Có Đi Có Lại – Mới Toại Lòng Nhau

Có Đi Có Lại – Mới Toại Lòng Nhau

Bài Ghi Ngắn của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tại nông thôn của ta từ xa xưa, thì bà con sống đùm bọc gắn bó với nhau thật là chặt chẽ. Vì thế mà có sự liên đới tương trợ, gia đình này giúp đỡ gia đình khác một cách rất hồn nhiên, thỏai mái trong mọi trường hợp. Bà con trao đổi miếng ăn thường ngày với nhau hoặc chuyên giúp đỡ nhau trong các vụ hiếu hỷ như đám tang đám giỗ hay lễ cưới lễ hỏi v.v…

Chuyện bà con chia sẻ với nhau như vậy, thì trong tiếng Mỹ người ta cũng thường nói: “To live is to share” (Sống là Chia sẻ với nhau). Dân gian ta từ lâu cũng hay nói: “bánh ít gửi đi, bánh quy gửi lại” để diễn tả cái mối quan hệ trao đổi hai chiều giữa con người với nhau (two-way communication).

Ngày nay, với tình trạng đô thị hóa càng mở rộng, thì người dân sống tại các thành phố không còn giữ được cái khung cảnh nền nếp thân thương chan hòa giữa các gia đình với nhau như xua nữa. Đó là cái mặt trái không sao tránh khỏi do sự phát triển kỹ nghệ trong xã hội đem lại.

Để chấn chỉnh tình hình suy thóai như thế trong nếp sống tình cảm nơi các đô thị, nhiều tổ chức do các tôn giáo cũng như các nhóm chuyên họat động về văn hóa xã hội đã có sáng kiến phát động những chương trình cải thiện nếp sống cộng đồng tại các khu phố nghèo nàn chật hẹp – mà thường gọi là “khu ổ chuột” (slums).

Đồng thời họ cũng gây áp lực đòi hỏi cơ quan nhà nước phải đầu tư nhiều hơn nữa trong việc cung cấp những dịch vụ xã hội thiết yếu cho tầng lớp người dân lao động như nhà giữ trẻ, trường học, bệnh viện, viện mồ côi, nhà chăm sóc người già v.v…

Từ đó, mà chính sách “An ninh Xã hội” (Social Security) lần hồi được hình thành và với thời gian chính sách này đã đạt tới mức độ hòan thiện như ta thấy tại nhiều quốc gia văn minh tiến bộ ngày nay trên thế giới. Qua hệ thống An ninh Xã hội như vậy, những viên chức trong cơ quan chính quyền nhà nước hiện đang thực hiện đúng cái vai trò của người “đày tớ phục vụ quần chúng nhân dân” – mà trong tiếng Anh người ta gọi đích danh là “public servants”.

Rõ ràng nhân dân là những người “đóng thuế” cho nhà nước (taxpayers), thì đổi lại họ có quyền đòi hỏi phải được viên chức chính quyền phục vụ một cách thật là trân trọng tương xứng. Như thế, mói đích thực là “Có Đi, Có Lại – Mới Tọai Lòng Nhau” vậy./

Lừa tiền cơm, cậu bé ăn xin bị giữ lại, 20 năm sau…

Lừa tiền cơm, cậu bé ăn xin bị giữ lại, 20 năm sau…

Đôi khi, một câu nói có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người. Đôi khi, chỉ có lòng tốt và sự hiền lành thôi thì chưa đủ. Đôi khi, cuộc sống sẽ cho mỗi người một cơ hội nữa…

Một ngày, sau khi hết tiết giảng và trở về văn phòng, bảo vệ đưa đến cho tôi một số tiền cùng hóa đơn thanh toán. Cả chục triệu đồng tiền nợ… Tôi thấy rất kỳ lạ, không nhớ nổi là đã cho ai mượn số tiền này. Nhìn vào cột người gửi, tôi thấy viết “Cậu bé ăn xin của 20 năm trước“… mọi kỷ niệm chợt ùa về. Tôi tự hỏi, chẳng lẽ là cậu bé đó sao?

20 năm trước, hồi đó mẹ tôi còn làm nghề bán hàng cơm cho học sinh ở cổng trường học. Bà thấy nhiều đứa trẻ rất khổ và đáng thương nên luôn làm những hộp cơm ngon hơn mà chỉ bán với giá rẻ. Vì thế học sinh đến mua cơm rất đông.

Hồi đó mẹ tôi còn làm nghề bán hàng cơm cho học sinh

Tôi vừa tốt nghiệp đại học, đang chờ được phân công tác, nên đã ra phụ mẹ bán cơm. Trong một lần bận rộn phục vụ những em học sinh vừa tan học, tôi bỗng nhiên cảm thấy ai đó đi qua quệt phải lưng mình. Đó là một cậu bé chừng 10 tuổi, mặc một bộ quần áo mỏng, rách tả tơi, trong khi trời đã bắt đầu vào đông.

Khi đó, như đã rất quen thuộc, mẹ tôi liền mỉm cười rồi đưa cho cậu bé một hộp cơm. Không đợi tôi cầm hộ, cậu bé vội giật lấy cơm, ném tiền vào hộp rồi chạy mất. Một học sinh bên cạnh tức giận nói: “Thằng ăn mày này toàn lừa tiền cơm, rất nhiều lần đều như vậy, nếu lần sau còn thế thì phải dạy cho nó một trận!” Tôi ngạc nhiên kiểm tra lại hộp tiền, thì thấy quả thực là cậu bé chỉ đưa có 1 tờ 200 đồng.

Khi tôi trách mẹ quá sơ ý, bà nói: “Mẹ biết mỗi lần thằng bé chỉ bỏ vào đó 1 tờ 200 đồng. Chỉ có điều ta cũng nên giữ đạo nghĩa. Đứa trẻ này đã mất cả cha lẫn mẹ, rất đáng thương, mẹ cũng chỉ có thể giúp nó đến như vậy.

Mẹ tôi luôn làm những hộp cơm ngon hơn mà chỉ bán cho những đứa trẻ với giá rẻ bèo (Ảnh: Extraordinary Amazonaws)

Tôi không đồng ý nói: “Mẹ thật quá hồ đồ, đây mà là giúp cậu ta sao?” Nhưng tôi chưa kịp nói xong thì đã bị mẹ la mắng. Tôi biết rõ là dù có nói gì cũng vô dụng, mẹ suốt ngày niệm Phật, chỉ một lòng muốn giúp người khác, nhưng lại không nghĩ sâu hơn. Thế là tôi đột nhiên muốn xử lý thật tốt chuyện này.

Ngày hôm sau, cậu bé ăn xin lại tới. Cậu ta vẫn giành lấy cơm như những lần trước, ra vẻ rất vội vàng và chuẩn bị ném tiền vào hộp. Lúc đó tôi thình lình nắm lấy tay cậu… tờ tiền ít ỏi rơi ra ngoài. Mọi người đều quay lại nhìn, làm cậu bé rất bối rối, xấu hổ, và chực khóc. Lúc đó tôi cười nói: “Mua như vậy thì không đủ ăn đâu! Em cứ lấy cơm đi, phần còn thiếu sau này hãy trả.” Nói xong tôi thả tay cậu ra.

Cậu bé sợ hãi cầm hộp cơm, ánh mắt tràn đầy nghi hoặc. Tôi lại bảo: “Đi đi, anh biết rõ em nhất định sẽ trả! Nhớ nhé! Sau này phải trả cả vốn lẫn lãi!” Cậu bé suy nghĩ mất một lúc, rồi sau đó im lặng quay người, đi thẳng từng bước một, chứ không còn chạy như trước kia nữa.

Kể từ đó, cậu vẫn thường đến ăn, và trả 200 đồng…

Đang suy nghĩ miên man thì anh Trương lại vội vã quay lại nói với tôi: “Tôi quên! Còn một phong thư nữa!

Nhận lấy phong thư, tôi vội vàng mở ra đọc. Trong thư viết:

“Tôi cuối cùng đã tìm được địa chỉ của anh. Suốt bao năm tìm kiếm, tôi mới có thể đem tiền trả lại, mới có thể hoàn lại ân tình 20 năm về trước. Lúc đó tôi đã lang thang khắp nơi, thường xuyên chịu đói rét. Một lần tôi tới cổng trường học giả vờ mua một hộp cơm. Tôi ném thử tờ 200 đồng vào hộp rồi nói xin mua cơm. Lúc đó tôi nghĩ, dù có bị phát hiện đi nữa thì dì bán cơm cũng rất hiền lành, sẽ không trừng phạt tôi. Nhưng dì cũng không phát hiện ra, tủm tỉm cười rồi đưa tôi một hộp.

Sau đó tôi bắt đầu dựa vào thủ đoạn và mánh khóe để có được bữa ăn. Tôi cảm thấy người tốt trong xã hội rất dễ bị lừa. Tôi thường xuyên nói dối, và trộm đồ trong hành lang, còn định trộm cả trong cửa hàng nữa. Lần đó khi bị anh tóm lấy, tôi đã nghĩ mình vậy là xong rồi, bị đánh rồi. Nhưng tôi đã không phải chịu trận đòn nào, mà lại còn được anh thả đi. Những lời nói của anh đã bảo vệ danh dự cho tôi, khơi dậy trong tôi mong muốn làm người tốt thực sự. Trong những năm sau này, mỗi khi nhớ đến ánh mắt của anh, tôi lại có thể tránh xa những điều xấu. Và dù phải tìm kiếm khắp nơi, dù phải đi bao xa, mất bao nhiêu thời gian, tôi vẫn muốn hoàn thành lời hẹn ước cũ.”

Mỗi khi nhớ đến ánh mắt của anh, tôi lại có thể tránh xa những điều xấu ở những đứa trẻ ăn xin khác…

Và sự thành thật của cậu bé ăn xin cuối cùng đã được đền đáp…

“Một ngày nọ, khi nhìn thấy tôi ngồi co ro vì giá rét, một phụ nữ đã trở về nhà mang cho tôi mấy chiếc áo. Sau đó tôi phát hiện trong túi áo có rất nhiều tiền. Lúc đó tôi rất đói, rất muốn giữ lại số tiền này, nhưng ánh mắt của anh lại hiện lên làm tôi thay đổi ý nghĩ. Tôi phải mất cả ngày mới tìm được nhà người phụ nữ nọ. Hai vợ chồng họ đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi tới trả lại tiền. Họ khóc nức nở ôm tôi vào lòng, rồi liên tục nói tôi là đứa trẻ tốt. Khi đó con gái hai vợ chồng vừa bị bệnh mà qua đời, tôi may mắn trở thành con nuôi của họ. Cuộc sống từ đó trở nên tốt hơn, tôi được cha mẹ nuôi thương yêu hết mực, được đi học. Giờ tôi đã trở thành giáo viên…”

Giờ đây đứng trên bục giảng, chắc chắn cậu bé ăn xin năm xưa sẽ nói với học sinh của mình rằng: Chỉ có thành thật mới mang lại hạnh phúc! (Ảnh: Nature World News)

Đúng là cậu ta! Quả là một niềm vui ấm áp. Tôi thầm cảm thấy may mắn vì đã không vô tình hủy hoại một con người. Cậu bé ăn xin học được đức tính thành thật ngay thẳng, vì vậy mà đã gặp một gia đình tốt.

Giờ đây đứng trên bục giảng, chắc chắn cậu bé ăn xin năm xưa sẽ nói với học sinh của mình rằng: “Chỉ có thành thật mới mang lại hạnh phúc!

Khúc ruột ngoài da

Khúc ruột ngoài da

Tạp ghi Huy Phương


Theo định nghĩa chữ “kiều” là “ở nhờ, đi ở nhờ làng khác hay nước khác” nên những người này thường được gọi là kiều cư, kiều dân. Chế độ Cộng Sản ở trong nước dùng chữ Việt kiều hay kiều bào để chỉ chung những người Việt hiện đang sống ở hải ngoại. Đây không phải là kiểu dốt chữ nhưng họ có thâm ý “nhận vơ” cho rằng những người Việt này là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài.

Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh ở Hà Nội, cơ quan phụ trách ra vào Việt Nam
của “Việt Kiều.” (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Do sự “nhận vơ” đó mà ông Trương Tấn Sang trong dịp được Tổng Thống Mỹ Barack Obama tiếp kiến ở Tòa Bạch Ốc hồi Tháng Bảy, 2013, đã cám ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn vô duyên, khá trơ trẽn, có lẽ trong thâm tâm hay cố tình, ông Sang cho tất cả những người Việt ở Mỹ đều là con dân của chế độ Cộng Sản Việt Nam, trong khi thực chất Việt kiều của ông chỉ là những người Việt du học tạm thời, nhân viên ngoại giao, mang thông hành Việt Nam đang ở Mỹ.

Trong một bài viết về Học Viện Quân Sự West Point của Hoa Kỳ bằng tiếng Việt, một tác gỉa trong nước đã hạ bút rằng: “Sinh viên người Việt ở West Point khá đông, nhưng đều là Việt kiều…” thật tình tôi không hiểu hết ý của tác giả, và đây là một câu khá ngớ ngẩn.

Tại Trung Quốc, khái niệm “Hoa Kiều” mang tính cách đứng đắn hơn, vì “Hoa Kiều” chỉ để nói đến những người còn mang quốc tịch Trung Quốc đang “ở nhờ” bên ngoài đất nước của họ. Còn nếu như muốn nói đến tất cả mọi người gốc Hoa tại nước ngoài, không kể họ đang tạm trú hay là thường trú nhân, có quốc tịch hay không có quốc tịch, thì các cơ quan truyền thông nước này dùng danh từ “Hải Ngoại Hoa Nhân” (người Hoa ở hải ngoại). Chúng ta, nhất là những người trong nước, phải dùng danh từ “người Việt hải ngoại” để gọi những người Việt đang sinh sống ở nước ngoài mà không thể cá mè một lứa, hễ cứ người Việt ở ngoại quốc, ai cũng là… “Việt Kiều.”

Những ai đã sống dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa hẳn đã không quên “Hoa Kiều” tập trung ở Chợ Lớn, họ di cư sang Việt Nam từ mấy đời trước, làm ăn buôn bán, sinh con đẻ cái, nhưng không chịu vào quốc tịch Việt Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm, không những đã ra sắc luật cấm ngoại kiều, bất cứ Chà Và hay Tàu Chợ Lớn, đang sinh sống tại Việt Nam làm tám nghề chính liên quan đến huyết mạch kinh tế, mà còn bắt buộc những người cư trú lâu đời phải nhập tịch Việt Nam, từ đó, họ không còn là “ngoại kiều” nữa, mà trở thành “người Việt gốc Hoa” tồn tại cho đến ngày nay. Vậy thì ngày nay chúng ta nhận là “người Mỹ gốc Việt” hay “người Úc gốc Việt” là chính danh.

Vậy thì chính phủ Cộng Sản cũng đừng bao giờ nhận vơ những Dương Nguyệt Ánh, Lương Xuân Việt, Alan Phan là Việt Kiều. Có điều lạ là chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19 Tháng Năm của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam “về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới” có 2,199 chữ, nhưng không hề có một chữ “Việt kiều” nào. Tuy vậy trong Bách Khoa Toàn Thư tiếng Việt, người ta vẫn còn dùng chữ một cách lơ lửng: “Việt kiều hay người Việt hải ngoại…”

Nói chung toàn bộ người Việt hiện nay ở ngoại quốc, có khoảng 4 triệu người Việt sinh sống trên hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có gần 2 triệu người ở Mỹ là những người Việt ở hải ngoại, phần lớn là người tị nạn, không mang quốc tịch Việt Nam (khi ra đi đã bị “cắt” hộ khẩu) không thể gọi đây là Việt kiều!

