Lạm thu trong trường học: vấn đề nhức nhối

Lạm thu trong trường học: vấn đề nhức nhối

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-09-09

09092015-involun-schoo-fee.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Trong giờ học của học sinh Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (TP Hạ Long)

Trong giờ học của học sinh Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (TP Hạ Long)

Quangninh.gov

Vào những dịp khai giảng năm học mới, các vị phụ huynh phải oằn mình với các khoản chi phí quá lớn phải nộp.

Thực tế tình trạng lạm thu như vậy ra sao và cần nên có giải pháp thế nào cho phù hợp?

Tình trạng lạm thu ở các trường học

Ở VN đến nay chưa có chế độ giáo dục miễn phí, song ngoài các khoản học phí theo quy định của nhà nước, thì các bậc phụ huynh phải đóng thêm các khoản theo yêu cầu của nhà trường và Hội phụ huynh học sinh với số tiền không nhỏ.

Đó là các khoản như: tiền quỹ Ban phụ huynh, tiền xây dựng sửa chữa trường lớp, bổ sung đèn chiếu sáng, mua sắm điều hòa, bảng chống lóa v.v…

Theo báo Lao động cho biết, lạm thu đầu năm học là vấn đề khiến không ít phụ huynh, học sinh đều cảm thấy ngao ngán, lo sợ và bức xúc. Ðể hợp thức hóa, không ít cơ sở giáo dục đã có “quy định ngầm” thông qua hình thức thu “tự nguyện”. Tại nhiều địa phương cho thấy, việc lạm thu đầu năm học diễn ra hết sức “công khai” với nhiều hình thức khác nhau.

Các khoản thu này là gánh nặng cho nhiều gia đình người lao động, mặc dù biết nhiều khoản thu là không hợp lý nhưng vì sợ ảnh hưởng đến con cái, nhiều phụ huynh vẫn phải nhắm mắt làm ngơ và đi vay mượn để đóng góp.

Chị Bé Ba, một phụ huynh học sinh có 1 con đang học cấp tiểu học ở Đồng nai chia sẻ với chúng tôi:

Sau một vài năm, bản thân các trường thấy việc thu tiền của học sinh là khó coi nên Ban phụ huynh đã được thành lập để thu tiền hộ nhà trường. Từ khi có cái Ban phụ huynh này thì việc thu tiền càng “thoải mái” vì Hiệu trưởng hoàn toàn chẳng có trách nhiệm gì

một chuyên gia thuộc VKHGD

“Số lương của 2 vợ chồng tôi mỗi tháng khoảng 5 triệu đồng, tiền chi phí đóng đầu năm là triệu mấy chưa kể tiền này tiền kia, tiền xe, tiền học phí. Do vậy mình phải biết hà tiện và nhín nhút trước, không có thì phải vay mượn trước rồi trả lại họ.”

Không chỉ vậy, năm nay phí bảo hiểm y tế cho học sinh bỗng dưng tăng vọt gấp 1,5 lần cao hơn học phí. Ông Bảy, một phụ huynh học sinh ở Long Khánh tiếp lời:

“Bây giờ công việc cũng không đều mấy, nên hàng tháng gia đình tôi thu nhập cũng khoảng 2 triệu mấy, ba triệu. Riêng tiền cho con bé đi học tháng cũng mất hơn một triệu, gồm tiền xe đò, tiền ăn, tiền nọ tiền kia. Vừa đi họp phụ huynh về họ yêu cầu nộp 1, 4 -1,5 triệu, trong lúc nhà có mỗi mình là lao động chính. Giờ chẳng lẽ cho nó nghỉ, thôi vì con nó thích đi học nên có lẽ mình phải ráng thôi.”

Đánh giá về tình trạng lạm thu trong các trường học hiện nay, một chuyên gia thuộc Viện Khoa học Giáo dục đã nghỉ hưu, không muốn nêu danh tính nhận định:

“ Trong mấy năm gần đây việc lạm thu đã tới mức không thể kiểm soát nổi. Việc thu tiền tràn lan vào đầu năm học bắt đầu từ khoảng giữa những năm 90 khi có chủ trương xã hội hóa giáo dục. Sau một vài năm, bản thân các trường thấy việc thu tiền của học sinh là khó coi nên Ban phụ huynh đã được thành lập để thu tiền hộ nhà trường. Từ khi có cái Ban phụ huynh này thì việc thu tiền càng “thoải mái” vì Hiệu trưởng hoàn toàn chẳng có trách nhiệm gì, cho dù ai cũng biết Ban phụ huynh muốn thu bao nhiêu và thu các khoản gì đều phải thông qua và được Hiệu trưởng đồng ý.”

Điều đáng nói là việc quản lý thu chi các khoản thu vừa nêu không minh bạch và công khai. Các hội cha mẹ học sinh đứng ra thu tiền dưới hình thức vận động nhưng lại là tự nguyện một cách bắt buộc. Ông Thạnh, một phụ huynh học sinh ở Quảng ngãi bày tỏ:

“Nhiều lần tôi đã phản ảnh với nhà trường, Hội cha mẹ học sinh và thầy cô giáo chủ nhiệm thu chi không công khai và minh bạch. Khi người ta không có để đóng quỹ hội thì nhà trường bắt viết giấy nhận nợ, điều này theo tôi là trái với đạo đức của nhà trường.”

Khi được hỏi, việc lạm thu trong các trường học nhằm mục đích gì và ai là người được hưởng lợi?

Vị chuyên gia giáo dục đánh giá:

“Mỗi khoản thu đều có lý do riêng. Giáo viên chỉ được hưởng chút ít trong quỹ Hội cha mẹ học sinh, Ban giám hiệu các trường hưởng nhiều nhất, giáo viên được nào có đáng là bao. Còn các khoản thu khác đều có những mục đích cụ thể, như đồng phục, trang bị bảng chống lóa, hệ thống chiếu sáng, điều hòa nhiệt độ, …ai tham gia vào những công việc này thì người đó hưởng lợi. Thường là Ban giám hiệu và các nhân viên kế toán, thủ quỹ.”

Lãnh đạo các trường luôn lý giải rằng việc thu thêm các khoản là cần thiết, với mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy vậy đa số các giáo viên thì cho rằng, đó là việc không nên làm vì sẽ làm xấu đi hình ảnh của nhà trường. Thấy Tuấn, một giáo viên ở Hà nội cho biết:

“Nghe thì rất là nhân văn, nhưng thực sự những khoản đóng góp đó các cháu có tiền đâu, tiền đó là tiền bố mẹ của các cháu đóng góp mà. Các cháu đã làm ra tiền đâu để mà đóng góp các quỹ ấy?”

Nguyên nhân chính của việc lạm thu này là do phương pháp vận động của Hiệu trưởng và nhà trường làm chưa tốt, còn yếu kém nên nhân dân chưa hiểu và chưa đồng tình. Chúng tôi sẽ chỉ đạo tiến hành các bước để kiểm điểm Hiệu trưởng và lãnh đạo nhà trường có việc lạm thu. Nếu có sẽ kỷ luật

Ông Nguyễn Cường

Bộ GD&ĐT đã làm gì

Bộ GD&ĐT đã có rất nhiều văn bản, chỉ thị yêu cầu chấn chỉnh việc thu thêm trong các trường học. Ông Nguyễn Cường, cán bộ Vụ Pháp chế, Bộ GD&ĐT khẳng định:

“Nguyên nhân chính của việc lạm thu này là do phương pháp vận động của Hiệu trưởng và nhà trường làm chưa tốt, còn yếu kém nên nhân dân chưa hiểu và chưa đồng tình. Chúng tôi sẽ chỉ đạo tiến hành các bước để kiểm điểm Hiệu trưởng và lãnh đạo nhà trường có việc lạm thu. Nếu có sẽ kỷ luật.”

Trả lời câu hỏi cần có biện pháp nào để hạn chế và dần tiến tới chấm dứt tình trạng lạm thu trong các trường học?

Vị chuyên gia giáo dục khẳng định:

“Vô cùng đơn giản. Chỉ cần cách chức ngay lập tức Hiệu trưởng khi xác minh có tình trạng này trong nhà trường do ông ta phụ trách. Chỉ cần cách chức một ông thì trật tự được lập lại ngay. Nhưng khổ nỗi cấp trên không dám cách chức, vì sao thì ai cũng rõ.”

Tuy nhiên cũng cần quan tâm tới những nhu cầu chi tiêu chính đáng của nhà trường, vì có một số khoản chi là thực sự cần thiết, nhưng nhà trường không có nguồn. Vị chuyên gia giáo dục đề xuất giải pháp:

“Cũng cần quan tâm tới những nhu cầu chi tiêu chính đáng. Muốn cho minh bạch thì Nhà nước cần quy định mức học phí cao hơn hiện nay. Với số tiền học phí này, các nhà trường có thể chi dùng cho những việc cần thiết kể cả việc mua sắm các trang thiết bị. Với học sinh nghèo học giỏi, sẽ trích từ đó để có học bổng và tất cả số tiền này được quản lý theo những nguyên tắc chi tiêu ngân sách.”

Trong thực tế những khoản thu được nói là tự nguyện đóng góp nhưng nếu học sinh không đóng thì sẽ bị nhà trường kỷ luật. Trong khi đó những khoản thu được chi thế nào cũng là chuyện khuất tất, khiến nhiều người hoài nghi đặt ra câu hỏi: liệu môi trường giáo dục Việt Nam hẳn đã biến thành một môi trường kinh doanh, nhằm trục lợi cho một số cá nhân trong ngành giáo dục, mà cha mẹ học sinh là những miếng mồi ngon của họ!

Những Ngày Thủ Đô Tưng Bừng Phố Xá

Những  Ngày  Thủ  Đô  Tưng  Bừng  Phố  Xá

Bút ký Đoàn Thanh Liêm

Như đã có nhiều dịp thưa với quý bạn đọc trước đây, mỗi năm cứ vào dịp mấy tháng 4, 5 và 6, tôi thường từ California đi qua khu vực miền Đông nước Mỹ để tiếp tục công việc nghiên cứu về luật pháp và xã hội tại Thư viện Quốc hội Mỹ. Đồng thời cũng tham gia hội thảo với mấy đại học tại các tiểu bang lân cận với thủ đô Washington.

