Phụ nữ VN bị từ chối nhập cảnh Singapore: Người Việt nghĩ gì?

Phụ nữ VN bị từ chối nhập cảnh Singapore: Người Việt nghĩ gì?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-07-29

Phụ nữ VN bị từ chối nhập cảnh Singapore: Người Việt nghĩ gì? Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

nhapcanhsin-4e552-622.jpg

Khu vực làm thủ tục nhập cảnh tại sân bay quốc tế Changi ở Singapore.

Courtesy photo

Your browser does not support the audio element.

Truyền thông trong nước đăng tải thông tin hàng trăm nữ du khách từ VN bị từ chối nhập cảnh vào Singapore gây thiệt hại cho ngành hàng không trong nước. VN đề nghị Singapore giải thích vì sao cấm nhập cảnh một số du khách Việt. Cơ quan Kiểm soát người nhập cư (ICA) của đảo quốc Sư tử vừa trả lời với lý do không đủ tiêu chuẩn nhập cảnh. Người Việt trong và ngoài nước nói gì về hiện trạng này?

“Con sâu làm sầu nồi canh”

Chia sẻ với đài ACTD về chuyến du lịch xuất ngoại đầu tiên với thân nhân ở Mỹ tháp tùng từ Sài Gòn đến Singapore hồi tháng 2 năm 2011, cô Mỹ Linh vẫn còn cảm giác không có thiện cảm với nhân viên hải quan ở sân bay Changi:

” Lúc vào trình giấy tờ thì cô hải quan xem giấy tờ của em rất lạnh lùng. Cô yêu cầu em xuất trình passport và vé máy bay nhưng sau đó cô nói ‘giấy CMND’ bằng tiếng Anh. Em hơi ngạc nhiên tại vì em không hiểu đi ra nước ngoài thì tại sao phải cần có giấy CMND VN.
-Cô Mỹ Linh”

“Lúc vào trình giấy tờ thì cô hải quan xem giấy tờ của em rất lạnh lùng. Cô yêu cầu em xuất trình passport và vé máy bay nhưng sau đó cô nói ‘giấy CMND’ bằng tiếng Anh. Em hơi ngạc nhiên tại vì em không hiểu đi ra nước ngoài thì tại sao phải cần có giấy CMND VN. Em hỏi lại thì cô nói bằng tiếng Việt chữ ‘CMND’. Cô chỉ nói 4 chữ như vậy thôi. Dù em có giải thích nhưng cô vẫn không trả lời và vẫn giữ nét mặt lạnh lùng, vẫn khẳng định em phải có giấy CMND còn không thì em cứ bị đứng đó hoài, không được cho qua”.

Cô Mỹ Linh cho biết thêm người thân ở Hoa Kỳ đang xếp hàng chờ tới lượt phải bước đến quầy hải quan, đưa ra hộ chiếu Mỹ cũng như trình bày lịch trình chuyến du lịch của gia đình thì cô mới được đóng dấu cho phép nhập cảnh.

Câu chuyện vừa rồi không phải là trường hợp cá biệt mà tình trạng nhiều du khách quốc tịch VN, đặc biệt là phụ nữ, bị tra hỏi ở quầy hải quan, bị đưa vào phòng thẩm vấn, phải chờ đợi hàng giờ đồng hồ và cuối cùng bị từ chối nhập cảnh vào Singapore đã diễn ra trong nhiều năm qua. Mới đây nhất, dư luận phản ứng mạnh mẽ khi truyền thông trong nước loan tin Hàng không VN bị thiệt hại nặng nề vì phải cấp vé khứ hồi cho hàng trăm hành khách nữ giới mà phía Singapore không cho nhập cảnh và còn tính phí qua đêm khi khách buộc phải nghỉ lại phi trường của nước sở tại.

Nhiều ý kiến cho rằng “con sâu làm sầu nồi canh” do chính sách miễn thị thực visa của Singapore đối với các nước trong khối ASEAN, tối đa một lần nhập cảnh 30 ngày nên có rất nhiều phụ nữ từ VN sang đảo quốc Sư tử lợi dụng đi du lịch để làm việc bất hợp pháp và phần đông trong số họ hành nghề mại dâm. Những cô gái Việt qua Singapore bán dâm phần lớn đi một mình được sự hướng dẫn bằng điện thoại từ Geylang. Một phụ nữ từ Thanh Hóa nói với đài ACTD về hành trình cô đến Singapore:

1_mdrj-400.jpg

Khu vực chờ tái xuất cảnh tại sân bay quốc tế Changi ở Singapore. Courtesy photo.

“Nhà em ngoài Bắc thì làm lúa làm rẫy, trồng mía, trồng trà, làm ruộng. Thấy bạn đi về nhiều tiền nên ham. Nó nói cho số điện thoại bên đây, vé thì nó đặt giùm, cứ tự ra sân bay tự đi. Cũng sợ lắm nhưng kệ, đi tới đâu thì điện thoại dẫn tới đấy”.

Ông Hòa Trần, kỹ sư hàng hải, người Mỹ gốc Việt đi công tác và du lịch nhiều lần ở Singapore kể lại những gì ông thấy được qua những chuyến đi gần nhất:

“2006, 2008, 2014 tôi quay lại thì thấy số lượng ngày càng nhiều. Có thể con đường Joo Chiat Road và khu Geylang thì người Việt chiếm trên 50%. Chính tài xế taxi người Singapore cũng nói là ‘con gái Việt ở đây rẻ lắm và rất dễ’. Khi xuống phố đường Orchard Road ở gần khu thương mại có những phố, những club thì phụ nữ Việt rất đông. Nếu nhắm chừng khoảng 40% đến 50% bên cạnh người Philippines và người Thái Lan. Những người Việt làm nghề tự do đứng ở các con phố khu Geylang rất đông. Có cảm giác phụ nữ Việt qua đây làm đủ nghề từ mại dâm, móc túi cho đến bất cứ nghề nào kiếm sống được nên không thể trách chính phủ Singapore đã khó khăn với những người Việt, đặc biệt là phụ nữ”.

Phẫn nộ trước cách xử sự của ICA

” 2006, 2008, 2014 tôi quay lại thì thấy số lượng ngày càng nhiều. Có thể con đường Joo Chiat Road và khu Geylang thì người Việt chiếm trên 50%. Chính tài xế taxi người Singapore cũng nói là ‘con gái Việt ở đây rẻ lắm và rất dễ’.
-Hòa Trần”

Mặc dù nhiều người đồng tình vì nguyên nhân phụ nữ VN hành nghề mại dâm nên Singapore không khuyến khích cho nhập cảnh vì không mang lại lợi ích gì cho đất nước của họ mà còn tạo ra nhiều tệ nạn xã hội nhưng vẫn có nhiều ý kiến phẫn nộ trước cách xử sự của Cục Xuất nhập cảnh Singapore (ICA). Nhiều người Việt trong nước vì lòng tự tôn dân tộc kêu gọi chính phủ VN phải đáp trả bằng hình thức hạn chế nhập cảnh đối với người Singapore cũng như hô hào người Việt tẩy chay không đi du lịch đến đảo quốc Sư tử nữa.

Trong khi trên các diễn đàn đưa ra những ý kiến tranh luận xoay quanh chia sẻ về nhiều trường hợp bị nhân viên viên hải quan Singapore tra hỏi, thẩm vấn kể cả nam giới hay đối với người lớn tuổi dù đi công tác hay thăm thân nhân làm việc hợp pháp ở quốc gia này thì hôm 23 tháng 7, VN chính thức yêu cầu Singapore giải thích lý do cấm nhập cảnh đối với một số du khách quốc tịch VN. Một tuần sau đó, vào ngày 28 tháng 7, Cơ quan kiểm soát người nhập cư (ICA) của Singapore hồi đáp với lý do không hội đủ tiêu chuẩn nhập cảnh. Báo Straits Times của Singapore ghi lại lời tuyên bố của phát ngôn viên ICA cho biết nhân viên hải quan của ICA có quyền cho phép hay không đối với những ai không hội đủ tiêu chuẩn vào Singapore, nhấn mạnh là không có việc một du khách trong khối ASEAN đương nhiên được tự động nhập cảnh mà không tuân thủ những quy định của Singapore. ICA cũng nói luật lệ áp dụng chung cho mọi quốc tịch và giới tính, không chỉ từ chối nhập cảnh đối với phụ nữ Việt Nam mà còn có phụ nữ Thái Lan cũng như Philippines.

Nhiều người Việt trong nước không chấp nhận lời giải thích của Cục Xuất nhập cảnh Singapore. Họ lý luận ICA cư xử một cách quá đà đối với du khách Việt và giải pháp nhằm giảm thiểu những người vi phạm pháp luật tiềm năng ở Singapore ngay tại cửa khẩu như vậy không phải là một giải pháp tốt. Tuy nhiên, đối với những người Việt sinh sống ở hải ngoại như kỹ sư hàng hải Hòa Trần lại cho rằng sự việc hàng trăm phụ nữ Việt bị từ chối nhập cảnh vào Singapore phản ảnh nhân phẩm của con cháu Hai Bà Trưng bị rẻ rúng ở các quốc gia lân bang trong khu vực Đông Nam Á. Không chỉ thế, hình ảnh người Việt xả rác, ăn cắp, trốn lại làm việc bất hợp pháp ở những quốc gia Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ qua đường du lịch khiến cho hầu hết những người cầm hộ chiếu VN đều bị “soi” rất kỹ khi ra nước ngoài. Câu hỏi “tại sao như vậy?” cần được chính phủ VN trả lời cho người dân được rõ.

Nước cờ sai lầm đẩy TQ phải đối đầu với đối thủ mạnh truyền kiếp?

Nước cờ sai lầm đẩy TQ phải đối đầu với đối thủ mạnh truyền kiếp?

Lê Ngọc Thống

“… một quốc gia giàu có chỉ là nhất thời, mạnh về quân sự mới là vĩnh viễn. Giàu mà không mạnh thì bị đe dọa hay trấn lột bất cứ lúc nào. Chỉ có sức mạnh quân sự của quốc gia mới bảo đảm tính ổn định, bền vững và phát triển của nền kinh tế”. Từ nhận định rất chính xác của tác giả Lê Ngọc Thống, người đọc có quyền đặt câu hỏi, vậy thì một quốc gia nghèo (do năng lực quản trị kém và tham nhũng xếp vào top đầu) mà lại yếu toàn thân về tiềm lực quân sự thì số phận sẽ ra sao khi mà các nhà lãnh đạo vẫn kiên trì quan điểm “Việt Nam không liên minh, liên kết, đồng minh với nước nào, không dùng nước thứ 3 để chống lại nước khác?”. Không nói đâu xa, ngay trong khu vực Đông Á, những nền  kinh tế hùng mạnh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, từ lâu đã là đồng minh thận cận của Mỹ. Bởi lẽ, các nhà lãnh đạo của họ là những chính trị gia có tầm nhìn thấu thị, thấy rõ bản chất ngông cuồng của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Họ đọc vị một cách dễ dàng dã tâm của các “Hoàng đế Đỏ” qua nhiều dự án phiêu lưu để độc chiếm Biển Đông, nhằm từng bước thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, nên đã tăng cường củng cố quốc phòng, trang bị thêm nhiều vũ khí hiện đại, sẵn sàng đáp trả hành vi gây hấn của Bắc Kinh.
Thế nhưng, Việt Nam vẫn cứ lửng lơ con cá vàng “kiên trì” nghệ thuật đi dây để khỏi làm mất lòng “thượng quốc”. Có lẽ hiểu được tâm lý này, Trung Nam Hải cũng chơi trò bẩn bằng cách, gần đây, cứ mỗi lần một nhân vật vip láng giềng “môi hở răng lạnh” sang thăm, họ lại cử Lục Tiểu Linh Đồng, nhân vật từng đóng vai con khỉ trong bộ phim Tây Du Ký ra thù tiếp.

Tuy nhiên, “Thiên triều” đang rơi vào thế kẹt. Ngoài cú sốc ba ngàn sáu trăm tỷ USD chứng khoán “bốc hơi” chỉ trong vòng hơn một tháng làm dân chúng bất an,  thì hiện tại họ Tập còn bị búa rìu dư luận toàn cầu lên án mạnh mẽ về hành vi hút cát xây đảo, kiến tạo các công trình quân sự trái phép trên Biển Đông và thiết lập vùng nhận diện bay…

Một nền kinh tế tăng trưởng nóng bằng mọi giá tất yếu sẽ phải trả giá, mà cái giá đắt nhất là khắc phục môi trường đã bị hủy nặng nề.. Ta chỉ cần hình dung, vào buổi sáng một ngày u ám vì khói bụi nào đó, người ta phát hiện ra mười sáu ngàn con lợn tai xanh trương phềnh, trôi nổi trên sông Hoàng Phố thì khủng khiếp biết nhường nào!

Liên minh quân sự với Hoa Kỳ, Nhật Bản lúc này là điều kiện sống còn đối với Việt Nam. Hãy dũng cảm đoạn tuyệt thứ ý thức hệ cổ hủ, lỗi thời từ lâu đã trói chặt đầu óc chúng ta trong vòng kim cô “Mười sáu chữ vàng” và “Bốn tốt”, bởi chính những khẩu hiệu hão huyền đó chẳng những làm cho đất nước tụt hậu, mà chưa biết chừng còn là nguyên nhân mất nước nữa.

Bauxite Việt Nam

Sự nôn nóng cùng dã tâm “nuốt trọn” Biển Đông đã khiến Bắc Kinh mù quáng và vô hình trung tự tay “tháo xích” cho đối thủ truyền kiếp đầy sức mạnh – Nhật Bản.

Nước cờ sai lầm đẩy TQ phải đối đầu với đối thủ mạnh truyền kiếp?

Diễn biến mới nhất ở Biển Đông

Luật An ninh mới của Nhật Bản đã chứng tỏ Lực lượng phòng vệ nước này giờ đây có tính chất và tầm vóc của một cường quốc quân sự.

Họ, quân đội Nhật Bản, có thể tác chiến bất cứ nơi đâu, với bất cứ ai khi an ninh của Nhật Bản, của đồng minh, bạn bè của Nhật Bản bị tấn công, đe dọa…

Được coi như một “mũi tên đã lắp vào nỏ” thì Sách trắng quốc phòng Nhật Bản năm 2015 đã chỉ rõ “đích” mà mũi tên hướng đến.

Trung Quốc lo ngại, phản đối quyết liệt khi cho rằng, đây là hành động trỗi dậy của “chủ nghĩa quân phiệt Nhật”. Nhưng ngược lại, khu vực châu Á-Thái Bình Dương lại không có thái độ như vậy với sự trỗi dậy, thay đổi của nước Nhật.

Trong tương lai, quân đội Nhật Bản có thể chủ động tham chiến ở nước ngoài dưới sự ra lệnh từ chính Thủ tướng.

Nước cờ chiến lược sai lầm của Trung Quốc

  1. Lấy nước sau dùng làm nước đi đầu, tạo điều kiện cho Nhật Bản trỗi dậy

Kể từ năm 2010, khi GDP của Trung Quốc chính thức vượt Nhật Bản cũng là lúc tranh chấp quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) cũng được Bắc Kinh đẩy lên nấc thang cuối của cuộc xung đột.

Thực ra, quần đảo này, về địa chính trị, quân sự và kinh tế đối với Trung Quốc không đến mức vì nó mà sẵn sàng xung đột, chiến tranh với liên minh hùng mạnh Mỹ-Nhật Bản.

Nhưng chủ nghĩa dân tộc như một con dao hai lưỡi, quá lạm dụng thì như “cưỡi trên lưng hổ” cho bất cứ chính phủ nào.

Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của nó, vì thế, chuyến “ra khơi” đầu tiên để thâu tóm Biển Đông lại bị “mắc cạn” tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.

Đây là một sai lầm tai hại của Trung Quốc mà từ đó, làm nên chiến thắng vang dội của đảng Dân chủ Tự do (LPD), đưa ông Shinzo Abe – một người được Mỹ ủng hộ – lên làm Thủ tướng Nhật Bản.

 

Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc vô tình thúc đẩy việc “cởi trói” Nhật Bản. Ảnh: Kyodo News.

Vụ tranh chấp với Bắc Kinh về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vừa qua, Nhật Bản đã rút ra 2 bài học giá trị từ chính Trung Quốc.

Một là, một quốc gia giàu có chỉ là nhất thời, mạnh về quân sự mới là vĩnh viễn. Giàu mà không mạnh thì bị đe dọa hay trấn lột bất cứ lúc nào. Chỉ có sức mạnh quân sự của quốc gia mới bảo đảm tính ổn định, bền vững và phát triển của nền kinh tế.

Hai là, mối hận thù dân tộc của Trung Quốc với Nhật Bản chưa bao giờ mờ phai. Nhật Bản luôn bị Trung Quốc coi là mối “quốc nhục” 100 năm chưa trả hận.

Đảng LPD cầm quyền của ông Shinzo Abe thừa nhận thức sâu sắc 2 bài học này và quyết tâm tái vũ trang, xây dựng một sức mạnh quân sự đủ sức răn đe Trung Quốc, đề phòng liên minh Mỹ-Nhật không có giá trị.