Nếu nhắm vào các sinh hoạt của người Việt ở ngoại quốc, chúng ta sẽ khẳng định ai là Việt kiều, ai là không. Việt kiều là những người mang cờ đỏ sao vàng, thường tụ tập tại các sứ quán Việt Nam Cộng Sản trong các dịp lễ, Tết, sắp hàng đón tiếp các quan chức Cộng Sản sang thăm nước họ đang sinh sống hoặc “hồ hởi” về nước tham gia các buổi hội nghị hay đón tiếp để được mang thêm hai chữ “yêu nước!”

Nghĩa tốt xấu của mỗi Việt kiều tùy theo hoàn cảnh, được báo chí trong nước loan tin.

Nếu một Việt Kiều Mỹ hay Úc về nước lường gạt thì đó là một người Việt tha phương cầu thực đang sinh sống ở nước ngoài, nhưng nếu là một Việt kiều tiếng tăm, thành công vượt bực thì đó chính là một người gốc gác Việt Nam, khúc ruột ngàn dặm thương yêu trìu mến của chúng ta.

Cộng Sản là bậc thầy của chuyện đổi giọng và đổi trắng thay đen, cho nên Việt Kiều nguyên xưa kia, chỉ là “những kẻ chạy theo bơ thừa sữa cặn của Đế Quốc Mỹ” nay đã hóa thân thành “khúc ruột ngàn dặm, một thành phần không thể thiếu của tổ quốc.” Và chúng lên mặt kẻ cả dạy dỗ: “Ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tôn trọng pháp luật và hội nhập vào xã hội nước sở tại, nơi bà con sinh sống,” cũng như sẽ “phối hợp chặt chẽ với các nước có người Việt Nam sinh sống nhằm hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý vững chắc, bảo đảm cuộc sống lâu dài ở nơi cư trú.”

Trước kia những nhà đại trí thức như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng nghĩ lầm là Việt Cộng yêu nước mà trở về, mới sống trong tai ương, chết trong vùi dập. Ngày nay, bài học của những Việt Kiều cỡ lớn như Nguyễn Trung Trực (Úc), Trịnh Vĩnh Bình, (Hòa Lan), Nguyễn Gia Thiều (Pháp), Nguyễn An Trung (Nhật), Nguyễn Đình Hoan (Mỹ)… đến Việt kiều “tép” như Trần Trường đã cho chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là Cộng Sản.

Gần đây việc một “Việt Kiều” tên Bùi Văn Tánh, nguyên dân Nha Trang, năm 1980 vượt biển đến Mỹ, định cư tại Mỹ đã 25 năm, trở về cố quốc bị công an bắt giữ về tội vượt biên trước đây. Tị nạn ở hải ngoại hiện nay có bao nhiêu người mang tội vượt biển, vượt biên trái phép, trốn trại, cướp tàu, trốn thuế, hối lộ chính quyền địa phương, mua bãi, “sở hữu hai bao cao su đã dùng rồi,” tội còn sờ sờ ra đó!

Chúng ta “được gọi” là “khúc ruột ngàn dặm” nhưng 40 năm qua chúng ta đã chịu bao cảnh “ruột héo, gan bầm,” đoạn trường (đứt ruột!) khi phải bỏ nước ra đi.

Tiền Baht và Tiền Bác

Tiền Baht và Tiền Bác

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền[Cụ Hồ] ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà … (không rõ nhời) !

Lão Nông

Tôi dừng chân ở Bangkok (lần đầu) vào một buổi chiều Hè, năm 1980. Đây cũng là thời điểm tôi mới làm quen với cuộc sống tha hương nên đã ghi lại vài chục câu thơ (hơi) ướt át:

Chiều về trên xứ lạ
Cười nụ cười Anglais
Buồn qua hơi thuốc Thái
Thèm một phin cà phê

Chiều về trên xứ lạ
Xe ngược xuôi trăm đường
Trăm ngàn khuôn

Chiều về trên xứ lạ
Excuses me
I’m sorry nói mãi
Thương một câu chửi thề

Chiều về trên xứ lạ
Thoáng thấy mình trong gương
Tôi nhìn tôi bối rối mặt lạ
Mong một người đồng hương
Sao trông mình thảm thương

Chiều về trên xứ lạ
Ngỡ ngàng Chinatown.
Ðây rượu nồng thịt béo
Mà bạn bè nơi nao

Dừng chân nơi quán lạ
Thèm cơm chiều hương quê
Mẹ cha ơi đừng đợi
Chiều nay con không về
(Chị ơi thôi đừng đợi
Chiều nay em chưa về)

Thì cũng nói cho nó bảnh, và nghe cho có vần điệu (chơi) vậy thôi chớ tiền đâu ra mà … “dừng chân nơi quán lạ” – hả Trời? Tui “chuồn” ra Bangkok, từ một trại tị nạn chuyển tiếp, và trong túi chỉ có vỏn vẹn mỗi một đồng đô.

Vào thời điểm này, một Mỹ Kim tương đương với 24 đồng tiền baht. Xe bus lượt đi lượt về đã mất hết 4 baht rồi, tô mì xe giá 5 baht, chai Coca Cola 3 baht nữa. Tiền còn lại chỉ đủ mua (lẻ) vài điếu thuốc lá Samit nữa thôi.

Không lẽ “dừng chân nơi quán lạ” uống (đại) dăm chai bia Singha rồi bỏ chạy sao? Mà chạy đi đâu giữa kinh đô Vọng Các xa hoa, và xa lạ này?  Đ… mẹ, tui chỉ (thường) say thôi chớ có điên hồi nào đâu – mấy cha?

Tiền Baht. Ảnh: fotolibra.com

Ba mươi lăm năm sau, tôi trở lại chốn xưa (vào mùa Hè năm 2015) với cả … đống U.S.A dollar trong túi. Tiền đã nhiều mà một Mỹ Kim hôm nay còn đổi được tới 35 đồng baht lận. Tuy vậy, mãi lực của tiền Thái không còn được như xưa nữa.

Giá xe bus đã lên hơn gấp bốn, tới 9 baht. Và đó là loại xe không máy lạnh, dành cho người nghèo. Nghe nói nay có loại xe điện mới, rất tân kỳ (lạnh ngắt và sạch bóng) đi lại trong thành phố rất tiện nhưng tôi chưa có dịp thử nên không biết giá cả ra sao.

Tô mì hôm nay đã giá gấp 7 rồi, 35 baht. Chai Coca Cola cũng vậy, 10 baht chớ không còn 3 baht như hồi năm cũ  nữa. Lương bổng, lợi tức của người dân Thái – tất nhiên – cũng tăng, và chắc là tăng kịp với đà lạm phát nên không nghe thiên hạ ca cẩm gì nhiều về nạn vật giá leo thang, như ở Việt Nam. Mọi người, xem ra, có vẻ hài lòng với cuộc sống tương đối an lành và phú túc mà họ đang được hưởng.

Khác với những quốc gia láng giềng, dường như, không có cái khoảng cách hay sự tương phản nào (rõ nét) giữa mức sống giữa nông thôn và thành thị ở Thái Lan. Những người chạy taxi, và ngay cả xe tuck tuck, hay xe ôm nữa –  nơi xứ sở này – trông cũng tự tin và thoải mái hơn đồng nghiệp của họ ở Cambodia, hay Lào.

E là mình chủ quan nên tôi viết thư hỏi một anh bạn, người đã sống ở Thái Lan từ năm 1992, hiện là một trong những thông tín viên thường trực của RFA ở Bangkok. Qua ngày sau, tôi nhận được hồi âm:

Anh Tư mến,

Em đọc thư anh viết từ hôm qua, song bận quá giờ mới viết trả lời anh được.

Đợt vừa rồi tìm hiểu để viết về cuộc sống của những người Việt tỵ nạn ở Thái lan, đặc biệt là những người Thượng Tây nguyên thì vượt quá sức tưởng tượng của em.

Họ khổ quá, thương họ quá dù rằng mình cũng hiểu phần nào song không hình dung trên thực tế thì nó là như thế.

Chuyện lương của cháu K. 300$/tháng (9,000 baht) là mức lương tối thiểu của một lao động phổ thông người Thái theo quy định của nhà nước. Mức lương đó mà dành cho 03 người thì khá vất vả, vì riêng tiền thuê nhà ở Bangkok một phòng 12-14 m2 có nhà vệ sinh tồi nhất cũng phải mất 2-2,500 baht. Số tiền còn lại còn trăm thứ phải tiêu: diện, nước, internet và ăn uống tiêu dùng.

– Lương của một Hạ sỹ quan CS Thái lan khoảng 18,000 baht

– Lương của một Sỹ quan CS Thái lan mới ra trường khoảng 20,000 baht.

– Lương cho giáo viên thì rất cao, bằng khoảng 130% của lương viên chức khác.

– Lương của một viên chức trung bình khoảng 23,000 baht.

Nhìn chung lương viên chức ở Thái lan thì thấp, song họ có các chế độ đãi ngộ khác kèm theo khá tốt như các vấn để an sinh xã hội dành cho người nhà của viên chức như bố, mẹ, vợ con v.v…

Mặt khác ở Thái lan có chế độ giáo dục miễn phí 12 năm, chữa trị y tế hoàn toàn free 100%, có trợ cấp cho người già, người tàn tật. Vì vậy với mức lương trung bình 23,000 baht/tháng cũng đủ sống không phải kiếm thêm. Hầu như không thấy hiện tượng viên chức người Thái phải làm thêm. Hầu như đối tượng này có nhà riêng và xe hơi.

Những người có khả năng thì họ đi làm cho các công ty tư nhân, lương cao hơn khoảng 140% so với lương viên chức.

Vật giá ở Thái lan khá rẻ. Thức ăn bán sẵn cho 03 người một bữa có 03 món thịt, cá và canh khoảng 100 baht là tạm ổn, cơm thì nấu ở nhà.

Lái xe taxi cũng là một nghề tự do kiếm tiền khá, song nếu phải thuê xe thì một ngày cũng phải trả tiền thuê khoảng 7-800 baht/ngày nên cũng chẳng thừa được bao nhiêu. Còn lại khoảng 7-800 baht/ngày sau khi trừ tiền mua gaz.

Có xe riêng thì được nhiều. Chạy xe ôm là việc dễ làm, chỉ cần có moto và trả phí hàng ngày chừng 50-60 baht cho chủ bến (Cảnh sát) thì mỗi ngày chịu khó cũng kiến được khoảng 1,000 baht.

Lạm phát ở nước Thái thì ít so với VN, em ở bên này 23 năm thì thấy vật giá mới tăng khoảng 150%, thế cũng là phù hợp với tốc độ suy thoái kinh tế toàn cầu. Tất nhiên cũng phải kể đến nguyên nhân chính là việc nâng mức lương tối thiểu của lao động phổ thong từ 6,000 baht/ tháng lên 9,000 baht/tháng.

Em viết vội cho anh như vậy, có gì cần biết anh cứ bảo em nhé.

Chúc anh khỏe.

Ở VN thì đơn vị tiền tệ không phải là tiền baht mà là tiền Bác. Đồng tiền này được lưu hành trên toàn quốc từ ngày 23 tháng 9 năm 1975. Sự kiện này được báo Sài Gòn Giải Phóng (số ra ngày 27 tháng 9 cùng năm) ghi lại thế này đây:

Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”

Tiền Bác. Ảnh: facebook

Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức mới có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu … nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.”  (Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Thảo nào mà trong dân gian không thiếu những câu thơ (nghe) hơi thừa cay  đắng:

Máu rợn mùi tanh, cuộc đổi đời

Ba lần cướp trắng lúc lên ngôi

Miền Nam “ruột thịt” âm thầm hiểu: 

Cách mạng là đây: bọn giết người !

Mà đắng cay là phải vì hiện nay Việt Nam đã trở thành một trong mười quốc gia có đồng tiền trị giá thấp nhất thế giới, , theo như ghi nhận của dondwest.hubpages.com/hub/Worthless-Fiat-Currency:

1. Somalia
2. VIETNAM
3. São Tomé and Príncipe
4. Iran
5. Indonesia
6. Laos
7. Guinea
8. Zambia
9. Paraguay
10. Sierra Leone

Theo thời giá thì 100 baht, nếu tiện tặn, có thể đủ tiền chợ nguyên ngày cho một gia đình ba người. Còn 1.000 ngàn đồng tiền Bác thì ngay cả đến giới ăn xin cũng không muốn nhận – như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, trên Vietnamnet:

Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.

‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’

Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc…

Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”

Ảnh: vtc

Lý do khiến đồng Bác bị nhân dân, cũng như nhân loại, rẻ rúng được nhà báo Nguyễn Vũ Bình lý giải như sau:

“Nhà nước VN, từ khi thành lập tới nay, đều giữ bí mật về lượng tiền in ra, phát hành. Ngoài mấy lần đổi tiền, làm người dân vô cùng điêu đứng, thì khi bước vào chuyển đổi cơ chế kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường cũng liên tục vi phạm nguyên lý về mối tương quan giữa lượng tiền phát hành và năng lực của sản xuất của nền kinh tế.

Việc in tiền không căn cứ và không có giới hạn khiến cho giá cả hàng hóa năm nào cũng tăng ít nhất từ 20-50%/năm (trong khi các nền kinh tế thị trường chỉ từ 5-7%). Đồng tiền mất giá đã bóp méo toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh cũng như giảm mức sống mà người dân đáng ra phải được hưởng…”

Những cái “người dân đáng ra phải được hưởng” – xem chừng – mỗi lúc một xa khỏi tầm tay, và càng ngày thì cuộc sống càng thêm “điêu đứng.”  Đã đến lúc mà vấn đề được đặt ra theo một chiều hướng khác, thách thức thấy rõ:

“Liên tiếp trong một thời gian ngắn, xăng và điện tăng giá, một số thành phố sẽ thu phí đường bộ đối với xe máy từ ngày 1-7 tới… Tiền điện tăng 100%, giá xăng dầu được dự báo vẫn theo chiều hướng tăng vọt dù giá nhập giảm tới… 40%, nồi cơm của nhiều gia đình chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng bởi thu nhập không tăng kịp theo tương xứng. Nhiều bà nội trợ chắc chắn sẽ chật vật vì phải cắt khoản chi tiêu này, giảm khoản kia để tổ ấm của mình tồn tại…

Ảnh: Pháp Luật

Trong cuộc sống sự nhẫn nại là một đức tính tốt nhưng vấn đề là nhẫn nại của chúng ta có giới hạn không?” (Benjamin Ngô. “Sự Nhẫn Nại Của Chúng Ta.” Báo Pháp Luật, số ra ngày 28 tháng 6 năm 2015).

Tôi may mắn không “phải” sống ở Việt Nam nên không dám lạm bàn chi về mức độ “giới hạn nhẫn nại” của đồng bào mình. Lêu bêu ở xứ người, đôi lúc, tôi chỉ trộm nghĩ rằng giá mà đừng có Bác (và mấy đồng bạc của Người) thì thiệt là đỡ khổ cho dân Việt biết chừng nào!

Tông du của ĐGH Francis ‘rất thành công về mặt chính trị và tôn giáo’

Tông du của ĐGH Francis ‘rất thành công về mặt chính trị và tôn giáo’

Đỗ Dzũng/Người Việt

PHILADELPHIA, Pennsylvania (NV) – “Chuyến thăm Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha đã rất thành công về mặt chính trị và tôn giáo.”

Đó là nhận xét của Linh Mục Nguyễn Khắc Hy, giáo sư Thần Học tại Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ, Washington, DC, khi trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt qua điện thoại.

Đức Giáo Hoàng Francis (giữa) tặng sách Phúc Âm Thánh Luca cho hai người
trong một gia đình Việt Nam. (Hình: Carl Court/Getty Images)

Linh mục cũng là thông dịch viên chính thức cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Đại Hội Gia Đình Thế Giới được tổ chức ở Philadelphia trong mấy ngày qua.

