CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi.  Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta.”  Ðó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả.  Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?

Chua Kito VuaNăm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài.   Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử.  Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.  Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ.  Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Ðavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động.  Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực.  Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá.  Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Ðây là Vua dân Do Thái.”  Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua.  Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng.  Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất.  Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh  chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua.  Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách.Chàng thanh niên này được nhận.  Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:

Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình.  Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua.  Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.

************************

Quí vị và các bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá.  Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài.  Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.

Ðọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa.  Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.  Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này.  “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng.”

Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình.  Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.

Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi.  Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự.  Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.

************************

Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người.  Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua.  Amen.

  1. Veritas

Bỏ môn học Lịch sử, một âm mưu “đốt gia phả” của dân tộc?

Bỏ môn học Lịch sử, một âm mưu “đốt gia phả” của dân tộc?

RFA

Trước thông tin Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT dự kiến sẽ tích hợp môn Lịch sử với môn giáo dục công dân và an ninh quốc phòng thành môn mới là công dân với Tổ quốc. Điều này đã gây ra những phản ứng gay gắt của dư luận xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Vì hầu hết mọi người đều cho rằng, Lịch sử là môn học rất quan trọng và cần phải được dành vị trí xứng đáng trong chương trình giáo dục hiện nay.

Tuy vậy, giải thích với báo chí ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, thông tin nêu trên chưa đầy đủ và chưa phản ánh đúng bản chất việc đổi mới giáo dục lịch sử trong chương trình phổ thông. Vì theo ông Nguyễn Vinh Hiển thì, ở bậc tiểu học môn Lịch sử vẫn học giống như hiện nay, nhưng kiến thức lịch sử sẽ nằm trong một số môn học khác trong môn Tìm hiểu xã hội. Còn bậc trung học cơ sở, thì môn Lịch sử được tích hợp với Địa lý thành môn Khoa học xã hội và ở bậc trung học phổ thông, môn Lịch sử tiếp tục tích hợp với Địa lý thành môn Khoa học xã hội. Không chỉ thế, môn Lịch sử sẽ được tích hợp trong hai môn học bắt buộc, đó là môn Giáo dục công dân & Giáo dục quốc phòng và môn Công dân với Tổ quốc. Với mục đích để giáo dục học sinh về truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nghệ thuật quân sự của cha ông.

Phản ứng của dư luận

Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng vô cùng ngạc nhiên khi Bộ GD-ĐT không hề tham khảo ý kiến của Hội khoa học Lịch sử Việt Nam khi xây dựng đề án này. Theo ông Dương Trung Quốc trong bối cảnh tình hình đất nước, láng giềng, khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay cho thấy vấn đề chủ quyền, hội nhập là rất hệ trọng. Vì thế, hơn bao giờ hết, chúng ta không thể lãng quên lịch sử, đánh mất mình. Do vậy, nếu muốn thay đổi thì cần làm hết sức cẩn trọng, không thể làm đơn giản như cách đặt vấn đề của Bộ GD&ĐT vừa qua.

Theo VTC News cho biết, tại Hội thảo khoa học “Môn Lịch sử trong giáo dục phổ thông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15/11, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng môn Lịch sử được tích hợp trong môn Khoa học xã hội và Công dân với Tổ quốc ở cấp trung học phổ thông (THPT) là không thỏa đáng và thiếu cơ sở khoa học và sẽ khiến học sinh càng quay lưng với môn Lịch sử.

Được biết trong cuộc hội thảo này, khi nói về tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử GS. Phan Huy Lê thấy rằng lịch sử là cội nguồn sức sống của dân tộc Việt Nam và nếu không có sự kế thừa những truyền thống của dân tộc thì làm sao những thế hệ hiện tại có thể viết tiếp những trang sử, xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Theo ông, cách làm của Bộ GD&ĐTsẽ “khai tử” môn Lịch sử trên thực tế.

Không chỉ thế, Thượng tướng, PGS, TS Võ Tiến Trung, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng khẳng định không thể đưa môn Lịch sử tích hợp với môn Giáo dục Quốc phòng. Vì theo ông Trung tích hợp môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh với các môn học khác trong cấp THPT là trái với quy định pháp luật của nước ta. Đồng thời, Giáo dục Quốc phòng – An ninh là môn học đặc thù cả về nội dung, phương pháp và hình thức, hơn 80% bài giảng mang tính trang bị kiến thức, kỹ năng thiết yếu để bảo vệ Tổ quốc, do vậy không thể tích hợp với môn học khác.

Ngày 16/11/2015, tại phiên chất vấn Chính phủ tại Quốc hội Đại biểu Lê Văn Lai (tỉnh Quảng Nam) cho rằng sai lầm về phương pháp sẽ dẫn tới sai lầm về kiến thức, nhất là kiến thức lịch sử trong thế hệ trẻ và sẽ không có chỗ cho sự khắc phục hoặc thiếu kinh nghiệm. Theo ông Lai thì cho rằng những vấn đề tưởng như nhỏ, nhưng thực chất lại không nhỏ, đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các chủ thể liên quan. Đại biểu Lê Văn Lai khẳng định: “Theo tôi, bất cứ sự phá vỡ lớn nào cũng có nguyên nhân từ sự phá vỡ hệ thống. Chứng minh cho nhận định này là vấn đề tôi vừa chất vấn thầy Bộ trưởng về cách dạy môn Lịch sử. Vì đơn giản hóa vấn đề, chỉ chú trọng tới giấc mơ tích hợp mà quên mất hệ lụy khác”.

Chủ quyền HS-TS không được đưa vào giáo khoa Lịch sử

Theo báo Người Đô thị, tại Hội thảo môn sử trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15.11 tại Hà Nội, GS-TS Nguyễn Quang Ngọc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, cho biết cách đây hơn chục năm, khi được tham gia viết sách giáo khoa, ông đã tha thiết đề nghị phải đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào sách giáo khoa lịch sử phổ thông nhưng không được chấp nhận. Theo GS Ngọc, chỉ duy nhất trong sách giáo khoa lịch sử 10 (nâng cao) có một câu: “Kỹ thuật vẽ bản đồ cũng đạt được những thành tựu mới, trong đó đặc biệt là “Đại Nam nhất thống toàn đồ” được vẽ vào cuối thời Minh Mạng đã thể hiện tương đối chính xác hình ảnh nước Đại Nam thống nhất, bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài Biển Đông”. Mà theo ông, đấy dường như cũng là câu duy nhất nói đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa trong toàn bộ bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông (cả chương trình chung và chương trình nâng cao) tính cho đến thời điểm này.

Cũng theo GS-TS Nguyễn Quang Ngọc cho biết, Hội Khoa học lịch sử đã nhiều lần đề nghị phải đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào trong chương trình sách giáo khoa lịch sử phổ thông nhưng từ năm 2012 cho đến nay sách giáo khoa lịch sử phổ thông vẫn giữ nguyên như cũ, chưa có thêm một dòng một chữ nào về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa và nội dung giáo dục chủ quyền biển đảo trong sách giáo khoa lịch sử phổ thông cho đến thời điểm hiện tại vẫn đang còn là con số không tròn trĩnh.

Theo GS Ngọc, trong SGK lịch sử có bảy bản lược đồ nói về lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng cả bảy bản lược đồ này đều được hoàn thành từ lần xuất bản đầu tiên, không phải là bổ sung mới và không có bất cứ một lược đồ nào trực tiếp trình bày chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông hay các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Điều đáng nói là, vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng sa (đã bị Trung quốc cưỡng chiếm toàn bộ) và Trường sa thuộc chủ quyền của Việt nam đã bị chính phía Hà nội làm ngơ, việc không đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào trong chương trình sách giáo khoa lịch sử phổ thông là bằng chứng cho thấy điều đó. Đây là hành động gián tiếp không thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, điều đó cho thấy chính quyền hiện nay đã “vô tình” tiếp tay cho giặc.

Cũng cần phải nhắc lại, vừa qua theo báo cáo của Ban Dân nguyện của Quốc hội thì cử tri của 28 tỉnh, thành phố đã kiến nghị và yêu cầu nhà nước tiến hành khởi kiện Trung quốc về chủ quyền của Việt nam đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.

Có hay không một âm mưu “đốt gia phả” của Dân tộc?

Lịch sử của dân tộc Việt nam với hơn 4.000 năm lịch sử luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, đó là những trang sử hào hùng của dân tộc với các chiến công đánh bại các cuộc xâm lăng của các thế lực bành trướng Trung Hoa. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi toàn bộ nền kinh tế và kể cả chính trị của Việt nam đã và đang gắn chặt vào Trung quốc và họ bị thao túng. Không chỉ thế, Trung quốc ngày càng tỏ ra lấn lướt và áp đảo Việt nam trong vấn đề chủ quyền trên các hòn đảo hay bãi đá ngầm trên Biển Đông. Thậm chí họ không ngần ngại khi tuyên bố rằng toàn bộ chủ quyền hai Quần đảo Hoàng sa và Trường sa thuộc về Trung quốc từ thời cổ đại. Bên cạnh đó là các hành động cấm cản và đánh đập ngư dân Việt nam trong quá trình đánh bắt cá trên vùng biển truyền thống của mình. Vậy mà chính quyền Việt nam không dám ho he phản đối đích danh Trung quốc, chỉ dám gọi tên “tàu lạ” hay “nước lạ”, dù rằng đén nay có khá hơn đôi chút song vẫn không dám khởi kiện Trung quốc ra Tòa án Quốc tế như Philippine đã làm và thu được kết quả ban đầu.

Thông qua chủ trương tích hợp môn học Lịch sử đã cho thấy, đây là một chủ trương từ âm mưu của lãnh đạo cấp cao nhất của ban lãnh đạo Việt nam, núp dưới danh nghĩa Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường”. Chứ cái đó có lẽ không phải là ý kiến đơn thuần của lãnh đạo Bộ GD&ĐT. Điều đó chứng tỏ ban lãnh đạo Việt nam đang bị một thế lực vô hình nào đấy ép buộc với mong muốn bức tử và thậm chí muốn xóa sổ lịch sử của dân tộc Việt nam ra khỏi chương trình giáo dục phổ thông hiện nay. Đồng nghĩa với việc họ muốn xóa bỏ truyền thống đánh giặc phương Bắc của ông cha ta trong quá khứ, điều được coi là mối nhục của thế lực bành trướng phương Bắc ngàn đời đã không xóa sạch được.

Điều này được chứng minh qua nhận định của GS.NGND Vũ Dương Ninh (ĐH Quốc gia Hà Nội), khi cho rằng: “Không phải đến thời điểm này mà một vài thập kỷ qua, môn Sử đã bị đối xử thiếu công bằng”. Mà theo GS. Ninh thì đây là những việc làm có tính toán kỹ càng và chủ đích. Theo đó, ban đầu vì lý do giảm tải, nên môn Lịch sử không còn được coi là môn thi chính thức trong chương trình thi tốt nghiệp phổ thông. Sau là tới, việc cho học sinh được phép lựa chọn thi ngoại ngữ hoặc môn Sử. Chưa hết, đến nay môn học Lịch sử lại được dạy tích hợp với các môn khác và kết quả cuối cùng thì môn Lịch sử đã dần biến mất khỏi chương trình giáo dục phổ thông. Dù rằng môn Lịch sử là một ngành khoa học có chức năng riêng biệt và vô cùng quan trọng. Theo ông, đây là điều hết sức đau xót.

Câu hỏi “Có hay không một âm mưu “đốt gia phả”?”, nghĩa là có hay không một âm mưu nhằm xóa bỏ lịch sử của dân tộc Việt nam? Đây là một câu hỏi hoàn toàn nghiêm túc, không mang tính chất cảm tính nhằm khiêu khích để kích động tinh thần chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Mà đây là điều có thật, đã và đang diễn ra một cách ráo riết hầu như để phục vụ cho một kế hoạch nào đó, sẽ diễn ra vào năm 2020 trong quan hệ Việt – Trung, mà lâu nay dư luận đang đồn thổi và nghi ngờ.