Thực hiện quyết tâm này, về mặt kỹ thuật thì không mấy khó khăn với Nhật Bản khi nước này có một nền công nghiệp tiên tiến hiện đại bậc nhất thế giới.

Tàu ngầm, máy bay, tàu chiến, tên lửa… nói chung là những thứ vũ khí trang bị hiện đại, Nhật Bản muốn là họ tự sản xuất chế tạo.

Tuy nhiên, khó khăn nhất với chính phủ của ông Abe là cơ chế, cụ thể là “điều 9 Hiến pháp” đã trói buộc, mà muốn xóa bỏ nó thì tác động của bên ngoài mang yếu tố quyết định.

Trung Quốc đã làm rất tốt vai trò tác động này khi biến mình là nguyên nhân duy nhất, nguy hiểm nhất buộc Nhật Bản phải lựa chọn.

Chỉ chưa đầy 2 năm với từng bước đi cụ thể, chính phủ của ông Shinzo Abe đã có những cách giải thích về “điều 9 Hiến pháp”, tiến tới xóa bỏ bằng Luật an ninh mới.

Không rõ Trung Quốc đi nước cờ sai lầm ở Senkaku/Điếu Ngư hay là Nhật Bản, chỉ biết Mỹ đã lợi dụng Senkaku/Điếu Ngư để “cởi trói” Tokyo, cho phép Nhật Bản tham gia sâu, trực tiếp vào cấu trúc an ninh Tây Thái Bình Dương.

Nhưng, điều mà Trung Quốc không muốn, không bao giờ muốn là đối đầu với Nhật Bản tại Biển Đông bất cứ hình thức nào, thì nó đã và đang đến.

 

HỘI ĐỒNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI (CFR), MỸ

Sheila Smith

Vấn đề không chỉ nằm ở những tranh chấp lãnh thổ, mà thực chất lý do lớn nhất khiến quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản sẽ khó có thể cải thiện là sự mất lòng tin lẫn nhau, sự ngờ vực của một bên đối với các tham vọng trong khu vực của bên còn lại.

Biển Đông, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng cảnh báo: “Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường”.

Trong khi đó, sự trùng hợp “lạnh sống lưng” giữa Trung Quốc và Nhật Bản là tuyến hàng hải trên Biển Đông đều là “đường sinh mạng”.

Cho nên, dễ hiểu là, Biển Đông chứ không phải là Senkaku/Điếu Ngư mới là “chiến trường chính” của cuộc đối đầu Trung-Nhật vì tính chiến lược sống còn của đôi bên trên đó.

Rõ ràng Trung Quốc đã đi sai nước cờ khi phải đối đầu với một đối thủ mạnh, truyền kiếp quá sớm là Nhật Bản mà nguy cơ “bị loại khỏi vòng bảng” đang ám ảnh bởi “lời nguyền từ Nhật Bản” không phải là điều không thể.

Hạ viện Nhật thông qua dự luật an ninh mới là một thành công lớn của Nội các Thủ tướng Abe (giữa). (Ảnh: AP)

2.Từ bỏ sách lược “giấu mình chờ thời”

Phải khẳng định chắc chắn dã tâm của Bắc Kinh muốn chiếm trọn Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao nhà” là trước sau như một, không bao giờ thay đổi, không sớm thì muộn. Vấn đề là từng giai đoạn, bước đi thực hiện chiến lược này ra sao mà thôi.

Chiến lược thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc, đúng ra phải là nước cờ cuối sau khi đã “đuổi” được Mỹ ra khỏi Đông Nam Á và Tây-Thái Bình Dương.

Điều này vốn được thực hiện bằng “cuộc chiến địa chính trị” mà thời gian đầu khi Trung Quốc đang theo đuổi chiến lược “giấu mình chờ thời” (‘Tao guang yang hui’ Policy) của ông Đặng Tiểu Bình đã tỏ ra rất hiệu quả.

Đáng tiếc, Trung Quốc bị cái tăng trưởng GDP liên tục làm mờ mắt, ảo tưởng sức mạnh của mình và với truyền thống ngạo mạn, bành trướng, Bắc Kinh cho rằng không cần “giấu mình”, muốn “ăn” ngay Biển Đông béo bở mà bất chấp tất cả.

Hành động của Bắc Kinh trong các tuyên bố chủ quyền phi lý, phi pháp và chuẩn bị quân sự để đe dọa sử dụng sức mạnh… đã bộc lộ mục tiêu, ý đồ nguy hiểm nhất quán của họ.

Động thái này đã khiến các quốc gia trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam, Nhật Bản… và kể cả Mỹ phản kháng với một tinh thần “ngay và luôn”.

Như vậy, vội vàng từ bỏ sách lược “giấu mình chờ thời”, Trung Quốc đã phạm sai lầm lớn về xây dựng thế trận.

Thay vì để Biển Đông tạm thời là một vùng đệm chiến lược, mở rộng vòng vây thì Bắc Kinh lại biến nó thành “vùng nóng”, có thể trở thành vùng chiến sự bất cứ lúc nào.

Chính Trung Quốc tự thu hẹp không gian chiến lược của mình.

Nhật Bản có khả năng sát cánh bên Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương trong vai trò một cường quốc quân sự. Điều này đủ khiến Trung Quốc lo sợ? (Ảnh minh họa)

Tại sao Trung Quốc phản đối quyết liệt Nhật Bản tuần tra trên Biển Đông?

Thực ra, việc tuần tra trên biển, đại dương đề bảo đảm an toàn, an ninh hàng hải là vấn đề thường xuyên, không có gì ghê gớm của các cường quốc biển như Mỹ. Và tuần tra trên Biển Đông – một tuyến hàng hải rất quan trọng của thế giới – cũng không ngoại lệ.

Tuy nhiên, Trung Quốc lại ngang nhiên tuyên bố Biển Đông là chủ quyền của họ nên không ai được quyền đưa máy bay, tàu chiến vào vùng này.

Hành động “tuần tra” trên vùng biển mà Trung Quốc gọi là “chủ quyền” bị Bắc Kinh “bóp méo” là thách thức, tuyên chiến.

Đó là lý do vì sao Trung Quốc và Mỹ trở nên căng thẳng quyết liệt đến mức mà báo chí Trung Quốc cho rằng “chiến tranh với Mỹ là không thể tránh khỏi…” khi Mỹ đem máy bay, tàu chiến tuần tra trên Biển Đông.

Và đến khi cả Nhật Bản tuyên bố sẽ “tuần tra” trên Biển Đông với sự hậu thuẫn của Philipines khi dùng căn cứ Rubic tiếp tế hậu cần cho Hải quân Nhật Bản thì Trung Quốc “giãy lên như đỉa phải vôi”.

Như vậy, khi Mỹ-Nhật Bản bắt tay “tuần tra” trên Biển Đông thì cán cân so sánh lực lượng ở khu vực Tây Thái Bình Dương mà cụ thể là trên biển Hoa Đông và Biển Đông đã hoàn toàn nghiêng về Mỹ bởi Nhật Bản tham gia vào thế trận với tư cách của một cường quốc kinh tế và quân sự.

Không hồ nghi gì nữa, Tokyo đã sẵn sàng cùng Mỹ tham chiến tại Biển Đông nếu như Trung Quốc có ý đồ chiếm Biển Đông, biến thành “ao nhà”, tức là ngăn chặn, phong tỏa tuyến hàng hải sống còn của Nhật Bản trên vùng biển quốc tế này và đe dọa an ninh Mỹ…

Trước việc “tuần tra” của Mỹ và Nhật Bản trên Biển Đông, Trung Quốc chỉ có thể hoặc là bằng vũ lực, xua đuổi hay đánh đuổi lực lượng tuần tra của Mỹ-Nhật Bản ra khỏi Biển Đông hoặc là tôn trọng luật chơi chung.

Vậy, Trung Quốc chọn lựa thế nào đây?

L.N.T.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Lê Ngọc Thống, Kỹ sư chỉ huy-Hoa tiêu, nguyên sỹ quan Tham mưu Hải quân.

Nguồn:  http://www.baomoi.com/Nuoc-co-sai-lam-day-TQ-phai-doi-dau-voi-doi-thu-manh-truyen-kiep/119/17141553.epi

(Trang này dẫn nguồn từ Đại lộ)

Tướng Thanh – Mỗi Câu Trả Lời Mời Mười Thắc Mắc

Tướng Thanh – Mỗi Câu Trả Lời Mời Mười Thắc Mắc

Việt Báo

Trần Giang

28-07-2015

Đài truyền hình VTV1 vừa cho đăng một đoạn phim ghi cảnh Đại Tướng Phùng Quang Thanh vừa về Việt Nam sau chuyến giải phẫu phổi tại Pháp đã tham dự ngay một buổi “giao lưu nghệ thuật” nhân ngày thương binh liệt sĩ.

Đây là một trong nhiều biện pháp của nhà cầm quyền nhằm trấn an dư luận, kể cả việc loan báo ngày giờ chuyến bay về nước và các chuẩn bị đón tiếp tướng Thanh tại phi trường, các cuộc gặp giữa tướng Thanh và các lãnh tụ đảng trong 24 giờ đầu tiên, các buổi lễ lớn mà tướng Thanh sẽ tham dự ngay trong vài ngày sau khi trở về, v.v…
Nhưng có vẻ như cứ mỗi cố gắng làm xẹp dư luận đó của lãnh đạo đảng lại làm bùng lên hàng chục thắc mắc khác.

Cụ thể như câu hỏi hiển nhiên nhất: Tại sao tướng Thanh bị rút tên ra khỏi các buổi lễ mang nặng ý nghĩa khác dù đã công bố rồi, mà chỉ được tham dự một buổi gọi là “giao lưu nghệ thuật”? Và tại buổi tôn vinh thương binh liệt sĩ này, tức một sự kiện mở, tại sao các ký giả báo chí không được mời vào tham dự? Chắc chắn họ sẽ ùn ùn kéo tới nếu biết sẽ có tướng Thanh ở đó. Tại sao lãnh đạo đảng chỉ dùng một phương tiện duy nhất là đoạn phim truyền hình mà Ban Tuyên Giáo hoàn toàn kiểm soát 100% việc sửa đổi, cắt xén? Tại sao không dám để ký giả chụp hình từ nhiều góc cạnh và có thể đặt câu hỏi với tướng Thanh?

Hiển nhiên giới ký giả đang có rất nhiều thắc mắc sau khi bị nhà nước qua mặt với ngày giờ và địa điểm đón tiếp tướng Thanh tại phi trường nhưng chẳng một ai thấy ông đâu. Giới ký giả nay biết chắc là KHÔNG MỘT AI trong số họ thấy tận mắt cảnh ông Thanh xuống máy bay. Có báo bí quá đăng đại bức hình cũ từ 3 năm trước. Tấm hình duy nhất có dáng ông Thanh ở xa xa mà Ban Tuyên Giáo đưa cho báo Tuổi Trẻ Online đăng tải không phải do phóng viên của báo này chụp. Nhiều người biết rõ và làm chứng anh phóng viên bị gắn tên vào bức hình lúc đó đang ở tận Sài Gòn chứ không phải Hà Nội.

Đến điểm này thì nhiều người đặt dấu hỏi có thực sự ông Thanh về Việt Nam ngày 25/7 không? Hay đã bay về từ nhiều ngày trước vì ông đã xuất viện tại Pháp từ ngày 10/7 như ghi rõ trong hồ sơ nhà thương. Các trò tuyên bố chuyến bay và chuẩn bị đón tiếp ông tại khu VIP, do đó nhiều phần chỉ là dàn dựng mà các ký giả bị lừa vào làm cây cảnh trang trí? Chưa kể hình chụp chiếc xe Lexus chạy ra cổng phi trường vào sáng ngày 25/7 cũng chỉ là 1 cảnh trong vở kịch đó vì chẳng một ai thấy ông Thanh trên xe?

Ngay cả nếu tướng Thanh về đúng chuyến bay và ngày giờ đã tuyên bố, cũng như nếu các chuẩn bị đón tiếp ông tại khu VIP là thật thì người ta lại càng thắc mắc. Tại sao lãnh đạo đảng lại kéo ông Thanh chạy trốn ký giả vào giờ chót như thế? Nếu bảo vì sức khỏe tướng Thanh kém thì tại sao lại sắp xếp và công bố hàng loạt các buổi lễ mà ông sẽ tham dự ngay trong vài ngày đầu vừa về nước? Rồi lại khoe bức hình ông tự đi đứng bình thường từ phi cơ vào xe chở đi? Tại sao tướng Thanh không đến khu đón VIP rồi chỉ cần nhoẻn miệng cười cho báo chí chụp hình và cho biết ông đang mệt sẽ trả lời phỏng vấn sau?

Các biện hộ với lý do ông Thanh phải tránh vi trùng lại càng vô lý. Nếu sợ nhiễm vi trùng thì tại sao lại để bệnh nhân bay phi cơ chung với hành khách, tức thở chung với mấy trăm người 1 bầu không khí tái dụng suốt hơn 12 giờ đồng hồ? Rồi lại để ông Thanh đến dự buổi “giao lưu nghệ thuật” gần cả ngàn người trong một phòng kín? Ban săn sóc sức khỏe cán bộ trung ương có học không?

Tóm lại, những người tinh mắt đều phải thắc mắc tại sao lãnh đạo không muốn để tướng Thanh gặp báo chí, không muốn ông đứng trước các máy ghi âm? Và có vẻ như cũng không muốn tướng Thanh có cơ hội tiếp xúc với bất cứ ai khác.

Thật vậy, ngay cả con trai và cháu nội tướng Thanh, mà Ban Tuyên Giáo công bố là đã sang Pháp để tháp tùng ông trong chuyến bay về Việt Nam, cũng vắng bóng trong các bức hình đã giao cho báo Tuổi Trẻ Online đăng. Không lẽ con và cháu tướng Thanh, tuy đi cùng chuyến bay, đến phi trường liền bị cách ly và không được lên xe chở ông Tướng đi về? Các bản tin sau đó lại càng lạ. Tướng Thanh nay được báo đài công bố là sẽ ở luôn trong Bộ Quốc Phòng chứ không ở nhà riêng nữa. Như thế thì làm sao không khỏi thắc mắc rằng ông Thanh đang bị cách ly với chính gia đình ông luôn?

Tất cả các diễn biến trong 36 giờ đang tô rất đậm vào điều thắc mắc lớn nhất của dư luận mà cho đến giờ vẫn chưa có câu trả lời. Đó là tại sao lãnh đạo đảng phải gấp rút thay thế liền một lúc cả tướng tư lệnh và tướng chính ủy Quân khu thủ đô Hà Nội khi mà họ vẫn biết tướng Thanh bị bệnh không nặng lắm và chỉ vài tuần sẽ trở về? Tại sao bản quyết định thay người này gấp đến độ chỉ ký bằng mấy chữ mập mờ “Thủ trưởng Bộ Quốc Phòng” chứ không để tướng Thanh ký, mặc dù ông vẫn ký cả những giấy tờ ở cấp vụn vặt như bằng khen cho 2 đơn vị quân đội mà báo đài công bố? Một vài chuyên gia quân sự còn nhận định kiểu thay người như thế, nếu thuần túy vì nhu cầu quân sự, chỉ có thể xảy ra khi Việt Nam đang có chiến tranh và cả 2 ông tướng nêu trên bị mất mạng cùng một lúc. Còn nếu không đang chiến tranh thế thì chỉ có thể có một giải thích duy nhất. Đó là đang có một âm mưu đảo chánh. Hoặc đó là âm mưu đảo chánh tại Hà Nội của nhóm tướng Thanh và bị phát giác sớm; hoặc đó là âm mưu đảo chánh bên trong Bộ Quốc Phòng của các đối thủ để cắt vây cánh của ông Thanh, đặc biệt các vây cánh tại thủ đô. Hiện nay, có vẻ trường hợp thứ nhì hợp lý hơn cả.

Và còn khá nhiều những chi tiết quái dị, bất thường khác nữa chung quanh toàn bộ sự việc liên quan đến tướng Thanh từ cuối tháng 6 đến nay. Nếu cộng hết lại, người ta khó có thể chối cãi một bức tranh khá hiển nhiên của một ông tướng đang bị chặt vây cánh, bị cô lập giữa một vòng canh rất chặt ngày đêm.

Vì vậy chỉ còn vài câu hỏi chót: Tướng Phùng Quang Thanh đã làm gì hoặc đã mưu đồ gì để bị đối xử như một phần tử nguy hiểm như vậy? Có phải ông lấy lý do chữa bệnh để đào thoát (như ông Bùi Tín trước đây) mà không thành và bị giải từ Pháp về lại Việt Nam? Liệu lãnh đạo đảng vì sợ biến động trước Đại Hội XII mà chưa dám ra tay trừng phạt công khai, hay vì còn quá sợ Tập Cận Bình và tay chân của Bắc Kinh trong hàng ngũ tướng tá Việt Nam?