Linh mục giải thích thêm: “Về mặt chính trị, ba bài diễn văn của ngài tại Tòa Bạch Ốc, Quốc Hội Mỹ, và Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã đánh động chính sách của Hoa Kỳ, nhất là trong hai đề tài di dân và môi trường. Tất nhiên, chúng ta chưa biết các chính trị gia Mỹ sẽ làm gì trong những ngày tới, nhưng kết quả cụ thể chúng ta có thể thấy là sự từ chức của Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner.”

“Về mặt tôn giáo, tôi nhận thấy người Công Giáo rất vui mừng, và họ nhận thức được thông điệp của Đức Giáo Hoàng, đó là ‘Sống Tin Mừng trong gia đình’ có nghĩa là ‘Sống Tin Mừng bằng đời sống hôn nhân và gia đình.’ Đây là sứ điệp được mọi người đón nhận rất nồng nhiệt,” vị linh mục nói thêm.

Giáo dân Việt Nam tham dự Thánh Lễ

Nói về Thánh Lễ tại Philadelphia, do Đức Giáo Hoàng Francis chủ tế, trong ngày cuối cùng của ngài ở Hoa Kỳ, Linh Mục Hy nhận xét: “Tôi thấy có rất nhiều người Việt Nam. Có hàng chục người trong ca đoàn, có hát tiếng Việt, có hát Đáp Ca bằng tiếng Việt, có đọc Thánh Thư bằng tiếng Việt, có Đức Hồng Y Nguyễn Văn Nhơn, tổng giám mục Tổng Giáo Phận Hà Nội, sang tham dự, rồi có Giám Mục Nguyễn Văn Hiếu, giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Toronto, Canada,… và rất nhiều linh mục Việt Nam.”

“Năm nay là ‘Năm Lòng Thương Xót’ của Vatican. Trong số năm gia đình đại diện năm châu mà Đức Giáo Hoàng chọn ra để trao Phúc Âm Thánh Luca, có một gia đình từ Việt Nam sang, đại diện cho Châu Á. Nói chung, người Việt Nam chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong giáo hội tại Hoa Kỳ,” Linh Mục Nguyễn Khắc Hy nói tiếp.

Được biết, người hát Đáp Ca trong Thánh Lễ là anh Võ Sinh, thuộc ca đoàn giáo xứ Thánh Helena ở Philadephia.

Còn người đọc bài Thánh Thư thứ hai là Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế, giám đốc chương trình gia đình, thuộc Tổng Giáo Phận Sài Gòn.

Được biết, Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế có mang đến Hoa Kỳ một bức tranh Đức Mẹ Maria làm bằng những hột gạo để tặng Đức Giáo Hoàng Francis.

Soeur Mary Nguyễn Hồng Quế đọc bài Thánh Thư thứ hai tại Thánh Lễ.
(Hình chụp qua TV)

Kỹ sư Đỗ Ngọc Dũng, một giáo dân Công Giáo ở Brooklyn Park, Minnesota, cùng gia đình đến tham dự Thánh Lễ nói rằng lòng tin của ông được vững mạnh hơn sau khi trông thấy Đức Giáo Hoàng Francis.

“Đức Giáo Hoàng là người thay mặt Chúa. Khi đến gần ngài, tôi cảm thấy gần gũi hơn là nhìn qua truyền hình, cảm thấy niềm tin của mình đầy đủ hơn. Mặc dù Chúa nói rằng ‘Phúc cho những ai không thấy mà tin,’ nhưng với tôi, được thấy thì vẫn tốt hơn,” ông vừa cười vừa nói với nhật báo Người Việt qua điện thoại.

Ông nói thêm về Thánh Lễ do Đức Giáo Hoàng Francis chủ tế: “Có đến đây mới thấy đức tin của người Công Giáo rất lớn. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới, không ai biết ai, nhưng đều hiểu nhau. Khi Đức Giáo Hoàng Francis làm lễ, lúc thì bằng tiếng Anh, lúc bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng tôi có cảm giác mọi người đều hiểu rất rõ và cảm thấy đức tin dâng cao.”

Bà Hoài Phạm, cư dân Buffalo, New York, có nhận xét như sau: “Trước khi đi cảm thấy mình tội lỗi vô cùng, nhưng bây giờ thì cảm thấy khá hơn, vì được nghe những lời giảng về gia đình, về thăng tiến hôn nhân, rất tốt.”

“Trong Thánh Lễ, tôi chỉ lo cho sinh mạng của Đức Thánh Cha. Lúc ngài bước ra khỏi xe để lên bàn thờ, tôi cứ cầu nguyện, sợ đứa nào nó bắn ngài. Tôi thấy mọi người dự Thánh Lễ rất sốt sắng,” bà nói thêm.

Bà cho biết, đây là lần đầu tiên được thấy Đức Giáo Hoàng, rất là vui, nhưng chưa bao giờ đến Vatican.

“Sau chuyến này về, tôi sẽ thúc chồng tôi đi Vatican một chuyến. Tôi muốn gặp ngài lần nữa,” bà quả quyết.

Nhà báo Trần Đông Đức, chủ nhiệm tuần báo Người Việt Đông Bắc, có mặt tại Thánh Lễ từ đầu đến cuối và cảm thấy tự hào.

“Tôi không phải là người theo Công Giáo, nhưng cảm thấy rất tự hào, vì thấy có nhiều người Việt Nam tham dự Thánh Lễ, và có cả tiếng Việt được đọc nữa. Tôi thấy người Việt là một lực lượng ‘chủ lực’ ở đây. Họ có tinh thần hiệp thông cao, tin vào Thiên Chúa, có sự bình đẳng, bác ái, không phân biệt đẳng cấp,” nhà báo Trần Đông Đức nhận xét.

Ông nói thêm: “Nói thật, tôi chỉ đến tham dự vì hiếu kỳ, nhưng thấy nghi thức rất trang trọng, tôn nghiêm, và đúng là một sự kiện lịch sử tại Philadelphia. Và một lần nữa, có tới dự Thánh Lễ mới chứng kiến là người Việt Nam mình rất mạnh. Tôi rất hãnh diện.”

Gặp nạn nhân lạm dụng tình dục

Trước khi cử hành Thánh Lễ, Đức Giáo Hoàng đã gặp một số nạn nhân tình dục và nói “Chúa đã khóc” cho họ, theo CNN.

Đức Giáo Hoàng gặp năm nạn nhân, ba phụ nữ và ba đàn ông, theo thông cáo báo chí của Vatican.

Tất cả năm người này đều bị các linh mục, thành viên gia đình, hoặc thầy giáo, lạm dụng tình dục khi còn là thiếu niên.

Đức Giáo Hoàng Francis đã nghe họ kể chuyện, nói với họ, từng cá nhân cũng như cả nhóm, và sau đó cầu nguyện cùng với họ.

Nơi đức giáo hoàng gặp các nạn nhân là nhà dòng St. Charles Borromeo, một nơi thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia, từng có hai vụ lạm dụng tình dục được đại bồi thẩm đoàn đề cập năm 2005 và năm 2011, trong đó, những người đứng đầu tổng giáo phận bị tố cáo không có biện pháp thích đáng để ngăn chặn tình trạng linh mục lạm dụng tình dục trẻ em.

Sau đó, trong cuộc họp với các giám mục, Đức Giáo Hoàng Francis hứa sẽ “xem xét cẩn thận” để bảo đảm trẻ em được bảo vệ và nói rằng những người lạm dụng phải chịu trách nhiệm.

“Những người chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ em lại vi phạm lòng tin và làm họ đau đớn,” vị giáo chủ đứng đầu Vatican được CNN trích lời nói. “Những ai chịu đựng sự lạm dụng này đã trở thành những sứ giả của lòng thương xót. Chúng ta biết ơn họ, bởi vì họ bị lạm dụng một cách đau khổ, lạm dụng tình dục trẻ em.”

Tại Vatican năm 2014, Đức Giáo Hoàng Francis từng gặp nạn nhân lạm dụng tình dục. Trong một Thánh Lễ riêng tư với sáu nạn nhân, vị giáo hoàng đã xin lỗi và xin họ tha tội.

Gặp tù nhân trong nhà tù

Cũng trong ngày Chủ Nhật, Đức Giáo Hoàng Francis đã gặp một số tù nhân và cai tù trong nhà tù Curran-Fromhold, lớn nhất ở Philadelphia.

Đức Giáo Hoàng đã ngồi trên một chiếc ghế, do các tù nhân làm đặc biệt cho ngài, nói chuyện với một số tù nhân, và bài nói chuyện của ngài được loa phóng thanh truyền đi khắp nhà tù, theo NBC.

Đức Giáo Hoàng Francis nói với các tù nhân rằng họ không cô đơn, và không nên cảm thấy bị ruồng bỏ trong thời gian ở tù.

“Tôi đến đây như là một linh mục, nhưng trên hết là một người anh, để chia sẻ tình trạng của các bạn, và cảm nhận của tôi,” Đức Giáo Hoàng được trích lời nói. “Bất cứ xã hội nào, gia đình nào, mà không thể chia sẻ hoặc cảm nhận một cách nghiêm túc sự đau đớn của con cái, và coi đây là chuyện bình thường, hoặc là điều tất nhiên, thì đó là một xã hội đáng bị chê trách là tự trói mình.”

Đức Giáo Hoàng ban phép cho một tù nhân trong nhà tù Curran-Fromhold,
Philadelphia. (Hình: Todd Heisler-Pool/Getty Images)

Đức giáo hoàng cũng nói lòng tin sẽ giúp các tù nhân trong thời gian “hồi phục” bởi vì không ai là hoàn hảo.

“Tất cả chúng ta có một điều gì đó cần phải tẩy rửa, hoặc làm cho tinh khiết. Cầu mong những hiểu biết về chuyện này làm cho chúng ta sống trong sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, và tìm thấy cái tốt nhất trong mỗi con người,” Đức Giáo Hoàng Francis nói.

Đại Hội Gia Đình Thế Giới

Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 8 diễn ra từ ngày 22 đến ngày 25 Tháng Chín tại Trung Tâm Hội Nghị Philadelphia, với chủ đề “Tình yêu là sứ mệnh của chúng ta: Để gia đình được sống dồi dào,” với cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Francis trong hai ngày 26 và 27 Tháng Chín, và kết thúc bằng Thánh Lễ do ngài chủ tế tại Benjanmin Franklin Parkway, có khoảng hơn 1 triệu người tham dự.

Đại Hội Gia Đình Thế Giới năm nay là đông nhất, với 18,000 người ghi danh tham dự, mà theo Đức Ông Trịnh Minh Trí, chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, kiêm chánh xứ giáo xứ Thánh Helena, có tới hơn 1,100 người Việt Nam.

Đại Hội Gia Đình Thế Giới được tổ chức ba năm một lần, qua sáng kiến của Đức Giáo Hoàng John Paul II, với lần thứ nhất ở Rome, Ý, năm 1994. Sau đó, đại hội được tổ chức ở Rio de Janeiro, Brazil (1997), Rome, Ý (2000), Manila, Philippines (2003), Valencia, Tây Ban Nha (2006), Mexico City, Mexico (2009), và Milan, Ý (2012).

Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 8 ở Philadelphia năm nay là đại hội đầu tiên được tổ chức tại Mỹ.

Giã từ nước Mỹ

Sau sáu ngày thăm Hoa Kỳ, qua ba thành phố lớn, đọc 18 bài diễn văn, gặp gỡ hàng triệu người, Đức Giáo Hoàng Francis kết thúc chuyến viếng thăm đầu tiên của ngài đến Mỹ.

Tại bất cứ nơi đâu Đức Giáo Hoàng Francis cũng được mọi người hoan nghênh, dù là người Công Giáo hay không.

Trước khi đến Hoa Kỳ, Đức Giáo Hoàng Francis đã thăm Cuba trong bốn ngày, gặp cả hai anh em ông Fidel và ông Raul Castro, chủ tế Thánh Lễ, thăm người nghèo… Ngài là vị giáo hoàng thứ ba thăm đảo quốc này.

Đức Giáo Hoàng Francis bước lên cầu thang máy bay, chuẩn bị bay về Rome, Ý.
(Hình: AP Photo/Susan Walsh)

Tại phi trường Atlantic Aviation, Philadelphia, lúc 6 giờ chiều Chủ Nhật, Đức Giáo Hoàng Francis, đứng cạnh Hồng Y Charles J. Chaput, tổng giám mục Tổng Giáo Phận Philadelphia, đã ngỏ lời cảm ơn ban tổ chức, thiện nguyện viên, và các nhà bảo trợ Đại Hội Gia Đình Thế Giới.

Lúc 7 giờ 30 phút tối, Phó Tổng Thống Joe Biden có mặt tại phi trường để tiễn Đức Giáo Hoàng Francis bước lên chiếc máy bay của hãng American Airlines, cất cánh lúc 7 giờ 40 phút để bay về Rome, Ý, kết thúc chuyến thăm lịch sử nước Mỹ.

Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com

Đại hội Gia đình Công giáo Thế giới 2015

Đại hội Gia đình Công giáo Thế giới 2015

Chân Như, phóng viên RFA
2015-09-27

dhcg-2-622.jpg

Đại hội Gia đình Công giáo Thế giới 2015 hôm 26 tháng 9 tại Philadelphia, Hoa Kỳ.

RFA
Thành phố Philadelphia tiểu bang Pennsylvania, nơi đang diễn ra đại hội gia đình thế giới lần thứ 8, Do tổng giáo phận Philadelphia phụ trách tổ chức với sự phối hợp của hội đồng tòa thánh về gia đình. Đặc biệt hơn năm nay cũng là năm đầu tiên đại hội được diễn ra tại Hoa Kỳ.

Tín hữu công giáo từ 100 quốc gia

Hàng trăm ngàn tín hữu công giáo từ khắp nơi đến từ 100 quốc gia trong đó có VN đã tụ tập về thành phố Philadelphia tiểu bang Pennsylvania trong 6 ngày để tham dự Đại hội Gia đình Công giáo Thế giới 2015 diễn ra từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 9, năm nay với chủ đề “Tình yêu là sứ mệnh của chúng ta, để gia đình đưộc sống dồi dào”. Được chọn để nhấn mạnh đến từng cá nhân trong việc ý thức xây dựng và vun đắp tình cảm gia đình bền chặt, cũng như nhằm tăng cường mối liên kết giữa các gia đình và khẳng định sự tối quan trọng của hôn nhân và gia đình đối với mọi người trong xã hội.

Nhận xét về Đại hội gia đình thế giới lần 8 này, linh muc Giuse Đinh Quang Lộc, Chánh xứ Vĩnh Long, đến từ VN cho chúng tôi biết:

“Tôi chưa đi đại hội nào, nhưng mà thật sự đây là đại hội thứ nhất mà tôi tham dự, tôi thấy tổ chức rất là tốt đẹp từ về phía Đức ông Trí của nhà thờ saint Helen để tiếp đón chúng tôi. Thứ hai là cách người ta mời gọi chúng tôi vào trong những nơi để mà cho chúng tôi những bài diễn thuyết, rồi những bài thảo luận. Những bài chia sẻ thấy rất hay có ý nghĩa, nói đến đời sống con người, đời sống của gia đình đời sống xã hội con người phải mở ra như một Thiên Chúa mở ra để đón nhận con người và như một Thiên Chúa chữa lành con người trong sự đau khổ của ngài. Cho nên mình cũng sẽ chấp nhận sự đau khổ của mình để mà giúp đỡ anh chị em và giúp cho anh chị em giúp đỡ nhau như vậy thì gia đình của Thiên Chúa sẽ tràn đầy sự yêu thương.”

