu cho nó đi gặm cỏ trong các khu vườn tại những “thổ hoang” này, thì tôi chứng kiến tận mắt cái cảnh hoang tàn đìu hiu cuả những căn nhà sập xệ vô chủ đó. Và dĩ nhiên là tôi rất buồn vì đã mất đi bao nhiêu bà con đã từng sát cánh chung sống với mình, mà đã bị chết oan uổng trong cái đại nạn đó.

Trong nhà tôi, thì các anh chị lớn đều phải ăn cơm “độn với cám hay với khoai”. Mỗi ngày cha tôi cho thổi thêm ít cơm, rồi đem nắm lại thành những cục nhỏ để ông tận tay mang đến cho mấy bà con là những cụ già trong làng. Sau naỳ, vì còn ít gạo, thì ông cho nấu cháo và đi kêu mấy con cháu các cụ đó mang chén bát đến lấy về cho các cụ.

Điều khó khăn nưã là tại khu chợ Cát, thường mỗi buổi sáng sớm lại có một số người chết đói nằm ở góc chợ. Đó là những người ở xa đến xin ăn, mà vì đói lạnh quá nên đã tắt hơi thở, không có bà con họ hàng biết mà đến nhận xác để đem đi chôn cất. Vì thế mà cha tôi phải kiếm thêm một người trai trẻ còn khoẻ mạnh để phụ với ông đem những xác chết vô thưà nhận này đi chôn ở nghiã trang cuả làng. Ông tự nguyện làm việc này, theo như lời khuyên bảo làm việc bác ái trong một câu kinh cuả đạo công giáo là :”Chôn xác kẻ chết”. Vì việc từ thiện bác ái như vậy, nên sau này Giáo hội Công giáo mới tặng cho ông một “sắc phong” khen ngợi công lao giúp đỡ bà con trong cơn hoạn nạn khốn khổ thời ấy. Và chính cái gương làm việc từ thiện nhân đạo đó cuả ông cụ đã ảnh hưởng sâu xa đến suốt cuộc đời dấn thân phục vụ xã hội sau này cuả tôi vậy đó.

Sau năm 1975, bà con ở ngoài Bắc có vào thăm gia đình tôi ở Saigon, thì có người còn nhắc lại cái “công đức” cuả cha mẹ tôi đã cưú giúp cha mẹ họ lúc đó. Họ còn nói là” bây giờ các anh chị làm ăn học hành tiến bộ thành đạt, đó là nhờ ở phúc đức cuả ông bà xưa để lại “.

Con số thống kê cho biết là có tới 2 triệu người bị thiệt mạng trong nạn đói khủng khiếp này. Và nếu đối chiếu với dân số của đồng bằng sông Hồng hồi đó là khoảng 6 triệu người, thì số người chết đã tới hơn 30% trên tổng số dân trong khu vực, tỉ lệ này cũng tương đương với con số ước lượng tại làng Cát xuyên của tôi.

Bàn qua về nguyên nhân của nạn đói này, thì vì lý do chính trị, nhiều người cứ đổ hết trách nhiệm cho Quân đội Nhật bản đã gây ra cảnh đói kém này, vì họ đã bắt dân phải “phá bỏ ruộng cấy lúa đi, để lấy đất trông đay bố cho nhu cầu quân sự của họ. Rồi họ lại còn tích trữ số lượng thật lớn lúa gạo vào trong kho quân lương của họ. Điều đó không sai, nhưng đây không phải là căn nguyên duy nhất đã gây ra nạn đói. Mà phải kể đến 2 nguyên nhân khác nữa, đó là : 1/ Nạn mất mùa cuối năm 1944 (mất đến 80% như đã ghi ở trên); 2/ Vì lý do chiến tranh, đường giao thông từ Nam ra Bắc bị máy bay đồng minh oanh tạc tàn phá nặng nề, nên số gạo thặng dư ứ đọng khổng lồ ở miền Nam hồi đó (vì không thể xuất cảng được) đã không thể chuyên chở ra ngoài Bắc bằng tàu biển hay xe lửa. Tôi nghĩ 2 lý do này mới thực sự là nguyên nhân chính đã gây ra cái nạn đói kinh hòang đó.

Bây giờ sau mấy chục năm, chúng ta có thể công tâm mà phân định sự việc, chứ không nên giữ thiên kiến quá đáng về phía này, phía khác. Mà vì bản thân mình không phải là một sử gia, nên tôi cũng không dám lạm bàn chi tiết về vấn đề có tầm mức lớn lao này.

Nạn đói tai hại khủng khiếp này đã khiến cho toàn thể khối nông dân ở miền Bắc rất căm thù giận ghét đối với thực dân Pháp và quân phiệt Nhật là những thủ phạm chính yếu đã gây ra  tình trạng đau thương bi đát đó. Vì thế mà vào tháng 8 năm 1945 đó, quần chúng nhân dân đã nhất loạt hăng say hưởng ứng phong trào đòi độc lập do Việt minh khởi xướng, mà họ gọi là “Cách mạng Muà Thu”. Chỉ sau đó mấy năm, khi Việt minh phát động chính sách độc tài chuyên chế với thủ đoạn sắt máu tàn bạo nham hiểm, thì người dân mới lần hồi vỡ lẽ ra. Nhưng đến lúc đó, thì đã quá trễ mất rồi!

Vào năm 2002 gần đây, nhân gặp mấy sinh viên người Nhật tại một Đại học ở Virginia, tôi có hỏi họ xem là họ có biết gì về nạn đói tại Việt nam năm 1945 khi quân đội Nhật chiếm đóng và cai trị ở đó không? Tất cả đều lắc đầu và nói rằng : “Chúng tôi không hề được biết gì về nạn đói này. Và không hề thấy sách báo nào ở Nhật viết về trách nhiệm của quân đội Nhật trong chuyện này…” Tôi bèn nói cho họ biết là : Gia đình và bà con chúng tôi đã là nạn nhân khốn khổ của nạn đói kinh hoàng. Mà quân đội Nhật bản phải có phần trách nhiệm về số 2 triệu nạn nhân đã thiệt mạng, họ đều là bà con đồng bào ruột thịt cuả chúng tôi. Đó là điều suốt đời không bao giờ mà tôi lại quên được. Nghe tôi nói vậy, mấy bạn người Nhật đều tỏ ra vẻ đăm chiêu buồn bã. Có một bạn nói lại với tôi : “ We are very sorry for such an horrible thing!” (Chúng tôi rất ân hận về sự việc khủng khiếp như thế đó!)

Năm 2010 này là năm thứ 65 kể từ ngày nạn đói năm Ất dậu tàn phá toàn thể miền quê tôi tại vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc nước ta. Tôi không thể nào mà quên được cái chết đau đớn, oan ức cuả chú Thiêm và cuả rất nhiều bà con bạn hưũ khác trong cái làng Cát xuyên nhỏ bé cuả tôi. Và tôi cũng thông cảm với các nạn nhân khác đày dãy trên thế giới ngày nay đang bị nạn đói dằn vật vì thiên tai, cũng như vì chiến tranh bạo lực, vì nạn bóc lột cướp phá do chính con người gây ra nưã./

California, cuốí năm Kỷ sưủ 2009

Đoàn Thanh Liêm

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

Thánh Giacôbê, quê quán tại Bethsaida, là con ông Giêbêđê và là anh em với thánh Gioan.  Ngài là một trong ba Tông đồ, ngoài những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, còn được phúc chứng kiến sự kiện biến hình trên núi Tabor và thảm cảnh trong vườn Cây Dầu.  Lòng nhiệt thành của hai anh em đã khiến Chúa đặt cho cái tên là ‘Con Sấm Sét’.

Thánh Giacôbê đã tiến hành công cuộc tông đồ tại Giuđêa và Samaria.  Theo truyền tụng, thánh nhân đã đến rao giảng Phúc Âm tại Tây Ban Nha.  Khi trở lại Palestine vào năm 44, ngài đã trở thành vị Tông Đồ đầu tiên được phúc tử vì đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa.  Thi hài thánh nhân được cải về Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây đã trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ, và là một đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

Uống chén của Chúa

Khi đang đi dọc theo bờ biển Galilê, Chúa Giêsu nhìn thấy Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới, Người đã gọi họ, và đặt cho tên là Boannerges, nghĩa là “con của sấm sét”.

Mọi sự bắt đầu khi một số ngư phủ trên biển hồ Tibêria được Chúa Giêsu thành Nagiarét mời gọi theo Người.  Họ đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, đi theo, và sống với Người gần ba năm trời. Họ đã chia sẻ đời sống thường nhật của Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho những lời cầu nguyện, cũng như lòng nhân lành và quyền năng của Người dành cho các tội nhân và những người đau khổ.  Họ chăm chú lắng nghe lời Chúa, những lời họ chưa từng bao giờ được nghe.

Suốt ba năm chung sống với Chúa, các Tông Đồ cảm nghiệm một thực tại rồi ra sẽ chiếm đoạt họ mãi mãi, đó là cuộc sống với Chúa Giêsu.  Đó là một kinh nghiệm phá vỡ nếp sống trước kia của họ; họ phải từ bỏ mọi sự – gia đình, nghề nghiệp, và tài sản của họ – để đi theo Người.  Tóm lại, họ đã được dẫn vào một con đường sống hoàn toàn mới mẻ.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu mời gọi Giacôbê đi theo Người.  Giacôbê là anh của Gioan, và là con của bà Salômê, một phụ nữ đã dùng tài sản để giúp Chúa Giêsu và sau cùng cũng có mặt trên núi Canvê.  Giacôbê đã biết Chúa Giêsu trước khi được Chúa gọi.  Cùng với Phêrô và em trai mình, Giacôbê được Chúa Giêsu yêu thương cách riêng.  Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Biến Hình trên núi Tabor.  Ngài cũng có mặt khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, và là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương khó.

Phúc Âm ngày lễ thánh Giacôbê kể cho chúng ta một biến cố lạ lùng trong đời Ngài.  Chúa Giêsu loan báo về cuộc Khổ nạn và cái chết sắp đến của Người: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các trưởng tế và ký lục, họ sẽ kết án tử và giao nộp Người cho dân ngoại chế nhạo, chúng sẽ đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá.  Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Chúa cảm thấy cần chia sẻ những tâm tình sâu lắng nhất đang chất chứa trong lòng cho các môn đệ. Khi ấy, bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu, và bà bái lạy và kêu xin Người một điều: Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang của Người sắp đến.  Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không. Chúa đề nghị họ hãy uống chung chén của Người.  Thời xưa, việc trao chén mình cho ai uống là một dấu chỉ của tình thân hữu.  Các vị liền đáp: “Thưa được!”  Những lời ấy nói lên một tấm lòng thuần thục và quảng đại.  Những lời ấy phản ánh thái độ của mọi người trẻ và của mọi tín hữu thành tâm, nhất là của những ai sẵn sàng làm tông đồ để loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp quảng đại ấy và phán bảo: ‘Chén của Ta, các con cũng sẽ uống”, các con sẽ chia sẻ những đau khổ của Ta, các con sẽ hoàn tất cuộc Khổ nạn của Ta nơi thân xác các con.  Không bao lâu sau đó, vào năm 44, Giacôbê đã bị xử trảm tử vì đạo.  Còn Gioan đã chịu bách hại đủ kiểu trong cuộc đời trường thọ của Ngài.

