Thấy gì ở bên ngoài nhân việc Tạ Phong Tần đi Mỹ

Thấy gì ở bên ngoài nhân việc Tạ Phong Tần đi Mỹ

Mai Tú Ân

Tù Nhân Lương Tâm Tạ Phong Tần, một chiến sĩ đấu tranh dân chủ bị kết án tù 10 năm đã bất ngờ được chính quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn 5 năm, và được đưa thẳng lên máy bay bay qua Mỹ. Chị hoàn toàn không được hưởng một giây phút tự do nào trên quê hương Việt Nam mà chị đã dấn thân và phải trả giá bằng nhiều năm tù đằng đẵng. Chị cũng không có được phút giây viếng mộ mẹ già, không được đốt cây nhang kính viếng đến người mẹ đã tự thiêu một năm sau ngày chị bị bắt giữ bất công.

Hoàn toàn giống với TS Cù Huy Hà Vũ và Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải trước đó, cũng bị lực lượng AN áp tải thẳng từ nhà tù tới phi trường để bay sang Mỹ. Thậm chí anh Điếu Cày vẫn không kịp thay đôi dép nhựa…

Đó là sự đổi chác, hay là sự biến tấu của những cuộc “đầy ải” biệt xứ thì chúng ta không biết, mà chỉ biết chắc rằng, đã có một thoả thuận ngầm nào đó giữa chính quyền Việt Nam và chính quyền Mỹ. Và những màn “xuất ngoại” vừa vội vàng vừa lỗi thời và không giống ai của những tù nhân lương tâm nổi tiếng đó chỉ là thực hiện thoả thuận bí mật trên mà thôi.
Có lẽ chính quyền Mỹ, qua sự đấu tranh của đồng bào hải ngoại, của các tổ chức quốc tế và qua truyền thống nhân đạo của mình (như vụ HO chẳng hạn) đã lại đưa bàn tay nhân ái ra để giúp cho những người tù nhân lương tâm đang bị đày ải bất công trong các nhà tù CS. Tất nhiên là người Mỹ cũng đấu tranh để đòi “tự do vô điều kiện” cho các TNLT nhưng có lẽ họ đã làm hết sức có thể và kết quả chỉ là thế. Và nếu có điều gì để nói thì chúng ta chỉ nên nói lời cám ơn chân thành.

Và giờ đây người phụ nữ can đảm Tạ Phong Tần của chúng ta đã đến với nước Mỹ của tự do, của đồng bào ruột thịt chung đường với cô giống như cá về với nước, như con cháu về với gia đình…

Nhưng, chúng ta hãy trở về với thực tế. Thế giới tự do hoá ra lại không hẳn là nơi hoạt động đắc địa cho các chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Những con người tốt nhất của phong trào đấu tranh trong nước (họ xứng đáng được gọi như thế bởi sự dấn thân, sự trả giá cho những lý tưởng của mình) thì khi qua nước ngoài thì dường như đều bị “ngợp” bởi sự công kích bất công, sự bới lông tìm vết, sự thù nghịch vô lý của một số thành phần, mà buồn thay lại là những người cùng chung chiến tuyến. Những người nổi tiếng như nhà báo Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên trước đây, và Ts Cù Huy Hà Vũ, Blogger Điếu Cày vừa qua, người nhiều người ít nhưng đều là những người mà ở trong nước chúng tôi rất trân trọng, yêu mến nhưng họ đều vất vả, khổ sở khi phải đối phó, chống đỡ, thanh minh trước bao nhiêu búa rìu khi xuất ngoại…

Vẫn biết rằng quyền cá nhân phản biện là quyền dân chủ đương nhiên ở đất nước dân chủ, vẫn biết rằng số người công kích họ không phải là nhiều trong cộng đồng hải ngoại vốn công bằng, nhân hậu nhưng đó là những thành phần mạnh miệng, nhân danh đủ thứ và mạt sát đủ thứ khiến cho những chiến sĩ ấy của chúng tôi tổn thương, hoặc lạc lõng và ít nhiều đều giảm sức đấu tranh.

Tất cả hầu như đều bị chụp cho cái mũ ngớ ngẩn là CS, hay CS sang nằm vùng. Và không biết có phải ngẫu nhiên không khi hầu như tất cả họ đều là người xuất thân từ miền Bắc, hay ít nhiều dính líu đến chế độ CS. Chế độ mà họ đã và đang đấu tranh đến cùng. Đó là những người trí thức có tài, có tâm và có cả dũng nữa để dấn thân, và việc phải ra nước ngoài là việc chẳng đặng đừng. Nói một cách thật lòng thì đa phần những người dấn thân ở trong nước đều chấp nhận trả giá cho việc dấn thân, chứ không mấy ai hoan hỉ với việc “đi Mỹ” này.
Vậy mà giờ này vẫn có những cái tên, những con người “đồng chí hướng” với họ vẫn ra rả công kích bất công và vô lý , vẫn không ngừng bới lông tìm vết, không ngừng đòi hỏi để cuối cùng thì những người đó giống như những kẻ ngồi nhà bắc nồi để chờ ninh xương cọp làm cao hổ cốt, và lại lên tiếng mạt sát những người đã và đang ở trong hang cọp để bắt cọp.
Tất cả những điều đó không hạ gục được ai nhưng nó không chỉ buồn lòng những người ra đi, mà cả những người ở lại.

Mong rằng những điều không đáng có đó không đến với nữ nhi can đảm Tạ Phong Tần của chúng ta…

M.T.A

‘Diễu binh,’ chuyện như ‘diễu!’

‘Diễu binh,’ chuyện như ‘diễu!’

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

Trước kia ở miền Nam, chúng ta chỉ nghe nói duyệt binh, diễn binh mà không nghe nói đến tiếng “diễu binh,” “diễu hành.”

Trong thời đại này, chúng ta phải hiểu “diễu binh” như thế nào? Mới đây nhân cuộc diễu binh ngày 2 Tháng Chín tại Hà Nội, có ký giả cắc cớ hỏi Trung Tướng Võ Văn Tuấn, phó tổng tham mưu trưởng quân đội, cũng là tổng chỉ huy cuộc diễu binh này, vì sao chúng ta “diễu binh” mà không diễn binh. Sau đây là câu trả lời:

“Duyệt binh là có vũ khí trang bị đi theo, như tên lửa, máy bay, xe tăng, đạn pháo… còn diễu binh chỉ có người diễu hành. Tạm thời, nhà nước đang sử dụng ‘diễu binh’ – tức là chỉ có con người mà không có vũ khí tham gia. Có nhiều nguyên nhân chúng ta tổ chức diễu binh chứ không phải duyệt binh, trong đó có việc tiết kiệm.”

Về mặt mày, thì ông Tuấn này “sáng sủa” hơn cả ông Lê Đức Anh và ông Phùng Quang Thanh nhiều, nhưng lối giải thích của ông này lại quá “tối tăm.”

Cô Phạm Trúc Sơn Quỳnh. (Hình: Facebook Phạm Trúc Sơn Quỳnh)

Như vậy, theo ông này “diễu binh” là chỉ có người, không có vũ khí kèm theo như xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn! Nhưng trong lúc đó, báo chí, truyền hình Việt Nam đều loan tin hai cuộc “diễu binh” lớn của Nga ngày 5 Tháng Chín tại Moscow và của Trung Cộng ngày 3 Tháng Chín ở Bắc Kinh. Trong hai cuộc diễu binh này Nga va Trung Cộng đều phô trương các vũ khí hiện đại như phi cơ, hỏa tiễn tối tân nhất do chính các nước này sản xuất. Như vậy nói vì tiết kiệm mà Việt Nam chỉ có “diễu binh” mà không diễn binh là coi thường người đặt câu hỏi và khinh thường sự hiểu biết của quần chúng.

Trong tình thế này chính phủ CSVN không diễn binh mà chỉ “diễu binh” (không có vũ khí như lời ông Võ Văn Tuấn) chẳng qua là vì, không lẽ trong khi Tàu và Nga đang diễu võ dương oai, biểu dương vũ khí hiện đại do họ sản xuất, thì “bộ đội cụ Hồ” không lẽ đem AK47, B40, B41, pháo 130 ly, hỏa tiễn Sam, Stinger, giàn hỏa tiễn Kachiusa, Mig 15, xe tăng T54 thời “ta đánh là đánh (thuê) cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” ra để hù thiên hạ!

Ông Võ Văn Tuấn cũng chưa phân biệt được “duyệt binh” và diễn hay “diễu binh.”

Sau nghi lễ khai mạc, trước khi cuộc diễn binh hay “diễu binh” bắt đầu, vị nguyên thủ quốc gia lên xe mui trần cùng với chỉ huy của lễ diễn binh, đi “duyệt” hàng quân trong tư thế nghiêm và bắt súng chào. Sau khi vị nguyên thủ quốc gia trở về khán đài, cuộc diễn binh (hay diễu binh) mới bắt đầu và lần lượt các đơn vị tiến qua khán đài, được quan khách trên khán dài danh dự và dân chúng hai bên đường vỗ tay hoan hô.

Điều này chúng ta đã thấy qua các hình ảnh “duyệt binh” của VNCH với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và tại Bắc Kinh Tháng Năm, 2012 với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào.

Khi ký giả hỏi về việc tại sao lại bắn 21 phát đại bác trong ngày Quốc Khánh mùng 2 Tháng Chín mà không phải con số khác, ông Võ Văn Tuấn cho rằng, “Đến bây giờ chưa có ở đâu lý giải được vì sao lại bắn 21 loạt đại bác nhưng có thể liên quan đến ý nghĩa một tuần nhân với 3. Giống như tượng Oscar khi người ta làm ra thì tình cờ giống ông chú tên Oscar của những người làm (!)”

Thật là khó hiểu khi ông tướng này so sánh “khập khễnh” 21 phát đại bác với với chuyện tượng Oscar. Nếu ông chịu khó vào Wikipedia mà tìm thì đâu đến nỗi!

Về chuyện cô gái xinh đẹp dẫn đầu cho khối Quân Y là Phạm Trúc Sơn Quỳnh, “nữ sĩ quan xinh đẹp khối trưởng khối diễu binh quân y, làm sốt cộng đồng mạng bởi khuôn mặt xinh xắn, tác phong mạnh mẽ, dứt khoát, các động tác điều lệnh chuẩn mực,” thì dư luận cho rằng được mượn từ bên Đại Học Thương Mại, và được mang cấp bậc trung tá (hai vạch, hai sao). Bộ Quốc Phòng khẳng định cô là quân nhân chuyên nghiệp mang cấp bậc thiếu úy, chứ không phải đi mượn về. Về cấp bậc trung tá đeo mang trên ngực cô, theo Trung Tướng Tuấn, cô là người đi đầu khối nên phải mang cấp bậc theo quy định thống nhất về cấp chỉ huy khi “diễu binh.”

