TẨY RỬA TRÁI TIM

TẨY RỬA TRÁI TIM

Thiên Phúc

Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamarov” có kể lại câu chuyện sau đây:  “Vào thời đại của toà phán quan ở Tây Ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo.  Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường.  Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam.  Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống hàng trăm tên tà giáo “Ad majorem gloriam Dei.”

Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức Hồng Y giáo chủ, Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người.  Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người.  Người lặng lẽ  vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi.  Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người.”  Một cái vảy rơi xuống và cụ nhìn thấy được.  Dân chúng vui mừng chảy nước mắt, và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua.  Những em bé tung hoa trên lối Người đi.

Đức Kitô dừng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi.  Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở.  Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh.”  Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con.”  Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.

Đúng lúc đó, Hồng Y Giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua.  Từ xa ông đã thấy hết.  Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh.  Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn.  Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt Người.  Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng.  Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu.  Ông vào ngục một mình gặp Người.  Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá.”  Ông tuyên bố: “Tôi chẳng rõ Người là ai.  Hình như Người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa.”

*************************************

Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các Biệt phái và Ký lục Do Thái.  Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh điều ấy.  Đức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 km đường bộ để chỉ hỏi tại sao môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn.  Điều đó cho thấy người Do Thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.

Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế.  Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa.  Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện.  Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn.  Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thấm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.

Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài.  Nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội.  Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”  Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ.  Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.

Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim.  Họ rửa tay để được an tâm.  Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn.  Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó.  Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người.  Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim.  Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x Mc 7, 21-22).  Michael Taeboit nói: “Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng.”

Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim.  Đổi được trái tim là đổi được tất cả.  Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy.  Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không đúng đắn.  Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.  Thánh Phaolô đã quả quyết:  “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 3).

*************************************

Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương.  Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em.  Amen!

Thiên Phúc

Rồi có một ngày…

Rồi có một ngày…

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi thường nghe những câu hỏi trăn trở của những người tị nạn Cộng Sản bỏ nước ra đi:

– Liệu năm nay Việt Nam có gì thay đổi không?

– Bao giờ thì Việt Nam không còn Cộng Sản?

(Hình minh họa: Andreas Altwein/AFP/Getty Images)

Hầu hết những người Việt bỏ đất nước từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn, đã nói với tôi rằng, họ chỉ trở lại Việt Nam khi không còn chế độ Cộng Sản trên quê hương nữa. Một vài vị lớn tuổi “gần đất xa trời” an ủi với nhau rằng, “có lẽ ta đâu mãi thế này” và mong được sống thêm vài năm nữa, để nhìn ngày tàn của chế độ Cộng Sản.

Nhưng bao giờ thì chế độ Cộng Sản sụp đổ?

Năm năm? Mười năm? Mười lăm năm? Và bây giờ 40 năm đã trôi qua!

Mà khi Việt Nam không còn Cộng Sản nữa thì đất nước này sẽ ra sao?

Cũng khó tưởng tượng ra có một cuộc thay đổi êm ái, đảng cầm quyền ra đi, tổ chức bầu cử tự do, các cơ chế hoàn toàn thay đổi, Hiến Pháp được viết lại, Việt Nam có đa đảng. Nhiều người còn mang ảo tưởng lạ lùng là “hải ngoại” sẽ được Bộ Chính Trị Đảng CSVN mời về “bàn giao” trong êm thấm trong khi họ lặng lẽ cuốn gói ra đi, và những “chủ tịch,” “thủ tướng,” và “quốc trưởng” ở đây sẽ về nhậm chức mà không cần đổ một giọt máu, kiểu nói “bất chiến tự nhiên thành” và dưới cái quan niệm sẽ được cường quốc này, đất nước nọ “bật đèn xanh…”

Nếu có một cuộc cách mạng thật sự đúng nghĩa bùng nổ, thì cuộc cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản ở Việt Nam phải là một cuộc cách mạng đổ máu tàn khốc nhất trong lịch sử. Bốn mươi năm qua, chế độ Cộng Sản này đã gây bao nhiêu thảm họa, tai ương cho miền Nam và đối với miền Bắc là 70 năm. Chẳng ai là không có mối thù với Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Bao nhiêu thủ đoạn tù đày, kỳ thị, đánh tư sản, đổi tiền, đày đọa người dân rời bỏ thành phố hay đuổi họ xuống tàu ra biển.

Chẳng có gia đình nào tránh khỏi đau khổ, tù đày, chia lìa, chết chóc hay bần cùng. Ngay trong thời đại “tự do,” “hạnh phúc,” liệu những gia đình nạn nhân Đoàn Văn Vươn bị cưỡng chế chiếm đất, những mẹ con như gia đình bà Phạm Thị Lài trần truồng bị kéo lê trên nền đất, những phụ nữ như bà Lê Thị Trâm bị xe xúc chèn lên thân, cũng như gia đình có thân nhân chết mờ ám trong đồn công an, hàng triệu nạn nhân của chế độ công an trị, có bằng lòng một cuộc chuyển quyền êm ái không?

Cho thuận lẽ nhân quả ở đời sẽ có một cách mạng “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu?”

Nhưng thành phần nào sẽ cầm đầu cuộc cách mạng này, và đừng có ảo tưởng là sẽ có một lực lượng ngoại nhập phát xuất từ Mỹ, từ Úc hay từ… Tàu.

Tuy vậy cũng sẽ không có chuyện biển máu với 3 triệu đảng viên Cộng Sản Việt Nam bị đem ra bắn bỏ, bị tịch thu tài sản, bị lùa vào các trại tù, hoặc đẩy chạy sang Tàu. Nhưng làm thế nào để Việt Nam có một cuộc thay đổi, Cộng Sản không còn là đảng cầm quyền và Việt Nam sẽ trở thành một đất nước có chế độ đa đảng. Nhưng vào thời điểm đảng Cộng Sản không còn nữa, Việt Nam sẽ ra sao?

Cũng như sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, ở Việt Nam cũng sẽ có rất đông đảo, hàng triệu người đã vứt thẻ đảng và ra khỏi đảng. Trừ một số đảng viên đã chuẩn bị “hạ cánh” với bất động sản, tiền ngân hàng hay cơ sở kinh doanh ở Mỹ, Úc, Canada… nhưng 3 triệu đảng viên Cộng Sản với châm ngôn “đảng còn ta còn” và tổng cộng các lực lượng an ninh đủ loại với ít nhất là 6.9 triệu người (theo Giáo Sư Carl Thayer) với khẩu hiệu “công an nhân dân chỉ biết còn đảng, còn mình” sẽ là một vấn nạn khó xử cho xã hội mới, một khi “mất đảng,” nhưng chúng nhất quyết chưa chịu “mất mình.”

Người viết không có khả năng phân tích tình hình chính trị Việt Nam sau khi không còn đảng Cộng Sản cầm quyền hay chuyện kinh tế của Việt Nam thời hậu Cộng Sản, nhưng cứ nghĩ đến cái đất nước tan hoang, sau 40 năm cai trị của đảng này, thì cái giấc mơ nghĩ đến một ngày nào đất nước hết Cộng Sản, cũng chẳng phải là một giấc mơ tốt đẹp.

Có thể Cộng Sản sẽ để lại cho đất nước những cái cầu tráng lệ, những xa lộ tối tân, những con tàu “siêu tốc,” những cái tháp truyền hình đi vào kỷ lục, những lâu đài kiến trúc đẹp đẽ, những sân bay hiện đại và dai dẳng những món nợ con cháu trả mấy đời không hết. Và những vạn dặm rừng, nghìn vuông đất cho thuê chưa lấy lại được, nhưng cũng không đau xót bằng hằng triệu con người mất cả niềm tin vào tương lai, lòng người ly tán, đạo lý suy đồi.

Muốn xây dựng lại xã hội phải xây dựng con người, mà xây dựng một con người phải mất bao nhiêu năm?

