Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua

 “Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua”

(Dẫn từ thơ Hà Huyền Chi)

Mai Tá lược dịch

Đức Piô XI thiết lập lễ Kitô Vua, khởi đầu năm thánh 1925. Đại lễ bắt nguồn gần nửa thế kỷ trước, hồi thập niên 1880, khi mà nhiều Giám mục ở Châu Âu lo âu thấy rõ phong trào tục-hoá nhà Đạo đã nổi lên. May thay, trào lưu phàm tục này đã không lập lại vào các thế kỷ về sau.

Ưu tư lo lắng của các giám mục thời bấy giờ, là: sao ta lại để cho quyền hành trần thế ngày một lấn lướt, tạo thế “hơn hẳn”, chống trả thần quyền, đến như thế? Đặc biệt hơn, các Giám mục ở Pháp và Ý đã ý thức được tầm quan trọng cần thờ kính Đức Giêsu Kitô Vua-Cha của vũ trụ. Và, lòng sùng kính Đức Kitô-Vua từ đó phát triển mạnh, mãi đến hôm nay.

Năm 1922, Đại Hội Thánh Thể ở Rôma, có 69 vị Hồng-y Giáo-chủ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng hãy cho phép thiết lập đại lễ mừng kính Vua Cha Cao Cả, cho mọi người. Suốt ba năm, đền Vatican tràn ngập những thỉnh nguyện thư, cùng đòi hỏi Giáo hội phải làm việc gì để mừng kính Đức Kitô Vua. Vua trần gian. Vũ trụ. Loài người. Và chung cuộc, thì lễ Đức Kitô Vua đã thành hình và tiếp tục đến ngày hôm nay.

Với Tân Ước, dù Chúa nói đến Vương Quốc Nước Trời, dù Ngài có được tung hô vạn tuế như Vị Vua Cao Cả, Đức Giêsu vẫn quả quyết: Vương quyền của Ngài hoàn toàn khác biệt vương triều của vua chúa trần gian như César, Hêrôđê, hoặc cả đến Đavít, và các Vua Do-thái nữa. Với tín hữu tiên khởi, người người thấm nhuần, ghi tạc tình Vua Tình Yêu chẳng bao giờ thiếu.

Trước năm 324, có rất ít tác phẩm nghệ thuật cũng như văn-bản sử-liệu trình bày Đức Giê-su như vị Vua Cha Cao Cả. Năm đó, hoàng đế Constantine vừa tham gia cộng đoàn dự tòng, đã biến Đạo Chúa thành Đạo uy phong lẫm liệt cho Đế quốc ông trị vì, để tỏ bày lòng yêu thương đức Vua, như một người Cha.

Cũng từ đó, nghệ thuật trong nhà Đạo đã xuất tác các tượng hình, ảnh mẫu diễn tả Đức Giê-su mặc long bào phẩm phục của Vua Chúa, tay cầm quả cầu, tượng trưng cho Vua Trái Đất. Vua Hoàn Cầu.

Thế đứng của Đức Kitô-Vua trông uy nghi, tráng lệ. Và, Đức Maria, Mẹ Ngài cũng trở thành Nữ Vương Thiên Đàng, đầy tình yêu thương của Mẫu Hậu. Điều này cũng dễ hiểu. Chí ít, là vào thời mà con dân Đạo Chúa bị triền miên bách hại, trong nhiều tháng. Từ đó, Đạo Chúa tôn kính Đức Kitô-Vua đã trở thành sức mạnh uy phong, tồn tại cùng với nhân gian, ở trần thế.

Có thể coi đây là thành công lớn của thần quyền, có dân gian. Tuy nhiên, dân gian phàm trần vẫn cần đề cập nhiều đến không gian thần thánh, cao cả hơn. Chốn không gian biểu lộ tính chân phương đích thực của Đức Kitô, Vua Vũ Trụ. Vua oai phong. Hiền từ. Nhân hậu.

Từng thế kỷ và thế kỷ, trôi qua. Cả đế quốc hùng mạnh của Constantine, cũng không tồn tại. Nhưng, các đặc trưng/đặc thù thời vua chúa nơi nhà Đạo, vẫn ở lại mãi với ngôn ngữ và phong cách của Giáo hội, rất hôm nay. Cần thí dụ, ta có thể dẫn chứng khi nói về nơi ăn chốn ở của các vị Giáo hoàng, các Giám mục mà ta có thói quen đặt cho cái tên như “dinh”, như “toà”. Và, phẩm phục đại lễ của các ngài, vẫn mang dáng dấp áo mũ/cân đai rất long trọng. Đắt tiền.

Vấn đề còn lại, là: các tài sản và báu vật lịch sử ấy, đã phần nào đối chọi và mâu thuẫn với điều mà Đức Chúa nói về Ngài. Về phong cách của vị Vua Cha vẫn trị vì cả và thế gian. Nói cho cùng, tính chất vua quan, lãnh chúa của Ngài, đã được ghi vào khuôn khổ của trình thuật Thương khó. Rất thống khổ.

Phúc âm thánh Gio-an hôm nay, được rút từ văn bản nổi tiếng của Tân Ước, trong đó có quả quyết của Chúa về tính Vua-Cha, đối với thần dân, ở cõi thế: “Ngài tự nói điều ấy. Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi”.

Với thế giới hôm nay, số vua quan nữ hoàng dám nói điều đó với dân đen/quần thần, quả rất ít. Tệ hơn, chẳng vua quan nào yêu dân đến độ sẵn sàng hy sinh cho họ. Chết cho họ. Ngược giòng lịch sử, ta hiểu rằng: khi sự thật về tình yêu Vua-Cha hy sinh như thế, đều mang sắc màu của một Thương Khó. Và, đây mới là sự thật về tính chất vua chúa/quan quyền mà trần gian không thể thấy.

Vua quan/lãnh chúa ở trần gian, bao giờ cũng thấy khó có thể hy sinh, cho một ai. Càng khó hơn, khi họ phải thương yêu thần dân của mình đến độ hy sinh mạng sống của riêng mình, cho dân đen. Nhưng với Đức Kitô, qua tư cách Vua-Cha của mình, Ngài giàu lòng thương mến. Chẳng gây thương tổn, cũng chẳng làm hại bất cứ người nào trong dân mình. Là Vua-Cha vũ trụ, Ngài không đầu hàng thoái thác trước thương đau. Nhưng, vẫn rao truyền tình thương, bất chấp khó khăn. Ngài khuyên răn, bảo vệ thần dân của Ngài. Vẫn luôn mãi.

Là Vua Tình Yêu, luôn chấp nhận những thương cùng khó, Đức Kitô-Vua chẳng bao giờ bỏ mặc dân con chốn điêu tàn lẻ loi, đầy chết chóc. Vua Kitô vẫn bộc lộ lòng thủy chung rất mực của Vua Tình yêu. Vẫn một mực thương yêu trung thành với dân Ngài, cho đến chết. Và, lại là cái chết nhục nhã như tên trộm. Thua kém cả dân đen, hèn hạ.

Theo gương Ngài, ta chớ để quyền uy, sức mạnh của trần thế uy hiếp, dẫn dụ. Chớ nên để mắt mình mờ loà trước mọi hào nhoáng chóng qua, của tiền tài vật chất, khó chối từ. Theo gương Ngài, ta chớ dại mà dấn thân đeo đuổi những mồi chài lợi lộc cùng quyền uy của vua quan/thủ lĩnh nơi gian trần, đang lôi cuốn.

Trái lại, hãy ngước mắt lên mà hướng thượng. Hướng về Đức Kitô, vị Vua-Cha nhân hiền hằng thương yêu dân của mình, hơn mọi hoàng gia/lãnh chúa, chốn nợ đời. Bởi, chỉ mình Đức Kitô-Vua mới dám nói về Sự thật, với lòng thương yêu, trìu mến. Ngài không chỉ nói bằng lời, mà còn nói bằng việc chấp nhận bỏ mình để chứng minh cho sự thật Tình yêu, Ngài phú ban.

Đó là Sự thật rất khách quan. Sự thật, đến với mọi người, nơi trần thế. Sự thật, gửi đến với thần dân, Hội thánh. Sự thật về lòng thương yêu không bến bờ. Yêu thương mọi người. Yêu cả dân đen yếu hèn, hạ cấp. Yêu đến độ bỏ thân mình vì người mình yêu mến. Bỏ áo mão cân đai tài sản, triều đình. Bỏ, để chung sống vực dậy thần dân yếu hèn, đối tượng của tình Vua-Cha.

Trong tinh-thần cảm nghiệm về ý-nghĩa của Vua/Cha, ta ngâm lại lời thơ Vua, rằng:

“Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua,

Trẫm muốn tru-di đám ngoại thần.

Cô, dì tỷ, muội chẳng can-ngăn,

Nơi nào em tối niêm phong hết,

Cho hả lòng đây nhớ ái-tình. Hà Huyền Chi- Bỏ Phế Vua)

 Không bỏ phế, nhưng vẫn tôn-trọng và phò Vua Kitô, chủ-tể vũ-trụ. Không bỏ phế, nhưng vẫn tuân-thủ lời khuyên dạy Ngài, chỉ-thị để sống với mọi vua/quan lãnh chúa hết người. Ở đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn   

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Ga 18: 33b-37)

Khi ấy, quan Philatô nói với Đức Giêsu rằng: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Ông Philatô trả lời:”Tôi là người Do-thái sao?Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” Đức Giêsu trả lời:“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi:“Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”

Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt

Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt


Nguyễn Quang Dy

Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử (vì tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?

Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.

Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).

Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.

Hay định kiến và chia rẽ

Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà còn chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!

Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?

Không chịu lắng nghe

Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu” và dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc – Nam, trong – ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.

Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.

Học giả nhiều hơn học thật

Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.

Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây” thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ “thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng, đa số kinh doanh, một số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.

Im lặng trùm chăn

Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).

Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao, ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).

Hội nhập quốc tế chậm

Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông, riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.

Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên.

NQD. 7/7/2015

Những chuyện ngược đời trong nền giáo dục Mỹ

Những chuyện ngược đời trong nền giáo dục Mỹ


Một người Việt Nam lần đầu tiên tìm hiểu nền giáo dục Mỹ chắc chắn ngỡ ngàng và cảm thấy có nhiều chuyện ngược đời. Dưới đây tôi xin kể năm trong số đó.

1.

Chuyện ngược đời đầu tiên là trẻ em Mỹ không cần trường. “Không cần” theo nghĩa đen, chứ không phải một cách nói ví von hoa mỹ về một thực tế khác cũng ngược đời nếu so với giáo dục Việt Nam: nhà trường chỉ là một thành phần, cho dù là một thành phần quan trọng, trong một phức hợp xã hội có nhiệm vụ giáo dục những công dân Mỹ tương lai. Nhà trường không và cũng không thể thay thế được gia đình, cộng đồng sinh hoạt, các đoàn thể, các tổ chức tôn giáo, văn học nghệ thuật, viện bảo tàng, lễ hội, các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động thể thao…”Không cần” ở đây có nghĩa là trẻ em Mỹ có thể học ở nhà, theo chế độ homeschooling (học tại gia).

Chế độ “Học tại nhà” (Home schooling) cho phép cha mẹ tự giáo dục con cái thay vì cho chúng đến trường mà không yêu cầu phải có chứng chỉ gì đặc biệt. Nhiều người Mỹ cho rằng đó là cách để trẻ em có thể phát huy tính tự lập, chủ động trong cả 365 ngày chứ không chỉ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động trong những lúc đến trường. Đó là một nguyên lý giáo dục khác hẳn, dựa trên quan điểm là mọi bậc cha mẹ đều có thể giúp đỡ con cái học tại nhà. Nhiều gia đình không hề sử dụng các tài liệu hướng dẫn hay chương trình giảng dạy chính thức, mà căn cứ và thiên hướng và phong cách cá nhân của trẻ em để áp dụng các phương pháp và nội dung cụ thể. Ngay cả trong trường hợp có sử dụng các tài liệu hướng dẫn, thời gian học tập hàng ngày cũng không kéo dài quá vài tiếng đồng hồ, thời gian còn lại dùng để du lịch, biểu diễn, tham quan, đọc sách, tiến hành các dự án nghiên cứu hay tham gia hoạt động từ thiện. Hiện nay có khoảng 1 triệu gia đình ở Mỹ áp dụng và theo thống kê đang tăng lên khoảng 15% mỗi năm.

2.

Chuyện ngược đời thứ hai là nếu đến trường, trẻ em Mỹ cũng không theo một chương trình thống nhất. Ở Mỹ, chương trình học của các trường phổ thông không chỉ khác nhau tuỳ theo các bang mà còn khác nhau tuỳ theo từng vùng, từng quận, thậm chí tuỳ theo từng trường. Rất nhiều người không biết rằng rất nhiều học sinh Mỹ không hề biết gì về thuyết Darwin. Ở một số địa phương, đặc biệt là tại các bang ở miền Nam, do ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiên Chúa Giáo, giảng dạy thuyết Darwin thậm chí còn bị coi là phi pháp.

Vì không học theo một giáo trình thống nhất, trình độ của học sinh khi tốt nghiệp trung học rất khác nhau. Chính vì lẽ đó, ở năm thứ nhất, các trường đại học Mỹ thường có 3 môn bắt buộc là Học nghĩ, Học nói và Học viết. Trong số 18 sinh viên lớp Học viết (English 101) do tôi phụ trách, có những sinh viên hiểu biết rất rộng và sâu, nhưng cũng có sinh viên thậm chí viết tiếng Anh còn sai chính tả và ngữ pháp. Tuy vậy, họ có một điểm chung là rất tự tin. Đó là kết quả của một triết lý giáo dục mang tính dân chủ. Việc chấm điểm, chẳng hạn. Nếu ở ta chấm điểm là biện pháp nhằm xếp loại học sinh và đánh giá giáo viên, điều cuối cùng dẫn giáo viên đến tình trạng chạy theo thành tích và rất nhiều học sinh đến tâm lý tự ti. Không tự ti sao được khi một đứa trẻ từ lớp 1 đến lớp 12 luôn luôn đội sổ, và điều đó được công bố cho tất cả bạn bè cùng lớp. Ở Mỹ, việc chấm điểm là vấn đề tế nhị, thường là giữ kín. Nó là cơ sở để học sinh tự biết mình và để giáo viên điều chỉnh phương pháp giáo dục với từng học sinh. Nhà trường Mỹ luôn cố gắng để học sinh không cảm thấy thua chị kém em. Ngay cả thi tốt nghiệp phổ thông cũng không có vai trò quan trọng như ở Việt Nam hay ở Châu Âu. Có thể nói, nhà trường ở Mỹ là nhà trường không nhằm mục đích thi cử.

3.

Chuyện ngược đời thứ ba là các trường phổ thông của Mỹ không có sách giáo khoa chung trong cả nước. Việc lựa chọn các loại sách để dạy trong nhà trường thuộc thẩm quyền của cơ quan chuyên trách địa phương và nhà trường, nhưng vai trò cá nhân của giáo viên và ý kiến của phụ huynh cũng rất quan trọng. Chẳng hạn, cuối tháng 9 năm 2003, khi tôi vừa đến Normal, cuốn sách nổi tiếng của nhà văn Hoa Kỳ đoạt giải Nobel John Steinbeck, “Of Mice and Men” (Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu dịch là “Của chuột và người”), cùng hai tác phẩm kinh điển khác là “The Adventures of Huckleberry Finn” (Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn) của Mark Twain và “To Kill a Mockingbird” (Giết chết một con chim Mocking) của Harper Lee, bị cha mẹ học sinh các trường trung học phản đối và đòi đưa ra khỏi chương trình văn học. Hai trường trung học Normal Comunity High School và Normal West High School phải thành lập một chuyên ban, bao gồm hiệu trưởng, một chuyên gia thông tin đại chúng và một giáo viên, để nghiên cứu và trả lời phụ huynh học sinh. Bà Tripp, phụ huynh học sinh và là tác giả một trong hai lá thư khiếu nại, phê phán cuốn sách của John Steinbeck là chứa đựng thái độ kỳ thị chủng tộc, ngôn ngữ thô tục và báng bổ, “không thể hiện các giá trị truyền thống”, “gây phản cảm” đối với con gái bà. Đây không phải là trường hợp cá biệt. Năm 1992, khi một nhóm độc giả ở bang Ohio chỉ ra 108 chỗ tục tĩu, 12 chỗ chứa đựng thái độ kỳ thị chủng tộc và 45 đoạn báng bổ Chúa, cuốn sách này đã bị buộc đưa ra khỏi chương trình của một trường phổ thông địa phương. Ngay sau đó, 150 nhà giáo, sinh viên và phụ huynh học sinh đã tổ chức một cuộc hội thảo ca ngợi giá trị của cuốn sách, cuối cùng nó được đưa trở lại chương trình. Mùa hè năm 2003, Hội đồng giáo dục quận Coffee County (Bang Georgia) cũng phải tiến hành thẩm định vấn đề “ngôn ngữ dung tục” của cuốn sách “Of Mice and Men” khi có khiếu nại của một số phụ huynh học sinh. Đầu năm 2003, Hội đồng nhà trường quận George County ở Lucedale (Bang Mississippi) đã nhất trí loại “Of Mice and Men” cùng hai cuốn sách khác ra khỏi chương trình.

4.

Chuyện ngược đời thứ tư là coi nhà trường như doanh nghiệp. Nếu như ở Việt Nam, cho đến nay thương mại hoá giáo dục vẫn gây tranh cãi và bị nhiều người coi là tồi tệ, thì ở Mỹ nó đang tồn tại như một cái gì đó hết sức tự nhiên.

Khác với Việt Nam, các trường đại học Mỹ nói chung không có thi đầu vào. Quan điểm của họ rất đơn giản: học tập là quyền chính đáng của mọi người, mặc dù xuất phát điểm có thể khác nhau. Nhờ vậy, tất cả những ai có chí đều có thể có cơ hội, ngược lại quốc gia cũng không bỏ phí nhân tài. Vào thập kỷ 1960, số học sinh Mỹ tốt nghiệp phổ thông học tiếp lên đại học chiếm tỷ lệ 60%. Hiện nay, tỷ lệ này có giảm đi, nhưng vẫn đứng đầu thế giới. Nhưng muốn học, phải trả tiền. Khi anh bỏ tiền để mua kiến thức, anh sẽ có ý thức về việc học tập hơn. Còn nếu anh trả tiền mà không học, tức không nhận kiến thức, thì đó cũng là quyền của anh.