Vào YouTube xem “diễu binh,” chúng ta thấy thêm một điều nữa là tất cả lính tráng trong hàng quân đều mang một loại huy chương và số lượng huy chương giống nhau, mỗi người ba cái. Quân đội thì có người già, người trẻ, có người có chiến công, nhưng cũng có người vô tích sự, vì sao phải dối trá đồng loạt như vậy, ông Tuấn có cho đây là “nguyên tắc diễu binh” không? Bốn mươi năm ngồi không, mà bây giờ có anh lính mặt non choẹt mang cấp tá và huy chương đầy ngực.

Theo kiểu nói bình dân Nam Bộ ngày trước, đây là “lon Lèo!” và “huy chương Lèo!” hay là đồ hàng mã, giả dối, lừa người!

Cùng mang huy chương giống nhau. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Như vậy, cô Sơn Quỳnh được dẫn đầu khối quân y, mang cấp bậc trung tá chỉ vì cô trẻ, đẹp, và có lẽ sĩ quan cấp bậc lớn nhất trong khối này già và xấu, quá gầy hay quá mập nên đã bị “cách ly” không cho tham dự “diễu binh” như bọn cai tù vẫn thường giấu những anh tù “cải tạo” ốm đói bệnh tật mỗi khi có phái đoàn cấp trên hay báo chí đến thăm viếng trại tù. Theo tôi, Sơn Quỳnh có khuôn mặt khá bụ bẫm, nhưng nhan sắc cũng thuộc loại tầm tầm, nếu vị chỉ huy lễ “diễu binh” cần đến những cô trẻ, đẹp để dẫn đầu khối cho đẹp mặt chính phủ và đảng, tôi xin giới thiệu với ông, ngay đất Hà Nội, thiếu gì diễn viên, người mẫu, sinh viên chân dài, hiện nay đang làm nghề nằm, nên dựng mấy cô dậy mà cho đi “diễu hành” là đẹp nhất!

Câu chuyện dối trá này làm chúng ta liên tưởng đến câu chuyện của Thế Vận Hội Olympic Bắc Kinh năm 2008. Trung Cộng đưa một cô bé xinh đẹp tên là Lâm Diệu Khả, 9 tuổi, trình diễn ca khúc “Ngợi ca tổ quốc” tại lễ khai mạc, thực ra chỉ hát nhép môi và diễn thay cho giọng của ca sĩ thực là Dương Bái Nghi, 7 tuổi. Ca sĩ trẻ tuổi này không được xuất hiện vì nhan sắc và dáng dấp không bằng Lâm Diệu Khả.

Sự dối trá “vĩ đại” này được Trung Cộng ngụy biện rằng họ quyết định dùng em Lâm vì ”chúng ta phải đặt lợi ích của đất nước lên trước!”

Màn trình diễn pháo bông tại đêm khai mạc cũng là giả tạo, vì được ghép nối thêm trước khi chiếu trên TV cho cả thế giới xem. Ban tổ chức cũng giải thích “làm điều đó để tạo thuận lợi và ấn tượng ngoạn mục cho các đài truyền hình!”

Vậy thì sự thật và sự lương thiện không hề được “cha con nhà nó” tôn trọng.

Việt Nam khoe, một nhà báo Úc đã viết: “Gộp hết tất cả lễ hội lớn của Úc, các cuộc diễu hành, từ lễ hội Mardi Gras ở đường Oxford cho tới lễ hội Moomba ở Melbourne, cộng lại tất cả những đám đông đã đến dự Thế Vận Hội Sydney, hay những trận đấu bóng đá, cũng không bằng sự kiện 2 Tháng Chín ở Việt Nam.”

Úc thua Việt Nam là phải, nên chi dân Việt giờ này mà còn đóng tàu vượt biển sang Úc. Có gì đâu mà hãnh diện! Kiểu nhà nghèo, con nợ thiên hạ mà đòi chơi bảnh!

Mới đây, World Bank công bố Việt Nam nợ nần lên đến $110 tỷ và chỉ riêng khoản chi trả tiền lời đã lên đến 7.2% tổng chi ngân sách nhà nước.

Mãi vui tìm cành hoa trên cánh bướm

“Mãi vui tìm cành hoa trên cánh bướm”

Ai đưa ta lạc đến nước non này.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc tử)

Mai Tá lược dịch

Câu nhận-định trên cũng từa-tựa một nhận-định ở đây, lúc này, trong trình-thuật.

Trình thuật thánh Máccô hôm nay hẳn sẽ làm người đọc hài lòng, không ít. Hài lòng, theo cách thế mà con dân đi Đạo, vẫn kiếm tìm. Hài lòng, chẳng phải vì ta đã có được Lời vàng rất thánh, Ngài bảo ban. Mà, từ nay ta sẽ không đọc và hiểu Lời Ngài theo nghĩa đen tuyền, thể-chất nữa.

Bởi, nếu tất cả những người anh, người chị trong Giáo Hội chỉ biết đọc và hiểu Lời Chúa một cách đen tuyền thể chất như thế, ắt hẳn rồi ra ai cũng tự biết mình sẽ phải làm gì, khi đọc xong văn bản. Đọc Tin Mừng –như bài trình thuật hôm nay vừa kể- mà lại hiểu theo nghĩa đen, e rằng ai cũng sẽ phải móc mắt, chặt tay liệng bỏ mọi cơ duyên lòng-thòng tội lỗi, khiến cuộc đời trở nên ô-trọc.

Sự thật, không phải thế. Có điều chắc, là: người đời vẫn ngang-nhiên cứ muốn sống. Cứ yêu và thở, dù đã làm những điều quái gở, rất nhiều lần. Vẫn sống, mà chẳng thấy mối mọt đục khoét đôi bàn tay, hoặc cả chuyện lửa cháy đêm đen vùng luyện tội, cũng thế.

Làm con dân Đức Chúa, ta tin rằng Ngài mặc-khải cho ta nhiều sự việc, rất đích-thực. Ngài mạc-khải ơn cứu-độ. Mặc khải Tình thương-yêu dạt-dào, chứ không phải lời sấm quả-đoán, rất tương-lai. Quả thật, Đức Chúa quyền-năng là Đấng truyền-đạt hiệp-thông, rất khéo léo. Như bậc Thầy trên bục giảng, Ngài sử-dụng ngôn-từ, ảnh-hình để diễn-tả cảnh-tình, Ngài muốn dạy.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sử-dụng hình-ảnh sự dữ/ác thần một cách nghiêm-chỉnh. Và, thánh Mác-cô còn viết về sự dữ/ác thần cứ quẩn-quanh bên Chúa như thể-chất, xuất từ bên trong con người. Và, cả những thành-phần hữu-thể, thoát xác ra bên ngoài, nữa.

Trình thuật hôm nay khuyên ta nên dừng lại. Biết chấm-dứt hành-vi xấu xa tồi-tệ, vẫn cản-ngăn ta về với tình thương-yêu Đức Chúa. Hành-vi lỗi-phạm thường rơi vào hai đặc-thù chính-yếu ở nhân-trần, đó là: lề-thói thân-quen và thói-tục o-ép, thúc-giục.

Lề-thói thân-quen là chuyện thường tình, dễ gặp. Cũng có thể, đây là thói thường tình mà ta năng gọi là: thói quen tốt. Có lề thói như thế, cũng chẳng có gì khiến ta bận-tâm. Tựa hồ như: biết nói lời “xin vui lòng” và  “cảm ơn”. Cũng có thể, là những tập-quán tốt, khi khởi-sự thì rất đẹp, rất có lý. Phải đạo. Nhưng đến hồi kết-thúc, vẫn thôi-thúc ám ảnh, khôn nguôi. Tựa hồ như: lề-lối trau-chuốt cho thân thể, rất hợp tình. Thói-tật thân-quen thường xảy đến, có thể là: hành-động dối-trá, bất lương hoặc trộm cắp, khó bỏ. Hành-vi này, thường dẫn đến kết-cuộc tồi-tệ, suy sụp.

Cùng một lúc, hành-vi o ép/thúc-giục, lại thuộc một trật-tự khác. Đây là những hành-vi lập đi lập lại, cứ thế không dứt. Như: cố tật cờ bạc rượu chè, chè chén say sưa, rong chơi mua sắm, hút sách bạo động. Mê làm việc, nhậu nhẹt phá phách. Chích choác kích-dâm, đỏ đen/cá độ hoặc chuyện trò trên mạng liên-hồi không dứt. Nhất nhất, đều là biểu-hiện thời thượng của hành vi o ép, thúc giục.

Các lề-thói nghiện-ngập nói trên, vẫn dày vò tâm-can con người thời-đại, không ít. Điều này chứng-tỏ, đã có ảnh-hưởng lên sự tự tin, lòng quả-cảm. Hoặc, bản chất di truyền, của bản thể. Một trong những câu nói diễn-tả trạng-huống khó tả của lề-thói o-ép, thúc-giục, là: tâm-tình hát lên thành tiếng “không biết vì sao tôi buồn”…Buồn tình, buồn đời nên vội tìm đến chốn không ngủ yên. Cứ thế bế-tắc rồi lại rơi vào bế-tắc, trầm-luân lại tìm chốn trầm-luân.

Chính vì thế, chẳng lạ gì khi có nhiều người tự thấy vẫn cô đơn, bơ vơ, đơn lẻ. Dù, trên thực tế, họ đang ở giữa chốn phồn-hoa, vui nhộn. Thậm chí, có người còn tìm cách phá hủy vài cơ phận trong người mình, để lẩn tránh cô-đơn. Không tìm ra đoạn kết, của mọi việc.

Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh, rằng: ta phải chấm dứt hành-vi tự-hủy và tìm đến giải-pháp chữa chạy, bằng ba phương-án tích-cực.

Trước hết, làm những gì có ích, có lợi để giữ mình. Có người lại tìm đến những giải-pháp khác thường. Quyết hàn-gắn cuộc đời bằng những gì thuộc phần sầu-lắng, nội-tâm. Khả dĩ sắp xếp lại mảnh vụn đời mình, về với nhau. Không cần biết việc ấy có được người khác chuẩn thuận hay không. Có thích hợp với niềm tin đi Đạo, hay không. Miễn là giải pháp ấy không đưa họ về với lề thói hủy hoại, là được rồi. Phương án này tựa như lập trường Chúa nói: “ai không chống ta là ủng hộ ta”. Ai không phản ta, là bạn ta.

Thứ đến, là phương-án chấp-nhận để người khác giúp mình. Chẳng ai lại có thể đơn-thương/độc mã, chiến-đấu mãi cả một đời người. Đây, là giải-pháp áp-dụng hiên-ngang 6 bước trong tiến-trình điều nghiên cai rượu, cai thuốc. Phương-án này được hiểu là thái-độ chia sớt gánh nặng. Để, chấm-dứt lề-thói không hay, của nhau. Bạn bè, người thân chẳng thể nào hiểu được hết những khúc-mắc nơi thái-độ của mình, nếu người ấy không có kinh-nghiệm chuyên-môn, để giải-quyết.