Hồ Chí Minh sao chép câu “Bách niên thụ nhân” của Quản Trọng bên Tàu, nhưng với hạt giống vốn bể nát, thối tha của người khác đã vứt đi lượm đem về, gieo trồng trên đám đất đai chai lỳ toàn trị, bón bằng những thứ phân bón tha hóa, xấu xa, dối trá; tưới bằng thứ nước dơ bẩn của bạo lực, cường quyền, thì cây không có trái, hoa không dám nở, mà chỉ sinh sản ra một loài cỏ dại. (*)

Một xã hội mà chủ động mãi dâm còn tuổi vị thành niên, khi bị công an bắt còn xin về đi thi trung học phổ thông. Một xã hội mà một thanh niên chỉ mới 22 tuổi cắt cổ sáu người mà vẫn có giấc ngủ yên lành. Một xã hội có những đứa trẻ 14 tuổi đi bán dâm trong khi đã mang thai bốn tháng. Một xã hội mà thanh niên lớn lên không có nhà máy, chỉ toan tính chạy vạy tìm cách ra nước ngoài làm thuê, ở mướn. Một xã hội mà thiếu nữ nông thôn lớn lên không có một thời yêu đương, thơ mộng, bỏ ruộng vườn, lăm le đi khỏi mướt kiếm một tấm chồng, hay kể cả chuyện bán thân, miễn có một đời sống no đủ. Một xã hội mà sinh viên, người mẫu sẵn sàng lên giường vì đồng đô la. Một xã hội mà người ác, kẻ tham được bảo vệ, người làm điều xấu không biết nhục, kẻ trung trực, ngay thẳng thì bị đọa đày.

Liệu có một vị cứu tinh dân tộc nào xuất hiện trong giai đoạn này để cứu nước, độ dân không? Nước Nhật sau hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki, và cả trận sóng thần xảy ra năm 2011, đã đứng dậy tái thiết, khắc phục hậu quả của những thảm họa chiến tranh và thiên tai, nhờ tinh thần và phẩm chất truyền thống của dân tộc Nhật. Nhưng với “thảm họa dân trí, đạo đức” mà chế độ Cộng Sản để lại cho Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, mà chúng ta thường gọi là một trận hồng thủy, mà những điều tốt đẹp, đạo đức của dân tộc đã bị băng hoại, cuốn trôi, chúng ta làm cách nào để xây dựng lại đất nước này?

Bao giờ thì có thay đổi, bao giờ thì không còn Cộng Sản? Đây chính là những nỗi trăn trở của cả dân tộc, nhưng là những chuyện khó khăn bắt đầu chứ không phải là những điều kết thúc tốt đẹp mà chúng ta vẫn thường mơ ước! Đó chính là nỗi thống khổ của Việt Nam, và còn khổ đến bao giờ.

(*) “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là trùng độc, sinh sôi, nảy nở, trên rác rưởi cuộc đời.” (Dalai Latma)

Hội chứng Cộng sản

Hội chứng Cộng sản

VietTuSaiGon

RFA

Sau gần hai mươi năm không gặp nhau, tôi gặp lại người bạn cũ, khác với cái thuở hai thằng rủ nhau đi phụ hồ, tối đến, buồn quá, lại rủ nhau thức đến 11h đêm, đợi lò mổ bò làm thịt xong, mua một ít lòng về luộc chấm mắm gừng, uống một xị rượu để sáng mai tiếp tục đi phụ hồ… Anh ta bây giờ giàu có, xe cộ, nhà cửa, tiền bạc rủng rỉnh… Nhưng nói chuyện một lúc, tôi thật sự giật mình và tự hỏi “không hiểu con người như thế này sao lại giàu được hay vậy ta?!”.

Sở dĩ tôi phải hỏi thầm như vậy vì tôi nhận ra giữa sự giàu có và tri thức của anh ta tỉ lệ nghịch đến độ khó tin. Nhưng không sao, tri thức không phải ai cũng có đủ để tỉ lệ thuận với sự giàu có, thậm chí có nhiều người giàu có tri thức nhưng lại nghèo tiền bạc. Chuyện ấy bình thường thôi. Vấn đề đáng bàn ở đây là quan điểm sống cũng như suy nghĩ, nhận định về xã hội của anh ta làm tôi bất ngờ.

Tôi vẫn luôn tin rằng với những người xuất thân từ gia đình nghèo khổ và bị ép chế bởi có lý lịch cha làm việc cho “ngụy quyền” như tôi và anh, chắc chắn khi vượt qua số phận, trở nên giàu có, kinh nghiệm sống cũng như những vết thương về lý lịch sẽ giúp tâm hồn chúng tôi trở nên đẹp hơn. Điều này tôi mường tượng giống như cây dó bầu sau khi bị mưa bão đánh tơi tả sẽ cho ra lõi trầm, chính cái lõi trầm khẳng định giá trị cũng như khả năng vượt thoát cái chết và thương tật của cây dó bầu. Điều đó cũng như chính sự giàu có, kinh nghiệm sống và sự tiến bộ sẽ khẳng định giá trị của con người sau một quá trình nghèo khổ, bị ép chế.

Nhưng không, tôi đã lầm, đó chỉ là sự tưởng tượng vô nghĩa của tôi. Anh bạn nghèo ngày xưa của tôi không những giàu có mà công tâm để nói là anh ta rất khốn nạn. Đương nhiên là anh ta chưa hề khốn nạn gì với cá nhân tôi nhưng anh lại khốn nạn với nhiều người khác nghèo khổ, khốn nạn với cộng đồng và xã hội.

Sau một thời gian dài làm phụ hồ, anh phất lên một cách bí ẩn, trở thành giàu có và nhận công trình xây dựng với một đội ngũ kĩ sư xây dựng và thợ thầy khá vững vàng. Không dừng ở đó, có đủ tiền bạc và đàn em, anh cho vay nặng lãi và nhanh chóng trở thành “đại gia” trong xã hội. Đã có nhiều người nghèo mất trắng mọi thứ bởi nợ anh ta, và anh ta không ngần ngại cho đàn em đến xiết nợ của người khác giữa ban ngày, mức lãi có khi lên đến 30% mỗi tháng khiến cho con nợ nhanh chóng kiệt quệ dưới tay anh ta. Nhưng không ai làm gì được anh ta vì anh chơi với các quan chức đứng đầu ngành an ninh tỉnh và huyện, chuyện nhậu nhẹt, chè chén và quà cáp đối với giới quan chức là chuyện thường ngày.

Có thể nói rằng nhờ vào các quan hệ, toa rập, chằng níu giữa anh ta và giới quan lại mà anh ta trở thành một loại Năm Cam mới, tinh vi và yên ổn hơn. Đặc biệt, khi nói chuyện, một hai anh bảo vệ đảng Cộng sản, anh bảo vệ đến độ tôi không dám nhắc đến hai từ này với anh. Bởi nếu nhắc đến mà không kèm với thái độ tôn kính thì không chừng anh ta đập bàn, cho đàn em xử mình như chơi. Vì thấy mức độ mê tín vào đảng của anh ta thì dễ dàng nhận ra kết cục như vậy.

Anh luôn đưa ra quan điểm nhân dân phải sống dưới sự che chở của đảng, phải tin vào đảng, thậm chí thần tượng đảng, thần tượng bác Hồ mới là người trưởng thành. Bằng chứng của sự trưởng thành này là anh đã rất giàu, chơi với giới quan chức và đẳng cấp của anh cũng ở trên cao, thuộc giới thượng lưu… Nghe anh nói một lúc, tôi chỉ thấy miệng đắng ngắt, không thể nhấp thêm ngụm bia nào nữa, vờ có việc gấp mà cáo lỗi, về trước.

Trên đường về, tôi sực nhớ đến câu nói của một anh bạn: “Đất nước này không phải chỉ có hơn ba triệu đảng viên Cộng sản đâu! Nó có đến hơn chín chục triệu đảng viên Cộng sản đó. Chúng ta đang sống trong một thứ hội chứng Cộng sản!”.

Anh này đưa ra quan điểm như vậy và cho rằng không chỉ có những đảng viên đã được kết nạp vào đảng Cộng sản mới là đảng viên, mà những thứ tư duy Cộng sản, hội chứng Cộng sản đã nhiễm dần vào máu huyết của người dân theo từng ngày, từng ngày, để đến một lúc, họ trở thành một đảng viên thụ động và còn yêu đảng, yêu Hồ Chí Minh ghê gớm hơn cả những đảng viên chính thức.

Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắc máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất cộng, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế động Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.