Kể từ khi Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta trên thập giá, tất cả đau khổ của các tín hữu là cùng uống chén của Chúa Kitô qua việc chia sẻ cuộc Thương khó, Tử nạn, và Phục sinh của Người.  Nhờ đau khổ, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất cuộc Khổ nạn của Chúa, và kéo dài trong thời gian với những hoa trái của công cuộc ấy.  Những đau khổ nhân loại chỉ mang ý nghĩa cứu độ khi được liên kết mật thiết với sự khổ nhục Chúa Giêsu đã chịu.  Với lòng nhân lành, Chúa đã cho chúng ta chia sẻ chén đắng của Người.  Trước những khó khăn, bệnh tật hoặc đau khổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng nêu lên một câu hỏi: “Con có thể uống chén của Ta không?”  Nếu hợp nhất với Chúa, chúng ta sẽ tích cực đáp lại và chịu đựng tất cả những gian khổ về phương diện nhân loại vì danh Người.  Trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, ngay cả những đau đớn và thất bại của chúng ta cũng sẽ biến thành niềm vui và bình an.  Cuộc cách mạng vĩ đại của Kitô giáo chính là việc đã biến đau khổ thành đau khổ hiệu quả, biến một điều xấu thành một điều tốt.  Chúng ta đã tước thứ vũ khí này của ma quỉ, và với thứ vũ khí này, chúng ta có thể đạt được sự sống vĩnh cửu.

Đừng chán nản trước những khuyết điểm bản thân – Hãy tìm sức mạnh nơi Chúa

Từ lúc Giacôbê bày tỏ những tham vọng không được cao thượng của Ngài cho đến khi được chịu tử vì đạo là một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài.  Sự nhiệt thành của Ngài trước kia chống lại những người Samaria không muốn tiếp đón Chúa Giêsu – dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem – nhưng về sau đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn.  Từng bước một, tuy không làm mất cá tính hăng hái, nhưng Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực hoặc chua chát. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi.  Thánh Clêmentê thành Alexandria kể lại khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo ngài sau đó đã đến xin ngài tha lỗi.  Thánh Giacôbê suy tư… và sau đó ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”.  Hai người sau đó cùng được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Khi suy niệm về cuộc đời thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta được lợi rất nhiều khi nhìn thấy những khuyết điểm của Thánh nhân cũng như của các Tông đồ khác.  Các Ngài không can trường, không khôn ngoan, mà cũng chẳng đơn sơ.  Chúng ta thấy các ngài đôi khi rất ham hố, hay tranh cãi, và thiếu đức tin.  Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông đồ đầu tiên được tử đạo.  Như thế, hiển nhiên là sự phù trợ của Thiên Chúa cũng có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng ta.  Ngày nay trên thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn ngài trên con đường khác với con đường ngài đã mơ tưởng trước đó.  Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và đầy yêu thương vượt quá trí tưởng của chúng ta.  Trong nhiều trường hợp, Người không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin, nhưng đó lại là điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

Theo các trình thuật Phúc Âm, như các Tông đồ, Giacôbê cũng có những khuyết điểm rõ ràng và không thể chối cãi.  Tuy nhiên, bên cạnh những khiếm khuyết ấy, thánh nhân cũng có một tâm hồn và một con tim vĩ đại.  Chúa Giêsu lúc nào cũng nhẫn nại với Ngài cũng như với các Tông đồ khác. Thầy Chí Thánh cho các ngài thời gian để hấp thụ những bài học mà Người đã dùng sự khôn ngoan và tình thương để truyền dạy cho họ.  Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Chúng ta hãy xét Chúa đặt câu hỏi tương tự như một lời mời gọi và một lời kích lệ như thế nào.  Chúa không nói: ‘Ngươi có thể chịu thất bại được không? Ngươi có dám chịu đổ máu không?’ nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống…’ Để khích lệ họ, Chúa còn thêm: ‘… chén Ta sẽ uống hay không?’  Tưởng nghĩ đến việc uống chính chén của Chúa đã đưa các Tông đồ đến sự đáp ứng quảng đại hơn.  Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ nạn của Người là ‘phép rửa’ để nhấn mạnh những đau khổ của Người sẽ là nguyên nhân cho cuộc thanh tẩy toàn thế giới.”

Chúa cũng đang mời gọi chúng ta.  Ước chi chúng ta đừng đầu hàng sự chán nản khi những khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta trở nên rõ rệt.  Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin phù giúp, Người sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành dấn bước, bởi vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta thời giờ cần thiết để cải thiện.

Sưu tầm

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo

Bà Anna Maria Rizzante làm việc tông đồ với tư cách thừa sai giáo dân tại Amazzonia bên nước Ba-Tây thuộc Châu Mỹ La Tinh. Bà cùng với hiền phu Sandro và hai con – một trai một gái – dấn thân phục vụ người nghèo. Thời thiếu nữ, Anna Maria có ý định dâng mình cho THIÊN CHÚA trong Hội Dòng Đaminh thánh nữ Caterina thành Siena. Hội Dòng có một Cộng Đoàn tại Scandolara (Bắc Ý) nơi quê sinh của thiếu nữ. Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng định liệu cách khác. Không thực hiện được ước nguyện tu trì, Anna Maria dấn thân phục vụ người nghèo, những ai cần sự trợ giúp. Sau khi lập gia đình, bà tiếp tục lý tưởng tông đồ. Bà cùng chồng và hai con tình nguyện đi truyền giáo tại Ba-Tây với tư cách thừa sai giáo dân. Xin nhường lời cho bà Anna Maria Rizzante.

Chính Song Thân gieo vào lòng tôi thiện ý dâng hiến cuộc đời phục vụ anh chị em xa xôi và nghèo khổ. Trước tiên, Cha Mẹ tôi nêu cao gương sáng về cuộc sống vị tha xả kỷ. Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo. Tâm tình trìu mến thương yêu người nghèo theo sát và đưa tôi đến Bologna rồi đến Roma. Nơi thủ đô Roma tôi trải qua 10 năm của thời thiếu nữ trong việc học hành, cầu nguyện và các công tác thiện nguyện. Đó là những năm tuyệt vời để lại nơi tôi những kỷ niệm khó quên.

Từ các năm tháng này, chín mùi nơi tôi ước muốn dấn thân hoạt động tông đồ. Quyết định chung kết đưa tôi từ Roma sang làm việc tại Amazzonia bên Ba-Tây, với tư cách thừa sai giáo dân. Cùng với các tín hữu Công Giáo tại địa phương chúng tôi dành ưu tiên cho các hoạt động nhằm thăng tiến cuộc sống nữ giới. Chúng tôi lắng nghe và chia sẻ cuộc sống của phụ nữ trong một xã hội có nhiều nghèo đói và bất công. Chúng tôi cố gắng làm sao cho cuộc sống của nữ giới có ý nghĩa, diễn ra trong tự do hoàn toàn và mang lại nhiều hoa quả phong phú.

Tôi kết hôn với Sandro và chúng tôi có hai con, một trai một gái. Chúng tôi sẽ hân hạnh trở thành ông bà nội ngoại của các cháu. Tôi là người mẹ người vợ Công Giáo may mắn. Bởi vì, cùng với hiền phu Sandro, chúng tôi chia sẻ trong mọi lãnh vực. Chẳng những chúng tôi hợp tác trên bình diện hôn nhân và gia đình mà còn chung mối hiệp thông sâu xa về lý tưởng và cuộc sống. Thật tuyệt vời! Niềm hiệp thông vợ chồng chúng tôi nhận lãnh với niềm tri ân chân thành như hồng ân cao cả đến từ THIÊN CHÚA. Niềm hiệp thông khuyến khích chúng tôi sống trung tín tình nghĩa phu-thê và trung tín với ơn gọi mà mỗi người được kêu mời thực hiện.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng tôi thề hứa trung tín với THIÊN CHÚA của người nghèo và trung tín với người nghèo của THIÊN CHÚA, cũng như trung tín với đất đai của THIÊN CHÚA. Chính trong ý hướng sau cùng này mà chúng tôi dấn thân hoạt động trong lãnh vực Mục Vụ Điền Địa, trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Ba-Tây. Chúng tôi tranh đấu cho dân nghèo có cuộc sống xứng đáng hợp nhân phẩm, thắng vượt bất công, nghèo đói và đàn áp từ nhiều phía.

Tranh đấu của chúng tôi không đi theo chiều hướng chính trị nhưng nằm trong lãnh vực xã hội theo đúng tinh thần Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hoạt động của các thừa sai giáo dân chúng tôi luôn luôn được Lời Chúa soi sáng hướng dẫn. Cuộc sống của chúng tôi không dễ dàng xuôi chảy nhưng tràn đầy khó khăn. Tấm gương của biết bao thừa sai bị giết vì các hoạt động tranh đấu cho dân nghèo luôn luôn ở trước mắt chúng tôi. Chúng tôi không nao núng sợ hãi. Đôi khi công việc hoạt động tông đồ của chúng xem như vô ích và thất bại. Nhưng chính lúc ấy, chúng tôi cảm nhận sâu xa quyền năng vô biên của THIÊN CHÚA. Chính THIÊN CHÚA sẽ ra tay can thiệp đúng thời đúng lúc. Chính Ngài giải phóng và cứu thoát dân nghèo của Ngài. Chúng tôi – đầy tớ của THIÊN CHÚA – chúng tôi hoàn toàn đặt trọn tin tưởng phó phác nơi Tình Yêu của Ngài.

… ”Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ THIÊN CHÚA, ăn ở theo đường lối của Ngài. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ôliu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc THIÊN CHÚA dành cho kẻ kính sợ Ngài. Xin THIÊN CHÚA từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Israel vui hưởng thái bình” (Thánh Vịnh 128 (127).

(”Allez, Allez Petites”, Quadrimestrale della Congregazione delle Suore Domenicane di Santa Caterina da Siena, Numero 3, Anno II, Santa Natale 2008, trang 13-15)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CHĂM SÓC CHA MẸ GÌA

CHĂM SÓC CHA MẸ GÌA

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện thoại khẩn cấp. Chị vội đứng lên, về phòng. Bà hàng xóm nơi mẹ Vân đang ở, cho hay bà cụ vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té ngã.

Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi xuống lấy xe lái vào bệnh viện thăm mẹ.

Trên đường đi, nàng dùng điện thoại di động báo cho Huân, chồng nàng hay. Huân hiện đang đi công tác ở miền miền Trung nước Mỹ, tuần sau mới về. Rồi suốt mười lăm phút lái xe, nàng suy nghĩ mung lung, với nhiều lo âu, bối rối. Sự việc mà nàng hằng nghĩ trước sau gì cũng xẩy ra, thì bây giờ nó đã đến, hơi sớm một chút.

Sau khi ba Vân mất cách đây dăm năm, mẹ Vân dọn về ở với vợ chồng nàng. Rồi sau một thời kỳ thích nghi với hoàn cảnh mới, nếp sống mới của người góa phụ, bà cụ dọn ra ở riêng.

Cụ tới khu người già trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Cụ nói lên đây ở để đi lễ bái cho gần, lại có mấy cụ già quanh quẩn với nhau cho vui. Nhất là có hai người bạn học từ thuở xưa ở Hải Phòng, mà họ thường hay liên lạc chuyện trò.