Bởi vậy, người mắc thói-tật nghiện-ngập vẫn cần lời khuyên thích-đáng của chuyên-viên, nhà nghề. Cũng cần nghe theo lời khuyên của những người có kinh-nghiệm chữa-trị. Và, sự giúp đỡ cũng như nương-tựa, đỡ-nâng nhận được từ người đạo-đức/chức-năng, rất chuyên-môn, như chén nước tươi mát được Chúa nói đến ở trình-thuật.

Thế kỷ 16, thánh I-Nhã thành LoyÔLa từng khuyên-dặn: nếu ta biết tự kiểm-điểm để xem tại sao, ở đâu, khi nào, làm cách nào và mình có thói-quen nào, hay theo ai, khiến mình dễ rời xa tình thương yêu của Đức Chúa, thì khi đó ta mới tìm được lý-do: sao ta làm thế? Và nhờ vậy, mới chuyển đổi thói quen đúc sẵn.

Thành thử, nếu cứ ngồi đó mà than “tình đời thay trắng đổi đen”, thì e rằng sẽ còn quá nhiều nước, để mãi mãi sẽ không kịp tát.

Và, nếu như ta cứ mải nói “không” với mọi chuyện, ta sẽ chẳng còn biết ra được chính mình, như là mình. Biết mình như là mình, hoặc biết mình là ai, chứ không phải: mình muốn mình là ai, mình muốn mình ra sao, cũng mặc!

Và, nếu cứ nóĩ  “không” với hết mọi chuyện, kể cả chuyện có được phương-án tích-cực, để giải-quyết yêu-đương hoặc thói-tật o-ép, ta sẽ không còn cơ-hội chọn-lựa cho cuộc sống được tốt hơn. Một chọn-lựa khả dĩ biết đặt sự sống lên trên mọi hủy-họai, chết-chóc. Và, cuộc sống sẽ đưa đời mình đi vào ngõ cụt khác.

Thành thử, vào với Tiệc thánh hôm nay, ta quyết-tâm tìm cho được phương-án tích-cực. Tích-cực hơn, để không còn nói  tiếng “không”, như thế nữa. Nhưng, sẽ tích-cực mà chọn-lựa cuộc sống, đặt lên trên hết mọi sự dữ/ác thần.

Trong cảm-nghiệm như thế, nay tạ hát lại lời thơ ngâm mãi vẫn ở trên, rằng:

“Mải vui tìm cành hoa trên cánh bướm,

Ai đưa ta lạc đến nước non này.

Mùi cỏ lạ thơm như mùi nhụy chớm,

Cùng tiếng tiêu đồng hợp-chất nồng say.”

(Hàn Mặc Từ – Duyên Kỳ-ngộ)

Duyên kỳ ngộ, hay “cành hoa trên cánh bướm, (đưa nhà thơ) lạc bước nước non này”, đều là tâm-tưởng của con người có được hạnh-phúc chốn nồng say, đầy những duyên. Vẫn mong rằng người nhà Đạo chúng ta cũng sẽ tìm được mối phúc hạnh ra như thế, ở trên đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 9:38-43, 45:47-48)

Khi ấy, ông Gioan nói với Đức Giêsu:

Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Đức Giêsu bảo:

Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”

Luật Báo chí sửa đổi chưa công nhận báo chí tư nhân

Luật Báo chí sửa đổi chưa công nhận báo chí tư nhân

Việt Nam nói cần sửa đổi Luật báo chí hiện hành sau 16 năm áp dụng, nhưng vẫn không cho phép có báo chí tư nhân.

Việt Nam nói cần sửa đổi Luật báo chí hiện hành sau 16 năm áp dụng, nhưng vẫn không cho phép có báo chí tư nhân.

Trà Mi-VOA

18.09.2015

Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam nhất trí với hầu hết nội dung của Luật Báo chí sửa đổi vừa được Bộ Thông tin Truyền thông trình lên ngày 17/9, theo thông tấn xã Bernama dẫn nguồn từ truyền thông trong nước.

Luật sửa đổi bao gồm 6 chương, 60 điều khoản. Trong số này có 31 điều mới và 29 điều sửa đổi – bổ sung nhằm phù hợp với thực tiễn mới, thi hành Hiến pháp năm 2013, bản hiến pháp mà Việt Nam nói là nêu bật cam kết của nhà nước trong việc bảo vệ quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do thông tin của người dân.

Báo Thể thao Văn hóa dẫn lời Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son phát biểu tại cuộc họp hôm thứ Năm rằng: “Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người, được thể hiện trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị của Liên Hiệp Quốc. Quyền tự do báo chí được hiểu là việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của con người thông qua báo chí. Báo chí có vai trò là phương tiện để mọi công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình”.

Giới chức Việt Nam cho hay trong số các chủ điểm mới của Dự thảo luật so với Luật hiện hành có việc bổ sung thêm 1 chương quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí theo tinh thần Hiến pháp 2013.

Báo chí của chúng ta là phương tiện thông tin, công cụ truyền thông, vũ khí tư tưởng quan trọng đặc biệt. Đảng và Nhà nước phải nắm chắc công cụ này.

Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son.

Một cựu đảng viên từng công tác trong Ban an ninh Nội chính thành ủy, chuyên nghiên cứu an ninh trong đó có vấn đề an ninh tư tưởng – văn hóa nay là một nhà báo tự do được nhiều người biết đến, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, nhận xét về nét mới của luật sửa đổi:

“Chỉ có 2 nét . Có bổ sung 1 chương mới hoàn toàn liên quan đến quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trong báo chí. Một quan chức trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội có ý kiến là cần phải ghép thêm cả quyền tự do ngôn luận vào Luật báo chí vì không thể tách rời tự do ngôn luận của nhà báo với công dân vì nhà báo cũng là công dân. Có vẻ như việc này nằm trong lộ trình cải cách khung luật pháp do Mỹ và một số Tây phương yêu cầu, và là một đề xuất của các quốc gia trong chương trình Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát UPR tại Thụy Sĩ vào tháng 2/2014 trong đó có gần 20 ý kiến của các quốc gia đề nghị Việt Nam phải cải cách luật báo chí theo hướng tự do, cởi mở. Đó là nét mới của Dự luật báo chí, nhưng có điều là vẫn không có một từ ‘tư nhân’ nào trong Dự luật báo chí này, nghĩa là Việt Nam vẫn chưa chấp nhận cho tư nhân được phép ra báo chí”.

Việt Nam trong nhiều năm nay liên tiếp bị cộng đồng quốc tế và các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới liệt kê vào danh sách các nước vi phạm tự do ngôn luận, không có tự do báo chí, với nền báo chí hoàn toàn đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.

Việt Nam nói Luật báo chí hiện hành sau 16 năm áp dụng cần sửa đổi vì những thay đổi thực tiễn của truyền thông mới và các hoạt động báo chí ngày nay.

Tuy nhiên, theo luật sửa đổi, báo chí vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của đảng Cộng sản cầm quyền, không có báo chí tư nhân.

Truyền thông nhà nước dẫn lời Bộ trưởng Thông tin Truyền thông khẳng định ‘Báo chí của chúng ta là phương tiện thông tin, công cụ truyền thông, vũ khí tư tưởng quan trọng đặc biệt. Đảng và Nhà nước phải nắm chắc công cụ này’.

Ông Son nói thêm rằng ‘Phải quán triệt báo chí của chúng ta là báo chí cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng, quản lý của nhà nước’.

Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, một trong những tổ chức xã hội dân sự mới thành lập cổ súy cho quyền tự do báo chí trong nước, cho rằng dù chưa công nhận báo chí tư nhân, nhưng luật báo chí sửa đổi phần nào cũng mang lại tia hy vọng về một bước chuyển đổi tích cực hơn cho nền tự do báo chí tại Việt Nam.

Bây giờ có thể bắt đầu cải cách sửa khung luật về tự do báo chí, đôi nét mở cửa một chút cho tự do báo chí nhà nước nhưng chưa đề cập tới báo chí tư nhân, càng chưa đề cập đến mạng xã hội vốn bị coi là nhạy cảm, nguy hiểm chính trị. Nhưng có thể sau đại hội 12, với tỷ lệ những gương mặt ‘kỹ trị’, có thể cởi mở hơn một chút về mặt chính trị trong Bộ Chính trị, thì xã hội có thể hy vọng những gương mặt đó có thể chấp nhận nhiều hơn nữa dân chủ hóa, nhiều hơn nữa tính tự do trong báo chí.

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng.

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng dự đoán:

“Có một chút hy vọng cho tự do dân chủ tại Việt Nam, đặc biệt là tự do ngôn luận trong báo chí. Trước 2011 ở Miến Điện không thể nói tới báo chí tư nhân, nhưng tới 2013 không thể tưởng tượng là Tổng thống Then Sein đã cho ra luật tự do báo chí và cho phép báo chí tư nhân hoạt động. Ở Việt Nam, tôi cho là cũng đang diễn tiến theo một lộ trình chậm. Bây giờ có thể bắt đầu cải cách sửa khung luật về tự do báo chí, đôi nét mở cửa một chút cho tự do báo chí nhà nước nhưng chưa đề cập tới báo chí tư nhân, càng chưa đề cập đến mạng xã hội vốn bị coi là nhạy cảm, nguy hiểm chính trị. Nhưng có thể sau đại hội 12, với tỷ lệ những gương mặt ‘kỹ trị’, có thể cởi mở hơn một chút về mặt chính trị trong Bộ Chính trị, thì xã hội có thể hy vọng những gương mặt đó có thể chấp nhận nhiều hơn nữa dân chủ hóa, nhiều hơn nữa tính tự do trong báo chí. Biết đâu theo lộ trình, cùng với đà nhà nước cần chấp nhận mô hình công đoàn độc lập, có thể cuối năm 2016 vừa triển khai từng bước cho công đoàn được độc lập tại Việt Nam và đồng thời cũng có thể bắt đầu chấp nhận từng phần tư nhân hóa báo chí ở Việt Nam”.

Cựu cán bộ của Ban an ninh Nội chính thành ủy nói báo chí tư nhân đã xuất hiện tại Việt Nam từ cuối những năm 90 tới nay vẫn chưa được nhà nước công nhận, nhưng ông tin rằng không bao lâu nữa loại hình này sẽ được ‘chính thức’:

Nhà báo Phạm Chí Dũng:

“Báo chí tư nhân tại Việt Nam là một quy luật, không thể chống lại được. Tôi tin rằng chưa tới 3, 4 năm nữa báo chí tư nhân sẽ xuất hiện một cách chính thức ở Việt Nam”.