Nói vậy, nhưng việc đăng ký học cũng không phải hoàn toàn chỉ có chuyện tiền nong. Một số trường nổi tiếng khá kén chọn sinh viên. Một số bang cũng ưu tiên nhận sinh viên từ bang mình. Còn đối với sinh viên nước ngoài, điểm thi tiếng Anh (TOEFL) đặc biệt quan trọng. Trường Đại học Y khoa là một ngoại lệ. Muốn vào trường, sinh viên phải có bằng tốt nghiệp đại học thuộc một số ngành như sinh hoá, sinh vật…Chương trình kéo dài 4 năm nữa, sau đó phải thực tập từ 2 đến 4 năm. Như vậy, để hành nghề chữa bệnh, cần phải học và thực tập từ 10 – 12 năm!

Việc học tập ở Mỹ rất tốn kém. Mức chi tiêu tối thiểu của một sinh viên ở các trường công, vào khoảng 10 ngàn USD/năm, còn ở các trường tư khoảng 35 ngàn USD. Vì thế, trừ một số người được nhận học bổng hoặc gia đình giàu có, sinh viên Mỹ hầu hết vừa học vừa làm, một số làm việc ngay tại trường.

5.

Chuyện ngược đời thứ năm là bất chấp những chuyện ngược đời vừa kể giáo dục Mỹ vẫn có chất lượng cao nhất thế giới. Bằng chứng là họ kinh doanh giỏi nhất, nghiên cứu khoa học giỏi nhất, đóng phim giỏi nhất, chơi đàn giỏi nhất, hát hay nhất, chơi thể thao giỏi nhất, và ngay cả trong văn học cũng là một trong những nước có nhiều nhà văn đoạt giải Nobel nhất.

Vậy phải chăng chính chúng ta mới là ngược đời?

Ngô Tự Lập (theo báo Diễn Đàn Doanh Nghiệp)

Cám Ơn Hạnh Phúc – Cám Ơn Khổ Đau

Cám Ơn Hạnh Phúc – Cám Ơn Khổ Đau

Tác giả: Nguyễn Bích Thủy
Bài số 3662-18–30152vb3110315

Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2014. Cô sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Cô đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, đang làm việc trong phân xưởng in một nhà máy tại địa phương. Bài viết của cô là chuyện 40 năm sau tháng Tư 1975.

* * *

Chúng ta là những người lữ hành đang đi tìm hạnh phúc ròng rã suốt cả một kiếp người cho bản thân mình, gia đình mình hay cho cộng đồng mình. Cái hạnh phúc mà chúng ta đi tìm lúc được lúc mất, lúc ẩn, lúc hiện khiến đôi khi làm ta chao đảo vì nó quá mong manh và mơ hồ. Lắm lúc ta cảm thấy mệt mỏi vì cố rượt đuổi theo nó, tưởng đã sở hữu được trong tầm tay nhưng rồi bỗng một ngày nó lặng lẽ bỏ ta đi để lại một nổi đau ê chề cả thân xác lẫn tâm hồn.

* Hạnh Phúc

Theo tài liệu cho biết hạnh phúc là trạng thái cảm xúc khi con người được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính nhân bản, chịu tác dụng của lý trí và chỉ có ở con người.

Cảm nhận về hạnh phúc ở mỗi độ tuổi, mỗi giới tính cũng thay đổi theo thời gian. Lúc còn nằm trong nôi hạnh phúc của bé thơ là được bú một bầu sữa đầy, được ôm ấp vỗ về. Ở tuổi đến trường hạnh phúc của các cô cậu học sinh là vào cuối tuần không phải làm homework, được cha mẹ cho đi chơi, gặp bạn bè vui đùa thỏa thích. Đến tuổi biết yêu hạnh phúc của các chàng trai, cô gái là tìm được một người như-trong-mộng. Khi đã lập gia đình hạnh phúc của những người trưởng thành đã thôi bay bỗng, nó bình dị như mỗi buổi chiều vợ chồng, con cái quây quần bên mâm cơm quên hết những nhọc nhằn, tất tả ở bên ngoài. Rồi đến tuổi gần đất xa trời hạnh phúc của những bậc làm ông, làm bà là được sống bên cạnh con cháu cho đến ngày “cưỡi hạc, quy tiên”!

Nhưng lại có những quan niệm cho rằng hạnh phúc là hy sinh, là cho đi không cần nhận về (nếu cần nhận về là đã có toan tính); hạnh phúc là biết bằng lòng với cái mình đang có; hạnh phúc là được sống một cách an nhiên tự tại giữa cuộc đời nhiều va vấp. Còn theo Dan Harris, người sản xuất chương trình “Nightline” và “Good Morning America” trên đài ABC cho biết Thiền là chiếc chìa khóa giúp ông cảm thấy sống hạnh phúc hơn. Một nền minh triết của con người đã khuyên nếu muốn hạnh phúc, hãy tập sống vô ngã để thấy được tánh giác của chơn tâm của mình.

Thế thì hạnh phúc của con người thật muôn màu, muôn vẻ. Nhưng muốn đạt những điều này đôi khi không dễ chút nào. Lại có lắm lúc người ta thường không đi tìm hạnh phúc dưới chân mình mà cứ ngó trên chín tầng mây. Nhiều khi họ không thấy hạnh phúc trong hiện tại mà cứ đau đáu nhớ về hạnh phúc của một thuở nào đã xa! Đó là tất cả tâm trạng của một anh bạn đồng nghiệp người Mỹ của tôi, có lần anh cho biết:

– Lúc còn nhỏ vào những dịp nghỉ hè bọn tôi thường được cha mẹ cho đến nhà của ông bà ở cạnh bờ biển thuộc vùng Atlantic City – New Jersey. Đây là dịp mấy anh chị em họ chúng tôi tha hồ vui chơi với nhau bằng thích! Có thể nói, cho đến bây giờ đó là những ngày tháng tuyệt vời nhất của đời tôi.

Giọng nói của anh như thầm tiếc nuối cả một thời quá khứ mà nơi đó anh đã có biết bao kỷ niệm đẹp. Anh cũng kể rằng sau khi vừa tốt nghiệp Trung Học, anh đã từ giã cha mẹ leo lên tàu lửa làm một chuyến xuôi Nam để thỏa mộng “tang bồng hồ hải”. Anh đã từng đi qua nhiều tiểu bang của nước Mỹ, cuối cùng đã đến đây và phải lòng một nàng thuộc xứ “cao bồi Texas”. Để rồi cho mãi đến hôm nay anh vẫn chưa một lần nào có dịp trở về thăm lại vùng biển tuổi thơ của mình!

Anh đã cưới vợ rồi ly dị do người vợ trước mắc chứng vô sinh! Anh kết hôn lần nữa với một nàng người Mễ kém anh gần 20 tuổi và cô đã cho ra đời ba mụm con. Tuy nhiên, anh cũng không hề cảm thấy hạnh phúc bên người vợ trẻ bởi những chông chênh về tuổi tác, ngôn ngữ và văn hóa. Thêm vào đó, anh luôn mặc cảm có lỗi với vợ cũ khi biết rằng cô đã không chịu “đi bước nữa” để toàn tâm toàn ý lo cho đứa con mà lúc trước họ đã xin ở cô nhi viện. Giờ đây con gái nuôi của hai người đã học thành tài, mẹ con cô có một cuộc sống rất ổn định còn anh thì vẫn cứ lao đao lận đận với một mái gia đình không bao giờ như ý! Có thể anh vẫn còn yêu vợ cũ của mình nhưng anh không mặt mũi nào để quay lại. Nhất là nếu ly dị lần nữa anh sẽ phải trả tiền trợ cấp cho ba đứa con chắc “te tua” lắm!!! Hiểu được tâm trạng của anh, tôi liền bảo:

– James! Cuộc sống của anh cũng quá tuyệt mà. Bây giờ anh không cảm thấy quý nó nhưng biết đâu khi đã 70 hay 80 anh sẽ thấy rằng đây mới chính là thời gian đẹp nhất đời mình. Bởi vì hiện nay anh vẫn còn sức khỏe, vẫn còn đầy đủ một mái gia đình khi con cái vẫn còn ở cạnh.

Anh chỉ nhìn tôi cười buồn:

– Thì cứ hy vọng là vậy!

Ôi có biết bao kẻ như James trên cuộc đời này? Họ sống với vợ (hay chồng) của mình một cách miễn cưỡng, hời hợt nên chỉ cần một chút va chạm nhỏ xẩy ra là có thể đưa đến nhiều xung đột lớn. Nhưng họ vẫn không tài nào “dứt ra” được chỉ vì “đã lỡ” đứng tên chung với nhau cái nhà, cái xe và đàn con! Họ cứ phải đi song đôi với nhau nhưng mỗi người nhìn về một hướng, chả ai buồn nói với ai lời nào như đã hết tình, hết nghĩa với nhau rồi. Họ nghĩ giờ chỉ còn sống vì bổn phận và trách nhiệm để chu toàn cho một mái gia đình!!! Chỉ thế thôi.

Rồi cũng đến một ngày có một người sẽ “đi trước”. Kẻ ở lại giờ mới thấm mùi cô độc. Chẳng còn ai nữa để nghe càm ràm, chẳng còn ai nữa làm cho mình tức tối, bực bội. Một mình. Vâng! Chỉ còn lại một mình mình, đi suốt quãng đời còn lại cũng… một mình! Ôi cái người đã đi bên mình mấy chục năm trời ròng rã, giờ mình mới biết thương, biết quý thì đã quá muộn màn. Nên mới có những câu thơ thành bài hát xiết bao ân tình:

Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi
Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn …

Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi thành mây khói
Cát bụi làm sao mà biết lụy người…
(Thơ Ngô Tịnh Yên, Trần Duy Đức phổ nhạc)

Người ta thường sống bằng kỷ niệm vì có lẽ kỷ niệm bao giờ cũng đẹp. Tôi cũng là một người đã từng sống với hoài niệm để nhớ về những tháng ngày cũ khi còn có đầy đủ một mái gia đình. Có lẻ không riêng gì tôi mà bất cứ ai mới bước chân đến Mỹ đều mang một tâm trạng na ná như nhau. Cái cảm giác thân xác ở bên này mà tâm hồn cứ để ở bên kia, ban ngày ở Mỹ nhưng ban đêm thì cứ mơ về Sàigòn với bao mộng mị, thật vô cùng khổ sở! Phải khó khăn lắm người ta mới có thể tạm quên được quá khứ của mình để làm-lại-từ-đầu tại vùng đất mới. Tôi biết có khá nhiều người đã không thể nào bước qua được chính mình nên họ cứ phải bay đi, bay về giữa hai bờ đại dương xa thăm thẳm để níu kéo quá khứ và vẫy vùng trong hiện tại!

Hạnh phúc luôn đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng liên tục! Một trong những triết lý sống của người Ấn Độ là “Những gì đã qua, cho qua”. Nội dung như sau:

Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình.

Người ta thường ước mơ về hạnh phúc với nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, tiền tài danh vọng, địa vị xã hội đủ đầy. Nhưng thật ra những điều đó hoàn toàn không có giá trị vĩnh hằng và không có gì bảo đảm sẽ tuyệt đối. Chẳng có ai trên đời này mong cầu đau khổ! Nhưng nếu đường đời cứ suôn sẻ, êm đềm không chông gai thử thách thì làm sao rèn cho con người có được tính chịu thương, chịu khó và đức nhẫn nại, hy sinh. Chỉ có đi qua khổ đau người ta mới biết thương yêu những người cùng khổ. Chỉ có đã từng sống trong cảnh đàn áp, bất công thì người ta mới biết hết giá trị của sự tự do, dân chủ. Chỉ khi đã đối diện với chiến tranh, loạn lạc thì người ta mới hiểu hết ý nghĩa của hai chữ hoà bình…

* Và Khổ Đau

Dường như không phải chỉ có người nghèo mới khổ mà “người giàu cũng khóc”! Cái khổ không từ một ai! Từ hàng đế vương cho đến hạng cùng đinh thì mỗi người đều mang một nổi khổ khác nhau, không ai giống ai. Biển khổ thật mênh mông bất tận!

Con người phải đối diện với muôn vàn cái khổ trên cõi đời này. Khổ vì nghèo. Khổ vì bệnh tật. Khổ vì dốt nát. Khổ vì chồng (vợ) con. Khổ vì không con. Khổ vì đông con. Khổ vì thiên tai, đói kém, mất mùa. Khổ vì bị áp bức, bóc lột. Khổ vì đắm chìm trong dục lạc, cờ bạc, rượu chè. Khổ vì côi cút không cha, không mẹ, không anh em. Khổ vì nồi da xáo thịt. Khổ vì nước mất nhà tan. Khổ vì bom rơi đạn lạc. Khổ vì gia đình không hạnh phúc, con cái hư hỏng. Khổ vì tuổi già bệnh tật, neo đơn, nghèo túng… Lại thêm có cái khổ vì yêu mà phải chia lìa. Khổ vì ghét mà phải sống chung. Khổ vì mong cầu mà chẳng được. Khổ vì hy vọng bất thành. Khổ vì tán gia bại sản. Khổ vì nợ nần chồng chất. Có lắm người khổ vì quên, do bệnh lú lẫn của tuổi già nhưng lại cũng có người khổ vì nhớ! Mà càng già người ta càng nhớ nhiều, nhớ dai. Thế nên đã khổ càng thêm khổ!!!

Có những nổi khổ vì quên
Có những nổi đau vì nhớ
Có những điều cố quên vẫn nhớ
Có những điều cố nhớ lại quên
Khổ đau chất chồng bởi nhớ và quên (nbt)

Ôi! Còn biết bao nhiêu cái khổ khác trên đời này nữa, nên mới có câu: Hữu thân hữu khổ! Ngẫm chẳng sai chút nào! Với muôn vàn đau khổ vây quanh con người phải làm thế nào để hết khổ? Chính sự có mặt của Tôn giáo đã gian rộng đôi tay để cứu khổ cho muôn loài. Có khá nhiều tôn giáo đang hiện diện trên thế giới này và mỗi tôn giáo thường chiếm lĩnh một vùng lãnh thổ riêng biệt trên bình diện toàn cầu. Theo thống kê có bốn tôn giáo lớn trên hành tinh theo thứ tự sau:

– Kitô giáo: 2.1 tỷ người

– Hồi giáo: 1.5 tỷ người

– Ấn Độ giáo: 900 triệu

– Phật giáo: 376 triệu người

Vậy thì tôn giáo nào là tốt nhất. Kitô giáo ư? Hay Hồi giáo? Đức Đạt Lai Lạt Ma có lần đã phát biểu:

– Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn. Tôn giáo nào biến anh thành như vậy là tôn giáo tốt nhất.

Đời sống tâm linh là điều gần như không thể thiếu được cho con người. Có lẽ chính vì thế mà ở Mỹ nhà thờ cũng nhiều ngang như trường học?! Tại một đất nước giàu có bậc nhất hành tinh này tưởng như giá trị của con người chỉ được đong đo bằng vật chất; nhưng thật ra cuộc sống càng văn minh, càng tự do thì người ta càng cần có một đức tin mạnh mẻ để nương tựa và quay về.

Tôi từng biết có rất nhiều vị Bác Sĩ đã giã từ thiên chức của mình để dấng thân vào con đường phục vụ nhân sinh qua chiếc áo thụng của các vị Linh Mục hay chiếc áo cà sa của những Nhà Sư… Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên và tự hỏi tại sao họ lại từ bỏ sở học của mình trong khi có biết bao con bệnh đang ngày đêm cần đến bàn tay chăm sóc của họ? Phải đến khi đã hiểu Đạo và hiểu Đời tôi mới biết rằng một người Thầy thuốc có thể chữa được thân bệnh nhưng họ không thể nào chữa lành được tâm bệnh cho con người! Mà trong khi đó có rất nhiều những nổi đau của thân bắt đầu từ tâm. Nếu biết cách chữa cho tâm được yên ổn, bình an thì ắt thân sẽ khỏe và người ta sẽ biết cách sống tốt hơn. Người Bác sĩ có thể trị được bệnh cho tha nhân nhưng đứng trước cái khổ của chính mình đôi khi họ cũng phải đành…. bó tay!

Hơn thế nữa làm thầy thuốc có thể chữa được một số người nhất định trong một phạm vi nhất định nhưng lời nói của một đấng chăn chiên hay của một vị lãnh đạo tinh thần có thể cứu vớt hàng triệu triệu sinh linh ra khỏi vực thẳm của khổ đau! Trong một dịp hết sức tình cờ, cô bạn đồng nghiệp đã có lần hỏi tôi:

– Tôn giáo của you là gì?

Tôi hơi bị bất ngờ. Có lẻ cô ta tò mò vì thấy tôi là dân Châu Á hiếm hoi đang làm trong hãng hay chắc cô nghĩ tôi từ một nước Cộng Sản đến nên theo “vô thần giáo” chắc? Tôi cười và cho cô biết tôn giáo mà mình đang theo đuổi. Ngay lập tức cô liền hỏi tiếp, lần này thì có vẻ hốc búa hơn:

– Thế tôn giáo của you khuyên tin về điều gì?

Suy nghĩ giây lát tôi bèn trả lời thật chậm rãi:

– Tin vào chính mình!!!

Tôi đọc được cả một sự ngạc nhiên gần như sửng sốt từ người đối diện, không đợi cô phải hỏi tiếp, tôi đã giải thích cho rõ thêm:

– Tôn giáo của tôi dạy rằng nếu tôi làm một điều gì tốt tôi sẽ nhận được những điều tốt lành và ngược lại nếu như tôi làm điều gì không tốt tôi sẽ gặt lấy hậu quả khôn lường. Chính tôi sẽ là người tạo nên hạnh phúc và khổ đau cho chính cuộc đời tôi mà không phải bất kỳ ai khác.