Và một khi đã nắm được cơ hội trên tay, người ta bắt đầu phát triển, mở rộng cơ hội. Đương nhiên cơ hội ở đây sẽ có đội trên đạp dưới, có toa rập, có đạp lên nỗi đau của đồng loại mà đi, có thủ đoạn và có cả sự bỉ ổi, vô luân. Bởi lẽ, đây là cơ hội dưới triều đại độc tài Cộng sản.

Và một khi thứ cơ hội này lan tỏa ra trên toàn xã hội, một thứ không khí khác bao trùm lện xã hội, một ông xe ôm hay một bà bán trứng vịt lộn cũng có thể là đảng viên không chính thức, bà ta có thể đấu tố hàng xóm, có thể tìm cách nịnh bợ ông chủ tịch phường, chủ tịch xã để lấn sang phía bà bán bánh mì một chút đất vỉa hè để đặt thêm bộ bàn. Và đương nhiên bà ta lấy làm hãnh diện vì mình có thế lực đảng trong tay! Ông xe ôm cũng thế, ông có thể trở thành một cộng sự viên đắc lực của ngành an ninh để đấu tố những kẻ nào dám nói xấu đảng, nói xấu bác Hồ, với ông, đây là một chiến công, mặc dù cho đến giờ ông không có nghề ngỗng gì, phải chạy xe ôm bởi cơ hội làm người của ông đã bị mất vì lý lịch “ngụy quân” của ông ta!

Đứng trên góc độ tạo ra hiệu ứng mê tín đảng và bao trùm không khí xã hội một thứ “hội chứng Cộng sản” thì rõ ràng là nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam đã rất thành công, không phải tốn xu nào vẫn tạo ra được hơn chín chục triệu đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên không có thẻ nhưng lại có quyền lực đảng và yêu đảng hơn rất nhiều so với các đảng viên chính thức. Bởi với họ, sự giàu có, tài phiệt của họ hình thành là nhờ vào ơn đảng, ai đụng đến đảng là khó sống với họ!

Nhưng nhà cầm quyền Cộng sản, đảng Cộng sản quên mất một điều: Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng… Thì lúc đó, cả một tập hợp đảng lại lúc nhúc những con vi trùng tội ác có thể làm cho cơ thể đảng nổ tung sau khi trương phình và tự hoại lẫn nhau. Đó là điều khó tránh khỏi trong lúc này!

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Bình Luận

Phù Sa phỏng vấn nhà văn Dạ Ngân

Du học để “tị nạn giáo dục”

Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt ? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay ?

Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài.

Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm ? Là vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm.

Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học nếm mãi.

Ở khía cạnh giáo dục, chị lý giải hiện tượng này như thế nào ?

Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để tị nạn giáo dục.

Tình hình đã mười mươi như vậy, nhưng hình như phía vĩ mô không muốn thay đổi. Làm giáo dục mà không triết lý giáo dục thì sao thiết kế được?

Sao các môn xã hội không có sức hấp dẫn mà còn khiến Học Sinh bội thực, ngán ngẩm ? Các em không thích môn văn, không yêu môn sử, không thiết tha môn địa, không “vào” với môn đạo đức công dân? Vậy thì giỏi toán và giỏi các môn tự nhiên để làm gì, để làm người Việt ngô ngọng hay làm rô – bốt ?

Tôi thấy bất an với kiểu làm sách giáo khoa, tôi ngạc nhiên với sự im lặng của chính các thầy cô trong ngành giáo dục. Họ biết cả đấy, họ chán đấy mà họ không làm gì, không ai lên tiếng, họ sợ họ hèn hay họ đã chai lì cả rồi ?

Nếu tôi là một quan chức trong ngành giáo dục thì chắc chắn tôi sẽ từ chức. Không làm gì nổi nữa, chỉ có cách cho con cho cháu “tị nạn” mà thôi.

Không phải chép văn mẫu đã là “được làm người”

Một gia đình có con trúng học bổng Singapore năm 14 tuổi đã phấn khích thốt lên: “ôi, cháu tôi đã được làm người”.

“Ôi, cháu tôi được làm người” là một câu nói có vẻ quá lên nhưng bên trong nó có sự thật đó chứ!

Hãy xem trường điểm và trường chuyên đã làm cho cha mẹ các em phải chạy chọt và gây thêm ách tắc giao thông như thế nào? Hãy xem tuổi thơ của các em nhỏ đang được chơi hay đang bị học kiểu “nhồi thức ăn cho ngỗng”? Một cô cháu họ của tôi kể, trong thực hành môn Văn lớp 4 của con nó có thứ đề đại loại: “Hãy viết một bức điện tín”. Chính tôi đã từng giúp cho đứa cháu ngoại học lớp 5 ở Hà Nội làm đề ngoại khóa là “Hãy viết suy nghĩ của em về chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không?”.

Có phải bắt các em làm chính trị gia hay làm công dân sớm? Sao không để cho các em tiểu học được phát triển tự nhiên cả trong tình yêu đất nước, gia đình, thầy cô và tiếng Việt mà cứ làm cho chúng chán ngấy lên vậy?

Cho con du học là xu hướng đã có từ thời thuộc Pháp, để con cái được học cái văn minh, được sống và được thụ hưởng môi trường văn hóa cao. Tại sao người ta thích cho con đi Singapore, đảo quốc ấy có đúng là thiên đường ở châu Á mà chúng ta đang mơ ước không?

Nhưng chị có nghĩ rằng bọn trẻ sẽ có những tổn thương tâm lý vì xa bố mẹ từ khi còn quá nhỏ?

Tôi không có con nhỏ nhưng tôi đã khuyến khích và đóng góp cho cháu ngoại của tôi vào trường quốc tế từ đầu cấp II. Vì sao? Vì ở đó nó được học chương trình giảm tải, nó được học tiếng Anh bằng phương pháp đúng và không phải làm văn mẫu.

A ha! Riêng việc không phải làm văn kiểu học thuộc lòng và chép nguyên xi văn mẫu đã là “được làm người” rồi. Nó học văn một cách hào hứng và tiếng Việt của nó dậy hương là vì nó được làm văn theo suy nghĩ của mình. Cả nhà xúm nuôi một đứa bé, cực nhưng mà vui, không bị sốc, không bị stress vì “né” được nhiều “ngón hành hạ” của ngành giáo dục trong nước.

Các trường ở Singapore họ hay nhảy vào các trường điểm và trường chuyên của chúng ta để “hớt váng” từ năm lớp 9 hoặc lớp 10.

Số đi du học tự túc thì đủ lứa tuổi. Các em phải chịu thiệt thòi nhưng nền giáo dục của các nước văn minh rèn người khá hay.

Theo tôi, đi từ đầu cấp III là vừa, cho đi sớm hơn là sẽ có hậu quả.

Con mình nuôi lớn mà người ta “dùng”

Việc mỗi gia đình tự lo cho tương lai của con cái như vậy sẽ tạo ra một nguồn nhân lực tốt cho đất nước ?

Rõ ràng là nhân tài sẽ thất thoát. Con cái mình nuôi lớn mà người ta dùng, toàn là người thông minh và nhiều người tài đấy chứ. Có đau không, có ức không? Đành chịu.

Các vị ở trên cao có xót không, xót sao không tìm cách và không thay đổi?

Liệu gia đình và chính các em Học Sinh đó có phải trả cái giá nào không ?

Đừng có mà đùa dai với truyền thống hiếu học của người Việt. Sẽ còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi bằng hết, nếu những người cầm trịch của chúng ta không giật mình thì sẽ không cứu vãn được làn sóng tị nạn này đâu.

Rồi sẽ có thêm những thế hệ Việt kiều không biết tiếng Việt, quê hương đất nước xa vời. Đừng nghĩ người Việt sẽ cố kết tình quê hương và đất nước như cộng đồng người Tàu. Chúng ta là những người Việt trần ai, rất dễ bời rời và mất gốc khi ở xứ người.

Nhà văn, nhà báo Dạ Ngân sinh năm 1952, từng tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du. Là tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết nổi tiếng. Trong đó, đặc biệt và gây tiếng vang nhất là tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội.

ĐẦU GIOAN TẨY GIẢ

ĐẦU GIOAN TẨY GIẢ

Ngày sinh nhật của một người lại dẫn đến cái chết của một người khác.  Nếu sự kiện xảy ra đúng như truyền thống mà Máccô nhận được và ghi lại thì thật là khủng khiếp.  Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người, máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?  Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô.  Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan, người mà bà căm ghét?