Việt Nam hiện đứng thứ 175/180 quốc gia trong bảng xếp hạng về tự do báo chí do tổ chức Phóng viên Không biên giới RSF thực hiện, sụt một hạng so với bảng đánh giá năm ngoái. Các lãnh đạo hàng đầu Việt Nam cũng có tên trong danh sách của RSF về ‘Kẻ thù của Internet’ và ‘Đe dọa ký giả’.

GHEN TỴ !

GHEN TỴ !

Kn 2, 12. 17-20;  Gc 3, 16 – 4, 3;  Mc 9, 29-36

Tác giả: Huệ Minh

Cái ác, sự ghen tương nó đã len lỏi vào cuộc sống của con người, vào đòi sống của con người từ những ngày tạo thiên lập địa.Cũng chính vì ganh tỵ với Thiên Chúa nên hai ông bà nguyên tổ đã đánh mất đi tình yêu của Thiên Chúa. Cái ác và ghen tương của ông bà đã để lại cho con cháu những bài học quý giá nhưng rồi dường như chẳng ai muốn học cả. Đơn giản bởi lẽ con người vẫn mãi mãi ghen tương.

Sách Huấn ca vừa nói vói ta : Những kẻ gian ác nói rằng: “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Vậy chúng ta hãy xem điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!”

Người công chính bị người ác mưu hại và còn hơn nữa là thách thức Thiên Chúa.

Sự ác, sự ghen tuông tưởng chừng chỉ có ở thời Cựu Ước hay như ông bà nguyên tổ Ađam nhưng rồi cứ kéo dài mãi cho đến thời các môn đệ.

Đã là những người gần gũi, đã là những người thân tín, lẽ ra nhường nhịn nhau, thông cảm cho nhau nhưng rồi lại cứ phải hơn thua, tranh giành.

Hôm nay, sự tranh giành, tính toán hơn thua nhau ta thấy có tự trong hàng ngũ những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Trên đường đi loan báo Tin Mừng nhưng rồi các ông đã sống sai Tin Mừng và xa rời Tin Mừng mà Thầy Giêsu đang muốn gửi đến cho nhân loại, muốn gửi đến cho các ông và nhất là qua các ông là những người gần gũi.

Ắt hẳn là con người, khi các môn đệ đã nhắm đến chỗ cao, chỗ hơn thì chính trong nội bộ đã gây chia rẽ với nhau rồi. Và khi nội bộ của những người loan báo Tin Mừng gây chia rẽ thì tiếng nói của Lời Chúa, những lời rao giảng về Chúa coi như ra rỗng tuếch.

Ngày nay, điều mà người ta vẫn dễ nhận thấy đường hướng của những người gây chia rẽ là ai trong cuộc sống. Nếu như không tỉnh táo con người sẽ dễ bị cuốn hút đi theo con đường gây chia rẽ đó.

Thật ra mà nói, nếu như con người chấp nhận cái tôi của mình, sự yếu đuối của mình và nhất là không chay theo tiền bạc cũng như quyền lực thì sự hơn thua, ganh tỵ, chia rẽ khó mà có chỗ ngự trị. Ngược lại, nếu như con người ta để cho cái tôi của mình ngày một lớn thì sự chia rẽ đó càng mạnh.

Ngày nay, phải nói rằng sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, cộng đoàn đã đến mức báo động đỏ cũng chỉ vì người ta hơn thua tranh giành nhau. Có khi chỉ vài tấc đất thôi nhưng người ta có thể thù oán nhau và hại nhau có khi là mất mạng.

Ngày nay, người ta dễ nổi nóng với nhau cũng như dễ hành xử với nhau trong tư cách là con hơn là người. Cũng dễ hiểu bởi đó là tác động của xã hội nhưng rồi không thể nào đổ lỗi cho xã hội để ta cuốn theo xú u hướng của xã hội như thế.

Đau lòng hơn cả là trong những cộng đoàn tu trì cũng như giữa các đấng các bậc với nhau. Có thể không nói ra nhưng những lời xầm xì của những người trong nhà, của cộng đoàn đã để lọt ra ngoài để cho người ngoài nhìn thấy chính nội bộ cộng đoàn tu trì gây chia rẽ hơn thua nhau.

Chuyện giản đơn là chức vụ, xét cho bằng cùng chức vụ cũng chỉ là cộng đoàn đưa lên để phục vụ cộng đoàn.

Phải nói rằng ngày hôm nay hơn bao giờ hết người ta ghen tuông với nhau đến tột cùng. Chính vì sự ghen tuông mà người ta hành xử với nhau có khi không còn là tình người, là tính người nữa.

Ghen tuông nó len lỏi vào con người rất khéo léo và ẩn nấp dưới cái vẻ đẹp là phục vụ. Cần nhìn lại, lắng đọng tâm hồn để xét về chính bản thân mình xem vai trò của mình trong cộng đoàn, trong gia đình, trong họ đạo … để rồi ta nhìn lại xem ta có tính hơn thua, giành giật hay không.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta bớt đi cái tính hơn thua, tranh giành trong tâm hồn ta để ta mặc lấy tâm tình hiền từ, nhân hậu và nhẫn nại để đối xử với nhau. Có khi đó, tâm hồn ta mới bình an thật sự và những người sống quanh ta mới bình an.

Tác giả: Huệ Minh

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

Văn Hào, SDB

Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế.”  Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục.  Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”… nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.  Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.

Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9, 35).  Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).

Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.

Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu.  Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn.”  Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người.  Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo.  Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất.  Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa.  Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.  Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ.  Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam.  Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân.  Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.

Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable).  Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó.  Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường.  Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5, 5-6).  Qủa thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).

Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.

Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá.  Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế.  Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá.  Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.  Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ.  Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt.  Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì.  Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên.  Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá.  Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37).  Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội.  Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ.  Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.  “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời.  Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18, 2-4).  Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến.  Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội.  Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ.  Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi.  Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.

Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu.  “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời.  Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại.”  Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9, 32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan.  Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh.  Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu.  Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn.  Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào.  Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20).  Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay.  Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).

Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá.  Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài.  “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Đời tôi tiến bước như một con lừa.

Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình.  Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả.  Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa.”  Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh.  Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài.  Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón.  Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó.  Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi.  Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than.  Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần.  Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi.  Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy.  “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế.  Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình.  Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha.” Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)

Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo.  Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng  khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới.”  Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình.  Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục.  Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình.  Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân.  Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014).  Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.

Kết luận : Tôi tớ của các tôi tớ

Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu.  Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa.  Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình.  Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu.”  Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ).  Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?

Văn Hào, SDB

Sự Diệu Kỳ.

Sự Diệu Kỳ.

Một đêm khuya, lâu lắm rồi, tôi lang thang trên mạng và bất ngờ “tầm” được tấm ảnh anh chiến sỹ VNCH quỳ cầu nguyện giữa ngôi thánh đường đổ nát, hoang tàn, và tôi đã chia sẻ trên FB.
Bất chợt cách đây vài ngày, tôi nhận được một lời mời của một người hẹn gặp tại Bmt, và tôi đã đến.
Trong buổi gặp gỡ, tôi thật ngỡ ngàng đến sững sờ: người hẹn gặp tôi chính là anh chiến sỹ trong ảnh, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc đó anh mới ra trường, mang quân hàm Thiếu úy thuộc đội đặc nhiệm của Lữ đoàn Dù. Theo lời anh kể: Năm ấy, ngôi thánh đường La Vang, Quảng Trị sau một trận cuồng pháo của phía Bắc Việt nhưng cây thánh giá và tượng Đức Mẹ không hề bị một mảnh đạn pháo nào và một niềm tin vào Chúa, anh đã quỳ xuống… Tấm hình này hiện được trưng bày ở bảo tàng San Jose California USA.
Lời cuối cùng khi chia tay, anh nói: “Anh đạo Phật nhưng anh tin Chúa”


Sự đền đáp đầy cảm động

Sự đền đáp đầy cảm động

Liz Woodward (24 tuổi) – một cô phục vụ bàn, trẻ, ở bang New Jersey – Mỹ, đã trả tiền bữa ăn sáng cho 2 lính cứu hỏa và bất ngờ nhận được sự đền đáp đầy cảm động.

Buổi sáng 23/7, anh Tim Young và Paul Hullings ghé vào nhà hàng Rt. 130 Diner ở quận Delran để ăn sáng sau khi trải qua 12 giờ vất vả chiến đấu với ngọn lửa tại một nhà kho thuộc khu vực Bắc Brunswick.

Theo trang báo Acbnews đưa tin, chứng kiến vẻ mệt mỏi của hai người lính cứu hỏa xả thân vì nhiệm vụ, Liz đã rất xúc động và quyết định dùng tiền túi để trả bữa sáng cho họ. “Đây là bữa ăn đầu tiên của họ trong 24 giờ qua. Điều tôi có thể làm là mua cho họ ít đồ ăn để đền đáp những gì họ đã làm được” – Liz nói.

Thay vì hóa đơn, Liz gửi đến hai lính cứu hỏa lời nhắn thể hiện sự cảm động của mình vì sự cống hiến của họ.

Rất cảm động, Tim đã chia sẻ lời cảm ơn của mình lên trang cá nhân kèm theo bức ảnh lời nhắn của Liz. Thông điệp này nhanh chóng gây được chú ý và nhận được gần 4.000 nghìn lượt share.

Tim Young chia sẻ câu chuyện xúc động trên trang cá nhân của mình và nhận được gần 4000 lượt chia sẻ.

Sau đó, Tim Young và Paul Hullings vô tình phát hiện cha của cô Liz Woodward, ông Steve, mắc chứng liệt tứ chi suốt 5 năm qua. Cô đang gây quỹ trên một trang web để quyền tiền mua tặng bố mình một chiếc ô tô dành riêng cho người đi xe lăn. Tim Young biết điều đó và muốn được giúp đỡ.

Khi yêu cầu giúp đỡ của Tim Young được phương tiện truyền thông Mỹ đăng tải, hàng chục nhà từ thiện đã quyên tiền vào tài khoản của Liz. Chỉ trong vòng vài ngày, tổng số tiền sau cùng lên tới 69.000 USD, vượt xa con số 17.000 USD dự kiến ban đầu.

Bố của Liz Woodward, ông Steve, mắc chứng bệnh liệt tứ chi suốt 5 năm.

Trong cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình WPVI, ông Paul Hullings đến chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ là nhân viên cứu hỏa. Chúng tôi cũng quan tâm người khác và muốn trở thành một phần cuộc sống của họ”.


 

 

 

 

 

 

T

 

Tim Young và Paul Hullings đến nhà thăm bố của Liz.