Khu người già được lập ra từ hơn mười năm, có 40 phòng, dành cho các cụ độc thân, còn đủ sức khỏe, đi lại được, còn tự chăm sóc nấu ăn, giặt giũ. Các cụ sống hợp quần với nhau rất vui. Ngày ngày các cụ lên Chùa lễ bái, tụng kinh rồi làm công quả. Lâu lâu nhà Chùa tổ chức đi thăm viếng đây đó hoặc đi lễ hội Chùa tại thành phố khác. Đôi khi trời mưa, các cụ ở nhà rủ nhau làm vài hội chắn hoặc bài cào để tiêu khiển giải trí.

Nhưng từ trong thâm tâm thì cụ không muốn phiền con cháu quá lâu. Từ trước tới nay cụ là người rất hoạt động, phải nói là đảm đang nữa. Cùng chồng, cụ đã đôn đáo tìm đường thoát khỏi Sài Gòn vào biến cố 1975, rồi nuôi nấng, gây dựng cho sáu mặt con từ khi còn ở trong nước tới khi sang Hoa Kỳ hơn ba chục năm nay. Cháu nội ngoai các cụ có hơn một tá.

Mọi việc xuôi sẻ cho đến ngày hôm nay.

Thực ra thì từ năm ngoái, cụ đã không được khỏe lắm. Huyết áp lên cao, các khớp xương thì mỗi khi trái gió, trở trời là đau nhức, khiến cụ mất ngủ. Có đêm, cụ chỉ ngủ được có vài ba giờ, nên ban ngày mệt và hay kêu chóng mặt, nhức đầu.

Cách đây ba tuần cụ phải nằm bệnh viện mất mươi ngày vì sưng phổi. Sau khi xuất viện, vợ chồng Vân muốn mời cụ về ở chung một thời gian cho khỏe nhưng cụ một mực từ chối, nói không sao. Vân đã cho anh chị em biết về tình trạng sức khỏe của cụ và mọi người dự định là tháng tới sẽ về để cùng thảo luận coi xem nên làm gì.

Tới bệnh viện, Vân được cô y tá cho hay tự sự.

Số là sáng nay, mấy ông bà hàng xóm sang rủ cụ lên Chùa tụng niệm, như lệ thường. Gõ cửa không có tiếng trả lời, một lão ông bèn đẩy cửa bước vào và thấy mẹ Vân nằm song soài dưới đất, cạnh bàn điện thoại, nét mặt nhăn nhó. Cụ sửa soạn lên Chùa thì bị một cơn chóng mặt, xỉu đi và ngã xuống nền nhà. Cụ cố với tay tới điện thoai để kêu cứu, nhưng đau quá, không lết thêm được.

Bác sĩ đã khám, chụp hình thì thấy cụ bị gẫy xương hông. Cụ hiện đang nằm trong phòng cấp cứu. Bác sĩ chờ thân nhân tới để thảo luận vì cụ cần được giải phẫu.

Vân vào phòng, thấy mẹ nằm thiu thiu mà nước mắt trào ra. Da mặt bà cụ xanh nhợt, vẫn còn phảng phất nét đau đớn. Vân nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, để mẹ tiếp tục ngủ. Nhìn mẹ mà lòng vân bối rối. Cả trăm vấn đề hiện lên trong đầu Vân. Sau giải phẫu, mẹ sẽ ra sao? Liệu có đi lại được không? Huyết áp cao, bệnh phong thấp hoành hành, lại mất ngủ thì sức khỏe chắc là phải sa sút.

Mấy tháng trước, khi vợ chồng Vân đến thăm, thấy cụ cứ than là ăn không ngon miệng, nên đôi khi chẳng thèm nấu cơm, mà chỉ uống ly sữa, ăn miếng bánh khô cho khỏi đói bụng. Coi tủ lạnh, Vân thấy mấy món ăn thiu đã lên men. Vào buồng tắm thấy nước vặn bỏ quên không khóa. Vợ chồng Vân đã lo ngại…

Rồi Vân nghĩ tới hoàn cảnh của mình.

Trong sáu người con, Vân là người duy nhất ở gần mẹ. Mà bà cụ vẫn có cảm tình đặc biệt với Vân, nên trước sau cụ vẫn nói là mai mốt nếu cần “tao chỉ ở với vợ chồng con Vân thôi. Nó bướng bỉnh nhưng có lòng”.

Vợ chồng Vân được hai trai một gái đã vào đại học nên cũng nhẹ gánh. Vân mới được lên chức và trong tương lai gần, sở sẽ cho nàng đi học thêm để lấy bằng chuyên môn. Vân đã sắp xếp như vậy cho mình. Chồng nàng thì cứ vài tháng phải đi công tác xa mươi ngày.

Bây giờ, cơ sự sẩy ra như thế này, mọi dự tính của Vân đều phải xét lại. Để chờ cụ giải phẫu xong rồi tuần sau anh chị em về sẽ tính. Nhưng Vân có linh tính rằng nàng sẽ là người đứng mũi chịu sào. Mẹ mình vẫn muốn vậy, nàng tự nhủ.

Bà cụ chợt tỉnh giấc, mở mắt. Nhìn thấy Vân, Cụ gượng cười. Và trong đôi mắt của mẹ, Vân đọc thấy những nét thất vọng, sợ hãi, chịu thua…

Trường hợp của chị Vân là một trong cả trăm ngàn trường hợp tương tự.

Tuổi thọ con người kéo dài lâu hơn, tới 75, 80 là chuyện thường. Chứ không “Thất thập cổ lai hy” như vào thế kỷ trước. Số những người cao tuổi mỗi ngày mỗi gia tăng. Sức khỏe người già có khá hơn nhờ các cụ biết giữ gìn nếp sống cũng như được cung cấp dịch vụ y tế, thuốc men đầy đủ.

Nhưng một cơ thể lâu đời vẫn có những thay đổi tự nhiên theo chiều đi xuống cộng thêm những bệnh kinh niên, những tai nạn bất ngờ, với hồi phục chậm chạp. Biết bao nhiêu mất mát đã chồng chất lên niên kỷ, những xói mòn làm mong manh thân xác.

Dù vậy nhiều người già vẫn gắng gượng tự lo, chưa muốn phụ thuộc vào các con. Họ cũng có những kiêu hãnh riêng tư, những niềm tự trọng, đôi khi cũng chỉ e ngại “cảnh cha mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày ”. Nhưng sức gắng gượng chỉ có hạn, rồi một ngày nào đó cũng yếu đi. Như căn nhà tranh vách đất trước gió bão, cần được chống đỡ.

Và cũng là lúc con cái phải suy nghĩ, xem ai sẽ là người lãnh trách nhiệm. Chắc phải là người có thiện chí, có điều kiện, khả năng và hoàn cảnh thuận tiện.

Phục vụ thân nhân cao tuổi là một vinh dự cho con cái đồng thời cũng là vấn đề quan trọng của nhiều xã hội hiện nay. Tại Hoa Kỳ hiện nay có tới cả 40 triệu người cung cấp chăm sóc không lương cho cha mẹ già. Sự chăm sóc này ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều lãnh vực khác. Sẽ có nhiều người vắng mặt ở sở hoặc đi làm trễ; sẽ có dùng nhiều điên thoại để lấy hẹn bác sĩ, gọi mua thuốc. Nhiều nhân viên tới sở than phiền mỏi mệt mất ngủ. Tai nạn tại chỗ dễ sẩy ra. Thay đổi việc làm nhiều hơn. Và số người bị trầm cảm, đau ốm sẽ gia tăng.

Trong thực tế thì có rất ít gia đình đã sửa soạn để sẵn sàng giải quyết việc chăm sóc cha mẹ khi về già. Nhiều việc xẩy đến bất thường, đòi hỏi có quyết định ngay.

Ông bố đang có sức khỏe tốt, đột nhiên bị tai biến não, liệt nửa thân, nằm bất động cần giúp đỡ với nhu cầu căn bản, thiết yếu hàng ngày: ăn uống, tắm rửa, đại tiểu tiện, cho uống thuốc…

Con dâu đang vừa đi làm vừa trông nom bà mẹ chồng, giờ đây con dâu cũng thường đau ốm. Ai là người sẽ lãnh trách nhiệm săn sóc ông bố? Ai sẽ tiếp tay với mình trông nom mẹ chồng?

Theo kinh nghiệm thì dù có nhiều anh chị em, nhưng trách nhiệm chăm sóc không đồng đều chia sẻ khi bố mẹ cần. Có thể là người con gái lớn với cả một bầy con hoặc cô út chưa đi ở riêng, hoặc nàng dâu nhà ở gần bố mẹ. Đôi khi là cậu con trai cưng. Nhưng thường ra thì chỉ có một người đóng vai chính, thường xuyên.

Nói như vậy không có nghĩa lã không có chia sẻ về tài chánh, về công việc chăm sóc mà qua người này mọi việc được giáo phó, phối hợp và thông báo cho người khác khi cần. Một tiểu gia đình cộng thêm hai cụ thân sinh. Thế hệ người chăm nuôi được ví như thế hệ của một chiếc “ bánh mì kẹp chả” , với trách nhiệm làm cha mẹ, bổn phận làm con và đời sống riêng tư của mình.

Nói đến người săn sóc thường thường là ta nghĩ đến vai trò của người phụ nữ: con gái, con dâu, chị em, cháu. Theo kết quả thăm dò tại Hoa Kỳ, cứ 10 người chăm sóc thì 6 người là con gái hoặc con dâu. Cũng chẳng ai hiểu tại sao. Có lẽ đó là thiên chức của họ sinh ra với những nét dịu dàng, nhậy cảm, những quan tâm, linh động, nhất là đức tính hy sinh, nhẫn nại, thông cảm để chăm sóc chồng con, bố mẹ. Điều đó cũng đúng vì việc tề gia nội trợ, việc chăm sóc nâng niu thì cũng hiếm đàn ông làm hơn quý bà được.

Cho nên khi một bà cụ khoe “tôi ở với con trai” thì thực ra phải hiểu là bà cụ đang ở với con dâu mới công bằng, chính xác. Đàn ông cũng làm được công việc đó nhưng tổng quát hơn, sắp đặt nhiều hơn là đi vào chi tiết. Mà những chi tiết mới là điều mà người phụ thuộc cần và quan trọng đối với họ.

Người đàn bà có chín tháng mười ngày sửa soạn để đón chào đứa con ra đời, nhưng họ không có một phần mười thời gian đó để sẵn sàng cho trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ .Vì sự việc xẩy ra không lường trước.

Vả lại, nuôi con là thấy mỗi ngày chúng vươn ra khỏi vòng phụ thuộc, còn nuôi bố mẹ già thì nhu cầu giúp đỡ mỗi ngày mỗi tăng, mỗi đi sâu vào sự lệ thuộc. Nhiều người như bơi lội quay cuồng trong vai trò mới của mình. Kinh nghiệm chưa có, làm sao học được cách thức điều dưỡng trong vài ngày. Tài chánh giới hạn. Sức khỏe kém. Công việc trở ngại. Ngoài việc làm kiếm gạo, mỗi ngày cũng phải dành ra vài giờ cho việc săn sóc. Họ cảm thấy cô đơn, buồn chán, nhiều khi bực bội, bất mãn, tuyệt vọng. Không còn riêng tư cho mình. Tương lai như ngưng lại. Họ mủi lòng cho người thân, người mà bạn đường đã sớm bỏ ra đi, sức khỏe đang hao mòn và biết rằng đang là gánh nặng cho con cháu.