Đại Sứ Phạm Duy Khiêm với chuyện Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế

Đại Sứ Phạm Duy Khiêm

với chuyện Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế

Đoàn Thanh Liêm

Tôi chưa bao giờ được gặp nhà giáo nhà văn Phạm Duy Khiêm (1908 – 1974), mà sau này vào năm 1954 – 55 ông đã làm Đại sứ của Việt nam tại Pháp. Từ lâu, tôi được nghe đến danh tiếng ông Khiêm là người Việt nam đầu tiên có văn bằng Thạc sĩ chuyên về bộ môn Văn phạm tiếng Pháp, mà có người gọi là “Trạng Mẹo” ( Mẹo = Văn phạm). Ông nổi tiếng là người có tài viết văn bằng tiếng Pháp rất trôi chảy và ông chỉ cộng tác với học giả Trần Trọng Kim trong việc biên sọan cuốn Văn phạm Việt nam – đó là cuốn sách duy nhất ông viết bằng tiếng Việt.

Hồi còn theo học ở bậc trung học tại Hanoi trước năm 1954, thì tôi có được đọc cuốn “Légendes des Terres Sereines” (Những Truyền thuyết từ Miền Đất Thanh Bình) của ông Khiêm viết từ năm 1941 và mới được tái bản ở Pháp vào năm 1951 – 52. Sách kể lại các chuyện cổ tích như Trầu cau, Thiếu phụ Nam Xương, Trương Chi & Mỵ Nương v.v… bằng một giọng văn mạch lạc, đơn sơ trong sáng – thật dễ hiểu và lôi cuốn cho lớp học sinh chúng tôi thời đó. So sánh với hai tác giả người Việt cũng viết bằng tiếng Pháp hồi trước năm 1945 là quý ông Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Tiến Lãng, thì lối viết của ông Khiêm hấp dẫn đối với chúng tôi hơn nhiều.

Vào cuối năm 1974, tại Saigon chúng tôi được nghe là Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm đã tự sát và từ giã cõi đời ở bên Pháp. Báo chí hồi đó có đưa ra nhiều chi tiết về sự việc xung quanh biến cố này, nhưng lâu ngày rồi tôi cũng không còn nhớ rõ về câu chuyện đó nữa. Vào năm 2004, nhân dịp kỷ niệm năm thứ 30 kể từ ngày ông qua đời, tạp chí Thế kỷ XXI ở California có cho đăng một số bài do nhiều tác giả viết về nhà văn Phạm Duy Khiêm, trong đó có cả bài của nhạc sĩ Phạm Duy là bào đệ của ông. Và qua internet, ta cũng có thể đọc được nhiều bài viết về ông nữa.

Nhưng tôi đặc biệt chú ý đến chứng từ của giáo sư Raymond Aron (1905 – 1983) là một vị đại sư nổi danh ở Pháp viết trong cuốn Hồi ký nguyên tác bằng tiếng Pháp với nhan đề là : “ Mémoires : 50 ans de Réflexion Politique” xuất bản năm 1983  và bản dịch sang Anh ngữ với lời nói đầu của Henry Kissinger được xuất bản năm 1990 tại Mỹ. Hiện trong tay tôi, thì chỉ có bản dịch Anh ngữ này. Vì thế, tôi xin trình ra đây phóng ảnh của trang bìa và của một đọan trong trang 392 của bản tiếng Anh này với nhan đề như sau :

* Raymond Aron : Memoirs – Fifty Years of Political Reflection *

do nhà xuất bản Holmes & Meier ấn hành năm 1990 tại New York & London.

Giáo sư Aron viết trong đọan văn nói trên như sau : “ Thật ra, cuộc tấn công dịp Tết (Mậu Thân) là một sự thất bại về phía Việt cộng. Chẳng có nơi nào mà dân chúng lại hưởng ứng đi theo “ những chiến sĩ tự do”  (Nowhere did the population join the “freedom fighters”). Những người chiến sĩ đó đã phạm vào những hành động không thể tha thứ được. Họ bắt buộc các nạn nhân phải đào những con hố mà họ đảy hàng trăm những viên chức và người có tên tuổi của kinh đô Huế để chôn vùi vào trong đó. Bạn của tôi, Phạm Duy Khiêm vốn là vị Đại sứ của miền Nam tại Paris vào năm 1954, thì có phổ biến thông qua thông tấn AFP vào ngày 13 tháng Tư năm 1968 một bản tường trình đày vẻ phẫn nộ (an indignant report) về cung cách đối xử của Việt cộng trong những vùng mà họ kiểm sóat được trong một số ngày.”Những vị trí thức đó đã không hề ngó ngàng gì đến số phận của những viên chức bình thường, những nhân viên vô tội của chính quyền và gia đình của họ, những quân nhân đang nghỉ phép, những linh mục công giáo người Pháp, những giáo sư người Đức cùng với vợ của họ đều bị chôn sống (vào khỏang 300 người), hay bị giết sau khi bị cắt chân tay và bị tra tấn đủ kiểu ( vào khỏang 700 người), đôi khi còn bị trói chung với nhau bằng giây kẽm gai nữa.” Bản tường trình này đã bị rơi vào sự dửng dưng và quên lãng…”

(Ghi chú : Lúc đó thì tại Stockholm thủ đô của Thụy Điển đang có một thứ Tòa án có tên là Bertrand Russell Tribunal để tố cáo “tội ác của Mỹ trong chiến tranh Việt nam “. Và phong trào phản chiến đang rầm rộ sôi nổi ở Mỹ cũng như ở Tây Âu nữa. Nên Đại sứ Khiêm mới phải đề cập đến  “những nhà trí thức đó” với một sự phẫn nộ.)

Nếu ta để ý đến sự kiện là chỉ vào cuối tháng Hai năm 1968, thì quân đội Việt cộng mới bị đánh bật ra khỏi cố đô Huế và chỉ sau đó ít lâu thì các thông tin về cuộc Thảm sát kinh hòang hồi Tết Mậu thân mới được đưa ra một cách rõ ràng chính xác. Và như giáo sư Aron thuật lại ở trên là vào ngày 13 tháng Tư năm 1968, ông Khiêm lúc đó chỉ là một công dân bình thường –  nhưng vì ý thức được trách nhiệm của một vị thức giả mà ông đã phải công bố ngay tức khắc cho thế giới biết đến vụ tàn sát kinh hòang ở Huế lúc đó.

Sự kiện rõ rệt này tôi chưa thấy có tài liệu nào của người Việt nói đến. Vì thế, tôi xin trích thuật ra đây để trước hết góp phần bổ túc cho “Hồ sơ Thảm sát tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968” có thêm được một chi tiết khả tín nữa. Và sau là để tỏ lòng biết ơn đối với Đại sứ Phạm Duy Khiêm vì sự đóng góp quý giá của ông trong việc lưu ý cho công luận thế giới biết rõ hơn về cái tội ác tầy trời đó của người cộng sản đối với người dân vô tội ở Huế thời đó.

Tôi hy vọng sẽ có nhà nghiên cứu sưu tầm được tòan văn “Bản Tường Trình công bố vào ngày 13 tháng Tư năm 1968 của Đại sứ Khiêm được gửi qua thông tấn AFP của Pháp” như giáo sư Raymond Aron đã trích thuật lại trong cuốn Hồi ký của mình.

Quả thật, trong giới trí thức của chúng ta lúc nào cũng vẫn có những con người có lòng thương cảm và sự ngay thẳng để tố cáo những sự tàn bạo độc ác xảy ra đối với các nạn nhận vô tội là đồng bào ruột thịt của mình – như trường hợp của Đại sứ Phạm Duy Khiêm được ghi lại trong bài này vậy/.

San Clemente California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

Đoàn Thanh Liêm

Giới thiệu sách mới (18) : Hành trình của người trí thức dấn thân nhập cuộc

Giới  thiệu  sách  mới (18) :

Hành  trình  của  người  trí  thức  dấn  thân  nhập  cuộc

Bài của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Nguyên tác bản tiếng Anh   :  Thinking the Twentieth Century.

by :   Tony Judt with  Timothy   Snyder (xin lưu ý : Chữ Tony Judt do tác giả Timothy Snyder cố ý ghi bằng chữ lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder là tên của mình – cốt ý đề cao vai trò chính yếu của Tony trong cuốn sách)

Nhà xuất bản The Penguin Press, New York ấn hành năm 2012

Sách dày trên 400 trang với bìa cừng.

www. Penguin.com

*     *     *

Tony Judt (1948 – 2010) sinh trưởng tại London Anh quốc, là một giáo sư về môn lịch sử và chính trị tại nhiều Đại học danh tiếng ở Âu châu và ở Mỹ. Ông cũng là tác giả hay biên tập của 14 cuốn sách, trong đó có cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” xuất bản năm 2005 là được giới thức giả quốc tế chú ý và đánh giá cao. Ông còn đóng góp nhiều bài vở cho các tạp chí nổi tiếng như The New York Review of Books, The Times Literary Supplement, The New Republic… Do bị bệnh liệt não (bệnh Lou Gehrig), ông đã sớm từ giã cõi đời tại New York vào năm 2010 lúc mới ở vào tuổi 62.

Nhận thấy bậc đàn anh lâm bệnh ngặt nghèo, nên Timothy Snyder – cũng là một giáo sư trẻ tuổi người Mỹ về môn lịch sử – trong các năm 2009 – 2010 đã đến tư gia của Tony Judt tại New York để trao đổi thảo luận trong nhiều buổi nói chuyện thân mật tay đôi với ông. Và qua việc khai thác các băng ghi âm từ những cuộc đối thọai đó, Timothy đã hòan thành được cuốn sách có nhan đề thật bao quát là : “Thinking the Twentieth Century” –  sách này vừa mới cho ra mắt công chúng trong năm 2012. Có thể nói đây vừa là cuốn sách tự truyện của Tony Judt, vừa là một nhận định tổng hợp về sự dấn thân nhập cuộc của giới trí thức tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX.

Để thuận tiện cho độc giả theo dõi câu chuyện đối đáp giữa hai vị chuyên gia về sử học tại Âu châu trong thế kỷ XX, người viết xin lần lượt trình bày về tiểu sử các tác giả trước khi đề cập đến những mục đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

I – Tiểu sử các tác giả.

1 – Tony Judt (1948 – 2010)

Xuất thân từ một gia đình có cả cha mẹ đều là di dân người Do Thái gốc gác từ Đông Âu, nên Tony Judt dễ có điều kiện tìm hiểu về những biến chuyển lớn lao tại miền đất xưa kia là quê hương của dòng họ bên nội cũng như bên ngọai của mình. Tony được học ở trường Đại học nổi danh bậc nhất của Anh quốc, đó là trường Cambridge – rồi lại còn được học thêm ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Paris (École Normale Supérieure) là cái nôi sản sinh ra những tinh hoa của nước Pháp. Ông thông thạo nhiều ngọai ngữ như tiếng Pháp, Đức,Tiệp khắc… và được coi là một chuyên gia có thẩm quyền về Lịch sử Giới Trí thức của Pháp thời hiện đại.

Luận văn để thi bằng Tiến sĩ của ông tại Cambridge được xuất bản thành cuốn sách trước tiên bằng tiếng Pháp vào năm 1976  – với nhan đề là “La Reconstruction du Parti Socialiste 1921 – 1926” (Sự Tái Xây dựng Đảng Xã hội (Pháp) 1921 – 1926).

Ông đã giảng dậy nhiều năm về Lịch sử và Chính trị tại các Đại học danh tiếng như Cambridge, Oxford và Berkeley và làm Giám đốc Sáng lập của Viện Erich Maria Remarque tại Đại học New York, Viện này chuyên chú vào công cuộc Trao đổi và Đối thọai giữa Âu châu và Mỹ châu.

Tony Judt cũng là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, điển hình như :” Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956” (xuất bản năm 1992), “Marxism and the French Left : Studies on Labor and Politics in France 1930 – 1982” (xb 1990), “The Burden of Responsibility : Blum, Camus, Aron and the French Twentieth Century (xb 1998)”, “A Grand Illusion? : An Essay on Europe” (xb 1996). Và đặc biệt cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” (xb 2005), thì được tạp chí New York Times Book Review xếp lọai là “một trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm 2005”.

Ở vào tuổi 16 – 20, Tony đã nhiều lần về Do Thái để tham gia xây dựng kibbutz ở nông thôn và làm cả việc phiên dịch cho các đòan thiện nguyện viên trong cuộc chiến tranh 7 ngày năm 1967. Nhưng sau đó, Tony đã có lập trường khác biệt với chính quyền Do Thái và trở về đi học lại để hòan tất học trình thi Tiến sĩ và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu và giảng dậy chuyên môn về lịch sử và chính trị cho đến khi lìa đời vào tháng 8 năm 2010 tại New York.

Năm 2003, Tony Judt đưa ra chủ trương “Một quốc gia – hai dân tộc” (A bi-national State) như là giải pháp cho cuộc tranh chấp Do Thái & Palestine – thì gặp phải sự phản ứng gay gắt trong công luận – khiến cho một vài tạp chí phải từ chối sự cộng tác của ông.

Về đời tư của gia đình, thì Tony Judt có hai người vợ trước đều đã ly dị. Sau cùng, ông sống đến cuối đời với bà vợ thứ ba tên là Jennifer Homans và có hai người con trai với bà này được đặt tên là Daniel và Nicolas.

2 – Timothy Snyder (sinh năm 1969)

Sinh trưởng tại Mỹ, Timothy Snyder theo học tại Đại học Brown ở Mỹ và tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ từ Đại học Oxford Anh quốc. Ông còn tham gia nghiên cứu tại Paris, Warsaw, Vienna và Đại học Harvard. Ông chuyên giảng dậy tại Đại học Yale về môn Lịch sử chính trị của Đông Âu hiện đại.

Ông cũng là tác giả của 5 cuốn sách đều được giải thưởng – trong đó cuốn sách nhan đề “Bloodlands : Europe between Hitler and Stalin” (Miền Đất Đẫm Máu) đã trở thành sách bán chạy nhất tại 4 quốc gia và được 10 nhà xuất bản xếp vào lọai sách hay nhất trong năm.

Timothy Snyder là người thông thạo rất nhiều ngôn ngữ Đông Âu, cụ thể như tiếng Nga, Ba Lan, Ukraine, Belorussian, Tiệp khắc và cả tiếng Yiddish của người Do Thái ở Đức và Trung Âu – đó là chưa kể tiếng Pháp và Đức. Sách của ông đã được dịch ra đến 20 ngôn ngữ khác. Chính Tony Judt đã xác nhận trong Lời cuối sách rằng :  Với sự thông suốt về lịch sử và văn hóa Đông Âu, thì Timothy Snyder là phần bổ túc thật quý báu cho mình, mặc dầu Timothy trẻ hơn 21 tuổi so với Tony.

Tuy vậy, do sự khiêm tốn, trong cuốn sách này Timothy Snyder đã lọai bỏ bớt đi phần nói về tiểu sử của bản thân mình – cốt ý để cho Tony Judt đóng vai trò chính yếu trong việc hòan thành cuốn sách. Độc giả có thể nhận ra chi tiết đó ngay trên trang bìa sách, thì chữ Tony Judt cũng lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder – ông này tự coi như mình chỉ là ‘một tác giả phụ” của cuốn sách mà thôi.

II – Mấy nét chính yếu của tác phẩm.

1 – Có thể xếp lọai cuốn sách này là Lịch sử Tư tưởng Chính trị và giới Trí thức trong sinh họat chính trị của thế kỷ XX ở Âu châu – đó là một lãnh vực mà cả hai tác giả đều đã dày công nghiên cứu trong nhiều năm. Vì thế mà có ấn bản lại ghi thêm một nhan đề phụ nữa là : “ Giới Trí thức và Chính trị” (Intellectuals and Politics) để bạn đọc chú ý hơn đến nội dung của sách. Phần Tự thuật của riêng Tony Judt có tác dụng minh họa cho những nghiên cứu cũng như về sự gặp gỡ trao đổi của ông với nhiều vị thức giả có tên tuổi trong giới học thuật đặc biệt xuất thân từ Đông Âu.

Cuốn sách được thành hình qua nhiều cuộc trao đổi đối thọai giữa hai vị giáo sư chuyên về môn lịch sử ở Âu châu thời cận đại – nên có tính chất linh họat của lối văn nói hơn là văn viết.

2 – Về mặt bố cục, sách được chia thành 9 chương với Lời Nói đầu của Timothy Snyder và Lời Nói cuối của Tony Judt do ông này viết tại New York vào ngày 5 tháng Bảy năm 2010 – chỉ mấy tuần trước ngày ông từ giã cõi đời vào tháng 8 năm 2010. Mỗi chương đều có nhan đề riêng biệt, điển hình như sau :

ñ  Chương 3 : Familial Socialism : Political Marxist

ñ  Chương 5 : Paris, California : French Intellectual.

ñ  Chương 6 : Generation of Understanding : East European Liberal

ñ  Chương 7 : Unities and Fragments : European Historian

ñ  Chương 9 : The Banality of Good : Social Democrat.