Còn Liz không ngờ hành động nhỏ của mình lại được đền đáp một cách bất ngờ và xúc động đến thế. Liz nói: “Tất cả những gì tôi đã làm là mời họ một bữa ăn sáng. Tôi không chờ đợi hơn một nụ cười. Điều này cho thấy, sự chân thành và thậm chí một hành động nhỏ cũng có thể làm thay đổi một cuộc đời”.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lời ru mộ gió

Lời ru mộ gió

Tuấn Khanh

image

Trong những câu chuyện về biển, mộ gió là một trong những điều khi nói đến, bất kỳ ai cũng cảm nhận được sự bi ai của kiếp người. Mộ gió là nơi gọi hồn trở về đại dương mênh mông sau khi người đi biển đã đặt cược đời mình với biển cả.

Từ đời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563 -1635 ), cùng với lời khuyên của học giả Đào Duy Từ (1572-1634), biển được lưu tâm là nơi đánh dấu bờ cõi Việt Nam, nhưng cũng là nơi mà những người lính – ngư dân đầu tiên đi mà không hẹn ngày về. Mộ gió có từ đó. Những ngày Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa cũng là những ngày mà người ta vẽ lại hình người bằng đất sét, thương nhớ thịt xương đã nằm sâu dưới đáy biển hay trong bụng cá. Lúc đó, kẻ thù của ngư dân chỉ là bọn cướp vặt hoặc là thời tiết chứ chưa đầy hiểm nguy như hôm nay, bởi những chiếc tàu Trung Quốc dữ tợn vượt hơn tất cả.

Mộ gió hôm nay, lại nhiều hơn bao giờ hết. Nhìn những nắm đất xếp cạnh nhau trãi dài trên bờ cát mới thấy thiên nhiên không thể khốc liệt bằng con người. Con người không có bão táp không tay như sẳn sàng nhấn chìm đồng loại của mình, sẳn sàng tàn phá mọi thứ không phải vì quá nghèo khó, không phải vì thù hận, mà chỉ điên cuồng vì thách thức và cưỡng đoạt. Những ngôi mộ gió giờ không còn lính, chỉ những người đàn ông hiền lành đi biển, mong kiếm thêm bữa cơm cho gia đình mình. Những ngôi mộ gió đó uất nghẹn và bàng hoàng không hiểu vì sao mình lại ở đây.

“Giờ thì ít ai dám đi biển xa. Cách bờ biển mình chừng 12 hải lý tàu cá Trung Quốc nó đậu dày đặc. Mà không biết nó có phải là tàu cá chi không vì cần thì tụi nó rút súng bắn đùng đùng như cơm bữa”, một người dân miền Trung kể với chúng tôi, những người ở thành phố vẫn ăn cá mà thật là thờ ơ, ít khi nào hình dung sự sống và cái chết chung quanh thuyền cá Việt hôm nay ra sao.

Trên bãi biển mà chúng tôi thấy, những chiếc tàu đánh cá vội vã trở về lúc bình minh ở bãi. Họ đi và canh cánh nỗi sợ hãi ngay trên mép biển của mình, sẳn sàng quay đầu chạy khi xa xa có bóng cờ của Trung Quốc láng giềng. Giờ thì lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc ban hành, ngư dân Việt Nam cũng thì thầm nhắc nhau vì không khéo, đó là những chuyến đi đầy mạo phạm không có ngày về. Tổ quốc trong lời thì thầm. Tổ quốc mộ gió.

Chuyện mộ gió hôm nay với ngư dân không chỉ là sự thương tiếc cho người ở lại biển, mà còn là sự cảnh báo: Biển không còn bình yên bởi con người và trò chơi chính trị. Biển bị bao vây trong những cái bắt tay và nụ cười hữu nghị cộng sản, trao về mộ gió.

Tôi gọi điện thoại cho một ngư dân ở Quảng Ngãi, khi nghe tin Việt Nam có nghị định mới (71/2015 ) về chuyện tàu hải quân Việt Nam được phép dùng vũ khí để truy đuổi những tàu nước ngoài xâm phạm lãnh hải. Người đi biển này im lặng một hồi rồi nói “liệu mọi thứ rồi sẽ tốt hơn không?”. Chuyến đi dọc miền Trung mới đây, tôi chợt nhận ra rằng người miền Trung trực tính, hay nói và dễ gần… như đã thay đổi. Họ hay nói lãng sang chuyện khác và né tránh về những câu chuyện biển mà họ đang sống chết với nó. Ở trên biển, họ lo sợ tàu Trung Quốc, nhưng ở trên bờ, họ ngại ngùng điều gì đó thật khó hiểu. Thậm chí, có người lỡ bộc bạch, đã canh cánh gọi vào 2, 3 lần chỉ để dặn rằng thôi đừng nhắc gì về những điều ông đã nói. Ngay cả trong đời sống, nỗi niềm của những ngư dân Việt cũng đã chôn vào mộ gió sao?

Thật võ đoán, nếu liên hệ chuyện tàu hải quân Việt Nam được dùng vũ khí với chuyện có đến 4 tàu cá của ngư dân Việt bất ngờ bị “tàu lạ” liên tục tấn công ở vùng biển Kiên Giang, kề với người bạn láng giềng tính tình khó đoán Campuchia. Nhưng chắc chắn phải có điều gì đó khiến các vụ tấn công dã man này hoàn toàn khác, so với những vụ cướp và tấn công vặt trước khi Việt Nam có tuyên bố mạnh hơn trên biển. Các “tàu lạ” này xông thẳng và nhắm bắn trực diện vào ngư dân. Anh Ngô Văn Sinh, 38 tuổi, người cha của một gia đình, người đứng lái tàu, đã bị những “kẻ lạ” biết nói tiếng Việt bắn thẳng vào mặt và chết ngay trên buồng lái. Kể từ khi Campuchia có vẻ gần hơn với Trung Quốc, biển Việt Nam ở phương nào cũng đầy nguy nan.

Mọi thứ dường như hiện rõ hơn, chứ không khó khăn để phỏng đoán. Cách thức của “kẻ lạ” tấn công ngư dân Việt chẳng khác gì tàu cá Trung Quốc áp sát bờ biển miền Trung. Ông Lê Thế Hưng, đại tá Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Đà Nẵng nói rằng từ đầu năm đến nay, lượng tàu Trung Quốc tiến vào biển Việt Nam ngày càng có thái độ nguy hiểm. Ngoài chuyện đánh bắt, tàu Trung Quốc còn đưa máy móc vào thăm dò biển Việt Nam, uy hiếp, cướp tài sản của tàu cá Việt… Thậm chí tàu đánh bắt gần bờ hướng Hoàng Sa cũng bị tàu Trung Quốc rượt đuổi và cướp.

Kiên Giang không có mộ gió, vì lâu nay, nơi này chỉ là vùng làm ăn thanh bình của cực Nam nước Việt. Nhưng có lẽ đến lúc người dân đi biển ở đây nghĩ về mộ gió, thứ mà biển đã muốn giữ lại con người hiền lành chăm chỉ, chỉ trả lại gió – như cái kết buồn của những số phận vô danh và luôn yêu đất nước này.

Một người quen từng kể về câu chuyện bà mẹ hóa điên khi đứa con trai út đi biển, và không trở về. Bà hay ngồi trên mộ gió của con mình và hát như một bài hát ru vào vô tận. Giọng hát miền Trung à ơi mà tôi đã được nghe khi đi qua vùng đất này – liệu có đổi giọng thành những giọng hát miền Nam hay miền Bắc vào những ngày sắp tới? Những tiếng hát Việt Nam đau thắt trong vòng vây của tình hữu nghị.

Để ghi lại những gì mình thấy, tôi hỏi ông chủ nhà trọ rằng nơi đây có internet không. Ông ngớ người ra giây lát rồi nói “Dạ chụ, nơi đây không cọ internet, chỉ có wifi thôi”. Thật buồn cười và dễ thương. Người miền Trung vậy đó, hiền lành và chất phác với đời sống. Con cá không có tổ quốc, nhưng người đi biển biết mình thuộc về nơi nào. Họ không quá dũng cảm để chọn hy sinh nhưng ra khơi là bổn phận sinh tồn mà họ không thể làm khác.

Vì vậy, dù bên tai có văng vẳng tiếng hát ru Việt Nam của bà mẹ hoá điên trên mộ gió, ngư dân Việt lại vẫn im lặng giong buồm ra biển  – như một cách để tự nhận thấy mình thật cô đơn, ngay trên chính tổ quốc của mình.

Đất Nước Nhìn Từ Phi Trường Changi

Đất Nước Nhìn Từ Phi Trường Changi

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Con gái Việt Nam đẹp lắm!

Nguyễn Minh Triết

Dân Việt – khi giận – họ mắng nhau hơi kỹ, và hơi quá. Ít nhất thì cũng kỹ hơn, và quá hơn vài ba dân tộc khác mà tôi đã có dịp “chung đụng” qua ngôn ngữ thường ngày. Người Anh, người Mễ, người Pháp không chửi “đối phương” là đồ mặt mo, đồ mặt mẹt, đồ mặt dầy, hay đồ mặt thớt …   Người Tiệp, người Tầu, người Nga, người Lào, người Miên, người Miến – tôi đoán – chắc cũng không luôn.

Chúng ta, qua cách chửi, đã biểu lộ một tâm lý chung của dân tộc mình: rất sĩ diện. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi chuyện lùm xùm (làm “mất mặt” dân Việt) ở phi trường Changi đã khiến cho những người cầm viết Việt Nam – trong cũng như ngoài nước – đều nóng như hơ. Riêng nhà văn Huy Phương thì nóng như lửa:

“Những người Việt này bị đối xử như tội phạm, bị đưa vào phòng riêng, kiểm soát chặt chẽ giấy tờ, bị phỏng vấn và bắt tự đếm số tiền mang theo trước mặt nhân viên sân bay. Những người khách này buộc phải trở lại Việt Nam trên các chuyến bay đưa họ đến, hay lưu lại những khách sạn gần phi trường mà hãng hàng không Việt Nam phải đài thọ chi phí…

Chính quyền Singapore cũng không hề nói lý do họ không cho những người Việt này vào nước họ, nhưng cái lý do này thì những người trong cuộc, hay toàn thể ‘khúc ruột ngàn dặm’ trên khắp thế giới đều biết rõ, đều cảm thấy xấu hổ và đau lòng…

Geyleng là một con lộ dài, cắt ngang bởi vài chục con hẻm lớn, ở Singapore. Nó được mệnh danh là Phố Đèn Đỏ Quốc Tế, với hàng ngàn người hành nghề bán dâm thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Riêng hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) hiện nay thì gần như là giang sơn của những cô gái Việt. Ảnh: Nguyễn Công Bằng, chụp khuya 19 tháng 10 năm 2014.