Linh Mục Quốc Đăng Tôn, giáo phận Mỹ Tho cũng cho biết cảm nhận của ngài về những chủ đề mà Đại hội đưa ra:

“Theo tôi thì trong các cuộc hội thảo, những nhà diễn giả  tập trung về đời sống gia đình rất nhiều, cho thấy rằng giáo hội rất quan tâm đến đời sống gia đình, vì trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, gia đình bị đe dọa rất nhiều bởi những yếu tố bên ngoài. Cho nên giáo hội Công Giáo muốn nêu lên một số những vấn đề để giúp cho các gia đình được sống tốt, mà nếu gia đình sống tốt thì xã hội sẽ tốt.”

Với trên 200 linh mục và 8 giám mục cùng trên 1 ngàn giáo dân công giáo, chưa kể những giáo dân công giáo người Việt sinh sống rải rác tại 50 tiểu bang Hoa Kỳ và Canada, cũng như tại Nhật. Đã giúp cho con số người Việt Nam tham dự đông thứ 3 trong những sắc dân về tham dự.  Ông Đinh Quang Anh, trưởng nhóm trong ban tổ chức chương trình thăng tiến hôn nhân gia đình, đã phấn khởi chia sẻ với chúng tôi về số lượng khá đông này và những ưu đãi Đại hội dành cho người Việt Nam:

“Cái túc số của người Việt mình bây giờ là ngoài nước Mỹ ra mình đứng thứ ba, nước đông người tham gia nhất trong đại hội này. Ra đó anh thấy trong tất cả các tài liệu của đại hội chúng ta đều có tiếng Việt và trong các bài giảng của các Đức Hồng Y chúng ta đều có thông dịch viên bằng tiếng Việt, đó là một ưu đãi, niềm hãnh diện cho người Việt của mình. Chúng tôi rất vui mừng phấn khởi được tham dự đại hội này.”

dhcg-400.jpg
Đại hội Gia đình Công giáo Thế giới 2015 hôm 26 tháng 9 tại Philadelphia, Hoa Kỳ. RFA PHOTO.

Trong suốt 6 ngày đại hội đã diễn ra nhiều các buổi hội thảo, hội học với nhiều chủ đề liên quan đến gia đình và tình yêu thương của thiên chuá, với nhiều diễn giả của các Đức Hồng Y, đức Giám Mục, giáo sư, tiến sĩ và ngay cả những giáo dân có chuyên môn về lãnh vực gia đình hôn nhân.

Anh Nguyễn Hữu Trứ, đến từ Atlanta, trong ban điều hành thăng tiến hôn nhân chia sẻ về những điều mà anh đã học hỏi được qua các buổi hội thảo:

“Tụi em đến đây để học hỏi, về đại hội gia đình thế giới có rất nhiều cái hay cần phải học hỏi. Tại vì theo tụi em nghĩ thì gia đình hiện giờ nó trên bờ vực đổ vỡ rất nhiều, khoảng hơn 50 %, nên đó là điều tụi em rất quan tâm học hỏi để lấy kiến thức của mình về để có thể áp dụng cho gia đình, rồi sau đó áp dụng với bạn bè, các anh em, cho cuộc sống gia đình của mình, nếu mình có được một cái basic một cái foundation tốt thì con cái mình sau này sẽ có một gia đình tốt hơn.”

Trong khi đó một tín hữu công giáo đến từ VN, cũng chia sẻ với chúng tôi về những gì ông đã lãnh nhận được qua các cuộc học hỏi:

“Suốt một tuần nay tôi được tham dự tất cả các Thánh Lễ và các khóa học suốt cả ngày mà sức khỏe của tôi không được cho phép, nhưng mà tôi thấy chương trình rất hữu ích. Tôi cảm nghiệm rằng bây giờ cái thế hệ này càng ngày càng đi xuống, gia đình càng ngày ly tán từ những chỗ ly hôn vợ chồng bỏ nhau, những cuộc phá thai, coi như gia đình rất là xuống dốc nhất là ở Việt Nam, đó là cái kinh nghiệm mà tôi có thể về và truyền lại cho con cháu và tất cả mọi người trong giáo xứ.”

Với đại hội lần thứ 8 này, ngoài điểm chính là về gia đình và hôn nhân, đại hội cũng nhằm để mọi người có thể mở rộng trái tim đón nhận nhau, nâng đỡ nhau, đồng hành với nhau trong tình yêu thiên chuá dành cho mỗi người, mỗi gia đình và gia đình nhân loại.

Đại hội gia đình thế giới đã được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1994, và cứ 3 năm tiếp theo đại hội đã dừng chân đến nhiều nơi trên thế giới như Rio De Janeiro, Manila, Valencia, Mexico City và Milano. Và đây là năm thứ 8 cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại Hoa Kỳ. Sự ra đời của Đại hội Gia Đình Thế giới này, Giáo Hội Công Giáo không chỉ muốn là sự kiện long trọng của toàn thể cộng đồng Tín hữu khắp năm châu mà còn mong đây sẽ là một diễn đàn mở cho những nhà hoạt động xã hội thiện chí đang ngày đêm tích cực cổ động mọi người quan tâm và yêu thương đến nhau nhiều hơn, giảm bớt bạo lực, kêu gọi hòa bình ngay từ trong mỗi gia đình.

Chân Như tường trình từ Philadelphia.

Muốn bắt ai thì bắt?

Muốn bắt ai thì bắt?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-23

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu khai mạc kỳ họp mùa hè của Quốc hội tại Hà Nội, tháng 5, năm 2015.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (ảnh minh hoạ) Vào ngày 14/9 ông phát biểu tại phiên thảo luận về Bộ luật hình sự (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là: “không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung, muốn bắt ai thì bắt”.

AFP

Một số nhà hoạt động và cựu tù chính trị tại Việt Nam bị cơ quan an ninh và công an bắt giữ với cớ để điều tra.

Trường hợp của họ ra sao?

Trường hợp gần nhất và lâu nhất

Vụ việc bắt giữ gần nhất là đối với cựu tù nhân chính trị, cựu trung tá Trần Anh Kim, xảy ra vào sáng ngày 21 tháng 9 vừa qua. Bà Nguyễn Thị Thơm, vợ ông này cho biết cơ quan chức năng đến nơi làm việc rồi đưa bà ra trụ sở Công an Thành phố Thái Bình. Bà bị giữ tại đó từ khi bị đưa đi vào buổi sáng cho đến khoảng 4:30 chiều mới được đưa về nhà. Theo bà khi về đến nhà bà mới được giao lệnh nói chồng bà bị bắt đi vì trong máy tính của ông ta có ‘tuyên bố’ gì đó.

Sau hơn 24 tiếng đồng hồ, bà vợ cựu tù chính trị Trần Anh Kim, ra Sở Công an Thành phố Thái Bình để hỏi thăm về người chồng bị bắt đưa đi. Sau hơn 48 tiếng đồng hồ, bà này cho biết:

“ Chiều hôm qua lúc 4 giờ tôi ra Công an Thái Bình hỏi; đến chỗ cổng nói với người trực cho tôi gặp Phòng Điều tra An ninh. Họ bảo có chuyện gì, tôi nói hôm qua họ bắt ông Kim và nay giam ở đâu cho tôi biết để đi thăm nuôi. Chú trực cổng gọi lên phòng Điều tra An ninh và tôi được phó phòng trả lời đang giam ông Kim ở Trại Tạm giữ- Tạm giam ở Thái Bình. Đó là trại lần đầu ông Kim bị bắt cũng giam ở đó. Tôi đến Trại Tạm giam thì họ nói về đi, thứ năm đi tiếp tế. Có thông tin gì thì vài ba ngày nữa sẽ báo cho tôi. Tôi muốn gặp cán bộ để hỏi nhưng không có ai, còn nhân viên thì họ không dám trả lời. Còn từ hôm qua đến nay tôi chưa được họ báo gì về thông tin ông Kim cả.”

Một người bị bắt giam hơn một năm nay là ông Nguyễn Hữu Vinh, người chủ xướng trang blog Anh Ba Sàm. Ông này cùng người cộng sự Nguyễn thị Minh Thúy vào ngày 5 tháng 5 năm 2014.

Luật sư Hà Huy Sơn, người tham gia bào chữa trong vụ việc Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh vào sáng ngày 23 tháng 9 cho biết:

Tôi hiện là người bào chữa (ông Nguyễn Hữu Vinh bị bắt giam hơn một năm nay) nhưng chưa được thông báo vụ án đang do cơ quan nào giải quyết cả

Luật sư Hà Huy Sơn

“ Văn bản mới nhất mà tôi nhận được là ngày 17 tháng 8; đó là kết luận điều tra bổ sung. Và từ đó cho đến nay tôi chưa nhận được thông báo của cơ quan nào cả; nên hôm nay tôi đang làm văn bản yêu cầu các cơ quan trả lời.

Tôi hiện là người bào chữa nhưng chưa được thông báo vụ án đang do cơ quan nào giải quyết cả.”

Ngoài những trường hợp vừa nêu, trong tháng 9 này có hai người bị bắt đi đến nay vẫn chưa được thả và thông tin về họ cũng rất ít, chỉ được một số nhà hoạt động quan tâm đưa lên mạng. Đó là trường hợp của ông Lê Vũ Đài và Nguyễn Hữu An. Cả hai bị bắt từ ngày 2 tháng 9 vừa qua.

Mực sư Nguyễn Trung Tôn, người biết về ông Lê Vũ Đài cho biết một số thông tin về ông này như sau:

“ Anh Lê Vũ Đài là người Tiền Hải, Thái Bình, sinh năm 1989. Trước đây anh cùng bà con Tiền Hải, Thái Bình đi khiếu kiện nhiều nơi. Trong tay anh có một số bằng chứng về việc cán bộ tham nhũng rồi này kia… Trong một giai đoạn anh tham gia khiếu kiện đông người, nhưng sau này do áp lực nào đó anh đi vào Thanh Hóa theo một công ty giấy và làm kỹ thuật.”

Từ ‘gây rối trật tự’ đến ‘chính trị’

Một trường hợp khác bị bắt từ ngày 12 tháng 4 năm nay ở Hà Nội khi tham gia tuần hành kêu gọi bảo vệ cây xanh ở thủ đô; đó là anh Nguyễn Viết Dũng.

Gia đình anh này cho biết mãi 20 ngày sau khi bắt giam, cơ quan chức năng mới thông báo cho gia đình biết việc bắt giữ anh này để điều tra. Ông Nguyễn Viết Hùng, cha của anh Nguyễn Viết Dũng, vào trưa ngày 23 tháng 9, từ nhà riêng ở Xóm Trần Phú, xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, cho biết:

“ Gia hạn thêm 2 tháng điều tra vì theo thông tin thì họ không điều tra được gì nên tự gia hạn thêm 2 tháng. Gia đình cũng chỉ biết thế qua luật sư Trần Thu Nam chứ ngoài ra có được biết gì đâu.

Nói tóm lại từ khi bị bắt đến nay là hơn 5 tháng rồi. Khi được 3 tháng thì họ nói với bên luật sư gia hạn thêm hai tháng. Từ hôm đến giờ, tôi đi thăm cháu được 4 lần, nhưng chỉ gửi quà thôi chứ không được gặp mặt. Gửi quà qua quản giáo của công an quận.”

Luật sư Trần Thu Nam, người tham gia bào chữa cho anh Nguyễn Viết Dũng, cũng chia sẽ một số thông tin về anh này sau vài lần tiếp xúc với anh trong tù:

Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được.

chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng

“ Sức khỏe thì tốt thôi, không sao cả. Dũng mắt kém, bị cận mà ăn uống trong trại giam không như bên ngoài, nên sức khỏe không được tốt bằng ở ngoài. Thiếu chất nên mắt kém đi, tay chân không được linh hoạt nữa. Theo tin mới nhất từ luật sư Lê Văn Luân, cũng bào chữa trong vụ án này, mới trong buổi sáng ngày hôm nay thì có trao đổi sức khỏe của Dũng bình thường, có lên cân; nhưng do mất vệ sinh nên bị ghẻ ngoài da một chút, bệnh ngoài da.

Đó là về sức khỏe, còn về nội dung thì anh có khai tham gia đi dự buổi tuần hành cây xanh cùng các bạn trẻ khác, và anh có cầm những cái áo in hình logo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày xưa. Đó là sự ngưỡng mộ của anh ta, và là ý kiến cá nhân.”

Bị kết án theo những điều luật mơ hồ

Ông Nguyễn Viết Hùng cho biết con ông khi bị bắt đang mặc áo quần theo quân phục trước đây của một binh chủng Việt Nam Cộng Hòa. Ông cho rằng việc làm đó không có gì sai trái vì đó là sở thích cá nhân. Cũng như trước đây con trai ông là Nguyễn Viết Dũng từng một lần treo cờ vàng ba sọc đỏ trên nhà. Lần đó cơ quan chức năng xã đã đến bắt gỡ cờ xuống và đưa anh Nguyễn Viết Dũng lên trụ sở. Tại đó Nguyễn Viết Dũng tranh luận với các bộ xã và họ phải để Dũng về.

Trường hợp của những người bị giam giữ lâu như blogger Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh hay của những người mới bị bắt gần đây đều được nhiều người biết rõ việc làm của họ cho là không có gì vi phạm Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như một số người từng bị bắt trước đây thì cuối cùng cơ quan chức năng cũng qui họ vào những điều của Bộ luật Hình sự như điều 88- tuyên truyền chống nhà nước, hay 258- Lợi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm quyền và lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, tập thể, hoặc nặng hơn là điều 79- âm mưu hay có hoạt động lật đổ chính quyền.

Những điều luật này lâu nay bị lên án là mơ hồ và được yêu cầu phải sửa đổi. Chính chủ tịch quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng được truyền thông trong nước trích dẫn phát biểu tại phiên thảo luận về Bộ luật hình sự sửa đổi rằng ‘“Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được”.

Sadie Ngô và tấm lòng nhân ái của cô bé 11 tuổi

Sadie Ngô và tấm lòng nhân ái của cô bé 11 tuổi
Nguoi-viet.com

Nhất Anh/ Người Việt

SANTA ANA, California (NV) – Dù chỉ mới 11 tuổi, Sadie Ngô đã làm được một việc mà có lẽ chỉ có người lớn mới làm được. Đó là tự gây quỹ giúp người bệnh nan y.

Trong tâm trí của mọi người, có lẽ tuổi 11 là lưng chừng giữa cái “loi choi, ngây thơ” của con nít và cái “muốn làm người lớn” với nhiều trò tinh nghịch hồn nhiên. Tuổi 11 của các em thường chỉ xoay quanh chuyện ăn, chuyện học, chuyện ngủ, và chuyện chơi. Nhưng đối với cô bé Sadie Ngô, em như được tô thêm điểm sáng của lòng nhân ái và suy nghĩ quên đi bản thân mình vì người khác.

 
Sadie Ngô từ bỏ chuyến đi dã ngoại đến Washington, DC, của mình để làm một việc cao cả hơn giúp đỡ người khác. (Hình: Gia đình cung cấp)

Buổi sáng Thứ Hai, 21 Tháng Chín, tại trường St. Barbara Catholic, Santa Ana, các em học sinh bất ngờ được tập trung ở hội trường thể dục cho một sự kiện đặc biệt.

Sau một lúc chờ đợi, bà Judith Bloom, hiệu trưởng của trường, mời các em đứng lên chào đón hai vị khách đặc biệt từ học viện St. Catherine’s Academy dành cho nam sinh là Đại Tá Barry Bizzell và Đại Úy Angel Ramos.