Bên lề hành lang Quốc hội, trả lời phỏng vấn báo chí nhà sử học Dương Trung Quốc đã góp ý rằng Bộ GD-ĐT cần hết sức thận trọng, nhưng theo ông dường như những người đưa ra ý tưởng và triển khai sự đổi mới này đang ấp ủ một âm mưu nào đó không rõ ràng. Vị Đại biểu Quốc hội này khẳng định: “Bộ GD-ĐT luôn lập luận không bỏ môn lịch sử nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói và đã khiến chúng tôi rất nghi ngờ”.

Cho dù, Đại biểu Quốc hội – nhà sử học Dương Trung Quốc không nói rõ ông nghi ngờ cái gì, vì ở thế của ông cũng không được phép nói ra một cách huỵch toẹt, nhưng ai cũng hiểu Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc muốn cảnh báo điều gì đối với dư luận xã hội?

Kết:

Nhiều người cho rằng, bỏ xem thường hoặc bỏ môn Lịch sử là tự chúng ta quay lưng với quá khứ, quay lưng với những kết quả mà cha ông ta đã dày công để xây dựng bờ cõi nước Việt Nam từ ngàn xưa đến hôm nay. Bạn nghĩ thế nào khi mà các chiến thắng lẫy lừng như Bạch Đằng giang, Chi lăng, Đồng đa… của cha ông chúng ta trước giặc bành trướng phương Bắc sẽ bị rơi vào quên lãng? Vậy mà có kẻ đang muốn tìm cách vứt bỏ những kỳ tích đó đi, họ muốn xóa bỏ quá khứ, thông qua việc xóa sổ môn học Lịch sử và coi vấn đề lịch sử của dân tộc Việt nam không có giá trị.

Trong một thời gian dài, nhà nước Việt nam luôn phát động và tổ chức các cuộc vận động họ tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, song có lẽ họ quên rằng ngay từ năm 1942, lúc cách mạng Việt nam còn trong trứng nước, khi nước nhà chưa được độc lập, cũng là khi ông Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đang còn hoạt động trong bóng tối. Tuy vậy, vào lúc đó ông Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy và học môn Lịch sử và coi đó là trách nhiệm của mỗi người công dân nước Nam. Ông đã từng viết trên Báo Việt Nam độc lập số 117, ngày 1-2-1942 rằng “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn.” – (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia 2002).

Xin được trích lại, với hy vọng những người có trách nhiệm mở to mắt ra mà nhìn cái họa sắp đến của dân tộc Việt nam.

Ngày 18/11/2015

© Kami

Nỗi mặc cảm và bạo lực tràn lan

Nỗi mặc cảm và bạo lực tràn lan

RFA

VietTuSaiGon

Con người trở nên dữ tợn bởi con người đã quá sợ hãi. Con người trở nên bạo lực và man rợ bởi chưa bao giờ con người trở nên mặc cảm như hiện tại. Chính nỗi mặc cảm và sợ hãi đã làm cho con người không còn nghĩ được gì khác ngoài bạo lực.

Và đáng sợ nhất là chúng ta đang sống trong một đất nước mà nỗi mặc cảm và sự sợ hãi đã chi phối từng tế bào, chi phối từ người dân thấp cổ bé miệng cho đến hệ thống chóp bu chính trị. Và đằng sau sự mặc cảm, nỗi sợ hãi này sẽ là gì?

Để giải quyết câu hỏi trên, thiết nghĩ cũng nên đặt lại câu hỏi: Vì sao người Việt, nhất là giới trẻ trở nên dữ tợn? Vì sao người Việt sống mặc cảm nặng nề? Và vì sao nói rằng hệ thống công quyền Việt Nam là một hệ thống mặc cảm?

Trước tiên, phải nhìn thấy vấn đề tuổi trẻ Việt Nam trở nên dữ tợn là vấn đề có thật. Tuổi trẻ Việt Nam ở đây xin hiểu là đa phần, là xu hướng chung của giới trẻ chứ không phải là toàn bộ tuổi trẻ Việt Nam đều dữ tợn. Nhưng số đông với tính hiếu chiến, sẵn sàng xông vào đánh nhau vì một lý do thậm chí không phải là lý do đang là chuyện khá hot của tuổi trẻ bây giờ.

Và phải nói cho chính xác chuyện này nữa, phần đông, rất đông tuổi trẻ Việt Nam sợ công an. Sợ chứ không phải nể, bởi họ luôn biết rằng đụng phải công an thì nguy cơ chết chóc, nguy hiểm cho tính mạng là thấy trước mắt, chính vì vậy họ sợ phải đụng đến công an.

Và hầu như số đông tuổi trẻ không bao giờ quan tâm đến chính trị, thậm chí không quan  tâm cả nghệ thuật, văn chương. Vấn đề quan tâm lớn nhất của họ là làm sao để có tiền, dể mua chiếc điện thoại xịn, mua chiếc xe xịn, khá nữa thì mua miếng đất để dành. Chỉ có tuổi trẻ mới dám bất chấp luân lý, đạo đức để đứng ra cho vay nặng lãi, làm cò, bảo kê quán xá…

Điều này, dù muốn hay không muốn thì nó vẫn lột tả được cái xã hội mà những người trẻ đang sống. Một xã hội mang đậm bản chất mông muội, không có phương hướng bởi xã hội không tôn trọng pháp luật, không có pháp luật để tôn trọng, mạnh ai nấy lấn, mạnh ai nấy thắng, cá lớn nuốt cá bé.

Gần thì ông hàng xóm đông con uy hiếp bà hàng xóm góa bụa bằng cách này hay cách khác, lấn ông hàng xóm yếu thế hơn mình bằng kiểu này kiểu nọ. Xa hơn một chút thì chính cái kẻ mạnh trong xóm đó lại bị một kẻ khác mạnh hơn uy hiếp.

Những tay bảo kê, cho vay nặng lãi, sa tặc, lâm tặc và các loại tặc khác chỉ uy hiếp được những kẻ yếu để kiếm ăn, bù vào, bọn họ lại bị công an uy hiếp để kiếm ăn trên chính sự liều lĩnh của họ.

Trên một chút, các sếp công an lại uy hiếp đám lính lác, hằng năm cấp dưới phải chung chi, quà cáp cho cấp trên… Thế rồi cấp trên lại chunbg chi, quà cáp cho cấp trên nữa, cứ thế mà chung lên, chung mãi đến chóng mặt.

Bởi chung qui không có một điểm chung để nhìn, không có một hệ thống nguyên tắc chung để tuân thủ. Ví dụ như khi con người biết tôn trọng pháp luật bởi trên đất nước của họ có một hệ thống pháp luật chặt chẽ, có những qui chuẩn đạo đức đã được luật hóa và có những nguyên tắc hành xử  nhằm giữ những giá định đạo đức thông qua pháp luật…

Co` như vậy thì người ta sẽ không hành xử tùy tiện bởi người ta tin vào đạo đức, pháp luật và căn cứ trên đó để hành xử. Giả sử một người nào đó bị xâm hại bản thân, họ tin rằng pháp luật sẽ mang lại sự công bằng cho họ và họ nhờ đến tòa án, công an, chính quyền, bởi đây là những người mang lại sự công bằng và an ninh cho họ.

Nhưng, ở Việt Nam, nhờ đến chính quyền bất kì việc gì còn khổ hơn nhờ những kẻ ăn vạ. Chuyện bé xé cho to để vòi vĩnh. Chuyện cần gấp nhưng gọi điện thoại báo khẩn từ thứ bảy mà đến thứ hai mới thấy ló mặt đến để phán vài câu không đâu vào đâu. Riêng chủ nhật thì bọn họ đã tính toán để mà ăn phía nào cho dày, đè phía nào cho nặng.

Công an cũng vậy, đụng đến họ thì tốn tiền gấp bội so với thuê giang hồ đến giải quyết, giang hồ giải quyết vừa nhanh, vừa gọn mà lại không mè nheo lâu dài như công an. Ví dụ như có người bị kẻ khác uy hiếp, anh/chị ta chỉ cần nhờ một tay giang hồ đủ máu mặt đến để hoặc là cho kẻ ăn hiếp kia một bài học, hoặc là đe nạt kẻ cậy mạnh hiếp yếu. Gã giang hồ này làm rất nhanh gọn, nói rõ giá tiền trước khi làm hoặc trong trường hợp gấp quá thì gã làm trước tính tiền sau nhưng giá cũng không bao giờ bằng nửa giá phải chung chi cho công an. Đó là sự thật.

Với kiểu sống không có pháp luật, kẻ mạnh hiếp người yếu, quan chức hiếp dân đen đã tồn tại quá lâu trên đất nước này đã đẩy người dân đến chỗ sợ hãi tột cùng và mặc cảm tột cùng. Khi con người rơi vào trạng thái mặc cảm và sợ hãi tột cùng, phản ứng rất tự nhiên sẽ là tự phát huy bản năng cắn xé để tồn tại. Bất kì chuyện gì cũng đều được nói chuyện bằng bạo lực, bởi chỉ có bạo lực mạnh nhất mới tồn tại được trong xã hội đầy rẫy bạo lực.

Và hình ảnh những đứa trẻ bạo lực đường phố, học sinh bạo lực học đường, người lớn bạo lực với bất chấp chung quanh dòm ngó, công an bạo lực với người biểu tình… Mọi thứ đều có nguy cơ biến thành bạo lực và chết chóc… Điều này chỉ cho thấy rằng xã hội Việt Nam đã rơi vào trạng thái mặc cảm đến tận gốc rễ.

Kẻ mặc cảm nặng nề nhất trong xã hội này không phải là người dân thấp cổ bé miệng mà chính là hệ thống chóp bu quyền lực trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu nhìn bề ngoài họ sang trọng, hùng dũng bao nhiêu thì bên trong của họ lại chứa nỗi sợ hãi và mặc cảm từ nhiều phía. Họ thừa mặc cảm bởi tự thấy khả năng cũng như kiến thức của họ đã quá lạc hậu, không đuổi kịp thế giới tiến bộ, đặc biệt là không đuổi kịp tuổi trẻ.

Họ sợ hãi bởi vì xét về căn để, họ không có gì đủ mạnh để lãnh đạo đất nước ngoài sự cố chấp và khư khư những thứ lý thuyết mù mờ mà bản thân họ cũng không đủ tin cậy, khư khư ôm một cái xác chết để thần thánh hóa, để tự ma mị lẫn nhau mà cùng hưởng lộc, chia chác quyền lực. Nhưng họ cũng quá biết là họ không hề có quyền lực thực sự trong lòng nhân dân, quyền lực là do họ tự dựng lên và tự ép nhân dân vào chỗ phải nghe, phải tin, phải sùng bái họ.

Và trên hết là họ vẫn là những con người nhược tiểu so với đàn anh Cộng sản Trung Quốc, họ vừa phải trí trá với phương Tây để tồn tại, lại vừa phải khúm núm với đàn anh Trung Quốc để giữ độc tài, họ chưa bao giờ là một chủ thể độc lập. Chính vì không bao giờ có được độc lập nên họ chưa bao giờ đối xử một cách độc lập cũng như để cho ai đó có được độc lập. Đó là một thứ hiệu ứng dây chuyền trong tâm  lý mặc cảm. Càng mặc cảm, người ta càng đối xử lạnh nhạt, tệ hại và tàn nhẫn với nhau!

Với một đất nước luôn nặng tâm lý nhược tiểu và mặc cảm, từ hệ thống lãnh đạo trung ương xuống địa phương, từ quan chức cho đến thường dân, từ kẻ giang hồ cho đến trí thức đều mang nặng nỗi mặc cảm như vậy thì e rằng khó mà tiến bộ được. Nếu không muốn nói đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ tự hủy hoại lẫn nhau, kẻ ngoại xâm không cần tốn viên đạn nào vẫn có được một lãnh thổ trống trơn, lạnh lùng và chết chóc.

Đây là chuyện chắc chắn phải xảy ra nếu như chế độ Cộng sản độc tài tiếp tục tồn tại và con người tiếp tục quằn quại trong vũng lầy bạo lực, mặc cảm và nhược tiểu như đang thấy!