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta một số kinh nghiệm của Hêrôđê.  Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.  Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục.  Lý do vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.  Dầu vậy Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện, vẫn sợ ông và che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).  Hêrôđê còn lương tâm khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.

Kế đến là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.  Cái gì đã xui khiến ông nói câu dại dột này với cô bé Salômê: “Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?  Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn, hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?  Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?  Có những lời nói vội vã mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.

Cuối cùng là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.  Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.  Ông buồn hết sức vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).  Ông có thể rút lại lời đã nói không?  Dĩ nhiên là có.  Nhưng nỗi sợ đã khiến ông không dám làm.  Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận, sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.  Nói chung ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.  Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái, ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.  Cần can đảm để giữ lời hứa, nhưng có khi cần can đảm hơn để không giữ.  Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.

Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.  Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.  Philatô đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu.  Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.  Cả hai ông đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.  Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, danh dự của mình.  Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.  Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với ý Chúa.

************************************************

Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Nghèo đói vẫn cao, đất đai rơi vào tay nhà nước tại nông thôn VN

Nghèo đói vẫn cao, đất đai rơi vào tay nhà nước tại nông thôn VN

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Trà Mi-VOA

Đời sống ở nông thôn Việt Nam còn ‘ảm đạm’ theo một nghiên cứu mới công bố ngày 26/8 tại Hà Nội được Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online trích dẫn hôm nay.

Cuộc khảo sát mang tên ‘Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam: Kết quả điều tra hộ gia đình nông thông năm 2014 tại 12 tỉnh’ được thực hiện trên 3648 hộ gia đình từ Bắc chí Nam do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, và Viện Chính sách Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn phối hợp thực hiện trong năm 2014.

Báo cáo cho biết tình trạng nghèo khó ở các vùng nông thôn Việt Nam vẫn còn cao dù tỷ lệ đói nghèo có giảm từ 27,1% năm 2012 xuống còn 13,2% trong năm ngoái.

Vẫn theo báo cáo, tuy tỷ lệ nghèo giảm, người nông dân Việt Nam chưa thể thoát nghèo ‘một cách bền vững’, khả năng bị nghèo trở lại còn rất cao.

Bị giải tỏa đất đai thiệt thòi quá lớn. Tôi không nói dân nữa, tôi nói ngay tôi bây giờ bị thiệt thòi quá lớn. Con cái giờ không có nhà ở, còn phải đi thuê nhà ở. Nói sự thật thì chúng tôi khó nói mà nói giả dối thì không nói được…Chúng tôi là gia đình cách mạng, chúng tôi đang chiến đấu vì cuộc sống này, đấu tranh chống tham nhũng vì cuộc sống này.

Ông Út Long, nông dân ở Hà Tây.

Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Lào Cai và Điện Biên có tỷ lệ nghèo cao nhất, với 44,3% và 37,3%.

Nông dân ở Lào Cai và Lai Châu có thu nhập trung bình hằng năm thấp nhất, tương ứng từ 16 đến 17 triệu đồng/người. Dân nông thôn ở Phú Thọ, Long An, và Hà Tây được đánh giá có lương bình quân cao nhất, từ 35 đến 38 triệu đồng/năm.

Dù Long An là một trong ba tỉnh nông dân có thu nhập hằng năm cao nhất theo cuộc khảo sát, nhưng bà Nguyễn Thị Bảy, một nông dân trong vùng cho biết đời sống kinh tế của bà con địa phương càng ngày càng eo hẹp, xuống dốc:

“Nói chung đời sống kinh tế của nhân dân eo hẹp hơn mấy năm trước dữ lắm, mùa màng giờ buôn bán bị thất giá chứ không được như mấy năm trước. Đời sống mình thấy cũng tạm ổn thôi chứ cũng chật hẹp lắm. Thấy càng ngày càng khó khăn hơn. Chế độ độc tài cộng sản đâu để cho người dân được thoải mái đâu. Mình cũng tạm mà sống thôi.”

Bà Bảy nói các chính sách hỗ trợ của nhà nước dành cho gia đình nghèo chưa công bằng và không hiệu quả vì nạn tham nhũng và truyền thống ưu tiên cho các hộ ‘có công với cách mạng’:

“Hộ nghèo không giảm, mấy hộ nghèo theo cộng sản thì có giảm. Gia đình nghèo của họ, họ mới giảm thôi. Số người nghèo không tham gia, không thuộc diện chính sách thì đâu được hưởng gì đâu. Họ ưu tiên cho gia đình chính sách không à. Gia đình thường không được ưu tiên.”

Báo cáo nói dù thu nhập trung bình và tiêu chuẩn sống của cư dân nông thôn Việt Nam có cải thiện, nhưng vẫn còn khoảng cách lớn về mặt thu nhập, tiếp cận các dịch vụ công, và có được lương thực đầy đủ giữa các gia đình khá giả với các hộ kém may mắn.

Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn, theo báo cáo, cũng chưa được giải quyết tận gốc.

“Hộ nghèo không giảm, mấy hộ nghèo theo cộng sản thì có giảm. Gia đình nghèo của họ, họ mới giảm thôi. Số người nghèo không tham gia, không thuộc diện chính sách thì đâu được hưởng gì đâu. Họ ưu tiên cho gia đình chính sách không à. Gia đình thường không được ưu tiên.

Bà Nguyễn Thị Bảy, nông dân ở Long An, nói.

Khảo sát cũng cho biết người dân ở nông thôn Việt Nam còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai và rằng đa số đất canh tác của nông dân bị rơi vào tay nhà nước.

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Nghệ An và Hà Tây là hai tỉnh có tỷ lệ nông dân bị mất đất cao nhất, theo cuộc nghiên cứu. Ở hai nơi này, cứ 10 hộ dân có tới gần 5 hộ bị nhà nước tịch thu đất đai, phương tiện sinh kế chủ yếu của họ.

Ông Út Long, nông dân ở Hà Tây, là một nạn nhân bị nhà nước trưng thu đất. Gia đình ông ròng rã đi khiếu kiện từ năm 2004 tới nay nhưng chưa được giải quyết dù ông là một cán bộ hưu trí thuộc diện ‘có công với cách mạng.’ Ông Long chia sẻ tình cảnh của mình:

“Bị giải tỏa đất đai thiệt thòi quá lớn. Tôi không nói dân nữa, tôi nói ngay tôi bây giờ bị thiệt thòi quá lớn. Con cái giờ không có nhà ở, còn phải đi thuê nhà ở. Nói sự thật thì chúng tôi khó nói mà nói giả dối thì không nói được. Nói tóm lại, bị giải tỏa đất đai đời sống sa sút quá lớn. Chúng tôi là gia đình cách mạng, chúng tôi đang chiến đấu vì cuộc sống này, đấu tranh chống tham nhũng vì cuộc sống này.”

Những mặt tiến bộ được phản ánh trong phúc trình vừa công bố về đời sống nông thôn Việt Nam bao gồm việc tiếp cận nước sạch, vệ sinh môi trường, và chất lượng nhà ở.

Tình trạng di cư ở nông thôn được xem là có cải thiện. Tỷ lệ dân nông thôn di cư trong năm 2012 là 22%, nhưng tới năm ngoái đã giảm xuống còn 15%, theo cuộc khảo sát.

Truyền thông trong nước trích dẫn nhận định của các chuyên gia cho rằng dân nông thôn Việt Nam dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường xung quanh và ‘thiếu các biện pháp phòng vệ.’

Khảo sát đầu tiên được thực hiện vào năm 2002 và kể từ năm 2006 tới nay được tiến hành mỗi hai năm một lần. Các câu hỏi đặt ra trong cuộc nghiên cứu tập trung về thu nhập, tiền để dành, sở hữu đất đai, di cư, và giáo dục của người dân nông thôn.

Yêu thương và nhường nhịn.

Yêu thương và nhường nhịn.

Có hai ông bà cụ nọ đã sống với nhau hơn 60 năm. Họ chia xẻ ngọt bùi, đủ mọi thứ. Duy chỉ có cái hôp đựng giầy  mà bà cụ để ở  dưới gầm tủ là ông cụ không hề biết trong đó đựng cái gì. Và cũng tôn trọng riêng tư của bà, ông chẳng bao giờ hỏi tới  cái hôp đó.