Chuyện không phải bây giờ mà cách đây vài năm Singapore đã loan tin cảnh sát tổng càn quét vào khu mại dâm Việt ở Geylang và Joo Chiat, bắt giữ hàng chục gái mại dâm người Việt lẫn bảo kê. Liên tục trong vòng một tuần, chỉ riêng tại khu Joo Chiat, 52 cô gái Việt đã bị bắt giữ. Các cô trang điểm diêm dúa, ăn mặc hở hang đón xe buýt hoặc xe taxi đến quán karaoke, vô từng bàn khách, ăn uống, rượu bia, lả lơi, ôm ấp, bán dâm tại bàn rượu hoặc đi ngủ đêm với khách, cố moi tiền bằng đủ mọi cách…

Nếu danh dự phụ nữ Việt Nam bị coi thường hay chà đạp là danh dự của cả dân tộc cũng bị coi thường. Ai có trách nhiệm trong việc đàn bà con gái Việt Nam bị cấm cửa và cái mặt Việt Nam trong thời gian gần đây, có thể nói xa hơn là dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị lấm lem đến mức tồi tệ.”

Bài báo (“Cái Mặt Việt Nam”) của Huy Phương được phổ biến trên nhiều trang web, cùng với không ít những lời tán thưởng. Nhân tiện, tôi cũng xin mạn phép được giới thiệu một cách nhìn khác (có thể là chính xác và thấu đáo hơn) của nhà thơ Trangđài Glassey-Trầnguyễn. Theo tác giả này thì vấn đề không phải là cái mặt Việt Nam” mà là “cái khác” cơ:

chém cha cái kiếp dâm nô

đã đau đô hộ, xuống mồ càng đau

 

ai bảo chế độ thực dân chấm dứt

khi Pháp rút khỏi Việt Nam 1954?

nếu bạn Google Search, hôm nay, 2013

tìm “lịch sử nhân linh Việt”

bạn sẽ thấy

đường Trường Sơn

là ngõ tắt gần nhất

tới đường âm-đạo-bị-đô-hộ

thuộc địa của chế độ “đô hộ trắng”

tên gọi hết sức nhẹ nhàng: “white slavery”

 

trắng nỗi gì?

nó đen đặc!

khi những con cặc của bọn mua dâm toàn cầu

chen nhau lao vào

xé rách âm hộ

hùng hục

cày xới

giày xéo

giẫm nát

âm đạo nôn thốc tháo

âm đạo chết ngất

âm đạo túa máu

âm đạo ung thư

âm đạo đau lòng

công nghệ mua dâm

đã vạc hết nạc ở Đông Âu, ở Thái, ở Phi,

và ở tất tần tật những “đệ tam quốc gia”

và đây, Việt Nam, miền đất mới

độc lập, tự do, hạnh phúc!

tự do khủng,

rất hoàn cảnh,

nên bạn có thể vô tư lấy trinh của một đứa bé lên ba

(để mua vui, hay xã xui như vị Đảng viên cấp cao kia)

có thể cưới bốn (hoặc nhiều hơn) cô vợ còn trinh ở tuổi vị thành niên cùng một lúc

và có thể thản nhiên hiếp dâm hàng loạt nữ sinh trung học

mà vẫn nghênh nghênh giữ chức Hiệu Trưởng

đô hộ từ ngoài

đô hộ từ trong

cái âm đạo của phụ nữ Việt

trong thiên niên kỷ thứ ba

là nơi gánh chịu nhiều oan khiên đàn áp khổ nhục nhất

trong cả lịch sử cộng lại

cái nắng thực dân đổ dài trên âm đạo

thấm vào từng thớ thịt

đốt rụi đường về

Thúy Kiều của Nguyễn Du được hóa kiếp

nhưng Thúy Kiều ở ngoài đời thì vẫn còn lênh đênh

truyền kiếp lầu xanh

Ngô Tất Tố đưa Chị Dậu

trốn chạy con quỷ râu xanh

chống cự cái tham dâm của quan anh, quan cụ

mà cả một thế kỷ sau

Chị Dậu vẫn còn chạy

chạy đi khắp thế giới

tiền đồ vẫn tối đen

không phải mãi đến thế kỷ 21

mới có gái quê ra tỉnh đi làm nuôi gia đình

người ta gọi “đô thị hóa” nông thôn

Chị Dậu (và có lẽ nhiều cô gái quê trước cả Chị nữa)

đã đứt ruột bỏ quê, bỏ con, bỏ chồng, bỏ nhà lên tỉnh

đi ở, làm vú sữa cho quan cụ 80 thừa tiền, chuộng uống sữa người,

ngại uống sữa bò, sợ nóng

cụ chuộng luôn đôi ngực đang đau nhói của người đàn bà con mọn

xót con thơ

cái tiền đồ tối đen như mực của Chị Dậu

truyền đời

truyền kiếp

truyền lại đến hôm nay

mà vẫn tối đen như mực!

lính Mỹ đổ bộ lên âm đạo

lập những quán trắng da

phát triển ‘nền kinh tế về đêm’

âm đạo chèn giữa súng và đạn

từ trên đe dưới búa của phong kiến và đô hộ

đến dưới búa trên đe của Đảng và áp lực hiện đại hóa

đô hộ âm đạo

đó là cách giết chết một dân tộc nhanh nhất

một cách bỉ nhục nhất

một cách rốt ráo nhất

trên đe

dưới búa

âm đạo Việt Nam 2013

nát như tương

lưu lạc tứ phương

lầu xanh khắp cõi

ngay cả ở những quốc gia nghèo nhất thế giới

cũng có âm đạo Việt Nam bị đưa đến

và bị đô hộ

những đứa bé gái lên năm, lên bảy

khi được cứu ra khỏi nhà chứa

đã dùng gòn và thuốc đỏ chà nát cơ thể mình

hết ngày này sang ngày khác

để tẩy uế

thuốc đỏ cùng màu với máu

chỗ nào là máu đổ, chỗ nào không?

những đứa bé chưa kịp tuổi đến trường

bị công an Cambốt bắt giam khi soát nhà chứa

và bị tòa án Cambốt kết án là nhập cư trái phép

ôi, mỉa mai!

chẳng lẽ những đứa trẻ này tự dắt mình

từ một miền quê hẻo lánh nào đó ở Việt Nam

để vượt biên giới sang nhà chứa ở Cambốt hay sao?

hay tại ông quan tòa mù mắt và mù lương tâm?

Việt Nam đã từng bị đô hộ

bởi láng giềng phương Bắc

bởi mẫu quốc Phú Lãng Sa

nhưng mỗi lần là một quốc gia

bây giờ

Việt Nam bị đô hộ

bởi cả thế giới

và tự đô hộ mình

đô hộ ở ngay cái nơi tế nhị nhất,

riêng tư nhất,

cái nơi thiêng liêng nhất

để đón nhận yêu thương

để hòa hợp âm dương

để đưa con vào đời

để duy trì sự sống

nơi ấy bây giờ

đã thành cánh đồng chết

đã thành cửa tử

đã thành bãi tha ma

đã bị đô hộ bởi những hạng người tồi tệ nhất

từ khắp nơi đổ về

và ở khắp nơi mà người phụ nữ Việt bị đưa đến

bị bán

bị nô lệ hóa

bị chôn sống từng ngày mấy chục lượt

bị biến mất mà không có ai đi tìm

Công an V.N. đang tác nghiệp. Ảnh: banvannghe.com

ai có thể đếm được

bao nhiêu triệu cái màng trinh

đã bị chọc thủng trong tức tưởi

–         với một cái giá rẻ mạt

để trả tiền thuốc cho mẹ, tiền cơm cho cha, tiền học cho em?
mà cuối cùng vẫn không thoát ra được cái ngõ cụt mang tên “bần cùng”

–         hay không cả một xu

khi kẻ cưỡng trinh có búa liềm và cờ đỏ?
và những hứa hẹn không cần thực hiện…

trong những cái phòng lạnh bị cấm khẩu…

vì cái mạng nhện dày kệch

đói nghèo, tiền kiếp đô hộ, hiện kiếp dâm nô

tham nhũng, bóc lột, những chính sách ngu dốt sai lệch

cái cán cân lệch giữa nước đang (chưa) phát triển và những nước công nghiệp

sự bần cùng hóa nữ giới trên toàn cầu từ thời con người săn bắn và thu nhặt

vân vân và vân vân

 

cố đấm ăn xôi

xôi bị cúp

cầm bằng làm điếm

điếm không lương

quê-hương-âm-đạo

tràn đô hộ

biết đến bao giờ

tỏa được cương?

 

kẻ đô hộ chỉ có thể đô hộ

khi kẻ bị đô hộ chịu để bị đô hộ

 

hãy xoá sổ đô hộ

chặt đứt lối mòn của suy nghĩ nhược tiểu

dẹp những kềm hãm của nhịn chịu bất công

đứng lên phá đổ thành trì đô hộ

đưa ù lì trì trệ vào gông

 

đã đến lúc những âm đạo vùng lên!

Vùng lên là phải!

Tuy nhiên, viển ảnh của một cuộc nổi dậy (hay nói theo nhà văn Phạm Thị Hoài là “nổi loạn”) của âm hộ Việt Nam e còn xa xăm lắm – như Luận Văn Nghiên Cứu Về Khu Kinh Tế Mại Dâm tại Thành Phố Hồ Chí Minh (*) của tiến sĩ Kimberly Kay Hoang:

“Khách của số lớn trong nhóm phụ nữ này là những đàn ông Việt Nam nghèo với thể xác làm họ buồn nôn. Nếu thủ dâm và khẩu dâm không làm khách đạt thỏa mãn, thì giao cấu là biện pháp cuối cùng những người đàn bà này sẽ làm. Chín trong số mười hai phụ nữ mại dâm đã cho tác giả biết họ đều nôn mửa khi mới vào nghề sau khi cảm thấy tinh dịch của khách hàng trên tay hay trong miệng vì họ tởm lợm thể xác của những khách mua dâm…

Mỗi bao cao su giá khoảng 40 xu, một giá quá đắt đối với những phụ nữ mại dâm bậc thấp. Vì thế, họ thường cố gắng làm cho khách xuất tinh bằng những cách khác hơn là giao cấu…”

Khi còn rất nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn chưa sắm nổi một cái bao cao su (“giá khoảng 40 xu”) để tự bảo vệ lấy thân, và không ít người còn phải “bán trôn rồi, lại bán cả mồ hôi” (“mà đói rách vẫn quần cho sớm tối”) thì chúng ta sẽ còn “mất mặt” đều đều – ở rất nhiều nơi khác nữa – chứ chả riêng gì ở phi  trường Changi.