Tôi thật có duyên với cái thành phố thủ đô này, và luôn giữ được nhiều kỷ niệm tươi vui đẹp đẽ với Washington kể từ ngày tôi được cử đi du học tu nghiệp tại đây trong năm 1960-61, dưới trào cuả Tổng thống Eisenhower và Kennedy. Hồi đó, Washington thật là thanh bình êm ả, chưa hề bị nạn khủng bố đe doạ như bây giờ.

A – Kỷ niệm êm đẹp tại khu “Đồi Capitol” (Capitol Hill)

Image result for images of capitol hill

Mổi buổi sáng, từ nhà trọ ở gần khu Toà Bạch ốc cuả Tổng thống, tôi lên xe bus đi lên trụ sở Quóc hội hết có 10 xu và trong 10 phút là tới nơi. Điện Capitol nằm trên một ngọn đồi không cao lắm, nhưng có cáí nóc vòm cao chót vót với hình dáng thật uy nghi thanh tú theo đường nét kiến trúc cuả Hy lạp thuở xưa, mà từ thật xa ai cũng có thể nhìn thấy được. Rõ ràng là trụ sở cuả các Đại biểu Quốc hội trông bề thế trội vượt hẳn, so với toà nhà cuả người lãnh đạo ngành Hành pháp cuả nước Mỹ.

Khu vực đồi Capitol là một trong những nơi thu hút rất đông khách du lịch, cũng như các phái đoàn từ khắp nơi đến gặp gỡ trao đổi với các Dân biểu, Nghị sĩ là các Đại diện cuả người dân.

Hằng ngày, bất kể vào muà nắng hay mưa, lúc nào cũng có từng đoàn, từng đòan người già trẻ, lớn bé lũ lượt có mặt trên khắp các con đường trong công viên bao quanh trụ sở chính, cũng như cuả hàng chục building làm văn phòng và trụ sở hội họp cho các nhân viên thuộc ngành Lập pháp. Ngoài ra cũng phải kể đến trụ sở cuả Tối cao Pháp viện, cũng như ba toà nhà thật lớn cuả Thư viện Quốc hội. Mỗi building như vậy gồm nhiều tầng lầu và vô vàn phòng ốc với đày đủ tiện nghi cho công việc chuyên môn, cũng như cho sinh hoạt cuả hàng bao nhiêu vạn con người làm việc ngày đêm không kể giờ giấc. Có toà nhà như Rayburn building thuộc Hạ Viện thì thật là đồ sộ lớn lao như cả một thành phố với đày đủ mọi cơ sở như nhà bưu điện, ngân hàng, nhà ăn, phòng vệ sinh, tầng hầm làm garage để xe…, với cả bốn mặt đều quay ra phía có công viên cây cối xanh tươi thật là mát mắt.

Bên phiá Thượng viện cũng như bên phía Hạ viện, mỗi bên đều có 3 building thật lớn, mà các vị dân cử muốn đi họp các phiên khoáng đại tại trụ sở chính ở điện Capitol, thì phải đi bằng đường hầm, trong đó có xe điện chuyên chở, thì mới kịp tham gia việc thảo luận và biểu quyết tại Quốc hội được. Vì mỗi Dân biểu hay Nghị sĩ đều phải làm rất nhiều công việc phức tạp, cho nên họ đều cần đến sự phụ tá cuả các nhân viên riêng cuả mình, như vậy họ mới theo dõi đày đủ và kịp thời được các diễn tiến trong các loại phiên họp cuả Quốc hội qua các màn ảnh truyền hình trực tiếp, rồi khi nào cần đích thân đến tham dự, thì họ mới di chuyển qua đường hầm, từ văn phòng làm việc để đến phòng họp khoáng đại cuả toàn thể Quốc hội lưỡng viện, cuả riêng từng Viện, hay cuả riêng Uỷ ban chuyên môn cuả mình.

Vào năm 1960, khi đi tập sự tại đây, tôi đã nhiều lần đi lại qua hệ thống xe điện ngầm trong đường hầm này, vừa sạch sẽ vưà được chiếu đèn sáng như ban ngày, mà trải dài khắp nơi dưới lòng đất thuộc khu vực đồi Capitol. Bây giờ chỉ khác là vì vấn đề an ninh kiểm soát rất nghiêm ngặt, nên sự đi lại di chuyển trong khu vực cũng khó khăn phức tạp, mà lại tốn thời giờ hơn trước rất nhiều.

Vì Thư viện chỉ mở cưả cho công chúng đến tham khảo từ lúc 8.30 sáng cho đến 7.00 chiều, nên mỗi ngày trước giờ ra Thư viện, tôi thường đi rảo bộ khắp phố phường từ lúc 6.00 sáng, để vưà tập luyện thân thể giữ gìn sức khỏe, vưà  “tìm thăm lại chốn xưa”, nơi tôi đã từng cư trú và đi học đã trên 50 năm trước.

Cụ thể, mấy bữa nay, tôi đã đi bộ suốt từ khu vực gần với Đại học George Washington University dọc theo đại lộ Pennsylvania để tới khu vực cuả toà nhà Madison là một trong 3 building thuộc Thư viện Quốc hội. Lộ trình dài đến trên 5 cây số, xuyên qua không biết bao nhiêu cơ sở thuộc chánh phủ liên bang, các cơ sở tư nhân nội điạ cũng như ngọai quốc, rồi đến đủ các thứ viện bảo tàng, các công viên các đài kỷ niệm, cũng như các khu thương xá… Mới có 7 giờ sáng, mà xe cộ cũng như khách bộ hành đã nườm nượp xuôi ngược  cùng khắp các nẻo đường. Nhất là  loại xe do các phái đoàn thuê bao để chuyên chở du khách phương xa, thì họ tranh thủ đi rất sớm cho kịp với chương trình thăm viếng lúc nào cũng dày đặc các mục thăm viếng nhiều hấp dẫn, nơi các di tích lịch sử cũng như vô vàn những cơ quan, trụ sở cả cuả chánh phủ, lẫn cuả các tổ chức tư nhân về văn hoá, xã hội hay tôn giáo v.v…Khác với ở New York, tuy rất đông du khách, nhưng coi bộ có vẻ xô bồ hỗn tạp; tại thủ đô tôi thấy khách viếng thăm thường có vẻ thanh lịch, chững chạc hơn, cả về lề lối ăn mặc cũng như về phong cách giao tế đi đứng, nhất là họ luôn di chuyển thành từng đoàn với nhiều nhân viên hướng dẫn giải thích cặn kẽ về lai lịch các cơ sở và di tích trong chương trình thăm viếng.

B – Đi thăm lại chốn xưa trường cũ.

Đáng chú ý nhất đối với tôi là tôi đã tìm đến khu vực nằm trên con đường mang tên chữ F, nơi giao điểm với con đường mang tên số 19 (F and 19th street) trong khu Northwest, gần với Toà Bạch Ốc. Đây là nơi tôi đã ở trọ hồi năm 1960 – 61. Nó toạ lạc sát với cơ sở downtown cuả Đại học “American University (AU), và cũng gần với Đại học “George Washington University” (GWU). Vì thế mà vào lúc đó, tôi đã có thể đi bộ có mấy trăm thước là đến được các lớp học buổi tối tại hai Đại học này. Nhưng mà tôi đã không thể nào thấy lại được “căn nhà xưa kia” nưã. Mà thay vào đó là một toà nhà building khá lớn, chiếm đến cả một nưả block khu phố, mà trước đây là nơi tọa lạc cuả cả chục căn nhà 2-3 tầng lầu cũ kỹ với giá thuê  vừa với túi tiền cuả các sinh viên du học như bọn tôi.

Tôi vẫn còn nhớ năm 1960 lúc đó, tôi cùng thuê phòng chung với anh Cao Hớn Cơ là một đồng nghiệp cùng làm việc với tôi tại Quốc hội Việt nam, thì mỗi tuần lễ hai chúng tôi chỉ phải trả chung nhau có 12 dollars mà thôi. Anh Cao Hớn Cơ sau này qua làm việc bên Bộ Ngoại giao, và anh đã qua đời tại Saigon sau năm 1975. Nhân tiện, tôi cũng xin ghi lại hồi đó còn có các anh Lê Văn Hội, Trịnh Văn Xuân, Bùi Văn Chuyết và  Bùi Duy Quang cũng cùng trọ tại khu nhà này với anh Cơ và tôi. Mà nay, theo tôi được biết, thì cả ba anh Hội, Xuân và Chuyết cũng đều đã xa lià cõi thế này mất rồi. Hiện chỉ còn lại anh Quang đang nghỉ hưu ở thành phố San Francisco, cũng gần với nhà của bác sĩ Bùi Duy Tâm là bào huynh cuả anh.

Về Đại học George Washington, thì bây giờ đã mở mang gấp bội, với không biết bao nhiêu là cơ sở rất gần với trụ sở cuả Bộ Ngoại giao Mỹ, với ga metro có cái tên đọc lên rất ngộ nghĩnh là “Foggy Bottom” (Hố Sương Mù). Tôi cũng không còn tìm thấy cơ sở cũ cuả Trường Luật mà xưa kia tôi đã từng theo học mấy lớp như “Cases on Legislation” và “Legislative Drafting” trong khuôn viên của GWU tại đây.

Mà tôi cũng không thể nào tìm được dấu vết cuả cơ sở downtown của Đại học American University là nơi tôi theo học hai lớp về môn chính trị và kinh tế học, cụ thể là : “Pressure Groups and Propaganda” và “Economic Development in East Asia”.

Quả thật đã có biết bao nhiêu đổi thay tại khu vực Northwest cuả thành phố Washington DC, cả về phương diện con người cũng như về cảnh trí, trong vòng nưả thế kỷ qua. Ôi cái lẽ vô thường trong cõi nhân sinh là như thế đó.

Bài viết đến đây kể đã  dài rồi, mà tôi còn ở lại thành phố này cho đến đầu tháng Sáu mới di chuyển đến nơi khác. Vậy tôi xin hẹn sẽ viết tiếp thêm về chuyện “Người và Việc” tại thủ đô Washington trong vài bài sau nưã nhé ./

Viết lần đầu tại Stafford Virginia 15 Tháng Năm 2010,

Bổ túc tại Costa Mesa California, Thang Chín 2015.