“Tôi nhận được email từ người chị của mình về câu chuyện cảm động của một em học sinh sẵn sàng bỏ qua lợi ích, niềm vui của mình mà quan tâm đến người khác. Câu chuyện này làm nhiều người cảm động,” Đại Úy Angel Ramos phát biểu. “Và hôm nay, tôi rất tự hào khi được đến nay trao bằng danh dự cho học sinh đó, em Sadie Ngô, vì những gì em làm và truyền cảm hứng cho tất cả mọi người.”

Sadie Ngô không giấu nổi sự ngạc nhiên và niềm sung sướng khi tên mình được xướng lên. Và càng hạnh phúc hơn nữa khi một bên góc hội trường, cả gia đình của em cũng có mặt chia sẻ niềm vui này.

 
Em Sadie Ngô (thứ hai từ trái) chụp hình với các quân nhân Hoa Kỳ. (Hình: Gia đình cung cấp)

Câu chuyện của Sadie Ngô bắt đầu từ dự định gây quỹ cho chuyến đi dã ngoại đến Washington, DC, để học và tìm hiểu thêm về nước Mỹ. Khi bắt đầu thực hiện, Sadie tình cờ nghe câu chuyện của anh Devin Wilhelm, người bạn thân của chị gái mình.

Devin Wilhelm bị tai nạn giao thông bốn năm trước. Trong lúc chữa trị, các bác sĩ phát hiện Devin có một khối u ác tính ở não và cần phải cắt bỏ. Sau một thời gian điều trị, khối u ác tính tiếp tục xuất hiện và tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, căn bệnh ung thư não không làm anh bỏ cuộc. Anh chưa bao giờ từ bỏ niềm hy vọng và luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tốt đẹp. Bên cạnh Devin luôn có sự cổ vũ của gia đình, người thân và bạn bè, đặc biệt là người vợ Shay và đứa con gái Mikayla bé nhỏ.

Và trong số đó có cả Sadie. Câu chuyện của Devin đã thôi thúc Sadie phải làm một cái gì đó, không chỉ cho anh mà còn cho những bệnh nhân khác đang dối diện với căn bệnh ung thư não.

“Người ta cần sự giúp đỡ, và em muốn giúp đỡ họ,” Sadie cho biết.

Thay vì dùng số tiền gây quỹ có được để đi một chuyến về thủ đô Hoa Kỳ, Sadie quyết định quyên góp số tiền mình có được và bắt đầu cuộc gây quỹ khác giúp đỡ cho những bệnh nhân mắc bệnh ung thư não.

“100% số tiền em gây quỹ được gửi cho Hội Ung Bướu Quốc Gia (National Tumor Society) với mong muốn một ngày nào đó sẽ có thuốc trị căn bệnh ung thư não,” Sadie chia sẻ.

 
Sadie Ngô bên chiếc hộp chứa các con rùa mình làm. (Hình: Nhất Anh/Người Việt)

Sadie gây quỹ bằng cách tự mày mò làm ra các con rùa bằng len nhung nhỏ nhỏ xinh xinh với đủ màu sắc khác nhau. Em đặt tên chung cho những con rùa của mình là Kevin.

“Em chọn làm con rùa vì theo người thổ dân Mỹ, con rùa là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh và tinh thần thông thái. Kevin chính là người bạn và là người đồng hành cùng mọi người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, đặc biệt là với những người đang phải đấu tranh với bệnh tật,” Sadie giải thích.

Với một cô bé học sinh 11 tuổi, chuyện từ bỏ ước muốn của mình đến Washington,DC, để thực hiện một ước mơ khác cao cả hơn cho những người kém may mắn hơn mình là điều có lẽ không phải ai ở độ tuổi em có thể nghĩ tới và làm được. Có rất nhiều cách để giúp ích cho cộng đồng, nhưng với Sadie, điều đáng quý ở em chính là em biết nghĩ đến người khác.

“Sadie là nữ học sinh đầu tiên được vinh danh ở St. Catherine Academy với danh hiệu ‘Unsung Hero.’ Em không chỉ là tấm gương cho các bạn cùng lứa mà còn là nguồn cảm hứng cho người lớn chúng tôi. Tôi ngưỡng mộ em và tôi chắc rằng mọi người đều như thế,” Đại Tá Barry Bazzel cho biết.

“Tinh thần của em là tinh thần của một người lính xả thân vì người khác,” Đại Úy Angel Ramos nói. “Tôi mong rằng những đứa con của tôi cũng sẽ có tinh thần như Sadie.”

 
Các con rùa Sadie Ngô làm , được mọi người đem về nuôi.(Hình: gia đình cung cấp).

Ngoài ra, Sadie còn nhận được dây chuyền danh dự của trường St. Barbara Catholic, do bà hiệu trưởng trao tặng.

“Tôi hy vọng sau khi các em thấy được việc Sadie làm, các em cũng sẽ có cho riêng mình một bài học về niềm sẻ chia và thương yêu với mọi người,” bà Bloom phát biểu với các em trong hội trường.

Những điều Sadie làm không chỉ là niềm vui của trường mà còn là niềm tự hào của gia đình em. Ngồi một bên góc hội trường, cả gia đình Sadie ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc và vui sướng vì em. Đây cũng là dịp để gia đình em quây quần bên nhau, cùng chia sẻ niềm vui với em.

“Là một người mẹ, tôi luôn ủng hộ con cái của mình. Những gì Sadie làm là điều tốt cho cộng đồng và tôi ủng hộ hết mình,” bà Tiffany Nguyễn, mẹ của Sadie, chia sẻ.

Trong cuộc song bề bộn, đôi khi chúng ta vô tình quên mất đi những thứ xung quanh mình cần được quan tâm và chia sẻ. Câu chuyện của Sadie đem lại một thông điệp giúp chúng ta nhận ra rằng hạnh phúc đâu đó chính là sự chia sẻ và quan tâm, và đôi khi một việc làm nhỏ có thể tạo ảnh hưởng lớn.

“Em hy vọng các con rùa có mặt ở mọi nơi và đồng hành với mọi người. Nuôi rùa cũng giống như nuôi một hy vọng về một ngày mai tốt hơn, không còn bệnh tật và đau thương,” Sadie mỉm cười cho biết.

Diễn văn của Đức Phanxicô với các sinh viên trẻ tại Trung Tâm Văn Hóa Félix Varela, Havana

Diễn văn của Đức Phanxicô với các sinh viên trẻ tại Trung Tâm Văn Hóa Félix Varela, Havana
Vũ Van An

Các bạn thân mến,

Tôi rất vui được hiện diện với các bạn tại đây ở Trung Tâm Văn Hóa này, nơi quan trọng xiết bao đối với lịch sử Cuba. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì dịp may này, được gặp mặt rất nhiều bạn trẻ, những người, qua việc làm, việc học hành và huấn luyện của họ, đang mơ về và đang thực sự tạo ra tương lai cho Cuba.

Tôi cám ơn Leonardo vì những lời chào mừng của bạn, và nhất là vì, dù nói tới biết bao nhiêu điều quan trọng và cụ thể như các khó khăn, các mối lo sợ, các niềm hoài nghi của chúng ta, có tính vừa thực chất vừa nhân bản, bạn vẫn đề cập với ta về hy vọng. Bạn ấy đã nói với chúng ta về các giấc mơ và khát vọng từng bén rễ vững chắc trong tâm hồn người trẻ Cuba, vượt lên trên các dị biệt của họ về giáo dục, văn hóa, niềm tin và ý nghĩ. Leonardo thân mến, xin cám ơn bạn, vì khi tôi nhìn tất cả các bạn, điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi cũng là chữ “hy vọng”. Tôi không thể tưởng tượng được việc một người trẻ lại không có sức sống, không có giấc mơ hay lý tưởng, không khát mong một điều gì đó vĩ đại hơn.

Nhưng ở giờ phút lịch sử này, một người trẻ Cuba nên có loại hy vọng nào? Không có gì hơn hay kém niềm hy vọng của bất cứ người trẻ nào tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Vì hy vọng nói với ta về một điều gì đó bén rễ sâu trong mọi trái tim con người, độc lập với các hoàn cảnh cụ thể và điều kiện lịch sử của ta. Hy vọng nói với chúng ta về nỗi khát mong, niềm hoài bão, lòng mong mỏi có được một cuộc đời thành toàn, niềm khát vọng hoàn thành những điều cao cả, những điều làm tâm hồn ta ngập tràn và nâng tinh thần ta lên những thực tại cao thượng như chân, thiện, mỹ, công lý và tình yêu. Nhưng nó cũng bao gồm việc chấp nhận rủi ro. Nghĩa là sẵn sàng không để mình bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn hạnh phúc mau qua, giả dối, lạc thú tức khắc và vị kỷ, bởi cuộc sống tầm thường và tự lấy mình làm trung tâm, một cuộc sống chỉ có thể đổ đầy lòng ta bằng buồn bã và đắng đót. Không, hy vọng phải mạnh dạn; nó phải biết nhìn quá bên kia tiện ích bản thân, những an toàn và bù đắp nhỏ mọn chỉ giới hạn chân trời ta; nó phải mở lòng ta cho những lý tưởng lớn lao giúp làm cho đời ta nên tươi đẹp và đáng sống hơn. Tôi muốn hỏi mỗi người trong các bạn: Điều gì lên khuôn đời các bạn? Điều gì đang nằm sâu trong trái tim các bạn? Các hy vọng và khát vọng của các bạn đặt ở đâu? Các bạn có sẵn sàng đặt mình lên tuyến phục vụ một điều gì đó lớn lao hơn không?

Có lẽ các bạn sẽ thưa: “có, thưa cha, con được các lý tưởng đó lôi cuốn mạnh mẽ. Con cảm nhận được lời mời gọi của chúng, vẻ đẹp của chúng, ánh sáng rạng rỡ của chúng trong trái tim con. Nhưng con thấy mình yếu đuối quá, con chưa sẵn sàng quyết định đi theo con đường hy vọng. Mục tiêu thì cao cả đấy nhưng sức con thì yếu quá đi. Tốt nhất là bằng lòng với những điều nhỏ mọn, không cao cả gì nhưng thực tiễn hơn, trong vòng với hơn”. Tôi có thể hiểu được phản ứng này; cảm thấy bị trĩu nặng bởi khó khăn và các điều quá đòi hỏi là chuyện thông thường thôi. Nhưng các bạn hãy ý tứ đừng để mình bị cám dỗ mà nhụt chí là thứ làm tê liệt lý trí và ý chí ta, hay lãnh cảm là hình thức bi quan triệt để trước tương lai. Các thái độ này kết thúc ở chỗ một là trốn chạy khỏi thực tế mà sa vào ảo tưởng vô ích, hai là ích kỷ tự cô lập hóa và hoài nghi bịt tai trước tiếng kêu than đòi công lý, sự thật và tình người đang nổi lên giữa ta và trong chính ta.

Nhưng ta phải làm gì? Làm thế nào tìm thấy các nẻo đường hy vọng ngay trong các hoàn cảnh ta đang sống? Làm thế nào biến các niềm hy vọng thành toàn, chân thực, công lý và chân lý trở thành một thực tại trong cuộc sống bản thân của ta, trong đất nước ta và trong thế giới ta? Tôi nghĩ: có ba ý tưởng có thể giúp duy trì niềm hy vọng của ta luôn sống động:

Hy vọng là một con đường gồm cả ký ức lẫn biện phân. Hy vọng là nhân đức để đi khắp nơi. Nó không đơn thuần là nẻo đường ta theo vì thích nó, nhưng nó có một cùng đích, một mục tiêu rất thực tế và soi dẫn đường ta đi. Hy vọng cũng được nuôi dưỡng bằng ký ức; nó không chỉ nhìn tương lai mà còn nhìn cả dĩ vãng và hiện tại nữa. Để luôn tiến tới trong đời, ngoài việc biết mình muốn đi đâu, ta cũng cần biết ta là ai và ta từ đâu đến. Các cá nhân hay các dân tộc nào không có ký ức và xóa bỏ dĩ vãng của mình đều liều mình đánh mất bản sắc và tiêu diệt tương lai của mình. Thành thử ta cần nhớ ta là ai, và di sản thiêng liêng và luân lý của ta bao gồm những gì. Tôi tin rằng điều này chính là kinh nghiệm và cái nhìn thông sáng của Cha Félix Varela, người Cuba vĩ đại. Biện phân cũng cần thiết, vì điều chủ yếu là cởi mở đối với thực tại và biết giải thích thực tại này mà không sợ thiên kiến. Các giải thích phiến diện và có tính ý thức hệ là điều vô ích; chúng chỉ làm méo mó thực tại bằng cách cố gắng nhét nó vào những khuôn khổ tiên kiến, chỉ tổ gây thất vọng và tuyệt vọng. Ta cần biện phân và ký ức, vì biện phân không mù quáng; nó được xây dựng trên các tiêu chuẩn đạo đức và luân lý vững chắc, giúp ta nhìn thấy điều thiện và điều chính đáng.

Hy vọng là con đường ta cùng người khác tiếp nhận. Một tục ngữ Phi Châu nói rằng: “Muốn đi nhanh, thì đi một mình; muốn đi xa, thì đi với người khác”. Cô lập và sống xa cách không bao giờ phát sinh được hy vọng; nhưng gần gũi và gặp gỡ người khác thì có. Để một mình, ta sẽ không đi tới đâu cả. Mà với loại trừ, ta cũng không thể xây dựng tương lai cho ai được, cho cả ta cũng không. Đường hy vọng đòi phải có nền văn hóa gặp gỡ, đối thoại, một nền văn hóa vốn có khả năng thắng vượt tranh chấp và kình chống khô cằn. Muốn tạo ra nền văn hóa này, điều sinh tử là coi các phương thức suy nghĩ khác nhau không hẳn là nguy cơ mà là phong phú và phát triển. Thế giới cần nền văn hóa gặp gỡ này. Nó cần những người trẻ biết tìm cách biết nhau và yêu nhau, cùng nhau đồng hành trong việc xây dựng xứ sở, một cuộc hành trình mà José Martí từng mơ ước: “với mọi người, và vì lợi ích mọi người”.

Hy vọng là con đường liên đới. Nền văn hóa gặp gỡ tự nhiên sẽ dẫn ta tới nền văn hóa liên đới. Tôi rất thán phục trước điều Leonardo nói lúc đầu, khi bạn ấy đề cập tới tình liên đới, coi nó như nguồn tạo sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại. Không có liên đới, không nước nào có tương lai cả. Vượt lên trên các tính toán và tư lợi khác, ta không những phải quan tâm tới những người có thể là bằng hữu ta, người đồng hành với ta, mà cả những ai suy nghĩ khác với ta, những ai có ý nghĩ riêng nhưng không kém nhân bản và có tính Cuba như ta. Khoan dung không thôi chưa đủ; ta còn phải đi xa hơn thế, từ thái độ nghi ngờ và phòng ngự phải tiến qua thái độ chấp nhận, hợp tác, phục vụ cụ thể và giúp đỡ hữu hiệu. Đừng sợ liên đới, phục vụ và giúp một tay, để không ai bị loại trừ khỏi con đường này.

Con đường sống trên đươc soi sáng bởi một niềm hy vọng cao hơn: đó là niềm hy vọng phát sinh từ đức tin vào Chúa Kitô. Ngưòi tự làm Người trở thành người đồng hành với ta. Không những Người khuyến khích ta, Người còn đồng hành với ta nữa; Người ở bên cạnh ta và giơ bàn tay thân hữu của Người cho ta. Là Con Thiên Chúa, Người muốn trở thành một người như ta, đồng hành với ta trên đường. Niềm tin vào sự hiện diện của Người, vào tình bạn và tình yêu của Người làm sáng lên mọi hy vọng và mọi giấc mơ của ta. Với người cạnh bên, ta học được cách biện phân điều có thực, gặp gỡ và phục vụ người khác, và bước theo con đường liên đới.