Myanmar thực hiện thành công cuộc cách mạng Dân chủ từ trên xuống

Myanmar thực hiện thành công cuộc cách mạng Dân chủ từ trên xuống

Thiện Tùng

Độc tài đối lập với Dân chủ. Độc tài đa dạng như Vua Chúa trị, Gia đình trị, Đảng trị, Quân đội trị. Dân chủ chỉ có một dạng, có khác chăng ở mức độ cao hay thấp, thật hay giả. Dân chủ, Đa nguyên chính trị là khuynh hướng thời đại. Điều đó nhiều quan chức lãnh đạo cấp cao của Đảng CSVN cũng đã nhận ra và ghi rõ ở điều 25 Hiến pháp hiện hành.

Cùng là thể chế chính trị Độc tài, Myanmar (Miến Điện) bế tắc trong thể chế độc tài Quân đội trị, còn Việt Nam cũng đang bế tắt trong thể chế độc tài Đảng CS trị. Giới cầm quyền Myanmar mạnh dạn, chủ động chuyển đổi từ Độc tài sang Dân chủ một cách êm thấm, còn giới cầm quyền Việt Nam chưa vượt qua được chính mình, không làm được như Myanmar, đang như gà con vướng tóc là do đâu ?

Chuyển đổi thể chế chính trị Độc tài sang Dân chủ có 2 cách: một là “từ trên xuống”, hai là “từ dưới lên”. Thực tế cho thấy, chyển đổi từ trên xuống (tự thân) đều diễn ra êm thấm như các nước Cộng sản Đông Âu hồi thập niên 90 hay Cuba, Myanmar gần đây. Chuyển đổi từ dưới lên khó tránh khỏi “nẹt lửa” giữa dân và nhà cầm quyền như đã và đang diễn ra ở một số nước Trung Cận Đông . Dưới thể chế Độc tài Đảng CS trị như Việt Nam và Trung Quốc, nếu đảng cầm quyền không tự giác chuyển đổi từ trên xuống, sớm muộn gì cũng phải đón nhận chuyển đổi từ dưới lên. Đó là điều bất hạnh đối với dân tộc nói chung, với đảng độc tài nói riêng.

clip_image002

Tổng thống Myanmar, ông Thein Sein vừa chúc mừng đảng ̣đối lập của bà Aung San Suu Kyi thắng lợi trong kỳ bầu cử vừa qua (90% phiếu sơ bộ).

Qua vụ bầu cử dân chủ ở Myanmar, có không ít người ước ao “Việt Nam cần một Aung San Suu Kyi để chuyển đổi thể chế chính trị từ Độc tài sang Dân chủ một cách êm thấm”. Ước ao như thế là phủ nhận thực tế: Hãy kiểm lại xem, ở Việt Nam ta, nhiều năm qua, đã và đang có quá nhiều người như bà San Suu Kyi, họ đấu tranh bất bạo động không biết mệt mõi, không chỉ bị quản thúc tại gia như bà San Suu Kyi, mà bị “Đảng ta” hành hạ và cầm tù vì cái tội yêu cầu chuyển đổi thể chế Độc tài sang Dân chủ.

Myanmar chuyển đổi thể chế Độc tài sang Dân chủ êm thắm, cái chính không phải do bà San Suu Kyi mà do trong bộ máy Độc tài Quân đội trị còn có những người cao thượng, với tinh thần độc lập tự chủ, dám nghĩ dám làm, sẵn sàng hy sinh lợi ích cục bộ, cá nhân cho lợi ích cộng đồng dân tộc Myanmar, nổi trội là Tổng thống Thein Sein. Vậy là ở VN đã có nhiều tổ chức Xã hội Dân sự chưa được nhà cầm quyền công nhận (chỉ mặc nhận) và lắm người như bà San Suu Kyi, chỉ cần trong Đảng cầm quyền có những người cao thượng… như Tổng thống Thein Sein thì việc chuyển đổi từ thể chế Độc tài Đảng trị sang thể chế Dân chủ dễ như trở bàn tay? Rất tiếc ở Việt Nam ta, trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng cầm quyền chưa có người ngang tầm Thein Sein!

Dân chủ, đa nguyên chính trị là thể chế ưu việt mà nhân loại đang áp dụng và ngưỡng mộ. Việt nam không thể giữ mãi thể chế chính trị độc tài lỗi thời, sớm muộn gì tất yếu phải chuyển sang thể chế Dân chủ Đa nguyên. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam chuyển đổi theo hình thức từ trên xuống hay từ dưới lên? Chỉ có thể chọn một trong hai. Nếu chọn hình thức chuyển đổi từ trên xuống, đòi hỏi phải có ít nhất một người có vị thế trong Đảng CSVN mạnh dạn “thoát Trung”, dám nghĩ dám làm như tướng Thein Sein. Sức chịu đựng của con người bao giờ cũng có giời hạn, nếu chờ mãi “Đảng ta” không chịu chuyển đổi từ trên xuống, người dân phải dùng áp lực hay bạo lực chính trị chuyển đổi từ dưới lên. Như đã nói, chuyển từ dưới lên là việc cực chẳng đã, có thể dẫn đến bất hạnh không chỉ đối với người dân mà còn đối với cả Đảng cầm quyền.

clip_image004

Bà Aung San Suu Kyi đàm thoại với ông Tập Cận Bình

Khi có tin Myanmar tổ chức bầu cử, thiết lập thể chế chính trị Dân chủ Đa nguyên, công chúng tỏ ra mừng vui, và mong Việt Nam ta sớm có thể chế Dân chủ như ở Myanmar. Ước mơ là quyền con người phải được tôn trọng, nhưng sao tôi cảm thấy xót lòng, vì ước mơ ấy dù chính đáng đến đâu cũng khó trở thành hiện thực. Bởi vì, Đảng CS VN chưa hẳn chịu “thoát Trung”, vẫn khòm khòm bám lấy Đảng CSTQ làm lưng dựa để tiếp tục giữ địa vị thống trị của mình. Ở đây đó trong hàng ngũ lãnh đạo “Đảng ta” còn có người thiển cận, hẹp hòi, cục bộ cho rằng “thà mất nước còn hơn mất Đảng”. Lãnh đạo “Đảng ta” còn mùi mẫn hứa hẹn với “đồng chí phương Bắc” của mình: giữ chặt mối quan hệ song phương, vì “đại cục”, thực hiện 4 tốt và 16 chữ vàng. Và, ngoài việc cơ cấu con em của mình “nối ngôi”, Đảng CSVN còn tiếp tục gởi người sang Trung Quốc đào tạo để “nối nghiệp” những viên Thái thú Tàu vốn có trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam.

Con người khi mất hết hy vọng mang tâm lý hết muốn sống. Tại sao những người thất nghiệp, nghèo khó lại là những người vét tiền mua vé số? Họ mua hy vọng trúng số ấy mà. Cũng như, vì quá khổ với nạn Độc tài, khi thấy thể chế Dân chủ xuất hiện ở Myanmar người ta vẫn hy vọng, dầu đó chỉ là mơ ước xa vời.

17/11/2015

T.T.

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

  1. Đạo Trời là gì ?

Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.

  1. Tại sao nhận biết có Trời ?

Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay tác tạo…

Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )

  1. Những ai tin tưởng có Trời ?

Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…

  1. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?

Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).

  1. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?

Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa – Khổng Tử )

  1. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?

Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống – theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).

  1. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?

Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.

  1. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?

Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.

  1. Đạo Trời có từ bao giờ ?

Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.

  1. Ý Trời thế nào ?

Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.

  1. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?

Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên mà lòng người khao khát.

  1. Sống đạo Trời có dễ không ?

Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).

  1. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?

Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác quỷ, luôn tìm hại con người.

  1. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?

Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3 chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.

  1. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?

Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời, nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.

  1. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa ?

Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được Xa-tan.

  1. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?

Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.

Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:

Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt sầu khổ.

Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước Công Lịch.

Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.

  1. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?

Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:

  1. Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
  2. Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
  3. Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
  4. Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.

Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.

  1. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?

Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.

Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.

  1. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?

Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.

Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.

Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.

  1. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?

Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn vẹn thì không thể không theo cho được.

Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp, như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.

Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.

  1. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?

Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi, “sinh ký tử quy” là thế.

Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối trung gian mà thôi.

  1. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?

Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.

Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.

  1. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?

Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.

Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…

PHỤ LỤC:

Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:

  1. Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius and of Christ )
  2. Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
  3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
  4. Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu thương”.

Tưởng nhớ ông bà tổ tiên

Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:

  1. Thắp hương đèn trên bàn thờ
  2. Làm dấu hình Thánh Giá
  3. Nguyện Kinh Lạy Cha
  4. Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
  5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”

Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:

Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.

  1. Nghi thức Lễ Vu Quy:

Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng thuận…

  1. Nghi thức Lễ Thành Hôn:

Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.

Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:

  1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
  2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
  3. Cô dâu chú rể thắp nến.
  4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới… “Lạy Cha chúng con…”
  5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
  6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
  7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…

Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,
Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

http://www.trungtammucvudcct.com/web/bible.php?id=353

Khủng Bố IS và Sự Đối Phó Của Hoa Kỳ

Khủng Bố IS và Sự Đối Phó Của Hoa Kỳ

Thứ Sáu 13 tháng 11 năm 2015 tại Paris, thủ đô nước Pháp, nhiều cuộc tấn công khủng bố đã xảy ra tại ít nhất 6 trọng điểm, do tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) làm 129 người thiệt mạng, gần 400 bị thương (gần 100 trong tình trạng nguy kịch).

Hai ngày sau, Pháp đã sử dụng 10 máy bay chiến đấu thả 20 quả bom nhắm vào những sào huyệt của Nhà nước Hồi giáo như là bước khởi đầu trong quyết tâm tận diệt kẻ thù của quốc gia này nói riêng và của nhân loại nói chung.

IS – ISI – ISIS là những chữ tắt của Islamic State (Vương Quốc Islam Giáo), Islamic State of Iraq (Quốc Gia Hồi Giáo Iraq) và Islamic State of Iraq and Syria). Tiến trình hình thành của Nhà Nước Hồi Giáo này là một tiến trình phức tạp đầy màu sắc tôn giáo cuồng tín của nhiều sắc dân vùng Trung Đông. Trong hiện tại, IS là tên đơn giản để chỉ nhóm khủng bố Hồi giáo này.

Có nguồn tin cho rằng IS là do chính phủ Hoa Kỳ bí mật xây dựng để gây bất ổn ở Trung Đông, bắt nguồn từ hãng tin Sputnik (Nga) dẫn lời của nhà nghiên cứu lịch sử người Mỹ, ông Webster Tarpley, cho rằng thủ lĩnh của IS, Abu Bark al-Baghdadi là người có quan hệ thân cận với Thượng nghị sĩ John McCain. Ông Tarpley là chuyên gia lịch sử từng gây tranh cãi khi xuất bản một quyển sách về vụ khủng bố 11/9, với nội dung nhấn mạnh những tổ chức khủng bố trên toàn thế giới đều do chính phủ Mỹ đứng sau hỗ trợ. Đài Press TV (Iran) cũng từng phỏng vấn ông Tarpley về những lý do mà ông cho rằng chính phủ Mỹ góp phần tạo nên IS.

Nguồn tin này đã nhanh chóng đi vào quên lãng.

Thượng tuần tháng 1 năm 2015, IS đã mở đầu chiến dịch khủng bố nhắm vào nước Pháp bằng hành động bắn chết 12 nhà báo, họa sĩ của tạp chí trào phúng Charlie Hebdo với lời tuyên bố “chúng đang trả thù tạp chí này vì nhiều lần đăng tải các phiếm họa về nhà tiên tri”.

Tháng 9 năm 2015, trong cuộc phỏng vấn của tờ Paris Match, thẩm phán Trévidic đã cho biết nguy cơ nước Pháp bị tấn công khủng bố ở mức độ cao và chưa từng có tiền lệ “Nước Pháp đã trở thành kẻ thù số một của IS, là đích ngắm của một đội quân khủng bố với đủ loại hình thức” và rất bất ngờ, chỉ 2 tháng sau, dự đoán này đã chính xác 100%.

Qua hai sự kiện khủng bố xảy ra ở Pháp, chúng ta có thể thấy năng lực phòng chống khủng bố ở Pháp nói chung đang gặp vấn đề: không nắm được thông tin tình báo, không có được các giải pháp phòng ngừa hiệu quả…

Pháp quốc chỉ ĐỐI ĐẦU mà chưa ĐỐI PHÓ.