Một thoáng nghi ngờ hiện trên gương mặt cô. Tôi lại phải nói cặn kẽ hơn:

– Nếu tôi làm một điều gì đó tốt cho bản thân hay cho cộng đồng, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc và ngược lại nếu như đi cướp của, giết người thì tôi sẽ bị luật pháp trừng phạt. Không ai có thể ngồi tù thay cho tôi cả. Chính tôi là kẻ duy nhất có trách nhiệm với mọi hành vi của mình. Do đó tôi phải biết sống tốt và làm đúng!

Gương mặt của cô đã có phần giãn ra đôi chút. Tôi thêm vào ngay:

– You có định hỏi tôi làm thế nào để biết mình sống tốt và làm đúng không??! Xin trả lời luôn rằng gia đình, trường học và xã hội sẽ dạy chúng ta những điều đó nhưng đặc biệt hơn hết chính tôn giáo sẽ giúp cho chúng ta biết cách sống hướng thượng và thoát khổ!

Lần này cô đã cười thật tươi như đồng ý với tôi. Thật vậy! Tôn giáo chính là ngọn đuốc soi đường và những người hướng dẫn tâm linh đã trao ngọn đuốc đó vào tay chúng ta. Bổn phận của mỗi người chúng ta là cầm lấy nó và phải biết vận dụng trí tuệ sáng suốt của mình để tìm một quang đạo mà bước ra bể trầm luân này.

*

Trong cái khoảnh khắc không đầu không cuối của thời gian, con người đã lần lượt đến rồi đi trong cuộc đời này một cách hết sức chóng vánh. Mới thấy đó rồi mất đó!

Tôi cũng là một con người bình thường với những hạnh phúc và khổ đau rất bình thường đang có mặt hơn năm mươi năm qua trên cuộc đời. Tôi rồi cũng sẽ ra đi như biết bao nhiêu người đã giã từ cõi tạm này. Cũng sẽ chẳng còn ai nhớ đến tôi, một người đã từng gắn bó với thế gian; đã trải qua đủ hết những hỉ, nộ, ái, ố, tham, sân, si để rồi ra đi với hai bàn tay trắng cùng những nghiệp lành dữ khác nhau. Tuyệt nhiên, không ai biết tôi sẽ đi về đâu. Tôi cũng chẳng biết mình sẽ trôi lăn vào chốn nào. Nhưng! Dù sẽ về bất cứ nơi đâu thì tôi vẫn thật mong rằng vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình tôi sẽ nở một nụ cười thật toại nguyện để cám ơn những hạnh phúc, cám ơn cả những khổ đau đã giúp tôi vững vàng bước qua kiếp nhân sinh này.

Nguyễn Bích Thủy

Dân tộc Miến Ðiện đáng kính phục

Dân tộc Miến Ðiện đáng kính phục
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Người Việt Nam phải ngả mũ tỏ lòng kính phục dân tộc Miến Ðiện. Cuộc bỏ phiếu ngày Chủ Nhật vừa qua là một bước lớn trên tiến trình dân chủ hóa. Cả nước Myanmar đáng ca ngợi, từ những người dân nghèo nàn, ít học ở thôn quê cho tới các nhà tranh đấu vận động dân chủ; và cả đến đảng cầm quyền mới bị thất cử. Cả ba, chính quyền, đối lập và dân Miến cùng chung một bước vững chắc trên đường xóa bỏ chế độ độc tài lạc hậu đã kéo dài hơn nửa thế kỷ, qua một cuộc bỏ phiếu trong sạch và tự do, hiếm đạt được ở những nước mới bắt đầu thí nghiệm “luật chơi dân chủ” lần đầu.

Phóng viên báo Washington Post phỏng vấn một ngư dân, ông Sein Kyaw Thee, 45 tuổi. Mỗi ngày ông Thee bán cá được số tiền tương đương với 15 đô la Mỹ. Ông nói ông bỏ phiếu cho đảng NLD vì ông kính trọng bà Suu Kyi. Ông hy vọng bà sẽ đem Miến Ðiện tới tương lai phồn thịnh.

Phóng viên hãng thông tấn Al Jazeera của Qatar, một nước Á Rập, thuật lời ông Kyi Win, một thường dân ở thủ đô Rangoon khi nghe tuyên bố đảng của bà Aung San Suu Kyi thắng 70% số ghế trong Quốc Hội: “Chúng tôi đã chờ suốt 50 năm nay! Kết quả này vượt trên cả điều tôi mong đợi!” Ông Kyi Win, 70 tuổi, đã chờ đợi gì? Ông không chỉ chờ ngày bà Suu Kyi chiến thắng. Năm mươi năm trước thì bà Suu Kyi chưa hoạt động chính trị. Ông Kyi Win và những người dân Miến cùng tuổi đã chờ 50 năm, kể từ năm 1962 khi các tướng lãnh cướp chính quyền rồi công bố một thứ chủ nghĩa xã hội bắt dân chúng phải theo, tới ngày hôm nay được sống tự do dân chủ!

Nhà báo cũng phỏng vấn bà Daw Khin Myo Sett, bà đi bỏ phiếu lần đầu tiên. Trong cuộc bỏ phiếu tự do sau cùng mà đảng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ (NLD) do bà Suu Kyi lãnh đạo toàn thắng trước đây 25 năm thì cô mới 14, chưa đến tuổi được đi bầu. Nhóm quân nhân cầm quyền đã xóa bỏ kết quả cuộc bầu cử, bà Suu Kyi bị quản thúc, và từ đó đảng NLD tẩy chay không tham dự bầu cử, cho tới năm 2011. Cử tri Khin Myo Sett năm nay 39 tuổi, mong mỏi điều gì khi đi bỏ phiếu lần đầu? Bà nói: “Tôi hy vọng chính quyền mới sẽ cải thiện giáo dục và hệ thống y tế để cho cuộc sống của con cháu tôi tốt đẹp hơn thế hệ tôi.”

Ðó là niềm ước vọng của 30 triệu người dân Myanmar khi họ dùng lá phiếu hòa bình lật đổ chế độ độc tài trong ngày Chủ Nhật vừa qua! Mà đó cũng là ước vọng của mọi phụ nữ ở khắp Á Châu, đặc biệt ở Việt Nam: cải thiện giáo dục và y tế, vì thế hệ tương lai!

Hơn hai phần ba dân Myanmar sống ở thôn quê, kiếm ăn bằng vườn ruộng và sông hồ, nhiều nơi lợi tức dưới hai đô la một ngày. Phần lớn họ không biết chữ, thua xa nông dân và ngư dân Việt Nam. Phòng bỏ phiếu phải niêm yết những bảng chỉ dẫn bằng hình ảnh cho cử tri biết cách thi hành quyền công dân. Nhưng 80% các cử tri đã đi bày tỏ ý kiến của họ qua lá phiếu, trừ hơn một triệu người thiểu số Rohingya theo Hồi Giáo bị coi không phải là công dân. So với dân Việt Nam, các cử tri Miến Ðiện không phải là những người hiểu biết về chính trị nhiều lắm, họ cũng chưa có kinh nghiệm sống dân chủ bao giờ. Nhưng rõ ràng họ biết một điều: Phải thay đổi chính trị thì đất nước mới tiến bộ! Phải chấm dứt một chế độ tham nhũng bất công và bất lực, chế độ độc tài đã kìm hãm dân trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu hơn nửa thế kỷ.

Dân Myanmar may mắn vì những người cầm quyền còn theo luân lý cổ truyền, các tướng lãnh cai trị chuyên chế với các chính sách ngu dốt nhưng vẫn biết tôn trọng các quy tắc đạo lý do tổ tiên để lại chứ không thờ phụng một chủ nghĩa ngoại lai hủy diệt tôn giáo và gia đình. Các ông tướng trong đảng cầm quyền đã nghĩ lại, biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái và cá nhân. Cho nên năm 2011, các tướng lãnh đã quyết định thay đổi hệ thống chính trị, dù biết họ sẽ mất những quyền hành, lợi lộc mà họ đã từng hưởng. Tổng Thống Thein Sein và bà Suu Kyi tin tưởng và hợp tác với nhau cùng hướng dẫn nước Myanmar trên đường dân chủ hóa.

Chính quyền và quân đội sẵn sàng tôn trọng kết quả cuộc bỏ phiếu vừa qua. Kết quả bầu cử công bố trên màn ảnh truyền hình cho toàn dân coi. Ngay tại thủ đô Naypyidaw do các ông tướng mới lập ra đảng NLD cũng thắng thế mặc dù đa số dân ở đó là gia đình các công chức và quân đội, thân chính quyền. Kết quả bất ngờ này chứng tỏ công việc bỏ phiếu và kiểm phiếu hoàn toàn trong sạch. Cả tờ báo của đảng cầm quyền cũng viết bài ca ngợi, gọi cuộc bỏ phiếu vừa qua là “Rạng đông mở đầu một thời kỳ lịch sử mới!” Ông Shwe Mann, chủ tịch đảng Liên Minh Ðoàn Kết và Phát Triển, USDP, đang nắm quyền, cũng là chủ tịch Quốc Hội đương nhiệm, gọi điện thoại chúc mừng đối thủ U Than Nyunt thuộc đảng NLD để chấp nhận thất cử. Gần đây ông còn có nhiều hy vọng sẽ lên làm tổng thống, nếu thỏa hiệp được với đảng NLD.

Bà Aung San Suu Kyi và đảng NLD chiến thắng, Nhưng cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ của họ, và của dân tộc Myanmar, chưa chấm dứt. Trong những ngày sắp tới, Liên Minh NLD và bà Suu Kyi sẽ tiếp tục đấu tranh, nhưng phải chấp nhận “giao đấu theo luật chơi,” mặc dù luật chơi chưa hoàn toàn dân chủ như họ mong muốn. Ðây cũng là một hiện tượng tự nhiên, vì thực ra dân chủ tự do là một cuộc vận động liên tục không biết bao giờ chấm dứt, vì xã hội loài người thay đổi và không một chế độ dân chủ nào có thể coi là đã hoàn hảo.

Một vết đen trong cuộc bỏ phiếu vừa qua là 1,300,000 người không được coi là công dân, vì họ thuộc sắc dân Rohingya và theo Hồi Giáo, đã từ bán đảo Ấn Ðộ chạy qua sống ở Miến Ðiện. Ðảng NLD cũng chưa dám lên tiếng bênh vực cho những người Rohingya bởi vì không dám chống lại đầu óc kỳ thị của những người không hiểu biết. Ðây là một điểm khiến dư luận quốc tế chỉ trích người dân Miến và đảng NLD cũng như bà Suu Ky. Nhưng họ đành phải chịu, không thể làm gì hơn được, vì cần phải nhiều thời gian mới có thể thay đổi dân trí.

Các đại biểu Quốc Hội thuộc đảng NLD và bà Suu Kyi còn phải làm việc trong khuôn khổ một bản Hiến Pháp do chế độ quân phiệt soạn ra. Chỉ có một cách xóa bỏ óc kỳ thị nhanh chóng là ghi thêm một tu chính án vào Hiến Pháp, xác định quyền bình đẳng giữa các chủng tộc, tôn giáo; đồng thời Quốc Hội phải làm lại luật về quyền nhập tịch của các di dân. Cả hai điều này sẽ còn bị trở ngại vì dù thắng 70% số phiếu, đảng NLD chưa nắm được toàn quyền hành động.

Trước hết, trong cuộc bỏ phiếu ở Quốc Hội vào Tháng Ba năm tới đảng NLD không thể bầu bà Aung San Suu Kyi lên làm tổng thống. Vì bản Hiến Pháp hiện hành cấm những người có vợ, hay chồng, và con quốc tịch nước khác được ứng cử tổng thống. Bọn quân phiệt trước đây đã ghi điều này vào Hiến Pháp chỉ cố để ngăn cản bà Suu Kyi, vì chồng con bà đều quốc tịch Anh. Ðảng NLD cũng không thể bỏ phiếu thay đổi Hiến Pháp, vì muốn tu chính Hiến Pháp cần hội đủ hơn 75% số đại biểu trong Quốc Hội. Hiến Pháp hiện hành lại dành sẵn 25% số ghế cho quân đội, nghĩa là do các tướng lãnh chọn. Do đó, nếu khối đại biểu quân nhân đó không chịu thì không thể nào sửa Hiến Pháp.

Do đó, đảng NLD phải đưa ra mọt ứng cử viên tổng thống khác bà Suu Kyi. Trong năm qua họ đã điều đình với phe quân nhân tìm một người được họ chấp nhận để bầu làm tổng thống, có thể là ông Thein Sein, hoặc ông Shwe Mann, nếu phe quân nhân đồng ý sẽ tu chính Hiến Pháp. Cuối cùng họ không đồng ý. Ðảng LND cũng có thể đưa ra một tướng lãnh khác, như cựu tổng tư lệnh, Tướng Tin Oo, một người vẫn ủng hộ bà Suu Kyi; nhưng ông Tin Oo đã 88 tuổi.

Dù sang năm ai sẽ lên làm tổng thống thì cũng không thay đổi được bản Hiến Pháp, trong đó các chức vụ bộ trưởng quốc phòng, nội an và an ninh biên giới phải do ông tướng tổng tư lệnh chọn! Muốn sửa đổi điều này, cũng cần trên 75% số phiếu trong Quốc Hội!

Bà Suu Kyi và đảng NLD cũng sẽ phải làm việc trong khuôn khổ chật hẹp của bản Hiến Pháp; chờ đến ngày có cơ hội thay đổi Hiến Pháp. Dù chiếm đa số, đảng NLD cũng còn phải hợp tác với các đảng chính trị nhỏ, tổng cộng gần 90 đảng, rất nhiều đảng chỉ đại diện cho các nhóm thiểu số ở địa phương.

Tóm lại, dù thắng lớn trong cuộc bầu cử ngày Chủ Nhật, Aung San Suu Kyi sẽ còn phải hoạt động trong khuôn khổ một Hiến Pháp do chế độ cũ soạn ra.
Bà sẽ phải tôn trọng Hiến Pháp đó cho tới khi có thể thay đổi. Ðảng NLD quyết định tham dự cuộc bầu cử vừa qua cho thấy họ và bà Suu Kyi tin tưởng hai điều. Thứ nhất, cuộc bỏ phiếu sẽ diễn ra trong sạch, thẳng thắn, phe quân nhân không tìm cách gian lận. Thứ hai, dân chúng Miến Ðiện muốn thay đổi chế độ. Cả hai đều diễn ra như họ mong đợi.

Bây giờ, đảng NLD phải đóng vai trò mới, trở thành một đảng cầm quyền, dù quyền hành còn bị hạn chế. Họ không thể dành hết thời giờ cho việc tranh đấu đòi sửa Hiến Pháp. Dân bầu họ vào Quốc Hội để lo cho cả 30 triệu người, chứ không phải chỉ lo cho một số chính trị gia. Khi chấp nhận tham gia tranh cử, họ cũng chấp nhận các luật chơi, theo đúng luật chơi, chờ tới ngày có thể sửa luật chơi cho tiến bộ hơn. Dân chủ hóa là một con đường rất dài, tiến từng bước một, được một bước rồi lại tính thêm tiến thêm các bước khác.

Trong mấy năm tới đảng NLD sẽ phải chứng tỏ khả năng cai trị. Phải đưa ra những đạo luật thay đổi cuộc sống của người dân, cải thiện giáo dục, y tế, phát triển kinh tế, bảo vệ công bằng xã hội. Cầm quyền là một thử thách lớn, còn khó hơn khi đóng vai đối lập tranh đấu cho dân chủ tự do. Tranh đấu nhằm cổ động nâng Dân Khí lên cao. Qua những cuộc bầu cử vừa qua, dân tộc Miến Ðiện cho thấy Dân Khí đã rất cao. Dân tộc đang phục sinh. Bây giờ có quyền bính trong tay, đảng NLD còn phải lo nâng cao Dân Trí và phục vụ Dân Sinh nữa. Người Việt Nam nhìn tấm gương Miến Ðiện để tính sao cho dân tộc mình có thể cùng tiến bước được như họ.

Nhà Nước Tận Thu & Nhân Dân Tận Diệt

Nhà Nước Tận Thu & Nhân Dân Tận Diệt

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải chịu đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương.

Võ Thị Hảo

Mai tôi ra đi chắc Cambodia mưa
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau ..

Tui cũng thơ thẩn vài câu cho ông Nguyên Sa vui lòng (nơi chín suối) chớ chuyến này “xa nhau”  luôn cũng được, cũng không có gì đáng tiếc. Sau hai mùa nắng (như đổ lửa) và hai mùa mưa (như thác đổ) tui đã ớn cái xứ Chùa Tháp này tới tận ngón chân út của mình rồi.

Từ phòng đợi của phi trường Pochentong, nhìn Nam Vang ảm đạm trong bầu trời xám xịt (nói thiệt) tôi cũng cảm thấy có hơi ái ngại nhưng tiếc thương hay vương vấn thì không. Nhất định là không.

  • Adieu Phnom Penh!

Tôi vừa thầm thì lời từ giã xong thì một cậu nhỏ bán báo (bất ngờ) xuất hiện, miệng mồm liếng thoắng:

  • The Cambodia Daily! The Cambodia Daily! The Cambodia Daily!

Còn báo chí mẹ rượt gì vào giây phút giã từ này nữa, cha nội?  Nói “vĩnh biệt” rồi là kể như hết chuyện. Từ nay, đường ai nấy đi; tiền ai nấy sài; hồn ai nấy giữ. Bận lòng chi nữa lúc chia phôi ?

Đã định lắc đầu nhưng cái tựa bản tin nơi trang nhất (“Hun Sen Announces Broad Cuts of Petty Taxes”) khiến tôi đổi ý:

“The country’s lower class will receive a series of tax breaks starting in 2016, Prime Minister Hun Sen announced Thursday, with tariffs on motorbikes, tuk-tuks and farm machinery to be waived, along with fees at stalls in state-owned markets. “From next year onward, the road tax for motorbikes, tuk-tuks and agricultural machinery such as tractors, tillers and boats will no longer be charged,” he said. “It will be cut off.”

“Từ năm tới, xe gắn máy, xe tuk-tuk, xe máy cầy, ghe thuyền sẽ không phải chịu thuế nữa,” ổng nói vậy đó. “Sẽ bỏ luôn.”