Các bạn trẻ Cuba thân mến, nếu chính Thiên Chúa đã bước vào lịch sử ta và trở thành nhục thể nơi Chúa Giêsu, nếu Người đỡ lấy các yếu đuối và tội lỗi của ta, thì các bạn không nên sợ hy vọng, hay tương lai, vì Thiên Chúa ở cạnh bên ta. Người tin tưởng các bạn và Người hy vọng nơi các bạn.

Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn các bạn vì cuộc gặp gỡ này. Xin niềm hy vọng nơi Chúa Kitô, người bạn của các bạn, luôn hướng dẫn các bạn trên đường đời của các bạn. Và xin các bạn nhớ cầu nguyện cho tôi. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả các bạn.

“TÔI CHẲNG HÃNH DIỆN VỀ ĐIỀU GÌ…”

“TÔI CHẲNG HÃNH DIỆN VỀ ĐIỀU GÌ…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 659

Tôi có quen với một ông là đảng viên đảng Công Sản Việt Nam, ông làm việc trong lãnh vực Y Tế, là một nhà khoa học, trí thức, ông du học và lấy bằng tiến sĩ ở Liên xô. Trong những năm gần đây ông có dịp tiếp xúc nhiều với các thành phần khác, trong đó có các Linh Mục thuộc Giáo Hội Công Giáo.

Trong một lần trò chuyện và khi những cuộc gặp gỡ đã củng cố tình thân quen giữa hai chúng tôi, ông mạnh dạn hỏi tôi một câu hỏi: “Giáo Hội Công Giáo của các vị có nhiều môn phái lắm phải không ?” Tôi không ngạc nhiên với câu hỏi này, vì nhìn qua chúng ta cũng thấy ngay trong nội bộ những người tin vào Chúa chúng ta cũng có nhiều khuynh hướng khác nhau khiến người ngoài ngỡ tưởng chúng ta có nhiều “giáo phái”, nhưng thật sự tôi ngạc nhiên và buồn vì lý do ông hỏi không phải là vậy.

Ông cho biết: “Tôi có nhà ở gần một Nhà Thờ nọ, để giao lưu, tôi có mời các cha đến nhà dùng cơm khi nhà tôi có việc, các cha cũng đến, rất cởi mở, nhưng trong câu chuyện tôi thấy các cha có nhiều kiểu khác nhau, một số các cha hay nói chuyện về những chuyến đi nước ngoài, có khi chỉ là du lịch, các cha ấy nói chuyện về rượu Tây, rồi trao đổi như là xem ai sành rượu nhất. Tôi không hề thấy các cha ấy nói về con người, về xã hội, về các vấn đề đạo đức giáo dục… Ngược lại, tôi cũng có gặp một số các cha khác, họ luôn thao thức về công lý, về những bất công trong xã hội, về người nghèo, người bệnh tật… Khi có dịp gặp lại các cha kia, tôi có gợi ý về các vấn đề này thì họ bảo rằng: đó không phải là việc của chúng tôi !?!”

Tôi cố giải thích cho ông ta hiểu là các cha có nhiều nhiệm vụ khác nhau, và vấn đề xã hội là một vấn đề nhạy cảm, khó có thể đề cập đến trong các buổi gặp gỡ nói chuyện giao lưu, vì rất nhiều quan điểm, rất nhiều suy nghĩ trái chiều nhau, hơn nữa, biết ông là đảng viên nên các cha không muốn bàn về vấn đề xã hội gắn liền với chế độ và ý thức hệ như hiện nay. Nhưng tôi biết, ông là một nhà trí thức thì không dễ gì mình tránh né quanh co được trước mặt ông. Ông buông một câu như thể muốn knock out tôi, ông bảo: “Tôi nhận ra mối bận tâm của các cha ấy trong các câu chuyện, chứ không phải nội dung câu chuyện !” Sau đó ông nhẹ nhàng tránh sang chuyện khác.

Có một thực trạng mà có lần tôi đã chia sẻ. Một ngày tôi có việc đi xa, ngang qua một nơi thấy rất nhiều xe cộ lũ lượt đổ về, tôi mới biết Giáo Phận đó chọn một Giáo Xứ gần đây để làm lễ Truyền Dầu, khi xe đến Nhà Thờ nơi sẽ làm lễ Truyền Dầu, một cảnh tượng gây cho tôi cảm giác nặng nề, đó là, một bãi giữ xe riêng cho các cha, toàn là xe 4 bánh loại nhỏ, dĩ nhiên không thiếu xe đời mới, đắt tiền cỡ Lexus, còn lại là một bãi giữ xe của các bà Sơ và của Giáo Dân toàn là xe bus… Đáng tiếc rằng ngay trong các cuộc gặp gỡ họp mặt thì các cha cũng hay khoe nhau về xe hơi của người này người kia và những chuyến du lịch nước ngoài. Có Linh Mục trẻ vừa chịu chức về làm cha phó mà dám xin cha xứ cho tiền mua xe hơi, cho có bạn có bè !

Tuần qua, ngày 14 tháng 9, Giáo Hội kính việc suy tôn Thánh Giá, trong bài gẫm số 1 Kinh Sách trích trong thư gửi các tín hữu ở Galát có câu: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” ( Gl 6, 14 ). Điều làm chúng ta hãnh diện hiện nay là điều gì, bậc thang nào định giá mà chúng ta đã chọn ? Có chỗ nào cho thập giá cắm vào không ?

Chia sẻ đôi điều trong ý thức chính mình là kẻ hèn mọn và tội lỗi, Chúa đã tin và trao cho mình sứ mạng làm chứng, chúng ta cần nhủ bảo nhau sao cho người ngoài không có cái nhìn méo mó về Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong tình thương mến để hoàn thiện nhau mỗi ngày trên bước đường đi theo Chúa.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

 16.9.2015

“NẾU CHỈ CÒN MỘT NGÀY ĐỂ SỐNG…”

“NẾU CHỈ CÒN MỘT NGÀY ĐỂ SỐNG…”

Trích EPHATA 659

Cái tin cô Anh chỉ còn sống được chừng hơn 3 tháng nữa thôi đã làm chấn động cả lớp thể dục. Ai nấy đều bàng hoàng, sững sờ và rồi… buồn bã. Thiên hạ ban đầu thì ngạc nhiên rồi sau đó đua nhau bàn tán, vì mới ngày nào cô vẫn còn khoẻ và lên đây tập với mọi người kia mà. Mà mọi người buồn cũng phải, vì cô luôn là niềm vui của lớp. Vắng bóng cô từ gần cả tháng nay, sáng sáng không còn ai lên sớm đùa giỡn, kể vài mẫu chuyện vui, cũng không còn ai đem cho tôi khi thì mấy trái tắc, lúc là bó rau tươi ở nhà do chính tay cô trồng. Thế mà… chỉ nghĩ đến lúc sẽ vĩnh viễn mất cô mãi mãi trong đời, tôi bất chợt rùng mình và bỗng cảm thấy thật buồn…

Tôi biết cô Kim Anh từ gần 3 năm nay, ở lớp thể dục Hồng Gia. Tôi rất quý cô ở cái tính giản dị, chân chất, bộc trực, có gì nói đó. Cô thương tôi như con cháu trong nhà, nấu món gì ngon cô cũng mang cho tôi, nhà cô hễ cây nào ra trái là cô hái đem cho tôi ngay, hết nhãn, tắc, cam, hồng rồi đến chuối, thanh long, bưởi, rau tần ô, cải làn… Sáng nào ông xã cô cũng chở cô đến lớp tập, đến 8 giờ chú lại đến đón cô về. Tôi hay chọc “Sao mà cô chú tình quá vậy ?” thì lần nào cô cũng cười thật tươi ” Ngày xưa còn tình hơn nhiều con ơi…

Cô thường bảo tôi bây giờ già rồi, nên với cô chỉ có sức khỏe là trên hết. Cô hiện đang sống hạnh phúc với ông xã và vợ chồng cô con gái út cùng hai đứa cháu ngoại. Năm nay cô 68 tuổi, và cô luôn ước ao sẽ được sống đến 80 tuổi hay hơn nữa, để còn phụ giúp baby sit cho các con đi làm, vì đó cũng là niềm vui của cô. Có lẽ người già thường mang nhiều tâm sự, nên cô Anh hay kể tôi nghe về cuộc đời cô ngày xưa, khi cô còn con gái, nào là ngày xưa cô đào hoa lắm, rồi vì sao cô chú quen nhau, cùng những kỷ niệm đẹp và vui trong cuộc đời cô…

XƯA…

Cô gái Phạm Kim Anh ngày xưa, duyên dáng, mượt mà, với nụ cười rất tươi, nên luôn được rất nhiều anh săn đón, nhưng cô đã chọn chú Vũ Duyên Hy, chỉ vì “chú hiền, ít nói… nhưng hễ cô thích gì chú đều biết và mua hay làm sẵn cho cô trước rồi…” Năm 20 tuổi, cô lên xe hoa về nhà chồng, và sau đó có 6 mụn con, 4 gái và 2 trai. Chú đi làm ở sở quan thuế, cô nghỉ học ở nhà lo chăm sóc các con.

Thời ấy gia đình cô rất khá giả, tính cô lại rộng rãi, thương người, nên bà con chòm xóm ai mà thiếu hụt gì cũng chạy sang mượn cô, thậm chí có người nghèo xin tiền cô cũng cho luôn. Cô kể: “Có lần có bà hàng xóm nghèo quá đến mượn tiền cô, bà ta năn nỉ và nói: “Chị cho tui mượn đi, kiếp này không trả nổi thì tui nguyện kiếp sau sẽ làm thân trâu ngựa mà trả chị…” Cô hỏi lại ngay: “Chị nghĩ kỹ chưa mà nói câu đó ? Làm trâu ngựa cho nhà tôi cực khổ lắm đó nhe…”, nhưng rồi cô cũng cho người phụ nữ đó mượn tiền, dù biết rằng người ta sẽ không thể nào trả nổi…

Năm 1982, chú đi vượt biên cùng 3 đứa con lớn, đến đảo ở 3 năm chờ được xét để định cư. Thời gian đó cô Anh rất cực khổ, thân gái một mình nuôi 3 con, tiền bao nhiêu xài dần rồi cũng hết, nên cô bắt đầu bươn trải ra ngoài kiếm sống, lại còn phải chắt chiu gửi qua đảo cho chồng và các con. Cô sống rất cần kiệm, nhưng được hàng xóm thương nên cũng đắp đổi qua ngày.

Đến năm 1985 thì chú qua Mỹ định cư, sau đó bảo lãnh cho cô và đến năm 1992 thì cô và 3 con sang Mỹ đoàn tụ cả gia đình. Mấy năm đầu sang Mỹ, cô chú làm đủ mọi nghề để sống và nuôi các con ăn học: làm nhà hàng, hãng may, ở công xưởng… hễ ai kêu đâu cũng làm, lương bao nhiêu cũng chịu, đi xa cũng phải ráng để có tiền nuôi con, cho đến mãi năm 65 tuổi thì cô chú mới về hưu…

NAY…

Cô Kim Anh đến với lớp thể dục từ năm 2007 vì cô bị cao huyết áp và yếu thận. Cô lại bị cao mỡ, và tiểu đường nhẹ. Cô có uống thuốc nhưng bác sĩ khuyên cô cần phải tập thêm thể dục mỗi ngày, cho nên ngày nào xong lớp học là cô chú cùng nhau lái xe ra biển, rồi đi bộ dọc theo bãi biển, tay trong tay, vừa hít thở khí trời trong lành, vừa “hâm nóng tình yêu lãng mạn ngày nào” – như lời cô hay nói đùa với cả lớp. Cô kể cách đây vài năm, lúc đó cô bị tiểu đường nặng lắm, mà cả mỡ trong máu cũng cao luôn. Cholesterol làm nghẹt một động mạch cổ nên cô không thở được, cô bất tỉnh và ông xã chở cô vào cấp cứu. Lúc đang hôn mê thì cô cảm thấy có bàn tay Đức Mẹ vỗ nhẹ vào ngực cô 3 cái, thì cô bừng tỉnh dậy, và từ đó cô luôn đặt hết niềm tin vào Đức Mẹ và phó thác sinh mạng mình vào tay Ngài…

CUỐI ĐỜI…

Cách đây hơn một tháng, tôi có việc cần đi Arizona vài ngày. Khi về, vào lớp tập lại thì mới hay cô đã được đưa vào cấp cứu với triệu chứng khó thở và ngất xỉu. Nằm bệnh viện một tuần thì cô được cho về nhà, nhưng bác sĩ cho biết là vì hai quả thận của cô đã quá suy nên không thể bài tiết các chất độc và thải nước tiểu một cách bình thường nữa, do vậy mà cô sẽ phải đi lọc máu 3 lần mỗi tuần, cho đến… hết đời. Cô trông hốc hác và ốm hẳn đi. Cô cho biết là đã sụt hơn 15 pounds. Đến thăm cô, tôi không khỏi chạnh lòng vì thấy cô hầu như không còn ăn được gì cả, thứ gì cô cũng đều phải kiêng cữ, vì hễ ăn vô là mình mẩy nhức ê ẩm.

Vậy mà cô vẫn lạc quan. Cô kể: “Con biết hôn, hôm đó lúc đầu cô cảm thấy chóng mặt và choáng váng, rồi thì sau đó cô không biết gì nữa. Nhưng chỉ chốc lát sau thì cô thấy Đức Mẹ hiện ra, đưa bàn tay cho cô nắm. Cô mừng rỡ vừa nắm vừa hôn tay Mẹ, đâu chỉ chừng một, hai phút thì cô giựt mình tỉnh dậy, thấy mình nằm trong bệnh viện với đầy các bác sĩ, y tá và con cháu xung quanh. Sau này con gái cô kể lại rằng lúc đó cô đã tắt thở 2 phút rồi, bác sĩ tưởng là cô đã “đi luôn” rồi chứ, làm các con cô khóc òa lên… Vậy là cô hiểu, chính Đức Mẹ đã cứu sống cô lần nữa…”

Rồi cô dẫn tôi ra sau vườn, chỉ cho tôi xem từng cây ăn trái mà cô chú đã trồng. Vườn cây ăn trái của cô chú thật rộng, rộn tiếng chim hót, trồng đủ loại cây, và rau cải, có thể nói là cô chỉ cần đi chợ mua thịt cá, chứ rau cải thì có đủ hết. Cô bảo con gái cô, chị Hương, hái cho tôi một bịch tắc thiệt bự “Đem về ăn đi con, mai này không còn cô thì phải tự đi mua tắc mà ăn đó nhe…” Bỗng nhiên cô hỏi tôi “Đố con cây cỏ có linh hồn không ?” Tôi còn đang ấp úng thì cô tiếp: “Ông xã cô kể là cả tuần khi cô nằm bệnh viện, cả nhà lo vô thăm nuôi cô, nên không còn ai nhớ mà tưới cây nhãn này hết đó – cô đưa tay chỉ tôi xem cây nhãn cô vừa mới chiết cành xin từ một người bạn, bởi vậy nó héo rồi chết luôn. Vậy mà từ hôm cô về, vài ngày sau tự dưng nó đâm nhánh ra thêm, rồi lá xanh tươi trở lại, làm thằng cháu ngoại cứ bảo rằng: “Cây nhãn nó thương Ngoại nên nó sống lại đó, thì Ngoại cũng phải sống với con nhe Ngoại…” Cô nói, miệng cười mà mắt cô long lanh giọt nước…

Khi nghe ông xã cô cho biết là cô phải đi lọc máu cho đến khi nào có người tặng cô hai quả thận để ghép vô thay cho hai quả thận của cô không còn hoạt động nữa, tôi ngao ngán thở dài. Chờ đợi… chờ đến bao giờ ? Cô đã ghi tên ở bệnh viện UCLA rồi, mà waiting list thì… dài thòng, nghe đâu phải chờ cầu 5, 6 năm mới hy vọng có người cho thận. Mà nếu như có may mắn đến lượt mình thì chắc gì quả thận đó sẽ dễ dàng được cơ thể dung nạp, hay sẽ lại bị reject? Thế mà cô vẫn vui vẻ, cô bảo: “Còn sống ngày nào là cô vẫn còn hy vọng…”

Có nghe cô kể về những buổi lọc máu thì mới thấy thương cho những người bệnh. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Mỗi tuần chú Hy chở cô đi lọc máu 4 lần, rời nhà từ 5 giờ rưỡi sáng, và quá trình lọc như vậy mất hơn 3 tiếng rưỡi đồng hồ, về đến nhà gần 11 giờ. Cô bảo ngồi bên cạnh cái máy lọc máu, đầu óc cô rỗng không. Được chừng hơn 2 tiếng là cô bắt đầu mệt, mồ hôi tuôn ra như tắm, lỗ tai lùng bùng, thì lúc đó y tá đến gắn ống oxy cho cô thở, vì cô quá yếu sức… Từ ngày xuất viện về nhà, cô yếu hẳn đi và không còn đi tập thể dục nổi nữa.