Đối Đầu là kình chống, đương đầu ra mặt chống lại, không phục, trong khi Đối Phó là ứng phó, đáp ứng tình

trạng tự nhiên hay do một tổ chức, cá nhân gây ra nhưđối phó với tình thế; đối phó với bất kỳ ai muốn gây sự.

Rút kinh nghiệm chống khủng bố từ biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ (New York, Washington D.C. và Pennsylvania) hơn 14 năm, Hoa kỳ đã không để xảy ra tình trạng bị tấn công trầm trọng nào khác. Nhóm khủng bố Hồi Giáo đã âm mưu và toan tính nhiều kế hoạch tinh vi khác nhau nhưng không thể thực hiện được. Hoa Kỳ đã cải tổ toàn diện xã hội để “Đối Phó“ với tình hình do nhóm khủng bố Hồi giáo chủ trương.

Với đầu óc thực tiễn, “ta làm những gì ta có thể làm , không nên làm những gì ta muốn”, chính phủ Hoa Kỳ không mất thời giờ đi năn nỉ hay ”giáo dục“ những kẻ cuồng tín lúc nào cũng nghĩ Hoa Kỳ và người da trắng Âu châu là “bọn bạch quỷ” cần phải tiêu diệt, chính phủ đã có những vũ khí hiện đại để bắn hạ những kẻ thù đến gần, đồng thời cũng có những phương cách “bẻ chân, bẻ tay, làm mù mắt, chọc thủng tai” của bọn khủng bố Hồi Giáo khiến bọn chúng không thể đột nhập vào Hoa Kỳ thực hiện giết người.

  1. Với “ Patriot Act ” (do Giáo Sư Luật Khoa Đinh Đồng Phụng Việt soạn thảo) chính quyền Hoa Kỳ được phép nghe lén điện thoại, xâm nhập email, trang cá nhân website… của bất cứ thành phần nào mà không cần án lệnh của tòa án. Nhờ việc nghe lén này mà giới chức an ninh tình báo của Hoa Kỳ đã phá vỡ biết bao âm mưu phá hoại ngay từ trong trứng nước.
  2. Nhận biết được, bọn khủng bố vào được Hoa Kỳ rồi khủng bố tự sát là do kẽ hở trong 2 nguyên tắc làm việc của FBI và CIA: CIA là cơ quan Trung Ương Tình Báo phụ trách bên ngoài Hoa Kỳ, trong khi FBI là cơ quan Điều Tra của Liên Bang trách nhiệm trong nội địa Hoa Kỳ và FBI chỉ bắt giữ khi có chứng cớ gây ra hay phạm tội hiển nhiên. Chính phủ Hoa Kỳ đặt ra Bộ An Ninh, đặt tất cả những cơ quan an ninh, tình báo …của nhiều cơ quan, dưới sự Quản trị và Giám sát của Bộ này.
  3. Tất cả những cá nhân hay cơ quan hội đoàn giúp đỡ tán trợ bọn khủng bố đều bị “freeze” các chương mục ngân hàng.  Tương tự như “rút máu” của một cơ thể con người, chắc chắn con người đó, sinh vật vật đó…”phải chết ngay lập tức”.

Sau biến cố tháng 9 ngày 11 năm 2001, một số người African – American hí hửng tưởng rằng Hồi Giáo trên đà chiến thắng nên ra tòa án xin đổi tên họ ra những là Mohammad , Ali, Saddam, … nhưng đồng thời họ cũng nhận ra những credit card của họ bị “invalid”. Khi họ khiếu nại, trung tâm Customer Service của ngân hàng trả lời là “quyền cấp phát thẻ tín dụng là quyền ưu tiên của Ngân Hàng chứ không phải là quyền của khách hàng”. Và “Ngân Hàng không muốn cho các thánh tử vì đạo vay dollars vì Ngân Hàng sẽ chẳng bao giờ đòi được nợ”.

  1. Tất cả những Visa và Passport cũ đều bị hủy bỏ, thay vào đó là những thẻ ID, những VISA, những PASSPORT mới có gắn chip điện tử nên chỉ cần mở ra là nhân viên Bộ An Ninh biết ngay công dân Hoa Kỳ đang ở quốc gia nào trên thế giới. Đây chính là những bằng chứng để bắt giữ, đưa vào nhà tù với tội danh “Phản Bội” thuộc hình sự đặc biệt những phần tử Hồi Giáo tại Hoa Kỳ trốn lén qua những xứ Hồi Giáo thụ huấn phương cách khủng bố phá hoại.  Hoặc là những phần tử xin đi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ hay Arab Seoud dự tính trốn sang Syria đều bị bắt trước khi lên phi cơ rời khỏi nước Mỹ.

Nước Pháp không có kỹ thuật tân tiến như Hoa Kỳ, cho nên những tên khủng bố bị hạ sát trong đêm 13 tháng 11 vừa qua có một số tên gốc gác từ Syria hay công dân Pháp đã có lần đến Syria! Một thí dụ khác là một số người VN lãnh trợ cấp SSI trở về VN du lịch quá 28 ngày, khi trở lại Hoa Kỳ bị Sở Xã Hội cắt trợ cấp phải “xin tái trợ cấp”, tỏ ra rất ngạc nhiên không hiểu tại sao Social Worker lại biết chuyện về VN của họ: Social Worker ngồi tại văn phòng chỉ cần mở data base của Passport là biết ngay, không cần người lãnh trợ cấp “tự giác” báo cáo!

  1. Cơ quan NSA (dường như viết tắt của National Security Agency) của Bộ An Ninh có khoảng 15,000 đến 20,000 kỹ sư phục vụ chuyên nghe lén và đọc lén tất cả các cú gọi điện thoại và đọc lén tất cả những phương tiện internet trên toàn thế giới. Chuyến máy bay Air Bus của Nga bị rớt ở khu nghỉ mát trong bán đảo Sinai gần đây, trước khi phái đoàn các nước đến hiện trường điều tra, Ngoại trưởng Anh đã tuyên bố là cơ quan tình báo của Anh đã nghe lén được là bọn khủng bố đặt bom vào máy bay và quả bom nổ từ kho chứa hành lý. Trong khi Tổng Thống Putin của Nga, nguyên là xếp của cơ quan KGB, vẫn còn chưa có thông tin gì cả.

Các Kỹ sư Computer đã mã hóa những thứ tiếng Arab bằng barcode nên khi nghe lén, máy computer tự động chuyển dịch sang Anh Văn không cần Thông dịch viên nên rất nhanh chóng có được những tin tức chính xác. Mới đây một đao phủ thủ có tên là John Jihad bị máy bay không người lái của Hoa Kỳ hạ sát vì chỉ cần nghe giọng nói của tên này trên youtube khi bọn khủng bố hạ sát ký giả Bailey, cơ quan tình báo Anh đã xác định được lý lịch của kẻ có bí danh John Jihad.

  1. Người viết bài này chắc chắn là nước Pháp không thể có hệ thống Security Cameras dày đặc như Hoa Kỳ nên công việc truy tầm các tên khủng bố không thể hữu hiệu và nhanh chóng như của Hoa Kỳ. Điều này ứng vào 2 anh em người Mỹ gốc Nga đặt bom khủng bố giết hại người dân Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua Marathon ở Boston 2 năm trước, chỉ trong vòng ½ giờ sau khi nổ bom , nhờ hệ thống security cameras , cảnh sát Boston đã biết những kẻ khủng bố là ai và họ đã đi vây bắt ngay. Anh trai của thủ phạm đã bị bắn chết và thủ phạm đã ra tòa lãnh án tử hình.
  2. Năm 2008, trên các nhật báo lớn của Hoa Kỳ, trang Technology có loan tin mà ít người chú ý: Chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh cho tất cả các hãng chế tạo máy truyền hình bán vào Hoa Kỳ phải gắn một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình tất cả những người ngồi xem trước máy (với góc quét hình gần 180 độ) rồi truyền ngược về Trung tâm Kiểm soát của Cảnh Sát. Thí dụ một đứa trẻ bị bắt cóc, bố mẹ đưa hình đứa bé cho Cảnh Sát nhờ truy tìm. Cảnh Sát Down Load hình vào Trung tâm Kiểm soát. Nếu đứa trẻ bị bắt cóc ngồi trong nhà hay trong khách sạn mở TV ra xem hay mở TV để chơi game thì Cảnh Sát sẽ tìm ra địa chỉ của đứa bé ngay lập tức. Cũng phương cách này, Cảnh Sát cũng sẽ mau chóng tìm ra địa chỉ ẩn trốn của những kẻ khủng bố. Chúng tôi cũng không rõ là hệ thống TV của Âu Châu nói chung và nước Pháp nói riêng có trang bị hệ thống này như của Hoa Kỳ hay không?
  3. Cách đây 6 tháng, cũng trên trang Technology, một nhóm Kỹ sư của Hoa Kỳ phát minh được một kỹ thuật mới, họ cũng tìm ra một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình gắn luôn vào trong bóng đèn chiếu sáng trên các đường phố. Dĩ nhiên là giá thành rất rẻ nếu so sánh với hệ thống Security Cameras hiện nay.

Trên đây chỉ là những gì chúng tôi được biết, dĩ nhiên còn những phát minh mới hơn cũng sẽ được kiểm nghiệm sử dụng. Tuy vậy, tất cả cũng chỉ là những phương tiện của “phương pháp phòng thủ thụ động” mà chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện và thi hành.

Một phương thức tối ưu trong việc “Đối Phó” với Nhà Nược Khủng Bố Hồi Giáo IS cần đề cập, đó chính là mạng lưới “tình báo nhân dân” tức là yếu tố con người, tương quan chặt chẻ với chính phủ, đã được Tổng Thống Abraham Lincoln nhấn mạnh trong bài diễn văn năm 1864: Một chính phủ BỞI DÂN , DO DÂN và VÌ DÂN sẽ luôn luôn được nhân dân ủng hộ để sát cánh trong công cuộc BẢO VỆ AN NINH và  TOÀN VẸN LÃNH THỔ cho quốc gia Hoa Kỳ. 

Chu toàn trách nhiệm của một công dân trên đất nước tự do Hoa Kỳ, đi bầu – quan sát và phát hiện những hiện tượng khác lạ chung quanh – nghe ngóng – tự xem là một phần tử trong mạng lưới tình báo nhân dân, chính là những đóng góp tích cực để giúp chính phủ đối phó với Nhà Nước Khủng Bố Hồi Giáo IS vậy.

LÊ THÀNH QUANG

Philadelphia, Thứ Hai 16 tháng 11 năm 2015.

Anh chi Thu & Mai goi

Chúng tôi thách đố đảng CSVN!

Chúng tôi thách đố đảng CSVN!