Năm  này qua năm nọ, một ngày kia cụ bà bỗng bệnh nặng. Biết vợ mình không qua khỏi ,cụ ông chợt nhớ tới  cái hộp giầy bí mật.Bèn lấy đem đến bên giường cụ bà, cụ bà cũng đồng ý  cho ông mở cái hộp ra.

Khi chiếc hộp được mở ra,bên trong chỉ vỏn vẹn  có hai con búp bê bằng len nhỏ va một số tiền là 95.500 đô. Ông cụ ngạc nhiên hỏi vợ” Thế này là sao? “.

“Khi chúng ta mới lấy nhau”, cụ bà nói” Bà nội của em có dặn em rằng: Bí quyết để giữ hạnh phúc gia đình là đừng bao giờ cãi nhau. Nếu lỡ chồng con có làm  điều gì  khiến con bực mình, tức giận. Con nên im lặng và bình tỉnh,đi ra chỗ khác  lấy len đan một con búp bê nha con”. Và anh thấy đó…

Nghe thế, Cụ ông  không cầm được nước mắt. Cả suốt cuộc đời, sống chung với nhau  người vợ thân yêu của mình chỉ giận mình chỉ có hai lần thôi ư ? Ông cảm thấy  hạnh phúc vô cùng.

“Và còn món tiền lớn nay thì sao?” Ông cụ hỏi.
Cụ bà mắt đỏ hoe trả lời:” . Và đó là.. số tiền  em đã bán những con búp bê mà em đã đan..”

Câu chuyện có một kết thúc bất ngờ đầy thú vị. Nó khiến người đọc mỉm cười nhưng dư âm của nụ cười là một sự cảm động sâu sắc. Số tiền khá lớn thu được từ việc bán những con búp bê cũng chính là số lần những nhịn nhục âm thầm mà người vợ phải chịu trong suốt thời gian chung sống với chồng mình. Người vợ đã cho chúng ta một gương sống yêu thương và nhẫn nhịn chịu đựng những lầm lỗi của người chồng. Bà ta tìm một lối thoát rất tích cực mỗi khi người chồng làm mình bực mình, tức giận, tránh những cãi vã tranh chấp có thể gây mất hạnh phúc cho gia đình đó là lấy len ra ngồi đan búp bê. Một việc làm xem ra rất bình thường, rất đơn giản nhưng với một tình yêu sâu sắc, sự cảm thông, chấp nhận những bất toàn của người chồng trong yêu thương, hành động đó đã trở nên một phương cách hữu hiệu trong việc gìn giữ hòa khí trong gia đình. Sự nhẫn nhịn đó thực sự là kết quả của một tình yêu rất mạnh mẽ và khả năng chiến thắng cảm xúc nóng giận của bản thân rất tuyệt vời.

Tuy nhiên, đa số mỗi người trong chúng ta lại là hình ảnh của người chồng, tức là chúng ta cứ vô tình gây khổ, làm đau lòng người thân của mình mà không hề hay biết.

Khi một cặp vợ chồng khủng hoảng về tình cảm đưa nhau tới văn phòng tư vấn hôn nhân của Williams Harley ở Mỹ, ông thường tách họ ra hai phòng khác nhau và yêu cầu mỗi người trả lời trên giấy câu hỏi sau đây: “Người bạn đời của bạn có thể làm cho bạn điều gì thì bạn hạnh phúc?”. Ông thường nhận được câu trả lời đó là sự quan tâm chăm sóc cho nhau. Nếu người chồng thực sự quan tâm đến cảm xúc của vợ mình sẽ nhận ra sự nhẫn nhịn âm thầm của bà ta ngay trong thời gian còn chung sống, chứ không phải chỉ phát hiện ra điều ấy khi người vợ sắp qua đời. Có phải đã quá muộn màng khi ông hiểu ra sự hy sinh của người vợ trong việc chấp nhận những tật xấu của mình để bảo vệ hạnh phúc gia đình từ bao nhiêu năm qua? Có phải đã quá trễ để có thể chăm sóc vợ mình thật nhiều như để bù lại sự vô tâm mà mình đã gây ra?

Anh chị Thụ Mai gởi

CÁI GIÁ CỦA HẠNH PHÚC

CÁI GIÁ CỦA HẠNH PHÚC

Ai trong chúng ta cũng mong cầu hạnh phúc. Có người cho rằng: Hạnh phúc khi tâm bình an, không lo sợ, không mong cầu, không hối hận, không bứt rức, không hận thù, không ghen ghét. Có người lại cho rằng: Hạnh phúc là đoá hoa của thời gian, nở rồi diệt, diệt rồi nở, có như vậy mới thực sự hạnh phúc. Nếu đoá hoa thời gian ấy cứ trường tồn, người ta sẽ không cảm nhận hạnh phúc nữa, mà đôi khi biến thành bất hạnh. Có người lại cho rằng: Cái gì chỉ mình có được, người khác không bao giờ với được, đó là hạnh phúc. Lại có người cho rằng: Họ chỉ hạnh phúc, khi mọi người cùng hạnh phúc. Có cái hạnh phúc là cho, có cái hạnh phúc là nhận….

 

Nhưng hầu như người ta không thể có một định nghĩa chung về hạnh phúc. Mỗi người cảm nhận hạnh phúc một khác, mỗi thời cảm nhận hạnh phúc một khác. Người đang nóng bức, được ngâm mình trong làn nước mát là hạnh phúc. Người đang lên cơn sốt rét, bị ngâm mình trong làn nước mát có cùng nhiệt độ lại “bất hạnh”. Người ăn được cay, có trái ớt hiểm cay xè dằm nước mắm, bữa cơm sẽ đậm đà hơn lên, hạnh phúc cũng qua đó mà sanh ra. Người không hề ăn được ớt, “vô phúc” cắn nhằm một mẩu ớt, nước mắt nước mũi đã ròng ròng khốn khổ. Người đã lập gia đình, có kinh tế khả dĩ ổn định, tin người vợ thọ thai là hỉ tín (tin mừng) trọng đại. Anh chàng sinh viên chưa sẵn sàng thành gia thất, tương lai chưa định mà nghe bạn gái báo “hung tin” thai nghén, quả là điều bất hạnh.

 

Vậy định nghĩa chung của hạnh phúc là gì? Thật khó, nhưng ta thử định nghĩa như vầy: Hạnh phúc là cảm thọ an lạc, sung sướng… khi những mong cầu của chúng ta được thoả mãn. Với định nghĩa như vậy, sẽ có nhiều người phản đối, người tu không có mong cầu, nhưng họ rất tự tại, ung dung và an lạc. Theo đức Đạt Lai Lạt Ma thì hạnh phúc là khoảng khắc thời gian ta cảm nhận. Khoảng khắc ấy như một hạt trai trong xâu chuỗi. Muốn cả đời hạnh phúc, người ta phải biết tạo ra những khoảng khắc ấy liên tục, người ta phải tìm cách xâu các khoảng khắc cảm nhận hạnh phúc lại với nhau, càng gần nhau… người ta càng hạnh phúc.

Cảm nhận hạnh phúc chỉ có cá nhân người ấy hiểu. Niềm hạnh phúc của một người nông dân chân lấm tay bùn khi nhìn đồng lúa trổ bông, trĩu hạt có thể to lớn không thua gì Michael Schumacher thắng giải đua xe thể thức I ở Monaco, một khoa học gia khám phá ra thuốc phòng chống HIV, hay nhà quân sự chiến thắng trên trận địa. Tuy giá trị vật chất của những khoảng khắc hạnh phúc ấy khác nhau, song biên độ cảm thọ không hề khác.

Ta tạm gọi hạnh phúc là cảm thọ an lạc, sung sướng, khoảng khắc đời lên hương, khiến cho ta mãn nguyện, êm ấm, thanh lương.

Vậy cái giá của hạnh phúc là gì ? Liệu hạnh phúc có thể là của “giời cho” chăng? Hay hạnh phúc là quá trình góp nhặt, vun trồng, tỉa tót và đánh đổi?