Tưởng Năng Tiến

(*) Hai luận văn, “Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City’s Sex Industry”(1) và “She’s Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh City,” (2) là những công trình đã đoạt giải luận văn sinh viên cao học tại các đại học Cornell (2008), UC Berkeley (2010) và những giải thưởng khác cuả ASA và giải Cheryl Allyn Miller, Những nhà Xã hội học cho Phụ nữ trong Xã hội (2011). Tác giả Kimberly Hoàng tốt nghiệp cử nhân về Communication & Asian American Studies tại đại học UC Santa Barbara và theo học Xã hội học tại đại học Stanford trước khi hoàn tất học trình tiến sĩ Xã hội học (chú trọng về phụ nữ, giới tính và tình dục) tại đại học UC Berkeley. [Theo Trần Giao Thủy (dcvonline.net)].

Khi lòng dân hết chịu nổi!

Khi lòng dân hết chịu nổi!

Bùi Tín

Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 2/9 , các bài diễn văn của những nhà lãnh đạo đầy những danh từ sáo rỗng, trái hẳn với thực tế. Nào là thành quả vĩ đại, sự nghiệp vẻ vang, chiến thắng lịch sử, thời đại vinh quang, tương lai đầy hứa hẹn…

Nhưng tình hình đúng vào dịp này, đảng CS hình như cố tình trình diễn bộ mặt thật của mình. Nhà báo Đỗ Trường chỉ đùa cợt giải trí tinh thần với bài viết gồm toàn các chữ dấu sắc trên mạng cá nhân đã bị rút thẻ và sa thải, bất chấp hiến pháp và luật pháp. Sinh viên Phạm Lê Vương Các của trường Kinh Doanh và Công Nghệ bị buộc phải viết đơn xin thôi học chỉ vì em có tinh thần dân chủ và thật sự dấn thân cho dân chủ. Nghiêm trọng hơn, khi các bạn chiến đấu của tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật đến thăm, chúc mừng anh, gồm có giáo sư Phạm Minh Hoàng, các bạn Trần Thị Nga, Đặng Xuân Hoà, Trương Minh Tâm, Chu Mạnh Sơn, khi ra về đã bị một bọn côn đồ lưu manh hành hung rất táo tợn, gây thương tích. Bà con địa phương nhận diện bọn hung thủ là tay chân cộng tác viên của công an Lâm Đồng, chúng được CA thuê đi đâm thuê chém mướn, có tên là tội phạm hình sự đang thụ án sẽ được giảm án và thưởng tiền, cho về thăm nhà (theo mạng Dân luận cuối tháng 8/2015).

Theo nhà báo Đoan Trang kể lại trên mạng Dân Luận, khi cô và các bạn lên sân bay để đón anh Nguyễn Quang A từ Hoa Kỳ về  bị công an giữ lại 15 tiếng, trong khi ngồi chờ, cả nhóm bị bọn du côn cũng do công an thuê đánh đập tàn bạo, một tên rất to lớn đã bẻ tay cô, chửi rủa cô; tên này đã được chụp hình.

Lẽ ra tất cả mọi cấp công an cần phải học thuộc lòng Điều 20 của Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm thân thể, được pháp luật bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.  Điều 23 còn ghi: “Công dân có quyền tự do đi lại, cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước”.  Anh Nguyễn Quang A và cô Đoan Trang có quyền kiện ngành công an, những kẻ tự nhận là công bộc, đầy tớ của dân!

Với hàng chục vụ như trên xẩy ra hàng ngày, cuộc sống xã hội thật ngột ngạt, không có bình an cho mọi công dân. Bộ Chính trị đã tỏ ra vô cảm, bất động trước cuộc sống lam lũ, bất an của nhân dân. Không những vậy, cuộc sống còn ngột ngạt , đầy uất hận tăng thêm hàng ngày. Nền thống trị của một đảng tự nhận là cách mạng vì dân, đã phá sản hoàn toàn trong cuộc sống, lại còn tệ hại cay nghiệt hơn trước.

Sức chịu đựng của người dân là có hạn. Sự kiên nhẫn của toàn dân là có hạn.

Cuộc “xoay trục” để thoát Trung và gắn bó với các nước dân chủ mà nhiều đảng viên cấp cao hy vọng, toàn dân trông chờ có vẻ chỉ là đóng kịch, động tác giả. Đúng vào lúc Hoa Kỳ là nước hùng mạnh nhất khẩn thiết dang tay kết bạn, đúng vào lúc anh láng giềng lớn giở trò trở mặt có hành động xâm lược tạo điều kiện cho ta dứt tình, thì Bộ Chính trị run tay không dám bẻ lái vào con đường sáng sủa đầy triển vọng, vẫn cứ theo con đường mòn cũ kỹ, đầy ải dân tộc không biết đến bao giờ. Dân tộc Việt Nam ta với truyền thống giữ nước và dựng nước vẻ vang không thể cam chịu sự thống trị độc đoán kéo dài thêm nữa, để bất công lan rộng, người thật lòng yêu nước thương dân đòi tự do cho mọi người thì vẫn bị đầy đọa trong nhà tù.

Dân tộc Việt Nam xứng đáng được sống một cuộc sống khác hẳn thực tế hiện nay, một xã hội dân chủ, công dân được tự do, bình đẳng, sự phân phối thành quả lao động và đổi mới công bằng hợp lý, một xã hội an bình, thân ái, phồn vinh, có hạnh phúc thật sự cho mỗi gia đình, cho toàn xã hội, nghĩa là một cuộc sống đáng sống, một cuộc sống hạnh phúc. Nếu không có Đảng CS, xã hội ta ắt sẽ được như thế.

Thái độ bảo thủ giáo điều, vô trách nhiệm với đất nước lâm nguy của Bộ Chính trị hiện tại chỉ làm  cho nhân dân thức tỉnh thêm, như cố tình đổ dầu vào ngọn lửa phẫn nộ đến căm giận của quần chúng mong chờ một sự đổi thay rõ rệt.

Tinh thần các chiến sỹ dân chủ đối lập trong các tổ chức xã hội dân sự lên cao thêm với số lượng hơn hẳn trước. Anh chị em rủ nhau lên tận cổng nhà tù để đón mừng công khai những người tù lương tâm được trả tự do, còn rủ nhau ra sân bay đón bạn chiến đấu từ xa về, còn tranh luận tay đôi với các viên chức chính quyền, vạch mặt bọn du côn ác ôn tay sai của công an gây sự, hành hung, với lý lẽ chặt chẽ và tư thế người giảng giải lẽ phải cho họ.

Anh em anh Đoàn Văn Vươn ra tù, tuyên bố vô tội và tiếp tục đấu tranh đòi công lý và quyền làm ăn trên đất vườn ao hồ do các anh lấn biển khai phá; bạn bè người thân đón chào các anh như những anh hùng trong các vòng tay thân thiết. Nhà các anh luôn nhộn nhịp đón các bạn xa gần trong tình thương yêu đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Đại tá đối lập Nguyễn Đăng Quang, anh Hoàng Xuân Phú và các bạn trẻ cũng về Tiên Lãng để thăm 2 anh và đặc biệt ca ngợi 2 chị Báu và Thương, vợ của hai anh.

Cũng với tinh thần cao như thế, nhà báo Trương Duy Nhất ra tù lập tức tuyên bố sẽ tiếp tục đấu tranh vẫn với “Blog Một Góc Nhìn khác”, không mảy may e ngại sau những ngày tháng gian nan trong tù CS. Nhà tù CS đã vô tình tôi luyện anh.

Đông đảo bà con dân oan mất đất đã liên kết lại trong từng tỉnh, từng vùng, với tình nghĩa keo sơn cùng cảnh ngộ, chung lòng thương yêu đùm bọc nhau.

Thái độ ngang ngược của Bộ Chính trị, hứa hẹn hão với thế giới “sẽ giải quyết các vấn đề nhân quyền”  cũng làm dấy lên sự giận dữ và bực bội của thế giới. Nhiều nghị sỹ Hoa Kỳ, Úc, Thuỵ điển … lên tiếng đòi tự do cho các tù lương tâm, kết nghĩa với một số anh chị em, nêu đích danh các tù nhân họ đỡ đầu, như nhà báo Tạ Phong Tần, cô Bùi Minh Hằng, anh Trần Huỳnh Duy Thức. Một thượng nghị sỹ Hoa Kỳ còn công bố thư riêng gửi cho cô Hằng ở trong tù để ca ngợi, khích lệ an ủi cô.

Tất cả những sự việc trên đây trước kia là rất hiếm. Nay tình hình đối với một bộ phận lớn nhân dân là hết chịu nổi. Ai gây nên cảnh bất công, lạc hậu triền miên của đất nước? Bao nhiêu ý kiến kiến nghị tâm huyết chân thành đã bị bỏ qua, những người yêu nước, thương dân nhất thì bị cầm tù, trong khi ngành công an chà đạp Hiến pháp, luật pháp tha hồ hoành hành kết hợp với bọn con đồ lưu manh.

Lãnh đạo đảng CS hãy dành thì giờ đọc những bài tâm huyết đầy sức thuyết phục của nhà nghiên cứu – nhà ngoại giao Nguyễn Trung về Đại hội đảng XII sắp đến. Các bạn hãy đọc tiểu thuyết chính trị của Nguyễn Trung với đầu đề ngắn gọn: . Tác giả dùng hình ảnh để cảnh báo rằng Đảng CS đã phạm quá nhiều sai lầm, là nguyên nhân chính của tình trạng lạc hậu bất công kinh hoàng của đất nước trong 70 năm cầm quyền, 40 năm thống nhất đất nước. Tốt nhất là lãnh đạo đảng tỉnh ngộ sáng suốt giữ cho đảng CS tồn tại bằng cách tự thay đổi, vượt lên chính mình, chủ động cùng giới trí thức và giới kinh doanh lương thiện thỏa thuận một sự thay đổi triệt để mang tính chất cách mạng, cùng toàn dân phấn chấn đi vào kỷ nguyên Dân chủ. Đó cũng là con đường sáng, khôn ngoan sống còn duy nhất của Đảng CS.  Nếu như Bộ Chính trị vẫn giữ con đường toàn trị quay lưng lại với nhân dân, một mực mù quáng coi dân như cỏ rác thì nhân dân hết chịu nổi và tất yếu phải cùng nhau đứng dậy dành quyền sống cho mình, cho gia đình, cho quê hương, tổ quốc.

Lòng kiên nhẫn, sức chịu đựng của nhân dân là có giới hạn. Đến quá “ngưỡng” của kiên nhẫn, chịu đựng thì sẽ xảy ra, cuốn phăng mọi rác rưởi không ai chống lại nổi. Đó là lũ của lòng dân, được giới trí thức và các tổ chức xã hội dân sự cảnh báo trước, đã từng diễn ra tại nhiều nước bị gông cùm toàn trị đè nén quá lâu.

Mong rằng Bộ Chính trị ghi nhớ chân lý  “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”.

HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH

HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH

Chu Tất Tiến.