Hoàng Thanh Trúc (Danlambao)  Chúng tôi ở đây là ai? Như Trần Quốc Toản khi xưa cầm quả cam trong tay. Họ, những tuổi trẻ Việt Nam ngày nay đang khảng khái cầm trong tay lời thách thức chế độ độc tài cộng sản Việt Nam hãy trả lại quyền làm chủ đất nước của toàn dân tộc đã bị tước đoạt suốt 70 năm qua. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” (nước nhà hưng thịnh hay suy vong, mọi người dân đều có trách nhiệm) Họ, tuổi trẻ Việt Nam như đang thét lên… Đất nước không của riêng ai, mọi Công dân có quyền tham gia quản lý điều hành nhà nước và xã hội, (Điều 28- Hiến pháp) Không ai sinh ra nghiễm nhiên là lãnh đạo (không thể con quan nếu thích là được làm quan) Nhân tài, lãnh đạo, phải thông qua cạnh tranh chứng minh từ “Tự Do” ứng cử và “Dân Chủ” bầu chọn như quốc gia Myanmar…

Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar
 
Họ – Tuổi trẻ tri thức Việt Nam ngày nay hầu như biết rất rõ và tởm lợm quá rồi với biết bao tiền của mồ hôi nước mắt nhân dân bốc hơi qua những lần bầu cử bịp bợm giả hiệu là “dân chủ” chỉ cốt để hợp thức hóa cho: “đảng CSVN dành quyền cắt cử ứng viên CS- bắt dân phải bỏ phiếu có sẳn ứng viên và tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc quán triệt (chọn lựa) ai được đắc cử theo cơ cấu ấn định do đảng CSVN đã duyệt trước.”(!?) mà nhà nước và đảng CSVN tung hô là “Đảng cử, dân bầu”?. (Đảng cử chọn rồi thì nhân dân còn bầu bán đếch gì nữa cho tốn kém!) Một màn hài kịch rẻ tiền.
Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar
Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar
Vì sao Tuổi Trẻ Việt Nam thách thức đảng CS(?)
Trong khối Asean, 2 quốc gia láng giềng của Việt Nam, Campuchia và Myanmar thua kém Việt Nam về mọi mặt nhưng tại Campuchia trong lần bầu cử Quốc hội khóa 5, chọn ra một chính đảng lãnh đạo đất nước nhiệm kỳ 2013-2018. Để bảo đảm cuộc bầu cử diễn ra tự do, công bằng cho các đảng phái tranh cử đã có trên 40.000 quan sát viên độc lập tình nguyện tại các tỉnh thành và trên trên 800 phóng viên báo chí trong nước cộng với gần 300 phóng viên quốc tế đăng ký tham gia giám sát chứng kiến.
Còn tại cuộc bầu cử Quốc Hội Myanmar ngày 8/11 vừa qua có 10.500 quan sát viên độc lập trong nước và nước ngoài gồm 1.118 đại diện các cơ quan giám sát bầu cử, ngoại giao quốc tế và 9.406 quan sát viên địa phương + 290 phóng viên đến từ 45 tổ chức truyền thông quốc tế chứng kiến giám sát…
Một bối cảnh mà không bao giờ đảng CSVN dám cho diễn ra trong các cuộc bầu cử tại Việt Nam – Đơn giản, dễ hiểu – Chế độ độc tài CS không cho phép bất cứ một đảng phái nào khác cạnh tranh với chính nó. Và như nói trên:
“đảng CSVN dành quyền cắt cử ứng viên CS- bắt dân phải bỏ phiếu có sẳn ứng viên chỉ định và tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc quán triệt (chọn lựa) ai được đắc cử theo cơ cấu ấn định do đảng CSVN đã duyệt trước”. Vi phạm trắng trợn Hiến Pháp Việt Nam (Điều 27) Công dân đủ 18 tuổi và 21 tuổi trở lên có quyền bầu cử, ứng cử, vào Quốc hội, HĐND và Tuyên Ngôn Nhân quyền LHQ (Điều 21) Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn bầu cử một cách tự do.
Và vì vậy không bao giờ đảng CSVN chấp nhận sự có mặt của lực lượng phóng viên báo chí truyền thông quốc tế và quan sát viên độc lập trong nước hay nước ngoài, bởi chính họ (đảng CSVN) đang vi phạm pháp luật trong nước do họ đặt ra và công pháp quốc tế -LHQ- mà họ đã ký vào.
Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar
Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar
Một ngày, sau bầu cử đa nguyên tự do dân chủ tại Myanma – Tuổi trẻ Việt Nam: Chúng tôi thách đố đảng CSVN dám làm (bầu cử) như Myanmar– Một sự thách đố rất đơn giản mà tuyệt đại bộ phận (190 nước) các quốc gia văn minh tự do dân chủ trong Liên Hiệp Quốc tự động hành động thay vì đợi công dân mình phải thách thức.
Qua 70 mùa đông CS/XHCN khắc nghiệt, không còn cam chịu mãi trong giá băng, cộng đồng mạng Facebook tại Việt Nam đang cựa mình mạnh mẽ vươn lên nở hoa, những nụ hoa tự do dân chủ tươi trẻ tỏa hương khát vọng vì một dân tộc Rồng Tiên Âu Lạc không thể cúi đầu lạc hậu kéo mãi cặp búa liềm rỉ sét lầm lũi như trâu chậm uống nước đục, lẽo đẽo theo sau thiên hạ ngửi bụi nhân quyền, tự do, dân chủ.
11/11/2015

Tư tưởng sai lầm của Henry Kissinger

Tư tưởng sai lầm của Henry Kissinger

Ngụy Kinh Sinh * Lê Minh Nguyên (Danlambao) dịch – Vì là một nhà hoạt động chính trị quốc tế cho nên tư tưởng của Henry Kissinger chủ yếu là quan hệ quốc tế. Gần đây, một nhà nghiên cứu của Đại học Harvard đến từ Trung Quốc, ông Dương Bình (Yang Peng), đã đưa ra một số nhận xét khá có trọng lượng về quan điểm của ông Kissinger. Nhưng nhận xét này của ông Dương Bình đã không đủ sâu, và dường như có chút thương tình. Vì ông là một học giả thỉnh giảng đang ở trong vùng đất của Kissinger, cho nên việc giữ sự nhẹ nhàng và hạn chế khi nói về ông ta là một điều dễ hiểu. Vì vậy, tôi xin đưa ra một số phê bình nặng hơn về tư tưởng của ông Henry Kisinger vì nó rất quan trọng đối với cả người Trung Quốc và người Hoa Kỳ.
Trong cuốn sách World Order (Trật Tự Thế Giới), mà ông xuất bản gần đây, Henry Kissinger đã giải thích viễn kiến của mình từ kinh nghiệm ngoại giao và phản ảnh đã tích lũy trong nhiều thập niên qua. Viễn kiến này thực sự có cùng chung lối, hay nói một cách khác là được nặn ra cùng một khuôn “Các Giá Trị Châu Á” của Giang Trạch Dân (Trung Quốc) và Lý Quang Diệu (Singapore). Cả hai cho rằng tư tưởng ngoại giao hay cách suy nghĩ truyền thống của người phương Tây và người Trung Quốc không giống nhau.
Lý thuyết này cho rằng người phương Tây dùng tư duy pháp lý, ví dụ như duy trì các mối quan hệ giữa các nước theo pháp luật và nó là như vậy kể từ thời các Hòa ước Westphalia vào thế kỷ thứ 17. Người Trung Quốc quen suy nghĩ theo luật rừng xanh, chỉ chấp nhận mối quan hệ giữa quốc gia bá chủ và các nước chư hầu. Theo lối diễn tả tương đối hoa mỹ của ông Kissinger, luật rừng xanh được trình bày như là tư duy về sự phát triển lịch sử. Tổng quát, các nguyên tắc của phương Đông và phương Tây khác nhau – đó là một khái niệm đặc biệt của “Các Giá Trị Châu Á”.
Về mặt lịch sử nó có thực sự đúng không? Ông Dương Bình lịch sự đưa ra một ví dụ ngược lại. Ở Trung Quốc trong thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, đã có một “Đại Hội Nghị Ngưng Chiến” (Big Conference to Cease the Wars) sau chiến tranh giữa các nước Tấn (Jin) và Chu. “Đại Hội Nghị Ngưng Chiến” (bao gồm hơn một tá các quốc gia) cho ra các hiệp ước hòa bình quốc tế đầu tiên trên thế giới. Nó duy trì hòa bình hơn một trăm năm, trong một vùng có tổng diện tích lớn hơn nhiều so với khu vực nói tiếng Đức. Nó xảy ra trên hai ngàn năm sớm hơn so với các “Hòa Ước Westphalia” mà Kissinger đã rất tự hào.
Liệu nó có đúng là trong hơn hai ngàn năm sau “Đại Hội Nghị Ngưng Chiến”, Trung Quốc chỉ có mối quan hệ giữa quốc gia bá chủ và các nước chư hầu, như Kissinger đã viết? Tôi phải nói rằng ông Kissinger không đọc sách và đưa ra những bình luận mù tịt vì không biết lịch sử. Bên cạnh mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước chư hầu, còn có các mối quan hệ hiệp ước giữa Trung Quốc và các nước láng giềng mà nó vẫn tiếp tục tồn tại trong hơn hai ngàn năm. Người Trung Quốc, dù được giáo dục bởi Đảng Cộng sản TQ, vẫn nhớ hòa ước nổi tiếng giữa triều đại nhà Đường và Tây Tạng, được khắc vào ba phiến đá dựng nơi công cộng tại ba địa điểm, trong đó có thủ đô Trung Quốc đời nhà Đường là Trường An và thủ đô Tây Tạng là Lhasa. Phiến đá Hòa ước tại Lhasa (Lhasa Doring) còn tồn tại cho đến ngày nay, và nó được phơi bày cho công chúng tự do xem bất cứ lúc nào, không giới hạn. Có thể nào công chúng được xem hiệp ước viết trên da thú của ông (Kissinger) một cách tự do không?
Bây giờ chúng ta hãy khảo sát lịch sử tư tưởng châu Âu, theo cái nhìn của Henry Kissinger, một lần nữa. Chúng ta không nói về hòa bình tương đối, được duy trì bởi các giới chức tôn giáo, vào thời kỳ Trung Cổ. Có phải châu Âu hòa bình sau Hòa ước Westphalia? Những cuộc chiến bên trong nước Đức chấm dứt. Tuy nhiên, luật rừng xanh vẫn có hiệu lực giữa các quốc gia. Đã có nhiều cuộc chiến nổ ra giữa nước Đức và các nước khác. Ngay cả hai cuộc thế chiến trong thế kỷ vừa qua đã được khởi xướng bởi người Đức. Tư duy về luật hiệp ước đã ở đâu? Tốt lắm là nó bằng với Trung Quốc. Bản chất con người thì như nhau. Không có cái gọi là “Các Giá Trị Đặc Biệt”.
Điều đầu tiên ảnh hưởng đến nền hòa bình giữa những quốc gia là sự phát triển lịch sử. Do bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm trong nước, cán cân quyền lực giữa các quốc gia sẽ bị phá vỡ. Những nước mạnh hơn sẽ có động lực để vi phạm hòa bình, hầu hết là như vậy cho lý do của chiến tranh. Hòa ước Westphalia có được vì tất cả mọi người đã bị kiệt quệ vì các cuộc chiến tranh, và với việc các quốc gia của họ ở trong tình trạng suy thoái kinh tế, họ đã phải rút lại các động lực gây hấn. Các luật và các hiệp ước chỉ là những cái cớ.
Lý do mà “Đại Hội Nghị Ngưng Chiến” đã thành công ở Trung Quốc hơn 2,600 năm trước bởi vì tình trạng cũng tương tự như của thế giới từ thế kỷ trước. Giống như ngày hôm nay, nó tạo ra xếp sòng (overlords), hay cái gọi là “cảnh sát quốc tế” để duy trì trật tự. Nghĩa là, với sự trọng tài tương đối công bằng và với các biện pháp trừng phạt, họ ngăn chận các cuộc chiến có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào. Cái gọi là “luật quốc tế” của ngày hôm nay chỉ là như vậy (không răng). Thay vì thực (áp dụng ngay nếu vi phạm), nó phụ thuộc vào sự sẵn sàng đứng ra nhận lãnh trách nhiệm của những người thực thi. Như một vấn đề thực tế, Liên Hiệp Quốc chỉ là một vật trang trí, tự bản thân không có ý nghĩa thiết thực.
Điều này cũng giống như các luật khác xung quanh chúng ta – nếu không có các biện pháp trừng phạt và những người thi hành luật pháp, thì sẽ có không nhiều người thực sự muốn tuân thủ pháp luật. Nếu người phạm tội không bị trừng phạt và thậm chí còn được thưởng các lợi ích, tôi sợ rằng hầu hết mọi người sẽ không tuân thủ pháp luật. Tình trạng hiện nay ở Trung Quốc là một ví dụ (Việt Nam cũng thế – người dịch). Và bây giờ xã hội lớn của quốc tế cũng đang phát triển theo hướng này. Khi những người yếu cổ vũ sự suy giảm của Mỹ, họ đã quên thảm họa đau khổ sẽ như thế nào khi ngôi làng thiếu người cảnh vệ.
Vậy thì sự nảy sinh tư duy xâm lược của các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đến từ đâu? Đây chính là nét chung của tất cả các chế độ độc tài. Tư duy độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc đến từ đâu? Chính xác nó đến từ các bạn ở phương Tây. Nó không phải là tư duy của hiệp ước pháp lý truyền thống Trung Quốc.
Nói một cách khác, (khi xưa) tư duy truyền thống của Trung Quốc đặt nặng về các luật lệ và các hiệp ước, trong khi tư duy truyền thống phương Tây đặt nặng trên luật rừng xanh. Chỉ khi đi vào thời kỳ hiện đại thì tình trạng mới đảo ngược, khi luật rừng xanh được áp dụng bởi Đảng Cộng sản TQ ở Trung Quốc, trong khi hầu hết các nước phương Tây đi theo những ý tưởng mới của pháp luật và các hiệp ước.
Tại sao phương Tây đã thay đổi tư duy truyền thống của mình? Đó là bởi vì người dân của các quốc gia dân chủ họ yêu chuộng hòa bình, và họ quen thuộc với tư duy tương tự như luật và các hiệp ước. Cho nên, họ thường vấp phải sai lầm, nghĩ rằng những người khác cũng như mình, mà không biết rằng họ có thể khác mình. Đặc biệt, họ không hiểu rằng tư duy của những kẻ bạo ngược thì không phải là tuân thủ luật và các hiệp ước, nhưng là để bắt nạt với luật rừng xanh.
Những người bạn cũ của Đảng Cộng sản Trung Quốc như ông Henry Kissinger lớn tiếng bênh vực cho những kẻ bạo ngược: họ nói rằng họ muốn “Thao quang Dưỡng hối” (Tao Yang Guang Hui) – để ẩn mình chờ thời. Người Mỹ đã không hiểu được ý nghĩa thực sự của thành ngữ Trung Quốc nổi tiếng này, nghĩ rằng nó có nghĩa là đem cất các vũ khí vào trong kho và thả các con ngựa chiến về núi. Trong thực tế, ý nghĩa thực sự của thành ngữ này là: ẩn giấu các mũi tên vào trong túi, giả bộ như hòa bình và chờ đợi cho đến khi đúng thời điểm để tiêu diệt kẻ thù.
Đây là sự khác biệt cơ bản của hai cách tư duy. Ngay bây giờ, bàn tay của Tập Cận Bình đang thò vào mũi tên tẩm độc nằm trong túi của ông ta, ông khao khát muốn bắn thử nó vào các nước láng giềng. Thật vậy, ông không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Không phải ông không thể chờ vì do môi trường quốc tế, nhưng vì do hoàn cảnh bên trong của Trung Quốc. Nếu không có lực lượng hình cảnh quốc tế sẵn sàng đứng ra nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ hòa bình, hòa bình tất nhiên đã bị biến mất.
Bây giờ, chúng ta đã biết ai là kẻ đại nói dối quốc tế đang giúp đỡ (CSTQ) bằng cách cổ vũ sự quỵ luỵ. Nếu họ thực sự là những học giả có đầu óc tỉnh táo, thì họ đang phản bội lại người dân của họ để đổi lấy lợi ích cá nhân. Dĩ nhiên, có một truyền thống khác trong chính trị hiện đại của Mỹ, đó là: những kẻ siêu phản bội là những người được ngưỡng mộ. Truyền thống này đào tạo ra những học giả như vậy, những người nói dối với dân chúng Mỹ, đã trở thành thời thượng.
Nguồn: bit.ly/20VHmsr
Blog Lê Minh Nguyênbit.ly/1N8ijOS