Về cái giá của hạnh phúc, ta cũng chẳng thể tính ra bằng đơn vị tiền tệ, đo lường. Có người cho rằng hạnh phúc là “của giời” “giời cho ai nấy hưởng”… Có người cho rằng yếu tố con người mới là yếu tố chính, tự ta có thể hoạch định được cuộc sống của ta. Tùy theo đức tin, căn bản lý luận mà người ta nhận biết hạnh phúc là do trời hay do người. Nếu bảo do trời thì tại sao vị chúa tể muôn loài lại không công bình, cho người này hạnh phúc, bắt người kia bất hạnh. Nếu bảo do người thì tại sao có người sanh ra đã đầy đủ mọi yếu tố để hạnh phúc? Người sinh ra đã tràn đầy nỗi khổ? Nghiệp quả chăng? Luân hồi chăng? Mấy tín hữu của Ki Tô Giáo làm sao tin được chuyện nghiệp quả luân hồi? Ý Chúa chăng? Tín hữu Hindu, Phật Giáo… làm sao thuyết phục?

Thành ra ta chỉ bàn đến cái hạnh phúc mà con người có thể ảnh hưởng được. Thứ hạnh phúc nhân tạo, chính con người có thể tạo ra. Hạnh phúc này nằm vỏn vẹn trong mấy chuyện: Thân thể khỏe mạnh, gia đạo êm ấm, kinh tế sung mãn, xã hội xung quanh bình an, tự do sống trong khuân khổ đạo đức truyền thống xã hội và pháp luật, cảm nhận sự hiện diện của mình trong đời không thừa thãi…

Để có thân thể khỏe mạnh thì con người ta phải điều độ, năng luyện tập, bỏ bớt những thú vui độc hại như nhậu nhẹt, chích choác, trác tán, đâm chém… Cái giá hạnh phúc ở đây là làm việc khó (năng luyện tập, điều độ), bỏ việc dễ (nhậu…)

Để có gia đạo êm ấm, người ta phải biết nhẫn nhịn, có những lúc phải nuốt vào bụng những thứ rất khó nuốt, phải hi sinh để lo cho người thân, bỏ bớt ích kỷ của bản thân, tạo được mối giao hoà, tin tưởng giữa các thành viên trong gia đình. Cái giá của hạnh phúc nơi đây chính là sự nhẫn nhịn, kiềm chế và không ích kỷ.

Để có kinh tế sung mãn, ta có hai cách. Một là: Kiếm được thật nhiều tiền, đủ sức chi tiêu thoả mái. Hai là: Phải hạn chế số chi trong khuân khổ thu có hạn. Nếu ta muốn kiếm thật nhiều tiền, ta phải có tài, phải có thời, phải siêng năng. Muốn tiết kiệm, ta phải từ bỏ bớt những khoản chi tiêu không hợp lý. Ai cũng muốn có thể chi tiêu như mình muốn, nhưng liệu khả năng của mình có đáp ứng đủ số chi ấy chăng? Nếu công sức của mình bỏ ra, không đáp ứng nổi số nhu cầu mình thoả mãn, vô hình chung ta đã mang nợ. Chẳng món nợ nào dễ chịu cả. Nợ nào cũng phải trả, không chóng thì chầy! Cái giá của hạnh phúc là phép tính : Thu – Chi = ++ (còn là số dương).

Để xã hội xung quanh bình an, ta phải trả thuế đóng góp vào bộ máy bảo vệ an ninh của quốc gia, của thành phố. Phải sử dụng quyền công dân của mình để định hướng cộng đồng xung quanh. Muốn định hướng cộng đồng theo hướng tốt, phải có đóng góp phục vụ cộng đồng.

Để cảm nhận được sự hiện diện của mình trong đời là không thừa thãi, thì con người ta phải đầu tư thời gian để tạo cho mình khả năng, khả năng ấy có thể nuôi sống mình và còn chút nhiều thặng dư phụng sự cho xã hội. Có thể một phát minh khoa học, có thể là khúc bánh mình đỡ đói lòng… trong cái tương tác trùng trùng của xã hội xung quanh, ta không là kẻ ăn bám. Phải như vậy, ta mới thấy mình không thừa thãi. Không ăn hại cơm giời, uống hại nước sông. Không sống chật đất, chết chật nghĩa trang.

Còn bao nhiêu khía cạnh của hạnh phúc, ta có thể bàn mãi mãi, khi nào còn có loài người trên thế giới này, người ta còn bàn về hạnh phúc. Nhưng ta có thể cả quyết rằng hạnh phúc là một sản phẩm siêu vật chất được hình thành bởi nhiều yếu tố (từ vật chất đến tinh thần) và có cái giá nhất định của nó! Ai hỏi tại sao anh phải làm việc vất vả thế? Ta có thể trả lời: Để mưu cầu hạnh phúc! Sao anh tiết kiệm, sống đơn giản thế? Để mưu cầu hạnh phúc! Sao anh/chị nhẫn nhịn, dịu dàng với vợ/chồng con cái thế? Để mưu cầu hạnh phúc! Sao anh đối xử tử tế với tất cả mọi người xung quanh thế? Để mưu cầu hạnh phúc! Sao anh ngu thế? Để mưu cầu hạnh phúc, vì nhiều lúc dư khả năng khôn mà không dám khôn, dư thế lực thắng thế mà không dám thắng! Sao anh/chị sống khắc kỷ, không phóng túng theo trào lưu của xã hội? Mưu cầu hạnh phúc! Sao anh/chị chung thủy chung tình? Mưu cầu hạnh phúc !

Quảng Diệu, Trần bão Toàn

Anh chị Thụ Mai gởi

Việt Nam nếu đa đảng sẽ đổ máu?

Việt Nam nếu đa đảng sẽ đổ máu?

Lê Diễn Đức

RFA

Khi nói đến tiến trình tiến tới dân chủ hoá của Việt Nam, mặc dù còn mờ mịt, xa vời, có ý kiến cho rằng, xã hội Việt Nam nếu có đa đảng sẽ đổ máu.

Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) luôn tuyên truyền rằng, khi họ là lực lượng duy nhất giữ độc quyền cai trị thì xã hội ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này đánh trúng vào tâm lý của dân chúng vốn sợ chiến tranh, xung đột sau một cuộc chiến đã quá dài và tổn thất sinh mạng và vật chất quá lớn.

Cách nguỵ biện trên rõ ràng là bóp méo hoặc thiếu hiểu biết về khái niệm dân chủ.

Dân chủ về bản chất không chỉ là một mô hình nhà nước, cũng không hoàn toàn giống như người ta viết trong các bản hiến pháp.

Dân chủ là quan điểm sống, dựa trên lòng tin vào con người, vào nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo. Dân chủ là một cuộc thảo luận. Nhưng cuộc thảo luận chỉ thực sự có ý nghĩa nơi mà con người tin cậy lẫn nhau và tìm kiếm sự thật một cách lương thiện. Dân chủ có nghĩa là cuộc nói chuyện giữa những người bình đẳng, sự suy nghĩ của những công dân tự do trước con mắt quan sát của toàn xã hội.

Wiston Churchil, cựu Thủ tướng Anh, đã có lần nói đùa nhưng rất chính xác rằng, “Dân chủ là mô hình nhà nước tệ nhất, ngoại trừ tất cả các mô hình nhà nước được biết cho đến nay”.

Có nghĩa rằng, Dân chủ không phải là phuơng thức hoàn hảo, nhưng là tốt nhất, phục vụ cho nhân loại trong lịch sử.

Chính trị Dân chủ gìn giữ hài hoà giữa sự thống nhất và đa dạng, cũng như sự xung khắc, dựa trên nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Chính trị dân chủ không phân chia bạn-thù. Vinh quang của nó không phải là chiến tranh, và mục tiêu của nó không phải là tiêu diệt kẻ thù. Trong xã hội dân chủ có ba nhóm người: ủng hộ/dao động/đối thủ. Mục tiêu của Dân chủ là kéo về phía mình những người dao động để nhận được đa số.