Phần cuối sách còn có 6 trang kê khai rất nhiều tác phẩm được hai tác giả đề cập thảo luận tới trong các cuộc đối thọai. Cuốn sách thật hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc – vì trong nội dung mỗi đề tài thảo luận giữa hai tác giả, thì đều ghi xen lẫn cả nhiều chi tiết về quá trình sinh sống, gặp gỡ quen biết với các chuyên gia đày tài năng khác và cả sự miệt mài say sưa trong công việc nghiên cứu không biết mệt mỏi – đó là tính chất đặc trưng của Tony Judt.

3 – Vì chủ đề của những cuộc trao đổi thảo luận quá rộng rãi – bao quát nhiều khía cạnh của lịch sử tư tưởng và sinh họat chính trị tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX, nên việc tóm lược cho thỏa đáng về những điểm cốt lõi của cuốn sách là một công việc hết sức khó khăn – nhất là lại phải gói gọn trong một bài giới thiệu không thể kéo dài quá 3,000 chữ như thường lệ. Do vậy, tôi chỉ xin nêu ra vài ba khía cạnh đặc trưng đáng chú ý nhất trong tác phẩm – đặc biệt đối với số người Việt vốn từng quen theo dõi tình hình sinh họat chính trị tại nước Pháp. Đó là nội dung được trình bày trong phần III sau đây.

III – Những khía cạnh đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

1 – Cách tiếp cận của người vừa ở trong cuộc, vừa ở ngòai cuộc.  (Insiders/Outsiders Approach)

Như tác giả Timothy Snyder đã ghi trong Lời nói đầu, Tony Judt vừa là người trong cuộc, vì ông dấn thân họat động cụ thể trong một số lãnh vực như một người trí thức nhập cuộc (intellectuel engagé) – mà ông cũng còn là người ngọai cuộc, vì ông chủ trương theo đuổi cái viễn kiến rộng rãi hơn, thông thóang hơn của một nhà nghiên cứu lịch sử vốn đòi hỏi một tinh thần bao quát khách quan hơn. Điều này khác biệt với phong cách của một nhà viết tiểu luận (essayist) vì ông này cần bày tỏ lập trường nhận định của mình với sự xác tín và nhiệt huyết của cá nhân mình trong bài viết – mà không bó buộc phải cân nhắc đắn đo với những đối chiếu thận trong của một nhà viết sử.

Cụ thể là Tony lúc ở tuổi 16 – 20, thì đã từng về bên nước Do Thái để tham gia xây dựng tại các kibbutz. Nhưng sau này Tony lại có ý kiến khác hẳn với chủ trương của nhà đương quyền ở xứ này. Cũng vậy, Tony theo truyền thống Marxist trong gia đình, nhưng khi trưởng thành chín chắn, thì lại theo đường hướng Xã hội Dân chủ mà ông coi là nhân bản tốt đẹp hơn hẳn chế độ tàn bạo sắt máu trong hệ thống cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Và nhờ tiếp cận thân thiết với giới trí thức lưu vong từ Đông Âu sau năm 1968, mà Tony có cơ hội thấu hiểu cặn kẽ hơn về cái bối cảnh tòan diện chính trị xã hội và văn hóa của cả hai phía Đông Âu và Tây Âu – điều mà ít có người thức giả thực hiện được.

2 – Nhận định phê phán về Giới Trí thức của nước Pháp.

Là một nhà nghiên cứu lâu năm về tình hình chính trị cận đại của nước Pháp, Tony Judt đã trình bày những nhận xét hết sức rõ rệt sắc nét về giới Trí thức của Pháp trong thế kỷ XX. Tony thẳng thừng phê phán những trí thức thiên tả hàng đầu của Pháp như Jean – Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, Simone de Beauvoir … là những người cố chấp, thiên vị đến độ mù lòa (blindfully) đồng lõa với chủ trương tàn ác của Staline. Họ coi cách mạng ở Nga năm 1917 là sự tiếp nối của cách mạng Pháp năm 1789. Tony coi họ có tinh thần điạ phương cục bộ, khư khư bám víu vào cái hư danh của truyền thống cũ kỹ cổ xưa của mình (parochial). (Xin đọc chi tiết nơi cuốn “Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956 – xuất bản năm 1992)

Trái lại, Tony Judt lại đề cao những trí thức như Léon Blum, Albert Camus và Raymond Aron là những người đã có sự dũng cảm đi ngược lại cái khuynh hướng thiên tả cố chấp của đa số trí thức đương thời – để nói lên sự cảnh báo trước nguy cơ bành trướng của khối cộng sản Liên Xô kể từ sau năm 1945. Ông đã viết cả một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1998 dưới nhan đề là “The Burden of Responsibility…” đề cập chi tiết hơn về ba nhân vật này.

Trong cuộc đàm đạo với Timothy, thì Tony còn thuật lại vào tháng 2 năm 1948, cựu lãnh đạo Mặt trận Bình Dân ở Pháp năm 1936 (Front Populaire) là chính Léon Blum đã phải viết trong bài xã luận của tờ báo Le Populaire của Đảng Xã hội rằng : Ông nhận sự sai lầm của mình khi tin rằng phe Xã hội có thể hợp tác với phe Cộng sản” (trang 214) .

3 –  Về chính sách kinh tế, Tony Judt bênh vực John Maynard Keynes.

Giữa hai quan điểm đối nghịch của John Maynard Keynes là kinh tế gia người Anh giữa thế kỷ XX và của Friedrick Hayek người gốc Áo quốc gần đây, thì Tony Judt có vẻ thiên về tác giả Keynes là người cổ võ cho chính sáchTòan dụng trong nền Kinh tế Vĩ mô (Full Employment in Macro-economics) – mà ông coi là bổ túc cho khuynh hướng của chủ trương kế họach hóa do Sir William Beveridge đề xuất ở nước Anh. Tony biện minh rằng chủ trương của Keynes có tính cách mềm dẻo linh động, chứ không có sự khe khắt khắc nghiệt làm tê liệt sáng kiến của giới doanh nhân –  như Hayek đã nặng nề phê phán, đặc biệt trong tác phẩm nổi danh “The Road to Serfdom” của ông (Con Đường dẫn đến Sự Nô dịch).

Tony coi trọng thành quả của Tây Âu là đã xây dựng vững chắc được các định chế dân chủ và đặt nền móng sâu rộng cho một số quốc gia có nền phúc lợi xã hội khả quan (The Social Welfare State). Đặc biệt là sự thành công của chế độ Dân chủ Xã hội tại các quốc gia ở Bắc Âu châu (Social Democracy).

IV – Để tóm lược lại.

1 – Tuy chủ đề của cuốn sách quá rộng lớn bao quát, nhưng vì nội dung của các buổi thảo luận được trình bày xen kẽ với nhiều chi tiết sinh động về tiểu sử có tính cách tự thuật của Tony Judt, nên người đọc dễ theo dõi câu chuyện với sự thích thú kỳ diệu mà lại nhẹ nhàng. Cả hai tác giả đều là những nhà giáo – nhà nghiên cứu uyên bác và đã từng có những tác phẩm được đánh giá cao trong học giới cũng như trong công chúng độc giả. Vì thế, sự trình bày của họ trong cuốn sách thì rất là phong phú khúc chiết – nó giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng hợp về tư tưởng và hành động của giới trì thức tiêu biểu tại Âu châu trong thế kỷ XX. Có thể nói các tác giả đã cung cấp cho người đọc một thứ lộ đồ (a road map) để khám phá cái không gian tư tưởng cực kỳ bao la đa dạng và phức tạp của thế kỷ XX.

2 – Đúng như nhan đề của bài viết, cuốn sách này là một thứ tự thuật của Tony Judt về quá trình nhập cuộc của bản thân mình trong sự tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng cho xã hội đương thời. Mà đồng thời cũng trình bày những nét chính yếu về vai trò của tòan thể giới trí thức ở Âu châu trong sinh họat chính trị văn hóa suốt thế kỷ XX. Các tác giả đã bày tỏ sự lạc quan và xác tín của mình trước viễn tượng của một nền Dân chủ Xã hội mà các thế hệ trẻ của thế kỷ XXI có thể xây dựng được – sau khi rút kinh nghiệm từ những thất bại của các thế hệ đàn anh của thế kỷ XX.

*     *  Người viết xin hân hạnh được giới thiệu với quý bạn đọc cuốn sách rất hấp dẫn lôi cuốn và cũng thật có giá trị vững chắc này vậy./

Costa Mesa California, Tháng 12 năm 2012

Đoàn Thanh Liêm

Vụ Phùng Quang Thanh và truyền thông Việt Nam

Vụ Phùng Quang Thanh và truyền thông Việt Nam

Blog VOA

Nguyễn Hưng Quốc

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh

Mấy tuần qua, trên các phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là facebook, tin tức khiến người ta chú ý và bình luận nhiều nhất là về Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng của Việt Nam. Thoạt đầu, có tin ông bị ám sát, sau đó, tin ông chết vì ung thư phổi trong bệnh viện Georges Pompidou của Pháp.  Mà không phải chỉ có người Việt Nam. Ngay cả hãng thông tấn Đức Deutsche Press-Agentur (DPA) cũng loan tin ông qua đời. Chính quyền Việt Nam phải lên tiếng cải chính.

Mới đây, báo chí trong nước loan tin ông Phùng Quang Thanh đã bay từ Pháp về Việt Nam với tình trạng sức khoẻ rất tốt. Tuy vậy, tin đồn về cái chết của ông vẫn tiếp tục râm ran trong dư luận. Người ta vạch ra những sự mơ hồ và không đáng tin cậy trong các bản tin đăng trên báo chí Việt Nam: Chỉ có những lời tường thuật chung chung chứ không có một bức ảnh nào của Phùng Quang Thanh cả. Thật ra, cũng có. Có một bức ảnh ông đứng sau chiếc xe Lexus ra phi trường đón. Nhưng trong bức ảnh ấy, hình của Phùng Quang Thanh rất mờ. Người ta nghi ngờ đó không phải là ông.

Thực tình, tôi không quan tâm đến chuyện Phùng Quang Thanh chết hay sống. Ông chết hay sống, tình hình chính trị Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc, cũng không có gì thay đổi. Người này mất thì người khác lên thế. Chính sách của Việt Nam ít khi lệ thuộc vào một người, ngay cả khi người ấy đang ở một vị thế rất cao là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Điều khiến tôi quan tâm nhiều nhất là vấn đề truyền thông của Việt Nam. Về phương diện này, có mấy vấn đề cần được chú ý:

Thứ nhất, chúng ta thấy rất rõ sự vụng về của giới truyền thông Việt Nam. Trước sự vắng mặt của Phùng Quang Thanh trong các buổi lễ lớn tại Việt Nam và trước sự ngạc nhiên và tò mò của dư luận, người ta hoàn toàn im lặng. Mãi đến khi tin đồn về cái chết của ông lan rộng, người ta mới lên tiếng cải chính. Nhưng sự cải chính cũng không thuyết phục. Ai cũng thấy một điều: Chỉ cần đưa một bức ảnh mới của Phùng Quang Thanh trong bệnh viện, mọi người sẽ an tâm ngay tức khắc. Vậy mà người ta không làm. Ngay cả khi loan tin Phùng Quang Thanh đã về nước, người ta cũng không đăng một bức ảnh nào cụ thể cả khiến dư luận vẫn tiếp tục xôn xao và thắc mắc. Nếu mục tiêu chính của bộ máy truyền thông nhà nước là để tuyên truyền và an dân, trong mấy tuần vừa qua, có thể nói bộ máy ấy hoàn toàn thất bại.

Thứ hai, mặc dù nắm trong tay hơn 800 tờ báo các loại cũng như tất cả các cơ quan truyền thông chính thống khác (như truyền thanh và truyền hình), chính quyền Việt Nam cũng không làm chủ được dư luận. Hơn nữa, càng ngày họ càng ở thế bị động. Thường, họ không phải là người loan tin mà chủ yếu là người cải chính. Bởi vậy, khi có điều gì thắc mắc, nơi dân chúng tìm kiếm tin tức không phải là các cơ quan ngôn luận lề phải mà là báo chí thuộc lề trái, nhiều nhất là trên mạng internet. Tôi có một số bạn, khá đông, hầu hết đều thuộc giới trí thức, ở Sài Gòn có và Hà Nội cũng có, nói giống nhau: để nắm tin tức hàng ngày, điều họ thường làm nhất là vào facebook hoặc các blog nổi tiếng chứ không phải là mở các trang báo của đảng. Những chuyện họ bàn tán nhiều nhất những lúc gặp nhau cũng vẫn là những chuyện được đề cập trên những trang mạng ấy. Có thể nói chính quyền Việt Nam đã thua cuộc ngay trên chính sân chơi mà họ muốn hoàn toàn độc quyền.

Thứ ba, như là hệ quả của đặc điểm thứ hai ở trên, càng ngày các phương tiện truyền thông xã hội càng phổ biến và càng quan trọng. Ngoài các tin tức liên quan đến Phùng Quang Thanh, một ví dụ tiêu biểu nhất về tầm ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội là vụ chặt cây xanh ở Hà Nội cách đây mấy tháng. Dư luận ồn ào đến độ chính quyền Hà Nội phải ra lệnh ngưng ngay việc chặt cây và sau đó, tiến hành kiểm điểm và kỷ luật một số cán bộ liên hệ. Có thể xem các trang truyền thông xã hội ấy là một đối trọng của ngành truyền thông nhà nước. Nghe nói hiện nay ở Việt Nam có khoảng một phần ba dân số, tức khoảng 30 triệu người, thường xuyên sử dụng internet. Chắc không phải ai cũng lên internet để đọc tin tức. Nhưng con số ấy chắc cũng không ít. Điều rất dễ thấy: với số người đọc đông đảo như vậy, internet sẽ là một trận tuyến quan trọng của trào lưu dân chủ hoá Việt Nam.

Thứ tư, trong cuộc chiến giữa báo chí chính thống và truyền thông xã hội, nhà nước Việt Nam chỉ có một cách duy nhất để chiến thắng: minh bạch. Lý do khiến nhiều người tìm kiếm tin tức trên internet là vì họ không tìm thấy ở đâu khác. Lý do khiến cái gọi là báo lề trái thu hút sự quan tâm của dân chúng hơn báo lề phải là vì trên báo chí lề phải người ta chỉ thấy toàn những sự dối trá. Lý do khiến người ta tin và lan truyền các tin đồn, đôi khi hoàn toàn sai sự thật, là bởi vì người ta không tin vào các cơ quan truyền thông chính thống. Sống ở Tây phương đã lâu, tôi chưa bao giờ thấy dân chúng đồn đãi bất cứ chuyện gì trong đời sống chính trị nước họ. Tất cả những gì họ bàn luận đều là những chuyện được công khai hoá trên các cơ quan truyền thông chính thức. Giới chính trị gia biết rõ điều đó nên họ thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo để cung cấp thông tin và giải đáp các thắc mắc của dân chúng.

Có thể nói chính sự thiếu minh bạch làm nảy sinh các tin đồn và sự lan rộng của các tin đồn dần dần bào mòn sự tin tưởng của dân chúng đối với chính phủ. Cũng có thể nói sự tồn tại phổ biến của các tin đồn về chính trị là một trong những bằng chứng rõ nhất tố giác một xã hội thiếu dân chủ .

II Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng(bài 2)

II Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng(bài 2)

Đoàn Thanh Liêm

Trước khi đề cập đến nội dung của chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” của Paulo Freire, người viết xin được kể sơ lược về cái duyên hạnh ngộ với nhà tư tưởng nổi danh này, xuất thân từ xứ Brazil là quốc gia đông dân nhất của Châu Mỹ La Tinh. Đó là vào cuối năm 1970, trong dịp tham dự một hội nghị quốc tế tại Paris, nhằm thành lập Institut Oecuménique au service du Développement des Peuples ( INODEP = Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc), tôi đã được gặp đích thân Paulo Freire là một thuyết trình viên chính của Hội nghị, mà ông cũng còn được bàu là vị chủ tịch của INODEP nữa. Người tầm thước với bộ râu tóc dài đã điểm muối tiêu của người đã bước vào tuổi ngũ tuần, Paulo Freire có lối nói thật say mê sôi nổi, lôi cuốn như là một thi sĩ, mà lại diễn giải quan điểm lý luận của mình với niềm xác tín sâu sắc của một triết gia. Cử tọa gồm nhiều nhân vật đại diện từ khắp năm châu đều chăm chú theo dõi bài nói chuyện quan trọng, mà đày nhiệt tình của ông. Rồi qua năm 1972, lúc tôi đến Geneva để trao đổi gặp gỡ với một số vị tại văn phòng trung ương của Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches), thì tôi cũng gặp lại Paulo Freire đang phụ trách về vấn đề giáo dục của tổ chức này.