Trời, sao cái thằng cha Thủ Tướng Hunsen này bảnh dữ vậy cà? Tôi chưa bao giờ nghe ông Phạm Văn Đồng, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải “tuyên bố” một câu ngon lành (bằng một phần ngàn) cỡ đó. Và qua tới “trào” ông Nguyễn Tấn Dũng thì chuyện thuế phí khiến cho cả nước đều muốn “trào máu họng” luôn:

          – NLĐ: Phí chồng phí.

          – VOV: Ra ngõ gặp trạm thu phí.

          – MTG: Kỷ lục khó phá: Gần 10 cây số có 5 trạm thu phí.

          – VOVGT: Bức xúc thu phí, tài xế dàn xe chặn huyết mạch Tây Bắc.

          – TTO: Lệ phí đăng ký mới ôtô tại TP.HCM tăng lên 11 triệu đồng/xe, gấp 5,5 lần so với trước.

          – BVSC: Vận tải biển – Đang khó khăn lại còn tăng phí.

          – TTO: Hầm chưa xong đã thu phí: hàng triệu lượt xe khi đi qua đèo Cả phải chấp nhận đóng một khoản phí   đường bộ hết sức vô lý khi hầm đường bộ đèo Cả chưa đưa vào khai thác.

          – BAB: Tăng phí công chứng các loại hợp đồng.

          – ĐSPL: Hà Nội tăng phí trông giữ xe đạp, xe máy, ô tô bắt đầu từ tháng 9.

          – VOV: Tăng phí tham quan các di tích lịch sử cố đô Huế.

          – V.J.T : Phí tham quan Vịnh Hạ Long sắp tăng gấp đôi.

Riêng chuyện “tăng phí tham quan” khiến tôi nhớ đến sự phẫn nộ của dân bản địa, ở khu du lịch Đambri. Ông K’Vếu, một người K’Ho gần 70 tuổi, đến từ huyện Bảo Lâm trút bầu tâm sự:

Ngọn thác Đambri hùng vĩ này đã ngàn đời nay thuộc về tổ tiên chúng tôi, thuộc về cha ông chúng tôi, thuộc về chúng tôi. Vùng đất Đambri xinh đẹp này đã ngàn đời nay là của chung các tộc người K’Ho, Châu Mạ. Trước đây, chúng tôi tự do vào ra Đambri, tự do hẹn hò ở Đambri, tự do tổ chức các ngày lễ ở đây, tự do đốt lửa rồi nhảy múa ca hát và uống rượu cần ở đây….

Thật đau xót và cay đắng. Họ đột ngột xuất hiện, và xây dựng lên ở Đambri này một khu du lịch mà không hỏi chúng tôi lấy một tiếng, không xin phép tổ tiên chúng tôi, ông cha chúng tôi và dĩ nhiên là cả chúng tôi nữa. Giờ đây, chúng tôi chỉ là những vị khách xa lạ trên mảnh đất đã từng rất thân quen và gắn bó với chúng tôi. Và, buồn đau thay, chúng tôi phải mua vé để chiêm ngưỡng và tận hưởng những vẻ đẹp đã từng thuộc về chúng tôi. Chúng tôi mất và họ được. Mất mát của chúng tôi quá lớn... (“Nỗi Buồn Đambri” – Tâm Don).

Tác giả bài báo thượng dẫn cũng cho độc giả biết thêm đôi chút kinh nghiệm của ông, về chuyện thu phí, khi đi du lịch ở nước ngoài:

Quần thể di sản văn hóa của nhân loại Angkor ở tỉnh Seam Reap, Cambodia là một quần thể di tích có một không hai trên thế giới. Chính quyền vương quốc Cambodia đã giao quyền bảo quản và khai thác quần thể di sản này cho một công ty tư nhân có ông chủ là một người Cambodia gốc Việt.

Vé vào tham quan quần thể di sản này rất cao. Nhưng điều lạ lùng là, trước cổng mua vé luôn có tấm bảng có dòng chữ: MIỄN PHÍ CHO NGƯỜI CAMBODIA. Người hướng dẫn viên du lịch người Cambodia gốc Việt giải thích cho những du khách Việt Nam: Miễn phí vé cho người Cambodia là một điều hoàn toàn đúng, hoàn toàn hợp tình thấu lý. Quần thể di sản Angkor là di sản của đất nước Cambodia, là thành tựu chung của người Cambodia...

Những người dân Châu Mạ, K’Ho – hy vọng – sẽ bớt “buồn đau” phần nào nếu biết rằng chuyện “tận thu” không chỉ xẩy ra ở Đambri. Đây là chủ trương xuyên suốt của Nhà Nước từ tuốt miền ngược xuống đến miền xuôi, không sót một nơi nào.

Báo Người Lao Động, số ra ngày 11 tháng 8 năm 2015, kêu Trời: “Đừng ‘siết’ nữa, dân khổ lắm rồi! Dự thảo với hơn 1.000 loại phí và lệ phí về nông nghiệp vừa được trình lấy ý kiến của Quốc hội làm cho bất cứ ai cũng phải giật mình. Nếu cứ mạnh tay thu phí như thế này thì người dân sẽ kiệt quệ và chẳng mấy lúc chẳng còn gì để thu.”

Ảnh: Tuổi Trẻ

Theo nguyên văn lời của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì chế độ hiện hành đã chuyển hướng từ “tận thu” sang “tận diệt.” Cách nói của bà khiến tôi liên tưởng đến chhuyện bắt cá (bằng điện) rất phổ biến hiện nay của người dân Việt. Họ kích điện bằng tay trong những cánh đồng hoặc sông rạch nhỏ, hay bằng ghe có hai gọng lưới  trên những dòng sông lớn.

Ghe dùng xung điện để bắt cá trên sông Sài Gòn. Ảnh & chú thích: Tuổi Trẻ

Dù giữa Biển Hồ hay trong những sông rạch lớn/nhỏ đan xen khắp xứ, tôi không hề thấy kiểu bắt cá “tân kỳ” như thế ở đất Chùa Tháp. Người Khmer không kiếm sống bằng cách tận diệt nguồn cá, và hủy hoại môi sinh. Chính phủ ở đất nước này cũng biết khoan sức dân nên không chủ trương tận thu thuế má.

Ngày 23 tháng 10 vừa qua, Hunsen đã tuyên bố cắt những khoản thuế lặt vặt đánh vào xe gắn máy, xe tuk-tuk, xe máy cầy, ghe thuyền…

Ở Cambodia, ít nhiều, dân chúng (cũng như những kẻ đang nắm quyền) vẫn còn đặt niềm tin vào tương lai của chế độ và đất nước. Niềm tin này, rõ ràng, không có ở  Việt Nam.

Cách đây chưa lâu, tôi nghe nhà báo Huy Đức bầy tỏ nỗi băn khoăn: “Bao giờ bằng được Campuchia?” Câu hỏi của ông e sẽ không có lời giải đáp vì dân Việt không chung hướng đi với toàn thể nhân loại.

Việt Nam hiện có khuynh hướng bước lùi. Giới lãnh đạo đang hối hả vơ vét hay ra sức tận thu, và dân chúng thì cố sức tận diệt (bất chấp sự hủy hoại môi sinh) để đáp ứng nhu cầu bức thíết cho cuộc sống hàng ngày.

Tình trạng đất nước, tuy thế, vẫn chưa lấy gì đáng lo cho lắm – theo ý kiến của TS Vũ Minh Khương:

“Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.”

“Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quý giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày…”

Tôi thực sự tán thưởng sự lạc quan của T/S Vũ Minh Khương, dù tự thâm tâm vẫn lo ngại rằng người Việt khó mà “sống xênh xang được được 20-30 năm nữa” – nếu vẫn tiếp tục phải chịu đựng cảnh một cổ ba tròng, và tình trạng tận thu cũng như tận diệt không chấm dứt nay mai.

Chuyện cục gạch của ‘Bác Hồ’

Chuyện cục gạch của ‘Bác Hồ’
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Liên tưởng là nhân sự việc, hiện tượng nào đó mà nghĩ tới sự việc, hiện tượng khác có liên quan, có khi tương đồng nhưng có khi tương phản. Mấy hôm nay trời California trở lạnh, tôi nghĩ đến những ngày tuyết giá ở miền Đông, nơi mà tôi đã sống một thời gian mấy năm, nhưng đồng thời tôi cũng nghĩ đến một cái gì nóng và ấm. Thì ra tôi đang nhớ đến chuyện cục gạch của “Bác Hồ” mà tôi đã được nghe qua ở đâu đó.

Chuyện cục gạch này không phải là huyền thoại, nó cũng không là chuyện tiểu thuyết hư cấu, mà chính là chuyện thật của đời “Bác,” do chính “Bác” kể, và chính “Bác” viết thành sách, thì đương nhiên phải là chuyện thật. Tên cuốn sách là: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,” và tác giả là Trần Dân Tiên, không sai vào đâu, đó chính là “Bác.” Khổ nỗi, không ai nói cho bọn trẻ dưới chế độ XHCN biết Trần Dân Tiên “chính mi,” Hồ Chí Minh.

Câu chuyện Trần Dân Tiên viết ở trang 36 về “cục gạch của Bác” như sau:

“Ông trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác. Về mùa Đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét.”

Câu chuyện Trần Dân Tiên viết, có thể xem qua rồi bỏ, nhưng khổ thay các con cháu của “Bác” lại cứ nhặng xị lên, làm như thật, vì cái gì của “Bác” lại không thơm tho, vĩ đại. Không rõ câu chuyện thực hư thế nào, các văn công thi sĩ cứ vung bút ca tụng lên cho có lập trường cái đã, rồi mọi chuyện tính sau.

Chế Lan Viên, chuyên viên nịnh bợ, đã viết một câu thơ chẳng ra thơ:

“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá!”

Tố Hữu không quên “nghề của chàng” nhưng câu cuối xuống “xề” quá vụng:

“Muôn nỗi đời như ảnh trắng đen
Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn
Một hòn gạch nóng nung tâm huyết
Mẩu bánh mì con nuôi chí bền.”

Sách “Bác” ghi rõ ràng là viên gạch, trước khi đi làm “Bác” bỏ vào lò bếp khách sạn, nhưng đời sau, sợ bếp khách sạn không đủ nóng, người ta lại nói “Bác” đem gửi cục gạch ở lò bánh mì. Con cháu đời sau, có người minh chứng rằng một “cục gạch hồng” không thể gói bằng tờ giấy báo đem lên lầu hai nơi “Bác” ở được, tờ báo sẽ cháy và “Bác” sẽ bị phỏng tay. Một cục gạch nếu được đốt nóng cũng không giữ nhiệt được quá một tiếng đồng hồ.

Bác ở nhà số 9 ngõ Compoint từ ngày 14 Tháng Bảy, 1921 đến 14 Tháng Ba, 1923, mãi đến 56 năm sau, hơn nửa thế kỷ, kể cũng lạ, là khi phái đoàn Cộng Sản Bắc Việt đến Paris, tìm đến thăm nơi “Bác” ở, mà tất cả hãy còn nguyên vẹn: “Một chiếc la-va-bô treo tường, có vòi nước chỉ để rửa mặt, ngay cạnh đó là một chiếc tủ quần áo làm bằng gỗ tạp. Sát tường bên trái là một chiếc giường sắt đơn vừa đủ một người nằm. Đầu giường có một chiếc tủ con để sách vở và vài đồ lặt vặt. Phía trên có một ngọn đèn nhỏ vừa đủ để thắp sáng gian buồng…”

Báo Giáo Dục và Đào Tạo còn phịa chuyện: “Ta còn phải học Bác ở tinh thần vượt gian khổ để học tập. Thời gian Bác sống ở Paris, rất cực khổ. Bác thuê phòng trọ nhỏ trong một khách sạn rẻ tiền, mỗi buổi mai nấu cơm trong một cái sanh nhỏ đặt trên ngọn đèn dầu. Cơm ăn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, ăn một nửa còn một nửa dành đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả ngày.”

Ở Paris vào năm 1921, chưa có dân Việt tị nạn Cộng Sản chạy sang đông như dân Little Saigon ngày nay, mà “Bác” đã kiếm ra cá mắm để xơi nửa con, và gạo Ông Địa để nấu cơm, mà nấu cơm trên một ngọn đèn dầu, lòng tôi không thấy chút nào khâm phục “Bác” mà khâm phục người viết báo thối tha nào đã bịa chuyện kinh hoàng đến mức này.

Ông Nguyễn Trường Phú, chuyên viên Bảo Tàng Hồ Chí Minh, còn bạo gan nói rằng “hiện vật viên gạch hồng” cùng với nhiều đồ vật khác mà người thanh niên Nguyễn Ái Quốc sử dụng khi ở ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng, quận 17, thành phố Pa-ri (Pháp) nằm trong bộ sưu tập quý của Bảo Tàng Hồ Chí Minh.” Nhưng sau đó, thấy chuyện vô lý, ông này đã nói lại là viên gạch trưng bày ở đó hiện nay là viên gạch được phục chế trên cơ sở viên gạch đồng thời, đồng loại do ông tổng lãnh sự Pháp tại Sài Gòn tặng viện bảo tàng!

“Năm 1974, chiếc tủ đựng quần áo, tủ con để đầu giường đã được đại sứ quán nước ta tại Pháp tổ chức lực lượng vận chuyển qua Béc-lin (Đức) bằng xe lửa, rồi gửi về nước!” Thật quá rắc rối!

Cũng không hiểu sao với chuyện nhà cửa đắt đỏ ở một thành phố lớn như Paris, mà bà chủ nhà Jammot lại để nguyên đồ đạc trong căn phòng của “anh Nguyễn” hơn nửa thế kỷ, để chờ phái đoàn Việt Cộng đi hội đàm ở Paris đến thăm và đòi mua lại. Hồ Chí Minh sinh năm 1890, hoạt động ở Paris đến năm 1921, tức là lúc ông đã 31 tuổi. Nếu bà cụ Jammot trẻ lắm thì phải trạc hay hơn tuổi “Bác,” như vậy năm 1974, bà đầm này cũng đã 84 tuổi, còn ở nguyên căn nhà ấy, còn minh mẫn để nhớ, kể chuyện vanh vách và dẫn lên tầng 2, nơi “anh Nguyễn” ở. Giá mà Bộ Chính Trị chở được bà này về Hà Nội trưng bày trong viện bảo tàng thì hay biết mấy!

“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” “là cuốn sách kể lại những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ Tịch Hồ Chí Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến những năm đầu trong cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược,” của chính một người viết để đánh bóng thân thế và sự nghiệp của chính mình. Chính “Bác” trong cuốn sách này đã tự tả vẻ “đẹp lão“của mình (vào năm 1946) “Tóc người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng …”

Thế giới từng có chuyện suy tôn lãnh tụ, cũng có văn, thi sĩ đặt thêm bút hiệu để tự ca tụng mình, nhưng quả thật trên đời này, không ai vô liêm sỉ bằng “Bác!”

Trở lại huyền thoại “cục gạch hồng” của “Bác” người ta kể lại một câu chuyện “tếu” như sau:

“Một phái đoàn Hà Nội được thành lập, lên đường đi Paris, quyết tâm cao tìm cục gạch. Đến Pháp, họ tới ngõ làm bánh mì ngày xưa, thăm hỏi, lục lọi nhiều nơi, nhiều ngày, nhưng không ai nghe nói đến cục gạch của ‘Bác.’ Cuối cùng họ gặp một bà đầm đầu tóc bạc, móm mém ở một góc phố. Kiên nhẫn, nhân viên trong phái đoàn lập lại những câu hỏi về cục gạch.

-Các ông nói là các ông đi tìm cục gạch để sưởi ấm những đêm Đông tại nhà trọ, ngõ này của ông Nguyễn?

-Vâng ạ, chúng cháu đang tìm cục gạch đó ạ.

-Thế thì: Cục gạch, mà các ông đang đi tìm chính là… tôi đây!

Đừng tin những gì “Bác” nói và những chuyện chúng ca tụng về “Bác.”

Chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

Người Bắc gọi “bốc phét.”

Người Nam kêu “ba xạo!”

Những nỗi chia lìa

Những nỗi chia lìa
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Làm nghề truyền thông, thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được điện thư của những người không quen biết ở nhiều nơi. Ngoài những chuyện trao đổi ý kiến, khen ngợi hay chê trách, nhiều lúc tôi lâm vào tình trạng khó xử về những lá thư nhờ tôi một vài việc nhỏ, mà tôi không làm được hay chần chờ không biết giải quyết, trả lời ra sao?

(Hình minh họa: Phil Eggman/US Navy)

Những bức thư này mang những hoàn cảnh khá giống nhau: “Tìm cha.” Không phải như những đứa con lai Mỹ được chính phủ Hoa Kỳ mang về quê cha, nhưng không biết cha là ai, tác giả những bức thư mà tôi nhận được biết rất rõ về cha mình, qua lời kể của mẹ. Ngày chiến tranh chấm dứt, các em còn quá nhỏ, bây giờ 40 năm trôi qua, các em đã trưởng thành, có gia đình, nhưng có mẹ mà không có cha, các em có nhu cầu đi tìm lại người cha của mình với những lời gọi buồn thảm:

-“Cha ơi! Bây giờ cha ở đâu?”

– “Ba cháu tên là Nguyễn Văn Ba, cấp bậc trung úy thuộc Tiểu Khu Long An. Tháng Tư, 1975, trong cơn hỗn loạn, ba cháu xuống tàu đi Mỹ, từ ấy đến nay không có tin tức gì về với gia đình. Mẹ cháu đem con về nương náu bên ngoại, nhẫn nhục nuôi con, mong chờ tin cha, nhưng tin cha biền biệt. Nghe nói cha cháu hiện ở California, mong bác rộng lòng nhắn tin, tìm giúp ba cháu. Cháu và gia đình không quên ơn bác.” (Nguyễn Thị Hoài)*

– “Ngày 30 Tháng Tư, 1975, cháu đang còn ở trong bụng mẹ. Ba cháu là lính không quân, di tản trước khi Sài Gòn mất. Từ đó đến nay, mẹ cháu nói không có tin tức gì của ba cháu. Bà ẩn nhẫn sinh và nuôi con, lập gia đình với một người đàn ông khác và sinh ra những đứa con khác cha với cháu. Ông dượng sau này rất yêu thương cháu và rất thông cảm với hoàn cảnh của mẹ con cháu. Cháu lớn lên, hiện nay đã có gia đình và sinh hai con.