Đoàn Thanh Liêm

Một trường hợp đi, về, và gặp nạn

Một trường hợp đi, về, và gặp nạn

GS Nguyễn Văn Tuấn

10-9-2015

Câu chuyện được tác giả Vũ Thị Nhuận thuật lại dưới đây là một trường hợp tiêu biểu của tình trạng đối xử không tốt với người đi học ở nước ngoài về (1). Câu chuyện nghe quen thuộc: sinh viên nhận được học bổng nước ngoài đi học; về nước thì không được trọng dụng và trù dập; khi nạn nhân rời trường sang một trường khác thì bị trường cũ kiện ra toà để … đòi tiền. Mà, tiền thì của nước ngoài. Đáng chú ý là câu chuyện xảy ra ở miền Tây Nam Bộ, nơi bị thiệt thòi nhất về giáo dục và khoa học, và rất cần các chuyên gia lành nghề.

Câu chuyện hơi dài, nhưng tôi tóm lược các sự kiện chính như sau:

1. Năm 20XX (không thấy nói rõ), cô Vũ Thị Nhuận, lúc đó là giảng viên của ĐH Cần Thơ, nhận được học bổng từ ĐH Kyushu để theo học tiến sĩ ngành sinh hoá. Sau khi hoàn tất chương trình học, Ts Vũ Thị Nhuận về ĐH Cần Thơ.

2. Khi về ĐH Cần Thơ, Ts Nhuận không được bổ nhiệm vào làm việc đúng chuyên môn. Theo như đơn mô tả, Ts Nhuận có những ý kiến “không giống họ” (họ ở đây có nghĩa là hội đồng khoa học của trường), nên chị bị trù dập và cô lập. Họ còn nói rằng Ts Nhuận “không làm việc bằng những tiến sĩ khác, không cống hiến nhiều bằng người có trình độ.”

3. Vì chịu không nổi sự cô lập, nên Ts Nhuận làm đơn xin nghỉ việc, và xin đi làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ ở Viện Y Khoa của Đại học Tokyo (không thấy nói năm nào). Tuy nhiên, trong đơn thấy nói rằng ngày 10/3/2011, Ts Nhuận đệ đơn xin nghỉ việc, nhưng ĐH Cần Thơ không trả lời.

4. Đến tháng 10/2014 thì Ts Nhuận được ĐH Y Dược Cần Thơ bổ nhiệm làm giảng viên. Tháng 11/2014, ĐH Cần Thơ phản ứng bằng cách cắt bảo hiểm xã hội, và đâm đơn kiện đòi bồi thường 569 triệu đồng (tức khoảng 28,000 USD). Đọc qua đơn kiện của ĐH Cần Thơ rất buồn cười, sai chính tả tùm lum cả.

Thế là Ts Vũ Thị Nhuận viết đơn cầu cứu đến Bộ trưởng Phạm Vũ Luận. Không biết ông bộ trưởng sẽ giải quyết sao, nhưng tôi thấy những trường hợp như thế này khá phổ biến. Mấy hôm trước báo Tuổi Trẻ có đi một loạt bài về tình trạng các du học sinh được đào tạo bài bản ở nước ngoài về nhưng không được trọng dụng. Nhiều du học sinh khi về nước cảm thấy hụt hẫng (3), và một số lại tiếp tục ra đi không hẹn ngày quay lại.

Chuyện đòi tiền cũng khá phổ biến. Khi không bổ nhiệm người ta đúng vị trí và chuyên môn (có thể hiểu là một cách “đày đoạ” hay hạ nhục), để khi nạn nhân chịu không nổi phải ra đi, thì giở chiêu trò … đòi tiền. Phải nói chiêu trò này tuy rất thô và rất thấp, nhưng có hiệu quả tuyệt vời trong việc làm nhụt chí nạn nhân. Riêng trường hợp của cô Vũ Thị Nhuận thì tôi không rõ đòi tiền gì, khi cô ấy được phía Nhật đài thọ chi phí học hành và ăn ở. Đòi tiền không phải của mình thì quả là rất lạ.

Vả lại, tôi thấy trường hợp cô Nhuận dù có rời ĐH Cần Thơ thì cô ấy vẫn làm ở Cần Thơ (ĐH Y Dược), chứ có đi ra nước ngoài đâu mà mất. Không cống hiến được cho ĐH Cần Thơ thì cống hiến cho ĐH Y Dược Cần Thơ. Nhìn “bức tranh lớn” thì Cần Thơ (và Việt Nam) không hề đánh mất cô Nhuận. Vậy thì việc kiện đòi tiền cô ấy có vẻ như là một thái độ trả đũa, thua trong việc dụng nhân tài thì kiện cho bõ ghét. Nếu thế thì phải nói rằng việc đâm đơn kiện của ĐH Cần Thơ là một hành động quá thấp của một trung tâm mang danh học thuật.

Việt Nam đang ra sức mời gọi các chuyên gia từ nước ngoài về đóng góp cho khoa học nước nhà. Ngoại trừ những người dỏm và nổ, những nhà khoa học chân chính ở nước ngoài sẽ suy nghĩ trăm lần trước khi đáp lời kêu gọi khi những sự việc như trường hợp của Ts Vũ Thị Nhuận xảy ra khá thường xuyên. Người trong nước mà còn chưa được trọng dụng thì làm sao thuyết phục được người ở ngoài nước. Miền Tây lúc nào cũng kêu là thiếu chuyên gia, nhưng trớ trêu thay chuyên gia thứ thiệt thì lại không được trọng dụng!

Tôi phải nói thêm rằng ở nước ngoài, người ta đang có trào lưu “săn” người tài trong lĩnh vực nghiên cứu y khoa (4). Các viện nghiên cứu và đại học — không chỉ ở Mĩ mà khắp thế giới, từ Nhật sang Úc và Âu châu — đều có chiến dịch săn lùng các nhà khoa học có chuyên môn cao. Ngay cả Viện Garvan cũng đang có chiến dịch này. Người ta xem đó là một “cuộc chiến” giữa các viện nghiên cứu, cuộc chiến để giành người xuất sắc. Ấy thế mà ở Việt Nam, nơi rất rất thiếu những người có chuyên môn về khoa học cơ bản như cô Nhuận, thì lại có những trường đại học trù dập người tài, và có lẽ đó là lí do giải thích tại sao đất nước này khó khá nổi.

____

Nguồn:

(1) Đơn kêu cứu (BVN).

(2) Có thể xem tài liệu qua facebook

(3) Hụt hẫng ngày trở lại… (TT).

(4) The Battle for Biomedical Supremacy (NYT).

(5) Tôi phải nói thêm rằng nếu cô Nhuận đồng ý, nhóm chúng tôi sẽ rất hân hạnh thảo luận với cô về tham gia một lab nghiên cứu ở ĐH Tôn Đức Thắng.

Đại hội Đảng ở Việt Nam và nhân tố Trung Quốc

Đại hội Đảng ở Việt Nam và nhân tố Trung Quốc

Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp hồi giữa năm ngoái, khi căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung dâng cao vì giàn khoan dầu 981.

Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp hồi giữa năm ngoái, khi căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung dâng cao vì giàn khoan dầu 981.

VOA Tiếng Việt

09.09.2015

Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đang bị chia rẽ sâu sắc và chưa đạt được đồng thuận về một số vấn đề, trong đó có biển Đông, quan hệ với Trung Quốc cũng như việc lựa chọn ban lãnh đạo tương lai, một chuyên gia nghiên cứu Việt Nam nhận định.

Giáo sư Carl Thayer nói thêm từ Australia rằng việc bất đồng như vậy có thể dẫn tới việc hoãn Đại hội 12 và dời sang một ngày khác muộn hơn.

Việt Nam tổ chức Đại hội đảng 5 năm một lần, và đại hội lần thứ 12 dự kiến sẽ diễn ra vào đầu năm 2016, nhưng ngày giờ cụ thể tới nay vẫn chưa được công bố.

Theo giáo sư kỳ cựu, chuyên nghiên cứu về Việt Nam, việc chuẩn bị cho đại hội quan trọng lần này nhằm bầu chọn đội ngũ lãnh đạo mới cho Việt Nam đã diễn ra “rất thầm lặng so với 8 đại hội trước đó tính từ khi thống nhất đất nước”.

Về các động thái đó, giáo sư Carl Thayer nhận định: “Điều gì giải thích cho các diễn biến, như sự chuẩn bị lặng lẽ một cách bất thường cho Đại hội Đảng, chậm trễ trong việc tổ chức hội nghị tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương và việc hoãn công bố Sách trắng Quốc phòng? Lời giải thích khả dĩ nhất là sự chồng chéo của hai vấn đề gây tranh cãi – yếu tố Trung Quốc (Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Tập Cận Bình được cho là sẽ thăm Hà Nội vào tháng 10 hoặc tháng 11) và việc lựa chọn ban lãnh đạo mới của Việt Nam”.

Với hai nhiệm kỳ làm thủ tướng, ông Dũng sẽ có các kinh nghiệm kinh tế và quốc tế vô song cho vị trí Tổng Bí thư. Ông Dũng cũng ít khả năng sẽ để cho ý thức hệ ràng buộc ông ấy trong khi đối phó với Trung Quốc. Ông đã mạnh lẽ tiếng tiếng bảo vệ chủ quyền và dọa sẽ có hành động pháp lý quốc tế đối với Trung Quốc trong khi xảy ra cuộc khủng hoảng liên quan tới giàn khoan dầu [của Trung Quốc] hồi năm ngoái.

Giáo sư Carl Thayer nhận định.

Ông Carl Thayer cũng nhắc tới khả năng sẽ xảy ra một điều “chưa từng có tiền lệ trên chính trường Việt Nam”.

Ông cho rằng hiện có nhiều đồn đoán cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách trở thành Tổng Bí thư kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng và muốn được miễn áp dụng quy định phải nghỉ hưu ở tuổi 65.

“Với hai nhiệm kỳ làm thủ tướng, ông Dũng sẽ có các kinh nghiệm kinh tế và quốc tế vô song cho vị trí Tổng Bí thư”, giáo sư nghiên cứu về Việt Nam nhận định tiếp.