Tình nghĩa gia đình, lòng hiếu thảo, mặc cảm chịu ơn là những hỗ trợ để người chăm sóc tiếp tục. Họ nghĩ là có bổn phận phải chăm sóc cha mẹ như cha mẹ đã nuôi nấng, trìu mến họ.

Tuy nhiên dù có cứng nhưng cũng có ngày ngả nghiêng trước gió táp. Những chia xẻ trách nhiệm, những giúp đỡ từ anh chị em, thân nhân đã tới lúc cần có vì việc chăm sóc là trách nhiệm chung của cả gia đình.

Thường thì một người tình nguyện chăm sóc thường xuyên. Còn người khác phụ giúp khi được yêu cầu hay khi có cơ hội thuận tiện. Sắp xếp sao để tránh khỏi một người bị kiệt sức. Hoặc đưa tới bất hòa giữa anh chị em. Một người mẹ có thể chăm sóc cả bầy con mười đứa, nhưng khi cha mẹ già thì mười đứa con không chăm sóc được một mẹ. Kể cũng éo le, tội nghiệp.

Sau một thời gian cố gắng, người chăm nom bắt đầu có những dấu hiệu khó khăn. Đôi khi họ cố tình gạt bỏ những nhu cầu riêng, quên những đau ốm cá nhân để lo cho người thân yêu. Có người từ chối sự tiếp tay của anh chị em hoặc bạn bè, nhóm hội. Họ cứ nghĩ có đủ sức làm mọi việc và nếu nhận sự tiếp tay là thú nhận thất bại, kém khả năng. Có người cho là chỉ có mình mới chăm sóc chu đáo, không tin ở người khác.

Để rồi kiệt sức, ngã bệnh. Thử tưởng tượng một người không có sức khỏe dồi dào, săn sóc một người không khỏe lắm, thì chắc kết quả cũng chẳng được mấy hoàn hảo, như ý muốn của đôi bên.

Theo mấy ông bà thống kê thì người cống hiến chăm sóc bị cao huyết áp gấp đôi người khác, 91% bị trầm cảm, bốn lần bực bội, cau có hơn người nhận. Họ bất mãn vì đã cố gắng hết mình mà tình trạng người thân mỗi ngày mỗi suy kém, nên họ phải cố gắng hơn trong việc chăm sóc. Họ có cảm tưởng như mình là người duy nhất có thể trông nom chu đáo được cho người thân, luôn luôn e ngại rằng sự săn sóc của anh chị em sẽ làm cha mẹ già suy yếu hơn.

Đôi khi họ thấy không có được một thì giờ dành cho mình, một chút riêng tư với chồng con. Rồi tính tình thay đổi, hay cau có, bực tức, giận dỗi vu vơ; cảm thấy khó chịu với người mình đang trông nom, đã chẳng chịu hợp tác lại còn bướng bỉnh, đòi hỏi.

Lâu lâu họ thấy trong người mệt mỏi, ngủ không được. Nhiều sáng họ sợ không dám thức dậy, sợ phải đương đầu với những thường lệ mỗi ngày lại diễn ra.

Ngoài ra, dịch vụ chăm sóc cũng gây trở ngại cho công việc làm ăn, cho đời sống giao tế hàng ngày. Và đôi khi họ không còn thấy vui vẻ kiêu hãnh về trách nhiệm của mình, hoặc cảm thấy tội lỗi về những ý nghĩ không tốt của mình đối với người thân.

Rồi một lúc nào đó ngã bệnh, buông xuôi…

…Để tiếp tục chăm lo cho mẹ, Vân đã dành cho bản thân chị một vài chăm sóc, nhân nhượng. Vân đã như nghe thấy từng thớ thịt kêu gào với Vân, “cho tôi nghỉ chút xíu chứ, bạn đã sử dụng quá sức lao động của tôi để phục vụ bà cụ rồi đó”!

Vân đã sẵn sàng, dễ dãi tiếp nhận sự giúp đỡ của anh chị em.

Cô Lan ơi, tuần sau lên đón mẹ về với em, đỡ hộ chị mươi ngày nhé, anh chị định đi xả hơi ngoài biển.

Anh Hoan ơi, bác sĩ nói mẹ cần uống thêm sữa đậu nành, hay là anh nói với chị làm hộ em mỗi tuần vài lít nhé.

Chị đã xen kẽ xả hơi và chăm sóc để duy trì sinh lực, lấy lại nhiệt tâm. Dạo này Vân để ý đến ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hơn. Ngày nào chị cũng dành 15 phút để vận động cơ thể.

Nàng lo nhất là bị rối loạn giấc ngủ. Ban đêm nhiều khi Vân phải thức dậy giúp đưa mẹ vào phòng tắm, lấy miếng nước, viên thuốc cho mẹ. Vân biết là mất ngủ sẽ mau đưa tới nhiều tiêu hao tinh thần thể xác.

Chị cũng đã nghĩ đến một ngày nào đó phải cần đến sự giúp đỡ của các dịch vụ chăm sóc người già của chính phủ, của các tổ chức trong cộng đồng, tôn giáo, xã hội, những nhóm hỗ trợ tư nhân, trung tâm chăm sóc ban ngày. Các dịch vụ này có sẵn tại mỗi địa phương lớn nhỏ tại Hoa Kỳ.

Nhưng quan trọng nhất vẫn là nói chuyện với anh chị em. Để phân chia công việc săn sóc, phụng dưỡng người mẹ cô đơn được chu đáo trong những năm tháng còn lại của Mẹ…

Vì:

“ Mẹ già như chuối chín cây”.

Rụng lúc nào, không biết.

Cũng như Cha đã về nguồn cách đây mấy năm.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

www.bsnguyenyduc.com

Tác giả: Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

Tui nói dân mình còn dễ bị lừa lắm bà con à!

Tui nói dân mình còn dễ bị lừa lắm bà con à!

“Định mệnh của dân tộc nó nằm ở chổ ấy, người ta chỉ coi lời khen là góp ý, là yêu quê hương, đất nước; còn lại mở miệng ra phản biện hay chê bai là đều bị ghép vô thành phần suy thoái hết”.

FB Nhân Thế Hoàng

23-07-2015

Hôm qua có một bạn du khách tới Huế, sau khi ăn ở quán cơm Âm Phủ (quán này cũng dạng vừa vừa ở Huế thôi), bạn ấy post cái hoá đơn tính tiền lên facebook và bảo rằng quán này chặt chém quá. Cái hoá đơn bạn ấy đưa ra bảo chủ quán chặt chém là ở các món ăn thịt heo luộc 90k/đĩa/vài lát thịt heo, gà kho xả 200k/đĩa/gà công nghiệp, còn lại thì cháo hay bò húc, cô ca đều đúng giá thị trường, tức là 25k/1 tô cháo, và 13k/lon bò húc, cô ca.

Bạn ấy post quán chặt chém là đúng, nhưng do xúc động quá nên bạn ấy lôi cả Huế vào để chửi, thế là dân Huế phản đòn. Bảo ăn có 400k/người mà chê đắt, sao không ăn cơm sinh viên hay cơm từ thiện cho nó rẻ, đi du lịch mà tiếc tiền này nọ, 11 người ăn hơn có 4 triệu bạc mà còn kêu ca.

Vấn đề ở đây là bên đưa ra nói trâu, còn bên phản đòn lại nói bò. Người ta bảo là đĩa thịt heo lèo tèo vài lát mà tính 90k, mấy miếng gà công nghiệp kho mà tính 1 đĩa 200k, bên phản đòn thì lôi bò húc, cô ca bảo rằng 13k một lon mà còn kêu mắc gì nữa.

Thế nên tui nghĩ cuộc tranh luận này sẽ khó có hồi kết vì không ai hiểu rõ được bản chất của vấn đề cả. Quán nó đâu ngu mà đi chặt chém vô mấy cái mà người ta biết rõ giá như cô ca hay bò húc, nếu chặt thì tất nhiên nó sẽ chặt chém vô mấy món gà hay thịt heo, những thứ mà người ta khó định lượng được. Cũng như đất nước này vậy, nó chặt chém dân qua thuế phí, qua nợ công, qua tham nhũng mà dân cũng có biết cái đxx gì đâu, còn đời đời nhớ ơn, rồi ai phản biện thì lại bảo là phản động, hay không thích thì đi chỗ khác mà sống…

Định mệnh của dân tộc nó nằm ở chổ ấy, người ta chỉ coi lời khen là góp ý, là yêu quê hương, đất nước; còn lại mở miệng ra phản biện hay chê bai là đều bị ghép vô thành phần suy thoái hết.

Nền giáo dục xã nghĩa nó tạo ra những sản phẩm có thể nói là không gì định nghĩa được, cái tôi bản thân đã làm người ta quyết hơn thua trong việc tranh luận; người ta chỉ nghĩ đơn giản là số đông hùa theo mình thì có nghĩa là mình đúng, nhưng nên nhớ là số đông hiện tại nó bầy đàn và không não nhiều lắm.

Đường còn dài và xa lắm, các bạn xứ lừa ạ!!!

Desiderata: Một áng văn “lời hay ý đẹp”

Desiderata: Một áng văn “lời hay ý đẹp”

Đoàn Thanh Liêm giới thiệu

Max Ehrmann (1872-1945)

Trước năm 1975, ở Saigon tôi có dịp được đọc bản văn tiếng Anh mà có nhan đề bằng tiếng la tinh là “Desiderata” có nghĩa là “ Những điều mong ước”. Đây là một “bài thơ không vần” (poeme en prose) như người Pháp thường nói. Lời văn rất súc tích, gọn gàng, chứa đựng những lời khuyên nhủ rất thân tình, cụ thể và thẳng thắn. Tôi đã chép bài đó vào một cuốn vở. Nhưng lâu ngày hóa ra lạc mất. Nay cũng lại nhờ có internet, mà tôi đã tìm ra được, không những nguyên tác bản văn, mà còn cả nhiều chuyện ngộ nghĩnh xung quanh áng văn có thể được xếp vào lọai “bất hủ “ này nữa. Tôi xin đính kèm trong Phần Phụ Lục của bài này cả bản dịch tòan văn và cả nguyên tác bằng Anh ngữ nữa.

Xin trích dẫn vài đọan tiêu biểu như sau :

“ Hãy giữ bình thản tự tại ở giữa sự ồn ào vội vã, và nhớ đến sự an bình trong trạng thái thinh lặng”. “Bạn là một người con của vũ trụ này, không thua kém gì so với cây cối và tinh tú; bạn có quyền được có mặt nơi đây.” “Hãy vui thú với những thành tựu cũng như các dự án của bạn.” “ Hãy tránh xa người hay ồn ào lớn tiếng và hay gây hấn ; họ là lọai người hay gây phiền nhiễu cho tinh thần.” “Bạn cũng đừng nên hòai nghi yếm thế về tình yêu, bởi lẽ đối mặt với tất cả sự khô cằn và vỡ mộng, thì tình yêu vẫn tồn tại miên viễn như cây cỏ.” …

Tác giả bài thơ này là Max Ehrmann (1872-1945). Ông sinh tại thành phố Terre Haute, tiểu bang Indiana. Sau thời gian ngắn hành nghề luật sư, thì ông về nhà chuyên viết văn, làm thơ. Bài Desiderata này được suy đóan là được viết vào năm 1927, lúc ông đã được 55 tuổi. Nhưng phải đến giữa thập niên 1960, thì bài thơ mới được công chúng say mê ưa chuộng và phổ biến khá rộng rãi.