Mùa hè năm 1971, vào dịp đến tham dự một cuộc hội thảo khác nữa tại Mindanao Philippines, thì tôi thấy sinh viên ở đây chuyền tay bán cho nhau cuốn sách “The Pedagogy of the Oppressed”, ấn bản địa phương đơn giản, chỉ có ruột sách, chứ không có bìa riêng theo kiểu tự làm lấy, cho nên giá rất rẻ, có 2 US$ một cuốn thôi. Và dĩ nhiên là tôi cũng đã mua vài cuốn để đem về cho các bạn ở Việt nam. Chuyện nhỏ này lại càng khiến tôi chăm chú theo dõi tư tưởng và đường lối giáo dục của Paulo Freire suốt từ hồi năm 1970 cho đến nay.

A – Nét chính yếu của tư tưởng và hành động của Paulo Freire.

Có thể nói Paulo Freire luôn nhất quán về cả phần lý thuyết, cũng như thực hành trong đường lối Giáo dục, nhằm giúp khối quần chúng bị áp bức tìm ra cho mình một phương cách cụ thể, hữu hiệu để tự giải thóat khỏi thân phận của người bị áp bức, bị tha hóa do các điều kiện khách quan của môi trường xã hội, cũng như chủ quan nội tại của bản thân mình. Quan điểm của ông có tính chất triệt để, dứt khóat là : Xã hội đương thời ở châu Mỹ La tinh, cũng như ở nhiều nơi khác đều do bao nhiêu bất công, áp bức bóc lột tạo ra nỗi lầm than cơ cực triền miên cho đa số quần chúng nhân dân. Và không khi nào mà giới thống trị lại chịu tự nguyện đứng ra chủ động việc cải thiện các định chế xã hội vốn bảo vệ các đặc quyền đăc lợi cho riêng họ.

Như vậy, chỉ khi nào chính cái đại khối quần chúng là nạn nhân của sự áp bức thống trị tệ hại đó, mà nhất quyết dấn thân vào công cuộc giải phóng kiên trì để tự cứu thóat lấy mình, thì xã hội mới có cơ may được xây dựng tốt đẹp, và con người mới phục hồi được nhân phẩm cao quý cho từng cá nhân được. Nói khác đi, chỉ khi nào chính quần chúng nhân dân mà được thức tỉnh giác ngộ về vai trò làm chủ nhân đích thực của xã hội, và cùng đồng lòng lăn xả vào cuộc tranh đấu giải phóng đó, thì họ mới có được một tương lai tươi sáng viên mãn, như từng mơ ước từ bao nhiêu thế hệ xưa nay.

Với niềm xác tín như thế, Paulo Freire đã nhập cuộc với xã hội quê hương mình, bằng cách phát triển phương thức giáo dục tráng niên, thúc bách cho các học viên cần phải có sự suy nghĩ với thái độ phê phán (critical thinking = conscientization) về hiện trạng xã hội, mà họ là nạn nhân của bao nhiêu áp bức bất công. Và rồi từ đó, chính họ sẽ ra tay hành động, nhằm biến đổi xã hội hủ lậu đó đi (transformative action). Do lối suy nghĩ và hành động cụ thể, cấp tiến như vây, mà ông đã bị phe quân nhân cầm quyền ở Brazil bắt giữ, rồi trục xuất đi ra khỏi nước vào năm 1964.

Trong thời gian sống lưu vong, ông có dịp đúc kết các suy nghĩ và hoạt động của mình, để rồi trình bày trong 2 cuốn sách xuất bản hồi cuối thập niên 1960, và được nhiều người đánh giá rất cao. Đó là cuốn sách đầu tiên có nhan đề  “ Education, the Practice of Freedom”, và đặc biệt là cuốn “The Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ phân tích chi tiết rành mạch hơn về tác phẩm quan trọng này trong một đoạn sau. Và ông đã kiên trì tiếp tục tìm kiếm trong suốt cuộc đời còn lại, nhất là kể từ ngày được trở về lại quê hương vào năm 1980, để khai triển cho thêm phong phú hơn nữa cái chủ trương giáo dục có tính cách khai phóng và nhân bản cao độ này.

Tác giả Henry A Giroux nhận định về Freire rằng : “ Thực ra, ông là người đã kết hợp được điều mà tôi gọi là cả hai thứ ngôn ngữ phê phán với thứ ngôn ngữ khả thể” (In effect, Freire has combined what I call the language of critique with the language of possibility).

B – Giới thiệu tác phẩm “ Giáo dục của Người bị Áp bức”.

Trong cuốn sách 160 trang ngắn gọn, xúc tích với chỉ có 4 chương này, Paulo đã phân tích khá rành mạch, dứt khoát về chủ trương kiên quyết không thỏa hiệp với nền thống trị đàn áp, vẫn ngự trị lâu đời trong xã hội đương thời, đặc biệt là tại châu Mỹ La tinh là quê hương bản quán của ông. Và sau khi cuốn sách ấn bản tiếng Anh ra đời vào năm 1970, tác giả lại còn có nhiều dịp trao đổi với các thức giả khắp thế giới, và từ đó ông đã hoàn chỉnh hơn quan điểm và lý luận của mình, như được trình bày trong nhiều cuốn sách và bài báo xuất bản vào thập niên 1980-1990 nữa. Ta có thể tóm gọn tư tưởng của ông trong mấy khía cạnh chính yếu sau đây :

1 / Giáo dục đại chúng cốt yếu là một cuộc đối thoại giữa” người dậy” và “người đi học” (a dialogue between the educator and the learner), trong đó phải có sự tương kính lẫn nhau giữa hai phía (mutual respect). Paulo Freire đặc biệt phê phán cái lối dậy học “nhồi nhét”, mà ông gọi là “banking concept”, tức là chỉ có người dậy chủ động chuyển mớ kiến thức vào đầu óc của học viên, y hệt như việc ký gửi các số tiền vào nơi chương mục tại ngân hàng (making deposits). Như vậy, thì người học viên hoàn toàn đóng vai trò “thụ động” của một đối tượng, chứ không hề được khuyến khích để chủ động phát huy óc sáng tạo và sự suy nghĩ có tính cách phê phán (critical thinking), để mà có thể tự mình khám phá ra hoàn cảnh bị áp bức của mình và rồi đưa đến một hành động thích đáng.

Thay vào đó, tác giả đề ra cái khái niệm “Giáo dục đặt vấn đề” (problem-posing concept of Education), trong đó cả hai phía người dậy và người học đều cùng hợp tác với nhau trong một quá trình hỗ tương (a mutual process), nhằm cùng nhau khám phá thế giới, và chung với nhau cố gắng vươn tới một mức độ nhân bản viên mãn hơn (their attempt to be more fully human).

2 / Cuộc đối thoại này không phải chỉ nhằm đào sâu sự hiểu biết, mà còn là một phần làm thay đổi nơi thế giới. Tự bản thân, sự đối thoại là một loại hoạt động có tính hợp tác bao gồm sự tôn kính (a co-operative activity involving respect). Quá trình này quan trọng, vì nó giúp tăng thêm sức mạnh cho cộng đồng và đồng thời lại xây dựng nên nguồn vốn xã hội  (enhancing community and building social capital), mà lại đưa dẫn chúng ta đến hành động cho công lý và phát triển nở rộ về phương diện nhân bản (human flourishing) nữa.

Cơ sở cụ thể cho hệ thống giáo dục căn cứ vào sự đối thoại này chính là nơi các“câu lạc bộ văn hóa” (culture circle), trong đó các học viên và người phối trí hợp cùng nhau bàn thảo về những” chủ đề khởi sinh” (generative themes), mà có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc sống thực tiễn của người học viên. Các chủ đề này liên hệ tới thiên nhiên, văn hóa, công việc làm và các tương quan xã hội, thì đều được khám phá ra qua sự tìm kiếm chung nhau giữa nhà giáo dục với học viên. Rồi các chủ đề đó được sử dụng làm căn bản cho cuộc đối thoại trong phạm vi sinh họat nội bộ của câu lạc bộ. Từ đó, mà dần dần diễn ra quá trình cấu tạo được ý thức phê phán (critical consciousness) nơi các học viên tham gia, với tư cách là chủ thể của xã hội, mà chính họ đang cùng nhau ra sức xây dựng với quyết tâm của cả tập thể của mình.

3 / Tính chất độc đáo trong tư tưởng của Paulo Freire chính là việc ông đã khôn khéo tổng hợp đến độ nhuần nhuyễn được kinh nghiệm của những nhà tư tưởng tiền bối, và đem áp dụng vào đường lối giáo dục của ông. Điển hình là phép biện chứng của triết gia Hegel giữa “ông chủ và đày tớ”, thì đã được Freire áp dụng trong lối “giải thóat khỏi các hình thức độc đóan trong giáo dục”(liberation from authoritarian forms of education). Chủ thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre và của Martin Buber, triết gia Do Thái đã giúp Freire đưa ra khái niệm về “ sự tự biến đổi của người bị áp bức để tiến vào trong lãnh vực của tình trạng liên chủ thể tiến bộ” (the self-transformation of the oppressed into a space of radical intersubjectivity). Kể cả thuyết duy vật lịch sử của Karl Marx cũng ảnh hưởng tới quan niệm của Freire về lịch sử tính của các mối quan hệ xã hội (historicity of social relations).

Và chủ trương “Thần học giải phóng” cũng ảnh hưởng rõ rệt đến quan điểm của Freire, khi ông cho là “Tình yêu thương là điều kiện thiết yếu cho một nền giáo dục đích thực”. Rồi quan điểm cách mạng chống đế quốc của Ernest Che Guevara và Frantz Fanon, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Les Damnés de la Terre”, cũng ảnh hưởng đến sự phân tích của Freire về tình trạng trầm đọng (sedimentation) của tư tưởng của giới áp bức thống trị, mà vẫn còn hằn sâu nơi não trạng của chính bản thân lớp người nạn nhân bị áp bức. Và rồi từ đó, ông đã dấn thân hết mình vào công cuộc tranh đấu chống lại chế độ thực dân đế quốc ở khắp mọi nơi.

C – Ảnh hưởng của tư tưởng Paulo Freire trên thế giới.

Có thể nói Paulo Freire là mẫu “con người tri hành hợp nhất” theo lối nói của Vương Dương Minh là nhà tư tưởng nổi danh của Trung quốc ngày xưa. Ông không chỉ đơn thuần là một lý thuyết gia, mà còn là một con người dấn thân hoạt động hết mình cho lý tưởng giải phóng con người. Chủ trương Giáo dục của ông tuy rất cương quyết dứt khoát, triệt để tiến bộ, nhưng đày tính nhân bản ôn hòa, khác hẳn với khuynh hướng quá khích, bạo hành của lớp người cộng sản Marxist tại châu Mỹ La tinh, cụ thể như Che Guevara, Fidel Castro. Vì thế mà đại bộ phận quần chúng nhân dân tại khu vực quê hương ông, vốn theo Thiên chúa giáo, thì đã tiếp nhận tư tưởng của Freire một cách nồng nhiệt, phấn khởi.

Tại Phi châu cũng vậy, trong nhiều dịp đến làm việc tại châu lục này, nhất là tại mấy nước trước đây cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, như Angola, Mozambique, Guinea Bissau, Paulo Freire đã được đón tiếp một cách rất thân tình trân trọng, bởi lẽ ông cùng chia sẻ cái thân phận của người dân đã từng phải sống dưới sự thống trị hà khắc của các chánh quyền thực dân đế quốc trước kia, cũng như của các chế độ độc tài bản xứ trong giai đoạn độc lập tự chủ hiện nay.

Tại Á châu, ông cũng được đón tiếp tại nhiều nơi như Ấn độ, Papua New Guinea, và có nhiều dịp trao đổi với các giới chức hoạt động trong lãnh vực giáo dục, cũng như hoạt động cộng đồng.

Đã có nhiều quốc gia thiết lập các Viện Nghiên cứu Paulo Freire (Paulo Freire Institute = PFI) nhằm cổ võ và quảng bá tư tưởng của ông về lãnh vực cải cách giáo dục tráng niên, cũng như thúc đảy công cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điển hình như PFI tại Nam Phi, tại Tây Ban Nha, tại Phần Lan, tại đảo quốc Malta, và dĩ nhiên tại Brazil là quê hương của ông.

Riêng tại Mỹ, thì có FPI đặt tại đại học UCLA ở thành phố Los Angeles California. Viện nghiên cứu này được thiết lập năm 2002 và rất hoạt động với việc xây dựng những mạng lưới liên kết giới học giả, nhà giáo,  nhà họat động xã hội, nghệ sĩ và các thành viên của cộng đồng. Thông qua các cuộc gặp gỡ trao đổi thường xuyên, tất cả các thành viên và các thân hữu của Viện FPI đều dồn nỗ lực vào việc xây dựng công bằng xã hội, và sử dụng giáo dục như là một phương tiện để tạo sức mạnh cho khối quần chúng bị áp bức, bị khuất phục tại khắp nơi trên trái đất.

Ngòai ra, cũng còn phải kể đến các Diễn Đàn Paulo Freire (bi-annual PF Forums) được tổ chức mỗi năm 2 lần, nhằm mở rộng và nâng cao sự nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm của những thức giả vốn theo đuổi đường lối giáo dục tiến bộ do Paulo Freire đã dày công khai phá từ trên nửa thế kỷ nay.

D – Thay lời kết luận.

Có thể nói Paulo Freire là một con người tòan diện, vừa có trình độ suy tư lý luận rất thâm hậu, mà cũng vừa là con người dấn thân họat động suốt đời, không bao giờ mệt mỏi. Ông được quần chúng mến phục, không những do các tác phẩm sâu sắc về triết lý giáo dục, về phương pháp vận động khích lệ cho tầng lớp người bị áp bức bóc lột, mà còn vì cái nhân cách sáng ngời, cái tinh thần khiêm cung hòa ái, và nhất là vì tấm lòng tha thiết yêu mến tột cùng đối với nhân quần xã hội nữa.

Quả thật, Paulo Freire là một tiêu biểu rất xứng đáng, là niềm tự hào cho tầng lớp sĩ phu trí thức của xứ Brazil, cũng như của tòan thể châu Mỹ La tinh vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010.

Đoàn Thanh Liêm

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

( Paulo Freire : 1921 – 1997)

Paulo Freire sinh năm 1921 tại Brazil. Ông học Luật và Triết học, nhưng lại dấn thân vào công cuộc giáo dục đặc biệt cho giới tráng niên, nhằm gây ý thức cho đại chúng phải mạnh dạn tự giải thoát  mình ra khỏi tình trạng áp bức nặng nề, tàn bạo của xã hội đương thời. Vì có tư tưởng và hành động cấp tiến như vậy, nên ông bị giới quân nhân cầm quyền bắt buộc phải sống lưu vong ở nước ngoài, từ năm 1964, mãi cho đến năm 1980, ông mới có thể trở về quê hương mình được.

Tại nước Chi lê, ông đã làm việc cho tổ chức văn hóa Unesco của Liên Hiệp Quốc, và Viện Cải cách Ruộng đất của chánh phủ Chi lê. Ông còn được mời tới làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu về Phát triển và Biến đổi xã hôi thuộc đại học Harvard ở Mỹ (Center for Studies in Development and Social Change). Rồi sau này làm giám đốc chương trình giáo dục của Hội đồng Tôn giáo thế giới (World Council of Churches) tại Geneva, Thụy sĩ.

Năm 1970, ấn bản tiếng Anh “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức) của Paulo Freire đã gây một tiếng vang lớn trong giới giáo dục và hoạt động xã hôi khắp thế giới. Sau trên 40 năm, thì đã có hàng triệu cuốn được phổ biến rộng rãi qua nhiều lần tái bản, và hàng mấy chục bản dịch ra các thứ tiếng khác nữa. Ông là người đã cổ võ cho ý niệm “ Conscientizacao’ nguyên văn tiếng Bồ đào nha, mà bây giờ đã trở thành thông dụng khắp thế giới với tiếng Anh là “Conscientisation” (= Consciousness Raising, Critical Conciousness). Ta có thể diễn tả ý niệm này là :  Sự thức tỉnh Ý thức và Suy nghĩ có tính cách phê phán.

Quả thật, chủ trương giáo dục có tính chất cách mạng triệt để của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào giáo dục và xã hội cùng khắp thế giới. Và tư tưởng triết học của ông cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành học thuật như thần học, xã hội học, nhân chủng học, sư phạm, ngữ học thực hành và nghiên cứu văn hóa (applied linguistics & cultural studies).

Có thể nói : Paulo Freire là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất về bộ môn giáo dục vào cuối thế kỷ XX ( the most influential thinker about education).

Bài viết này nhằm giới thiệu tư tưởng độc đáo và dứt khoát của ông. Đồng thời cũng lược qua về ảnh hưởng của tư tưởng này trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại các quốc gia vốn xưa kia là thuộc địa của thực dân Tây phương ở Châu Mỹ La tinh, Châu Phi và Châu Á. Để bạn đọc có thể dễ dàng theo dõi quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Paulo Freire, là một nhân vật tiêu biểu của trào lưu thức tỉnh và vận động xã hội tại Châu Mỹ La tinh là quê hương của ông, người viết xin được dàn trải việc trình bày trong 2 bài như sau :

Bài 1 / – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh vào cuối thế kỷ XX.

Bài 2 / – Cốt lõi chủ trương “Giáo dục giải phóng” & Ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.

I – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh.