Mấy hôm gần đây phone thăm cô không có ai bắt phone, tôi linh tính có điều gì không hay. Tôi có ghé đến nhà cô, bấm chuông mãi nhưng cũng không ai ra mở cửa. Thế là tôi bắt đầu lo. Gần cả tuần trôi qua thì cô gọi. Tôi mừng quá, hỏi thăm cô tới tấp. Cô kể là cô lại mới phải vô cấp cứu, vì nước tràn đầy vào phổi, và lần này bác sĩ cho biết là tình trạng của cô: từ thận nay đã chuyển sang tim. Các tĩnh mạch dẫn máu về tim của cô bị nghẽn rất nhiều, còn van tim thì lại bị hở. Nên bây giờ mỗi thứ bảy thì cô phải vừa đi lọc máu, vừa để bác sĩ rút bớt nước ra khỏi phổi của cô, vì nếu không thì phổi cô sẽ bị ứ nước nữa và tính mạng cô sẽ bị nguy hiểm.

Con gái cô cho tôi biết là bác sĩ đã bó tay, ông cho gia đình biết là cô Anh có thể đi bất cứ lúc nào. Ông xã cô thì nói với giọng nghẹn ngào: “Bác sĩ bảo bả chỉ còn sống được ba đến năm tháng là maximum, nên gia đình cứ chìu ý bả đi, bả thích gì thì cho ăn nấy…” Tôi quay sang cô hỏi: “Thế cô thích ăn gì, làm gì hở cô?” Cô cười buồn: “Không thích, cũng không thèm ăn gì hết, giờ phút này thì cô chỉ thèm… được sống”. Đôi mắt nhìn xa xôi, cô nhỏ giọng: “Ai rồi cũng đến lúc phải ra đi. Vui hay buồn là ở cái tâm của mình. Nếu thật sự là Chúa đang đợi cô, thì cô sẽ vui mà về với Ngài… Nhưng Đức Mẹ vừa cứu cô kia mà…”, rồi bỗng dưng cô ngập ngừng: “…Con ơi, sao mà cô vẫn còn yêu lắm cuộc đời này…” giọng cô tắc nghẹn.

Nuốt nước miếng một cách khó khăn, cô tiếp với một giọng đều đều: “Con cháu cô bây giờ lớn cả rồi, có công ăn việc làm, có gia đình đông đủ, nên cô không còn gì phải lo nữa. Cuộc sống cô nói chung cũng đã quá đầy đủ, nên cô cũng không có gì phải hối tiếc. Hơn 68 năm qua, cô luôn làm hết khả năng mình lo cho chồng, cho con, cho mọi người, nên bây giờ có thể nói là cô khá mãn nguyện…”

Cô cho biết cô vừa mới may xong chiếc áo liệm trắng, là chiếc áo mà người con của Chúa sẽ được mặc, theo nghi lễ, lúc chôn cất. Cô An, người bạn già ở lớp thể dục, đã may tặng cho cô như một món quà cuối đời…

“Thế cô còn có dự định hay ước muốn gì không cô ?” – “Nếu như nhờ ơn Chúa mà cô còn sống được đến sinh nhật cô vào năm sau, thì cô sẽ tổ chức một lễ sinh nhật thật lớn. Cô sẽ mời tất cả bạn bè, người thân, người quen, hàng xóm, tất cả những ai mà cô biết trong đời… đến dự, để cô nói một lời xin lỗi, nếu như vì vô tình cô đã làm hay nói điều gì buồn lòng họ, và để cám ơn họ đã cho cô có được những kỷ niệm đẹp và đáng nhớ trong đời…”

Tôi hỏi: “Cô có còn điều gì nuối tiếc không, một khi ra đi về bên kia thế giới ?” Im lặng – thật lâu, rồi cô chậm rãi đáp: “Đời cô vui buồn có đủ, thăng trầm cũng nhiều. Nếu bảo có hối tiếc điều chi thì có lẽ chỉ một điều duy nhất: đó là cô thường rất ít sống vui với giây phút hiện tại”. Thở một hơi dài, cô nói tiếp: “Thời son trẻ thì cô lúc nào cũng lo lắng cho tương lai, cho chồng con, cứ mãi đi làm kiếm tiền cho tương lai con cháu. Có tiền rồi thì lại lo dành dụm. Lúc về già thì lại hồi tưởng và tiếc nuối quá khứ cùng kỷ niệm, cứ sống và nhớ mãi cái thời xa xưa huy hoàng ở Việt Nam. Chỉ cho đến phút giây này, khi cái chết đã cận kề, thì cô mới hiểu cuộc đời mình đẹp nhất là phút giây hiện tại. Bởi vậy mà bây giờ, cô chấp nhận và vui với ngày hôm nay…”

Ngừng lại giây lát, cô tiếp: “Cô cũng có chút tiếc nuối là cô chưa hề có dịp về thăm lại Việt Nam. Lúc mới qua Mỹ thì cứ cắm đầu đi làm, đến chừng có chút tiền, có thời gian thì lại đổ bệnh, nên đâu dám về nữa. Cô ước gì mình có duyên về lại thăm quê cô, miền Trảng Bàng, là nơi mà ngày xưa mỗi ngày cô đi học qua ngang nhà chú, nhờ đó mà cô chú quen nhau…”

Nghe cô nhắc đến chữ duyên, tôi hơi ngạc nhiên nên hỏi lại: “Cô chú đạo Chúa phải không ? Mà cô vẫn tin vào chữ Duyên à ?” Cô cười nhẹ: “Tin chứ con. Cô đạo Chúa, nhưng cô đọc nhiều sách về Phật pháp lắm, nên cô tin vào Nhân Quả, tin vào Nghiệp và cô tin có luân hồi…” Rồi cô hóm hỉnh nheo mắt nhìn về phía ông xã đang ngồi theo dõi câu chuyện nãy giờ: “Nghiệp đó con thấy hôn, kiếp trước ổng “nợ” cô nên kiếp này ổng cả đời cứ phải trả “nợ” cho cô. Cô ăn gì vô cũng bị hành đau đớn, cũng là do cái Nghiệp cô đã gieo, và cô còn sống được đến giờ này cũng nhờ cái Nhân phước đức mà cô đã giúp đỡ những người hàng xóm trong lúc khốn cùng…”

Quay sang chú Hy, tôi hỏi: “Cô Anh đi, chắc chú buồn dữ lắm, chú hở ?” Chú cười buồn: “Sớm muộn gì thì cũng phải đến lúc đó, cháu à. Chỉ là người đi trước hay đi sau mà thôi…” Tôi hỏi: “Nhưng người đi sau sẽ là người buồn hơn, phải không chú ?” – “Đúng, bởi vậy nếu chú làm người đi sau, chú cũng ráng vui, vì ít ra chú còn lo cho bả được chu toàn…” Tôi ngồi mà nghe lòng mình xao động, đẹp làm sao một mối tình già… Quay sang cô Anh, tôi hỏi: “Thế khi chết thì cô nghĩ rằng cô sẽ về đâu ?” – “Cô mong là cô có đủ phước duyên mà được lên Thiên Đàng với Chúa. Chúa Nhật nào cô chú cũng đi Nhà Thờ, tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện. Cả đời cô đã luôn cố gắng sống và làm theo lời Ngài dạy, thì cô mong Ngài sẽ đến đón cô đi…”

“Cô nè, con hỏi cô câu này nhe, nếu như chỉ còn một ngày để sống thì cô sẽ làm gì ?” – “Sẽ yêu thương” – cô trả lời ngay, không một chút do dự. Cô sẽ mỉm cười với mọi người, cả với những người không quen biết. Cô sẽ tha thứ hết mọi lỗi lầm nhỏ nhặt của mọi người mà bao lâu nay cô cứ cho là lớn lao ghê gớm lắm. Cô sẽ bố thí nhiều hơn, cho đi nhiều hơn, làm từ thiện nhiều hơn, vì bây giờ cô mới thật sự hiểu rằng chúng ta sẽ không mang theo được gì bên mình lúc ra đi. Cô sẽ nói với ông xã, với các con, các cháu… là cô thương tất cả mọi người – điều mà gần bảy chục năm qua vì mắc cỡ mà cô chưa bao giờ dám nói. Cô sẽ yêu hơn cuộc đời này. Cô sẽ…”

Giọng cô bỗng ngắt quãng vì cơn ho kéo tới. Tôi nhìn cô, đang ôm ngực ho sù sụ, mà ái ngại. Phải chăng đó cũng sẽ là hình ảnh của Mẹ tôi một ngày gần đây, và của ngay chính bản thân tôi một ngày nào đó ? Ông xã và con gái dìu cô vào giường nghỉ. Tôi xin phép ra về, thì cô ôm tôi và níu bàn tay tôi kéo lại: “Con nhớ lời cô nhe, hãy biết buông xả và yêu thương, trước khi quá muộn…”

Rời nhà cô Anh mà bên tai tôi vẫn còn văng vẳng những lời cô nói: “Nếu chỉ còn một ngày để sống, thì cô sẽ trân quý từng phút giây hiện tại và sẽ yêu thương hơn cuộc đời này…”

Chia tay cô, tôi thầm cầu chúc cô Anh có được những ngày cuối đời thật an lạc và giây phút ra đi cũng thật là bình an, để mà về với Chúa…

Lên xe, tôi với tay mở chiếc CD thì tiếng nhạc vọng ra sao mà tha thiết:

“…Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi về với quê nhà
Để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ, mơ tiếng Mẹ Cha…

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao tôi trả ơn cuộc đời
Làm sao tôi đền đáp bao người, Nâng tôi lên qua bước đời chênh vênh…

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao tôi chuộc hết lỗi lầm
Làm sao tôi thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông…

Cho tôi như khúc ca bay đi xa rất xa, cho tôi được cám ơn cuộc đời,
Cho tôi được sống trong tim người bằng những lời ca…

Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành
Buồn vì ai ? Ta làm ai buồn ? Xin bao dung, tha thứ vì nhau…

Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp
Phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an…”

Đúng vậy, cuộc sống này quả thật quá mong manh. Thế còn bạn, bạn sẽ làm gì… nếu như bạn chỉ còn một ngày để sống ?

HOÀNG THANH

Trên con đường một mình anh về

“Trên con đường một mình anh về”
nơi chốn tha hương.
Cơn đau xa người còn thấm môi hôn nhớ về ai.
Phút chia tay em nói lời tiễn đưa
Mắt anh buồn nhìn em, thôi đã mất.”
(Hoàng Trọng Thụy – Đoản Khúc Cuối Cho Em)

( Cv 3: 17-20)

Trần Ngọc Mười Hai

“Đoản khúc cuối cho em”, ư? Phải chăng, đây là lời nhắn gửi đến mọi người, hoặc muôn người? Chí ít, là những người lâu nay được đề-cao, nâng nhấc, kích bốc lên tận chín tầng mây trên đó, chốn đạo hạnh?
Sở dĩ bần đạo đây, hôm nay, nói lên những điều khó nói này là vì, vừa qua, bần-đạo đọc được “Bản Tin Giáo Xứ” của một họ đạo ở nước Úc, rất Sydney. Bản tin hôm ấy, tóm gọn chỉ mỗi lời nhắn không theo dạng “Đoản Khúc Cuối Cho Em”, mà là lời nhủ khuyên gửi đến các vị lâu rày lãng quên chuyện hỗ-trợ các bậc vị-vọng nay chìm vào chốn lãng quên, rất như sau:

“Hôm nay, ta thực-hiện quyên góp giúp các Linh mục về hưu có nơi ăn chốn ở, được chăm sóc sức-khoẻ bằng những hỗ-trợ cần-thiết để các ngài có cuộc sống xứng-đáng, khi về hưu.

Chúng ta mắc nợ các linh mục rất nhiều. Các ngài đã cống-hiến cả đời mình để phục-vụ Thiên-Chúa và nuôi dưỡng lòng tin của ta, cũng như đóng góp bằng nhiều cách cho cuộc sống cộng-đoàn. Hỗ-trợ Quỹ Tài trợ Linh mục về hưu, là cung-cách thực-tiễn qua đó ta chứng-tỏ lòng cảm-kích biết ơn các linh-mục thừa-tác từng cho đi chính đời mình hầu phục-vụ tha-nhân và cộng-đoàn niềm tin.” (X.Bulletin of Fairfield Parish 23rd Ordinary Sunday year B, 06/9/2015)

Lý-do khiến bần-đạo trích dẫn “Bản tin Giáo xứ” này, ở đây, không để nhắn bạn đạo nào ở đâu đó rằng: bà con ta đừng quên các linh mục già đầy tuổi tác đang sống ở viện dưỡng-lão đây đó, trên toàn quốc. Nhưng, vì lời lẽ “kích-bốc” theo kiểu “lời vàng” khá cũ của thời trước, nay lỗi thời.
Lỗi thời hơn, là quan-niệm của vị nào đó cứ coi các đấng-bậc thày cả như quan-viên sống trên đầu/trên cổ đám giáo-dân lúc này cũng đã biết nhiều và hiểu nhiều về những chuyện xảy ra trong/ngoài nhà Đạo, nay bê bết.
Lỗi thời mãi, lại là quan-niệm của một số vị cứ tâng-bốc các đấng bậc “thày cả” vẫn tự coi mình là “kẻ cả” có tư-thế và vai-vế hơn hẳn người dưới trướng trong Hội-thánh La Mã, rất Vaticăng.
Nay, quan-niệm “ở trên đầu/trên cổ giáo dân” đã mai-một không còn hợp thời và lẽ đạo nữa, đến độ Đức Phanxicô đã phải nhắn-nhủ con dân trong Đạo, những người vẫn đi đạo và giữ đạo nhưng không biết tình-hình trong Đạo. Lời nhắn-nhủ ấy như thế này:

“Các linh mục phải đồng-hành ngang hàng mọi người, chứ không thể ở trên hoặc ở trước họ.