“Ông Dũng cũng ít khả năng sẽ để cho ý thức hệ ràng buộc ông ấy trong khi đối phó với Trung Quốc. Ông đã mạnh lẽ tiếng tiếng bảo vệ chủ quyền và dọa sẽ có hành động pháp lý quốc tế đối với Trung Quốc trong khi xảy ra cuộc khủng hoảng liên quan tới giàn khoan dầu [của Trung Quốc] hồi năm ngoái”.

Ông Carl Thayer cho rằng ông Dũng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các Ủy viên Trung ương Đảng trong bối cảnh Bộ Chính trị đang bị chia rẽ sâu sắc, không chỉ vì sự ganh đua về mặt cá nhân mà còn về cả cách tiếp cận trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Theo giáo sư này, Việt Nam dự định đón tiếp cả Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama vào cuối năm nay.

‘Cuộc chơi ba bên’

Trong khi đó, một tờ báo thuộc cơ quan Ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc từng đăng bài bình luận cho rằng 2015 sẽ là năm căng thẳng chính trị ở Việt Nam trong khi chuẩn bị cho Đại hội 12 với việc bầu ban lãnh đạo chóp bu mới, đồng thời nhận định rằng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm tới chiếc ghế Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng, một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ.

Tờ Hoàn cầu Thời báo viết.

Tờ Hoàn cầu Thời báo nhận định: “Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng, một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ”.

Tờ báo cũng cho rằng Hoa Kỳ đang âm mưu sử dụng chiến thuật cách mạng màu cổ lỗ tại Việt Nam nhằm biến Hà Nội “thành một con tốt giống như Philippines để kiềm chế sự lớn mạnh của Trung Quốc”.

Hoàn cầu Thời báo cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn” cho “cuộc chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay, Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với năm 2014” từ Việt Nam.

Ông Dương Danh Dy, cựu tổng lãnh sự Việt Nam ở Quảng Châu, nói với VOA Việt Ngữ rằng tờ Hoàn cầu Thời báo phản ánh quan điểm của chính phủ Trung Quốc.

Còn luật sư bất đồng chính kiến Lê Công Định nhận định trên Facebook: “Nếu đúng báo Hoàn Cầu viết như trích dẫn, thì rõ ràng Bắc Kinh đang lo ngại sự chuyển hướng chính sách ngoại giao của Việt Nam sang phía Mỹ dưới quyền lãnh đạo đảng và nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vậy Thủ tướng đang trở thành mối đe doạ của Bắc Kinh chăng? Giọng điệu của báo Hoàn Cầu thể hiện điều đó”.

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.”  Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa.  Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa.  Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa.  Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô.  Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người.  Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay.  Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới.  Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa.  Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước.  Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ.  Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác.  Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ…  Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ.  Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có.  Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu.  Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế.  Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói.  Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người.  Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.  Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù.  Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra.  Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá.  Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất.  Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

Noel Quesson.

Chủ tịch nước Nguyễn Tấn Dũng

Chủ tịch nước Nguyễn Tấn Dũng

Người Buôn Gió

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nguồn ảnh: Internet

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nguồn ảnh: Internet

Năm 2012 là năm gay go nhất đối với Nguyễn Tấn Dũng, sau khi suýt bị Bộ Chính Trị kỷ luật, ông Dũng đã buộc phải đứng giữa quốc hội, xin rút kinh nghiệm và kể lể công sức của mình phục vụ đảng từ lúc nhỏ để mong được tha thứ. Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc lúc đó đã thẳng thừng đặt câu hỏi rằng liệu ông Dũng có nghĩ đến việc từ chức không? Đây là một câu hỏi thằng thừng mà chưa có tiền lệ đặt ra với lãnh đạo Việt Nam.

Liên tiếp năm 2013 đến 2014 Nguyễn Tấn Dũng phải đối mặt với hàng loạt hướng tấn công từ các đối thủ của mình. Sức tấn công mạnh nhất vẫn từ hướng của Nguyễn Bá Thanh vào vụ án Vinashin. Trong lúc đó Nguyễn Phú Trọng liên tục mở những cuộc chấn chỉnh đảng, phê bình và tự phê bình, những điều đảng viên không làm để nhằm triệt hạ bằng được Nguyễn Tấn Dũng.

Nhưng cái chết bất ngờ của Nguyễn Bá Thanh đã làm đình trệ công cuộc chống tham nhũng hướng vào Nguyễn Tấn Dũng. Kỳ thực, cuộc chống tham nhũng đó chỉ là cái tên của một chiến dịch thanh toán nhau trong nội bộ ĐCSVN, bởi tất cả lãnh đạo cộng sản nào cũng tham nhũng, kể cả Nguyễn Bá Thanh.

Nguyễn Tấn Dũng đã có một điểm mạnh mà không có đối thủ nào của ông ta có được. Đó là khả năng biết chia tiền, chia nguồn thu, lợi lộc cho các đồng chí. Tính quyết đoán khi cần thanh toán đối thủ hoặc có thể nhẫn nhịn làm hoà. Những khả năng thường có ở những ”Bố Già” thượng thặng. Nhờ vậy Nguyễn Tấn Dũng nắm gần hết lá phiếu của ban chấp hành trung ương Đảng để biểu quyết cho mình, thoát được vụ kỷ luật của Bộ Chính Trị năm 2012 và các đợt tấn công những năm sau đó. Để đến năm 2015, sau hai kỳ đại hội trung ương trong năm này, Nguyễn Tấn Dũng nắm gần hết quyền lực trong đảng cộng sản. Một trong những đối thủ nặng ký với Dũng là Phùng Quang Thanh bất ngờ đổ bệnh giữa năm 2015, buộc phải làm đơn xin không ứng cử nhiệm kỳ tới đây vào năm 2016 vì lý do sức khoẻ.

Việc đổ bệnh của Phùng Quang Thanh dập tắt hoàn toàn những đốm lửa le lói còn lại từ chiến dịch của Nguyễn Bá Thanh muốn tấn công Nguyễn Tấn Dũng.

Con đường của Nguyễn Tấn Dũng thênh thang hơn bao giờ hết. Các đối thủ tấn công, người thì đột tử, đột bệnh hoặc trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, an phận. Đối thủ có thể cạnh tranh với Dũng bây giờ là Trương Tấn Sang. Nhưng dường như Nguyễn Tấn Dũng không bận tâm đến Sang nhiều. Sang là một kẻ bất tài, không có thực lực, không tạo được vây cánh, cả sự nghiệp lãnh đạo của Sang không có một dấu ấn nào cho thấy Sang có năng lực. Bất quá chỉ là những lời nói ”lạ” gãi đúng bức xúc của dân chúng, ngoài ra không có gì khá hơn. Nếu một kẻ như Sang có ngồi vào trước ghế TBT nhiệm kỳ tới cũng là điều Dũng chấp nhận được.

Tất cả những vị trí trọng yếu như thủ tướng, bộ trưởng công an, bộ trưởng quốc phòng, chủ tịch quốc hội tới đây đều là tay chân thân tín của Nguyễn Tấn Dũng. Vì vậy Dũng chẳng khó khăn gì, khi để chức TBT Đảng CSVN cho người hữu danh vô thực như Sang duy trì bóng ma hồn cốt của chế độ Cộng Sản, làm bình phong cho Dũng thao túng chính trường.

Trong chế độ cộng sản Việt Nam, chức thủ tưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước chỉ là bù nhìn so với Tổng Bí Thư. Nguyễn Tấn Dũng đã thành công trong việc biến chức thủ tướng vốn ít quyền hành trước kia, thành chức có nhiều quyền lực, ảnh hưởng nhất so với các thủ tướng tiền nhiệm như Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải. Chắc chắn tương lai ở cương vị chủ tịch nước, với bộ sậu đàn em dưới trướng, Nguyễn Tấn Dũng sẽ biến chức chủ tịch nước vô vị bấy lâu thành một chức vị quyền lực mạnh nhất, lớn nhất đất nước.

Nếu Dũng làm TBT, mặc nhiên vị trí của Dũng sẽ gây khó khăn cho các đàm phán với quốc tế trước đây.  Tầm hoạt động của Dũng bị gò bó trong khuôn khổ nội bộ đất nước. Việc giao tiếp với các nước tư bản hay không cộng sản sẽ trắc trở về thủ tục ngoại giao và danh nghĩa. Ở cương vị CTN Nguyễn Tấn Dũng vẫn có danh chính, ngôn thuận để tiếp xúc thoả thuận bên ngoài và chỉ đạo trong nước thực hiện những đàm phán, thoả thuận đó.

Khả năng Dũng đạt được hai chức Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước như dư luận đồn đoán là khó xảy ra. Bởi Trung Quốc sẽ không cho phép Việt Nam được bắt chước mô hình Trung Quốc bây giờ. Trừ những thủ đoạn cai trị, trấn áp người trong nước và đối phó với phương Tây bằng thái độ thù địch là được cho phép học tập, áp dụng triển khai ngay. Còn những cải cách khác về kinh tế, chính trị, Việt Nam chỉ được Trung Quốc cho phép làm theo khi cải cách đó có ở Trung Quốc từ 5 năm trở lên.

Trung Quốc đang ráo riết âm mưu ngăn cản Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phương Tây. Cho nên một TBT kiêm CTN mà có con rể, con gái quốc tịch Hoa Kỳ như con của Dũng là điều Trung Quốc đương nhiên là không muốn.

Để cân bằng quan hệ quốc tế và quyền lực nội bộ bên trong cùng với những đòi hỏi của dân chúng về một nhà nước pháp quyền, những nhu cầu cấp thiết cần cải cách về kinh tế, pháp luật, nhân quyền, hành chính đồng thời vẫn đảm bảo sự tồn tại của Đảng CSVN mà không gây xáo trộn xã hội bất ngờ. Chắc chắn Nguyễn Tấn Dũng phải làm Chủ Tịch Nước.

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Phạm Cao Dương

VietCatholic News

70 năm nhìn lại: Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

(A) TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng xã hội chủa nghĩa vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[1] không hơn không kém.

Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau:

“-”Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]

Người ta cần phải nhớ là hơn mươi năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời nhà vua còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của ông trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu khó” lập chính phủ mới. Ông Bảo Đại nói :

-“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]

Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.” Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác, như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.

Nội dung bản Tuyên ngôn

Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:

“ “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.

“ Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.