Dừng chân tại Baltimore Maryland

Dừng chân tại Baltimore Maryland

Bút ký

Đoàn Thanh Liêm

*     * Ngày 20 tháng Tư năm 2010, tôi đã từ Dallas Texas bay đến phi trường quốc tế Baltimore Washington (BWI) vào lúc 5.00 chiều và được cháu Hoà là ông xã cuả cháu Vui đón đưa về nhà tại thành phố Owings Mills ở phiá tây bắc cuả Baltimore, gần với biên giới tiểu bang Pennsylvania. Muà hè năm 2009, tôi cũng đã ở đây và được các cháu chăm sóc mọi chuyện thật là tươm tất chu đáo, trong bàu không khí thật là thân thương ấm cúng cuả gia đình. Đó là lý do tại sao tôi lại lấy nhan đề là “Dừng chân” cho bài viết này.

Sau mấy tuần lễ bận rộn ở Houston, New Orleans và Dallas, tôi cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức, và giải quyết một số công việc còn tồn đọng cuả mình. Nhất là còn phải khai triển tiếp theo (follow-up) những điều tiếp thu được trong các kỳ đại hội tại Texas và Louisiana, cũng như là gửi thư và hình ảnh liên hệ đến các vụ việc đó cho các bạn hữu khắp nơi.

Cũng như năm ngoái, các cháu Hoà Vui đã dành cho tôi cả một căn phòng rộng rãi dưới tầng hầm (basement), với đủ tiện nghi về phòng ngủ, nhà vệ sinh và nhất là bàn máy computer – để tôi có thể làm việc và trao đổi thông tin cho gọn gàng thoải mái. Rõ ràng đây là thứ “căn cứ hậu cần” cho tôi trên bước “đường hành quân” tại khu vực miền Đông nước Mỹ, cách xa với bản doanh chính là California đến trên 4,000 cây số.

Trong dịp này, vào ngày Thứ Sáu 23 tháng Tư, các cháu còn chở tôi đến thăm anh hoạ sĩ Vũ Hối ở thành phố Laurel cũng gần với Baltimore. Nhà anh chị ở chung với con cháu rất đông, nhân số lên đến tất cả 16 người, ai nấy đều có công ăn việc làm, nên cuộc sống cũng thoải mái. Anh vẫn cặm cụi làm việc như ngày nào, mà lại hay được bạn hữu khắp nơi mời đến tham gia các buổi triển lãm với những tác phẩm độc đáo cuả anh về cả bốn thể loại : Thi, Thư, Ảnh, Hoạ, tức là có Thơ, có Thư hoạ, có Nhiếp ảnh vá có Tranh do chính anh sáng tác, thực hiện. Anh nhắc lại hai câu thơ tôi nhờ anh viết để tặng Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị hồi cuối năm ngoái 2009, và bảo tôi ghi ra một số câu thơ khác nưã cho anh trình bày qua lối Thư hoạ độc đáo (calligraphy) để gửi tặng bạn bè. Và tôi đã ghi ra một số câu thơ tôi làm hồi còn ở trại tù Z30D tại khu Rừng Lá Hàm Tân hồi năm 1994-95, để tặng các bạn tù chính trị như Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Trung Tá Phạm Đức Khâm. Tôi cũng viết vài câu thơ tặng Chị Jackie Bông và Nghệ sĩ Kiều Chinh, tất cả đều là các bạn thân thiết cuả cả hai chúng tôi. Rồi chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ là anh Vũ Hối đã hoàn thành được tất cả 5 bức thư hoạ để gửi tặng các người bạn nói trên cuả tôi. (Chi tiết cuả mấy câu thơ này, tôi xin ghi trong Phần Phụ Lục kèm theo bài viết này). Anh còn yêu cầu tôi cứ việc gửi thêm các câu thơ tặng bạn hữu khác nưã, để anh thực hiện trình bày và gửi làm kỷ niệm cuả chung hai chúng tôi đến các người bạn đó. Thật rõ ràng là tôi có cái duyên hợp tác gắn bó rất là thân tình với anh bạn hoạ sĩ thật dễ mến này vậy đó.

Chiều Thứ Bảy 24, các cháu còn chở tôi cùng gia đình đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ Sacred Heart cũng gần nhà. Sau buổi lễ, lại còn chở đi vòng quanh khu vực nông thôn trong vùng. Muà Xuân cây cỏ thật xanh tươi nơi các nông trại được chăm sóc khá lớp lang gọn ghẽ, với nhiều đàn ngưạ đua nhau gặm cỏ ven đường. Dọc theo đường làng quê, có nhiều chỗ dân chúng tụ họp rất đông đảo để cắm trại và xem biểu diễn đua ngựa (horse show), tạo thêm vẻ sinh động cho cảnh thiên nhiên vốn thật tĩnh lặng thanh bình, bao quanh khu vực đô thị thường náo nhiệt ồn ào như Baltimore, Philadelphia ở hai đầu phiá nam và phiá bắc. Vẫn còn muà Xuân, nên khí hậu thật mát diụ, ban ngày chỉ vào khoảng trên dưới 10 độ bách phân, với những cơn mưa rào nho nhỏ kéo dài có khi cả một vài ngày, khiến cho cây cối càng thêm tươi tốt, với vòm lá lung linh sáng loáng phản chiếu ánh mặt trời ban mai.

Cái cảnh thanh bình tĩnh lặng ở miền nông thôn này thật trái ngược hẳn với tình trạng xô bồ, phức tạp trong khu nội ô thành phố Baltimore, nơi có tỷ lệ cao nhất so với các thành phố lớn khác về loại tội phạm giết người, mà phần lớn do nạn nghiện ngập và buôn bán ma tuý phát sinh ra. Đó là vấn đề gây cho chánh quyền, cũng như dân chúng điạ phương nhiều nỗi bế tắc lo âu, nhức nhối mà từ nhiều năm nay vẫn chưa làm sao tìm được lối thoát khả dĩ vậy.

Nói về sức khoẻ cuả tôi, thì nhờ Trời và cũng nhờ đông đảo bà con chăm sóc cái ăn cái uống, cũng như nơi ở tĩnh mịch tiện nghi, nên ai gặp lại tôi cũng phải khen là hồi này coi bộ sắc diện có vẻ tươi vui, dáng đi vững chãi. Cô Uyên ở New Orleans, thì nói : “Trông anh mạnh khoẻ hơn cái hồi mấy năm trước, mà nhất là anh vẫn giữ được cái tạng thon thon với cái bụng thật là flat…” Bạn Phan Đình Minh ở Dallas, thì nói : “Anh Liêm coi thật là healthy…” Cháu Vui ở Baltimore, thì nói : “Coi bộ bác khoẻ mạnh rắn chắc hơn năm ngoái đấy…” Tôi thật mừng vì ai cũng vui lây vì thấy tôi khoẻ mạnh, lạc quan, yêu đời và say mê với công việc này nọ.

Sau chừng một tuần lễ dừng chân nơi đây, tôi lại sắp sưả đến vùng thủ đô Washington DC, để tiếp tục làm công việc nghiên cứu tại Thư Viện Quốc Hội Mỹ như vẫn thường làm mỗi năm vào các muà hè.

Xin hẹn sẽ trình bày tiếp trong các bài viết sau vậy nhé

Baltimore, 26 Tháng Tư 2010

Đoàn Thanh Liêm

Phụ Lục : Mấy câu thơ tặng bạn với thư hoạ cuả hoạ sĩ Vũ Hối

1/ Tặng Chị Jackie Bông :

“ Trời thu nắng nhẹ hiền hoà

Mây thu lãng đãng ngàn hoa phiêu bồng.”

2/ Tặng Chị Kiều Chinh :

“Let’s live fully

By loving totally

And enjoying peace & ecstasy

Deep in our inner-selves.”

3/ Tặng Anh Phạm Đức Khâm :

“Mưa nắng dãi dầu, thân sức kiệt

Vẫn lòng son sắt, dạ kiên trung”

4/ Tặng Anh Đoàn Viết Hoạt :

“ Tường đá rào cao kiên cố đó

Hồ dễ làm ta bỏ cuộc chơi?”

5/Tặng Anh Nguyễn Đan Quế :

“Tù mấy phen rồi, ai thắng ai?

Bạo quyền muôn thuở sợ công khai

Bịt mồm khoá miệng người công chính

Ta vẫn kiên cường, há thua ai?”

6/ Tặng Anh Nguyễn Bảo Trị :

“Đường xa vạn lý mỏi mòn

Vẫn nòi quân tử sắt son với Đời.”/

Lịch sử Dinh Độc Lập

Lịch sử Dinh Độc Lập

1. Vài nét về lịch sử dinh Gouverneur de la Cochinchine:

Năm 1858, Pháp đã phát động một cuộc tấn công vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm lược của Việt Nam. Năm 1867, Pháp đã hoàn thành cuộc chinh phục của miền Nam Việt Nam (Đàng Trong), bao gồm các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Để củng cố thuộc địa mới  được thành lập, vào ngày 23 tháng 2 năm 1868, Lagrandière, Thống đốc Nam Kỳ có những động thái đầu tiên là xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ mới và chọn một vị trí đắc địa nhất. Đó là một vùng đất cao nhất Sài Gòn, rộng 15 ha, có nơi làm công viên, vườn cây và những bãi cỏ xanh mướt, nhìn ra một không gian rộng thoáng.