Có hai lý do khiến gây ra sự chú ý của công luận. Thứ nhất là nhờ người bạn thân thiết của vị Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc là Adlai Stevenson, vừa mới mất tại London vào năm 1965, thì có khám phá ra được là ông đại sứ để trong phòng làm việc riêng của mình một bản văn của bài thơ Desiderata này, mà ông dự định sẽ cho in vào trong tấm Thiệp Noel sắp tới để gửi cho các bạn hữu của ông. Mẩu tin này càng khiến cho công luận chú ý đến bài thơ.

Còn một lý do khác nữa, đó là không hiểu vì sao mà lại có một ấn bản khác của bài thơ lại ghi là “Được tìm thấy tại Nhà thờ cổ St Paul năm 1692”. Công chúng thắc mắc, vì ngôn từ tiếng Anh của bài thơ này là của thời hiện đại, chứ không thể là từ thế kỷ 17 được. Và qua các vụ tranh tụng trước Tòa án, cũng như bút chiến trên báo chí, thì gián tiếp càng làm cho công chúng chú ý hơn đến bài thơ này hơn nữa.

Nhiều bà mẹ đã đọc cho con cái nghe bài thơ, đến nỗi các cháu đều thuộc làu. Ngay cả đến cháu bé mới có 3 tuổi, mà đã vanh vách đọc lớn tiếng tòan bộ bài thơ, mặc dầu cháu chưa hề biết đọc được chữ viết.

Bạn đọc muốn biết thêm chi tiết nữa, thì xin cứ mở internet qua Google hay Yahoo, thì sẽ thấy tài liệu rất đày đủ, phong phú và chính xác liên hệ đến bài thơ “Desiderata này.

Người viết rất vui mừng được giới thiệu với các độc giả người Việt thêm một áng văn nổi danh khác nữa trong kho tàng văn học hiện nay của nước Mỹ.

California, Tháng Năm 2009

Đoàn thanh Liêm

Phụ Lục

Desiderata (1927)

by Max Ehrmann

Bản dịch : Đòan Thanh Liêm(2009)

Hãy giữ bình thản tự tại ở giữa sự ồn ào vội vã, và nên nhớ đến sự an bình có được trong trạng thái thinh lặng.

Hãy đối xử thuận thảo với mọi người, trong chừng mực tối đa có thể được mà không phải là sự đầu hàng.

Hãy nói sự thật của bạn một cách ôn tồn và rõ ràng; và lắng nghe mọi người khác, kể cả người ngu đần, dốt nát; họ đều có câu chuyện của họ.

Hãy tránh xa người hay ồn ào lớn tiếng và thích gây hấn; họ là lọai người gây phiền nhiễu cho tinh thần.

Nếu bạn mà so sánh mình với các người khác, thì bạn có thể đâm ra kiêu ngạo hay cay cú, bởi lẽ luôn luôn có người hơn hay kẻ kém so với chính bản thân bạn. Hãy vui thích với những thành tựu và dự án của bạn.

Hãy chú trọng đến nghề nghiệp riêng tư của bạn, mặc dù nó khiêm tốn đến mấy; bởi vì đó mới đích thực là sở hữu của riêng bạn giữa sự thăng trầm của thế sự.

Hãy thận trọng trong công việc làm ăn, vì thế giới đày dãy những lừa lọc dối trá Nhưng cũng đừng nên tự bịt mắt mình trước điều nhân đức; bởi lẽ vẫn có nhiều người tranh đấu vì lý tưởng cao cả, và bất cứ ở đâu thì cuộc sống cũng đày dãy lòng dũng cảm.

Hãy đích thực là mình. Đặc biệt không nên giả vờ tỏ ra sự âu yếm.

Mà cũng đừng nên hòai nghi yếm thế về tình yêu, bởi lẽ đối mặt với tất cả sự khô cằn và vỡ mộng, thì tình yêu vẫn tồn tại miên viễn như cây cỏ.

Hãy lịch lãm nghe theo lời khuyên của các bậc cao niên, và biết duyên dáng nhường bước cho tuổi trẻ.

Hãy bồi dưỡng sức mạnh tâm trí để che chắn cho bạn trong lúc họan nạn.

Nhưng đừng gây phiền muộn cho mình với những tưởng tượng đen tối.

Nhiều nỗi sợ hãi phát xuất từ sự mệt nhọc và nỗi cô đơn.

Vượt lên trên cả kỷ luật lành mạnh, hãy lịch sự nhỏ nhẹ với chính mình.

Bạn là một người con của vũ trụ này, không thua kém gì so với cây cối và tinh tú; bạn có quyền được có mặt nơi đây.

Và dù tỏ tường hay không rõ rệt đối với bạn, chắc chắn là vũ trụ này phải tỏ lộ ra cho con người.

Bởi vậy, hãy hòa hõan với Thượng Đế, dù bạn quan niệm Ngài bất kể như thế nào.

Và bất kể sự vất vả và ước vọng của bạn ra sao trong cái hỗn độn ồn ào của cuộc sống, bạn hãy ráng giữ được sự an bình trong tâm hồn.

Với tất cả nỗi nhục nhằn, vất vả, và giấc mộng đổ vỡ, thì thế giới này vẫn là tuyệt diệu.

Hãy vui lên. Hãy phấn đấu để mà được sống hạnh phúc.

Desiderata

(something desired as essential)

Go placidly amid the noise and the haste, and remember what peace there may be in silence.

As far as possible, without surrender, be on good terms with all persons.

Speak your truth quietly and clearly; and listen to the dull and ignorant; they too have their story.

Avoid loud and aggressive persons; they are vexations to the spirit.

If you compare yourself with others, you may become vain or bitter, for always there will be greater and lesser persons than yourself.

Enjoy your achievements as well as your plans.

Keep interested in your career, however humble; it is a real possession in the changing fortunes of time.

Exercise caution in your business affairs, for the world is full of trickery.

But let this not blind you to what virtue there is; many persons strive for high ideals and everywhere life is full of heroism.

Be yourself. Especially do not feign affection.

Neither be cynical about love; for in the face of all aridity and disenchantment, it is as perennial as the grass.

Take kindly the counsel of the years, gracefully surrendering the things of youth.

Nurture strength of spirit to shield you in sudden misfortune.

But do not distress yourself with imaginings.

Many fears are born of fatigue and loneliness.

Beyond a wholesome discipline be gentle to yourself.

You are a child of the universe, no less than the trees and the stars and you have a right to be here.

And whether or not it is clear to you, no doubt the universe is unfolding as it should.

Therefore, be at peace with God, whatever you conceive Him to be.

And whatever your labours and aspirations, in the noisy confusion of life, keep peace with your soul.

With all its sham, drudgery and broken dreams, it is still a beautiful world.

Be cheerful. Strive to be happy.

Max Ehrmannn, 1927

Hội Nghị lần thứ năm về biển Đông tại CSIS ở Washington

Hội Nghị lần thứ năm về biển Đông tại CSIS ở Washington

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-07-22

07222015-the-fifth-ann-csis-sshi-sea-confer.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Từ trái tiến sĩ Trần Trường Thuỷ, tiến sĩ Wu Shicun, cố vấn cấp cao Châu Á Bonie Glasser, tiến sĩ Scott Kennedy và  ký giả BBC Bill Hayton tại CSIS ngày 21 tháng 7, 2015

Từ trái tiến sĩ Trần Trường Thuỷ, tiến sĩ Wu Shicun, cố vấn cấp cao Châu Á Bonie Glasser, tiến sĩ Scott Kennedy và ký giả BBC Bill Hayton tại CSIS ngày 21 tháng 7, 2015

RFA

Hội Nghị về biển Nam Trung Hoa, diễn ra hôm thứ Ba tại CSIS Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế ở Washington, sau khi Trung Quốc tiếp tục kế hoạch đắp đảo và lấn biển trong lúc các nước lân bang cũng như Hoa Kỳ lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh giữ nguyên trạng khu vực đồng thời tôn trọng Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển.

Đây là hội nghị lần thứ năm về biển Nam Trung Hoa, Việt Nam gọi là biển Đông, nơi Trung Quốc vạch đường lưỡi bò 9 khúc để giành phần lớn chủ quyền, có Hoàng Sa đã bị Hoa Lục chiếm giữ, có Trường Sa với nhiều đảo đã bị Bắc Kinh nắm quyền kiểm soát.

Trung Quốc gây căng thẳng ở biển Đông

Trung Quốc làm cho tình hình biển Nam Trung Hoa trở nên căng thẳng khi trong mấy tháng qua ráo riết cho bồi đắp cũng như xây dựng trên các bãi đá mà một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, từng khẳng định chủ quyền của mình.

Đây là đề tài bao trùm, được trình bày nhằm làm mạnh thêm chứng cứ hoặc chống đỡ cho việc làm của Trung Quốc trên biển Nam Trung Hoa. Đó là các thuyết trình viên đến từ nhiều nơi như ký giả Bill Hayton đài BBC, bà Bonnie Glaser, cố vấn cao cấp về Châu Á trong Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế CSIS, tiến sĩ Wu Shicun chủ nhiệm Học Viện Quốc Gia Về Biển Nam Trung Hoa, tiến Sĩ Trần Trường Thủy giám đốc điều hành Cơ Quan Nghiên Cứu Biển Đông của Việt Nam, tiến sĩ Jay Batongbacal giám đốc Học Viện Hàng Hải Và Luật Biển của Philippines, tiến sĩ Sienho Yee Viện Công Pháp Quốc Tế đại học Vũ Hán của Trung Quốc, tiến sĩ Phạm Lan Dung trưởng khoa Luật Quốc Tế Học viện Ngoại Giao Việt Nam.

“ Theo nhận định của cá nhân tôi thì tôi thấy các lập luận của các học giả Trung Quốc về mặt Luật Quốc Tế vẫn còn chưa được chặt chẽ lắm và đôi khi có thể là họ, không biết vô tình hay cố tình, cũng đưa vào đấy những yếu tố mà nó cũng chưa thật là chính xác lắm

Tiến sĩ Phạm Lan Dung”

Trong vài phút trả lời đài Á Châu Tự Do, tiến sĩ Phạm Lan Dung nhận định:

Cái mà tôi nhận xét là nếu trước kia Trung Quốc không đề cập nhiều đến những khía cạnh pháp lý trong các lập luận của mình thì gần đây trong các hội thảo, trong các trao đổi học thuật thì các học giả Trung Quốc đã bắt đầu tập trung hơn về những khía cạnh của Luật Quốc Tế và Luật Biển Quốc Tế. Đấy cũng là điểm tích cực khi họ quan tâm những vấn đề về luật, tuy nhiên theo nhận định của cá nhân tôi thì tôi thấy các lập luận của các học giả Trung Quốc về mặt Luật Quốc Tế vẫn còn chưa được chặt chẽ lắm và đôi khi có thể là họ, không biết vô tình hay cố tình, cũng đưa vào đấy những yếu tố mà nó cũng chưa thật là chính xác lắm.