“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]

Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:

Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong..[5] Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Hoàng Đế Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn hay trực tiếp hơn từ Vua Tự Đức, căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.

Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Hoàng Đế Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận chứ không phải là do công lao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến hay chỉ biết một cách lơ mơ. Một chi tiết khác cũng cần phải được chú ý ở đây là hai chữ “độc lập” đã được sử dụng tới hai lần: “nước Nam khôi phục quyền độc lập” và “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”, trong một bản văn ngắn. Sau này chính Bảo Đại đã dùng danh từ “tuyên ngôn độc lập – proclamation d’indépendance” khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông.

Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Ta cũng nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói khéo léo nhằm ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật, một điều cả nhà vua và Chính Phủ Trần Trọng Kim luôn luôn quan tâm phòng ngừa.

Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”.”Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành của người Nhật với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.

Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.””Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”

Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.

Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trong nhiều năm trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận[6].

(B) BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.

Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa?

Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?

Thứ nhất , là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt[7], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.

Thứ hai , là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông này rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” [8]

Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người ở bên cạnh nhà vua và được Việt Minh móc nối cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[9]

Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử trước đó, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật.

Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội[10] và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”.[11] Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…[12]

Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.

Nội dung bản Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là bàn tuyên ngôn duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.

Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng kể công và nhất là xách động.

Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi.

Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.

Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đ ã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Điều, như người viết đã nói ở trên, là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh. Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.

Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam… Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai như là một cá nhân đều có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được vì độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền.

Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.” Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội.

Chính vì vậy Luật sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,[13] dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.

Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được. /-

Phạm Cao Dương

[1] Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.

[2] Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.

[3] – nt – , tr. 51.

[4] Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.

[5] Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.

[6] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.

[7] S.M.Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103

[8] Võ Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.

[9] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.

[10] Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.

[11] Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.

[12] – nt-, tr. 134.

[13] Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007. Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.

(*) Chú thích của Tòa sọan: Tác gỉa Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sỹ dạy môn Lịch sử và Văn hoá Việt Nam tại một số Đai học Mỹ

1,001 lý do Gởi Tiền Về Việt Nam

1,001 lý do Gởi Tiền Về Việt Nam

Nguoi-viet.com

Đằng-Giao/Người Việt

CLAREMONT, California (NV) Giáo sư Đại Học Pomona, Thái Cẩm Hưng, hoàn tất công trình nghiên cứu về một đề tài ai ai trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ làm, nhưng không hề hiểu biết chi tiết về việc ấy: Gởi tiền về Việt Nam.

Cuốn sách có tựa đề ‘Insufficient Funds,’ tạm dịch là “Không Đủ Tiền.”

Cuốn sách mới của Giáo Sư Thái Cẩm Hưng.(Hình do ông Thái Cẩm Hưng cung cấp)

“Không đủ tiền” đã lập tức nhận được giải thưởng Sách Hay Nhất Năm 2015 về Á Châu của Hội Xã Hội Học Hoa Kỳ.

Giáo sư Hưng trả lời nhật báo Người Việt: “Tựa này là do một Việt kiều ở Virginia gặp tôi tại Việt Nam đề nghị.”

“Anh ta kể một hôm ra ATM rút tiền nhưng không được, chỉ thấy biên nhận có dòng chữ: “INSUFFICIENT FUNDS:  SORRY YOU CANNOT WITHDRAW MONEY AT THIS TIME. (Không đủ tiền: Xin cáo lỗi, quí vị không thể rút tiền bây giờ).”

Các nhà phê bình gọi đây là một “cuộc nghiên cứu thành công rực rỡ mang tính bước ngoặt,” một tường thuật về tài chánh của người di dân, một “đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết của chúng ta về sinh hoạt kiều hối, theo thông cáo báo chí của Đại Học Pomona.

“Tôi nảy ý định viết cuốn sách này là vì tôi nhìn thấy sự tiêu xài gần như vô độ của Việt kiều khi về nước,” giáo sư Hưng nói.

 

 

Giáo Sư Thái Cẩm Hưng trong một buổi thuyết Giảng.  (Hình: Pomona.edu)

“Cho nên tôi muốn tìm hiểu để coi có nguyên nhân gì khiến họ làm như vậy, nguyên nhân sâu xa hơn là khoe khoang, “lấy le””.

Cũng là người Việt di cư, vượt biên đến Mỹ đầu thập niên 1980, nghiên cứu này có ý nghĩa sâu xa cho chính bản thân tác giả.

“Lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó ở tiểu bang Mississippi, tôi từng chứng kiến cảnh cha mẹ tôi gởi tiền về Việt Nam để rồi người nhà trong nước lâm vào cảnh phá sản, mất cả chì lẫn chài,” giáo sư Hưng thuật chuyện.

Một trong những điểm đáng chú ý, ông nhận định rằng rất nhiều mối quan hệ gia đình của người Việt đã bị “tài chánh hóa,” nghĩa là nền tảng tình cảm gia đình được xây dựng dựa trên tiền bạc.

Gởi tiền về cho thân nhân ở Việt Nam là cách biểu lộ tình thương.

Rất đông gia đình gốc Việt ở nước ngoài gởi tiền cho thân nhân với giá quá đắt, bất chấp sự bấp bênh tài chánh của họ ở ngay tại đây.

Những gia đình này làm chỉ vừa đủ “trên mức nghèo,” theo ấn định của chính phủ là $23,000/năm cho gia đình bốn người, hoặc $14,000/năm cho một người.

Thế mà, vì gởi tiền về Việt Nam, họ phải chịu sống cảnh nghèo nàn, túng thiếu. Họ tự đặt mình vào một tầng lớp mà các nhà xã hội học gọi là “the missing class,” một giai cấp bị lãng quên, trong các cuộc thảo luận về an sinh xã hôi hoặc cơ hội tìm việc làm, giáo sư Hưng ghi nhận.

“Họ tiện tặn, không dám tiêu xài để gởi tiền trên mức họ làm ra cho nên trong khi họ có thể trợ giúp cho thân nhân ở Việt Nam có được cuộc sống thoải mái, bao nhiêu người đã mang công, mắc nợ.”

“Đây là một hy sinh lớn.”

“Khổ nỗi, rất hiếm người nhận tiền ở Viêt Nam thấu hiểu được sự hy sinh này bởi vì chả bao giờ người gởi lại nói thật hoàn cảnh tài chính của mình, của những người đã sang đến Mỹ.”

“Họ muốn để người nhà nghĩ rằng họ đã đạt được “giấc mơ Mỹ” và đón nhận sự nể phục và tôn kính của thân nhân.”

Ở chương Sáu, sách bàn về chuyên gởi tiền lâu dần thành một thói quen.

“Đa số, khi đã gởi tiền vài lần thì thân nhân bắt đầu có hy vọng, trông mong, nên người gởi buộc phải tiếp tục gởi vì không muốn người nhà thất vọng.”

Chương Bảy bàn về tình tạng những đòi hỏi của người trong nước bị cám dỗ bởi những nhu cầu vật chất phải xài đồ ngoại một cách thiếu thực tế nên tạo áp lực thân nhân nước ngoài.

Chương Chín đề cập đến những câu chuyện thương tâm: Một ông và một bà coi việc gởi tiền như một bổn phận, vì gởi quá nhiều tiền trong thời gian dài nên lâm vào hoàn cảnh phá sản.

Xấu hổ và mặc cảm với thân nhân đã khiến họ không dám liên lạc nữa; họ cắt đứt với gia đình. Trong lúc ấy, gia đình ở Việt Nam không hiểu lý do gì.

“Ở góc nhìn khác, khi về nước, những Việt kiều này thường tiêu tiền phung phí khiến thân nhân không thể ngờ rằng Việt kiều người nhà của mình lại có thể lâm vào cảnh túng thiếu ở nước ngoài được.”

 

Tác giả Thái Cẩm Hưng.  (Hình do ông Thái Cẩm Hưng cung cấp)

“Tôi xin nhấn mạnh, cuốn sách này hoàn toàn không phê bình hay châm biếm những người gởi tiền được đề cập mà là để chúng ta cảm thông cho họ, cho hoàn cảnh của họ.”

“Tôi có hai cảm giác rất trái ngược khi viết cuốn ‘Tiền không đủ,” một là buồn và một là thích thú. Buồn cho những cảnh sống quá thê thảm và tạm bợ, còn thích thú là vì những tình thương sâu đậm qua sự hy sinh cho thân nhân.”

Giáo sư Hưng nêu rằng, người di cư có những lợi điểm hơn những sắc dân khác như dân da trắng hoặc da đen nghèo vì họ có chỗ để cho và tiêu xài.

Người Việt di cư tìm được giá trị và nhân phẩm mà họ không thể có được nếu không có quê hương nghèo nàn để quay lại.”

“Tôi cảm động vô cùng khi nghe về quyết định của một số người. Có người cố tình lấy hết tiền trong thẻ tín dụng để gởi về Việt Nam bởi vì họ có được sự hài lòng.”

Nhân phẩm, cảm giác thương yêu gia đình, cảm giác thành đạt là những gì chúng ta tìm được khi giúp đỡ thân nhân ở Việt Nam.

Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, trong năm 2015, ước tính số tiền Việt kiều ở Mỹ gởi về Việt Nam là $6.8 tỷ trong tổng số $12 tỷ từ các nước khác.

Năm 2008, giáo sư Thái Cẩm Hưng cho phát hành cuốn sách khác mang tựa đề “For Better or for Worse: Vietnamese International Marriages in the New Global Economy,” tạm dịch: “Tốt Hơn hay Tệ Hơn: Những Cuộc Hôn Nhân Quốc Tế của Người Việt Trong Bối Cảnh Kinh Tế Toàn Cầu Mới.”