Chính trị Dân chủ không phải là vấn đề sống và chết. Dân chủ không cho phép sử dụng các phương tiện chiến đấu, xung đột vũ trang, giết chết đối thủ. Dân chủ tìm cách thuyết phục các chương trình của mình để tìm kiếm sự ủng hộ mới nhằm đạt được đa số, mà nhờ đó sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Dân chủ là một hệ thống chính trị duy trì và phục hồi sự đồng thuận của xã hội và đồng thời giữ gìn, điều chỉnh sự khác biệt và tranh cãi miễn là nó nằm trong khuôn khổ pháp luật. Dân chủ tìm kiếm điểm cân bằng giữa hai xu hướng tương phản, một trong số đó là sự thống nhất, và hướng kia – những khác biệt và mâu thuẫn. Một điểm cân bằng – tức là một sự thỏa hiệp, nhượng bộ, tuy nhiên không loại trừ việc giữ lập trường của mình và thuyết phục các khuynh hướng khác chấp nhận. Trong ý nghĩa này – thỏa hiệp là linh hồn của nền dân chủ.

Từ ngày ra đời đến khi cướp được chính quyền, rồi cưỡng chế miền Nam, giữ vai trò thống trị duy nhất trên đất nước Việt Nam, ĐCSVN luôn luôn chủ trương đàn áp, thủ tiêu mọi lực lượng chính trị khác quan điểm với mình. Một chế độ công an trị được thiết lập. Các nhà bất đồng chính kiến bị tù đày, cô lập. Báo chí truyền thông trở thành công cụ tuyên truyền phục vụ cho mục đích cầm quyền. Sự thống nhất của dân chúng mà như ĐCSVN nói, ví dụ như đi theo đảng và tin chọn đảng làm lãnh đạo, đều là sự áp đặt. Bởi vì cấu trúc nhà nước được hình thành qua sự sắp đặt của các đại hội đảng, chứ không qua bầu cử tự do.

Trong một tư duy dùng bạo lực để tiêu diệt đối thủ/kẻ thù ấy, nói rằng, nếu có đa đảng, ở Việt Nam sẽ đổ máu không có gì là lạ.

Vào năm 1989, khi người dân Ba Lan tập trung trong Công đoàn Đoàn Kết, biểu tình, bãi công dồn dập, làm tê liệt đời sống đất nước, có nghĩa rằng, Đảng Cộng Sản Ba Lan đã nhận thấy một tín hiệu khác. Sự đàn áp cao độ của nhà cầm quyền trong giai đoạn ban hành tình trạng thiết quân luật 1981-1983 với gần 10 ngàn người đối lập dân chủ bị bắt giam và xét xử, đã không mang lại kết quả nào, ngược lại, càng đổ thêm dầu vào ngọn lửa của cao trào cách mạng.

Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc bấy giờ, chấp nhận ngồi vào bàn tròn đàm phán với lực lượng đối lập và kết quả là chấp nhận sự hoạt động của các tổ chức xã hội và tiến hành bầu cử tự do (hạn chế) vào ngày 3 tháng 6 năm 1989. Thắng lợi toàn diện của phe đối lập trong cuộc bầu cử này, đã dẫn đến những thắng lợi tiếp theo trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1990 và bầu cử quốc hội toàn phần năm 1991.

Cuộc chuyển hoá từ chế độ độc tài qua dân chủ đã diễn ra êm ả, hoà bình và không đổ giọt máu nào. Tất cả ai vào sân chơi dân chủ đều tôn trọng một nguyên tắc khắt khe, bất di bất dịch của nó là không triệt hạ nhau bằng bạo lực. Chỉ lá phiếu của người dân là vũ khí duy nhất để loại bỏ nhau trong cuộc tranh đua quyền lực.

Các cuộc chạy đua vào Nhà Trắng ở Mỹ cũng làm nổi bật sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Cộng hoà cvà Dân chủ. Trong mỗi kỳ bầu cử, nước Mỹ gần như bị chia thành hai phần tương đương màu xanh (Dân Chủ) và đỏ (Cộng hoà). Người đắc cử Tổng thống thường cũng chỉ nhích hơn người thua cuộc 1-3% số phiếu, điều này cho thấy cuộc tranh đua hết sức quyết liệt.

Cộng đồng người Việt ở Mỹ như người ta nhận xét khá phức tạp và chia rẽ. Trong các kỳ bầu cử địa phương, người ta sôi nổi công kích nhau trên các phương tiện truyền thông, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là sự lựa chọn của dân chúng. Không có bất kỳ mâu thuẫn nào dẫn đến xung đột bạo lực.

Dân chủ là phải biết thất bại, biết nhìn nhận nó một cách sòng phẳng, nhưng có trách nhiệm. Vì thế, người thua trong cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ luôn gọi điện chúc mừng người chiến thắng.

Rất tiếc, Việt Nam hiện nay chưa có một lục lượng đối lập có tổ chức đủ mạnh để buộc ĐCSVN phải ngồi vào bàn thương lượng. Nhưng những người bất mãn với chế độ và có ý thức phản kháng không ít. Các tổ chức dân sự đang nhen nhóm hoạt động là hạt nhân cần thiết cho sự phát triển xã hội dân chủ tương lai.

Một khi tạo được áp lực mạnh mẽ của quần chúng, nhà cầm quyền ắt sẽ thay đổi. Và nếu ĐCSVN can đảm nhận rằng, sân chơi dân chủ là nơi bình đẳng nhất cho cuộc tranh đua, thì chắc chắn chẳng thể nào có đổ máu.

Mặc dù xã hội Việt Nam tồn tại những bất đồng sâu sắc do chính sách của ĐCSVN gây ra, nhưng thiết nghĩ, khi đã chấp nhận dân chủ, đồng ý với luật chơi, tất cả các tổ chức khác sẽ bình đẳng với ĐCSVN trong việc tranh giành lá phiếu của người dân.

Như vậy, đổ máu hay không chẳng phụ thuộc vào việc xã hội Việt Nam có đa đảng mà hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ hành xử của ĐCSVN.

© Lê Diễn Đức – RFA

Chúng ta còn tiếp tục sống như thế này đến bao giờ ?

Chúng ta còn tiếp tục sống như thế này đến bao giờ ?

nguyenthituhuy

Tựa đề bài viết này của tôi lấy cảm hứng từ một câu châm ngôn của các trí thức Nga : “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa », trong một phân tích rất đáng đọc « Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai », của Leon Aron, do Trần Ngọc Cư dịch, đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế :

http://nghiencuuquocte.net/2015/02/07/moi-dieu-ban-tuong-ban-biet-ve-su-sup-cua-lien-xo-deu-sai/

Tôi không muốn xâm phạm tự do đọc và tự do tiếp nhận của quý độc giả, mọi người sẽ có cảm nhận và đánh giá của mình về bài viết của Leon Aron. Ở đây tôi chỉ nêu ra một tiếp nhận của tôi.

Tác giả bài viết cho thấy rằng Liên Xô sụp đổ hoàn toàn không phải do bị các  « thế lực phản động tác động », như là cách giải thích của các giáo trình chính thống tại Việt Nam, cũng không phải do áp lực về kinh tế, mà là do ý thức về nhân phẩm và đạo đức của người dân Nga và của cả lãnh đạo Liên Xô. Họ không muốn và không thể tiếp tục sống trong « suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin ». (Cá nhân tôi có lẽ sẽ lựa chọn chữ « đạo đức » để dịch, nhưng tôi tôn trọng cách dịch này của dịch giả Trần Ngọc Cư).

Chính là sự phán xét của lương tâm, chính là sự đau khổ nội tâm của từng cá nhân đã thúc đẩy sự thay đổi toàn bộ cấu trúc xã hội. Hãy đọc câu này của Aleksandr Yakovlev, một cựu đại sứ Nga, để hiểu người Nga đã chịu đựng những dằn vặt nội tâm như thế nào :

Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta… Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây – một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”.

Ý kiến trên phản ánh tâm trạng của những người dân Nga. Còn dưới đây là tâm trạng của một lãnh đạo thuộc hàng cao cấp :

« [Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra – từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. »

Không có một « thế lực thù địch nào » từ bên ngoài hay « kẻ thù bên trong » nào có thể làm cho chế độ toàn trị Liên Xô sụp đổ. Cái chế độ phi nhân ấy chỉ có thể bị thay thế khi chính những con người trong hệ thống ấy, lãnh đạo cũng như người dân, ý thức được sự nhục nhã của đời sống vô đạo đức và quyết định tự tìm lại phẩm giá cho mình.