Hôm 3/9/2015, Đức Phanxicô có chuyển đến các linh-mục thuộc Phong-trào Schoenstatt một lời nhắn cũng rất mạnh rằng: “Linh-mục ở Đạo ta không bao giờ nên ở trên hoặc ở trước mọi người. Thay vào đó, họ phải đồng-hành bên cạnh các vị ấy, mới được…

Thông-điệp, gửi các vị tham-gia buổi hội-thảo hàng năm của Phong-trào Schoenstatt này đây, hôm ấy, Đức Phanxicô có được sự đồng-thuận của những người trong cuộc, nên ngài đã mạnh-dạn trích-dẫn nhận-định của Lm Kentenich của Phong-trào, khi ông bảo: “Mọi người chúng ta, ai cũng nên mở tai mình ra mà đặt vào tâm-can của Chúa và đặt đôi tay lên nhịp đập của thời-đại… Đó là hai cột-trụ của đời sống linh-thao hôm nay, rất đích-thực.”

Đức Phanxicô, sau đó, đã rời buổi hội-thảo của Phong-trào nói trên nhưng không quên để lại đề-nghị khẩn-cấp để bảo rằng: “Chúng ta nên dâng-tiến chính mình để giúp đỡ các gia-đình, đặc biệt là gia-đình nào đang trong cảnh bức-bách, khó khăn, khổ sở. Đồng thời, cũng nên bỏ giờ ra mà ngồi toà cáo-giải nghe hối-nhân xưng-thú lỗi/tội của họ, đặc biệt trong năm thánh mừng vui này. Còn một điều nữa, cũng nên quan-tâm đến, là: ta hãy cầu-nguyện thêm cho Đức Giáo-Hoàng nữa.” (Xem News: Priests must walk alongside others, not in front: Pope”, trên tờ The Catholic Weekly ngày 13/9/2015 tr.10).

Đức Giáo-Hoàng nói thế, tức bảo rằng: nay là lúc con dân dưới trướng nên giúp giùm/đùm bọc lẫn nhau, chứ không nên kẻ trước/người sau, cứ thế mà giành nhau vị-thế trên dưới/trước sau, với người thường? Phải chăng, vì thế không nên cứ coi giáo dân như kẻ ở dưới trướng, cần đe nẹt?
Nói như Đức Giáo-Hoàng nhà mình, là nói theo kiểu nhà Đạo, lúc nào cũng hỗ-trợ nhau về mọi cách, chứ không thể đi đằng trước /bước lên trên rồi lại yêu-cầu người đi sau hoặc đi dưới cứ thế yểm trợ bằng công sức, tiền bạc và lời cầu nguyện kéo dài mãi không ngừng.
Nói như Đức Giáo-Hoàng, là cứ nói và nhớ lời bậc thánh hiền khi xưa từng nhủ khuyên/khuyên-nhủ các vị được đề-bạt hoặc thăng quan tiến chức, rất ở trên, bằng những lời rằng:

“Thưa anh em,
giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết,
cũng như các thủ lãnh của anh em.
Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện
những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước,
đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.
Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa,
để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.
Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến,
khi Người sai Đấng Kitô Người đã dành cho anh em,
là Đức Giêsu.”
(Cv 3: 17-20)

Nói theo kiểu các đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo thì như thế. Còn, nói và hát theo kiểu con dân ngoài đời, rất nghệ-sĩ, thì như sau:

“Đêm hôm nào mùa trăng thu chờ em đến bên tôi
Vùi thân rã rời hình bóng em theo chăn gối này
Thoáng hương xưa thôi cũng đành
Nói cho nhau lời cuối cùng
Dấu chân em rời căn gác buồn tênh.

Và ngày em đi, anh đưa môi tìm lên môi son cũ
Dấu vết ái ân tan theo như lời nói khi lìa nhau
Bàn tay như cố kéo những ước mơ đã mãi xa rồi
Nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai.
(Hoàng Trọng Thụy – bđd)

Thật ra thì, làm đấng bậc thủ-lãnh trong Đạo, là phải sống như một Kitô-khác, tức: rất giống Đức Kitô là Đấng nhân-hiền thánh hoá. Chí ít, là đấng bậc “thày cả” của “cả-và-thiên-hạ”.
Thật ra thì, làm thủ-lãnh đấng bậc ở Đạo Chúa, tức: không những phải chối-từ chuyện ngồi chiếu trên hay luôn đi trước đám giáo-dân trong đó nhiều người còn rành rẽ, thánh-thiện và khiêm-tốn hơn cả “thày cả”, nữa.
Thật ra thì, làm thủ-lãnh đấng bậc trong Đạo, là bắt chước Đức Kitô và/hoặc tuân-thủ Lời Ngài khuyên-dạy để sống xứng-đáng chức-năng/vai-trò bé nhỏ mà Đấng bậc nọ ở Sydney mới đây lên tiếng bằng một nhận-định ngắn gọn, như sau:

“Khi xưa Đức Giêsu Kitô làm tất cả mọi việc và nói tất cả mọi lời, Ngài đều nói và làm qua câu hát.

Nhiều lần, Ngài ra tay chữa trị hoặc “chữa lành” người tật/bệnh, Ngài lại còn cất tiếng hát khe khẽ, nhẹ êm trong đó có lời ca toàn là những yêu thương, trìu mến rất đầy đặn.

Nhiều khi, Ngài kể cho những người đi theo Ngài đôi ba câu chuyện hay ho/nho nhỏ, Ngài cũng lại cất lên giai-điệu tuyệt vời, tức: thứ âm-giai nhẹ mà khi nghe rồi, người nghe sẽ không còn quên lãng. Đó, là giai-điệu mà ta thường ngâm-nga suốt ngày không cần biết mình đang làm gì, sẽ ra sao.

Rất nhiều lần, khi Ngài bênh-vực quyền-lợi của người thấp bé/nghèo-hèn, thì tiếng giọng của Ngài lớn mạnh đầy quyền-uy, cho đến đoạn cuối kết thúc bằng cái chết thập-giá, trên đó Ngài lại hát mạnh hơn đến độ tiếng giọng của Ngài ngân-vang cùng khắp xuyên suốt vũ-trụ.

Môn-đồ nghe Ngài hát, lại cứ nghĩ: đây là bài ca họ chưa từng nghe bao giờ hết. Và, khi Ngài về với Cha Ngài, họ cũng bắt đầu hát như thế cho hết mọi người trong/ngoài nhóm/hội của mình. Dù bắt chước Ngài nhiều lần và nhiều cách, môn-đồ Ngài lại cũng không hát được những lời Đức Giêsu khi xưa từng hát. Đôi lúc, môn-đồ Ngài quên cả lời ca cùng sức-lực đến bể giọng. Tuy thế, về sau này, đồ-đệ Ngài vẫn cố hát hết mình. Và dù tiếng giọng của họ có yếu đi nhiều, thì chúng-dân tuy không nghe rõ tiếng các vị hát, vẫn nghĩ rằng đó là bài ca hay nhất họ từng biết.

Bài ca do môn-đệ hát, vẫn lan-tràn từ Giêrusalem sang đất miền khác đến độ: các bậc mẹ cha ở đây đó lại cũng hát vang cho con mình; và cứ thế lan-truyền xuống thế-hệ kế tiếp suốt nhiều thời.

Nhiều lúc, trong cuộc sống của các bậc thánh-hiền lớn/nhỏ, rất nhiều bài ca được hát bằng tiếng giọng tuyệt-vời. Cũng có khi, các vị lại hát sai/hát quấy do bởi lời ca/tiếng nhạc ở trong đó mạnh đến độ nhiều vị sử-dụng sức mạnh của nó để ra đi gây chiến, đè bẹp và khuynh-loát nhiều người khác.

Thành thử, người ta lại cứ bàn-cãi, đấu-tranh, giành quyền sở-hữu bài hát ấy, rồi còn bóp méo và phủ lên nó bằng những tầng dầy do con người thêm-thắt vào. Và, con người dù có làm tất cả mọi sự để được thế, họ vẫn không bắt chụp được chúng-dân khi tính giản-đơn, mỏng dòn và nhẹ êm nơi bài ca cho phép họ hát mãi như thế, suốt mọi ngày.

Một trong những chốn miền mà bài ca đạt tới, là đất miền cùng tận ở phía Nam mang tên Úc-Đại-Lợi. Ban đầu, bài ca này được hát vẫn không đạt, bởi nét đẹp của bản ca bị nhận chìm bên dưới âm thanh mạnh bạo của lằn roi vọt đập lên lưng tội-phạm đến từ Anh-quốc và rồi, do tiếng than khóc của Thổ-dân thấp cổ/bé họng sống ở đây. Duy có bài ca còn cao cả hơn người hát, vẫn được ca và hát trong nhà ở hoặc nguyện-đường làm bằng gỗ, cùng thánh-đường nguy-nga, khi ấy lan rộng sang tận đất miền khô khan và rộng lan.

Cuối cùng, bài hát ấy đã đến với tôi theo cách nhẹ êm, yêu thương xuất từ miệng mẹ cha cùng người thân-thuộc. Giống nhiều triệu người sinh sống trước thời của tôi, cả tôi nữa cũng bị lôi-cuốn/mê hoặc bởi bài ca mà tôi vẫn muốn hát, muốn vui say/nhảy mừng với cả thân mình của tôi.

Bài ca nay không thể dừng lại ở thế-hệ của chúng tôi được nữa rồi. Đổi lại, chúng tôi cũng phải trao ban nét đẹp tuyệt-vời của nó cho những người đến sau tôi. Và khi làm như thế, chúng tôi sẽ luôn nhớ, rằng: bài ca này có hai đặc-trưng/đặc-thù, rất khác-biệt.

Thứ nhất, là: trong khi chúng tôi hát bài ca ấy một cách bết-bát/tệ-hại, thì dù gì đi nữa, ta vẫn hát cho hết khả-năng của mình. Và, người khác cũng sẽ nghe được dù không chỉ mỗi tiếng-giọng yếu-ớt của ta mà thôi, nhưng phía sau ta và ngang qua ta, họ sẽ còn nghe được tiếng giọng mạnh mẽ và chắc-chắn hơn, vì đó là chính tiếng giọng của Ngài, Đức Giêsu Kitô của ta.

Hai nữa, là: ta sẽ luôn hát hoài, hát mãi bài ca ấy cho hay-ho nhiều hơn nữa, mỗi khi ta học hát với nhau –không chỉ một tiếng giọng ở đây đó, mà sẽ cùng hát những lời khác hẳn giai-điệu ta từng hát trước đây, nhưng cùng chung một tiếng, một giọng, thế mới tuyệt. Bởi, rồi ra, toàn-thể thế-giới sẽ thực-sự biết rằng: vẫn còn bài ca đẹp đẽ, tuyệt-vời nhất mà họ chưa từng nghe biết.” (X. Gm Geoffrey Robinson, 2015 Synod, the Crucial Questions: Divorce and Homo-sexuality, ATF Press Australia 2015, tr. 6-8)

Vâng. Ở ngoài đời, cũng có bạn trẻ nọ từng nhận-định về chuyện hát hò ở trong đời, có những lời như sau:

“Cuộc đời, là những tiếng hát mà mỗi người chúng ta sẽ tự hát lên theo cách riêng của mình: có tiếng trong veo, vút cao, có tiếng khàn đục, trầm lắng. Cụ thể hơn, cuộc đời còn là sự song-hành của một chuỗi những buồn/vui, được/mất mà mỗi người sẽ tự hát lên, kể từ lúc bản thân mình bắt đầu nhận thức được về thế giới chung quanh, cho đến khi thấy mình nhẹ tênh như một chiếc lá lìa cành, tìm về đất mẹ. Và bên cạnh ngàn vạn tiếng ca với những âm-sắc bộn-bề buồn/vui, được/mất khác nhau ấy, ai cũng có một khoảng bình-yên ru hồn nương náu, nơi mà “địa đàng còn in dấu chân, bước quên”. (X. Anthony Trần, Du Ký Đi Tây Duc in Altum số 86 Quý 2/2014, www.giadinhanphong.com)

Chính thế. Cả đời ta và đời người, cùng đời của đấng bậc vị vọng là “thày cả” ở thế-giới này cũng như đám dân đen bên dưới rồi ra cũng sẽ hát lên bài ca yêu-thương đồng-hành cạnh bên nhau. Sẽ không còn cảnh trên dưới/trước sau nữa. Bởi, ta và người trước/sau như một, sẽ cùng ca và cùng hát chỉ mỗi bài ca yêu-thương, là tất cả.
Và tất cả, đều sẽ sướng vui với giai-điệu đằm-thắm ấy như bậc thánh-hiền xưa nay từng khẳng-định và nhủ-khuyên.
Để minh-hoạ điều này, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể có ý/lời sau đây:
“Truyện rằng:
Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Roll Royce sang trọng dừng lại. Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói: xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe vì bà ta yếu quá không đi được nữa. Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:
– Từ hai năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gửi cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi, nhưng nay các bác sĩ bảo rằng, tôi không còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đến đây để chào từ biệt và cảm ơn anh đã mua hoa giùm tôi.
Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:
– Thưa bà, tôi lấy làm tiếc rằng bà đã làm công việc ấy!
Người đàn bà cảm thấy như bị ai đó vả vào mặt. Nhưng bà vẫn còn đủ bình tĩnh hỏi lại người thanh niên:
– Tại sao lại lấy làm tiếc về cử chỉ đẹp như thế?
Người thanh niên giải thích:
– Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người chết như con trai bà, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa!
Bị chạm tự ái, người đàn bà liền cao giọng:
– Anh có biết anh đã làm tổn thương tôi không?
Người thanh niên bình tĩnh trả lời:
– Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi chỉ muốn nói với bà rằng có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh nhân trong viện dưỡng lão, các bệnh viện. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta, họ có thể nhìn thấy và ngửi được cánh hoa ấy.
Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trên chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy. Vài tháng sau người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với một dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn, và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng:
– Chú đã có lý, tôi mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó đã làm cho họ được hạnh phúc. Nhung người thực sự hạnh phúc chính là tôi. Cac bác sỹ không biết được bí quyết làm tôi khỏe mạnh lại. Nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống.

Và người kể, nay thêm đôi lời bàn Mao Tôn Cương, đã nói rằng:

“Giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình”. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Thượng đế “cho thì có phúc hơn là nhận lãnh”. Bởi vì, trao ban cho người tức là trao ban cho mình. Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự: “điều tôi tiêu đi là tôi có, điều tôi giữ lại là tôi mất, điều tôi cho đi là tôi được”. Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.

Kể thế rồi, nay mời bạn mời tôi, ta lại sẽ hiên ngang hướng về phía trước, cứ thế ngâm nga đôi lời ca được người nghệ-sĩ viết lên vào thời trước, những hát rằng:

“Trên con đường một mình anh về nơi chốn tha hương.
Cơn đau xa người còn thấm môi hôn nhớ về ai.
Phút chia tay em nói lời tiễn đưa,
Mắt anh buồn nhìn em, thôi đã mất.”
Đêm hôm nào mùa trăng thu chờ em đến bên tôi,
Vùi thân rã rời hình bóng em theo chăn gối này.
Thoang hương xưa thôi cũng đành.
Nói cho nhau lời cuối cùng,
Dấu chân em rời căn gác buồn tênh.
Và ngày em đi, anh đưa môi tìm lên môi son cũ.
Dấu vết ái ân tan theo như lời nói khi lìa nhau,
Bàn tay như cố kéo những ước mơ đã mãi xa rồi.
Nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai.
(Hoàng Trọng Thụy – bđd)

Hát thế rồi, nay mới thấy: cứ “nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai”, nay anh có đồng-hành ở bên trên hay phía trước hết mọi người, rồi ra cũng chẳng là gì hết. Bởi, nếu không cùng cất tiếng hát “Tình thương yêu mến mộ”, hoặc nếu không yêu thương, nhường nhịn và tương kính nhau, thì có giành giựt cho lắm từ danh vọng đến chức quyền đi nữa, tất cả cũng chỉ là phù-vân, chóng hết, rất tầm thường.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng có tâm-tư trầm lắng
Rất như thế.