Phụ lục:

Ước Tính Tiền Gởi Về Việt Nam Năm 2015: $12 tỷ

American Samoa: $1 triệu

Úc: $1 tỷ

Áo: $15 triệu

Azerbaijan: $1 triệu

Bangladesh: $80 triệu

Belarus: $1 triệu

Bỉ: $10 triệu

Bulgaria: $2 triệu

Cambodia: $111 triệu

Canada: $843 triệu

Trung Quốc: $124 triệu

Cộng Hòa Czech: $209 triệu

Đan Mạch: $47 triệu

Phần Lan: $25 triệu

Pháp: $53 triệu

Đức: $647 triệu

Guam: $2 triệu

Hong Kong: $53 triệu

Hungary: $14 triệu

Iceland: $3 triệu

Ấn Độ: $2 triệu

Ireland: $7 triệu

Italy: $21 triệu

Nhật: $167 triệu

Bắc Hàn: $2 triệu

Nam Hàn: $522 triệu

Lào: $34 triệu

Malaysia: $109 triệu

Moldova: $1 triệu

Mông Cổ: $1 triệu

Hà Lan: $58 triệu

Tân Caledonia: $4 triệu

Tân Tây Lan: $26 triệu

Na Uy: $72 triệu

Philippines: $1 triệu

Ba Lan: $12 triệu

Nga: $52 triệu

Cộng Hòa Slovak: $6 triệu

Tây Ban Nha: $6 triệu

Thụy Điển: $74 triệu

Thụy Sĩ: $58 triệu

Thái Lan: $62 triệu

Timor-Leste: $1 triệu

Ukraine: $11 triệu

Anh: $124 triệu

Mỹ: $6.8 tỷ

Uzbekistan: $2 triệu

(Nguồn: Migration and Remittances Factbook 2015 – World Bank)

Những người anh hùng không phải của chế độ

Những người anh hùng không phải của chế độ

Kính Hòa, phóng viên RFA

RFA

Vẫn có những anh hùng trong sự đổ vỡ Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg10205894.jpg

Thân nhân đón những người tù được đặc xá hôm 31/8/2015 tại Hà Nội.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Khi mạnh yếu có lúc khác nhau

Nhưng hào kiệt đời nào cũng có

Nguyễn Trãi

Bình Ngô Đại Cáo

Những anh hùng không phải của chế độ

Cuối tháng tám, đầu tháng chín, như mọi năm, truyền thông Việt Nam tràn ngập những hình ảnh, phim ảnh đầy màu sắc về những ngày đại lễ. Năm nay những hình ảnh đó còn long trọng hơn vì thời gian đã trôi qua đến 70 năm.

Những đoàn người diễu binh cùng cờ đỏ.

Những lời ca tụng những người anh hùng.

Nhưng cũng có những người anh hùng không đứng trong đoàn diễu binh đó.

Trên không gian truyền thông blog là những hình ảnh cũng đầy màu sắc khác, đó là hai anh em ông Đoàn Văn Vươn trở về sau hơn 3 năm tù.

Trong loạt ảnh của tác giả Hoàng Anh, người ta thấy hai anh em ông Vươn ăn mặc chỉnh tề tươi cười trong sắc pháo của dân làng chào đón hai ông, như những người anh hùng. Rồi dân làng long trọng dựng rạp mở tiệc chiêu đãi hai người anh hùng của họ.

Có điều gì bất thường khi dân chúng đón những người tù trở về như những anh hùng?

Một blogger bình luận rằng đó chính là lòng dân! Lòng dân và lòng chính quyền không là một.

Trong một bài viết mang tính trào lộng, blogger Hiệu Minh lại một lần nữa so sánh câu chuyện vụ án Làng Tiên Lãng của ông Vươn ngày nay, với câu chuyện vụ án Đồng Nọc Nạn thời mồ ma thực dân Pháp. Cùng là những người nông dân nổi dậy chống bất công, nhưng người nông dân thời thực dân được tha bỗng, còn người nông dân Đoàn Văn Vươn phải thụ án tù.

“ Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường.
– Luật sư Lê Công Định”

Đứng ở một góc nhìn tương đối khác, nhà văn Sương Nguyệt Minh, dù cho rằng sự hoan hỉ của dân chúng trong những tấm hình chụp hai anh em ông Vươn ngày được tự do về làng là Người ta vui mừng vì thấy đồng cảm, nhưng đồng thời tác giả cũng cho rằng sự vui mừng đó cũng thể hiện tính pháp quyền của nhà nước hiện hành, Ông Sương Nguyệt Minh viết rằng:

Ông Đoàn Văn Vươn được đặc xá, ra tù trước thời hạn không chỉ là niềm vui của gia đình, dòng họ nhà ông mà còn là nỗi hân hoan của những người dân bình thường quan tâm đến “Sự kiện cống Rộc – Tiên Lãng”. Người ta có niềm tin công lý đã được thực thi đúng đắn, hợp lý rằng: Việc anh em ông Vươn chịu vòng lao lý là thể hiện tính bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật nghiêm minh. Còn việc các ông được đặc xá trở về với đời sống công dân tự do thường nhật lại thể hiện tính nhân đạo của nhà nước pháp quyền.

Ngay lập tức, dường như để phản bác nhà văn Sương Nguyệt Minh về tính nhân đạo pháp quyền của nhà nước hiện tại, đêm mùng 1, rạng sáng ngày đại lễ mùng 2 tháng chín, cơ quan công an của nhà nước Việt Nam câu lưu Tiến sĩ Nguyễn Quang A 15 giờ đồng hồ tại sân bay Nội bài mà không có bất kỳ lý do nào.

Nhà báo Huy Đức nhận xét rằng hành động đó là một thông điệp phản chính trị.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng được bạn bè ông đón như một người anh hùng.

Bàn về luật pháp Việt Nam

Như vậy nhà nước pháp quyền có tồn tại ở Việt Nam như nhà văn Sương Nguyệt Minh viết hay không?

Có một bài báo rất dài trên báo chí chính thống Việt Nam phân tích các bản Hiến pháp và những phát ngôn trong đó, để nói rằng nước Việt Nam ngày nay là một quốc gia tôn trọng các quyền cơ bản của con người.

Song nhà báo Huy Đức nhận xét rằng chính quyền mà nhân sự và mô hình chính trị không được quyết định bởi lá phiếu của người dân thì chỉ mới có được một phiên bản khác của nền thực dân.

Tại Việt Nam hiện nay người ta vẫn nói rằng việc bầu cử là việc của dân nhưng do đảng cộng sản quyết định.

Nhưng tại sao với một sự độc tôn cai trị, đảng cộng sản cần gì phải đặt ra cái gọi là luật pháp cho thêm phần phức tạp?

Blogger, Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy trích lời vị Tổng thống nổi tiếng của Tiệp Khắc sau giai đoạn toàn trị cộng sản:

doanvanvuon-7.jpg

Anh em ông Đoàn Văn Vươn trong ngày được đặc xá.

Các bộ luật – ít nhất là trong một số lĩnh vực – chỉ là cái mặt nạ, chỉ là một khía cạnh của thế giới giả tạo. Thế thì tại sao lại cần pháp luật? Cũng cùng lí do như ý thức hệ: Nó cung cấp một cây cầu biện hộ giữa hệ thống và các cá nhân, nó giúp họ tham gia vào cấu trúc quyền lực và phục vụ những đòi hỏi độc đoán của bộ máy quyền lực một cách dễ dàng hơn.

Việc thao túng các toà án và các công tố viên thông qua con đường chính trị, những giới hạn kiềm chế khả năng bào chữa của luật sư trong quá trình bảo vệ thân chủ của mình, các phiên toà thực chất là xử kín và những hành độc đoán của lực lượng an ninh, quyền lực của các lực lượng này còn cao hơn pháp luật, và cách áp dụng rộng đến mức vô lí những điều luật cố tình soạn thảo một cách mù mờ.

Bà Nguyễn Thị Từ Huy viết tiếp:

Tôi sử dụng câu trả lời của Havel, được nêu lên từ nửa thế kỷ trước mà giờ đây vẫn còn rất đúng cho trường hợp Việt Nam, để nói rằng: mô hình chính trị Việt Nam là một mô hình ngoại lai hoàn toàn, copy hoàn toàn từ nước ngoài, nhập khẩu hoàn toàn từ ngoại quốc, nó là sản phẩm của thái độ sùng ngoại tuyệt đối của bộ máy lãnh đạo.

Trong mô hình mà bà Từ Huy nói rằng ngoại lai hoàn toàn đó, tác giả Phạm Tuấn Xa thấy rằng không những nó có luật mà còn là một rừng luật. Tác giả viết trong bài Luật rừng và rừng luật:

Nhà nước Cộng sản Việt Nam là Nhà nước ban hành một “Rừng luật” – Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần – mỗi lần kéo dài từ 30 – 45 ngày chỉ để thông qua luật, sửa đổi luật và pháp lệnh. Tất cả mọi hoạt động xã hội dù nhỏ nhất cũng được luật hóa có vể rất nghiêm, rất minh bạch… Nhưng thực chất chỉ nhằm củng cố địa vị độc tôn của Đảng để bảo vệ khối tài sản khổng lồ của cán bộ Đảng từ địa phương đến Trung ương, và dựa vào đó Đảng dễ dàng cai trị.

Những tù nhân lương tâm và những đổ vỡ xã hội

Nếu câu chuyện tù tội của người nông dân Đoàn Văn Vươn là một câu chuyện vui, thì số phận những người tù chính trị trong đợt đặc xá nhân ngày đại lễ năm nay lại không được như thế.

Sau nhiều lời đồn đoán, cả trong lẫn ngoài nước, cả người Việt lẫn không phải Việt, không có một người tù chính trị nào được ân xá.

Luật sư Lê Công Định, một cựu tù chính trị nhận xét:

Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường. Do vậy, xin đừng ngạc nhiên hay buồn bã vì không tù nhân chính trị nào được trả tự do trong dịp này.

Hiểu rõ sự vận hành của một hệ thống đặc thù như vậy tại Việt Nam, thì sẽ không thắc mắc như các phóng viên ngoại quốc gần đây trước tin tức đặc xá này.

Một sự đặc thù khác trong sự vận hành của chế độ tại Việt Nam được blogger Viết từ Sài gòn nêu lên, nói đúng hơn là kết quả của sự vận hành của chế độ cộng sản tại Việt Nam, góp phần làm cho đảng cộng sản duy trì sự cai trị của mình, đó là sự mê tín của dân chúng vào đảng cộng sản.

“ Chính quyền sử dụng bạo lực với dân, chính quyền đạp lên pháp luật. Pháp luật đó không có tác dụng, bây giờ người ta noi gương chính quyền mà sử dụng bạo lực.
– Nhà văn Phạm Đình Trọng “

Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắc máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất công, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế độ Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.