Chúng ta, những người Việt Nam ở thế kỷ XXI, chúng ta hãy đọc bài báo của Leon Aron và hãy thử nói xem : chúng ta còn tiếp tục sống như thế này đến bao giờ ?

Paris, 24/7/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Vài câu chuyện vặt của anh tài xế taxi trước ngày Quốc Khánh

Vài câu chuyện vặt của anh tài xế taxi trước ngày Quốc Khánh

Mục: Lang Thang Internet

Trần Hồng Phong

Sáng nay có một phiên tòa, nên tôi đi taxi cho lịch sự. Đoạn đường chỉ vài cây số, mà mấy câu chuyện của anh taxi sao nghe thấy thật quá. Lại toàn những khía cạnh báo chí ít quan tâm, nên xin kể ra đây giúp vui mọi người. Cam đoan hoàn toàn là thật, chỉ có bớt chứ không nói thêm. Giá có bác quan to nào chịu khó vi hành, sẽ dễ dàng kiểm chứng là đúng.

Câu chuyện thứ nhất: Không nghề nào sướng bằng cảnh sát giao thông

Lên xe, thấy có vụ va quẹt ngoài đường, anh tài xế nói “nói thiệt với anh không nghề nào sướng bằng nghề cảnh sát giao thông. Muốn thổi xe nào thì thổi, muốn nói lỗi nào thì nói. Mình dám cãi không. Mà xe ô tô thì cứ dính vào là bạc triệu. Nó nói lỗi rồi đòi cưa đôi. Thay vì phải ký giấy phạt, rồi đi đóng triệu hai (1,2 triệu đồng), thì chi 600 là xong. Ngày nào tụi tôi dính cảnh sát coi như lỗ”.

Câu chuyện thứ hai: Bọn cướp ác quá

Anh kể tiếp: “Bây giờ bọn cướp ác quá. Cướp có cái điện thoại bất quá mấy triệu bạc mà đạp chết con người ta”.

Tôi hỏi: “Là sao? Anh lái taxi chắc nhiều lần thấy cướp giật đồ”.

– Thấy hoài chứ gì. Mà cảnh sát giao thông đứng đó nhìn chứ có làm gì đâu. Thì đó là chuyện của cảnh sát cơ động mà. Hôm rồi tôi chở một con nhỏ cầu 50 triệu chưa chắc đã lành được cái mặt”.

– Là sao?

– Con nhỏ đang chạy xe máy gọi điện thoại. Thằng cướp nó chạy qua giựt. Thay vì chỉ giựt điện thoại, nó sợ con nhỏ la cướp nên đạp quá mạnh vào bánh trước xe. Xe té chà mặt con nhỏ trên nền đường nát bét. Tội nghiệp nó”.

Câu chuyện thứ ba: Lo sợ chuyện tội phạm bùng phát sau ngày Quốc khánh

Anh lại nói: “Để rồi anh coi. Sau ngày Quốc khánh sắp tới (2/9) rồi sẽ biết tình hình phức tạp thế nào?”

Tôi lại hỏi: Là sao?

– Hôm qua tôi đọc báo, thấy đặc xá đợt này 18.000 phạm nhân trên cả nước. Thử hỏi anh trong số 18.000 ngàn người này liệu có mấy người hoàn lương, sống lương thiện được. Cùng lắm là 2.000 chứ gì. Mà người đã có tiền án xin việc ai mà dám nhận. Lại chẳng đi cướp giật, ăn trộm à. Mà không thả ra thì tiền đâu mà mấy ổng nuôi hoài”.

Câu chuyện thứ tư: Lương 45 triệu cũng không giàu được

Tôi nói: Ừ. Bây giờ xin việc khó quá. Cử nhân ra trường không có chỗ làm.

– Hôm rồi tôi chở con nhỏ có vẻ sang trọng. Nó nói sắp qua Úc làm việc trở lại.

Tôi hỏi: Là sao?

– Con nhỏ đó nó học bên Úc về. Nó đi làm lương 45 triệu tháng nhưng nó chê. Nói cha mẹ con bỏ ra trên 2 tỷ cho con đi du học. Mà bây giờ lương có 45 triệu tháng thì con có làm 10 năm cũng không trả được tiền đầu tư của cha mẹ, mà cũng không thể nào dư giả được. Nên con qua Úc làm lại, bên đó con làm được 3000 đô/tháng.

– Trời, lương 45 triệu mà còn chê. Nhiều người cầu được 15, 20 triệu mà không có.

– Thì đó là nó nói vậy. Mà nói thiệt với anh như anh em mình đi làm nuôi vợ con, thì lương có 50 triệu tháng thì một năm cũng chỉ dư cùng lắm trăm triệu. Cày cả chục năm may ra là mua được căn hộ chung cư hạng xoàng. Chẳng bao giờ giàu nổi mà mơ. Đó là giả tỷ như vậy.

Tôi cười: Thì cũng có biết bao nhiều người giàu có đó thôi.

– Những người muốn giàu thì phải làm ăn kinh doanh. Mà kinh doanh thì hoặc là phá sản, hoặc là giàu. Còn không nữa thì phải đi theo con đường công chức cán bộ, làm quan.

Câu chuyện đến đây thì hết vì chiếc taxi đã đến nơi. Tôi xuống xe, tính tiền. Anh taxi nhận tiền, nói “Cám ơn anh. Chúc anh mọi việc tốt đẹp”.

Tự do ngôn luận trách nhiệm và đạo đức

Tự do ngôn luận trách nhiệm và đạo đức

Triết học Đường phố

Joseptuat

(Tranh biếm hoạ chính trị của nghệ sỹ Kuang Biao)

(Tranh biếm hoạ chính trị của nghệ sỹ Kuang Biao)

Có một vài người đang phê phán những người ủng hộ “tự do ngôn luận” là vô trách nhiệm và không có đạo đức. Vậy ai đó cho tôi biết trách nhiệm và đạo đức của những kẻ đang cấm “tự do ngôn luận” ở xã hội này?

Tôi thấy ở đây họ không phê phán con người cụ thể, mà họ đang phê phán quyền “tự do ngôn luận” là tệ hại và xấu xa.

Ngay tự bản chất các quyền căn bản không mang trong nó trách nhiệm và đạo đức. Nếu bạn phê phán tự do ngôn luận là vô trách nhiệm và vô đạo đức chẳng khác nào bạn chỉ tay lên mặt trời và mắng rằng: thật là vô trách nhiệm và thiếu đạo đức. Hãy thận trọng cách đánh tráo vấn đề kiểu này, vì đôi lúc nguyền rủa những người ủng hộ “tự do ngôn luận” một cách nào đó bạn cũng lầm tưởng tự do ngôn luận là vô trách nhiệm và thiếu đạo đức.

Trách nhiệm và đạo đức không có ở con chó, không có ở con bò, không có trong không khí, trong lửa, trong nước, bởi vì đó là chuẩn mực do con người đặt ra, và nó dùng để đánh giá con người cụ thể, chứ không phải để quy chụp về những điều hiển nhiên.

Điều hiển nhiên đó là: mọi người sinh ra đều bình đẳng, và đều phải được hưởng những quyền căn bản của con người. Và các quyền căn bản không thể bị cấm đoán vì nó cần thiết cho một xã hội văn minh, giàu mạnh như con người cần không khí và nước.

Và còn một điều hiển nhiên nữa là: con người dù là bậc tu hành, nhà tri thức, khoa học, chính trị gia, kẻ phạm tội… thì vẫn có những người vô trách nhiệm và không có lương tâm. Và nếu một bậc tu hành của một tôn giáo nào đó sống vô trách nhiệm, thiếu đạo đức thì không đồng nghĩa tôn giáo đó là xấu xa và tội tệ. Bởi thế, không có chuyện người ủng hộ “tự do ngôn luận” vô trách nhiệm và thiếu đạo đức thì quyền được nói, được viết, được hát là vô trách nhiệm và không đạo đức.

Quyền con người như tiền bạc, tự thân tiền bạc không xấu, không tốt và ai đó chê tiền vì cách hành xử của người dùng tiền thì đó là người ngu.

Nói gọn thế này:

Nếu bạn phê phán một quyền căn bản nào đó của con người là xấu xa, không thích hợp cho một đất nước, thì bạn đang coi người dân trong đất nước đó không phải là con người.