Cháu biết chuyện xưa qua lời kể của bà ngoại lúc cháu sắp đi lấy chồng. Mẹ cháu không bao giờ nhắc chuyện cũ, nhưng trong thâm tâm, cháu vẫn tha thiết muốn biết cha cháu là ai, không phải để nhờ cậy gì nhưng, ít ra cho lòng cháu khỏi ray rứt.” (Phan Thị Hoàng Oanh)*

Bức thư kèm theo chi tiết, tên tuổi, trú quán ngày trước của người đàn bà mang thai ở lại và tên của của người cha không bao giờ biết mặt của người con gái gửi thư.

Trong cơn hỗn loạn của Sài Gòn vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi nghe Cộng Quân sắp vào, phản ứng bình thường là ai cũng mong tìm đường ra đi lánh nạn, và không ai nghĩ đến ngày một, ngày hai mình sẽ trở về, không ai có thể hứa hẹn với những người thân yêu ngày tái ngộ là bao lâu. Họ để tất cả dĩ vãng lại sau lưng, tất bật làm lại cuộc đời trên quê hương mới, học hành hay làm lụng vất vả để sống còn. Ngày tháng trôi qua, những bản tin từ quê nhà mỗi ngày mỗi xấu đi, và nỗi sum họp hay trở về hầu như tan biến. Có những người chung thủy, sắt son nhưng cũng có những người yếu đuối, buông xuôi trong dòng đời xô đẩy, và thời gian không dừng lại để chờ đợi ai. Những người bạn của tôi đã có công ăn việc làm, lập gia đình mới, sinh con đẻ cháu, những đứa con ra đời nơi đây đã thành đạt, dưới một mái nhà hạnh phúc.

Tôi nghĩ là họ không bao giờ quên chuyện cũ, nhưng đã không một lần nói ra thì không bao giờ có cơ hội nói lại. Nếu đây hẳn không là một điều tội lỗi thì họ cũng có những giấc ngủ không yên, một nỗi lo sợ ám ảnh trong suốt cuộc đời còn lại, một thứ hạnh phúc mong manh, không an toàn.

Ở trường hợp này, có thể nào tôi đi tìm họ, người sĩ quan hay người lính không quân đã bỏ lại những đứa con hay cái bào thai trong bụng người yêu, để nói với những người này những sự thật mà không bao giờ họ muốn nghe hay sợ hãi nếu phải nghe.

Tôi không sống qua những khoảnh khắc của đời họ, với những định mệnh bất ngờ và lo toan của riêng mỗi người. Tôi cũng không muốn đem lại một thảm họa cho những người bạn này, mà hạnh phúc họ đã vun xới trong vài chục năm qua, bỗng nhiên đổ vỡ.

Nếu bạn là họ, giờ đây bạn phải cư xử như thế nào.

Nếu bạn là người phụ trách phân xử trong hội đồng gia tộc, trong họ hàng hay đang là người phụ trách “Gỡ Rối Tơ Lòng,” “Giải Đáp Tâm Tình,” cho một đại nhật báo có uy tín nhất, hay bạn là bà Tùng Long ngày xưa, hay là quý bà Phillips của Dear Abby để cho tôi xin một lời khuyên, một lời khuyên tốt đẹp của đôi bề, không làm tổn thương hạnh phúc của một ai.

Tôi sẽ nói gì với những đứa con đi tìm cha đã viết thư cho tôi.

Cứ xem như cha cháu không còn nữa. Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, rất nhiều gia đình hy vọng hay tưởng chồng mình đã lên được một con tàu nào đó để ra đi và mỗi ngày họ hy vọng có một tin tức hay một lá thư trở về. Nhưng sự thật, trên con đường vượt thoát, trong bom đạn, họ đã nằm lại trên một mảnh đất quê hương hay một bờ biển nào đó. Đó là trường hợp một quân nhân của Sư Đoàn 1, gia đình tưởng đã lên một con tàu nào đó ở Thuận An để ra đi, nhưng cuối cùng, 30 năm sau, người ta tìm thấy xương cốt của ông trên bãi biển An Dương cùng với đồng đội của mình.

Hay là tôi sẽ nói sự thật, là cha cháu còn sống, nhưng ông đã có một mái ấm gia đình khác, giàu có, thành đạt nhưng có thể không hạnh phúc, nếu mỗi khi ông nghĩ đến mối tình xưa và giọt máu của mình không biết giờ này ra sao, sống chết, phiêu bạt nơi nào? Nếu nói đến một người đang ray rứt khổ đau, thì người đó chính là ông, người cha mà con đang tìm kiếm, chứ không phải đó là mẹ của con hay chính là con.

Rồi ra, khi lớn lên, va chạm với những nghịch cảnh của cuộc đời, thấu hiểu số mệnh, con sẽ hiểu.

Chúng ta lên án ai bây giờ? Một người đàn ông phụ bạc hay là một người đàn bà không có lòng rộng lượng.

Chúng ta lên án chiến tranh, có hàng triệu nạn nhân, trong đó có mẹ, có cha cháu, và hiện nay là cháu.

Ở những đất nước bình an trên thế giới, không bao giờ nghe tiếng đạn bom, ít xảy ra những cuộc đổ vỡ, chia lìa, chết chóc như quê hương của chúng ta. Mang số phận Việt Nam, ở đó, đã có bao nhiêu nấm mồ chôn vội, bao nhiêu vành khăn tang, bao nhiêu nạng chống, bao nhiêu đứa trẻ không cha, và những người quả phụ, mất chồng khi chưa qua tuổi đôi mươi.

Nếu đêm nay cháu không ngủ, thao thức nghĩ đến một người cha không bao giờ biết, không bao giờ gặp, thì người cha ấy chắc cũng không tròn giấc, có khi lòng như lửa đốt, trên chăn êm, nệm ấm mà nghĩ như trên gai nhọn hằng đêm.

Có thể câu chuyện mà cháu nhờ đến tôi, tôi không bao giờ giúp cháu được.

Dù xót xa, tôi nghĩ rồi ra cháu sẽ hiểu, sẽ tha thứ và sẽ quên.

(*) Tên, tuổi, thông tin của những người trong cuộc đã được thay đổi.

Việt Nam không thể khác với Miến Điện

Việt Nam không thể khác với Miến Điện

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Bản đồ Miến Điện và Việt Nam (minh họa)

Bản đồ Miến Điện và Việt Nam (minh họa)

File photo

Miến Điện cuối cùng sau 53 năm đã giành được quyền phổ thông đầu phiếu để bước tới một nền dân chủ mà người dân của họ mơ ước. Còn Việt Nam, với chính phủ hiện tại và điều 4 hiến pháp khẳng định sự cai trị duy nhất của đảng có thể áp dụng bài học Miển Điện được không? Mặc Lâm phỏng vấn GS Tương Lai, nguyên Giám đốc Viện nghiên cứu Xã Hội Việt Nam để biết thêm ý kiến một đảng viên lão thành của Đảng cộng sản Việt Nam trước câu hỏi này. Trước tiên GS Tương Lai cho biết:

Giáo sư Tương Lai:Đây là một tin vui lớn vì Miến Điện rất gần gũi với Việt Nam và bối cảnh của Miến Điện trong thời gian trước đây cũng ở trong một thể chế độc tài, phản dân chủ, mà trong chừng mức nào đó, nó lại còn gay gắt hơn Việt Nam. Thế nhưng, khi mà ông Then Sein có một chuyển đổi khiến người ta dùng từ “một chuyển đổi vĩ đại”.

Vì đấu tranh cho tự do dân chủ đã khó, tự giác “cho không” quyền tự do dân chủ còn khó hơn. Sự thật, trong lịch sử nhân loại thì chưa có nhà độc tài nào “cho không” quyền tự do dân chủ, kể cả khi đã nằm yên trong nấm mồ. Lúc mà ông ta quyết định như vậy thì sức mạnh cũng vẫn còn nằm trong tay ông ấy chứ không phải ông ấy đã bị tước hết trước một cái áp lực nào ( mà đương nhiên là có rồi) nhưng thực ra nếu ông ta vẫn kiên trì chế độ toàn trị phản dân chủ, chế độ quân phiệt thì chắc cũng là khó khăn. Nếu tiến đến dân chủ, bà Aung Shan Suu Kyi cầm quyền được hay là đảng của bà lên được thì có khi máu sẽ chảy thành sông. Tuy vậy, ông Then Sein nhận thức được cái xu thế không thể nào thay đổi và ông ấy cũng nhận thức được áp lực từ phía nhân dân lên chính quyền của ông, lên thể chế phản dân chủ của ông cho nên ông đã có một quyết định mà tôi nghĩ là vĩ đại.

Ông Then Sein thoát ra khỏi vòng kim cô, ra khỏi áp lực của TQ, theo chỗ tôi biết thì đường biên giới của Miến Điện với TQ còn dài hơn gấp hai lần đường biên giới giữa Việt Nam và TQ

Giáo sư Tương Lai

Mặc Lâm: Như chúng ta đã biết, Miến Điện đã rất mạnh mẽ để chặt đứt mối quan hệ lệ thuộc đối với Trung Quốc cho nên ông Then Sein mới có thể giải quyết được những gì mà ông ấy và đồng minh của ông ấy muốn. Tuy nhiên, với Việt Nam thì vừa qua, vấn đề đón Tập Cận Bình đã cho thấy là lãnh đạo Việt Nam không muốn rời bỏ mối quan hệ với TQ. Như vậy thì làm cách nào ạo được biến chuyển trong khi TQ vẫn muốn Việt Nam trong tình trạng như vậy?

Giáo sư Tương Lai: Ông Then Sein thoát ra khỏi vòng kim cô, ra khỏi áp lực của TQ, theo chỗ tôi biết thì đường biên giới của Miến Điện với TQ còn dài hơn gấp hai lần đường biên giới giữa Việt Nam và TQ. Áp lực của TQ do lính đánh thuê TQ nhân danh đảng Cộng sản Miến Điện nằm áp sát vào biên giới đó và vẫn tiếp tục đe dọa bằng vũ lực liên miên trong hàng chục năm. Đến bây giờ, bối cảnh đã thay đổi và áp lực đó bị đẩy lùi.

Không đẩy lùi được cái này, không cắt đứt cái vòi bạch tuộc của TQ thì dù ông Then Sein có muốn cũng không làm được. Trong hàng ngũ lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, tôi biết rằng người ta cũng hiểu rất rõ trong cái tâm thế của người Việt thì theo Tàu là nhục nhã lắm, là tội đồ của lịch sử. Bây giờ ghét ai là cho là “thắng ấy thân Tàu”. Không phải là họ không điều đó đâu mặc dầu là họ bị lừa bịp bằng cái ý thức hệ XHCN; Vì vậy mới có Thành Đô nhục nhã và tai hại.

Cho đến hiện nay càng ngày càng thấy rõ rồi nhưng họ chưa đủ bản lĩnh vì họ còn sợ con “ngáo ộp” Tập Cận Bình, con “ngáo ộp” TQ cho nên không phải là chúng không lung lạc được một số người trong đội hình lãnh đạo Việt Nam đâu. Vì vậy, áp lực đó đang dồn vào trước cái thềm đại hội XII. Hiện nay, cho đến giờ phút này, người ta đang chờ đại hội trung ương XIII và không biết sau hội nghị XIII có còn hội nghị trung ương XIV không? Đại hội XII có họp được không là tùy thuộc vào bản lĩnh của những người lãnh đạo Việt Nam tách ra khỏi cái vòng kim cô, sức trói buộc của Tàu đến đâu.

Mặc Lâm: Thưa giáo sư, ai cũng thấy tập hợp giữa bà Aung Shan Suu Kyi và ông Then Sein đã làm nên lịch sứ cho Miến Điện. Tuy nhiên, muốn có một Then Sein ở Việt Nam mà không có Aung Shan Suu Kyi thì làm sao được, thưa ông?

Giáo sư Tương Lai: Mỗi một nước có một bước đi riêng của mình. Anh nhìn xem quá trình của sự sụp đổ của khối Xô Viết, mở đầu bằng Gobachov đến một anh say rượu là Yelsin, rồi đến anh độc tài Putin. Có ai ngờ được những bước đi như thế đâu. Không ai ngờ cả. Hồi ấy, cách đây đến 20 năm, trên một chuyến xe đi từ Phú Thọ về dừng lại trước cửa tòa báo Nhân Dân, lúc bấy giờ tôi còn nói với ông Đức Lượng là Phó Tổng biên tập và ông Đinh Thế Huynh là cán bộ đi theo ông Đức Lượng, tôi nói “báo Nhân Dân các ngài chửi ông Gorbachyov ít thôi. Rồi đây phải đúc tượng đồng, bia đá cho người ta đó”.

Đòi Việt Nam cũng có một Aung Shan Suu Kyi thì tôi thấy Aung Shan Suu Kyi đã nằm trong 90 triệu người Việt Nam đó! Nằm trong sự phẫn nộ của những người Việt Nam vì chế độ toàn trị này ở Việt Nam đã làm cho đất nước lụn bại, không đi lên được

Giáo sư Tương Lai

Các ông này trợn tròn mắt lên và nói “tại sao anh nói sai về nghị quyết Bộ chính trị?” Tôi nói là rồi đây sẽ được chứng minh, lịch sử sẽ trả lời cho các anh biết. Những cái chuyện mà các anh phân tích đó nó không đúng với xu thế chung đâu. Từ hồi ấy đến nay đã hơn 20 năm. Lịch sử nó đi chậm chạp đến như thế.

Đùng một cái, với sự kiện như Miến Điện thì tôi cho là lịch sử sẽ như bước nhảy thúc đẩy. Vậy thì đòi Việt Nam cũng có một Aung Shan Suu Kyi thì tôi thấy Aung Shan Suu Kyi đã nằm trong 90 triệu người Việt Nam đó! Nằm trong sự phẫn nộ của những người Việt Nam vì chế độ toàn trị này ở Việt Nam đã làm cho đất nước lụn bại, không đi lên được. Đã làm cho đất nước này trở thành một trong những đất nước lạc hậu nhất trong khu vực. Khi đã có một ngòi nổ ở Miến Điện như thế, có một tấm gương của tổng thống Then Sein, có một tấm gương của Aung Shan Suu Kyi thì ở Việt Nam sẽ tạo ra các nhân tố mới. Tất cả những cái đó đều nằm trong nội dung của lòng phẫn nộ và trong qui luật phát triển của lịch sử. Không có gì thay đổi được đâu.

Mặc Lâm: Vâng, một lần nữa xin cảm ơn giáo sư Tương Lai đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn ngày hôm nay.

Tặng Bạn Về Hưu

Tặng Bạn Về Hưu

 Nguyễn Thượng Chánh, DVM

Trong  đời sống của mọi người, đến một lúc nào đó chúng ta cũng phải ngưng làm việc để về hưu. Đây là một giai đoạn mới vô cùng quan trọng trong cuộc đời.. Hai vợ chồng người gõ cũng đã gác kiếm từ quan từ năm 7-8  năm nay rồi.

Tác giả xin chân thành biết ơn các bạn bè đã sốt sắng đóng góp ý kiến, tâm sự về chuyện nghỉ hưu.Có sao nói vậy người ơi.

Ngày nào cũng giống cuối tuần mà thôi…!

Bao năm làm lụng đủ rồi,

Về hưu để thấy… cuộc đời đáng yêu!

Nguyễn Song Thuận (Irvine, Ca)

                                 ***

blank

Nguyễn  Thượng Chánh

“Già vô sự ấy là tiên”

  “Sang đến cái xứ tư bản bị bóc lột hết mức, lê cái thân làm cu ly tới tuổi 65, cái tuổi được cấp carte d’or: nó chính thức được luật pháp xác nhận được quyền nghỉ ngơi, được nhà nước cung cấp một khoản tiền để đủ sống cho có tư cách, không ai dám lên án là mình ăn bám xã hội nữa.

Ai thì không biết chứ kẻ viết bài này, từ khi về hưu sao mà nó sung sướng thế. Này nhé muốn ngủ lúc nào thì ngủ, muốn thức lúc nào thì thức. Đêm bỗng nhiên giật mình thức dậy không ngủ tiếp được nữa, thì giở quyển sách ra xem, thích đọc gì xem nấy, đọc đến khi nào nhíp mắt lại thì khò, chả lo mai đi làm trễ, ông chủ nhăn mặt, chú cai phàn nàn. Đời không gì sướng hơn có hai chữ tự do: không bị ai sai bảo, không đụng chạm với các bạn đồng nghiệp, không phải làm những việc mình không thích mà vì miếng cơm manh áo vẫn buộc phải cày. Không thích thì không làm, đừng nể vì do bạn bè lôi kéo mà vô các tổ chức chính trị, tôn giáo hay vô vị lợi… vô thì dễ ra thì khó, ra thì mất hết tình nghĩa, mất hết bạn bè, mà có bạn lúc già là vô cùng quan trọng, không có nó cuộc đời vô vị lắm.” (Ngưng trích Thái Việt-Hưởng tuổi già)

 Tuy có chuẩn bị tinh thần nhưng cũng vẫn bị shock.

 Ai cũng vậy, làm việc đến một tuổi nào đó thì cần phải nghỉ hưu.

Luật không bắt buộc mình phải nghỉ nhưng thông thường thì thiên hạ nghỉ khi họ được 65 tuổi và để lãnh tiền già (pension du Canada hay old age pension).

Đây là nói trường hợp những người làm việc cho các công ty hay xí nghiệp lớn, làm việc cho chánh phủ hay công chức v.v.

Còn trường hợp tự mình làm chủ thì muốn nghỉ lúc nào thì tự do mình quyết định.

Mặc dù đã có chuẩn bị tư tưởng từ nhiều năm trước nhưng khi bắt đầu ngưng làm việc thật sự, bỏ lại sau lưng tất cả các thói quen cũ để bước vào một nề nếp sinh hoạt hoàn toàn mới, thì mấy tháng đầu vợ chồng người gõ cũng phải chịu nhiều xáo trộn về tinh thần lẫn vật chất.