Sự sợ hãi mà Viết từ Sài gòn đề cập được tạo nên bởi một thiết chế đặc trưng của các chế độ toàn trị, trong đó có chế độ cộng sản, là sự sử dụng một bộ máy công an khổng lồ. Việc này cũng không nằm ngoài những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản mà những lý thuyết gia của nó đề cập từ buổi khởi đầu của chủ nghĩa này, đó là việc sử dụng bạo lực. Việc sử dụng bạo lực lâu ngày dài tháng đã tạo nên một xã hội bạo lực. Trong một lần trao đổi với chúng tôi, nhà văn Phạm Đình Trọng nói rằng:

Cái này đặc biệt nghiêm trọng, đáng báo động. Một xã hội bạo lực đang thắng thế và cái sự thắng thế này nó bắt đầu từ chính quyền. Chính quyền sử dụng bạo lực với dân, chính quyền đạp lên pháp luật. Pháp luật đó không có tác dụng, bây giờ người ta noi gương chính quyền mà sử dụng bạo lực. Chính quyền dùng bạo lực với dân quá phổ biến và trở thành bình thường. Việc đó trở thành một khuôn mẫu ứng xử của xã hội thì bây giờ người dân người ta cũng ứng xử như thế thôi.

Một xã hội bạo lực chính là một sự đổ vỡ về văn hóa, và cũng vô cùng nguy hiểm như Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc nhận xét:

Những sự tụt hậu về kinh tế có thể được khắc phục nếu không phải trong vài năm thì cũng vài chục năm, nhưng những sự đổ vỡ trong văn hoá và đặc biệt trong đạo đức và quan hệ giữa người với người thì rất khó hàn gắn và để lại rất nhiều di hại.

Và cuối cùng, blogger Viết từ Sài gòn cho rằng dù được sự hậu thuẫn bởi sự mê tín của dân chúng, nhưng đảng cộng sản cũng phải đối mặt với nguy hiểm gây ra bởi chính họ vì Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng.

Trong tâm thức khá bi quan về sự đổ vỡ người ta sẽ cảm thấy một tia hy vọng khi nhìn qua trang blog Một góc nhìn khác của người cựu tù chính trị Trương Duy Nhất khi ông kể rằng cô con gái nhỏ của ông không chú ý cảnh duyệt binh trong ngày đại lễ mà quan tâm đến chuyện công an ở sân bay Nội bài đã trả tự do cho Tiến sĩ Nguyễn Quang A hay chưa!

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Võ Thị Hảo

RFA

  • Đặc xá cướp giết hiếp. Giam giữ tù lương tâm

Đợt đặc xá quy mô lớn của chính quyền VN trước 2/9/2015 với số lượng 18.298 tù hình sự đã khiến dư luận được một phen ngỡ ngàng.

Có phạm nhân giết người, tòa phạt 14 năm tù, nay ở  chưa được một nửa thời hạn đã tha bổng(có dư luận cho rằng do cô ta có thân hình bốc lửa và ở tù giùm cho một con ông cháu cha) !

Tội trộm cướp, tham nhũng, cướp giết hiếp, ma túy đều được đặc xá một cách  rộng rãi khác thường.

Riêng người có lương tâm, vô tội, chỉ đấu tranh cho sự thật và tự do nhân quyền như Trần Huỳnh Duy Thức, anh Ba Sàm, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Già, Bùi Hằng.. và nhiều người khác thì cho đến nay vẫn bị giam cầm dù người VN và thế giới đã nhiều lần lên tiếng phản đổi.

Cung cách quản lý xã hội như vậy chính là đặc trưng của 70 vận hành chính thể sau cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9.

  • 70 năm dân thành “khách trọ“

Những ngày cuối tháng 8/2015, người VN chứng kiến tại Malaysia một sự kiện mà dù đã gần một thế kỷ mơ ước và gẳng gỏi, người VN cũng không thể có được. Người dân đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng cách rầm rộ xuống đường biểu tình yêu cầu thủ tướng đương nhiệm Najib Rajak của họ phải từ chức chỉ vì phát hiện ra ông ta có dấu hiệu tham nhũng. Chính quyền không đàn áp họ, vì đó là quyền đương nhiên của dân, không ai có quyền xâm phạm.

Trong khi ở VN, nhà cầm quyền đàn áp tất cả những người ôn hòa bày tỏ nguyện vọng chống TQ xâm lấn lãnh hại, dân oan đi khiếu kiện và những người chống tham nhũng, những trí thức bất đồng chính kiền.

Đó là nghịch cảnh rõ ràng tố cáo bản chất của nền chính trị, thể hiện người dân là khách trọ hay là chủ trên đất nước của mình.

Người dân trong một nước tôn trọng dân chủ và nhân quyền thì mới thực sự có đất nước.

Tại VN, dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền thay đổi thể chế chính trị và nhà cầm quyền khi họ không làm những cảm kết trước dân, người dân đương nhiên chỉ là những kẻ  phải lưu vong trên chính Tổ quốc của  mình.

VN là một trong những thể chế chính trị độc tài cộng sản cuối cùng trên thế giới đã dùng những thủ đoạn khôn khéo để tồn tại, Cái gọi là thành quả đổi mới – thực chất là đổi mới nửa vời chỉ cốt để cứu thể chế chính trị cộng sản toàn trị VN khỏi sụp đổ dây chuyền theo hệ thống xã hội chủ nghĩa,  nới một chút nút thắt cổ người dân để họ làm kinh tế rồi bóc lột của họ tận xương tủy để làm giàu cho cá nhân.

Mặc dù đời sống kinh tế của người VN hiện nay có cao hơn so với thời cách đây 70 năm, nhưng trong cùng một thời gian đó, kinh tế các nước có cùng xuất phát điểm thấp như VN trong khu vực đã tăng cả 7, 8 lần.

Với bộ máy tham nhũng hiện nay, chi thường xuyên đã chiếm tới 72% ngân sách, tiền trả nợ lên tới 25%, chỉ còn khảng 3% ngân sách là chi cho đầu tư phát triển. Quan chức chính quyền, cơ quan đoàn thể nay còn không thèm giấu bộ mặt vô liêm sỉ, trơ trẽn tha hồ cấu kết với nhau cướp đoạt tiền của dân trên mọi lĩnh vực từ thuế phí chí, buộc dân phải hối lộ, đổi tiền lấy chữ ký trên mọi lĩnh vực, kể cả vay tiền nước ngoài hay cho phép đầu tưcng xuyên thất thoát, kém hiệu quả. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói „ Cứ vay tiền ào ào thì không phát triển đất nước, trả nợ không được thì đến ngày là sụp“.

  • “Một cổ ba tròng“

Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải chịu  đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực. là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức  đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương.

Sau 70 năm cách mạng Tháng tám thành công, dân một cổ thêm ba tròng. Tiền thuế của dân đã phải trả cho giới cai trị bóc lột và để bảo vệ cho một chế độ xã hội bất công. Ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh niên đã nhận định rằng từ 50- 70% ngân sách nhà nước đã rơi vào túi quan tham. Người dân sẽ bị đàn áp nếu không chịu nô lệ, nhẫn nhục đóng thuế, phí nuôi bộ máy cai trị.

Lấy tiếng rằng nông dân được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp,, nghe tưởng rằng nhà nước nhân đạo lắm, nhưng trên thực tế khác hẳn. Nông dân phải gánh trên 1.000 loại phí và lệ phí! Sự tham lam tàn bạo này chưa từng có trong lịch sử VN.

Sáng 10/8/2015, báo cáo  Ủy ban thường vụ QH tại phiên thảo luận dự thảo Luật phí và lệ phí cho biết, như với nông nghiệp, dù vừa qua đã ra soát bỏ nhiều loại nhưng vẫn còn 937 khoản phí và 90 lệ phí. Ông Nguyễn Sinh Hùng than: „một quả trứng mà gánh tới 14 loại phí thì đúng là …trời đất ơi(theo Vnexpress 10/8/2015 „Nông dân vẫn chịu trên 1000 loại phí và lệ phí“) .

Những lời hứa trịnh trọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập về thực thi quyền tự do, bình đẳng, quyền con người, điều đã khiến người VN tin và do đó đã dốc toàn lực ra ủng hộ Việt Minh và đảng cộng sản, qua 70 năm, càng ngày càng chứng minh rằng đó chỉ là mớ giấy lộn, một lá bùa hữu hiệu để chính quyền cộng sản độc tài cướp đoạt quyền con người, quyền tự chủ của người dân mà thôi.

  • Đặc trưngThời đại Hồ Chí Minh: huynh đệ tương tàn, tụt hậu xa so với thế giới, dân bị nô lệ hóa

Về việc tự vỗ ngực khen ngợi và che giấu những tội ác của mình, ít ai bằng đảng cộng sản VN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói không một chút căn cứ thực tế :“ Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử VN, đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Trong khi đó, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận là VN đang đứng chót bảng xếp hạng tỏng nhóm ASEAN-6, thậm chí có lĩnh vực còng thấp hơn cả Lào, Campuchia, Myanmar, ba nước được coi là kém phát triển nhất trong khối.

Lời vỗ ngực tự khen trên của Nguyễn Phú Trọng cũng không khác gì lời tự khen trên xương máu những nạn nhân trong cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cách đây gần 70 năm tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội VNDCCH: Luật cải cách ruộng đất của chúng ta là chí nhân chí nghĩa, hợp lý hợp tình…“.

* Cần cách mạng thể chế

70 năm minh chứng sự bất lương của thể chế độc tài cộng sản là đã quá đủ..

Thậm chí không một nỗ lực cải cách nào có thể thay đổi được nó về bản chất. Những người muốn cài cải cách như Trần Xuân Bách, Võ Văn Kiệt đã có quyền lực lớn nhưng cũng bó tay hoặc bị hãm hại vì cải cách là đụng đến quyền lợi riêng nhiều quan chức, chưa kể có một bộ máy tình báo Hoa Nam đứng đằng sau.

Nguyên nhân nào đã khiến người VN ngày nay nổi tiếng thế giới, nhiều nơi phải ghê tởm người VN khi VN liên tục xuất khẩu sự vô văn hóa, gái điếm, trộm cắp, buôn lậu, ma túy, sự giết chóc ra toàn thế giới? Những ác quỷ tàn sát cả mẹ cha, chồng vợ, bạn bè, thân chỉ vì vài đồng bạc từ đâu ra?