Châu Mỹ La tinh (Latin America) là khu vực nằm ở phía nam của nước Mỹ, mà xưa kia hầu hết đều là các lãnh thổ nằm dưới sự cai trị của hai nước Tây ban nha và Bồ đào nha. Hiện nay khu vực này có chừng 30 nước với tổng số dân là trên 560 triệu. Chỉ có Brazil với dân số trên 190 triệu là nói tiếng Bồ đào nha. Còn lại, thì tất cả đều nói tiếng Tây ban nha. Trừ một số rất nhỏ xưa kia là thuộc địa của Pháp, Anh, Hòa lan, thì vẫn còn nói tiếng như tại “mẫu quốc” cũ của họ.

Có tới 70% dân chúng trong khu vực theo đạo Thiên chúa giáo La mã (Roman Catholic). Và chừng 15% theo đạo Tin lành.

A – Tình trạng bất ổn trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

Kể từ thập niên 1960 trở đi, khu vực này đã trải qua nhiều biến động về chính trị kinh tế, cũng như về mặt văn hóa xã hội thật sôi động, nhiều khi đưa đến những tranh chấp tàn bạo đẫm máu, do các chế độ độc tài thiên hữu, quân phiệt hay thiên tả gây ra. Nhiều cuộc đảo chính đã liên tục xảy ra, khiến cho xã hội luôn bất ổn định, và chế độ độc tài quân phiệt dễ có cơ hội được củng cố, và người dân bị dồn vào thế bị động, không thể hợp nhau góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển quốc gia được.

Lại nữa, vào giữa thời chiến tranh lạnh, nên phía Liên Xô đã tìm nhiều cách để gây ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản tại đây; điển hình là tại Cuba từ khi Fidel lên nắm chánh quyền năm 1959 và đã ngả hẳn về phía Liên Xô. Chúng ta hẳn đều còn nhớ việc Liên Xô cho đem thiết trí lọai hỏa tiễn tại Cuba nhằm hướng vào nước Mỹ, khiến xúyt gây nên cảnh chiến tranh giữa hai siêu cường Nga-Mỹ vào năm 1962, trước sự đối đầu nẩy lửa của hai lãnh tụ Kruschev và Kennedy.

Mà phía Mỹ, thì cũng tìm mọi cách can thiệp nhiều khi rất nặng tay tàn bạo, để bảo vệ toàn thể khu vực được gọi là“cái sân sau” (backyard) của riêng nước Mỹ; điển hình như có bàn tay của CIA trong việc lật đổ chế độ thiên tả của Tổng thống Salvador Allende tại Chi lê năm 1973. Rồi sau này vào thập niên 1980, thì phe Sandinista khuynh tả đã lên nắm được chánh quyền ở Nicaragua, với sự trợ giúp đắc lực của Cuba cộng sản cũng như của Liên Xô. Và chánh quyền Mỹ dười thời Tổng thống Reagan đã ra tay can thiệp mạnh bạo, để giúp phe đối lập Contras lập lại thế cờ tại đây. Đại khái đó là vài nét đại cương về ảnh hưởng của chiến tranh lạnh tại khu vực Châu Mỹ La tinh, từ hồi thập niên 1960 cho đến khi khối Liên Xô bị tan rã kể từ 1990.

B –  Sự nhập cuộc của Giáo hội công giáo La mã.

Về phía Thiên chúa giáo, thì do ảnh hưởng của tinh thần đổi mới của Công đồng Vatican 2, trong giới tu sĩ và giáo dân tại khu vực đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ trong sự nhận thức, cũng như trong hành động của Giáo hội công giáo. Điển hình như trường hợp của Tổng giám mục Helder Camara của Brazil; ông là người rát năng động trong việc phục vụ và tranh đấu cho khối đa số nghèo túng, đến nỗi bị chụp mủ là “vị giám mục đỏ” (the red bishop). Ông nói chua chát như sau : “Khi tôi cho người nghèo ăn, thì người ta gọi tôi là một ông thánh. Khi tôi hỏi tại sao người nghèo lại không có thực phẩm, thì người ta gọi tôi là một người cộng sản!” Giám mục Camara và cầu thủ Pele’ là hai người xứ Brazil mà được biết đến nhiều nhất trên thế giới.

Lại có trường hợp vị Giám mục cấp tiến Oscar Romero ở nước El Salvador, ông còn bị chánh quyền cho dùng tay chân ám sát, ngay giữa lúc ông  đang cử hành thánh lễ an táng cho bà mẹ của một người bạn vào năm 1980. Và đã có đến 250,000 người đến tham dự lễ an táng của vị mục tử kiên cường này, mà họ coi như là một vị thánh tử đạo (Martyr).

Cũng tại El Salvador, vào cuối năm 1980 đã xảy ra việc sát hại 4 nữ tu người Mỹ, do bàn tay của nhân viên công lực nhà nước. Sự kiện này đã gây sự phẫn nộ tột cùng của báo chí và công luận nước Mỹ, đến độ tạo thành áp lực buộc chánh phủ Mỹ phải có biện pháp răn đe mạnh mẽ đối với chánh quyền tàn bạo của El Salvador.

Cũng phải kể thêm về trường hợp của vị linh mục Camilo Torres ở nước Colombia, ông là một tu sĩ cấp tiến, được đào tạo tại đại học công giáo nổi tiếng Louvain bên nước Belgium ở Âu châu. Vì áp lực nặng nề từ phía chánh quyền Colombia, ông phải thóat ly theo hẳn phe du kích chống chánh phủ, và đã bị hạ sát vào năm 1966 trong một cuộc đụng độ với quân đội. Tên tuổi của Camilo Torres, cũng như của Che Guerava bị hạ sát năm 1967 tại Bolivia, thì đã trở thành một huyền thoại lôi cuốn giới trẻ trong toàn thể khu vực Châu Mỹ La tinh từ trên 40 năm nay.

Nhân tiện, cũng cần phải ghi lại cái thủ đọan cực kỳ độc ác là “làm mất tích” (disappearance), bằng cách thủ tiêu những người chống đối, mà cơ quan an ninh tại nhiều nước trong khu vực sử dụng, để đàn áp phong trào tranh đấu cho dân chủ tự do tại các nước này. Điển hình là tổ chức Các Bà Mẹ có con bị mất tích ở Argentina, đã liên tục trong nhiều năm tháng đến tụ hợp với nhau tại một quảng trường Plaza de Mayo trong thành phố thủ đô, để đòi hỏi chánh quyền phải cho công bố về các vụ mất tích này. Các tổ chức tranh đấu bảo vệ nhân quyền quốc tế như Hội Ân xá Quốc tế (Amnesty International) cũng đã thâu thập được khá nhiều chứng từ về các trường hợp “ người bị mất tích” (disappeared persons) tại nhiều quốc gia trong vùng, mà có nơi con số này lên tới nhiều ngàn người. Rõ ràng chế độ độc tài nào dù theo phe tả như cộng sản, hay theo phe hữu như chế độ quân phiệt, thì cũng đều tàn bạo độc ác như thế cả.

C – Nền Thần học Giải phóng.

Châu Mỹ La tinh này lại còn là nơi phát sinh một trào lưu tư tưởng đặc biệt sôi nổi sinh động, đó là nền “Thần học giải phóng”          ( Liberation Theology). Đó là cả một phong trào của các giáo sĩ và giáo dân phản ứng không khoan nhượng trước thực trạng xã hội đày rẫy bất công áp bức, bóc lột trong xã hội các quốc gia trong khu vực. Họ lục tìm trong Kinh thánh và trong Giáo huấn chân truyền của Giáo hội công giáo từ xưa nay, để xây dựng được một nhận thức đứng đắn, trung thực về vai trò dấn thân nhập cuộc của Giáo hội trong công trình giải thoát con người và xã hội khỏi các định chế chính trị xã hội hủ lậu, phản động và vô luân trong xã hội đương thời. Trừ một số nhỏ thiên về phía marxit cộng sản quá khích, còn đa số giáo sĩ và giáo dân đều giữ vững lập trường tranh đấu ôn hòa, bất bạo động của tôn giáo. Hệ thống tư tưởng tiến bộ này luôn được sự hưởng ứng của quần chúng giáo dân và giới chức sắc của giáo hội, mà tiêu biểu sáng ngời nhất là “Hội Đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh (CELAM = the Latin American Episcopal Conference). Dưới sự thôi thúc của những vị lãnh đạo năng nổ, nhiệt tình như Helder Camara, Hội Đồng này đã biểu quyết thông qua chủ trương rất tiến bộ là : “ Giáo hội phải dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo” ( Church’s Option for the Poor).

D – Vai trò của giới trí thức và văn nghệ sĩ.

Trong khi đó, thì giới hàn lâm đại học (Academia), cũng như giới văn nghệ sĩ, đều sôi nổi góp phần vào công cuộc dấn thân phục vụ xã hội, mà điển hình là sự đóng góp thật là vĩ đại của Paulo Freire với chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” như đã được trình bày rất khúc chiết trong cuốn “Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ đề cập chi tiết vế tư tưởng này trong một bài sau.

Cũng cần phải ghi thêm về ảnh hưởng của phong trào trí thức tả phái phát xuất từ Âu châu, đặc biệt là từ thập niên 1950, đối với tư tưởng và hành động của học giới và văn nghệ sĩ tại Châu Mỹ La tinh. Khuynh hướng “Bài Mỹ” (Anti-Americanism) từ Âu châu đã làm tăng thêm sự hậm hực, ân óan vốn có sẵn từ lâu đời đối với sự thống trị và khuynh lóat của chánh sách bá quyền (hegemony) của nước Mỹ đối với tòan thể các quốc gia và lãnh thổ yếu thế, mà lại bị chia rẽ, phân tán ở phía Nam bán cầu (hemisphere). Lâu lâu, người ta vẫn nghe thấy dân chúng tại đây hô thật to cái khẩu hiệu “Yankees, Go Home” (Người Mỹ, Hãy Cút Đi!) mỗi khi có phái đòan cao cấp của Mỹ đi qua một số thành phố lớn. Điển hình là vụ phản đối rầm rộ, đến độ xô xát bạo hành đối với Phó Tổng thống Nixon của Mỹ trong chuyến viếng thăm Nam Mỹ vào năm 1958.

Lại nữa, chánh phủ Mỹ vì luôn bênh vực che chở cho giới tài phiệt Mỹ làm ăn buôn bán khai thác tại các nước trong khu vực, nên đã cho thiết lập và ủng hộ các chánh quyền cực hữu, độc tài mà được đặt tên một cách mỉa mai là “Banana Republics”, vì chuyên làm tay sai cho các đại gia chuyên môn khai thác trồng chuối để xuất cảng về Mỹ, hoặc khai thác các nguồn lợi thiên nhiên khác, để thu về được một số lợi nhuận khổng lồ cho các tập đòan kinh tế có độc quyền khai thác, mà điển hình là United Fruit.

Trước tình trạng bất ổn căng thẳng như thế, ta không lạ gì với sự chống đối quyết liệt như của những lãnh tụ mới đây như Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela đối với nước Mỹ. Và qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về phản ứng dứt khóat và triệt để của giới trí thức như Paulo Freire trong bối cảnh chung của khu vực Châu Mỹ La tinh vậy./

( Bài 2 :  Giáo dục Giải phóng : Nội dung và Ảnh hưởng)

Vì yêu …

Vì yêu …

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

nguoi-yeu

Khi làm việc gì, ta thường được thúc đẩy bởi một động cơ nào đó. Động cơ ấy thêm sức cho ta, giúp ta được mạnh mẽ để thực thi và hoàn thành những dự tính của mình. Hơn bất kỳ một động cơ nào khác, tình yêu – vốn là một sự huyền nhiệm khôn tả – có một sức cuốn hút và khiến người ta trở nên “vô địch” trong những hành vi của mình. Chẳng ai biết tình yêu là gì, không ai có thể định nghĩa được tình yêu. Người ta chỉ có thể nhận ra nó như một cái gì đó từ một nơi bí ẩn xuất hiện vào lúc không ngờ làm điên đảo con người, làm mất hết lý trí, làm người ta chẳng hiểu nổi được mình. Đã có biết bao giai thoại về những câu chuyện tình lâm ly bi đát, hạnh phúc có, đau buồn có. Và cứ hệt như một điều được mọi người công nhận, áng thơ nào không có chút tình, áng thơ ấy chẳng có gì hay; câu chuyện nào chẳng có chữ yêu, câu chuyện ấy chẳng đủ sức làm co thắt lòng người. Vốn dĩ tình yêu đã là một điều khó hiểu trong số những gì khó hiểu nhất, càng suy nghĩ về nó, đào sâu, nghiên cứu về nó, ta lại càng như rơi vào một mê cung với bao điều khiến ta phải tròn xoe đôi mắt.

Vì yêu, ta sẵn sàng thay đổi chính mình. Một lối sống, một cung cách hành xử bị cho là thâm căn cố đế của ta, sẽ chẳng bao giờ ta chịu thay đổi cho đến khi ta yêu. Tình yêu ta dành cho ai đó sẽ khiến ta vui mừng và hớn hở lột xác khỏi con người cũ của mình. Ta bắt đầu chăm chút hơn về diện mạo. Ta tự nhận thấy mình phải đẹp hơn trong mắt người khác. Ta bỗng dưng sống có ý thức hơn, có trách nhiệm hơn. Ta muốn mình phải giỏi hơn. Ta cũng có động lực phải vượt qua tất cả những khiếm khuyết của mình để làm hài lòng người mình yêu, để “lấy điểm” trong mắt họ. Ta bắt đầu nghĩ đến tương lai. Suy nghĩ của ta cũng trở nên chín chắn cách lạ thường… Tất cả những điều đó diễn tả một niềm vui lớn lao trào ứ trong con tim của ta. Phải, có một hạnh phúc nào đấy không tên đang khuấy động bên trong con người ta, khiến ta thấy trời đất như đổi khác, trời đông lạnh lẽo bỗng hóa nên nắng xuân ấm áp chan hòa. Yêu một người là muốn gắn kết đời mình với người ấy và một cách tự nhiên, ta tự nhủ mình phải gọt dũa mình để hai bên có thể hòa hợp với nhau. Bởi thế, nếu ai cho rằng mình yêu mà không có chút biến đổi nào, người ấy chưa thực sự yêu.

Vì yêu, ta dường như có đủ sức mạnh để nếm trải tất cả những gian lao thử thách. Cái kỳ lạ của tình yêu nằm ở chỗ, nó có thể khiến người ta hạnh phúc khi phải hy sinh. Chẳng ai thích hy sinh, vì hy sinh có nghĩa là chịu thiệt thòi, mất mát. Nhưng hy sinh trong tình yêu lại khiến cho người ta thấy hạnh phúc và hân hoan. Con đường xa, lầy lội vì cơn mưa lớn có là gì đối với hai người yêu nhau. Núi cao sông dài có là gì khi con tim đã trao nhau. Nghìn năm chờ đợi có là chi khi lòng ta đã tìm thấy chỗ đáp. Tình yêu là thế, nó làm cho người ta sẵn sàng bỏ đi cái tôi, cái ngã, cái cao ngạo của mình mà không hề cảm thấy quá khó khăn hay vất vã. Bởi thế, ta sẵn sàng bị chê là “sến” khi nói những lời ngọt ngào dành cho nhau. Ta chẳng ngại xấu hổ khi tỏ tình với nhau. Ta cũng nhanh chóng cúi mình nói lời xin lỗi, dù có khi ta chẳng có  lỗi gì. Tình yêu gắn liền với một chút nhịn, một chút hy sinh, một chút từ bỏ. Có lẽ vì thế mà hoa hồng có gai, sô-cô-la vừa ngọt lại vừa đắng. Và chính tình yêu cũng được lớn lên nhờ những điều ấy. Không có một tình yêu nguyên vẹn nào sẵn tồn tại từ trời rơi xuống. Tình yêu cũng hệt như một ngọn đèn, biết chăm chút cho nó thì nó cháy, bỏ bê nó thì nó lụi tàn. Mà để có thể chăm chút cho nó, ta phải hy sinh nhiều lắm!

Người ta thường nói, khi yêu, ta phải cố gắng cố gắng để có được nhau trong cuộc đời. Điều đó đúng lắm! Nhưng sự huyền nhiệm của tình yêu vốn dĩ không có nguyên tắc: có đôi khi, chính vì yêu mà ta phải mạnh dạn để cắt đứt, để chia tay. Yêu nhau và đến được với nhau là hai chuyện khác nhau. Ta luôn mong muốn chúng là một, nhưng cuộc đời đâu phải lúc nào cũng thỏa đáp mong muốn của ta. Yêu là tiếng nói của con tim, còn việc san sẻ cả cuộc đời với nhau lại tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố. Lý trí không thể điều khiển được con tim, nó không thể cấm cản hành vi của con tim, nhưng nó lại có đôi mắt sáng để rọi vào từng cảm xúc của con tim. Biết là sẽ đau, rất đau, nhưng ta đành phải chấp nhận để một cuộc tình dang dở có một cái kết buồn. Ta làm thế, không phải vì ta không còn yêu, nhưng chính vì chữ yêu mới khiến ta đi đến quyết định ấy. Vì sao ư? Vì yêu thì mong muốn điều tốt đẹp cho người mình yêu, là xem người mình yêu hơn cả mình, chứ không phải tìm thỏa mãn cho chính mình. Chia tay vì một điều tốt đẹp quý giá hơn, đúng đắn hơn là một sự chia tay rất cao cả. Nó đòi hỏi một nghị lực lớn, một sự trưởng thành và cả một tình yêu – sự hy sinh vĩ đại.