Phải cần một thời gian đôi ba tháng mới quen và thích ứng được vào với hoàn cảnh mới!

 Nhiều thay đổi trong cuộc sống

 Thời gian nghỉ hưu thường tạo ra nhiều sự thay đổi trong đời sống.

Đó có thể là sự thay đổi chỗ ở và phải hòa mình vào một khung cảnh mới, bởi lý do nầy nên hưu viên phải chịu mất đi một số bạn bè và những mối giao tiếp xã hội của mình từ xưa nay…Họ cũng cần phải có một thời gian để tìm hiểu và thích ứng vào nếp sinh hoạt mới.

Không ít người nghỉ hưu bán nhà để dọn đến những nơi gần con cái.

Có người chọn giải pháp mua condo để ở cho đỡ phải dọn dẹp, và khỏi lo săn sóc nhà cửa cũng như để tiện bề đi du lịch trong thời gian dài.

Có người nhảy ra làm từ thiện hay làm thiện nguyện.

Đi du lịch

Đi du lịch xa là cái mode thường thấy nhất trong mấy năm đầu khi vừa mới nghỉ hưu.

Theo nhiều cụ kinh nghiệm, thì mấy năm đầu lúc vừa mới nghỉ thì thiên hạ có khuynh hướng đi du lịch ào ào.

Từ 75 tuổi trở đi thì họ bắt đầu thấm đòn, sức khỏe yếu đi, thường hay mệt mỏi bất tử, nên sự hăng say du lịch của buổi đầu cũng dần dần giảm theo năm tháng.

Các tours du lịch xa có guide hướng dẫn rất được giới cao niên ưa chuộng vì tiện lợi và khỏe trí.

Bạn bè chí thân hay tâm đầu ý hợp thường hay rủ nhau đi chung cho vui.

Hầu như không ít bà con mình, đặt ưu tiên chuyện về Việt Nam trong chương trình du lịch của họ, cũng có người có ý định quay về chốn xưa ở cho đến ngày cuối đời…

Kế đó là qua Mỹ hoặc qua các nước Âu Châu, trước là đi chơi và sau là ghé thăm bà con hay bạn bè luôn thể.

Có người thì đi tours Trung Quốc, đi hành hương Ấn Độ, v.v.

Người thì đi tours nghỉ mát tại các resort ở Mexico, Cuba, Dominican Republic hay các đảo thuộc vùng Caribbean, v.v… Thường bãi biển ở những vùng nầy rất là lý tưởng, sạch sẽ và có một màu trong như sữa xanh ngút ngàn giống như một bức tranh vĩ đại rất ư là đẹp…

Giá cả có khác nhau và cũng tùy theo mùa. Trung bình, nguyên trọn gói, bao vé máy bay khứ hồi từ Montréal, ăn ở một tuần trong hotel 4 sao của resort lối 1300- 1500$.

Mùa low season, giá có thể còn rẻ đi hơn nhiều.

Có người đi theo tours du thuyền cruise trong một tuần lễ tại vùng biển Caribbean. Ghé qua các đảo như Saint Martin, Sainte Croix, Saint Kitts, Virgin Islands, Grenada…

Có người đi tours vùng Nam Mỹ, Panama hoặc tours vùng Hawaii, tours Alaska xem gấu trắng…

Các tours du thuyền vùng Caribbean, tàu chạy ban đêm cho tới sáng thì cập bến vào một đảo và du khách có thể lên bờ dạo chơi hay đi đây đó và trở lại tàu trước hoàng hôn.

Tours Hawaii, du thuyền Pride Of America (Norvegian  Cruise Line), mỗi thứ bảy trong tuần đều khởi hành từ Honolulu. Ban đêm chạy, sáng cập bến một đảo.Muốn đi chơi đâu thì mua tour trước ở dưới tàu. Tổ chức chu đáo, có guide, xe bus đúng giờ để tàu còn nhổ neo tiếp tục chạy đến đảo khác. Xem cảnh, xem hoa và xem cả núi lửa …Một tuần lễ qua quá nhanh. Sáng thứ bảy tuần sau thì tàu trở lại bến cảng Honolulu. Check out, bus đưa du khách ra thẳng phi trường để kịp lên phi cơ về xứ. Từ Montreal đến Honolulu phải mất 12 giờ bay. Connection Chicago và Lax…

Nên đến Honolulu trước 3 ngày để có đủ thời gian du hí và xem thành phố…

Mấy lúc gần đây du lịch Dubai nằm về phía đông nam của United Arab Emirates (UAE) vùng Trung Đông cũng được một số hưu viên chiếu cố.

Tours du thuyền: lối 80% du khách là người cao tuổi

Có người đi theo các tours du thuyền lâu nhiều tuần bên. Hoa kỳ, Âu Châu, Á Châu hay Trung Đông. Mục đích để thăm viếng được nhiều xứ.

Tại Hoa kỳ, du thuyền  Princess Cruises có tour 29 ngày từ  San Francisco đi Sydney Úc Châu.Du thuyềnSeabourn Grand Voyage  có tour 76 ngày đi từ Los Angeles viếng vùng nam Thái bình dương, Australia, New zealand…

Tại Á châu, du thuyền Princess Cruises ghé qua nhiều nước như Thái Lan, Singapore, Việt Nam, Hong Kong hay Pusan Nam Hàn, v.v.

Princess Asia and Africa Cruises

Tours du thuyền có thể được xem là sang trọng và thích hợp cho lớp tuổi già.

Nhưng có một sự thật là đi đâu lâu ngày lâu tháng, khi trở về tới nhà mình thì vẫn cảm thấy khỏe cách gì đâu…Được nằm ngủ trên cái giường của mình thì không có gì sung sướng và hạnh phúc cho bằng!

 Mỗi ngày dân nghỉ hưu thường hay đi đâu?

Sáng sáng, dân nghỉ hưu thường hay lết đến mấy cái thương xá, tiệm cà phê bình dân ngồi chùm nhum với nhau đấu láo và ngó ông đi qua bà đi lại.

Hẹn nhau ra quán cà phê tâm sự là giải pháp hay nhứt, thích hợp của đám đàn ông. Tha hồ tán dóc, ăn tục nói phét, tha hồ dòm ngó mà khỏi sợ bị mấy bà bắt lỗi sửa lưng cụt hứng.

Tại Quận Cam/Westminster, thương xá Phước Lộc Thọ được xem là nơi hẹn hò, tụ họp của các đồng hương cao niên.

Các bà thường có thú đi la cà, đi tà tà, đi vòng vòng trong thưong xá. Hết tiệm nầy, đến tiệm khác, để rửa mắt windowshopping mà thôi. Vô tiệm, lấy cái nầy, rờ cái kia, ướm lên người, đeo vào cổ, lại xem kiếng, ẹo qua ẹo lại, rồi bỏ món hàng trở lại chỗ cũ cũng thấy sướng rồi.

Rửa mắt là một cá thú của phụ nữ bất luận tuổi tác nhưng không phải là kiểu của bọn nình ông.

Khoa học nói rằng shopping là một cái thú của đàn bà để giúp họ giảm đi stress. Vậy chúng ta nên thông cảm cho mấy bà.

Có bà lại thích đi tà tà hoặc đi vòng vòng trong thương xá để…rửa con mắt và cũng là một cách để thư giãn.

Ông nào có muốn chở vợ thì nên chọn giải pháp ngồi chờ ở phía ngoài cho nó khỏe và cũng tiện để ngó cô đi qua bà đi lại luôn thể, tiện mọi bề cho cả bà lẫn ông!

Có ông bạo hơn cũng như văn minh hơn, muốn tự thưởng mình sau bao năm dài đăng đẳng làm việc vất vả, bằng những chuyến du lịch về Việt Nam trước thăm mồ mả ông bà, sau là nếu có thể giúp người-em-gái-nhỏ nào đó thoát cảnh nghèo đói để đổi đời mà cả hai đều có lợi, vân vân và vân vân. Nội cái đượcngười-em-gái-nhỏ gọi mình bằng anh xưng em ngọt xớt như mía lùi, thấy sướng tê cả người, được trẻ ra ít nhất cũng 30 tuổi rồi.

Ai mà hổng ham thì thề độc đi!

 Nghe nói với số tiền trợ cấp hưu pension hay tiền già 1000$ một tháng bên nầy, nhưng về bển thì tha hồ mà ăn chơi phè phỡn, dư sức…qua cầu gió bay!

 Dân nghỉ hưu thường hay…làm gì?

Phần đông đa số người già nghỉ hưu rất rảnh rỗi.

Tập thể dục thể thao như chạy bộ jogging, đi bộ; tập tài chi dưỡng sinh, khí công, aerobic; đánh cờ tướng hay chơi golf, đánh tennis, đánh ping-pong, cắt cỏ và chờ lệnh bà…

Việc giữ hộ cháu nhỏ trong vòng đôi ba ngày cũng là một niềm vui cho các bậc ông bà.

Một số cụ lo xa, quan tâm đến việc tu hành cũng như việc thiền định để tìm sự an lạc cho tinh thần cũng như để chuẩn bị cho kiếp sau…

Cũng có người thì cảm thấy quá nhàn rỗi…Không biết làm gì trong ngày, hết đứng thì ngồi, ra vô, đi tới đi lui, ngó trước ngó sau, hết ngồi rồi nằm.

Vào phòng nghiền ngẫm internet, chốc chốc lại check email.

Xong ra salon mở ti-vi.

Đọc báo thì đọc hết tờ nọ tới tờ kia, lướt qua tin xe cán chó, đến các mục quảng cáo bán nhà, sang nhà hàng, sang tiệm nails…Kế đến là mục gỡ rối tơ lòng thòng, riêng mục tìm bạn bốn phương thấy nhiều phụ nữ đầy đủ công dung ngôn hạnh mà sao số lại cô đơn hẫm hiu vậy cà, thấy tội nghiệp quá (xạo)!

2226 – (Trên 4 kỳ) – Nữ, miền Nam 59 tuổi, widow, dáng cao, trắng, nhan sắc trên trung bình, kinh tế ổn định, tính vui hiền cởi mở, rất thích du lịch. Muốn tìm bạn Nam đã về hưu, không cờ bạc trai gái, có tính đàn ông biết quan tâm và chia sẽ, vừa là tri âm vừa là tri kỷ trong đời sống và là partner du lịch. Nếu được xin cho số phone hay địa chỉ email trong thư. (HỘP THƯ TÌM BẠN- trong Thời Báo online)

Rồi làm luôn tất cả các tin vui lẫn tin buồn, cáo phó lẫn phân ưu, rồi không biết chừng nào tới phiên…mình đây?

Đôi khi lấy phone gọi đầu nầy đầu nọ, nói chuyện tầm xàm bá láp cho đỡ buồn.

Tình trạng nầy mà kéo dài dám sẽ khiến nhiều cụ dễ bị rơi vào sự buồn chán hay trầm cảm lắm!

Có ông nọ thì khùng hết biết, tối ngày đọc sách báo, xem tv, tìm hứng gõ bài, nói đủ thứ chuyện…trên trời dưới dất không biết chán.

Gặp lại bạn bè

Bạn bè lâu ngày gặp lại vợ chồng tác giả thì thường hay hỏi những câu đại loại như sau:

– Lúc rày nghỉ có khỏe không?  Khỏe chớ!

– Lúc này nghỉ rồi làm gì?  Không có làm gì hết, nghỉ mà!

– Có đi đâu chơi không?  Có khi đi, có khi không!

– Có đi về Việt Nam chưa?  Dzà, chưa có tính lúc nầy!

– Có đi làm thiện nguyện không?  Dạ có, làm từ lâu rồi, giữ cháu đó!

– Có làm công việc gì khác không?  Có chớ, nhiều việc không tên, nhớ hổng hết!

– Nghỉ ở nhà có chán không?  Đâu còn thì giờ dư đâu mà chán!

– Nghỉ ở nhà có thường bị bả đì không?  Anh sao tui vậy mà!

– Nghỉ ở nhà, ổng thường làm cái gì?  Dzà thưa lúc nào? sáng hay tối? cũng giống như mấy ông khác thôi!

– Sao cũng còn trẻ (?) hoặc job thơm (?) mà nghỉ chi cho uổng vậy!  Thôi đi cha nội, bộ muốn xỏ ngọt người ta hả!

Bao nhiêu câu hỏi trên cũng đủ nói lên tâm trạng lo lắng chung của mọi người trước viễn tượng về hưu.

Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, không ai giống ai hết.

Có người phải nghỉ hưu vì hãng đóng cửa, vì bị mất việc, vì vấn đề sức khoẻ hay cũng vì hoàn cảnh bắt buộc, vân vân và vân vân.
Tóm lại, những điểm lo lắng chung của mọi người mà tác giả nhận thấy quan trọng chính là ở ba điểm như sau:

1/ quan hệ giữa vợ chồng

2/ sức khỏe

3/tiền bạc

[IMG]

May 2014

Giai đoạn “tang chế” sau khi nghỉ làm
Ai cũng phải trải qua một giai đoạn buồn chán vì phải thay đổi nếp sinh hoạt thường ngày từ mấy chục năm nay lúc còn đi làm. Thời gian nầy dài hay ngắn tùy theo người.

Các nhà tâm-lý-học gọi đây là giai đoạn “tang chế” (période de deuil), nghĩa là hưu-viên cảm thấy mất mát một cái-gì-đó mà mình hằng quen thuộc trong đời sống.

Trong thời gian nầy, họ rất dễ bị rơi vào tình trạng trầm cảm.

Nếu tình trạng nầy kéo dài thì cần phải đi tham khảo ý kiến của bác sĩ.

Tại sao có người sợ nghỉ hưu?

– Có người đã đủ tuổi về hưu nhưng không muốn nghỉ vì còn quá yêu…công việc hay ghiền việc (workaholic)!

– Có người muốn nghỉ hưu nhưng phải ráng cày vì họ còn phải nuôi con ăn học thêm một vài năm nữa!

– Có người vẫn còn duy trì sự làm việc, nhưng chỉ làm bán thời gian (part time) hoặc chỉ làm một hay hai ngày trong tuần!

– Có người đã nghỉ hưu, nhưng sau đó trở vô xin làm việc lại!

Ngoài ra, cũng còn nhiều lý do phức tạp khác…

“Tui sợ ở nhà hoài sanh bệnh” hoặc

“Tui cũng muốn nghỉ lắm nhưng sợ ở nhà không có gì làm, chán lắm”

Đây là những câu tâm tình mà người gõ thường hay nghe các bạn đàn ông nói.

Phải chăng đó là những lý do thật sự?

Nhưng cũng không hiểu tại sao dân chúng lại phản đối dữ dội khi chính phủ sở tại muốn kéo dài tuổi làm việc ra thêm nữa, thí dụ như bên Pháp?

Còn ở Canada, chấp nhận cho nghỉ hưu hiện nay là 65 tuổi, nhưng sẽ tăng lên 67 tuổi trong vài năm tới.

Cái gì cũng cần phải có sự chuẩn bị hết

Trong các khóa học coaching “chuẩn bị nghỉ hưu” (pre-retirement courses) cho nhân viên nhà nước hoặc cho các công ty, các thuyết trình viên là các nhà tâm-lý-học thường nêu cái vấn nạn nầy lên để chúng ta đừng ngạc nhiên lúc phải ở nhà thường trực với người hôn-phối của mình.

Ai cũng vậy cả! Chạy đâu cho thoát!

Nhưng nếu suy nghĩ cho tận cùng, thì còn đôi bạn cũng vẫn còn thấy mình may mắn và hạnh phúc hơn rất nhiều, phải không các lão ông lão bà?

Theo ý riêng của tác giả, thì cần phải chuẩn bị tư tưởng trước khi nghỉ hưu:
+ cái gì cũng phải có ngày chấm dứt, để bước sang một giai đoạn khác trong cuộc đời;
+ phải ý thức là mình già rồi, cần phải nghỉ ngơi để đi đây đi đó khi còn đầy đủ sức khỏe;
+ bệnh hoạn có thể đến với mình bất cứ lúc nào;

+ nghỉ hưu để vui sống với chồng, với vợ mình mà hình như từ mấy chục năm nay mình không có thể sống cho nhau một cách trọn vẹn được vì sự ràng buộc về sinh kế, về con cái, vân vân;

+ nghỉ hưu để có thể có nhiều thời gian hơn bên cạnh các cháu nội ngoại và để nhìn thấy chúng lớn lên;

+ nghỉ hưu để có thể mỗi sáng tĩnh lặng, bên cạnh tách cà phê nóng, cùng nhau thảnh thơi nghe tiếng chim hót líu lo sau nhà hay cùng ngắm bình minh ló dạng hay nhìn những giọt sương đêm còn lấp lánh đọng trên các tàn cây ngoài mái hiên nhà, hoặc cùng thưởng thức mặt trời toả đủ màu sắc trước khi lặn vào mỗi chiều hoàng hôn, vân vân và vân vân;

+ muốn cho sự nghỉ hưu được tốt đẹp, không nhiều sóng gió thì chúng ta cần phải tạo cho mình một lịch trình sinh hoạt đều đặn, để nó trở thành một nếp quen thuộc (routine) trong cuộc sống và mình phải tuân hành theo bằng mọi giá;

+ đừng bao giờ để bị rơi vào tình trạng quá rảnh rỗi vì sẽ dễ bị đưa đến sự buồn chán;
+ cuối cùng là phải tạo cho mình có một thời khóa biểu…bận rộn (busy).

Mỗi người mỗi cách mỗi kiểu!

Những lý do phải đi làm thêm

Báo Tây có nêu những lý do tại sao một số người vẫn còn muốn tiếp tục đi làm mặc dù họ đã tới tuổi cần hưu trí rồi, hai lý do chính là tại vì:

– ông anh sợ phải ở nhà thường xuyên với bà chị (?)

– kinh tế, tài chánh khó khăn nên cần phải đi làm thêm để kiếm thêm chút đỉnh cho bả vui

Có bạn thì thành thật hơn: “tui ngại ở nhà vì phải chạm mặt thường xuyên với bà xã quá. Sợ gây lộn tối ngày, sợ chiến tranh lạnh quá”.