Đều là những sản phẩm của con đường vạch ra từ 70 năm trước.

Khi xã hội không có công bằng, người dân không tương lai, và hình mẫu của họ là những quan chức dối trá, cướp ngày thì được vinh thân phì gia, nhiều người dân, đặc biệt là lớp trẻ, sẽ tuyệt vọng và noi gương quan chức, cũng sống như ác quỷ.

Vì thế, cần một ngày Quốc khánh khác cho VN. Không phải quốc khánh đau thương và lọc lừa 2/9.

VTH

Người Việt tử vong trong vụ ẩu đả đẫm máu ở Nhật

Người Việt tử vong trong vụ ẩu đả đẫm máu ở Nhật

Camera giám sát an ninh quay được cảnh vụ ẩu đả.

Cảnh sát ở Osaka, Nhật Bản, đang điều tra một vụ giết người sau một cuộc ẩu đả hôm 6/9 làm 1 người Việt thiệt mạng.

Khoảng 11 giờ đêm (giờ địa phương), một người phụ nữ lái xe qua hiện trường đã gọi cảnh sát để thông báo một vụ ẩu đả giữa một nhóm 4-5 người cầm dao và gậy bóng chày và một người đàn ông nằm trên mặt đất.

Khi cảnh sát đến hiện trường, họ phát hiện một người đàn ông nằm bất động với nhiều vết đâm ở bụng và ngực. Người đàn ông này được đưa tới bệnh viện nhưng đã chết.

Camera giám sát an ninh cho thấy có tổng cộng 6 kẻ tấn công chạy trốn khỏi hiện trường.

Trang tin Nippon News cho biết, 2 người khác, cũng được cho là công dân Việt Nam, được tìm thấy trong tình trạng chảy máu nghiêm trọng và ngã quỵ gần một tòa nhà chung cư.

Một nhân chứng tận mắt chứng kiến vụ việc cho biết, tất cả những người tham gia ẩu đả đều là người Việt.

Nhân chứng này nói: “Họ ngã gục trong một vũng máu. Tất cả đều là người Việt. Đó là một cuộc ẩu đả giữa những người Việt”.

Cảnh sát cho biết, cả 3 nạn nhân đều sống trong cùng một khu chung cư. Cảnh sát cũng đang điều tra để xác định danh tính người đàn ông thiệt mạng.

Theo Japan Today, Tokyo Reporter, TBS News, Nippon News

TĨNH LẶNG – QUÀ TẶNG CHO CUỘC SỐNG

TĨNH LẶNG – QUÀ TẶNG CHO CUỘC SỐNG

Một chàng trai trẻ chiều nào đi làm về ngang qua con sông cũng thấy một người đàn ông trung niên chăm chỉ ngồi câu cá.  Anh đến gần và hỏi chuyện:

–   Chào bác, bác câu cá mỗi ngày có được nhiều không?

–   Cám ơn cậu.  Cũng được khá nhiều – người đàn ông đáp.

–   Sao bác không bán cá mua lưới để có thể bắt được nhiều cá hơn – cậu thanh niên gợi ý.

–   Bắt được nhiều cá hơn, rồi làm gì? – người đàn ông thắc mắc.

–  Bác có thể bán cá để có tiền mua tàu và lưới đánh cá, để đánh bắt được nhiều cá hơn nữa – chàng thanh niên nhiệt tình dẫn ý.

–   Bắt được nhiều cá hơn nữa, rồi làm gì? – người đàn ông hỏi tiếp.

–   Để bác trở nên giàu có, để đời sống nhẹ nhàng và hạnh phúc – cậu thanh niên đáp với vẻ tâm đắc.

–   Thế cậu không thấy hiện tại tôi đang sống rất nhẹ nhàng và hạnh phúc với cái cần câu này sao? – người đàn ông hỏi gợi ý cách bình thản.

***********************************

Cậu thanh niên cứ tưởng mình đang đề xuất một cao kiến cho người đàn ông đang câu cá, ai ngờ đề xuất đó chỉ là một con đường lòng vòng để tìm cái ông đang sẵn có: nhẹ nhàng và hạnh phúc.  Tại sao?  Phải chăng cậu không đủ tĩnh lặng để nhận ra điều đó?

Rời bỏ câu chuyện, ta trở về với đời sống thường ngày.  Đường đi xe cộ ào ào; về đến gần nhà tiếng ca hát, loa phát thanh inh ỏi; vào trong nhà cũng rầm rộ vì người lớn lo công việc, trẻ con chơi giỡn la hét; ngồi trong phòng một mình vẫn ồn ào bởi bao tính toán lo toan việc nhà, việc công ty, việc nọ, việc kia kéo đến trong đầu; thậm chí khi đi ngủ cũng vẫn ồn ào bởi những chộn rộn của ngày sống xâm nhập cả vào trong giấc mơ!  Đã bao giờ bạn rơi vào tình cảnh như thế chăng?  Tại sao lại có những vội vã ồn ào quá sức như vậy?

Do môi trường sống và làm việc thay đổi?  Trước đây nhịp sống chậm rãi, yên ả hơn.  Giờ học có, giờ làm có, giờ nghỉ ngơi có, giờ giành cho người thân bạn bè có, giờ phút giành riêng cho mình cũng có.  Thời nay, mọi thứ cứ tất bật trong vòng xoáy của sự thay đổi chảy trôi, khiến đời sống trở nên quá vội vàng gấp gáp.  Đâu đâu cũng có sự xuất hiện của công việc.  Làm việc ở công ty đã đành, làm việc ở nhà, làm việc lúc chuyện trò, lúc xem tivi, trong bàn ăn, thậm chí trước khi ngủ cũng tranh thủ làm thêm chút việc.  Tất cả ưu tiên dành cả cho công việc đến nỗi đôi khi quên mất mình làm việc là để làm gì.  Do vậy, náo động ồn ào cũng nhiều hơn.  Đôi khi quá mệt cũng đành thở vội một hơi để rồi tiếp tục công việc, tiếp tục cuộc sống, nếu không sẽ bị ‘tụt hậu’ so với nhịp sống hiện đại.  Có người chơi chữ cách hóm hỉnh: hiện đại nên hại điện, môi trường hiện đại ấy ngốn hết thời gian tâm trí con người.  Nhưng đâu phải ai cũng nghĩ thế.

Phải chăng do tính cách mỗi người?  Người thiên về hoạt động, ưa thích náo nhiệt thì cho đó là bình thường, thế mới là cuộc sống hiện đại, phải biết tranh thủ thời gian.  Người có đầu óc trầm tư suy tưởng, thích nhẹ nhàng trầm lắng thì cho đó là xô bồ ồn ào.  Thế nhưng, dù thích hoạt náo, dù ưa trầm lặng, ai rồi cũng có lúc thấy mình bị cuốn sâu vào vòng xoáy của môi trường sống hiện đại quá náo nhiệt, vội vã ấy, để rồi có lúc chợt nhận thấy mình bị mất hút trong cơn lốc công việc, cơn lốc thị trường sản xuất và tiêu thụ.  Đến lúc nhận ra thì đã bị cuốn vào quá sâu và quá lâu; mệt nhoài, kiệt quệ, quay trở ra còn tốn công tốn sức hơn, thôi thì “đành theo lao” vậy!  Điều gì khiến họ lâm vào tình cảnh ấy?

Phải chăng họ thiếu những giây phút tĩnh lặng?  Tĩnh lặng đủ để biết mình cần giành thời gian cho những mối tương quan thân tình với con người, với bạn bè, tĩnh lặng đủ để hiện diện cùng người thân, tĩnh lặng đủ để đối diện với chính mình, với cõi lòng của mình.  Tĩnh lặng đủ để nhận ra mình đã hành xử thế nào trong các tương quan, để biết mình đã ưu tiên điều gì trong các chọn lựa, và để thấy đâu là ý nghĩa đích thực của những gì mình đang nỗ lực thực hiện hầu mong mang lại cho đời sống của bản thân, gia đình, người thân, bạn hữu sự ấm êm hạnh phúc.

Nếu bạn thấy nhịp sống của mình quá vội vã, đây là lúc bạn cần giây phút tĩnh lặng; nếu bạn chưa nhận thấy mình đang sống ra sao, hơn lúc nào hết bạn cần giây phút tĩnh lặng để nhìn biết mình đang sống thế nào.  Vì lẽ đó, tĩnh lặng là cần thiết và ích lợi cho đời sống.

Chẳng ai có thể bắt bạn tĩnh lặng được, cũng như bạn chẳng thể tĩnh lặng nếu bạn không muốn, và đôi khi dẫu rất muốn bạn cũng chẳng thể tĩnh lặng.  Vì lẽ đó, tĩnh lặng là một quà tặng.

Thế nhưng, dù bạn có muốn nhận nhưng không được trao, bạn cũng chẳng thể nhận được; trái lại, dù người trao muốn trao nhưng bạn không muốn nhận, bạn cũng chẳng có.  Vì lẽ đó, hãy nhận khi được trao và hãy biết xin để được trao và bạn có thể nhận được.

Bạn đã nhận được món quà tĩnh lặng chưa?  Nếu chưa, vậy hãy mau mắn xin đi.  Nếu đã xin mà vẫn chưa có, hãy mở lòng ra để đón nhận.  Mở lòng bằng cách hãy giành một vài phút giây mỗi ngày để tĩnh lặng, nhìn lại ngày sống của mình, xét xem những gì bạn đã nghĩ, đã nói và đã làm có thực sự mang lại ý nghĩa cho đời sống của bạn, của người thân, bạn bè.  Chúc bạn có được những giây phút tĩnh lặng đủ để giúp bạn nhận ra đâu là ý nghĩa của việc mình đang làm, cách mình đang sống và đâu thực sự là hạnh phúc của đời mình.  Chúc bạn gặp được cơ hội để nhận ra ý nghĩa và giá trị đích thực của lối suy nghĩ và cách hành động của mình, như người đàn ông trong câu chuyện trên.

Vinh Sơn Phạm Văn Đoàn, S.J.

http://dongten.net