Về tầm quan trọng và cần thiết về Hội Nghị Thường Niên Biển Nam Trung Hoa mà Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế CSIS đứng ra tổ chức, cố vấn hành đầu của Trung Tâm, bà Bonnie Glaser:

Rằng hội nghị thật hữu ích trong nghĩa là những người tham dự bỏ công tìm tòi, nghiên cứu, đặc biệt trưng bày những hình ảnh chụp được bằng vệ tính, để công bố cho mọi người thấy điều gì đang xảy ra, từ đó cùng nhau thảo luận để tìm kiếm giải pháp, đưa ra những đề nghị làm thế nào giảm bớt tình trạng căng thẳng. Cần nói không phải tất cả mọi ý kiến đều đến từ phía các chính phủ mà điểm chính là các học giả cũng có vai trò và tiếng nói nhất định của họ.

Một chiến lược thử thách mới của Trung Quốc

Hội nghị có cái hay là mời gọi được mọi giới từ mọi phía, bà Bonnie Glaser nói tiếp, một số là đại diện của phía tranh giành chủ quyền, một số khác không nằm trong diện đòi chủ quyền nhưng có sự quan tâm sâu sắc đến tình hình an ninh và ổn định trên biển Nam Trung Hoa.

Nhắc lại ngôn từ “game changer” mà thuyết trình viên Việt Nam, tiến sĩ Trần Trường Thủy, viện đến trong bài nói chuyện của ông, cố vấn cao cấp Bonnie Glaser của CSIS nói rằng bà hiểu và đồng ý rằng tiến sĩ Trần Trường Thủy đã sử dụng rất đúng ngôn từ đó để bàn đến hành động bành trướng biển đảo của Trung Quốc, tạo một mối thử thách mới nhưng cốt lõi và căn bản đối với sự ổn định và hòa bình trong khu vực.

“ Việt Nam phải thực hiện, dù không muốn ra mặt chống lại Trung Quốc, nhưng phải có một bước pháp lý cụ thể như mọi người mong đợi và đó là điều Việt Nam cần phải quyết định dứt khoát

Theo bà Bonnie Glaser của CSIS”

Vẫn theo lời bà, điều Việt Nam phải thực hiện, dù không muốn ra mặt chống lại Trung Quốc, nhưng phải có một bước pháp lý cụ thể như mọi người mong đợi và đó là điều Việt Nam cần phải quyết định dứt khoát.

Ngỏ lời với Đài Á Châu Tự Do sau khi đã kết thúc phần nói chuyện của mình, tiến sĩ Trần Trường Thủy, giám đốc điều hành Cơ Quan Nghiên Cứu Biển Đông của Việt Nam:

Tôi nghĩ nó rất quan trọng ở góc độ là tiếp tục đưa được vấn đề Biển Đông để cho thế giới quan tâm mà nhất là phia Mỹ, và qua đấy có thể anh hưởng đến công luận nói chung, ảnh hưởng đến giới nghiên cứu cũng như giới hoạch định chính sách, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách của các nước và thực tế qua đấy gởi tín hiệu đến các bên liên quan, nhất là Trung Quốc, phải có hoạt động phủ hợp với lợi ích của cộng đồng quốc tề nói chung.

Hội nghị thường niên lần năm về biển Nam Trung Hoa kéo dài từ sáng đến chiều, có phần diễn văn đúc kết với những lời khuyến cáo nghiêm khắc từ các học giả hoặc chính khách Mỹ như giáo sư John Norton Moore giám đốc Trung Tâm Luật Và Chính Sách Biển thuộc phân khoa Luật đại học Luật Virginia, dân biểu Randy Forbes, chủ tịch tiểu ban chuyên trách biển và cũng là chủ tịch ủy ban quân vụ trong hạ viện Hoa Kỳ.

Vào giờ trưa trong các diễn giả có mặt ông Daniel Russel Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á – Thái Bình Dương. Trả lời một học giả đến từ Trung Quốc ông Daniel Russel khẳng định rằng Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong tranh chấp này, tuy nhiên sự không ngã về bên nào ấy chỉ có ý nghĩa đứng giữa trước các bên tranh chấp, tuyệt nhiên không phải là đứng hẳn bên ngoài nhìn sự tranh chấp diễn ra.

Ông Daniel Russel cho biết Hoa Kỳ mong muốn các tranh cãi phải được giải quyết bằng các giải pháp ngoại giao và dựa trên luật pháp quốc tế. Hoa Kỳ không chấp nhận bất cứ sự hăm dọa hay cưỡng ép nào giữa một nước này đối với nước khác.

Ông Daniel Russel cũng nhắc lại việc bồi đắp các đảo mà Trung Quốc đã và đang tiến hành là hành động trái phép ở Biển Đông và điều đáng lo ngại hơn là Trung Quốc tiến hành việc bồi đắp, xây dựng này với tốc độ nhanh chưa từng thấy.

Thanh Trúc tường trình từ Washington.

Những Tín Hiệu Gửi Từ Kon Tum

Những Tín Hiệu Gửi Từ Kon Tum

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien

RFA

Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.

Lý Hồng Xuân

Kon Tum và Pleiku, nhìn trên bản đồ, giống y như hai thành phố (chị em) nằm kề cạnh bên nhau. Tuy thế, “đường tình duyên” của hai “kiều nữ” này lại không chạy song song mà đi theo chiều hoàn toàn trái ngược.

Kon Tum tựa một cô gái không mặn mà nhan sắc. Thiên hạ chỉ biết đến có mỗi em Pleiku má đỏ môi hồng (thôi) theo như cách tán tụng của Phạm Duy, qua thơ của Vũ Hữu Định:

Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn

Anh khách lạ đi lên đi xuống

May mà có em đời còn dễ thương

Em Pleiku má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông

Nên mắt em ướt và tóc em ướt

Nên em hiền như mây chiều trong

Xin cảm ơn thành phố có em

Xin cảm ơn một mái tóc mềm

Mai xa lắc trên đồn biên giới

Còn một chút gì để nhớ để quên

Pleiku còn được cả nước “nhớ mãi” qua hai câu thơ của Bút Tre:

Anh đi công tác Pờ-lây

Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra

Kon Tum không có cái duyên tương tự với thơ văn nên dù phố núi cũng cao, phố xá cũng gần (và chắc chắn cũng có vô số những mái tóc rất mềm) nhưng vì thiếu bước chân của thi nhân nên … chả khiến ai nhớ thương, hay bâng khuâng gì ráo trọi.

Có người mới chỉ nghe tên địa danh Kon Tum (lần đầu) qua “Bài Giảng Mùa Chay” của linh mục Nguyễn Văn Đông, tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, vào ngày 4 tháng 3 năm 2001 :

“ Tôi xin tự hào khoe rằng, xứ tôi phụ trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân tộc đông nhất, có nhiều đồng bào từ khắp mọi miền về nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất và nghèo nhất.”

Người cùi ở Kontum. Ảnh: Kontum Missionary and Friendship

Không chỉ là nơi “nghèo nhất,” Kon Tum còn là nơi bệnh nhân phong cùi đông nhất – và bị quên lãng một cách tệ hại nhất, giữa núi rừng heo hút – vẫn theo như lời của linh mục Nguyễn Văn Đông:

“Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên ngay cái nhà họ ở đã không ra cái gì, giờ thì lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng, chỉ một mùa mưa đã nát. Mỗi lần đến thăm họ, tôi phải cúi đầu lom khom mới vào ‘nhà’ họ được. Thấy tôi đến họ mừng lắm anh chị em à. Họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm. Họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi.”

Kon Tum còn khiến cho thiên hạ ứa nước mắt, hay “sửng sốt” (theo như nguyên văn cách dùng chữ của phóng viên VnExpress) vì cách qua sông của cư dân ở địa phương này:

“Nhớ lại, hồi tháng 5 năm 2010, chúng ta cũng từng sửng sốt khi báo chí đăng tải hình ảnh những người dân ở một làng không tên tại Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vượt sông Pô Kô bằng cách… đu dây.”

Đưa con đến trường. Ảnh: Tuổi Trẻ

Học sinh vượt sông Pô Kô. Ảnh: Tuổi Trẻ

Và mới đây, Kon Tum vừa “bị” tất cả các cơ quan truyền thông trong nước nhắc đến với rất nhiều … phẫn nộ:

– “Bắt Ba Đối Tượng Ném Đá Xe Khách” – Báo Nhân Dân 2/7/2015

– “Sẽ Khởi Tố Các Đối Tượng Ném Đá Vào Xe Khách Ở Kon Tum” –  Báo Tiền Phong 3/07/2015.

– “Phó Thủ Tướng Yêu Cầu Xử Nghiêm Những Vụ Ném Đá Xe Khách” – Báo Pháp Luật 3/07/2015.

– “Kon Tum: Kiên Quyết Làm Rõ Vụ Việc Và Xử Lý Nghiêm Các Đối Tượng Có Hành Vi Ném Đá Vào Xe Ôtô Khách”  – Tin Tây Nguyên 04/07/2015.

Riêng báo Giao Thông, tiếng nói của BGTVT, còn có bản tin (“Công An Mật Phục Bắt Gọn 5 Đối Tượng Chuyên Ném Đá Xe Khách”) đọc cứ như là chuyện phim trinh thám vậy:

Công an huyện Đăk Glei đã chỉ đạo, bố trí lực lượng mật phục, xác minh các đối tượng khả nghi. Qua đó, Công an huyện Đăk Glei đã xác định được 5 đối tượng là A Huấn (SN:2001), A Dũng (SN 2000), A Tùng (SN 2001), A Mười (SN 1999), A Khê (SN 2002) đều trú tại thôn Brông Mỹ, xã Đăk Môn khả nghi nhất. Qua đấu tranh, 5 đối tượng này đã khai nhận hành vi ném đá vào xe khách rạng sáng 1/6 sau khi đã uống rượu.

Ảnh: Báo Lao Động

Tôi xem tên tuổi, và hình ảnh sáu “đối tượng” mà lực lượng công an Kon Tum đã “bố trí lực lượng mật phục” để “bắt gọn” mà không nén được một tiếng … thở dài! Tất cả đều là những trẻ em bản địa, và trông hoàn toàn không có vẻ gì dính dáng đến rượu chè cả. Vóc dáng còi cọc của các em cũng khiến tôi ta chợt nhớ ra rằng Kon Tum là một trong 16 địa phương đã nộp đơn xin chính quyền trung ương cung cấp gạo cứu đói hồi đầu năm nay, năm 2015.

Thống kê (năm 2012) của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Kon Tum cho biết:

Toàn tỉnh  có 183.148 trẻ em trong độ tuổi từ 0-16 tuổi, chiếm 39,7% tổng dân số; trong đó khoảng 25.643 em có hoàn cảnh đặc biệt (2.037 em khuyết tật, tàn tật; 2.169 em mồ côi không nơi nương tựa; 1.147 em bị tai nạn thương tích; hàng trăm em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị bệnh hiểm nghèo…). Ngoài ra còn có trên 80.000 em sống trong diện hộ nghèo, hộ cận nghèo… cần được quan tâm, hỗ trợ về mọi mặt.