Còn có biết bao điều phải nói về tình yêu! Người ta đã viết về nó, nói về nó trong suốt cả một lịch sử dài rồi mà còn chưa diễn tả đủ. Mãi mãi, tình yêu luôn là cái khiến ta bận tâm, dù ta có muốn hay không. Ai đã yêu thì sẽ rõ: nó còn hơn những gì có thể được nói hay biểu lộ ra. Nó làm biến đổi người khác, nó khiến người khác thích hy sinh, nó giúp người khác can đảm để làm điều mà họ chưa bao giờ muốn làm. Nó mang đến hạnh phúc cho người ta, nhưng nó cũng là nhân tố khiến người ta đau đến vô cùng. Nó đến như một kẻ trộm, chẳng ai chờ ai mong, nhưng nó cứ ở lì trong trái tim ta, chẳng chịu buông rời. Thế giới này trở nên phức tạp cũng vì chữ yêu, nhưng nó cũng trở nên phong phú nhờ chữ yêu.

Vì yêu…

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Khi báo chí chỉ là công cụ của nhà cầm quyền

Khi báo chí chỉ là công cụ của nhà cầm quyền

Song Chi.

RFA

Giữa muôn vàn tin tức, sự kiện tiêu cực có, tích cực có (mà phần lớn là tiêu cực) xảy ra trong đời sống xã hội VN thời gian gần đây, thông tin về tinh trạng sức khỏe của ông Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một trong những thông tin khiến người Việt trong và ngoài nước hết sức quan tâm.
Sau hơn một tháng “biến mất” một cách bí ẩn mặc cho mọi lời đồn đoán, đến ngày hôm qua, 25.7, ông Đại tướng được báo chí VN loan tin đã về đến Hà Nội từ Paris sau chuyến đi điều trị bệnh tại Pháp. Dù báo chí đã đưa tin, và báo Tuổi Trẻ còn có được một tấm hình quý hiếm chụp từ xa hình dáng một nhân vật trông hao hao ông Phùng Quang Thanh tại sân bay Nội Bài, nhưng không vì thế mà dư luận bớt nghi ngờ. Bởi nếu thực sự ông Phùng Quang Thanh còn sống và khỏe mạnh, chỉ cần một động tác đơn giản là để báo chí chụp cận mặt ông ấy hoặc để cho ông ấy xuất hiện ít phút trên truyền hình, nhà cầm quyền cũng không làm được.
Nhưng khác với nhiều người cho rằng dư luận đã thắng thế và nhà cầm quyền hoàn toàn bị động, lúng túng, vụng về trong suốt màn kịch về sự “mất tích và xuất hiện cũng như không” của ông Phùng Quang Thanh, người viết bài này lại nghĩ khác.
Đúng là xung quanh sự việc của ông Đại tướng, báo chí “lề dân” và các trang mạng xã hội tha hồ thoải mái, nhanh nhạy đưa tin, bình luận, săm soi trong lúc báo “lề đảng” bị trói tay, đưa thông tin gì, bao giờ đưa, đưa như thế nào…hoàn toàn phụ thuộc vào sự cho phép của đảng và nhà nước. Và đúng là nhà cầm quyền lúng túng trước cơn bão dư luận, cứ phải biện minh, bào chữa, và hễ đưa ra thông tin gì để bào chữa thì bị dư luận cầm kính lúp soi, vạch ra đủ thứ phi lý, mâu thuẫn, sai sót, khiến người dân càng nghi ngờ thêm. Nhưng cuối cùng đảng và nhà nước cộng sản VN vẫn dắt mũi được dư luận và đạt được mục đích của họ, đó là vẫn không ai biết được thực sự chuyện gì đã xảy ra cho ông Phùng Quang Thanh. Ông có thực sự phải vào bệnh viện Georges Pompidou ở Paris để trị bệnh không, và nếu có thì có đúng là bệnh về phổi, ông còn sống hay đã chết, sinh mạng chính trị của ông sắp tới sẽ ra sao cũng như nguyên nhân thực sự vì sao nhà cầm quyền phải ra sức giấu diếm, che chắn đằng sau câu chuyện này là gì.
Cũng giống như trước kia, với trưởng hợp của ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng Ban Nội chính Trung ương, phó trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Cho dù báo chí “lề dân” có phanh phui được việc ông Nguyễn Bá Thanh đang điều trị ung thư tại một bệnh viện ở Mỹ, có cả hình, thậm chí còn có thông tin ông bị đầu độc phóng xạ, buộc nhà cầm quyền phải lên tiếng, hay các trang mạng biết trước cả thông tin ông sẽ được đưa về VN ngày giờ nào…Nhưng tóm lại, vẫn không ai được nhìn hay nghe thấy hình, tiếng trực tiếp từ ông Nguyễn Bá Thanh kể từ lúc ông bị bệnh, dù ở nước ngoài hay lúc đã về nước, ông có thực sự chết vì bệnh rối loạn sinh tủy như tin chính thức cho hay, và chết vào ngày giờ nào (vì có người còn đặt nghi vấn trên chiếc máy bay từ Mỹ về có một vật rất giống cái hòm)…
Nghĩa là mặc dù nhà cầm quyền bị động, phải vất vả hết phủ nhận, chối cãi đến biện minh, nhưng cuối cùng, kẻ bị dắt mũi vẫn là nhân dân.
Cũng may mà thời bây giờ có internet, có tai mắt của người dân ở khắp nơi trong và ngoài nước mà đảng “ta” còn dắt mũi được dư luận như vậy, huống gì trước kia khi chưa có internet.
Có thể có những người cho rằng chuyện ông Phùng Quang Thanh còn sống hay đã chết, chết vì lý do gì thì có liên can gì đến ai, thêm hay bớt một quan chức, lại là một ông quan có tiếng thân Tàu thì có gì là quan trọng. Khi cả một hệ thống độc đảng độc tài “hèn với giặc ác với dân” vẫn còn tồn tại thì việc sống hay chết, lên hay xuống của một cá nhân cũng chẳng thay đổi được gì. Có thể nhưng lại cũng không hẳn là thế. Bởi trong tình hình hiện nay, mỗi một biến động xảy ra cho một cá nhân thuộc hàng cao cấp trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN đều cho thấy tình hình nội bộ bên trong đang rối ren như tơ vò, đấu đá lẫn nhau quyết liệt để tranh giành quyền lực cũng như hé lộ những bước đi chập chờn, nghiêng ngả của họ trong sự lựa chọn giữa ngã ba đường quốc tế, có ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước và dân tộc, tức là ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của từng người dân VN.
Quan trọng không kém, người dân cần phải biết rằng mình có quyền được biết sự thật mọi chuyện xảy ra cho đất nước và trong xã hội. Từ nguyên nhân vì sao giá xăng dầu tăng, tiền thuế của nhân dân đóng góp đi đâu, vì sao, cơ chế như thế nào mà một tay quan chức vụ không cao như Giang Kim Đạt (nguyên quyền Trưởng phòng Kinh doanh của Công ty TNHH MTV vận tải Viễn Dương Vinashin, thuộc Tập đoàn Vinashin) mà còn có thể tham nhũng đến gần 19 triệu USD và sẽ bị trừng phạt ra sao…cho đến tình trạng sức khỏe của một vị tướng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng…tât cả đều phải minh bạch. Bởi vì chính nhân dân chứ không phải cái đảng cộng sản mới là chủ nhân thực sự của đất nước này, chính người dân phải đóng thuế nuôi cái bộ máy cầm quyền này.
Sự việc thứ hai, cũng thu hút sự quan tâm của dư luận, là vụ thảm sát khiến 6 người trong một gia đình chết thảm tại Bình Phước. Hai sự việc chẳng liên quan gì đến nhau, và lý do quan tâm của người dân vì vậy cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng lại cho thấy những điểm chung mà hệ quả là từ một chế độ độc tài, không có một nền báo chí tự do, dân chủ. Đó là báo chí chỉ được đưa tin theo những gì mà nhà nước cho phép. Trong vụ sức khỏe của Đại tướng Phùng Quang Thanh là nguồn tin từ cấp nhà nước, còn trong vụ án mạng tại Bình Phước là tin tức do công an cung cấp.
Ở các nước tự do, dân chủ trong khi đang điều trị bệnh hoặc tệ nhất, sau khi điều trị xong trở về, một nhân vật cỡ Bộ trưởng Bộ quốc phòng như ông Thanh phải có “nghĩa vụ” xuất hiện trước truyền thông bằng cách này cách khác đề thông báo cho nhân dân an tâm rằng mình vẫn còn sống, vẫn minh mẫn, vẫn có thể tiếp tục làm việc. Còn trong những vụ án, đặc biệt án gây chấn động dư luận như vụ án tại Bình Phước, cảnh sát phải có nghĩa vụ họp báo ngay tức khắc để thông tin chính xác cho báo chí và sau đó thường xuyên cập nhật tin tức, chứ không phải đợi mấy ngày sau mới họp báo rồi còn trách báo chí đưa tin không đúng điểm này điểm kia.
Cả hai sự việc đều cho thấy lòng tin của người dân đối với nhà cầm quyền đã sút giảm một cách nghiêm trọng, trừ một thiểu số vẫn cứ nhà nước nói gì là nghe là tin nấy, bây giờ đối với đa số người VN nhà nước nói gì cũng không tin hoặc chỉ tin một phần nào. Trong câu chuyện về ông Phùng Quang Thanh, người dân hoàn toàn có lý do để nghi ngở bởi mới trước đó không lâu, nhà cầm quyền cũng tìm cách che chắn xung quanh vấn đề sức khỏe của một ông Thanh khác, ông Nguyễn Bá Thanh. Và lần này nhà cầm quyền cũng lại có thái độ loanh quanh dấu đầu hở đuôi, vụng về không khác. Còn trong vụ án Bình Phước, người dân nghi ngờ vì sao phá án quá nhanh, có bị tác động gì từ sức ép của dư luận không, vì sao có quá nhiều điểm còn nghi vấn, vì sao không cho thực nghiệm lại hiện trường… Nhưng lý do trên hết vẫn là vì từ trước tới nay đã có quá nhiều vụ án oan sai, người bị bắt thừa nhận tội ác dù không thực hiện chỉ vì bị nhục hình, bị bức cung.
Sự mất lòng tin này là hậu quả mà nhà cầm quyền xứng đáng nhận lãnh, bởi đã hàng triệu triệu lần dối trá bưng bít, bóp méo sự thật với nhân dân.
Trong một chế độ độc tài, số phận của mọi người dân-từ những thân phận tầm thường như những nghi phạm trong vụ án Bình Phước cho tới một nhân vật chính khách cấp cao như ông Phùng Quang Thanh đều hết sức mong manh. Càng leo cao càng bấp bênh. Đến lúc đảng không cần nữa thì cho sống hay chết, lúc nào mới được chết, cho thân bại danh liệt theo kiểu nào là tùy đảng. Số phận của ông Phùng Quang Thanh và phản ứng của số đông dân chúng trong suốt thời gian qua may ra có thể khiến cho những nhân vật khác trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN phải suy nghĩ, rằng trung với đảng có ngày cũng bị chính các đồng chí của mình hãm hại, mà dân thì oán ghét. Chi bằng trung với dân với nước, khi còn tại vị cố gắng sống cho tử tế, tìm cách thoát khỏi đảng hoặc ít nhất, tìm cách lái đảng đi theo con đường dân chủ hóa, thoát Trung, gần với các nước dân chủ để cứu nước, thì còn được lòng dân. Có dân bên cạnh lo gì không làm được tất cả.
Không phải đợi đến bây giờ, từ những vụ việc như thông tin về tình trạng sức khỏe và sinh mệnh chính trị của Đại tướng Phùng Quang Thanh hay vụ án Bình Phước, mới cho thấy sự cần thiết phải có một nền báo chí tự do dân chủ. Không có một nền báo chí tự do, độc lập, nhà cầm quyền còn dắt mũi người dân dài dài, đảng còn thao túng đất nước dài dài, từ cái thuở xa xưa xung quanh nhân thân, lý lịch, cái chết của ông Hồ Chí Minh cho tới tận bây giờ. Không có báo chí tự do dân chủ, một vụ án hình sự như Bình Phước, khó mà biết được liệu có oan sai hay ít nhất, có bỏ lọt tột phạm, nguyên nhân vụ án có thực là vì ghen tuông cộng với tiền bạc hay có ai đứng đẳng sau thuê giết người vì lý do khác…; cho tới những “nghi án chính trị” như kiểu Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh, có thực là những vụ triệt hạ lẫn nhau bằng đủ mọi cách mờ ám v.v…

Tất nhiên, có một nền báo chí tự do không đủ, phải có một thể chế chính trị đa đảng, tam quyền phân lập để hạn chế quyền lực trong tay một đảng lãnh đạo duy nhất.

Và cuối cùng về phía người dân, bài học nhỏ cho những ai còn một lòng một dạ tin vào nhà cầm quyền, vào hệ thống báo chí của đảng, đó là khi phải sống trong một chế độ độc tài toàn trị ở đó luật pháp hay báo chí đều nằm trong tay nhà cầm quyền, người ta phải tập cách “đọc giữa hai dòng chữ” từ những gì mà nhà nước nói, báo chí của đảng nói, tập phân tích, phán đoán sự việc bằng cái đầu của mình, thay vì cứ nhất nhất tin theo.

Những câu hỏi về ông Phùng Quang Thanh

Những câu hỏi về ông Phùng Quang Thanh

Nguyễn An Dân

27-07-2015

Ông Phùng Quang Thanh có xuống sân bay Nội Bài ?

Hơn một tháng kể từ khi ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam- Phùng Quang Thanh “mất tích” trước công chúng và truyền thông, sáng ngày 25/07/2015, theo báo đảng thì “Ông Thanh đã về đến sân bay Nội Bài và khỏe mạnh, vẫn giữ tác phong đĩnh đạc và tươi cười vẫy tay chào mọi người khi bước xuống cầu thang máy bay”.

Trong suốt thời kỳ ông Thanh “biến mất”, theo thông báo chính thức của Ban bảo vệ sức khỏe trung ương thì ông Thanh “đi Pháp từ ngày 24/06/2015 để chữa bệnh về phổi chứ không đi công vụ”.

Trong khi những lời diễn tả rất sinh động và gợi nên niềm tin trong lòng độc giả về việc trở về của ông Thanh tại sân bay thì phần hình ảnh lại trái ngược. Báo chí khi đưa hình đều chỉ đăng như nhau một hình ảnh “một người được gọi là Ông Phùng Quang Thanh” chụp từ xa, không rõ nét, của phóng viên báo Tuổi Trẻ đang chuẩn bị lên xe ở khu vực sân bay Nội Bài.

Cùng ngày, Báo Quân Đội Nhân Dân và website Bộ Quốc Phòng Việt Nam, đã không hề đưa tin gì về việc ông Thanh khỏe và đã về đến Việt Nam, hay là sức khỏe của ông đứng đầu Bộ Quốc Phòng không quan trọng đối với 2 cơ quan thông tin này, nên họ không cử phóng viên ra sân bay làm tin ?

Ngày 26/07/2015, một số báo chí Việt Nam có đưa tin tiếp là nhiều lãnh đạo đảng, chính phủ như ông Nguyễn Phú Trọng, Ông Trương Tấn Sang, Ông Nguyễn Xuân Phúc.. đến gặp và trò chuyện với ông Phùng Quang Thanh nhưng cũng không có hình ảnh nào khi các ông này gặp nhau.

Dư luận đang có nhiều đồn đoán về sự mất đoàn kết, chia rẻ giữa đảng và chính phủ, giữa các quan chức với nhau, đảng đã luôn nói “ đó là sự tuyên truyền sai trái của thế lực thù địch”. Như vậy một vài tấm hình các quan chức thăm viếng nhau sau hơn một tháng xa cách, sẽ là bằng chứng quan trọng thể hiện sự đoàn kết mà đảng luôn nhấn mạnh, tại sao không thực hiện và đưa lên cho công chúng xem để “phản bác thông tin sai trái của các thế lực thù địch” ?

Vì sao ông Thanh “biến mất

Bản tin chính thức cuối cùng về ông Thanh là trên báo Quân Đội Nhân Dân, ngày 20/6/2015 đã loan tin là “ông Thanh thăm và làm việc với Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp hôm 19/6, kèm theo ảnh chụp. Sau đó là một sự vắng bóng hoàn toàn, thậm chí kết quả ông Thanh đi Pháp thế nào, cũng hoàn toàn không có báo chí nào nhắc đến. Tại sao lại thông tin về chuyến công du và hợp tác này bị “lờ đi” ?