Ngày 5.2.1865, tờ Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn) đăng một thông báo của chính quyền thuộc địa dành một khoản tiền thưởng trị giá 4.000 franc cho các kiến trúc sư hay nghệ sĩ nào giới thiệu một đề án tốt nhất được chọn làm cơ sở xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ.

Khoản tiền thưởng không phải là nhỏ, song đến ngày 20.4.1865, vượt quá thời hạn chót 25.3.1865, chỉ mới có một đề án được gửi tới ban tổ chức. Sau đó không lâu, một đề án do một nhóm kiến trúc sư ở Singapore soạn thảo được chuyển đến Sài Gòn, song sau khi xem xét kỹ cả hai đề án, ban tổ chức không chấp thuận một cái nào.

Cuối cùng, cơ hội bắt tay xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã xuất phát từ một sự tình cờ. Trong một dịp ghé Hong Kong, hai đô đốc Pháp Ohier và Roze (cũng từng làm Thống đốc Nam kỳ) được giới thiệu với một kiến trúc sư người Pháp trẻ tên Hermitte, nguyên là học viên trường Mỹ thuật Paris.

Tại Hong Kong, Hermitte đã đoạt giải thưởng trong việc thiết kế đồ án Tòa Thị chính, vượt qua nhiều kiến trúc sư khác. Nắm bắt được những thông tin này, Roze và Ohier trở về Sài Gòn, thuyết phục đương kim Thống đốc Nam kỳ De La Grandìere chính thức nhờ Hermitte thiết kế và xây dựng dinh Thống đốc.

Một trong những biện pháp được sử dụng để lôi kéo nhân tài trẻ này là khoản thu nhập 36.000 franc/năm, cao hơn rất nhiều so với các viên chức Pháp đứng đầu các cơ quan tọa lạc tại Sài Gòn. Và những gì De La Grandìere làm đã có một hiệu ứng tốt: chỉ mấy ngày sau khi đến Sài Gòn, Hermitte trình một đồ án được viên Thống đốc chấp thuận ngay.

Chủ nhật ngày 23 tháng 2 năm 1868, trước đông đảo người tham dự, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã diễn ra dưới sự chủ trì của Đô đốc De La Grandìere, với sự tháp tùng của nhiều sĩ quan và viên chức cao cấp của Pháp.

Người làm phép cho công trình là Giám mục Miche với một diễn từ gây xúc động cho cử tọa. Với sự phụ giúp của kiến trúc sư Hermitte, Thống đốc De La Grandìere làm lễ đặt viên đá đầu tiên được chôn sâu 2,6m bên dưới mặt đất, trên một tầng đất rất cứng chắc.

Đó là một viên đá hoa cương vuông vắn, mỗi cạnh 50cm, được mang từ Biên Hòa về. Trong thời gian xây dựng, Hermitte đã cho đào một hố móng sâu 3,5 mét, lấy đi 2.436 m3 đất đá và sử dụng khoảng 2 triệu viên gạch.

Đường Norodom nhìn từ dinh thống đốc Nam kỳ

Năm 1870, công trình đang thực hiện theo tiến độ đã định thì cuộc chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra, hoàng đế Pháp Napoléon III bị bắt làm tù binh, nước Pháp thất trận. Sự kiện này ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ, do nhiều vật liệu phải được chuyển từ chính quốc sang. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Tất cả đều được xây theo phong cách tân Baroque giống với kiểu của hoàng đế Napoleon III.

Cũng vì thế mà mãi đến năm 1875, kiến trúc đồ sộ này mới hoàn chỉnh phần trang trí. Sốt ruột về sự chậm trễ trong tiến độ xây dựng và hoàn thành cơ sở, ngay từ năm 1873, Thống đốc Nam kỳ Dupré đã dọn về đây để ở và làm việc trong lúc việc trang trí còn tiếp diễn. Dinh gỗ “Thủy sư Đề đốc” còn được lưu giữ, mãi đến năm 1877 mới bị phá hủy hoàn toàn.

Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống đốc.

Trước khi có dinh Thống đốc Nam kỳ là Dinh gỗ “Thủy sư Đề đốc” được xây dựng bằng gỗ đặt trên một khu đất rộng được giới hạn bởi các con đường Nguyễn Du-Tự Do-Gia Long-Hai Bà Trưng về sau (khu vực sau này là trường Taberd). (nguồn historicvietnam.com do Tim Doling viết)

Trong sảnh dinh thống đốc Nam kỳ

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam. Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 quốc gia, miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn miền Nam là nước Quốc Gia Việt Nam (sau thành Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

2. Vài nét về dinh Độc Lập thời đệ I Cộng Hòa:

Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ông quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng Thống. Theo thuật phong thủy của Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.

Dinh Độc Lập thời đệ I Cộng Hòa

Đến năm 1960 vào ngày 11 tháng 11 xảy ra cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bấy giờ là Ngô Đình Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát được một số vị trí quan trọng tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh quân sự không kiên quyết cũng như không có được sự ủng hộ quân chúng. Ngày 12 tháng 11, đại tá Huỳnh Văn Cao chỉ huy bộ binh và thiết giáp thuộc Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho cùng đại tá Trần Thiện Khiêm và trung tá Bùi Dzinh chỉ huy bộ binh và Pháo binh thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Sa Đéc đã tiến vào Sài Gòn. Cuộc giao tranh sau đó chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân tò mò xuống phố để xem cuộc giao tranh. Lực lượng trung thành đã tiêu diệt gọn quân đảo chính.Sau khi cuộc đảo chính bị dập tắt, một số sĩ quân quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc đảo chính bị chính quyền Ngô Đình Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử, tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn Tường Tam.

Tem hình dinh Độc Lập

Tôi còn nhớ sau cuộc đảo chính, quân dù của đại tá Nguyễn Chánh Thi rút đi ngược đường Công Lý hướng lên Tân Sơn Nhất, dân chúng sài Gòn đã mua bánh mì bỏ trong những giỏ cần xé lớn để dọc hai bên đường cho quân đảo chính.

Cảnh dân chúng tán loạn khi đi xem đảo chính

Đến năm 1962 lại xảy ra vụ ném bom dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 do hai phi công tên là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện. Mục đích của cuộc tấn công là nhằm ám sát Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và gia đình ông, những người tham gia triều chính, trong đó có cố vấn Ngô Đình Nhu.

Vào lúc 7 giờ sáng, bầu trời Sài Gòn bị khuấy động bởi tiếng bom và tiếng súng máy nổ. Dinh Độc Lập chìm trong biển khói của cuộc tấn công từ hai chiếc máy bay ném bom A-1 Skyraider được Hoa Kỳ cung cấp.

Hai chiếc máy bay này đã ném bom và napalm. Nhiều quả rocket và nhiều loạt đạn súng máy cũng được bắn vào tòa nhà. Ngày hôm đó nhiều mây, hai viên phi công này đã bay với độ cao khoảng 150 m, đã hoàn thành một vòng tấn công tứ phía trước khi bay lên mây. Họ đã tấn công trong 30 phút trước khi lực lượng phòng không trung thành với Ngô Đình Diệm có thể đến và phản công.

Cuộc tấn công đã làm cho lực lượng bảo vệ Sài Gòn bất ngờ, bởi vì họ đã không biết là các chiếc máy bay này độc lập tác chiến hay có sự phối hợp với lực lượng dưới đất. Xe tăng và xe chở lính vội vàng đến tham chiến và pháo đất đối không khai mào trước, một chút nữa thì bắn trúng máy bay trung thành đang truy đuổi hai chiếc phản loạn.

Cuộc tấn công đã kết thúc trong một tiếng đồng hồ nhưng hai viên phi công đã không trút hết bom, nếu không đã có thể san phẳng Dinh Độc Lập. Máy bay của Quốc đã bị hư hỏng bởi tảo lôi hạm ở trên sông Sài Gòn và đã hạ cánh ở Nhà Bè. Cử thì đã đến Campuchia an toàn, tin rằng cuộc tấn công đã thành công.

Quả bom nặng 500 lb đầu tiên đã xuyên vào một căn phòng mà trong đó Diệm, một người hay thức dậy sớm đang đọc sách. Quả bom này không nổ và Diệm đã chạy xuống tầng hầm của Dinh Độc Lập cùng với Tổng giám mục Ngô Đình Thục, em trai Ngô Đình Nhu và vợ Nhu là Trần Lệ Xuân và con của họ. Trần Lệ Xuân bị gãy tay khi đang chạy xuống tầng hầm. Ba người phục vụ và lính gác chết, 30 người khác bị thương. Một nhà thầu người Mỹ leo lên nóc nhà để xem vụ tấn công đã bị rơi xuống và chết.

Tôi vẫn nhớ sáng hôm đó khi chuẩn bị đi học (lúc đó tôi học tư ở trường Michelet góc ngả tư Trương Minh Giảng – Hiền Vương) thì tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời và một tiếng nổ lớn vang lên. Pháo cao xạ từ dinh bắn lên xối xả, đạn bay hết tầm rơi vào khu biệt thự kế bên tôi ở (230 Công Lý); mọi người chạy hết vào trong nhà tránh đạn.

 

Bà Trần Lệ Xuân đang xem bản thiết kế dinh Độc Lập mới

Do không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.

Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long. Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963.

3. Vài nét về dinh Độc Lập thời đệ II Cộng Hòa:

Ngày 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới xây trở thành nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng 10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975.

Phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2…

Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2. Trang trí trong dinh có nhiều bức họa của những danh họa có tiếng đương thời. Bức “Giang sơn cẩm tú” của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bức “Khuê văn các”, “Vua Trần Nhân Tông” của họa sĩ Thái Văn Ngôn.

Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức “Bình Ngô đại cáo” (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh “Giang Sơn Cẩm Tú” của KTS Ngô Viết Thụ; bức “Khuê Văn Các” (Vua Trần Nhân Tông) của họa sĩ Thái Văn Ngôn.

Khi thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT, có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM. Theo quan niệm dân chủ hữu tam Viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con ngườ i hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG, trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.

Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.

Ði vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính đại quang minh làm gốc.

Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.

Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.

Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính đó là:

• Ðường Công Lý ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)

• Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)

• Ðường Hồng Thập Tự ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)

• Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh)

Dinh có 04 khu nhà:

• Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của khu đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của mỗi phòng.

• Khu nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Ðảng Dân chủ.

• Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du – Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập.

• Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa – Hồng Thập Tự, trước 1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc vườn cây.

Ngoài các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Hồng Thập Tự còn có một nhà bát giác đuờng kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn.

Các bạn nhìn thấy những cây cao bên trong dinh, đó là những cây nhãn rừng. Trong dinh có rất nhiều sóc, chúng thường ăn trái này. Đó là hồi trước năm 1975 chứ không biết giờ này còn không.

Tôi còn nhớ vào năm 1970 vào dịp tất Trung thu, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có tổ chức lễ trước thềm của dinh. Lúc đó trường mình có dự, thầy Linh dẫn một ban hợp ca hát bài Trung thu gặp mưa do thầy sáng tác. Trùng hợp thay đêm đó trời mưa, học sinh các trường tràn vào sảnh chính của dinh dẫm lên sàn và thảm làm dơ hết.

Xen giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ thụ, những chậu cây kiểng quí và 04 sân tenis phía sau khu nhà chính.

Dinh Độc Lập lúc đầu chưa có bao bọc bởi hàng dây kẽm gai, chỉ có từ năm 1968 mới được rào thêm để bảo vệ an ninh cho dinh để tránh bị tấn công như trong vụ tết Mậu Thân và đường Huyền Trân Công Chúa cũng bị ngăn lại không cho xe qua lại.

Về sau có thêm những rào sắt đặt dài theo hàng rào dinh

Đường Huyền Trân Công Chúa bị chắn ngang bởi hàng rào bảo vệ

Dinh độc Lập được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai bảo vệ dưới mặt đất nhưng trớ trêu thay nó bị tấn công từ trên không. Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F-5E do Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh sân trực thăng trên nóc Dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng nhỏ. Lúc đó tại trường Lê Quý Đôn các lớp khối 10 trở xuống đang thi đệ nhị bán niên riêng lớp tôi thì bắt đầu vô lớp học toán với thầy Quãng Lan, thì chúng tôi bỗng nghe một tiếng rú của máy bay trên đầu và một tiếng nổ sau là tiếng pháo cao xạ. Chúng tôi chạy ra ngoài lớp thì thấy mấy thầy cô và các học sinh chạy tán loạn, tôi với anh Hồ Tuấn Ngọc lấy máy chụp hình chạy ra cổng trước băng qua đường và chụp một số hình. Rất tiếc giờ anh Ngọc không còn và các hình đó cũng thất lạc. Đây là lần thứ hai trong lịch sử dinh Độc Lập bị đánh bom.