Thảo nào mà ở Kon Tum tệ đoan xã hội và trộm cắp … như rươi – theo như tổng kết tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh trong phiên họp (vào ngày 3 tháng 7 năm 2015) vừa rồi của ngành công an:

Qua 15 ngày đã phát hiện 22 vụ phạm pháp, trong đó giết người 02 vụ, cố ý gây thương tích 03 vụ, trộm cắp tài sản 11 vụ, cưỡng đoạt tài sản 01 vụ, trộm cắp + cưỡng đoạt tài sản 01, vận chuyển lâm sản trái phép 01 vụ, mua bán tàng trữ trái phép chất ma túy 03 vụ,… Cơ quan cảnh sát điều tra các cấp đã khởi tố 26 vụ – 34 bị can, hoàn thành hồ sơ chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố 10 vụ – 20 bị can. Qua công tác bắt giam giữ, các lực lượng nghiệp vụ đã bắt 16 đối tượng (trong đó bắt tạm giam 10, bắt quả tang 05, bắt khẩn cấp 01), bắt và vận động đầu thú 07 đối tượng có Quyết định truy nã.

Nhà Rông Kon Tum năm 1898. Nguồn Ảnh: kontumquetoi

Kon Tum (nói riêng) hay Tây Nguyên (nói chung) không băng rã và tan nát qua đêm. Cũng không phải trong một sớm một chiều mà mảnh đất này (bỗng dưng) biến thành một nơi “lý tưởng” cho tội phạm sát nhân, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, vận chuyển lâm sản trái phép, hay mua bán tàng trữ chất ma túy … Nhà văn Nguyên Ngọc đã lên tiếng cảnh báo về những bất ổn trong cách “phát triển” của Tây Nguyên tự lâu rồi:

1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…

2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…

3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.

4. Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.

5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.

Nhà Thờ Gỗ Kon Tum năm 1967. Nguồn Ảnh: kontumquetoi

Tuy thế, trong phiên họp của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Kon Tum (kỳ họp lần thứ 10, khóa X, nhiệm kỳ 2011-2016, tổ chức vào hai ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2015) không một giới chức nào lên tiếng về chuyện thiếu đói, tệ trạng xã hội, và những mất mát cùng thua thiệt của sắc dân bản địa tại đây. Chỉ có mỗi “Vấn Đề Ném Đá Xe Khách Làm ‘Nóng’ Kỳ Họp HĐND Tỉnh Kon Tum” mà thôi – theo như cách đưa tin của Thông Tấn Xã Việt Nam:

Tại kỳ họp này, vấn đề ném đá xe khách được nhiều đại biểu quan tâm vì trong 2 tháng qua, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ ném đá lên các phương tiện giao thông ở 4 huyện, thành phố trong tỉnh gồm Đăk Glei, Đăk Tô, Đăk Hà và thành phố Kon Tum.

Tại kỳ họp, các đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh đều khẳng định việc ném đá trên là hành vi nguy hiểm cần được ngăn chặn. Các vụ ném đá đã gây tâm lý bất an đối với lái xe và hành khách đi trên xe, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn…

Truyền thông, báo chí nhà nước, cũng như  Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh đều đồng tình làm ngơ trước những vấn nạn đau lòng của Kon Tum. Từ trung ương, Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng chỉ “yêu cầu phải xử lý nghiêm những vụ ném đá xe khách” chứ không bận tâm đến bất cứ chuyện gì khác nữa.

Sự vô tâm này chỉ mang lại cho mọi người sự an lòng nhất thời và giả tạo. Rồi ra, tất cả chúng ta – Kinh cũng như Thượng – sẽ phải trả giá rất không rẻ vì thái độ “giả ngây” này.

Đã có những biến động lớn ở Tây Nguyên vào năm 2001, 2004, và ở Mường Nhé năm 2011. Sẽ còn nhiều biến động khác nữa, trong tương lai gần, khi những tín hiệu gửi đi (bằng đá) từ những vùng đất này không được “giải mã” một cách nghiêm trang, và đứng đắn.

Ngày 9 tháng 7 vừa qua, báo Giáo Dục lại vừa loan tin nóng: “Trung Quốc Rót Tiền Cho Campuchia Làm Đường Đến Biên Giới Giáp Việt Nam.” Khi bị gạt ra bên rìa cuộc sống, và “buộc phải lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình” thì người ta không chỉ cầm đá mà còn sẵn sàng cầm súng, nếu có. Và vũ khí – từ nước lạ, nay mai – rất có thể sẽ được tuồn vào Tây Nguyên, theo biên giới phía Tây.

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

Bằng cách này hay cách khác, chắc chắn, “Bọn bành trướng Bắc Kinh” cũng sẽ tìm cách “tràn sang” lần nữa. Dù vậy, “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng “sai lầm” tệ hại hơn!

Xót xa chuyện dân mình học sử

Xót xa chuyện dân mình học sử

Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.

Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.

Cao Huy Huân

21.07.2015

Mấy bữa nay báo chí và dư luận Việt Nam sôi nổi lên tiếng về việc nhiều em học sinh, thậm chí là các bạn thanh niên, khi được hỏi về Nguyễn Huệ (lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung), đã trả lời Nguyễn Huệ và Quang Trung là… hai anh em; hai bố con. Có em còn hồn nhiên cho là  “Quang Trung là tên hiệu của…Trần Quốc Tuấn”. Không ai xem đoạn clip mà không khỏi bàng hoàng, chỉ biết “cười ra nước mắt”. Đoạn clip phỏng vấn chỉ chừng chục em, nhưng gần như 100% các em đều trả lời sai một cách thậm tệ. Nếu các nhà báo phỏng vấn thêm vài chục, vài trăm em nữa, có lẽ dân mình cũng không có đủ nước mắt để… cười.

Tiên trách kỷ hậu trách nhân

Dư luận chẳng nên phí công bàn tán, thảo luận và “truy tìm” người chịu trách nhiệm. Có người trách các bạn trẻ bây giờ quá vô tâm, vô tình, học hành không đến nơi đến chốn. Nhưng thiết nghĩ “tiên trách kỷ”, tức trách nhiệm phải quy về việc giáo dục, dạy bảo con người. “Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em; hay hai cha con; hay hai đồng chí, đồng đội với nhau” chính là tác hại của một nền giáo dục nhồi nhét, nhồi nhét và nhồi nhét vô tội vạ.

Báo chí, chuyên gia, dư luận đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực và phát biểu để cảnh báo vấn nạn học thuộc lòng, học vẹt, học cho có nhiều chữ trong bụng (chứ không phải có sự nhạy cảm về kiến thức, biết tiếp thu đúng đắn kho tàng tri thức của thế giới) trong nền giáo dục Việt Nam. Rõ ràng các em được học về Quang Trung-Nguyễn Huệ từ tiểu học, rồi cấp hai và cuối cùng là cấp ba. Đó là chưa kể hàng loạt các hoạt động ngoại khóa, thi cử…liên quan đến cái tên Quang Trung-Nguyễn Huệ. Các em “được” học nhiều là thế, được dạy nhiều là thế để rồi trả lời sai đến bất ngờ, hay “không biết” khiến người thấy phải ái ngại, xót xa cho nhiều thế hệ trẻ chỉ biết gồng gánh trên vai chiếc cặp nặng trĩu sách vở, còn cái đầu thì… trống rỗng.

Ngồi bàn giấy soạn lịch sử

Tôi không nói ngoa. Nếu hỏi mấy em về Tần Thủy Hoàng, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Lý Thế Dân hay các phim cổ trang Trung Quốc, không chừng các em còn thuộc lòng và nhớ rõ hơn rất nhiều so với “thảm kịch” môn lịch sử mà chúng ta chứng kiến. Nghĩ đến đây, lòng đã cay đắng càng thấy cay đắng hơn.

Nhưng đã nói đi thì cũng phải nói lại. Tại sao dân Việt lại rành lịch sử Trung Quốc đến thế? Tại sao nhiều thanh niên ngày càng rành về văn hóa Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… thay vì những nét văn hóa “đậm chất truyền thống” nhưng hoàn toàn có khả năng hội nhập của Việt Nam? Đơn giản là vì những quyển sách được biên soạn ra, phần nhiều hướng các em đến việc học kiến thức chứ không phải truyền thụ đam mê. Hãy nhìn cách các em soạn đề cương và học thuộc lòng thâu đêm trước ngày thi; hãy nhìn cách kiểm tra miệng trước lớp dù là học sinh tiểu học hay học sinh trung học phổ thông; hay đơn giản hơn, hãy nhìn những đề kiểm tra theo kiểu “hãy nêu lại các mốc lịch sử của cuộc chiến tranh chống Xiêm, chống Thanh”… Tất cả chẳng gì ngoài học vẹt.

Tôi nhớ có khi học sinh học mãi không thuộc, đành chấp nhận điểm zero dù em có khả năng nhìn ý nghĩa của câu chuyện lịch sử theo một cách nhìn độc đáo và đậm chất sáng tạo nhưng không sai lệch. Tôi nhớ những ngày bạn bè tôi phải khổ sở viết chi chít chữ nghĩa vào các tờ giấy, lên cả tay, chân hay lên cả đùi thông tin ngày tháng năm sinh của Quang Trung và thời gian những cuộc chiến của vị anh hùng dân tộc này diễn ra. Tôi nhớ cảnh các em học sinh phổ thông khi nhận tin “không thi tốt nghiệp môn sử” đã thẳng tay vứt hết sách sử ra ngoài cửa sổ, bất chấp những thứ mà các em được dạy là lòng tự hào dân tộc, yêu thương tổ quốc.

Cái mà các em học sinh cần ở môn sử, chính là sự kích thích tính tò mò, tính thỏa mãn thông tin phù hợp với bối cảnh các em đang sống (chứ không phải kiến thức chung chung chỉ để học thuộc lòng). Cái các em cần nữa chính là những bài học cách đây hàng trăm năm nhưng vẫn có ý nghĩa với chính bản thân các em hiện tại. Và các em cũng cần hiểu (chứ không phải thuộc) những dấu son lịch sử để có thể tự mình kể lại cho người khác nghe bằng tâm huyết, lòng tự hào và niềm đam mê. Muốn thế, các em “không cần” những quyển sách chỉ toàn là chữ nghĩa và mang tính khuôn sáo; thay vào đó là những bộ sách giáo khoa nhẹ nhàng về dữ liệu tin nhưng phải rõ ràng về mục tiêu, về ý đồ, về thông tin cần thiết, kết hợp với phương tiện (phim ảnh, bản đồ,…) hỗ trợ thật sự đắc lực cho việc tìm hiểu về một nhân vật hay một sự kiện lịch sử.

Giáo viên sử vẫn rất ì ạch

Nếu một bộ sách khô cứng và nặng phần kiến thức giết chết sự hứng thú của các em, thì một đội ngũ giáo viên dạy sử cũng như những “con vẹt” góp phần dập tắt tất cả niềm hi vọng. Tôi nhớ mãi hình bóng của không ít thầy cô dạy sử gắn liền với cái ghế trên bục giảng, đọc để các em chép và yêu cầu học thuộc lòng. Đó là chưa kể rất nhiều thầy, cô dạy sử quên mất cái thiên chức của họ là truyền tải niềm đam mê, chứ không phải là đọc chép, và kiểm tra. Họ bảo “giáo viên dạy sử nghèo” và tự cho mình cái quyền ít tâm huyết hơn những giáo viên dạy toán, dạy lý, dạy hóa hay dạy tiếng Anh.