Rất nhiều người bi quan cho rằng “hạnh phúc chỉ là ảo tưởng”, một sự không có thật trên gian trần. Người khác cho rằng “hạnh phúc” là cái bánh vẽ do các nhà truyền giáo trong mọi tôn giáo đưa ra để cho người đi theo phải bám theo chân mình mãi mãi. Một số người lại tin theo một ví dụ căng thẳng hơn: Hạnh Phúc giống như miếng mồi nhử chó đua trong sân trường đua chó. Một miếng mồi được gắn vào một cái cần di chuyển rất nhanh vòng quanh vòng đua chó. Những chú chó thấy mồi liền phóng theo với hết sức mạnh, hầu đoạt được miếng mồi đó trước các chú chó cùng cạnh tranh với mình. Vì chạy hết sức như thế, đến khi bập được miếng mồi thì đã hết hơi, không còn có thể ăn được nữa.

Ngược lại, một số lạc quan lại cho rằng hạnh phúc có thật: hạnh phúc ở việc có nhiều tiền, muốn mua sắm gì thì có ngay. Người khác thấy hạnh phúc ở cái xe đẹp, nhà đẹp, vợ đẹp và con khôn. Mỗi khi đi cạnh bên người vợ trẻ đẹp thì thấy như hạnh phúc ngất trời, hãnh diện và kênh kiệu. Một số lớn thấy hạnh phúc khi thành công trong việc học hay được làm lớn. Nhìn chung, đa số những ai cho rằng hạnh phúc là có thật đều quy vào một điểm: Làm cho cá nhân mình sung sướng, thỏa nguyện vọng về vật chất tức là hạnh phúc.

Thực tế, cả hai phe, bi quan hoặc lạc quan đều chưa nhìn rõ cốt lõi của vấn đề. Người bi quan, vì lý do cá nhân nào riêng biệt, hoặc vì liên tục gặp những chuyện không may mắn mà không thể tìm ra đáp số giải quyêt vấn nạn của mình, đã không nhìn ra được hạnh phúc ở ngay trong tầm tay của họ.Thí dụ như với người phàn nàn về việc thiếu tiền để mua xe mới, nhà đủ tiện nghi cho gia đình họ, không có tiền để cho con học trường đạo, không có tiền để sửa chữa chỗ dột trên mái nhà, hoặc phải chi gần hết tiền lương hàng tháng cho tiền thuê nhà… người ấy đã không thấy rằng họ hạnh phúc hơn cả chục triệu người đang sống vất vưởng  trong các căn lều nát hay trên hè phố, chỉ mong có một bữa cơm nóng hổi là đã sung sướng cả bao ngày. Với người phàn nàn là vợ hay chồng không biết chăm nom đến gia đình, không biết chú tâm đến sức khỏe người thân, họ không nhìn thấy rằng, trong cùng giờ phút đó, cả triệu binh lính, đang phải đối đầu với bom đạn, với chết chóc lúc nào cũng sẵn sàng chụp trên đầu làm cho da thịt văng tứ phía. Kẻ buồn bực vì con mình không được học hành tử tế, không được sự quan tâm tốt đẹp của các bà Sơ và thầy cô giáo trường tư, họ quên rằng ngay trên quê hương Việt Nam, hàng triệu trẻ em đang sống dưới gầm cầu, khe hẻm, trong những cái lều dựng ngay trên bãi rác, mỗi ngày các em phải cầm chiếc que cời bước đi trên đống rác cao nghệu, mong kiếm được một vài cái hộp nhựa, chai nhựa, thậm chí vài cái bao nylong đựng rác, có  thể đựng đồ thối kinh khủng hay đôi khi có cả chân, tay em bé… Như thế, hạnh phúc có thể đã ở trong tay họ mà chính chủ nhân không hề biết.

Đối diện với nhóm người bi quan trên, người lạc quan cho rằng mình đang đầy đủ hạnh phúc đã quên rằng: cuộc đời như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Tiền bạc thì rồi cũng sẽ biến mất, như biến cố 9-11 đã làm cho hàng vạn, triệu người trắng tay. Đang là triệu, tỷ phú bỗng chốc biến thành kẻ nghèo khổ, phải sống bằng tiền trợ cấp của chính phủ. Có nhiều người đã tự tử vì không còn có khả năng thanh toán nợ nần sau 9-11. Xe đẹp hôm nay, thì biết đâu lại gây ra tai nạn ngày mai? Vợ đẹp lại như một quả bom không biết nổ giờ nào, nếu không bị ai “cua” mất, thì cũng có một ngày bất ngờ bạo bệnh mà mất đi. Chồng đẹp hoặc chồng tài năng cũng thế, ra đường dễ bị cám dỗ chẳng biết ngày nào khăn gói, gió đưa.. Còn chính con người, nói chung, tuổi trẻ thì da dẻ mịn căng, tinh thần phấn chấn, lúc nào cũng muốn bay bổng trên mây, rồi cũng tới một ngày, tự nhiên da chùng, mắt xụp. Rồi nhức mỏi, đau lưng, đau thận, buốt đầu gối, cổ vẹo cọt kẹt.. Tim đang đập đều bỗng tỏ  ra mệt mỏi, cùng với gan, ruột, phổi… mỗi ngày mỗi yếu đi, thuốc uống đầy nhà.. rồi đến lúc mọi cơ phận ngưng hoạt động.. Thế là hết. Hạnh phúc rồi đi đâu?

Cho nên, câu hỏi “Hạnh phúc có thật không? Ở đâu? Làm sao tìm được?” vẫn luôn bám vào các khuôn mặt đăm chiêu, trụ lại tại nụ cười méo mó, và tràn đầy trên những đuôi  mắt nhăn nheo. Trả lời sao bây giờ?

Thật dễ! Như lời người xưa: “Nothing is impossible!”. Hoặc “Hãy tìm, thì sẽ thấy, hãy gõ, thì cửa sẽ mở!” Hạnh phúc đầy dẫy chung quanh chúng ta, nằm trong lòng bàn tay chúng ta và sẽ tồn tại mãi trong tâm hồn chúng ta cho đến ngày chúng ta rũ bụi hồng trần: Hạnh Phúc ở việc cho đi và không hề đòi lại. Hạnh Phúc ở chỗ dùng hết khả năng của mình để tạo Hạnh Phúc cho thiên hạ. Hạnh Phúc ở trái tim Nhân Từ, tâm hồn rộng lượng, thấy chỗ nào đau khổ, thì tìm đến và an ủi, thấy ai thiếu thốn thì mang phần tài sản, vật liệu của mình mà bù đắp cho họ. Những người theo Phật Giáo thì lấy lòng Từ Bi mà đãi ngộ chúng sanh. Theo Thư Viện Hoa Sen: “Từ là cho vui, Bi là cứu khổ diệt khổ, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho tất cả mọi loài chúng sanh, đó là hành động lợi tha cứu đời.” Những Phật Tử có lòng Từ Bi thật thì tâm luôn an hòa, chỉ nhìn vào sắc diện cũng biết ngay là người lúc nào cũng hạnh phúc.

Với Tín đồ Công Giáo hay Tin Lành, thì muốn theo Chúa, phải có lòng yêu Người. Riêng đạo Công Giáo thì có “thương xác bẩy mối”: “Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn. Thứ hai: Cho kẻ khát uống. Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Thứ năm: Cho khách đỗ nhà. Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi. Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết.” Những hành động trên được thực hiện chỉ vì dựa vào hai chữ Bác Ái mà thôi.

Đạo Cao Đài lại có riêng một “cơ quan Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên con đường sinh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành luật pháp dễ dàng.” (Wikepedia).  Các tín hữu Hòa Hảo thì lấy Nhân, Nghĩa làm đầu: “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân, Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

Tóm lại, người có lòng Nhân, cho dù thuộc bất cứ tôn giáo nào, lúc nào cũng thấy Hạnh Phúc trùng trùng điệp điệp, không bao giờ thiếu thốn. Kẻ có tâm tốt, khi nhìn thấy một thân xác bệnh tật, đói khổ mà nhờ bàn tay mình, mà khỏe mạnh, vui tươi, thì nhất định lòng mừng vui, hớn hở còn hơn người khỏi bệnh kia. Thấy hình ảnh một gia đình Thương Phế Binh, vui cười khoe cho mình chiếc xe lăn mới, hay một giấy chứng chỉ học giỏi của đứa con nhỏ, người Ân Nhân nhất định sẽ nhỏ giọt lệ mừng vui khôn tả. Để suốt đời, mỗi khi nhớ lại niềm hạnh phúc của người mà mình giúp đỡ, thì chính mình lại thấy hạnh phúc trào dâng, không bao giờ hết, cho đến giờ từ giã gian trần, vẫn nở nụ cười hạnh phúc. Thật ra, cũng không cần thiết phải làm chuyện lớn mới là Hạnh Phúc. Chỉ cần một nụ cười chia xẻ với người đang buồn bực, một góp ý chân thành với người đang khổ đau, một sự kiên nhẫn lắng nghe kẻ bất hạnh kể chuyện… cũng là những hành động vì lòng thương người. Cho nên, với tất cả những ai có lòng thương người thật, thì Sự Chết chỉ là một lần di chuyển đến miền Hạnh Phúc miên viễn trong đấng Tạo Hóa mà thôi.

Tiếc thay, bên cạnh những con người đi cầu Hạnh Phúc lại có những kẻ Bất Hạnh, vì tâm hồn khô héo, ích kỷ lúc nào cũng bo bo tìm hạnh phúc vật chất cho chính mình nên không bao giờ thấy Hạnh Phúc thật. Chỉ  vì lòng ghen ghét, tị nạnh, vị kỷ mà đầu óc luôn vận động suy nghĩ cách này, cách khác để cho mình được đứng trên, ngồi trước thiên hạ, nên căng thẳng chập chùng. Những kẻ này, ngay cả lúc đi ngủ cũng thấy mưu kế hiện ra trong óc, phải triệt hạ thằng này, phải làm cho con nọ táng gia bại sản, phải làm sao cho mình được bầu làm Chủ Tịch, Hội Trưởng, Trưởng Ban.. Như thế, thì mãi mãi không có bao giờ óc não được sự nghỉ ngơi, và nếu hệ thần kinh không được nghỉ ngơi, thì nhất định chóng già, chóng bệnh, và chóng chết.

Suy nghĩ đến chỗ này, lại một câu hỏi đặt ra cho những người mưu cầu Hạnh Phúc thật: “Làm thế nào để giúp cho những kẻ bất hạnh kia được hạnh phúc như mình?” Đây là câu hỏi khó có giải đáp, nhưng như đã nói ở trên, hạnh phúc không tự nhiên đến, mà phải kinh qua bao hy sinh, nhẫn nhịn, và chấp nhận thiệt thòi cho chính cá nhân mình. Vậy, “đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e sông.” Có phải không, những ai đang tìm Hạnh Phúc thật?

Chu Tất Tiến,

9 tháng 9 năm 2015.