Rồi lịch sử cái gì đến phải đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức nhường quyền lãnh đạo cho ông Trần Văn Hương nhưng ông này không ở trong dinh. Đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh lên làm tổng thống chỉ ở vỏn vẹn hai ngày trong dinh.

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiếc xe tăng T 54 của Bùi Quang Thận húc sập cổng dinh chấm dứt chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nguồn: ThaoLQĐ

LẬN ĐẬN

LẬN ĐẬN

LM Giuse Hoàng Kim Toàn

Nhìn những dòng người tấp nập đến và đi trên con đường, tôi nghĩ về những cuộc đời lận đận, lao đao.  Bao giờ mới thực sự hết lận đận lao đao và tôi nghĩ về cuộc đời.

Tôi nhớ về lời của bài hát “tiến thoái lưỡng nan” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Tiến thoái lưỡng nan đi về lận đận.  Ngày xưa lận đận không biết về đâu.”  Có những cuộc đời đến lúc ra đi vẫn còn lận đận, vẫn hoài lao đao.  Tôi nghĩ đến những phận người khốn khổ, không phải khốn khổ vì người khác mang đến mà tự thân mình mang vào những khốn khổ.  Khốn khổ lao đao khi không biết rằng mỗi người đều có một thời, không đón nhận thay đổi của thời gian.  Cái lận đận của một tuổi già, sức kém mà vẫn hoài mong một thời chiến tích lập lại, cái lận đận của những mưu tính ôm giữ địa vị, vị thế dù biết mình không thể.  Lận đận vì những lo sợ hão huyền, không còn người biết đến, không còn gì để nắm giữ…  Tôi nghĩ đến những lận đận, cái lận đận của những con người chỉ thích tiếng khen, lời dịu ngọt tâng bốc, những lời giả dối mà không sẵn sàng đón nhận thực tế, những lời chân thành.  Không biết về đâu nên đâu cũng là con đường giống nhau, không dẫn tới đích.  Con người lận đận, loanh quanh không lối thoát trong khổ đau của hành trình.  Những lận đận của những con người quên mất mình có một thời: “Về thu xếp lại, ngày trong nếp ngày” (lời “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn).  Một thời của tuổi già tìm về yên tĩnh, rũ bỏ những âu lo, tìm về tháng ngày bình yên, đó chẳng là con đường tìm về, thu xếp lại những ngổn ngang cuộc đời trước khi về bên kia thế giới.

Tôi nghĩ đến bao tâm hồn hạnh phúc trước khi ra đi.

Tôi đã được phép giã từ.  Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.  Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa, và cả căn nhà cũng trao trọn anh em. Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối thắm đượm tình thân.  Từ lâu rồi, sống bên nhau, chúng mình là láng giềng lối xóm; nhưng anh em đã cho tôi nhiều hơn tôi cho lại anh em.  Bây giờ ngày đã rạng, đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.  Lệnh triệu ban rồi, tôi đi đây” (93, Lời dâng, R. Tagore).

Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa.”  Hay quá, con người cao thượng quá, trao lại cho người sau tất cả những gì cuộc đời mình đã gầy dựng được, chỉ xin giữ tình thân.  Cuộc đời không giữ gì cho mình lại là cuộc đời đầy tràn tất cả.  Cuộc đời nhìn nhận mình đón nhận tất cả hơn những gì mình kiến tạo, sao hạnh phúc quá. Tôi ước mơ tôi cũng hành động như thế trong mọi lúc trước khi ra đi, tôi ước mơ cái hạnh phúc thật đơn giản, thật sự quên mình trong thế giới bao la của tình người.

Con người rồi sẽ ra đi, rồi sẽ để lại tất cả những gì mình có, để lại ngôi nhà, của cải, vật chất mình đang nắm giữ…  Lận đận khi mình cố níu giữ, bám chặt dù không còn sức, lận đận khi vẫn còn tham vọng, đầy mưu tính.  Tôi ước mơ những cuộc đời lận đận, đừng làm khổ đời mình nữa, tôi ước mơ, con người sống đừng giả dối nhau, đưa nhau lên đài danh vọng rồi chôn vùi đời nhau trong lao đao.  Lận đận chạy chọt, tạo liên minh, gây chia rẽ, tìm chỗ bám víu, làm chi vậy, chỉ thêm khổ, mất thêm nhiều tình nghĩa, và lẻ loi trong hoạt động của phe nhóm.  Hãy nói cho nhau về sự thật cuộc đời, hãy để cho Lời Chúa được thực hiện trong cuộc sống: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).  Tại sao lại bám víu để rồi lận đận.

Thanh thản, an nhiên ra đi như một người vừa làm xong công việc của mình, khiêm nhường đón nhận: “Tôi chỉ là đầy tớ vô duyên, tôi chỉ làm việc bổn phận của tôi” (Lc 17,10).  Diễm phúc cho mỗi cuộc đời khi nhận ra mình là tôi bộc cho hạnh phúc nhân loại, và sẵn sàng như một người đã hoàn thành sứ mạng của mình: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7)

Rũ bỏ lận đận để khỏi lao đao.  Tôi ước mong như bao tâm hồn mong ước: Ra đi trong niềm hân hoan vì cuộc đời này tôi đã sống qua bao hạnh phúc, qua bao đau thương vẫn thấy hạnh phúc.  Hạnh phúc của một con người vì thấy mình được yêu thương, hạnh phúc vì thấy mình đã nỗ lực dâng hiến cho con người được hạnh phúc.

LM Giuse Hoàng Kim Toàn

Biển Chết – Dead Sea – La Mer Morte.

Biển Chết – Dead Sea – La Mer Morte.
 
image
Switch to:  Text-Only,  Daily Digest •  Unsubscribe •  Terms of Use •  Send us Feedbac
Mất hơn 10 giờ bay đêm từ Bangkok (Thái Lan), rạng sáng, chiếc Boeing 747 chở hơn 400 hành khách mới hạ cánh xuống sân bay Ben Gurion ở Tel Aviv (Israel) bên bờ Địa Trung Hải. Anh Chali, hướng dẫn viên du lịch thuộc công ty Sharon Tours nói: “Cả ngày hôm nay chúng ta dành cho biển Chết. Các bạn sẽ được tắm ở một nơi mặn nhất thế giới và là nơi thấp nhất trên bề mặt trái đất, âm 400m so với mặt biển. Không cần phao, mọi người vẫn nổi trên Biển Chết”.
image
Vượt bao đồi núi khô cằn, gần trưa mới đi ngang qua thánh địa Jerusalem để bắt đầu “đổ dốc” vào lòng Biển Chết.
image
Độ mặn của muối và khoáng chất đặc biệt nơi đây có công dụng chữa bệnh nổi tiếng.
 
image
Trong nước có chứa hơn 35 loại khoáng chất khác nhau cần thiết cho sức khỏe và chăm sóc da toàn thân bao gồm Magiê, Canxi, Kali, Brôm, Lưu huỳnh và Iodine. Tất cả có tác dụng giảm đau, chữa trị hiệu quả các bệnh thấp khớp, vẩy nến, nhức đầu, đau chân, nuôi dưỡng và làm mềm da.
image
Biển Chết dài 76km, chỗ rộng nhất tới 18km và chỗ sâu nhất là 400m. Bề mặt Biển Chết nằm ở 4175m dưới mực nước biển nên là điểm thấp nhất của bề mặt trái đất.
image
Chỉ cần dang thẳng tay chân, ngẩng cổ lên để tránh nước mặn vào mắt, thì đã như cái bong bóng nổi phình trên mặt biển.
  image
image
Biển Chết đúng là một nơi du lịch tuyệt vời lỡ có sảy chân người ta cũng không bị chết chìm mà nổi bồng bềnh trên mặt nước một cách tự nhiên.
image
Mỗi năm, hàng trăm du khách đổ xô đến Biển Chết để được thả nổi cơ thể mình trên mặt nước. Điểm thấp nhất trên trái đất này luôn là nơi hấp dẫn du khách nhất.
image
Biển Chết còn được gọi là” Biển Muối”, khu vực chứa nước bị vây kín này có thể được xem là một hồ nước muối có độ mặn cao nhất trên thế giới. Biển Chết nằm giữa biên giới 3 nước Israel, Palestine và nằm sâu trong thung lũng Jordan, cách thành phố Amman khoảng 55 km về phía Đông.
  image
image
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m.. Đây là một trong những khu nghỉ dưỡng sức khỏe đầu tiên trên thế giới, người ta sử dụng muối và khoáng chất từ Biển Chết để làm ra mỹ phẩm và các gói thảo dược tiêu thụ trên toàn thế giới. Từ xa xưa người ta đã biết khai thác nguồn muối và khoáng chất tại Biển Chết này để làm ra nhiều sản phẩm khác nhau, đặc biệt là kem để ướp xác ở Ai Cập. Như tên gọi của nó, Biển Chết không có một loài sinh vật nào có thể tồn tại được cả vì độ mặn rất cao. Độ mặn của muối và khoáng chất đặc hữu nơi đây có công dụng chữa bệnh nổi tiếng. Biển chết có nồng độ mặn là 38% trong khi đó độ mặn của nước biển ở các đại dương trên thế giới bình thường vào khoảng 2,5%. Chính vì hàm lượng muối trong biển rất cao nên sức đẩy của nước rất lớn. Lỡ có sảy chân người ta cũng không bị chết chìm mà nổi bồng bềnh trên mặt nước một cách tự nhiên, bơi lội ở đây cũng thật sự độc đáo không thể bỏ qua. Đây là nơi có một không hai trên thế giới mà bạn có thể thả mình trên mặt dưới để đọc một tờ báo.
image
Biển Chết mang không khí khô, giàu oxy mà không có bất kỳ một sự ô nhiễm môi trường nào, nhiệt độ tương đối cao ngay cả mùa đông cũng không thuyên giảm. Thực tế là các tia cực tím có hại được lọc một cách tự nhiên. Vì vậy bạn vẫn có thể tắm nắng mà không lo sợ bị cháy nắng. Vùng nước chữa bệnh tự nhiên nằm dọc theo bờ biển kết hợp với lớp bùn đen ở bên dưới là liệu pháp điều trị sức khỏe và vẻ đẹp lý tưởng. Ngoài ra khu bảo tồn thiên nhiên và sự đa dạng của khu vực danh lam thắng cảnh mang lại một sự kết hợp độc đáo cho khung cảnh. Những ốc đảo sa mạc khô cằn bên cạnh những hồ bơi và thác nước đông đúc với hệ động thực vật. Các di tích lịch sử của khu vực là một trong những nơi nổi tiếng thế giới cụ thể như Massada, Jericho, Ein Gedi, các pháo đài La Mã và các pháo đài ở sa mạc Judea.
image
Massada- Pháo đài của người Do Thái nằm ở hướng tây Biển Chết
image
image
image
Dọc theo bờ biển là những tòa nhà cao tầng, quán bar, vũ trường … Sắc trắng của các tòa các pha trộn với màu vàng của cát, màu xanh nước biển tạo nên một vẻ đẹp rực rỡ.
image
image
  image
image
Ven bờ biển còn có các đụn muối trắng hình thành từng cụm, nhô lên như những chiếc nấm trông rất đẹp. Đây là kết quả của nước biển bốc hơi trải qua nhiều năm.
image
Gọi là biển chết, vì trong lòng biển không có sinh vật nào sống nổi và biển không có lối nào thông ra các đại dương.
image
Mặc dù mang tên Biển Chết, nhưng nơi đây không chết bao giờ, luôn mang một sức sống mãnh liệt. Biển Chết tiếp đón hàng triệu lượt khách mỗi năm đến viếng thăm, nghỉ dưỡng và tắm biển với màn trình diễn thả nổi mình trên mặt nước.