Vấn đề nầy là một sự thật mà ai cũng phải đành chịu thôi. Chạy đâu cho khỏi!

Nhưng gần đây báo chí Mỹ có nêu một…tin mừng. Không biết có nên tin hay không?

Cãi nhau sống lâu?

Tin mừng cho những cặp vợ chồng khắc khẩu: “Cãi nhau sống lâu”

Cãi nhau thường xuyên để xả bớt xú bắp rất tốt cho sức khỏe tâm thần và sẽ sống rất lâu để mà cãi với nhau cho tới ngày xuống lỗ (?) Hi hi hi!

Spouses who fight live longer!

In the current study, the authors suggest a combination of factors to explain the higher mortality for couples who don’t express their anger. These include “mutual anger suppression, poor communication (of feelings and issues) and poor problem-solving with medical consequences,” they write in the January issue of the Journal of Family Communication.

Nghỉ hưu tạo thêm nhiều căng thẳng trong đời sống vợ chồng

Retirement puts strain on relationships (xem 101 phản hồi từ những cặp vợ chồng Anh lúc họ về hưu)

Instead of celebrating their new found freedom together, eight in 10 discover they don't share any of the same hobbies and interests while one in five bicker about a lack of money.

       Hổng thèm nhìn mặt nhau nữa hả?

Thay vì cùng vui hưởng chung sự tự do, tám trong mười cặp vợ chồng không có cùng chung một thú tiêu khiển giải trí- một trong năm cặp gặp khó khăn về vấn đề tiền bạc- Một trong ba cặp cãi lộn với nhau chết bỏ,  tối ngày về những  chuyện không đâu  lảng nhách, lảng xẹt và 13 % nhìn nhận rằng họ thường làm cho người kia bực mình bực mẩy ngoài sức tưởng tượng…cho đở tức.

“The findings emerged in a study of 660 retired people still in relationships, which also showed many find their old spark has gone after giving up work.

Instead of celebrating their new found freedom together, eight in 10 discover they don’t share any of the same hobbies and interests while one in five bicker about a lack of money.

Four in 10 pensioners polled also admitted they needed to learn how to live with each other again now that the children have left home and they are no longer committed to work.

The study also indicated one third of retirees spend much of their time arguing about silly things with the other half, and 13 per cent admit they “irritate each other beyond belief”.

And a further 29 per cent were surprised to find they didn’t have the same expectations for their ‘golden years’.”

Lúc hai vợ chồng đã nghỉ hưu

Nghỉ hưu cần phải có một thời gian điều chỉnh và thích ứng trong cuộc sống lứa đôi.

Cả vợ lẫn chồng phài tập sống lại với nhau trong bối cảnh hai người chớ không phải của một người.

Theo L’Institut national d’études démographiques INED (Pháp), ly dị ở lớp tuổi 60 đã tăng lên gấp hai từ năm 1985. Nguyên nhân do những khó khăn trong thời gian nghỉ hưu đem đến.

1-Vợ chồng cần cho nhau biết sự mong đợi ở người kia. Hoạch định những sinh hoạt chung nhưng vẫn giữ những sở thích của mình.

2-Nên ý thức rằng người kia cũng cần phải có những giây phút riêng tư (intimité) của họ.

3-Rất quan trọng cần có nhiều thời gian cạnh bên nhau nhưng không nhất thiết là cả hai đều phải làm chung một việc.

4-Lúc nghỉ hưu, vợ chồng đều quá rảnh rỗi. Họ có thể sử dụng thời gian quý báu đó một cách tự chủ (autonome) và khác biệt theo ý thích của họ nhưng đồng thời mỗi người phải biết tôn trọng điều ước muốn của người kia. Đây là cách hữu hiệu đễ ngừa thói quen (routine)  theo năm tháng.

5- Để cho sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn ( làm việc/ nghỉ hưu) được êm ái, vợ và chồng cần phải tập quen sống với sự có mặt thường xuyên của người kia.

Một số phản hồi từ các ông chồng già Tây phương!

1-Cao niên Sam Mathew(ông)

Tôi đã lấy bả được 38 năm nay rồi. Bản chất và tâm tánh tôi thuộc loại tích cực nhưng vợ tôi làm cho tôi quá mõi mệt vì bả là một người tiêu cực và thường hay cằn nhằn tôi không ngớt. Bả quá ham làm việc và bị ám ảnh về sự sạch sẽ một cách thái quá và bệnh hoạn.Thú vui của bả là hay nhắc kể lại hoài những lỗi lầm đã qua của hai vợ chồng. Không ai có thể làm thay đổi được những gì đã xảy ra từ trước. Kể lại các chuyện đớn đau trong quá khứ chẳng khác nào lấy dao cắt vào da thịt mình. Lời nói có một sức mạnh phi thường, chúng có thể làm cho ta khổ sở hay hạnh phúc .

2-Waynet.(ông)

Như vậy, đa số phụ nữ cằn nhằn là để mong sửa đổi người đàn ông? Nhưng không làm được, và bà lãi nhãi ông tới tấp để sau rốt là bà phải ra đi hay ông ta phải đi?.Cằn nhằn thẳng thừng là điều xấu xa tồi tệ chẳng khác gì một sự tra tấn tinh thần .

So mostly Women nag to try and change the Men’s ways? This doesn’t work! So you got fed up of nagging him and he left or you left? nagging is just downright evil and mental torture!

3-Hmania (ông)

Tôi thật sự phải làm gì bây giờ. Luôn luôn là lỗi do tôi. Bất cứ chuyện gì xảy ra, tôi là người bị trách mắng. Tôi không biết phải đối xử  thế nào. Tôi là người rất bình tỉnh và chân thật,nhưng bà ta lại trách cứ tôi bất cứ việc gì. Nếu tôi nói trắng thì bả lại nói đen, nếu tôi nói cộng (+) thì bà ta nói trừ ( -) Vậy tôi phải làm gì bây giờ, Trời ơi?

4-Ben (ông)

Tôi nghĩ rằng việc đàn bà cằn nhằn và la mắng sẽ làm hại người đàn ông tốt. Các bà ơi! tại sao các bà không chịu để người ta được yên thân. Cách hay nhất là phớt lờ không cần quan tâm đếm xỉa gì đến bà ta.

Unfortunately i have come to realise that Nagging women tend to disturb Good men…Ladies why don’t you leave good men alone!!!.The best way to deal with this is to ignore her.

5-Ujagbe (ông)

Sống chung với bà vợ có tật hay nói nhiều làm mình cảm thấy cuộc đời trở nên ngắn ngũi đi. Theo phong tục Nigeria (Phi châu) vợ phải trung thành, hy sinh, biết nghe lời và chung thủy. Ngày nay thì khác đi. Tiếp xúc với văn hóa Tây phương đã làm nhiều bà vợ Phi châu trở nên ương ngạnh và nói nhiều quá. Riêng bà nhà tôi thì rất hỗn hào thường chửi bới tôi mỗi khi có dịp dù rằng chính tôi là người kéo cày nuôi sống cả gia đình.

Life is too short to live it with a nagging wife. In Nigeria (AFRICA), our wives used to be obedient, loyal, devoted and faithful to their husbands. But these days, due to their exposure to western cultures, many are turning to great nag. Mine insults me at the slightest opportunity, even when I’m the bread winner

6-Jane (phụ nữ)

Sau đây là điều bí mật. Không phải đàn bà nào cũng cằn nhằn trước bất cứ một chuyện nhỏ nhặt nào đâu.Mấy bà la mắng là tại gì họ không hài lòng đó thôi! Họ không hạnh phúc được vì nét mặt cũng như cử chỉ của ông chồng có vẻ như không tôn trọng ý kiến của người vợ và hạ thấp người ta xuống. Nghĩ theo hướng nầy thì bà vợ càng la mắng thêm, và đến một lúc nào đó thì hạnh phúc vợ chồng phải đổ vỡ.

7-Mathew (ông)

Chúng tôi lấy nhau được 37 năm rồi, nhưng càng ngày cái tật nói nhiều của bả càng trở nên tồi tế thêm hơn. Bất cứ chuyện gì bả cũng quy lỗi vào tôi được. Bả không bao giờ biết nói chữ xin lỗi sorry và làm ơnplease cả. Để xin được hai chữ bình an cũng như để tránh khỏi bị khùng điên có lúc tôi muốn để bả yên một mình nhưng tôi không thể thực hiện được vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn. Sống với bả chẳng khác nào tôi sống trong điạ ngục. Chính tôi đã dạy bả lái xe  36 năm về trước. Mỗi năm tôi lái xe 10 lần nhiều hơn bả, nhưng mỗi khi tôi cầm volant là bả có ý kiến linh tinh dạy khôn tôi phải thế nầy thế nọ làm tôi phát điên lên. Không còn một chút hy vọng nào nữa hết. Giờ đây, để được yên thân tôi phải qua phòng khác ngồi đọc sách để thư giãn.

Hôn nhân chỉ có ở thiên đàng mà thôi nhưng trước đó phải sống trong điạ ngục trần gian cái đã, để sau đó mới có thể lên thiên đàng được. Thật là đắng cay và chua xót trong cuộc sống hằng ngày. Phải chăng đây là nỗi đau khổ lớn nhất như Kinh Thánh đã viết.

Married for 37 years, my wife’s nagging is getting worseevery day. In everything, she finds fault with me, but she will never say sorry, please etc. I would like toleave her alone for my sanity and peace, but the economy made it very hard for me to make a decision. Living with her is nothing but hell. I taught her how to drive 36 yearsback, I drive 10 times of mileage than she does every year, but while driving with her, she will tell me, how to drive.I got mad at her many times, but there is no hope. Now, I find peace by sitting in another room, reading something to relax.Marriage is made in heaven, but living in hell on earth before going to heaven is a terribly bitter experience every day of life. This maybe the great tribulation as written in the Bible.   

8-Jamiesweeney (bà)

Wow! thật là vui sướng vì tôi thuộc về lớp xưa. Hai vợ chồng tôi dều tương kính lẫn nhau nên rất hoà hợp trong cuộc sống. Tôi nghĩ rằng đây là tâm tính (mentality) của hôn nhân. Nếu cả hai người đều nghĩ: “tôi có thể làm gì cho vợ/ cho chồng tôi?” thay gì nghĩ: “ổng hay bả có thể làm gì được cho mình?” thì  cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Đây là sự khác biệt giữa lòng tử tế xuất phát từ con tim so với tánh vị kỷ chỉ nghĩ chỉ biết có mình mà thôi. Đây là quy luật tương hỗ trong vũ trụ: “ Hãy đối xử, làm cho người khác những gì mình mong đợi họ làm cho mình”

Wow, I’m glad I’m from the old school. My husband and I have a lot of respect for each other and get along great. I think it’s the mentality in a marriage. If both people are always thinking “What can I do for him/her?” instead of “What should he/she be doing for me?” it works much better. It’s the difference in trying to be a giving hearted person vs. being a selfish, wanting person. It’s the Universal Law Of Reciprocation, or The Golden Rule, “Do to/treat others like you would like them to do/treat you.”

Thăm dò ý kiến bạn bè. Có sao nói vậy người ơi

*Anh PTH ở Litle Saigon, Cali

Kính thưa anh Nguyễn Thượng Chánh

Tôi chưa nghỉ hưu, còn mấy năm nữa mới tròn 66 tuổi để về hưu. 

Hiện đang sống với vợ. Có 1 con trai, đang học năm thứ 4 ở 1 đại học xa nhà.

Đang sống bằng nghề báo ở California. Sức khỏe tốt.

Đang mơ ước về hưu để hàng ngày đọc kinh, ngồi thiền nhiều giờ.

Lúc nào cũng lo, đọc tin quê nhà hàng ngày là lo. 

Thân kính

PTH

* Anh bạn NST ( Irvine Cali)

Chào anh Nguyễn Thượng Chánh,

Xin cám ơn anh đã cho đọc một “bản thảo”  về nghỉ hưu, công phu và bổ ích.

Thưa anh, đúng như sự suy nghĩ của anh: Hai vợ chồng cùng nghỉ hưu, “đụng nhau” 24/24 hrs kể cũng “phiền” đấy! Trường hợp của tôi may mắn hơn: Bà xã thích xem phim bộ và thích ngủ. Còn tôi thích “ôm” cái Computer ở phòng  riêng nên “đụng đầu” it thôi, giống như thuở còn đi “làm cu li” vậy.

“phút bôn” là football hay chơi banh bầu dục (không phải bóng đá).

Chúc anh được mọi sự anh lành, thảnh thơi.

NST

-1- Nghỉ hưu từ 2001 (14 năm)

2- Hai vợ chồng… vàng ròng! (hơn vàng …son một bậc).

3- Ngồi ôm …em computer từ 7:00 AM den 12:30 AM (ngoai trừ ăn uống vệ sinh cá nhân, lên Đài (talkshow), hội họp, làm tài xế chở bà xã đi chợ và đi tập thể dục 24 hrs fitness  khoảng 2 hrs từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa và …những ngày ra khơi di du lịch đó đây, vài tháng một lần, khoảng 1 tuần tới 3 tuần). Ăn uống chỉ kiêng mỡ và thịt heo (ăn chút it thì được). Ăn cá rất tốt. Ăn trái cây tùy thích.

4- “Một tháng đôi lần có cũng không”

5- Sức khỏe tốt, ngồi trên 8 tiếng 1 ngày mà không đau lưng. Làm xong 2 dự án lớn.

6- It khó khăn ngoại trừ trong dự án. Vui nhiều quên hết buồn phiền. Cứ… hề hề cho cho qua theo cách nói: “Qua … cho qua .. coi như chuyện hôm qua”.

Tội chi buộc đá đeo chì

Vừa nặng, vừa nhọc ích gì cho ta?

Thời gian nghỉ hưu … chính là lúc mình có thể thực hiện được điều mình mơ ước!

 Chúc giấc mơ của mỗi bạn sẽ THÀNH SỰ THẬT!

ST

*Anh DHV (La Chapelle -St Mesmin, Pháp)

1) nghỉ hưu được 13 năm rồi .

2) hiện sống với Bà lão, 2 người cùng tuổi .

3) Vài ngày gặp bạn già vào buổi sáng , sau khi lái xe đưa PN đi :siêu thị , shopping ở centre ville, lo giấy tờ cho sự cần thiết hằng ngày , ……..

Gặp 2 thằng bạn già đều là cựu quân nhân VNCH: tại quán cà phê của Tây, để tán gẩu thường nói chuyện chính trị, thời sự của nước Pháp, của khối Á Rập , Nga Mỹ Tàu chọi nhau. Bàn bạc nhiều về tình hình VN hiện tình đất nước: tham nhũng, XHCN suy đồi đạo lý giết chóc ngay cả học đường. Cà phê thì thay nhau trả, 1 tách 1€30 mà thôi.

Đó cũng là nguồn vui để tìm quên tuổi già lưu vong với thời tiết giá lạnh.

4) Quan hệ trong đời sống vợ chồng: cái nầy mới khó à ta. Cả hai đều hết xí quách, nên cái chuyện tình dục khg còn năng động, bèo nhèo như cái bánh bèo nhão. Mùa Hè thì đỡ , nhờ có cái nhà và cái sân rộng, nên cả ngày cứ kiếm chuyện ngoài vườn để làm cho khuây khỏa, cũng là áp dụng chiến lược: NÉ

Có nghĩa là tránh Bà Lão, chạm mặt nhau là muốn gây thôi. Bởi Bà Lão già rồi nói nhiều quá, chơi với bạn trẻ hơn mà hay bị Nhiễm Độc mấy người nầy. Đời tha hương khg có bạn, nên phải chơi với mấy người nầy khg có trình độ, ăn nói bừa bãi mà Bà Lão lại muốn kết thân, ham cãi chuyện ăn uống và gặp nhau, nhiều khi sinh tệ hại lắm. Ta khg thích mà ngại trái ý Lão Bà.

Hồi trẻ thì sợ vợ chết sớm khg ai đá gà bên nhau. Còn già rồi thì dù sao có cái ân tình của cái đạo tù t , nên sợ làm dữ thì Bà ra đi cũng buồn, bởi khg muốn có thêm em khác. Đâu còn là triệu phú , tiền hưu chỉ đủ sống qua ngày , lãnh có 50% khg đủ thâm niên để lãnh trọn gói , đủ là phải làm 39 năm. Nay thì 40 năm thay đổi rồi, mình là dân ngã ngựa mà .

Vừa già, vừa nhăn nheo….., lại hổng tiền thì khó kiếm chân dài cuốn hút. Chớ trong lòng cũng còn khoái lắm.Tuổi trẻ đang ngon lành, bị đổi đời làm mất hết tiền bạc, của cải và tù đày. Hậu quả là bịnh tật lai rai, còn đỡ hơn quý bạn kẹt bên nhà .

Lời khuyên: quý bạn sắp về hưu , nên áp dụng kế sách: NÉ. Như vậy đở phiền nảo cái tuổi già. Tôi học thuộc hơn chục bài ca trữ tình, loại BOLERO. Hể lên xe là ca túi bụi lớn tiếng, để ém cái miệng PN, vì nhắc 1 chuyện gì đó thì Lão Bà cứ nạy ra một pho, nói hoài khg dứt , cả mấy cái chuyện phong lưu thời trẻ, khi chưa biết nàng là ai. Nghe cả ngàn lần bao nhiêu kể lể mà cứ lải nhải hoài nói mải: Biết rồi mà em !!!!!!!

5) Sức khỏe thì khg được khỏe: hơn 7 bó đau rề rề, nhất là mùa THU bên Pháp. Thời tiết ẩm lạnh, làm mấy cái cù lẳng đau nhức do bị đi tù VC tại rừng U Minh Cà Mau, ngâm mình suốt ngày dưới mấy con kinh sình thúi bởi lá cây mục. Ra tù hậu quả bị bịnh Phong Thấp. Đi khám BS chuyên khoa Pháp, sau nhiều năm điều trị thì Bà BS quen nói là : khi nào nhức thì anh tới tôi châm cứu cho giảm đau. Cái bịnh nầy thì chỉ đến khi gặp Thần Lửa là sẽ dứt hẳn .