Thay vì họ tìm ra những sáng kiến để các em nhỏ thích học sử, thì phần đông giáo viên chấp nhận dừng lại ở chuyện “đọc-chép” không hơn không kém. Để rồi các em học về vua Quang Trung cũng chẳng biết ở đất Sài Gòn, Huế, hay Hà Nội… có nơi nào có đền thờ vua Quang Trung; tầm vóc nhân vật ra sao; tại sao lại tôn vinh nhân vật ấy; hay tại sao vị vua này được cả thế giới nhắc tên. Giáo viên mãi mê trả lời câu hỏi “cái gì?” mà chẳng bao giờ kích thích các em hỏi “tại sao?” hay “như thế nào?” – những câu hỏi gợi mở rất nhiều điều thú vị trong môn sử. Và rồi sản phẩm “học sinh giỏi cấp quốc gia” môn sử cũng chỉ dừng lại ở những em may mắn được trời phú cho một trí nhớ tốt (khi còn trẻ), để rồi dần trở nên mai một và yếu đuối khi về già.

Xin hãy nhìn sang các nước bạn dạy sử để rồi còn học hỏi. Các em học 1 tiết lý thuyết sẽ có 1 tiết thực hành. Đó là khi các em được tự do phát biểu quan điểm, ý kiến của mình về nhân vật hay sự kiện lịch sử để rồi cùng giáo viên thảo luận; Đó là khi các em được nói “em ngưỡng mộ nhân vật lịch sử” nào đó để rồi được giáo viên bồi dưỡng thêm thông tin và cách tiếp cận vấn đề; đó là khi các em được đến các viện bảo tàng để học về chiến tranh lạnh, chiến tranh thế giới, chiến tranh Việt Nam thay vì ngồi trong lớp và học bằng trí tưởng tượng.

Xin những người soạn sách lẫn người giảng dạy hãy thật sự nghiêm túc với môn sử trước khi yêu cầu các em học sinh phải đam mê một môn học đang trở nên đang nhàm chán và khô cứng ở Việt Nam.

Truyền thông nhà nước thiếu tính cách thuyết phục hay bưng bít?

Truyền thông nhà nước thiếu tính cách thuyết phục hay bưng bít?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-07-22

07222015-stae-media-fail-to-persua.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

 

DPA không cải chính vẫn giữ tin đã đưa của mình, nhưng đưa thêm tin Việt Nam bác bỏ tin tướng Thanh đã chết.

DPA không cải chính vẫn giữ tin đã đưa của mình, nhưng đưa thêm tin Việt Nam bác bỏ tin tướng Thanh đã chết.

Screenshot

Truyền thông Nhà nước Việt Nam trong những ngày qua trích phát biểu của các tướng lĩnh trong nước nhằm bác bỏ tin mà hãng thông tấn Đức DPA loan đi hôm chủ nhật 19 tháng 7 cho biết bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh đã qua đời khi đang được chữa bệnh tại Pháp.

Tuy nhiên những người quan tâm hầu như không tin tưởng váo tin tức của báo chí trong nước vì họ cho rằng những bản tin đó thiếu tính thuyết phục.

Báo chí chính thống không đáp ứng nhu cầu thông tin của dân!

Tin tức về tình hình bệnh tật của hai vị quan chức Việt Nam trong thời gian gần đây là ông nguyên trưởng ban nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh vào đầu năm và bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh trong những ngày qua đều do các trang mạng loan tải trước. Sau đó hệ thống truyền thông trong nước mới vào cuộc nhằm bác bỏ những tin tức loan truyền trên các mạng xã hội.

Về vấn đề đưa tin của hệ thống truyền thông chính thống mà thống kê nói hiện lên đến chừng 800 đơn vị trong nước được nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng nhận xét như sau:

“ Cách đưa tin là đưa tin lừa dối ví dụ như vụ ở Cẩm Giàng xe ủi đè lên người dân mà từ chính quyền đến công an đều bai bãi chối không có chuyện đó. Hay vụ chặt cây ở Hà Nội vô cùng nghiêm trọng tàn phá môi trường mà nói là việc rất nhỏ và báo chí không đưa sự thật, toàn đứng về phía chính quyền để bưng bít thông tin, che giấu sự thật.

Thành ra bây giờ thông tin mạng, thông tin lề dân thắng thế là do đó tức báo chí chính thống, báo chí lề đảng đã bỏ trận địa, bỏ vị trí của mình là thông tin trung thực; cho nên người dân không chờ đợi, không đọc tin của chính thống nữa mà bắt buộc người ta phải tìm đến thông tin mạng. Và thông tin mạng vừa trung thực, vừa nhanh mà báo chí chính thống bao giờ cũng chậm. Bây giờ báo chí chính thống thua toàn diện đối với thông tin lề dân rồi.”

Nhà báo Phạm Thành, người trước kia cũng từng tham gia hệ thống truyền thông Nhà nước, có cùng đánh giá như của nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng về cách thức đưa tin của báo chí chính thống ở Việt Nam như sau:

“ Bây giờ thông tin mạng, thông tin lề dân thắng thế là do đó tức báo chí chính thống, báo chí lề đảng đã bỏ trận địa, bỏ vị trí của mình là thông tin trung thực; cho nên người dân không chờ đợi, không đọc tin của chính thống nữa mà bắt buộc người ta phải tìm đến thông tin mạng

Nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng”

“ Báo chí chính thống Việt Nam có thể trả lời ngay là không đáp ứng được nhu cầu thông tin của người dân đâu.

Cách đưa tin về ông Phùng Quang Thanh mất cũng giống hệt như những vụ họ đưa tin về những nhân vật trọng yếu bị tử nạn hay bị bệnh hay vì một nguyên nhân nào đó. Họ đưa tin một cách mập mờ và tất nhiên có chủ đích của họ. Họ đưa tin theo một kịch bản nào đó đã soạn sẵn, tính toán sẵn để đưa lên chứ hoàn toàn không đưa tin theo sự thật. Đó là căn bệnh trầm kha của các chế độ cộng sản nói chung và chế độc cộng sản Việt Nam nói riêng. Họ đưa tin như vậy thôi. Có thể nhìn lại vụ ông Nguyễn Bá Thanh chẳng hạn: ông ấy chết rồi mà mấy ông ở Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương như ông Nguyễn Quốc Triệu, Phạm Gia Khải vần cứ nói anh ấy đã chữa bệnh, đã khỏe lên, đã ăn cháo, đã đi lại, thậm chí còn trích cả lời của anh Thanh ‘tôi vẫn khỏe, có chi mô!’. Nhưng thực ra một thời gian ngắn sau thì đưa xác ông về và chôn.

Họ cứ đưa tin có chủ đích, có lợi cho họ thôi chứ không tôn trọng sự thật. Họ không đi tìm hiểu đích thực sự việc để đưa. Tóm lại họ vẫn nói dối và xuyên tạc sự thật. Nên nhớ trong giáo trình của đảng dạy cho tất cả những người làm công tác tuyên truyền, dạy cho tất cả các đảng viên già hay trẻ câu nằm lòng như thế này ‘nói sai mà có lợi cho đảng thì được nói, và phải nói, nói nhiều còn nói đúng mà có hại cho đảng thì không được nói’.”

Linh mục An tôn Lê Ngọc Thanh, người lâu nay cũng tham gia làm báo ngoài hệ thống Nhà nước nói về cách thức đưa tin lâu nay của truyền thông ‘chính thống’ của Việt Nam:

“ Thật ra cách làm báo của Việt Nam chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu của dân thông tin chính xác về ông đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng trong thực tế phải thấy rằng họ không thể làm khác được vì mọi sự của họ đăng gì, không đăng những gì liên quan đến những vị ở cấp bậc bộ trưởng trở lên phải được Bộ Chính trị cho phép; tức phải được chính Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo trực tiếp và thậm chí đưa ra bài mẫu để họ dựa trên đó họ viết; chứ họ không thể thu thập nguồn thông tin độc lập hoặc có nguồn thông tin độc lập để có thể cung cấp cho dân chúng. Đây là tình trạng mà chúng ta nhớ xảy ra ở kỳ đổi tiền cách đây 30 năm: đêm hôm trước còn nói không đổi tiền mà sáng hôm sau đổi tiền! Họ cứ đổ thừa đó là do việc của Ban Tuyên giáo chỉ đạo như vậy và họ là báo công cụ nên làm như vậy.

Do vậy dân chúng cũng không nên kỳ vọng gì nơi báo chí lề đảng cả bởi vì thực tế nó chỉ làm công việc tuyên truyền và công cụ của nhà cầm quyền mà thôi.”

Thiếu tính thuyết phục

Trong vụ việc của bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh hiện nay báo chí trong nước trích dẫn phát biểu của phó tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, trung tướng Võ Văn Tuấn, cũng như của tướng về hưu Nguyễn Quốc Thước. Trung tướng Võ Văn Tuấn thì khẳng định sức khỏe của ông Phùng Quang Thanh đã hồi phục và cuối tháng 7 này sẽ về nước. Tướng Võ Văn Tuấn còn được báo chí trong nước trích dẫn nói là hãng tin đức DPA có tiếp xúc với Bộ Quốc Phòng Việt Nam để xin lỗi về bản tin ông Phùng Quang Thanh đã chết. Còn tướng Nguyễn Quốc Thước được trích dẫn nói có nói chuyện trực tiếp qua điện thoại với với thư ký của ông ta khi có ông ngồi bên cạnh.

“ Nên nhớ trong giáo trình của đảng dạy cho tất cả những người làm công tác tuyên truyền, dạy cho tất cả các đảng viên già hay trẻ câu nằm lòng như thế này “nói sai mà có lợi cho đảng thì được nói, và phải nói, nói nhiều còn nói đúng mà có hại cho đảng thì không được nói”

Nhà báo Phạm Thành”

Tuy nhiên những người quan tâm trong nước đều nêu thắc mắc tại sao lại không có một hình ảnh nào của ông Phùng Quang Thanh đưa lên truyền thông để chứng minh cho các phát biểu là ông đã hồi phục sau khi phẫu thuật khối u ở phổi tại một bệnh viện bên Pháp.

Nhà báo Phạm Thành nói về điều này:

“ Trong khi họ nói ông này vừa mổ ( xong), rồi ngồi dậy nói chuyện mà không đưa ra một hình ảnh: vật chứng cụ thể chứng tỏ ông Thanh vẫn còn đang sống trên đời này. Như tướng Thước nói vừa gọi điện nói chuyện với thư ký và có ông Thanh bên cạnh; đó là một cách nói mà không đưa ra được bằng chứng cụ thể ông Thanh đang ngồi đây, đang sống ở đây!”

Sự thật không thể che dấu

Theo linh mục Lê Ngọc Thanh thì trong hệ thống báo chí Nhà nước cũng có một số nhà báo có tấm lòng và họ cũng tìm cách để đưa thông tin sự thật đến cho phía gọi là ‘lề trái’, tức ngoài hệ thống của Nhà nước.

Nhà báo Phạm Thành thì cho rằng những cách đối phó lâu nay của truyền thông chính thống trước những tin tức bị phanh phui sẽ không thể nào hữu hiệu bởi sự thật thì không bao giờ có thể che giấu.

Hầu hết những người được chúng tôi nêu câu hỏi về tình hình báo chí trong nước đều cho rằng trong xu thế bùng nổ thông tin trên mạng Internet hiện nay thì việc bưng bít thông tin và tuyên truyền như cũ là phản tác dụng. Nhiều người dân ngày càng trưởng thảnh hơn khi đón nhận được những thông tin sự thật được đưa ra từ các trang mạng xã hội.