Đến khi dư luận bắt đầu rộ lên về việc ông Phùng Quang Thanh “biến mất” ban bảo vệ sức khỏe trung ương phát biểu, mà phần lớn “phát ngôn chính thức” là ông bác sĩ Phạm Gia Khải. Ông Khải đã nói Ông Thanh đi Pháp trị bệnh từ ngày 24/6/2015 sau khi chúng tôi hội chẩn, chứ không có đi Pháp vì công vụ.

Tin từ báo Quân Đội Nhân Dân và ông Phạm Gia Khải đều được coi là “chính thức”, có lẽ nào ông Thanh ngày 19/06/2015 bắt tay Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, ngày 20/06/2015 trở về Việt Nam, và sau 2 ngày “hội chẩn” thì ngày 24/06/2015 lại sang Pháp trị bệnh ? Vì sao ông Thanh đi Pháp công du giữa tháng 6/2015 mà ông Khải và truyền thông Việt Nam lại phủ nhận và “lờ đi” ?

“Thông tin chính thức” mà còn đá nhau như vậy nên đã làm rộ lên các thông tin đồn đoán, nào là Ông Thanh bị ám sát khi còn ở Pháp, cùng với các thông tin khác như bị bắt giam ở Việt Nam, đã tị nạn sang Trung Quốc vì “thuộc phe Thân Tàu”…

Về tin ông Thanh bị ám sát ở Pháp e rằng không thực tế. Ông Thanh đến Pháp trên tư thế quốc khách, nếu ông bị ám sát thật thì chính phủ và truyền thông Pháp phải vào cuộc và loan tin chính thức vì nó ảnh hưởng đến quốc thể của họ, đằng này phía Pháp không nói gì cả, cho thấy nhận định này thiếu sự hợp lý.

Về tin ông Thanh trốn sang Trung Quốc vì do bị “phe thân Mỹ” chèn ép thì cũng có đôi lời góp ý. Các phe phái trong đảng dù tranh chấp thế nào, nhưng trước công luận họ luôn giữ hình ảnh ổn định. Trung Quốc đang là kẻ xâm lược biển đảo Việt Nam, thì khả năng đảng để ông Thanh “sổng qua Trung Quốc” là rất thấp. Một vụ việc như thế lúc này sẽ làm quần chúng nhận định “có bao nhiêu quan chức cao cấp của đảng tư thông với địch”, điều này sẽ làm đảng mất uy tín nghiêm trọng và khó thể biện giải .

Nên tôi nhận định dù Ông Thanh có muốn trốn đi tị nạn chính trị ở Trung Quốc đi nữa, đảng cũng không cho phép điều đó xảy ra, dù phe thân Tàu hay thân Mỹ cũng thế.

Thông tin còn lại duy nhất là hiện ông Thanh đang bị giam lỏng nên không xuất hiện được. Thông tin này theo tôi có cơ sở căn cứ vào những diễn biến trong đảng và cách đảng thông tin về ông Thanh hiện nay.

Tiến có thể công, lùi có thể thủ

Trong cách thông tin về “bệnh nhân Phùng Quang Thanh” của đảng có những nét khác với cách thông tin về “bệnh nhân Nguyễn Bá Thanh” trước đây mà bạn đọc cần lưu ý, dù rằng đảng đang nói hai người khi biến mất đều “ đi chữa bệnh” như nhau.

Đảng khi thông tin về ông Bá Thanh, phát ngôn lạc quan nhất, như “ăn hết một tô cháo”, cũng đều lưu lại một đường lùi cho đảng, đó là “ bệnh suy tủy rất khó trị và sẽ còn diễn biến phức tạp”. Chính câu này nên nhiều người đã đoán trước là sau đó, đảng sẽ công bố ông Thanh chết, và kết quả đúng y như dư luận đánh giá.

Ngược lại, dù hình thức thông tin là như nhau, nghĩa là ông Phùng Quang Thanh cũng bệnh, cũng biến mất như ông Bá Thanh kia nhưng đảng vẫn nói “ông Thanh khỏe lắm, và đã vào Bộ Quốc Phòng làm việc, có ông A, bà B đến thăm trò chuyện vui vẻ”…nhưng không có hình ảnh.

Như vậy chứng tỏ các cuộc thăm viếng trò chuyện này e rằng không có thực. Nhưng đảng vẫn kiên trì nói ông Thanh khỏe, đã làm việc lại kiểu “không chừa đường lùi” cho đảng là ông Thanh sẽ được công bố chết (vì đã chết), như kiểu mô tả ông Bá Thanh kia. Thành ra tôi nghĩ ông Thanh quân đội vẫn còn sống và khỏe mạnh, chỉ là bị giữ lại ở đâu đó, có cái gì đó chưa xong nên chưa được tự do trước công chúng.

Ai đã bắt giữ ông Phùng Quang Thanh ?

Trong đảng đang có sự tranh chấp đường lối giữa 2 phe thân Tàu-Thân Mỹ như chúng ta đã biết, thì việc người ta đánh giá ông Phùng Quang Thanh thuộc phe thân Tàu cũng có lý do của nó, căn cứ vào những phát ngôn và ứng xử trong quan hệ Việt-Trung của ông này lâu nay.

Cũng trong tình thế Trung Quốc đang lấn lướt Việt Nam, và có khả năng cũng đang giật dây Campuchia gây hấn vùng Tây Nam Việt Nam, thì việc một ông bộ trưởng quốc phòng có xu hướng “thân Trung Quốc” trong cơ cấu lãnh đạo an ninh tối cao là điều mà phe thân Mỹ dĩ nhiên quan ngại.

Dân chúng cũng quan ngại, trong tháng 5/2015, đã có nhiều ý kiến cử tri, nhất là ở thành phố Đà nẵng, kiến nghị quốc hội chất vấn ông Phùng Quang Thanh, trên tư cách người có trách nhiệm cao nhất về an ninh quốc gia, phải chịu trách nhiệm gì trước hiện trạng Trung Quốc bành trướng Biển Đông (6).

Một khi quan điểm chính trị cũa ông Thanh làm phe thân Mỹ và quần chúng quan ngại như thế, việc bắt giữ để buộc ông Thanh trao lại quyền lực là vấn đề phải làm, chỉ còn là làm như thế nào?

Tôi loại trừ khả năng ông Thanh bị ám sát chết vì những lý do sau đây

– Khác với cái chết đầy nghi vấn khác gần đây của tướng Ngọ hay ông Bá Thanh, được hồ nghi là để ngăn chặn mở rộng điều tra vụ án tham nhũng-hối lộ cực lớn có dính đến một số quan chức tầm ủy viên Bộ Chính Trị nên nó có khả năng là thanh trừng bịt miệng (nếu không do bệnh). Còn ở đây, việc loại trừ ông Phùng Quang Thanh hoàn toàn là thay đổi xu hướng đối ngoại. Chúng ta cần phân biệt rõ ám sát để bảo vệ phe nhóm thì hay diễn ra, còn thay đổi xu hướng chính trị thì chỉ cần chính khách buông ra quyền lực thì sẽ ít bị ám sát.

– Trong bối cảnh nhóm thân Mỹ cần sự ủng hộ rộng rãi của ban chấp hành Trung Ương vì bầu bán sắp đến, việc ám sát một quan chức thuộc phía đối lập chỉ vì khác quan điểm chính trị trong lúc còn thỏa hiệp được là điều rất không khôn ngoan, và nó có thể gây phản tác dụng. Các quan chức cùng thân Trung Quốc khác như ông Thanh biết ông đã bị ám sát chết thì chỉ mau chóng đẩy họ vào hoàn cảnh đường cùng phải tự vệ quyết liệt, và nó sẽ không hay cho phe thân Mỹ

Chúng ta thấy hiện nay trong đảng đang có sự chuyển giao quyền lãnh đạo quân đội từ phe Thân Trung sang phe Thân Mỹ. Và vì thế, ông Thanh cần bị cô lập để tiến trình này được xúc tiến yên ả. Cũng như việc cho ông Thanh rời ghế lãnh đạo quân đội trong bối cảnh an ninh quốc gia bị Trung Quốc và Campuchia đe dọa có vẻ là một quyết định hợp lòng dân.

Có một nhận định khác cho rằng dù trong hơn 1 tháng qua, quá trình chuyển giao có xong thì cũng chưa thả ông Thanh ra được, vì phe thân Mỹ muốn gieo rắt sự khó hiểu cho tình báo Trung Quốc. Một khi chưa biết rõ quyết định của nhóm thân Mỹ về ông Thanh, thì phía Trung Quốc sẽ khó đưa ra quyết định chính xác để giải quyết vấn đề Việt Nam. Việc Tập Cận Bình ngỏ ý muốn sang thăm Việt Nam sắp đến chính là một phần để giải tỏa nghi vấn này và dễ dàng đưa ra quyết định chính xác chăng ?

Về đối nội, việc phe thân Mỹ kiên trì bắt giữ ông Thanh và cứ công bố ông Thanh khỏe, phải chăng là để “vừa đe dọa vừa trấn an” những nhân sự cao cấp khác trong đảng thuộc phe trung lập không trở cờ vào kỳ bầu bán ở Đại Hội Đảng 12 sắp đến ? đại loại như “Cỡ Phùng Quang Thanh mà còn bị chúng tôi tạm giữ, các ông khác thì chúng tôi ngại gì nếu cần” ?

Cũng vậy, về phía phe thân Trung Quốc, tôi nghĩ họ đồng ý thỏa hiệp cùng phe thân Mỹ công bố thông tin Thanh còn khỏe cũng là để trấn an người của phe này, đại khái là “ dù nhóm thân Mỹ có bắt giữ ông Thanh, nhưng hãy yên tâm là ông Thanh còn sống”.

Thế là cả hai bên đều đồng ý cùng nhau thông tin “ÔngThanh đã khỏe và đĩnh đạc, đã về bộ làm việc lại” nhưng không có hình ảnh nào, như chúng ta đã thấy trên báo chí của đảng.

Khi nào ông Thanh xuất hiện là câu hỏi hiện nay đang nóng. Tôi không dám đưa ra dự đoán vì các quyết định chính trị trong các thể chế độc tài thường chỉ mang tính ngắn hạn và bất định, tuy nhiên tôi có thể đánh giá việc ông Thanh xuất hiện sớm hay muộn nó phụ thuộc vào cuộc thăm viếng cao cấp của Việt-Trung sắp đến, vào kết quả của Hội Nghị TW Đảng 12 vào cuối năm, vào diễn biến biên giới Việt Nam-Campuchia, vào diễn biến biển Đông.

Và cũng còn một khả năng cuối cùng, là một ngày nào đó, đảng sẽ thông tin là ông Thanh ra đi vì một bệnh cấp kỳ nào đó như tim mạch, đột quỵ vào lúc kết cuộc của bàn cờ chính trị Việt Nam, Khi mà vai trò con xe của ông Thanh trên bàn cờ an ninh quốc gia đã không còn cần thiết. Cái mốc kết thúc ván cờ chuyển đổi xu hướng chính trị lần này là Đại Hội 12 của đảng.

_____

Các thông tin dẫn trong bài:

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150725/dai-tuong-phung-quang-thanh-da-ve-den-ha-noi/782886.html

http://nguyentandung.org/tin-moi-nhat-ve-suc-khoe-dai-tuong-phung-quang-thanh.html

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150726/tong-bi-thu-truc-tiep-tham-dai-tuong-phung-quang-thanh/783360.html

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/quan-doi/tang-cuong-hop-tac-quoc-phong-gop-phan-thuc-day-quan-he-doi-tac-chien-luoc-viet-phap/365010.html

http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/bo-truong-phung-quang-thanh-se-dieu-tri-o-phap-2-3-tuan-2015070217103184.htm

http://nguyentandung.org/sao-khong-thay-quoc-hoi-chat-van-bo-truong-quoc-phong.html

Dư luận nghi ngờ việc Đại Tướng Phùng Quang Thanh về nước

Dư luận nghi ngờ việc Đại Tướng Phùng Quang Thanh về nước

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Báo chí chính thống CSVN đưa tin “lịch làm việc dày đặc” của bộ trưởng Quốc Phòng vừa về Việt Nam trong khi dư luận vẫn chưa hết nghi ngờ tấm hình chụp ông “bước xuống máy bay ở phi trường Nội Bài” hôm 25 Tháng Bảy.

Tấm hình với chú thích, “Đại tướng Phùng Quang Thanh, mặc complet
màu nhạt chuẩn bị lên xe.” (Hình: Tuổi Trẻ)

Các báo điện tử VietnamNet, Tuổi Trẻ, Đất Việt, VnExpress đưa một số tin tiếp theo hôm Chủ Nhật 26 Tháng Bảy cho biết, vừa về tới Việt Nam sau một tháng ở thủ đô Pháp chữa bệnh, Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị Đảng CSVN, không những bận rộn với sự đón tiếp, thăm hỏi của các lãnh đạo đảng và nhà nước, mà đã đến ngay Bộ Quốc Phòng “làm việc đến chiều” sau khi ghé qua nhà một thời gian ngắn.

Trong một bản tin hôm Chủ Nhật, tờ Tuổi Trẻ dẫn lại lời Trung Tướng Vũ Văn Hiển, chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng, cho biết, “Hôm qua 25 tháng 7, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sau khi điện đàm đã đến trực tiếp trò chuyện với anh Phùng Quang Thanh. Hôm nay 26 tháng 7, Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc… cũng đến thăm.”

Tờ Tuổi Trẻ thuật lời ông Hiển cho hay, “theo lịch công tác dự kiến và đã được sự đồng ý của Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh, vào ngày 27 tháng 7, đại tướng sẽ làm trưởng đoàn đại biểu Quân Uy Trung Ương, Bộ Quốc Phòng vào lăng viếng Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Tối cùng ngày, bộ trưởng dự kiến tham dự chương trình giao lưu nghệ thuật khát vọng đoàn tụ được tổ chức tại hội trường Bộ Quốc Phòng và được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình quốc gia và kênh truyền hình Quốc Phòng Việt Nam.”

Tuy nhiên, sau đó, trong một bản tin khác, tờ Tuổi Trẻ nói lại chuyện đến lăng ông Hồ Chí Minh là “do bộ trưởng bận công việc nên lịch trình này có thể thay đổi vào giờ chót, nếu có sự thay đổi thì Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội nhân dân Việt Nam) sẽ dẫn đầu đoàn.”

Người ta đưa ra tấm hình này để nêu nghi vấn ông này đóng thế cho
ông Phùng Quang Thanh. (Hình: Facebook-TTXVA)

Tương tự như vậy, “việc Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh tham dự chương trình giao lưu nghệ thuật Khát vọng đoàn tụ được tổ chức tại hội trường Bộ Quốc Phòng hiện mới là dự kiến, chưa được khẳng định chính thức,” tờ Tuổi Trẻ viết lại.

Một số báo, kể cả TTXVN, thuật lời đưa tin hãng thông tấn Đức DPA gửi thư xin lỗi ông Phùng Quang Thanh đưa tin sai nói ông đã chết một tuần trước đó, hôm Thứ Bảy, 19 Tháng Bảy.

Nhiều báo ở Việt Nam đưa tin ông Phùng Quang Thanh từ Pháp về đến Hà Nội sáng Thứ Bảy 25 Tháng Bảy sau một tháng vào bệnh viện George Pampidou tại Paris cắt “khối u” ở phổi. Chỉ có tờ Tuổi Trẻ là có tấm hình duy nhất với chú thích: “Đại Tướng Phùng Quang Thanh, mặc complet màu nhạt chuẩn bị lên xe.”

Tấm hình hơi mờ nên một số người cho rằng người trong tấm hình của tờ Tuổi Trẻ chỉ là người khác “đóng giả” Phùng Quang Thanh. Nhiều tờ báo đồng loạt đưa tin ông Phùng Quang Thanh về đến Hà Nội sáng Thứ Bảy, 25 Tháng Bảy, nhưng hoặc đưa các tấm hình cũ, hoặc không có hình gì cả.

Một số trang mạng xã hội phổ biến trên Facebook cho rằng có người “đóng thế” cho ông Phùng Quang Thanh ở phi trường, và nói rằng đó là ông Nguyễn Thanh Bình, một người có chiều cao và nét mặt hơi giống với ông Thanh.

Ông Nguyễn Thanh Bình (sinh 1957) hiện đang là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa XI, phó trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương, nguyên bí thư Tỉnh Ủy, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Hà Tĩnh. Ông là bí thư tỉnh đầu tiên tại Việt Nam trúng cử theo phương thức đại hội bầu trực tiếp.

Hồi ông Nguyễn Bá Thanh, trưởng Ban Nội Chính Trung Ương Đảng CSVN, bị bệnh viện Mỹ điều trị ung thư khuyến cáo về nhà nằm chờ chết vì họ đã hết cách, không thấy báo chí trong nước đưa tin cho tới khi có một tấm hình nói rằng đó là hình ông trong một bệnh viện ở Mỹ được tung ra trên các diễn đàn thông tin “lề trái.” (TN)