Ngày uống 7 viên thuốc: cao mỡ, cao huyết áp, cao đường. Có vấn đề tim, bị nghẽn 1 động mạch vành tim, nên BS về tim theo dõi. Cứ khoảng 9 tháng là cho thử làm Test d’effort để xem coi sắp giả từ tiên nữ chưa .

Đạn dược cạn hết rồi, đâu còn bắn phá gì nổi nữa. Đau tim thì đâu dám uống thuốc trợ dâm (Cialis,Viagra, ….), mà lỡ bụp vào rồi sáp lại bị Bà Lão cự lên lớp: già rồi mà sao còn muốn cái chuyện phàm tục nầy. Lúc đó phải làm sao, vì ở tỉnh khg có …. , chứ ở Paris thì thiếu cha gì, cở nào cũng có: Nga, Ba Lan , Lỗ Ma Ni, VN , Xẩm Ba Tàu , …… Loại ngon hẹn 1 giờ

( như hẹn BS vậy ), hiện giá là 150€. Tuy nhiên như đã nói ks Võ nay nát …. banh càng , chớ đâu ngon như ks Hào, nên giá nầy hơi cao đấy nhé. Thôi thì ngặm đắng nuốt cay, ăn chay cho qua ngày tháng cuối cuộc đời.

Ước mơ Tiên Cô cho vô một vố lớn: cho con cái thanh toán crédit tiền mua nhà cho chúng phẻ , ta thì đi chơi nghêu ngao như ks Hào du lịch hoài.

6) Lo thì khg phải lo nhiều, vì bên Pháp y tế cũng ngon lành: đau ốm có chính phủ lo, nằm nhà thương ra chỉ ký tên rồi đi về.

Chớ bên VN dư vài tỷ đồng mà bịnh nặng, nằm nhà thương là tiêu tán ngay.

Cuộc đời lưu vong mà vui chỉ là vui gượng kẻo là, dù sao cũng phải tiếp tục sống thế thôi. Cái may là đem con qua bên Pháp cả, nay chúng thành đạt đều có đời sống tươm tất, nhìn các cháu nội, ngoại cũng nhà cao cửa rộng, lên xe xuống chó là mĩm cười rồi. Chớ kẹt lại VN mà như ta: Ngụy quân, Ngụy quyền và tù cải tạo thì chết mẹ một đám hết. Cái nước VN ngày nay là

độc quyền của CB, đảng viên CS mà thôi. Nhớ phải tĩnh chớ đừng có ù ù khạc khạc, đứng chàng hảng là tét háng mất mẹ con chim đấy .

Mỏi tay rồi .  DHV

*Anh BXC (Fallschurch,VA)

Chánh thân mến,

Xin trả lời 6 câu của bạn thân :

Tôi nghỉ hưu từ năm 2005 sau 3 năm làm cu li “ rửa đít cho Mỹ ” tức làm Nurse Aide, và 11 năm làm Nurse trong các Hospital vùng Northen Virginia. Tôi nói “ các Hospital ”, vì lúc ấy mình còn nghèo, phải lo gánh gia đình mới qua đoàn tụ, nên cày chết bỏ. Vừa hết ca làm ở Hospital này, lại xông dzô Hospital khác; rồi còn làm Home Health Care, tức đến nhà bệnh nhân chích thuốc, truyền serum, nước biển…

Sau 14 năm quằn quại trong các Hospital, nhiều khi trời đổ tuyết, mình làm luôn 72 giờ, vì bọn Nurse không thể lái xe khi bão tuyết đến làm việc, mà bệnh nhân thì không thể bỏ họ không có nurse, dù chỉ một giờ , cho nên dù còn khỏe, mình cũng hát bài Ô Rơ Lui ! Tuy nhiên, lúc về hưu thì mình đã quá quen công việc, cho nên  Hospital rất tiếc. Nó dụ khị mình làm Part Time, tuần vài ngày, và on call, tức cần thì kêu. Làm tới năm 2006, mình xây một căn nhà ở Florida, xuống đó nghỉ mùa đông . Hospital gọi hoài không được, nên nó thôi, không kêu nữa.

Vậy coi như hưu hằn từ 2006.

Từ ngày nghỉ hưu, chỉ có hai “ khỉ già “ trong căn nhà nhỏ ở Fallschurch, vùng ngoai ô Washington DC. Các con đều có gia đình riệng. Cuối tuần, chúng đem lũ nhóc về quậy tan hoang, rồi lại về nhà chúng.

Mỗi ngày công việc làm thì chả thấy có gì, vậy mà vẫn thấy bận rộn. Kỳ thiệt !

Sáng dậy, cà phê, cà pháo xong, đã thấy 10 giờ. Bật TV coi tin tức xong là thấy 11 giờ. Đọc và trả lời e-mail xong, là hết 1 giờ nữa, tức tới giờ Lunch. Hai khỉ già, nhấm nháp chút đồ ăn tự làm, tự nấu. Đớp xong, phải ngáo khoảng 1 giờ. Nghỉ trưa xong, nếu là mùa Hè, thi` a` la cuốc vườn, trồng rau : rau, dền, rau muống, rau day, bầu, bí , mướp, khổ qua…đều có đủ. Ăn không hết, phải kêu các bạn đên mang về nhà ăn dùm ! Buổi tối, đọc sách, coi computer, nghe nhạc và viết lách lăng nhăng. Thỉnh thoảng, mình cũng ra Pharmacy của đứa con gái, ở Trung Tâm Thương Mại Eden, cách nhà đâu khoảng 1 mile, để làm giu’p nó vài chuyện vặt. Đôi khi thăm viếng bằng hữu, tán dóc, hay thăm các cụ bạn yếu đau. Tôi cũng thường làm đầu tàu cho các buổi họp mặt NN ở vùng Virginia. Tổ chức các buổi họp mặt, ăn nhậu lai rai. Vài tháng một lần .

Cũng có đi du lịch đó đây, có mò về VN vài lần, và đến cả Châu Âu, Thái Lo. V.v..

4.-        Quan hệ vợ chồng thì nay chỉ như bạn thân. Mười năm qua không hề làm “ chuyện ấy ”. Đó là nói thực lòng. Lâu lâu cũng có xì nẹt nhau bậy bạ chút đỉnh, vì …già thì sinh tật ! Nhưng bình thường, thì mình cả ngày ôm computer. Vào gường nằm còn ôm Lap Top hoặc iPad,  đâu có rảnh mà cãi lý với “ đối phương ”. Bà xã thường cố tìm xem mình thích món ăn chi, thì bả đọc sách, tìm cách nấu nướng. Nấu không thành, thì aller à  nhà hàng là chắc ăn nhất ! Đã từ lâu, mình không ăn thịt cá. Nhưng bà xã hay oánh lừa, đôi khi cũng đớp nhầm món “ mặn ”. Mình bị Gout, và High BP, mỗi ngày đều phải kiểm tra áp huyết, phòng stroke ! Bệnh Gout làm đau khớp chân; nhưng lâu nay, nhờ điều trị đúng cách, Gout không còn đáng ngại nữa.

5.-    Ước mơ của mình lúc này là được không có bệnh gì làm đau đớn, cho đến lúc “ đèn hết dầu và tắt lịm ”. Cũng ước cho con cháu làm ăn không vất vả quá như mình. Một ước mơ khác là thấy bọn việt cộng khốn kiếp lụi tàn trước khi mình “ ra đi ”. Nếu được như thế thì…quá “ đã ” !

6.-  Khó khăn, Vui buồn :  Nay mình không còn vấn đề gì khó khăn phải giải quyết. Vui là được gặp lại, liên lạc với các bạn xưa. Buồn là thấy tuổi già sao kéo đến quá mau. Nghĩ lại cuộc đời sao quá ngắn. Thế hệ của chúng ta, dường như chỉ có trách nhiệm và bổn phận phải lo toan gánh vác ( với bàn thân, gia đình, xã hội, đất nước ) mà chẳng có tuổi xuân, chẳng có được làm theo ý mình. Thử nghĩ lại xem, chúng ta đã mất bao năm học hành, lính tráng, tù tội, vứt bỏ những thành quả đã tạo dựng ờ VN để hai bàn tay trắng, lao đao nơi xứ người. Đâu là những ngày hạnh phúc vui chơi của tuổi xuân, của thành tựu  như ý ? Một điều buồn khác là lâu lâu, lại mất một bạn thân. Riêng bọn kỹ sư SK khóa HAI  của tôi, đã mất Nhuận mập, Lê Mimh Khôi, Nguyễn Châu, Nguyễn Phúc Chân, Đào Trung Kiều…Các bạn đi về cõi vĩnh hằng, mình thấy nao nao trong dạ; và bỗng nhiên thấy mọi thứ đều là phù du mộng ảo !  Buồn !

Chánh muốn mình viết thêm, đào sâu về chuyện gì thì cứ hỏi. Nếu thấy có thể trả lời, thì O.K ngay.

BXC

*Đồng nghiệp-Jean-Baptiste Nyiligira (Ottawa, Canada)

Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn

Bonjour Chanh,

 Pour le moment, je n’ai pas encore d’idées! Ma retraite c’est dans une dizaine d’années.

Je suis sûr que tu me donneras des trucs quand ce sera le temps.

Mais si on a un hobbit quelconque, la retraite est la période idéale pour s’y donner à fond, et quand le conjoint ou la conjointe y attache un intérêt +/- grand (donc le partage avec vous), c’est d’autant mieux!

 Take care.

 Jean-Baptiste.

*Đồng nghiệp-Robert Meilleur (Quebec)

Bonjour Chanh

Tôi đã về hưu từ 10 tháng qua. Tôi còn trẻ tuổi quá mà! Với kinh nghiệm của một bébé, tôi xin chia sẻ vài cảm nghĩ:

Từ khi rời  cơ quan Kiểm tra thực phẩm CFIA, tôi bay qua làm việc cho một xí nghiệp bên Việt nam (6 ngày /tuần). Mỗi ngày tôi vẫn đều đặng luyện tập thể dục (40 phút bơi lội, vài chiêu rèn luyện thể lực và đi bộ).

Khi trở về  Canada, chúng tôi tậu một căn condo. Việc nầy làm tôi tốn hao rất nhiều thời giờ để trùng tu sửa chữa nầy nọ (lát gạch men, thay màu sơn, làm lại sàn gỗ laminé, gắn sưởi bức xạ, sửa đổi tủ bếp và nhà tắm, gắn đèn, gắn hệ thống robinet nhà tắm và nhà bếp…Nói tóm lại là tôi rất bận rộn! Tôi chuẩn bị cho con đường làm chuyên viên tư vấn (consultant) sau khi tôi hoàn tất xong việc sửa chữa.

LỜI KINH SUTRA

LỜI KINH SUTRA

Tri’ch EPHATA 666

Có một người tên Tetsugen. Ông là một tâm hồn Thiền ở Nhật bản mơ ước in các tập kinh điển Thiền Sutra cho dân Nhật. Bấy giờ kinh điển của Thiền mới có bằng tiếng Trung Hoa bên Tầu. Ông lặn lội khắp nơi xin tiền. In bằng bản khắc trên gỗ, công trình rất cam go, tốn phí. Sau mười năm dành được tiền, sắp đem in kinh, dòng sông Uji ngẫu hứng dâng nước tràn ngập, lụt lội khắp miền. Dân chúng lâm cảnh màn trời chiếu đất, mất mùa khốn khổ.

Băn khoăn trước số tiền mười năm quyên góp được, in kinh hay cứu người ?

In kinh để truyền bá một triết lý, gầy dựng cả một suy tư tôn giáo. Cứu người chỉ là giai đoạn nhất thời. Rồi ai mà không chết ? In kinh có thể lưu danh lại tên tuổi. Ấy vậy mà Tetsugen không đành lòng đem tiền in kinh. Ông bỏ hết số tiền tích góp mười năm trời giúp nạn nhân lụt lội của dòng sông Uji. Thế là công trình mười năm với giấc mộng truyền bá Zen cho dân tộc Nhật theo dòng sông nước đục chảy vào hư vô.

Tha thiết với tấm lòng, ông lại lên đường hành khất xin tiền lần nữa. Mấy năm sau, dành dụm được một số tiền, ai ngờ một nạn dịch lan tràn, bao nhiêu người chết, động lòng trắc ẩn, ông lại đem hết tiền in kinh giúp người khốn khổ. Thoáng qua đã mười mấy năm. Tuổi đời theo thời gian ngắn lại.

Hết tiền in kinh, lòng ông vẫn tha thiết, ông lên đường xin lần thứ ba. Mất mấy năm nữa, lần thứ ba này ông in được bộ Sutra. Thấm thoát hai mươi năm. Bản in gốc của bộ Sutra hiện còn lưu giữ tại Obaku, Thiền Viện ở Kyoto. Tôi đọc câu chuyện này ở Thiền Viện Bodhi Zendo, Ấn Ðộ trong cuốn Zen Flesh, Zen Bones, trang 44.

Trên đây không phải câu chuyện dụ ngôn để dạy thiền sinh. Nó là tấm lòng có thật. Một trái tim bồ tát, trái tim Chúa Kitô. Có những dòng sông và những định mệnh. Có nhiều dòng nước phù sa, lụt lội. Dòng sông và lời kinh ở đâu cũng có. Nhưng những tấm lòng dám hy sinh lời kinh vì lấy con người làm chính lời kinh thì không nhiều. Bởi nó là một lối suy tư rất khác. Ôi ! những con người với những tấm lòng.

Hôm nay, nhắc nhở đến Tutsugen, dân Nhật giáo dục con cái họ là Tetsugen đã in ba lần bộ kinh Sutra. Lần thứ nhất ông in bộ kinh ấy trong trận lụt của dòng sông Uji. Lần thứ hai in trong cơn bệnh dịch của xứ sở. Lần thứ ba in bằng mực. Hai lần trước vô hình không nhìn bằng mắt xác thịt được, nhưng hai lần ấy cao cả linh thiêng hơn lần thứ ba…

Trích sách “Những trang nhật ký của một Linh Mục”
của Lm. NGUYỄN TẦM THƯỜNG, SJ
.

TẠI SAO NGƯỜI TA LẠI… ?

TẠI SAO NGƯỜI TA LẠI… ?

Lạy Chúa, thật lòng con không hiểu…

Tại sao người ta đang rất muốn có con, nhưng lại nỡ nào vào bệnh viện để phá thai chỉ vì bác sĩ bảo là có nguy cơ em bé bị dị tật, để rồi phải ân hận suốt đời vì tuyệt tự ?

Tại sao người ta thề hứa yêu thương nhau, không thể sống thiếu nhau, nhưng rồi khi biết tin có em bé thì lại đưa nhau đến bệnh viện để phá thai ?

Tại sao người ta sợ phải giáp mặt Cha Xứ, nhưng lại không biết sợ phải giáp mặt Chúa khi buộc con gái phải đi nạo thai để giữ sĩ diện trước người đời ?

Tại sao người ta lần chuỗi đọc kinh xin Đức Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội”, nhưng rồi lại đi xì xầm gièm pha, kết án một chị phụ nữ trót lỡ lầm chửa hoang nào đó ?

Tại sao người ta tỏ ra ghen tuông, đòi bạn đời của mình phải chung thủy, nhưng mình thì lại thoảI mái đi ngoại tình, chơi bời lăng nhăng, để rồi tan cửa nát nhà ?

Tại sao người ta bắt con cái trong nhà phải tuyệt đối vâng lời mình, nhưng mình thì lại bất hiếu, bất kính và bất nghĩa với cha mẹ già ?

Tại sao người ta xây nhưng ngôi nhà thật hoành tráng, lộng lẫy và nhiều tiện nghi, để rồi lại tự nhốt mình giữa những bức tường cao, các song sắt và hàng chông nhọn mảnh sành ?

Tại sao người ta sắm các loại xe cộ thật mạnh, thật sang, thật đắt tiền, để rồi chịu chết cứng nằm một chỗ ngoài đường khi kẹt xe tắc đường ?

Tại sao người ta tổ chức các bữa tiệc ăn uống linh đình, toàn những món đặc sản, bia hảo hạng, rượu cao cấp, nhưng sau đó lại say xỉn, nôn thốc nôn tháo cho bằng hết ?

Tại sao người ta đặt những bàn thờ Chúa trong nhà thật đẹp, nhưng đến tối cả gia đình lại ngước mặt dán mắt vào chiếc màn hình Tivi để thổn thức với các diễn viên Hàn Quốc, Hồng Kông ?

Tại sao người ta nài xin đòi hỏi Chúa đủ thứ, nhưng mình thì lại chẳng chịu chia sẻ chút tình nào cho chính những người thân cận ngay trong gia đình mình ?

Tại sao người ta có thể đọc đủ mọi thứ tào lao linh tinh trên báo giấy, báo mạng, báo hình, nhưng lại chẳng bận tâm đọc và ghi nhớ và sống một câu Lời Chúa trong Tin Mừng ?

Tại sao người ta rồng rắn xếp hàng để chờ được xưng tội, nhưng rồi lại đâu vào đấy, không cố gắng để hoán cải, để đổi đời, để sống tốt hơn ?

Tại sao người ta vẫn chăm chút tỉ mỉ chuyện giữ chay, nhưng lại không chịu giữ miệng ăn nói cho hòa nhã tử tế, giữ lòng cho thật thà trong sạch, không giữ chữ tín, chữ nghĩa trong cư xử giao dịch ?

Tại sao người ta đã chọn Chúa là Chúa của mình rồi, nhưng lại đi say mê suy tôn một ca sĩ là nữ thần ( Diva ), một cầu thủ là siêu sao ( Super star ), một người mẫu là thần tượng ( Idol ) ?

Tại sao người ta ghi vào sổ Gia Đình Công Giáo, tự nhận mình là người có Đạo, nhưng lại có thể thản nhiên sống như thể kẻ lạc đạo, mất đạo, nghịch đạo, vô đạo ?

Tại sao người ta đói và khát thê thảm lắm rồi, nhưng lại không biết tìm đến xin với Chúa cho được nhận lấy mẩu Bánh-Hằng-Sống và múc lấy thứ Nước-uống-rồi-không-còn-phải-khát-nữa ?

Lm. QUANG UY, DCCT,

Chúa Nhật 27.3.2011